KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HẠNH SỞ TẬP
Tác giả: Bồ tát Long Thọ soạn tập.
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa môn Nhật Xưng.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).
QUYỂN 8
Đức Phật dạy: Đại vương nên biết! Hết thảy chúng sinh ở thế gian do bố thí thanh tịnh nên phước báo thọ nhận được kẻ oán thù không thể hủy hoại. Giả như có trăm ngàn người cũng không thể cướp đoạt. Tùy theo nơi chốn thì phước luôn là dẫn đầu. Cho đến đời khác phước cũng như vậy. Giống như bạn bè thường tùy thuận theo đuổi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Do đời trước tích tập
Những hành phước rộng lớn
Nay được làm vua người
Đủ an lành tôn quý.
Trăm ngàn kẻ tùy tùng
An lập nơi trước vua
Do phước lực thâu phục
Chiêm ngưỡng đều kính sợ.
Nên biết phước nghiệp kia
Như mắt bụng, tay chân
Thường yêu thương, giữ gìn
Khiến nối tiếp không dứt.
Ta xưa tu hành thí
Hết thảy đều xả bỏ
Chỉ giữ một con voi
Theo ý mình cỡi đi.
Vui nương chốn núi rừng
Tu tập các thiền định
Lúc ấy dân trong nước
Thảy đều đến cùng theo.
Tay cầm phất trần trắng
Hoặc là cầm tán lọng
Lại dùng các đệm cỏ
Chỗ đến trải giường tòa.
Mọi người cùng thưa vua
Chúng tôi không phước tuệ
Nay mong đều thân cận
Cùng tu các hành thiện.
Phước là tài sản báu
Thường được vui chân thật
Phước là người thân nhất
Dẫn đến xứ an ổn.
Phước tợ báu Như ý
Đặt trong lòng tay mình
Tạo an lành tối thượng
Sở nguyện đều thành tựu.
Đủ sắc tướng thù thắng
Thọ diệu lạc năm dục
Lời nói người thích nghe
Khéo léo thật sáng rõ.
Thọ mạng được dài lâu
An ổn không ưu não
Tất cả các chúng sinh
Trông thấy như thân hữu.
Nếu các hữu tình ở nơi phước điền thù thắng, thuận theo chánh lý, chuyên tâm bố thí, thì quyết định trong đời này, hiện có được phước báo tương ưng là giàu có sung túc. Như phu nhân Kim Man, nghe nói về công đức của Phật, tâm sinh kính ngưỡng tán thán, bèn lấy tóc mượt vàng vi diệu có trước của mình, dâng lên Đức Như Lai. Lại, vương nữ của vua Thiện Tư, dùng thức ăn uống thượng diệu cúng dường Tôn giả Tu-bồ-đề. Lại, con gái của Bàla-môn Tu Phát, tự cắt tóc nơi đầu mình đem bán để thết cơm cúng dường Tôn giả Đại Ca Chiên Diên, tóc lại mọc như cũ. Ba người nữ này, do bố thí thanh tịnh, thân hiện tại đều được làm hoàng hậu của nước. Lại, trưởng giả Phước Nghiêm, cúi mình đến thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thết trai cúng dường, kho lẫm lại đầy tràn. Như người nữ chăn bò cầm hương Chiên-đàn và cô gái nhà nông dùng bông lúa mạch cúng dường tháp Phật đều được sinh thiên. Nhân duyên được thọ hưởng quả báo hiện tại như thế, như Kinh Thắng Quân Vương đã nói.
