Kính Lễ 10 Tâm Thù Thắng Của Chú Đại Bi
Dưới sự chứng minh của Ðức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni trong đạo tràng Bảo Trang Nghiêm tại Potalaka, Bồ Tát Quán Thế Âm giải thích Chú Ðại Bi có 10 tướng mạo sau đây: Ðại Từ bi tâm, Bình đẳng tâm, Vô Vi tâm, Vô nhiễm tâm, Không quán tâm, Cung kính tâm, Khiêm nhượng tâm, Vô tạp loạn tâm, Vô kiến thủ tâm, Vô thượng Bồ Ðề tâm.
1. Tâm Ðại từ bi
Từ là năng lực đem lại an vui cho chúng sanh; Bi là năng lực dứt trừ khổ đau cho mọi loài. Từ bi có đủ sức mạnh thể chất và tâm linh để dõng mãnh làm lợi lạc cho đời, như vậy trong Từ bi đã bao hàm Trí tuệ và Hùng lực mới đủ uy đức nhiếp chúng độ sanh. Tâm Ðại từ bi là tâm của bậc đã thành tựu đạo nghiệp.
Nay chúng con nghiệp dày phước mỏng nhưng cũng nguyện thực tập theo hạnh Từ bi của Bồ Tát. Nguyện cho tâm chúng con ngày một bớt giận ghét người, không sân si với hoàn cảnh mình đang sống và biết ơn với những gì mình đang có. Nguyện đem tất cả khả năng của mình để cống hiến niềm vui cho đời, giúp người bớt khổ, đặc biệt là các trẻ em thiếu may mắn và những người bệnh tật, hoạn nạn, nghèo khổ khắp nơi. Nhờ vậy mà tâm chúng con ngày càng tỏa sáng tình thương yêu, hiểu biết, để thể nhập vào nguồn sống dạt dào Từ Bi Hỷ Xả của chư Phật, Bồ Tát.
Tấc dạ chí thành thập phương cảm ứng, chúng con thành kính nhớ nghĩ đến Bốn Ơn sâu nặng: Ơn Cha mẹ, Ơn Thầy bạn, Ơn Tam Bảo, Ơn Quốc gia Xã hội mà nhất tâm đảnh lễ:
Nam Mô Ðại Từ Bi Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
2. Tâm Bình đẳng
Ðây là tâm không phân chia cao thấp, hơn thua, giai cấp, nam nữ, tôn giáo, chủng tộc, không phân biệt kẻ oán người thân. Về mặt bản thể, tâm Bình đẳng không chấp chủ thể hay khách thể, tâm và cảnh không hai. Trong chúng con có chúng sanh, trong chúng sanh có chúng con, y hệt các tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Có tâm Bình đẳng thì dễ dàng chấp nhận mọi khác biệt trong cuộc đời. Tâm Bình đẳng không ép buộc người khác phải ngang bằng như chúng con, mà tự thân chúng con cần mở tâm lượng rộng lớn dần dần để bao dung được người khác, bắt đầu từ gia đình, bà con, rồi ra đến đạo tràng, cộng đồng, nhân loại, chúng sanh.
Nguyện cho khi thực tập tâm Bình đẳng, chúng con thấy mình và người liên hệ mật thiết với nhau. Khi làm việc thiện, làm Phật sự thì không quan trọng việc cống hiến nhiều hay ít mà cần tấm lòng hoan hỷ cảm thông. Nhờ vậy mà chúng con thấy thế giới rộng lớn bao la, mầu nhiệm, mỗi sanh linh đều dễ thương, đáng quý, đáng trọng. Phật và chúng con tuy khác nhau về quả vị nhưng thể tánh rỗng lặng vẫn đồng. Vì tâm chúng con bị mây vô minh che lấp nên làm chúng sanh, một khi tâm tĩnh lặng, không một niệm dấy khởi thì ngay thân này Phật tánh hiện bày.
Thành kính cầu nguyện Pháp giới Ða sanh Phụ mẫu, Cửu huyền Thất tổ cùng chư Hương Linh của gia đình chúng con Siêu sanh Lạc quốc.
