KINH PHẬT THUYẾT HOA THỦ

QUYỂN 7

Phẩm 23: VƯƠNG TỬ ĐẮC NIỆM

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Tôn giả vẫn muốn tiếp tục được nghe nói về tâm của Bồ-tát chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Nay chính là lúc nên được nghe Thế Tôn thuyết giảng tiếp về tâm đích thực của Bồ-tát. Chính nhờ tâm chân thực ấy mà có thể tu tập đạt quả vị Vô thượng Bồ-đề.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Về thời quá khứ xa xưa, trải qua vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Đức Vương Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vị Phật Đức Minh Vương ấy, hội lớn của hàng Thanh văn có đến tám vạn bốn ngàn vị, hội lớn của chúng Bồ-tát số lượng cũng như thế. Thời ấy, nơi hàng Thanh văn, trong mỗi mỗi hội thuyết pháp đều có tám vạn bốn ngàn người đắc quả A-la-hán. Các vị Bồ-tát, trong mỗi mỗi hội thuyết pháp cũng có tám vạn bốn ngàn người đạt được pháp không thoái chuyển. Đức Phật Đức Minh Vương đã dứt sạch hết thảy mọi thứ lậu vốn có, tâm luôn được tự tại. Bậc đại A-la-hán, các vị chứng các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, số lượng còn nhiều hơn nữa.

Cùng thời này có vị vương tử tên là Đắc Niệm đã thân hành đến chỗ Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui đứng một bên. Vương tử trông thấy Đức Phật có uy đức lớn lao, liền suy nghĩ rằng: “Phật là bậc hy hữu, đã thành tựu bao công đức hết sức thâm diệu. Ta nên tạo duyên gì để có được trí tuệ cùng thân tướng tốt đẹp như Đức Phật?” Liền theo chỗ suy nghĩ của mình mà đọc bài kệ hỏi Đức Phật rằng:

Con nay thấy Thế Tôn
Nguyện sẽ được trí ấy
Hành nhân duyên nghiệp nào
Đạt tuệ Vô thượng đó?
Sắc thân Phật bậc nhất
Như thể trăng trong sao
Lực thần thông hơn hẳn
Nên thuận chúng thuyết pháp
Trí tuệ không ai hơn
Như Thích Thiên Tôn quý
Nơi pháp luôn tự tại
Con nay xin được hỏi
Trí Phật tịnh, vô ngại
Ba đời thảy thông đạt
Tất cả chúng tôn kính
Vì con giảng việc ấy?
Thế Tôn xưa từng gặp
Vô số các vị Phật
Hỏi về nhân Bồ-đề
Nguyện nay vì con giảng?
Nay hỏi trí vô ngại
Làm sao chứng Phật đạo
Chốn nương của muôn loài
Độ hết khổ sinh tử?

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lúc này Đức Phật Đức Minh Vương dùng kệ đáp lại rằng:

Đồng tử! Chỗ con nêu
Sự thực ấy như thế
Ta từng thấy chư Phật
Số nhiều như hằng sa
Thấy Phật hơn hằng sa
Tên, số chẳng kể hết
Cũng nơi hằng sa kiếp
Hỏi Phật việc như vậy
Con phát tâm Bồ-đề
Sẽ thành Lưỡng Túc Tôn
Nay nghe ta thuyết giảng
Nghe xong, như lời hành
Luôn hành thí không chán
Trí giới chẳng dừng nghĩ
Đa văn không nhàm đủ
Tu tập chân trí tuệ
Phật lược nói kệ ấy
Thấy Đồng tử ham thích
Muốn khiến thành Phật đạo
Lại vì phân biệt khắp
Con luôn luôn bố thí
Trì giới tịnh không mỏi
Hỏi bậc Trí đâu chán
Đó, nhân duyên chân trí
Chân trí không nơi chốn
Cũng không nơi thường trụ
Do nhân hỏi chư Phật
Nên sinh chân trí tuệ
Trí Phật không nương nhãn
Tánh nhãn vốn tự không
Do vậy chẳng nên chấp
Để cầu trí tuệ Phật
Nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn
Cùng ý cũng như vậy
Các nhập ấy đều không
Tướng không nên tham vướng
Bốn đại hợp nên thân
Tâm, nơi chốn nương tựa
Theo đấy, dấy tưởng nhớ
Tưởng nhớ cũng chẳng có
Như chẳng nương tựa thân
Cũng chẳng dựa thọ mạng
Lại chẳng bám tài lợi
Ắt đạt được Phật đạo
Luôn nên cầu xuất gia
Và siêng năng tinh tấn
Thường chán lìa uế dục
Do lìa xa nẻo ác
Nẻo con làm bố thí
Vì hết thảy chúng sinh
Nơi chúng không phân biệt
Cũng chẳng thí hý luận.