Lúc Phật ở tại thành Xá Vệ, phu nhân Mạt Lợi, vợ vua Thắng Quân, mới sinh một bé gái, đủ mười tám tướng trạng cực xấu. Tuổi lớn dần phải tìm nơi gả chồng. Những nhà quý tộc kia, không ai muốn làm cha chồng cô gái. Còn những tộc họ thấp kém thì ý vua không bằng lòng. Khi ấy, có con trai của một trưởng giả nước ngoài, sinh sống lâu trong thành này, mọi chi phí tiêu dùng đều cạn, lẻ loi đi khắp nơi, chưa có chỗ sánh đôi. Quan lại tâu với vua, có thể cho kẻ kia yết kiến. Vua bèn triệu đến và bảo anh ta: Ta có một trưởng nữ, nhận khanh làm rễ. Nếu cùng theo nhau thì phú quý trọn đời. Nếu như muốn trở về nước, cũng có thể cùng về. Khi ấy, vương nữ bèn lấy những thứ châu báu quý giá trang sức nơi thân, rồi vua đem gả cho kẻ kia cùng ban cho vô số các loại tiền của vật báu. Người con trai của trưởng giả kia bèn lấy cô công chúa này làm vợ. Chẳng bao lâu sau, hai vợ chồng cùng trở về bản quốc. Đã về đến nhà, bà con thân tộc của người con trai bày lễ xin gặp mặt. Người con trưởng giả nói: Vợ tôi là con gái của vua, xem mặt đâu có dễ. Nếu muốn xem tất phải chọn ngày. Về sau, những người thân thuộc lại đến nhà. Người con trưởng giả nói: Xin hẹn bảy ngày sau ra khỏi thành đến hoa viên sẽ cùng gặp nhau ở đấy.
Những người kia hỏi gạn lại: Lời nói này là quyết định. Nếu không đến chúng tôi sẽ phạt năm mươi vạn tiền. Bảy ngày đã đến, người con trưởng giả kia bày biện đầy đủ các loại thức ăn uống ngon lạ. Trước lấy một phần đem để trong phòng, rồi báo cho vợ biết, khóa chặt cửa phòng 1ại, tiếp theo, người con trưởng giả mang khoản tiền bị phạt và các thức ăn uống đi vào hoa viên. Lúc này, đám người ở trong vườn, xa thấy người con trưởng giả kia chỉ đến một mình, đều bảo nhau: Người này nói dối không theo sự nghị bàn trước.
Khi đã đến vườn, người con trưởng giả thưa với chúng bà con thân thuộc: May mắn là không thấy ai nóng giận, xin được nộp khoản tiền phạt. Những người kia nói vợ ông là hạng tôn quý, giấu kín trong nhà, ánh sáng của mặt trời mặt trăng hãy còn không khiến thấy huống gì chúng ta, làm sao có thể thấy được!
Bấy giờ, cô vương nữ kia tự than thầm: Ta tuy tuổi trẻ mà hình dung xấu xí. Đây là nghiệp ác gì mà chiêu cảm lấy sự thô xấu này! Rồi lớn tiếng than: Khổ thay! Khổ thay! Khiến cho chồng ta phải chịu nhiều sự hổ thẹn, thường phải nói dối và bị trách phạt. Sống ở trên đời như thế thì sống làm gì! Than xong liền lấy dải lụa tự thắt cổ mình. Lúc ấy, vị Thần thủ hộ nhà thấy sự việc này rồi bèn nói với vương nữ kia: Ta phải cởi sợi dây ra để bảo toàn tánh mạng, không khiến bị chết yểu. Nên biết Đức Thế Tôn, đại bi vô tận, thường vui cứu độ các chúng hữu tình, luôn khởi niệm thế này: Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào vì họ giảng nói pháp yếu, khiến sinh tin hiểu?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến chúng tẩy trừ cấu uế của tham dục?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ dứt trừ lỗi lầm của sân hận?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ diệt trừ ngu si ám độn?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ tăng trưởng hết thảy căn thiện?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ xuất ly khỏi bùn lầy sinh tử?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ vượt qua biển khổ luân hồi?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ giải thoát khỏi sự trói buộc của phiền não?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ nhổ bỏ tên độc tuệ ác?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ cắt dứt bốn dòng thác dữ, khiến đến bờ kia?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ thoát khỏi các loại khổ độc của ba đường ác?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, bố thí nước pháp, khiến họ dứt trừ khát ái?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ chán ghét các thứ ung nhọt của cảnh giới?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ phá vỡ màng vỏ vô minh từ vô thủy?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ đè bẹp núi cao ngã mạn?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ xa lìa các điều ác, mặc áo hổ thẹn?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ tu tập đầy đủ giới, định, tuệ học?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ thông đạt các pháp, tâm được tự tại?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ đạt được mắt trí thanh tịnh?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ vượt nhập nơi cửa đại giải thoát?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, khiến họ phát khởi tâm đại Bồ-đề?