Nam Mô Bình Ðẳng Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
3. Tâm Vô Vi
Vô Vi nghĩa là không phụ thuộc, không bị ảnh hưởng, không vì nhân duyên mà sanh ra. Do đó, Vô Vi không biến đổi, không mất đi, là cái Vô sanh, một cách nói khác của Niết Bàn. Trong Kinh Vô Vi, Đức Phật nói có 33 từ ngữ tương tự về Niết Bàn là: Vô Vi, Mục đích cuối cùng, Vô lậu, Sự thật, Bờ bên kia, Tế nhị, Khó thấy được, Không già, Thường hằng, Không suy yếu, Không biểu hiện, Không lý luận, Tịch tịnh, Bất tử, Thù thắng, An lạc, An ổn, Ái đoạn tận, Bất khả tư nghì, Hy hữu, Không tai họa, Không bị tai họa, Niết Bàn, Không khổ, Ly tham, Thanh tịnh, Giải thoát, Không dính mắc, Ngọn đèn, Nơi trú ẩn, Nơi che chở, Nơi nương tựa, Đến bờ bên kia.
Đức Phật cũng dạy con đường đưa đến Vô Vi là tu tập Bát chánh đạo: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. (Kinh Tương Ưng Bộ, 2001, Tập 4, trang 565-574).
Áp dụng vào đời sống hằng ngày, nhờ thực tập tâm Vô Vi mà lòng chúng con trở nên thanh thản, buông bỏ mọi ưu phiền, vướng mắc. Chúng con dần dần không bị ràng buộc với bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Cuộc sống trở nên vui vẻ, thong thả, nhẹ nhàng. Tâm trở nên rỗng rang như tấm gương trong sáng, khi việc đến thì tùy duyên đối ứng, khi hết việc rồi trở lại rỗng không:
Như mặt gương trong sáng
Ánh chiếu mọi sắc trần
Đến, đi không chướng ngại
Không cảnh cũng không tâm.
Nguyện vì báo đáp thâm ân Hộ pháp, Chư tôn Bồ Tát và Chư vị Thiện thần thường lai Hộ trì già lam, nhà cửa, đất đai, hoa màu, môi trường sinh sống an toàn thịnh vượng, chúng con cung kính đảnh lễ:
Nam Mô Vô Vi Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
4. Tâm Vô nhiễm
Nhiễm là bị lây hoặc bị lôi cuốn theo thói hư tật xấu. Chẳng hạn mắt ưa đẹp ghét xấu, tai thích lời khen mà ghét tiếng chê, mũi ưa mùi thơm mà ghét thối, lưỡi ưa vị ngọt mà ghét đắng, thân ưa cảm giác mịn màng nhưng ghét đụng chạm thô kệch, ý mơ tưởng xa xôi mà không biết quay về tự tánh thanh tịnh. Nhờ tâm Vô nhiễm nên làm chủ được bản thân, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì không bị mê hoặc, sai sử. Một khi sáu căn lắng yên thì sáu thức không phát khởi, sáu trần trở nên thanh tịnh, và cõi Ta Bà uế truợc này liền trở thành Tịnh độ trang nghiêm.
Nguyện cho khi thực tập tâm Vô nhiễm, chúng con rèn luyện được đức tính thành không kiêu, bại không nản. Giảm bớt nô lệ của tiền tài, sắc dục, danh lợi, ham ăn, ham ngủ. Trong khi làm việc thiện, làm Phật sự, không bị lôi cuốn vào lời khen tiếng chê, không vì những bất đồng ý kiến trong khi làm việc mà mất hòa khí giữa anh chị em, đạo hữu. Trong khi tu tập, nguyện chuyển hóa “ái” và “thủ” thành “nguyện” và “xả”, nhờ vậy mà giảm lần vướng mắc, tham đắm, cố chấp.
Chúng con nguyện thay thế Pháp giới Tam thập Lục bộ, Hà sa Nam nữ Vô tự Âm Linh Cô Hồn chí thành đảnh lễ:
Nam Mô Vô Nhiễm Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
5. Tâm Không quán
Chữ “không” trong đạo Phật thường bị hiểu lầm là hư vô, là trái ngược với có. Chấp có và chấp không đều là hai kiến chấp sai lầm. Không ở đây có nghĩa là không có một tự thể riêng biệt vì vạn pháp nương vào nhau mà có mặt, không có pháp nào có thể phát sinh và tồn tại chỉ riêng mình: “Cái này có vì cái kia có. Cái này không vì cái kia không. Cái này sanh vì cái kia sanh. Cái này diệt vì cái kia diệt”. Do đó, không quán là nhìn sâu vào bản chất mọi hiện tượng để thấy được tính rỗng lặng, vô thường, vô ngã, duyên hợp và tương tức của các pháp. Chính nhờ tính chất rỗng không của các pháp nên vũ trụ mới có thể sinh thành, chuyển hóa. Vì nếu đã có một cái A cố định, thì cái A đó không thể biến đổi thành cái B hay cái C như trong các phản ứng hóa học.