Bấy giờ, vương tử Đắc Niệm, dấy tâm tin tưởng hoan hỷ, liền ở nơi trước Đức Phật đọc bài kệ:

“Thế Tôn dứt sạch nghi
Chỉ nẻo vượt sinh tử
Thuyết pháp tịnh thâm diệu
Vì con tạo lợi lớn
Con cho là thành Phật
An tọa nơi đạo tràng
Trừ diệt mọi ma buộc
Do theo Phật nghe pháp
Con bèn làm người dẫn
Nên động khắp đại thiên
Hiện vô số thần thông
Do theo Phật nghe pháp
Cho là bỏ mạng lớn
Đã nhập cõi Niết-bàn
Tất cả pháp đều không
Chân trí do đấy sinh
Rõ pháp, dứt sạch tướng
Pháp diệt không chốn cõi
Pháp hữu vi đều dứt
Dứt sạch tức là không
Con nay đến cha mẹ
Nêu bày cùng tạ từ
Nơi pháp Phật xuất gia
Tu hành đạo giác ngộ.”
Tức thời lễ chân Phật
Nhiễu ba vòng rồi đi
Đến ngay chỗ cha mẹ
Giữa đường gặp ma ác
Ma ác dấy niệm này:
“Vương Tử muốn xuất gia
Ta sẽ tạo chướng ngại
Quấy nhiễu hoại tâm ấy.”
Liền đứng ở giữa đường
Vờ hỏi Vương tử rằng:
“Đi gấp đến chốn nào?
Hãy dừng để xin hỏi.”
Vương tử nghe bèn đáp:
“Tôi từ chỗ Phật lại
Được nghe pháp Vô thượng
Nay muốn theo tu tập.”
Ma nói: “Người lành thay!
Tinh tấn cầu Phật đạo
Chỉ nên trước thọ dục
Rồi sau sẽ xuất gia.
Ngươi sinh chốn tôn quý
Dân giàu có vô lượng
Trước sẽ thọ vui đời
Chớ để sau sinh tiếc.
Chốn tôn quý như thế
Năm dục lạc khó được
Nếu nay, bỏ xuất gia
Sau tất sinh tâm hối.”
Vương tử tức thì bảo:
“Thọ dục trọn chẳng tham
Ông đem thân điên đảo
Khen pháp dối uế ấy
Ông nói phú quý khó
Lìa tám nạn khó hơn
Tôi nay gặp việc này
Xuất gia tu Phật đạo
Tôi đã rõ cõi Dục
Cõi Sắc, Vô sắc vượt
Ba cõi Khổ, Vô thường
Dứt ái, đạt tịch diệt
Sẽ chứng pháp vô vi
Chúng sinh được lợi lớn
Thoát khỏi sinh, bệnh, tử
Qua lại mọi cảnh khổ.”

Lúc này ma ác Thất Niệm nói với Vương tử rằng:

–Nhân giả tự bảo là dốc chí cầu Phật pháp. Nay ta cũng sẽ cùng tạo ra lợi ích.

Vương tử Đắc Niệm nói:

–Hãy để tôi nói, nghe xong thì sẽ rõ.

Ma ác nói:

–Nên bày lời thệ nguyện rồi ngươi mới nói.

Vương tử đáp:

–Ôi thôi Hiền giả! Tôi trước nên nói, nghe xong thì mới rõ.

Ma ác bảo Đắc Niệm:

–Ngươi chẳng nên nói là “nghe xong thì sẽ rõ”. Nên nói như thế này: Chỉ thấy sự giáo hóa và sẽ theo lời chỉ dạy ấy mà hành động.