Ta nay nên ở nơi những chúng sinh nào, dùng vòng hoa Bồđề kết vòng trên đầu chúng?
Ta nay nên khiến con gái của vua Thắng Quân, thay đổi hình dạng xấu xí đạt được sở nguyện.
Đây là Đức Thế Tôn, trong từng sát-na, sát-na, niệm niệm quán xét về tất cả chúng sinh, hoặc gần hoặc xa, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc tốt đẹp, hoặc xấu kém, tánh thượng, trung, hạ, đều có thể cứu độ. Mắt tuệ đều thấy không bỏ sót một chúng sinh nào. Như có kệ nói:
Phật không bỏ chúng sinh
Xa gần đều hóa độ
Như quả lúc chín tới
Tự nhiên sinh vị ngọt.
Cho nên Đức Mâu Ni
Oán thân chỉ một tưởng
Lợi lạc các chúng sinh
Cũng không mong báo đáp.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn trước vì thu phục, giáo hóa ngoại đạo lõa hình Ni-kiền-tử, nên hiện tướng đại nhân an tọa trên hoa sen báu, thân mặc y hồng, rực rỡ như mặt trời mới mọc, sắc tướng tịch tĩnh, an trụ vào uy nghi, giống như núi vàng phát ra ánh sáng vô cùng tận. Ở trong đại hội có vô số người trời, như ở giữa muôn vì sao hiện rõ ánh trăng tròn. Cũng như cây Đa la báu nơi thiên cung, gió nhẹ lay động, người người đều thích nương dựa. Như cây San hô có hoa báu trang nghiêm. Như trong mâm vàng, đốt đèn đuốc lớn. Như Hương tượng trắng lội vào sông Ni-liên, được bụi phấn nơi nhụy hoa sen vàng phủ đầy. Cũng như mùa xuân, cây Yết-nica nở rộ hoa vàng, người người đều ưa thích, khéo có thể điều phục tất cả hữu tình, vào trong các đường ác, không sinh chán mệt, du hóa nơi nẻo thiện, khéo thuyết giảng các pháp, đều khiến phát tâm được vui an ổn. Do các hữu tình từ vô thủy đến nay, nối nhau tạo tác vô số các hành ác như tham sân si v.v… Hoặc oán hoặc thân và không thân oán, luôn bình đẳng thương xót giống như một người con, đều khiến xuất ly khỏi hiểm nạn luân hồi. Như mặt trời xua tan bóng đêm, khiến hết hẳn không còn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng âm thanh của bậc Nhất thiết trí, vì ngoại đạo kia, lược nói pháp yếu. Nên biết thế gian, pháp động, bất động, dùng trí thấu suốt, thảy đều vắng lặng. Do tâm hư vọng, mê lầm nơi nhận thức chân thật, tự tánh Niết-bàn xưa nay thanh tịnh. Ngoại đạo kia nghe thuyết giảng như thế, tâm được khai ngộ, liền có thể đoạn trừ các thứ ngã mạn chấp chặt. Ví như sư tử cất tiếng gầm rống, tự nhiên có thể làm rạn nứt tảng đá to. Lúc ấy, Đức Như Lai bẻ gãy những dị kiến kia, luận nghị thù thắng, hiện thần thông lớn, bay lên xứ trời A-ca-ni-trá. Tất cả chúng sinh hiện có trong cõi ấy, thảy đều xưng tán công đức của Phật, hết thảy thế gian không ai có thể hơn. Lại hiển hiện tướng Ô-sắt-ni-sa, là tướng Vô kiến đảnh, ly cấu tối thắng. Sắc xanh biếc xoay quanh phía hữu, nhuần thấm rất đáng yêu thích. Lại phóng ánh sáng từ tướng bạch hào ở giữa hai lông mày, như trăng tròn mùa thu. Đây là công đức bậc nhất của Đức Như Lai, chẳng phải đồng với điều thiện nhỏ của Phạm thiên mà chiêu cảm được. Là do tâm đại bi, lợi tha của Phật phát khởi. Nếu như các chúng sinh nhiều như vi trần nhóm họp, an trụ trong chánh tư duy, cũng không thể suy lường được tướng Ô-sắt-ni-sa kia. Chẳng cứng, chẳng mềm, chẳng thành, chẳng hoại, chẳng gấp, chẳng hoãn, chẳng động, chẳng tĩnh, chẳng mau, chẳng chậm, chẳng mạnh, chẳng yếu, chẳng trầm, chẳng cử, chẳng bằng phẳng, chẳng hiểm trở, chẳng hợp, chẳng tan, chẳng bám, chẳng lìa, chẳng siêng, chẳng lười, chẳng lo, chẳng toan, chẳng bệnh, chẳng não. Tất cả chúng sinh bình đẳng cùng có công đức đệ nhất, an lành tối thắng. Khi đó, ngoại đạo kia tâm tin hiểu thanh tịnh, ở trong pháp Phật được trụ an ổn.