Vô thường là thay đổi theo thời gian. Vô ngã là thay đổi trong không gian. Vì chúng con cố chấp vào những cái mình yêu qúy và mong cầu nó còn mãi, nên khi bị mất đi thì vô cùng đau khổ. Nhờ thực hành tâm Không quán, chúng con chuyển hóa được tập khí sâu dày nhất của chúng con là cố chấp vào “cái Ta” và “những cái của Ta”, cả cái ta cá nhân và cái ta tập thể. Nhờ không mà trở thành có thì từ có cũng trở thành không. Ðó là ý nghĩa của: sắc chính là không, không chính là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy cả. Người có Trí tuệ không vì các pháp rỗng không mà trở nên bi quan, yếm thế. Trái lại, các Ngài dõng mãnh vào biển lửa cứu khổ chúng sanh khi đã thấy rõ Chân không chính là Diệu hữu.
Chúng con nguyện đem tâm rỗng lặng để cầu nguyện Quá cố Nam nữ Đạo hữu, Chư Hương Linh Ký tự tại Chùa, Chư Hương Linh trong pháp giới, cùng hiện tiền Chư Thiện hữu Tri thức, Đàn na Tín thí, Thiền môn công vụ chủng chủng công phu nhận chân được pháp giới trùng trùng duyên khởi mà được tự tại vô ngại.
Nam Mô Không Quán Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
6. Tâm Cung kính
Cung kính là lễ độ, trân trọng từ tận cùng đáy lòng. Cung kính không những chư Tôn đức mà còn với mọi người, mọi loài, các em khuyết tật vì tất cả đều có Phật tánh. Chúng con nguyện theo gương Bồ Tát Thường Bất Khinh tán dương tất cả mọi người. Nhờ tâm Cung kính mà chúng con tha thiết biết ơn người, biết ơn vật. Cuộc đời đẹp đẽ quá, con người dễ thương quá, loài vật, cây cỏ, khí trời quý báu quá! Nếu không có môi trường sống này, cho dù thuận hay nghịch, cho dù tốt hay xấu, thì chúng con làm sao tồn tại ở cõi đời được? Thay vì bất mãn với hoàn cảnh sống, chúng con cần tự mình thay đổi thái độ sống.
Với tâm Cung kính, chúng con sẽ cảm nhận được thế giới lưu ly trang nghiêm thanh tịnh ngay tại trái đất này. Làm sao dám chắc điều đó? Vì trong Kinh dạy, cõi Ta Bà này là “Phàm Thánh đồng cư độ”, tức là kẻ thanh người tục chung đụng với nhau. Các bậc Giác ngộ xen lẫn giữa dòng đời đen bạc. Nếu tâm chúng con thiện lành thì sẽ chiêu cảm người lành cùng đến, nếu tâm chúng con phiền não tràn đầy thì sẽ chiêu cảm những người quậy phá đến. Cho nên thay vì than thở cuộc đời này không có Thánh Tăng, hãy nên tự hỏi tâm mình đã mở rộng để chào đón Thánh Tăng chưa? Nếu không, khi Thánh Tăng đứng bên cạnh thì chúng con cũng không thể cảm nhận được. Tại sao vậy? Tại vì tuy cùng đứng trên mặt đất, nhưng mỗi người tùy theo tâm lượng rộng, hẹp, mà cảm ứng với một cảnh giới tương xứng.
Xin hãy nhớ thời Phật còn tại thế, ai có tâm Cung kính gieo duyên với Phật thì đều đắc quả an lạc giải thoát, còn ai đóng cửa quay lưng thì đã không được lợi lạc gì mà lại còn chống báng Ngài. Chúng con có duyên lành kính lễ chư Phật, chư Bồ Tát qua Hồng Danh Bửu Sám, Thủy Sám, Ngũ Bách Danh, Lương Hoàng Sám Pháp, Tam Thiên Phật, Vạn Phật. Càng cung kính đảnh lễ, chúng con càng cảm nhận quý Ngài gần gũi quanh đây, và, ngày càng tỏa sáng Phật tánh nơi bản thân.
Với tâm Cung kính, chúng con thiết tha cầu nguyện các dịch bệnh mau chấm dứt, chư trọng bệnh nhân khắp nơi được gặp thuốc hay, thầy giỏi chữa lành bệnh tật. Lại nguyện nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng thảy tiêu trừ, căn lành thêm lớn, báo thân này kết thúc liền siêu sanh Tinh độ.