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Tôi nay không nên như đệ tử đối với pháp theo lời chỉ dạy là làm ngay. Vì sao? Vì như ông đấy, ở nơi pháp thì sinh tưởng phi pháp, ở nơi phi pháp thì dấy tưởng là pháp, do đó những lời ông chỉ dẫn tôi, tôi phải suy nghĩ: Điều thiện thì sẽ theo và thực hiện, còn điều bất thiện thì từ bỏ. Vì vậy kẻ trí đối với pháp, nghe xong thì mới rõ. Ông muốn khiến tôi trước hãy lập thệ nguyện như lời chỉ dẫn và hành động ngay. Đó là sự việc của hàng phàm phu, không phải là nẻo hành động của kẻ trí. Đấy là chỗ ma làm, chẳng phải là Phật Pháp. Như thế nên tôi không theo ông trước quyết bày tỏ lời thệ nguyện. Sợ có kẻ trí chê cười tôi rằng: Làm sao lập thệ rồi mà về sau chính mình làm trái lại!

Bấy giờ ma ác bèn suy nghĩ: “Gã vương tử này thật thông minh sáng dạ, đã không chịu lập thệ nguyện thì khó có thể lừa dối mê hoặc được.” Suy nghĩ như vậy xong, liền nói với Vương tử Đắc Niệm:

–Lành thay, Vương tử! Pháp của kẻ trí là chẳng nên lập thệ nguyện trước. Tuy nhiên ta nay sẽ chỉ dẫn cho ngươi, ngươi sẽ tin, thọ. Như ở trong sự việc gì, thấy có nhiều lầm lỗi thì phải nên lìa bỏ, còn nếu thấy chỉ có ít lỗi lầm thì nên gần gũi.

Vương tử nghe bảo thế liền nói với ma ác:

–Ôi thôi kẻ trượng phu! Ông nay chẳng nên nói những lời như vậy! Vì sao? Vì dù lỗi lầm hay ít lỗi lầm thì cũng đều chẳng được gần gũi. Ví như có nhiều chất độc có thể làm hại người, thì ít chất độc cũng có thể làm hại người vậy. Như bậc Chuyển luân vương trong khi ăn cơm gặp chất độc có thể bị hại đến thân mạng, còn như kẻ hạ tiện trong lúc ăn uống gặp chất độc thì cũng có thể nguy hại đến tánh mạng vậy. Vì thế nên biết rằng, nhiều hay ít lỗi lầm thì đối với người có trí tuệ sâu rộng đều nên lìa bỏ. Pháp mà kẻ trí nên gần gũi là không có lỗi lầm sai trái, không nóng nảy, buồn phiền, là bất động tịch diệt dẫn tới cứu cánh an lạc.

Ác ma bèn suy nghĩ: “Nay chỉ bày cho kẻ này, đã chẳng chịu tin thọ mà lại còn đối đáp trái ngược, vậy nó tất có thể thông đạt trái với những điều khiến ta nghi ngờ. Tuy vậy, vẫn còn có một lẽ: Gã vương tử này, tâm đối với trường hợp nhiều hay ít lỗi lầm đều chẳng muốn thọ nhận. Mà hạnh Bồ-tát thì có nhiều thứ lỗi lầm. Sống lâu trong cảnh sinh tử, qua lại nhiều nẻo, bao thứ lỗi lầm về tham dục sân giận ngu si, kẻ cầu mong chẳng đúng lúc cũng ào đến, theo chỗ đòi hỏi về những vật quan trọng mà mình yêu thích “Đầu mắt tủy não cùng các chi phần nơi thân mạng.” Hạnh Bồ-tát có những lỗi lầm như thế. Tâm của gã Vương tử này, đối với trường hợp ít lỗi lầm hãy còn xa lánh huống là đối với trường hợp nhiều sai phạm. Nay nếu được nghe nói trong hạnh Bồ-tát ấy có những lỗi lầm như thế thì hoặc sẽ thoái chuyển đi vào các pháp Tiểu thừa, hay nhập Niết-bàn như vậy cũng là sai. Thế là cũng làm được việc hủy hoại lớn đối với tâm của gã ấy.”