Bấy giờ, cô gái con vua ở trong nhà mình, nhờ hào quang của Phật chiếu tâm được an ổn, rộng mở, liền khởi suy nghĩ thế này: Nay Phật ở đời, tạo lợi lạc cho chúng sinh. Có kẻ gặp nguy nạn đều nhờ Phật tế độ. Chỉ mong Đức Thế Tôn không bỏ đại bi, thương xót che chở, hộ trì, hiện thân trước con. Nói những lời như thế rồi, hướng về phía xa, rạp mình kính lễ, buồn khóc rơi lệ. Phật biết được ý của nàng, khiến trong căn nhà ấy hốt nhiên nghiêm tịnh. Lúc ấy, Đức Như Lai từ đất vọt lên, thân sắc vàng ròng, tướng hảo đoan nghiêm. Cô gái con vua, thấy thân tướng Phật, tán thán chưa từng có, dùng hương hoa thù diệu kính dâng cúng dường. Lại dùng ngọc anh lạc, châu báu quý giá phụng cúng. Chấp tay đảnh lễ, cung kính gần gũi. Bóng Phật che thân, tức khắc được đoan chánh. Tâm rất vui mừng, hân hoan cực độ, cúi mình trước Phật, dùng kệ tán thán:
Thích Sư Tử tối thắng
Nương hang đá Chỉ la
Đủ thiểu dục tri túc
Lìa lỗi lầm thế gian.
Trí tuệ là răng bén
Hổ thẹn là tóc râu
Hàng phục các ma oán
Như ngoạm loài hươu nai.
Nhẫn là áo giáp chắc
Lực từ dùng làm cung
Khéo bắn tên trí kia
Diệt hết giặc phiền não.
Tám giải thoát làm ao
Chánh hạnh làm bờ đê
Nước tinh tấn không cấu
Nở hoa sen giác ý.
Dũng mãnh lìa các lỗi
Dứt trừ gốc ba cõi
Thí pháp dược bình đẳng
Lành bệnh tham sân si.
Đủ uy đức sáng thịnh
Tướng tốt để trang nghiêm
Tăng trưởng tâm công đức
Gánh vác nơi quần sanh.
Khéo trụ vào uy nghi
Các căn không tán loạn
Như hoa Câu-phược-la
Người thấy sinh yêu thích.
Không sợ, không cấu nhiễm
Tâm tịch tĩnh tối thắng
Giải thoát hết buộc trói
Thành tựu Nhất thiết trí.
Mâu Ni, Đại Ngưu vương
Thế gian không gì sánh
Hay cứu các chúng sinh
Hoặc bệnh, hoặc ưu não.
Mặc Tăng-già-lê hồng
Lặng trong mà bất động
Con dùng các thí dụ
Tâm tịnh để xưng tán.
Như cây Đa La vàng
Thân cao vút lại thẳng
Cũng như trụ vàng đúc
Tỏa ánh sáng rực rỡ.
Lại như thỏi vàng kia
Mạ bột thơm Chiên-đàn
Thân tướng Phật như thế
So sánh không thể biết.
Hoặc cho núi vàng diệu
Một ngọn cao chót vót
Dù cuồng phong thổi dữ
An nhiên trụ như vậy.
Hoặc cho A-tu-la
Cùng vua trời đánh nhau
Xe kiệu vàng kia rơi
Bỗng nhiên hiện nơi đấy.