Nam Mô Cung Kính Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
7. Tâm Khiêm nhượng
Khiêm nhượng là tự đặt mình vào vị trí thấp nhất, như vậy sẽ trở nên nhu nhuyến nhưng không hèn yếu. Có tâm Khiêm nhượng sẽ dễ dàng thực tập hạnh nhẫn nhục. Như nước chảy xuống chỗ thấp nên chỗ thấp không bị khô kiệt, người có Tâm Khiêm nhượng thường được mọi người kính mến, giúp đỡ, giảm bớt những va chạm phiền toái do thói kiêu căng gây ra, đồng thời cũng bớt sân hận.
Tâm sân hận thật là dễ sợ. Nó như trái bom nổ chậm, khi có điều kiện kích hỏa thì nổ bung ra, tàn phá hết thảy gia đình, người thân, bạn bè, đạo tràng, cộng đồng, xã hội, quốc gia, thế giới. Vì vậy trong Kinh dạy: “Một đốm lửa sân nổi lên có thể đốt cháy cả rừng công đức”. Ðã sanh làm người ai cũng dễ tiêm nhiễm tâm kiêu căng. Càng lớn tuổi, càng có uy tín, bằng cấp, tài sản, danh vọng, địa vị, quyền lực thì kiêu mạn càng nhiều, và đó là một trong sáu nguyên nhân gây nên sinh tử luân hồi (Năm nguyên nhân khác là tham, sân, si, nghi, ác kiến).
Con đường trở về bến Giác, do đó, chính là dẹp cờ kiêu mạn. Có hạ mình xuống mới chiêm ngưỡng được cái Ðẹp ở đời. Thực hành lạy Phật, lạy sám hối cho ba nghiệp thân, miệng, ý lắng yên chính là một cách hữu hiệu để hạ “cái ta” xuống. Cho đến ngày không còn dính mắc vào “cái ta” nữa, tức là “vô ngã”, thì đạt Niết Bàn, như lời khai thị của Hòa thượng Thiện Siêu.
Nhất tâm cầu nguyện thiền môn trân tịnh, hải chúng an hòa, phước huệ song tu, tuệ đăng thường chiếu, Phật quả viên thành.
Nam Mô Khiêm Nhượng Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
8. Tâm Vô tạp loạn
Vô tạp loạn là không bị tình thế làm cho rối ren. Bản thân làm chủ được hoàn cảnh, bình tĩnh, chuyển rắc rối thành đơn giản, chuyển khó thành dễ, chuyển nguy thành an. Thực tập miên mật, tâm Vô tạp loạn dẫn đến dừng vọng tưởng và sâu hơn nữa là vào định. Có bài kệ rất hay có thể giúp tâm lặng yên khi quán chiếu:
“Phật là vầng trăng sáng,
Ði qua trời thái hư
Hồ tâm chúng sanh lặng,
Trăng hiện bóng trăng ngần”.
Tâm chúng con theo thói quen cứ lăng xăng vọng động không yên. Những ý niệm trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau choán chỗ nên Phật tánh không hiện bày ra được. Một khi chuỗi ý niệm đó dừng lại thì ngay tức khắc tánh Giác hiện bày, như ánh trăng soi tỏ trên mặt hồ tĩnh lặng. Có nhiều cách thực tập để tâm lắng yên, tùy theo điều kiện từng người. Thông thường là thiền tập, niệm Phật, lạy Phật, tụng kinh, trì chú, đi dạo quanh vườn…
Dù cách nào đi nữa thì căn bản vẫn bắt đầu từ thư dãn thân, lắng yên tâm, theo dõi hơi thở vào ra nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như sương khói, không còn ý niệm về hơi thở, lặng mà biết rõ. Ðạt được như vậy gọi là chánh niệm. Chánh niệm là thân làm việc gì thì tâm biết việc đó và ở đó với thân. Ví dụ nấu ăn thì thân và tâm cùng nấu ăn, không phải thân nấu ăn mà tâm xem truyền hình.
Với tâm lắng yên, chúng con nguyện cho hiện tiền cha mẹ phước thọ tăng long, thân bằng quyến thuộc và pháp giới chúng sanh tai nạn, tật bệnh tiêu trừ, ngày đêm đều được an lành.