Suy nghĩ như vậy rồi bèn nói với Vương tử Đắc Niệm rằng:

–Lành thay! Lành thay! Đúng như chỗ ngươi đã nói, dù nhiều hay ít lỗi lầm đều chẳng nên gần gũi. Đó là pháp của kẻ trí. Chỗ ta đã nói là không đúng nên tâm ngươi không chấp nhận. Vương tử nên biết rằng, chỉ có cảnh giới Nê-hoàn là dứt sạch hết mọi lỗi lầm. Vì thế ngươi nên nhất tâm dốc cầu, chớ đừng qua lại trải khắp các cõi sinh tử nhận lấy bao nỗi thống khổ. Vương tử cũng nên rõ, thọ thai là rất khổ, thời gian ở trong thai cũng khổ, sinh ra lại khổ, yêu thương mà ly biệt là khổ, oán ghét mà gặp nhau là khổ. Thân này là vô thường, là không, là chẳng bền chắc. Nuôi dưỡng cực nhọc, nhưng thọ mạng luôn nguy khốn dễ bị hư mất, đó là sự vô thường rất đáng kinh sợ, mà cõi sinh tử thì vô biên làm sao có thể đi đến khắp hết được? Người trí nghe thế thì đủ phát sinh sự chán lìa rồi. Ngươi hãy tự hướng vào mình mà nghĩ xem! Chư Phật khó gặp, tám nạn thì khó lìa, thân người khó được, kinh pháp khó được nghe, nghe và tin càng khó. Ngươi nay đều có được đầy đủ các thứ ấy, chẳng nên không lìa bỏ mà phải sinh lòng chán lìa, tức đối với thân này nên nhập Nêhoàn. Bản ý của ta chính là nhằm bày tỏ điều đó. Vì thế, trước khiến ngươi nên quyết định lập thệ nguyện. Đấy, đúng là ta nói, nghe xong thì sẽ rõ.

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Theo như nhân giả nói rằng sinh, lão, bệnh, tử là phải nhận lấy vô số nỗi khổ, điều ấy là đúng. Nhưng bảo là thân này nên nhập Nê-hoàn thì không thể được. Tôi khi nghe xong việc ấy thì đối với chúng sinh lại tăng thêm lòng Từ bi, chúng sinh thật đáng thương vì ở nơi cảnh lão bệnh tử phải chịu lấy vô số nỗi khổ. Lúc tôi đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhằm chuyển vô lượng nỗi khổ của lão bệnh tử, nên vì họ mà thuyết pháp khiến họ được vĩnh viễn xa lìa. Này Nhân giả! Ít có lúc được nhìn thấy lợi ích lớn lao. Tôi lúc nghe ông nói về nỗi khổ của sinh tử, liền đối với chúng sinh mà khởi lòng thương xót lớn nhằm cứu giúp họ. Nếu thân tôi đây mà nhập Nêhoàn liền thì ai sẽ là người cứu giúp? Lại nữa, nay được nghe ông nói sự việc ấy thì tôi lại càng thêm kiên cố hơn trong đại nguyện trang nghiêm của mình.

Bấy giờ, ma ác nói với Vương tử Đắc Niệm:

–Ngươi bảo rằng đối với trường hợp ít lỗi lầm hãy còn chẳng nên gần gũi. Nay vì lý do gì mà muốn đi vào cõi sinh tử?

Vương tử đáp:

–Này Nhân giả! Trong đạo Vô thượng Bồ-đề không hề có một chút lỗi lầm, do đó mà nên học tập gần gũi.

Ma ác nói:

–Này Vương tử! Trong đạo Vô thượng tuy không có lỗi lầm, nhưng ai sẽ cùng tìm đến? Ta cầu Phật đạo hãy còn chẳng có thể được, huống hồ là ngươi mà được sao? Ta vốn đã dấy ý niệm là sẽ đạt được Phật đạo. Phát tâm tà ấy, tức thì liền có vô số kẻ ăn xin ào tới theo ta đòi hỏi nào đầu mắt tủy não cùng các chi phần thân thể.

Ma ác lại nói với Vương tử:

–Ta đã đem đầu mắt cùng tay chân… cho đám người ăn xin ấy, máu tuôn ra thành luồng, người muốn xem chăng?

Vương tử đáp:

–Tôi muốn được xem, điều ấy cũng có lợi ích.

Ma ác liền suy nghĩ: “Gã Vương tử này dốc tâm nơi đạo Vô thượng, nhưng hầu như có thể chuyển.” Liền nói rằng:

–Ta muốn thấy điều ấy đem lại lợi ích.