Hoặc bảo cờ Đế Thích
Đều do vàng tạo thành
Uy nghiêm lại sáng rõ
Bỗng nhiên hiện nơi đấy.
Hoặc bảo trời Đa văn
Lầu gác báu vi diệu
Dùng các báu trang nghiêm
Bỗng nhiên hiện nơi đấy.
Hoặc Phật mẫu Trì Địa
Lộ ra Tạng diệu bảo
Phóng vô số ánh sáng
Bỗng nhiên hiện nơi đấy.
Đức Phật bố thí hóa độ rồi bỗng nhiên ẩn mất. Khi ấy, cô vương nữ kia ngồi kiết già, nhất tâm chuyên chú tưởng niệm thân Phật. Lúc này, người con trưởng giả, trước ở trong vườn, bị bạn bè thân thích ép uống đến say. Cả đám người cùng luận bàn với nhau: Có thể lấy chìa khóa cửa trong tay anh ta. Rồi tất cả cùng vội vàng đi đến nhà kia, mở cửa mà nhìn, mới thấy vợ của người ấy, dung mạo như thiên nữ, nên đều ngạc nhiên, bất giác cung kính thi lễ. Lúc đó, người con trưởng giả về đến nhà, thấy vợ mình dung nhan tươi đẹp, người vợ bèn đem sự việc trên thuật lại cho chồng biết. Nay Đức Phật Thế Tôn là phước điền tối thượng, tôi nay lại đến cung kính cúng dường. Đã làm Phật sự rồi, bèn tự mình phát thệ: Nếu các nghiệp ác mà thân này của tôi hiện có đã chiêu cảm quả báo xấu xí ấy, thì xin không còn thọ nữa. Cho đến hết thảy chúng sinh trong thế gian đều lìa thân thô xấu, đều được đoan chánh. Tức ở trước Phật, dùng kệ nói lại ý này:
Thế Tôn sắc tướng diệu
Trang nghiêm đều đầy đủ
Hay khiến các hữu tình
Người thấy được như ý.
Con nay đem chút thiện
Đến khắp chúng hữu tình
Thảy dứt nhân thô xấu
Đều được báo đoan nghiêm.
Phật nói: Này hiền nữ! Ta không tự tán thán, không nói lời hư dối, không cầu được cúng dường. Tùy theo nghiệp báo đã thọ nhận của các chúng sinh, khởi tâm đại bi mà cứu độ chúng. Liền nói kệ:
Ta là Điều Ngự Sư thế gian
Không cầu danh xưng và lợi dưỡng
Khéo có thể dứt cờ năm dục
Đều khiến tâm chúng sinh tịch tĩnh.
Ba minh, hai hành thảy đầy đủ
Nên cùng trời người tạo an lành
Ta đã hàng phục các ma oán
Rốt ráo không người có thể hơn.
Lìa hẳn lỗi lầm trong ba cõi
Tâm giải thoát không sinh phiền não
Tập khí kia dứt hết trọn vẹn
Được thọ thế gian, rộng cúng dường.
Nếu có chúng sinh đến gây ác
Tâm vẫn bất động như hư không
Nguyện sẽ dẫn dắt chúng phàm ngu
Chứng được trí vô lậu tròn sáng.
Nếu có bốn chúng như Tỳ-kheo v.v…
Cùng đến chỗ Ta vui nghe pháp
Đều khiến đầy đủ các luật nghi
Quyết định sẽ được thành bậc trí.
Ta là Thái tử vua Tịnh Phạn
Vui tu khổ hạnh nơi hang núi
Thoát được nguồn khổ sinh lão bệnh
Do đấy thành tựu Đạo vô thượng.
Cô vương nữ kia, do ở nơi Đức Phật Thế Tôn, tâm tịnh bố thí nên hiện thân đạt được sắc tướng đoan nghiêm. Nếu người vui cầu an lạc tối thượng, phải ở nơi Phật cúng dường thanh tịnh. Đấy gọi là Phật nói về chánh hạnh của Lọng phước. Tỳ-kheo các ông phải thường vui thích thọ trì. Đối với thí, giới, định phải siêng năng tu học.
HẾT – QUYỂN 8