Nam Mô Vô Tạp Loạn Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
9. Tâm Vô kiến thủ
Vô kiến thủ là không cố chấp vào cái thấy biết riêng của chúng con. Cái thấy biết đó thường bị lệch lạc vì thành kiến gia đình, giáo dục, văn hóa, xã hội, tôn giáo, chính trị, chưa kể sâu xa hơn là do tập khí nhiều đời quá khứ. Kiến thủ là một trong năm chướng ngại của sự tu tập, gọi chung là ác kiến. Ðó là (1) thân kiến: cố chấp vào cái thân này nên mới sanh lắm chuyện; (2) biên kiến: thấy biết một chiều; (3) kiến thủ: cố chấp vào cái biết sai trái của mình; (4) giới cấm thủ: theo các cấm kỵ mê tín dị đoan; (5) tà kiến: thấy biết không đúng sự thật.
Nhờ tâm Vô kiến thủ, chúng con không “nói xấu” Thầy Cô này, Giáo hội nọ. Làm như vậy là chúng con tự vạch áo cho người khác xem lưng, tự chia cắt nguồn sống vi diệu của Đạo pháp và làm suy yếu nội lực của mình. Trong khi chúng con hân hoan chào đón và thỉnh mời Quý vị Lãnh đạo Tinh thần các tôn giáo bạn cũng như các nhà hoạt động xã hội khác cùng ngồi lại với nhau để bàn chuyện cứu vớt hành tinh khổ nạn này, sao chúng con lại nỡ lòng quay lưng lại với Chư tôn Thiền đức và đạo hữu có chung một gốc rễ Ðạo pháp và Dân tộc?!
Trong khi làm việc thiện, chúng con nhẫn nại mời gọi từng người rộng mở từ tâm, cúi xuống nhặt từng cái lon, cái chai recycle, trân trọng từng đôi giày cũ “garage sale”, cớ sao lại để cho tâm biên kiến che lấp tâm hoan hỷ lễ kính và xưng tán Tam Bảo?! Còn người nào cố ý làm trái lời Phật dạy thì đã có nhân quả báo ứng. Các phẩm nói về quả báo trong Lương Hoàng Sám Pháp và nghiệp báo trong Thủy Sám đã là những bản cáo trạng nghiêm khắc.
Vì vậy chúng con không lãng phí thì giờ trong các buổi gặp mặt để chê trách người này, chỉ lỗi người khác. Chúng con nguyện “Nhóm họp trong Chánh pháp, bàn luận trong Chánh pháp, ra về trong Chánh pháp”. Ý thức rằng “Một ngày đã qua, mạng sống giảm dần”, chúng con nguyện thực tập chánh kiến, nương thân hư huyễn này để đạt thành đạo quả.
Cung chúc Phật pháp ngày càng tỏa sáng, thế giới khắp nơi không chiến tranh, không khủng bố, đất trời yên ổn, biển lặng, sóng yên, mưa thuận gió hòa, chúng sanh an lạc, tai nạn, tật bệnh, dịch bệnh tiêu trừ, người còn kẻ mất đều lợi lạc.
Nam Mô Vô Kiến Thủ Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
10. Tâm Vô thượng Bồ Ðề
Nguyện thành Phật cứu độ chúng sanh. Ðây chính là cốt lõi của Bồ Tát đạo và cũng là đặc trưng của Phật giáo Ðại thừa. Xưa nay chúng con vẫn có mặc cảm hèn kém là chỉ có thể làm việc thiện, đóng góp Phật sự để hưởng phước báo nhân thiên. Vì thế, chúng con đã phụ lời di giáo của Đức Thế Tôn “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp”.
Nay chúng con dũng mãnh phát nguyện thực hành Bồ Tát đạo, vừa tự lợi vừa lợi tha, vừa tự giác vừa giác tha, làm được chút gì lợi lạc cho mình cho người thì không từ nan. Kinh A Hàm dạy: “Dù làm bao nhiêu việc thiện đi nữa cũng không bao giờ quên Giác ngộ Giải thoát là mục tiêu tối hậu của đời mình”.
Cảm nhận được niềm an vui của Giác ngộ Giải thoát có ngay trong từng giây phút thực tập tại đây và bây giờ, chứ không đợi đến ngày mai hoặc kiếp sau, chúng con xin hồi hướng công đức này đến tất cả pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Nam Mô Vô Thượng Bồ Ðề Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát.
“Nhất niệm chí thành thập phương cảm ứng, Một lạy sám hối ba nghiệp tội tiêu”. Ngưỡng mong Tam Bảo, Bồ Tát Quán Thế Âm gia hộ cho chúng con viên thành tín, nguyện, hạnh.
Nguyên Thành Trần Duy Phô