Tức thì ma hóa ra bốn ao máu lớn, đầy ắp những máu. Nơi bờ ao có bốn con sông máu lưu thông với ao, chất đầy những đầu người cao như núi Tu-di, có người mới bị hoại, có cái máu ứ đọng với các màu xanh vàng trắng đỏ. Ma ác cũng lại biến ra những thây người chết chất đầy như các dãy núi. Những thây chết này, hoặc bị chặt tay chân, hoặc mắt bị lòi ra, hoặc bị cắt mất tai mũi chặt đứt các chi phần. Ma lại tạo ra Dạ-xoa cùng nhiều quỷ ăn thịt người, bốn bên bờ đều đầy dẫy, thật hết sức kinh sợ, hoặc cầm đao tượng cung tên mâu kích, vác núi phun lửa, sấm sét chớp giật liên hồi. Hoặc biến ra các thứ ác thú có đầu sư tử, gấu, bi, cọp, báo, hay đầu trâu, ngựa, lạc đà, voi, heo, chó, đầu rắn, đầu cá, đầu cá Ma-già. Những thứ quỷ này, hoặc tay nắm rắn độc, hoặc miệng phun lửa, hoặc có hai đầu, năm đầu, mười đầu, trăm ngàn vạn đầu. Hoặc có một lưỡi, hai lưỡi mười lưỡi, trăm ngàn lưỡi. Hoặc có một mắt hai mắt năm mắt mười mắt trăm ngàn vạn mắt. Mỗi con quỷ đều phát ra những tiếng kêu lớn nghe rất kinh hoàng. Tất cả lũ ấy đều cùng nói năng giận dữ, quắc mắt ngó trông khắp chỗ, cắn thịt xương, thè lưỡi dài bốn mặt vây quanh. Biến hóa ra những sự việc đáng sợ như thế xong, ma ác nói với Vương tử Đắc Niệm rằng:

–Ngươi hôm nay đã trông thấy bốn ao máu lớn ấy chảy ra nơi bốn con sông lớn đầy những máu chăng?

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Đã trông thấy.

Ma bảo:

–Những cái ấy đều từ gốc là ta phát tâm cầu đạo Vô thượng, lúc ấy có đám người ăn xin ào đến theo ta đòi hỏi phải cho họ đầu mắt tủy não cùng các chi phần nơi cơ thể, do đấy mới có máu chảy thành sông lớn như thế. Ngươi lại trông thấy đống đầu người chất cao như núi Tu-di chăng?

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Có trông thấy.

Ma nói:

–Cái đó đều là do từ xa xưa đến giờ đã từng cắt đầu bố thí cho đám người ăn xin kia. Ngươi lại trông thấy đống thây người chết chất cao như bốn núi ấy, hoặc bị chặt mất tay chân cùng tai mũi và những chi phần trên thân thể chăng?

Vương tử nói:

–Có trông thấy.

Ma bảo:

–Cái ấy cũng do từ gốc ta lúc thực hiện hạnh Bồ-tát theo Phật đạo, đã xả thân bố thí cho đám người ăn xin đấy. Ngươi lại có thấy nơi bốn bên bờ với đám Dạ-xoa, ác quỷ rất đáng kinh sợ chăng?

Vương tử nói:

–Có trông thấy.

Ma nói:

–Nếu người phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức thì liền bị đám quỷ buồn phiền kia ào theo xin nào đầu mắt tai mũi chân tay cùng vô số chi phần nơi thân thể. Ta từ xa xưa phát tâm đến nay, đã từng chặt đứt ngần ấy đầu và các chi phần trên thân thể mình đấy.

Ma lại hóa ra đám quỷ đại La-sát và nói với Vương tử rằng:

–Ngươi lại trông thấy đám La-sát ấy chăng?

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Trông thấy.

Ma bảo:

–Nếu người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, thì đám quỷ ác ấy sẽ ăn sạch hết ngũ tạng, uống những giọt máu nơi tim và cắt đứt mạng sống ngay. Ngươi nay nên biết, nếu chẳng lìa bỏ tâm Bồ-đề ấy thì không thoát khỏi cảnh khổ này. Ta vốn từng nghĩ suy rằng sự việc phát tâm ấy là hết sức khó khăn, chung cuộc là không thể đạt được vì không thể kham nhận bao thứ khổ não kia. Vì vậy mà nên thoái chuyển đối với đạo Vô thượng. Ngay lúc thoái chuyển là lìa thoát khỏi nỗi khổ đó và được an ổn khoái lạc. Do đó mà ta nay, vì lợi ích cho ngươi nên nêu bày rõ sự việc như thế đấy. Ngươi chớ nên phát tâm cầu đạo Vô thượng ấy nữa. Nếu ngươi phát tâm thì tất phải nhận lấy nỗi khổ kia mà cũng chẳng được giải thoát.

Vương tử Đắc Niệm bèn suy nghĩ: “Ta ở nơi chỗ Đức Phật phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, muốn đến chỗ cha mẹ ta để tỏ bày sự việc. Người này giữa đường gặp ta mà bày chuyện phá hoại như vậy, đó hoặc là ma hóa làm thân người, hay là do ma sai khiến, hoặc ở nơi Phật đạo mà dấy tâm thoái chuyển, biếng trễ cho nên đến để phá hoại ta. Người này ở đời trước tất có tội lỗi nặng nề, vì vậy mà nay mới có từng ấy kẻ ăn xin ào tới đòi hỏi cho đầu mắt cùng vô số các chi phần trên thân thể, cắt đứt mạng sống cũng như phải nhận lấy bao thứ khổ não. Lại nữa, những người ăn xin kia có thể là sự trợ giúp cho Bồ-tát thành tựu đạo Vô thượng. Vì sao? Vì những người ăn xin đó từ nhiều nơi chốn đến, đều do tham dục, sân giận, ngu si, ganh ghét, kiêu mạn, nên đã theo Bồ-tát, cầu xin không đúng lúc. Nếu ta không có thể làm thỏa mãn những nguyện vọng của đám chúng sinh ấy nơi thế gian thì làm sao có thể đem lại lợi lại xuất thế gian? Người này biếng nhác nên không thể có được sự an lạc sâu xa đối với đạo Vô thượng, bèn sinh tâm thoái chuyển. Ta nay nhận thấy sự việc này thì càng thêm tinh tấn dốc cầu đạo Vô thượng. Giả sử ta ở trong khoảnh khắc một hơi thở, lìa bỏ thân hiện có này cho tới thân rốt ráo sau cùng, luôn ở nơi một niệm lìa bỏ từng ấy thân, chung cuộc tâm không thoái chuyển. Ta nay sẽ dốc phát nguyện lớn trang nghiêm. Những chúng sinh này, do sức mạnh của phiền não mà dấy lên những tạo tác gây ra tội lỗi. Ta mong muốn sẽ đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề để dứt trừ mọi thứ phiền não…” Suy nghĩ như thế xong, Vương tử bèn nói với ma:

–Ôi bậc nhân giả! Thật là hết sức hy hữu vì được thấy lợi ích lớn lao! Là người mong đạt được an ổn! Là người chỉ dẫn nẻo giác ngộ! Đã có thể thị hiện trước mắt tôi bao sự việc như vậy. Tôi đã trông thấy đủ sự việc ấy rồi và xin phát sự trang nghiêm lớn làm tăng thêm sự kiên cố đối với nẻo an lạc sâu xa của đạo giác ngộ.

Lúc này, ma ác bèn nghĩ ngợi: “Nay gã Vương tử này đã trông thấy mọi sự biến hóa của ta, lại càng thêm tinh tấn, yêu thích đạo Bồđề.” Suy nghĩ như vậy rồi nói với Vương tử:

–Nhân giả nếu không tin, thọ lời ta nói, nay xin tạm ly biệt rồi sẽ tự biết.

Bấy giờ đám ma quân liền nói với ma ác rằng:

–Nay ông Vương tử này không chịu nghe theo lời chỉ dẫn của ngài, thì hãy tạm lánh đi, chúng tôi đói khát lắm rồi, sẽ hủy hoại thân ấy xơi sạch ngũ tạng, uống cạn máu huyết nơi tim.

Hoặc có gã quỷ nói:

–Ngài nên tạm lánh đi, tôi sẽ xé xác gã Vương tử này.

Hoặc có tên khác bảo:

–Ngài phải tránh nơi khác, tôi sẽ theo nó mà đòi lấy cái đầu!

Hoặc một tên quỷ khác bảo:

–Tôi sẽ theo nó mà đòi những mắt tai mũi lưỡi cùng các thứ chi phần nơi thân nó.

Lại có quỷ La-sát hỏi:

–Ngài hãy tạm lìa trong chốc lát, nay thì gã Vương tử này mạng số đã đến lúc hết rồi. Ngài muốn đem đến lợi ích cho nó mà nó chẳng chịu nhân. Tôi nay sẽ giết nó để xơi cả máu thịt tươi, đời đời nó thọ thai, ở trong thai và sinh ra, tôi sẽ luôn theo đuổi để hãm hại.

Đám quỷ Dạ-xoa lại cùng nói rằng:

–Gã ấy không có sức lực, chẳng nghe theo lời chỉ dẫn của chủ ta. Nay sẽ bắt lấy nó trói chặt lại rồi phanh thây xé xác nó ra là xong.

Ma Thất Niệm nói với đám quỷ La-sát:

–Các ngươi bay nên tạm dừng lại, ta sẽ khiến cho gã Vương tử Đắc Niệm này chuyển cái tà kiến ấy, vì cõi sinh tử tăm tối đó mà làm kẻ Thiện tri thức. Các ngươi tạm dừng lại thì nó sẽ biết ơn các ngươi. Ta nay muốn cho nó sinh tâm chánh kiến, nếu nó lại chẳng lìa bỏ các tà kiến ác kiến kia thì các ngươi sẽ cùng nhau tùy ý. Nếu có thể làm cho nó chuyển đổi thì nó sẽ báo ơn các ngươi, mà rồi gã Vương tử đó về sau cũng báo đáp ta. Thế rồi ma Thất Niệm hai ba lượt nói với Vương tử Đắc Niệm rằng:

–Nên nhận lấy lời này! Thâm tâm ta là muốn mong được lợi ích, vì người mà dốc sức làm một Thiện tri thức. Nay ngươi nên lìa bỏ cái tà kiến điên đảo kia. Vương tử nên biết! Đạo Vô thượng ấy thật khó được khó chứng. Ngươi có muốn được thấy các vị Đại Bồ-tát sau khi mạng chung sẽ sinh vào nơi chốn nào chăng?

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Muốn được thấy.

Ma Thất Niệm liền ở ngay nơi ấy hóa ra cõi đại địa ngục, rồi nói với Vương tử:

–Ngươi nay đã thấy cõi địa ngục ấy với những chúng sinh đang chịu vô số sự khảo tra đánh đập, nhận lấy bao thống khổ chăng?

Vương tử đáp:

–Có thấy.

Ma bảo:

–Những người đó đều do từ đời trước lúc mới bắt đầu phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, là kẻ cầu mong không đúng lúc, lại ào đến theo đòi hỏi những vật quan trọng mà mình ham thích. Do tham tiếc nên dấy tâm sân hận mà phải nhận lấy những tội báo ấy, chỉ vì những vật bên ngoài mà hãy còn sinh vào cõi đó, huống hồ lại còn đến đòi hỏi về đầu mắt tủy não mà tâm không sân giận? Do tâm giận dữ nên phải nhận lỗi ấy. Ngươi nếu còn tham tiếc không chịu nhận lấy điều ta nêu thì ắt sẽ sinh vào nơi đó. Vả lại, nếu chấp nhận mà sinh tâm giận dữ thì cũng đọa vào nơi đó. Hai nẻo không tránh khỏi đều phải nhận lấy thống khổ kia. Vương tử nên biết, nếu bố thí cho kẻ cầu xin chẳng nên sinh tâm giận dữ. Đám Dạ-xoa này cũng sẽ đối với lúc ngươi còn ở trong thai, lúc mới sinh hay đã sinh rồi đều tìm cách giết ngay, chặt thân, xé thây với mọi chi thể rồi mỗi đứa sẽ tự mang đi. Vương tử nên biết! Con đường của Bồ-tát, cả hai nẻo đều có lỗi lầm, nếu chấp nhận hay không cũng đều là bất thiện. Ngươi không tin lời ta thì sẽ hỏi những người đó xem do đâu mà sinh vào cõi ấy.

Vương tử hỏi:

–Ôi, các vị nhân giả! Các ngươi do cớ gì mà sinh vào cõi này?

Những người ấy thưa:

–Chúng tôi từ xa xưa lúc tu tập Phật đạo, đối với những kẻ đến cầu xin đều sinh tâm tham tiếc, do đó mà sinh ở chốn này. Lại nói thêm: Chúng tôi vốn cầu Phật đạo, những người xin ăn đến cắt chặt thân tôi, lúc ấy tôi sinh tâm giận dữ nên bị đọa vào cõi này. Vì thế, này Vương tử, ông phải thuận theo chỗ trình bày của người này, chớ nên đi vào cõi đây mà sau sinh hối hận.

Bấy giờ, Vương tử Đắc Niệm liền nói với ma:

–Hỡi ôi Nhân giả! Thật đã thấy được trọn vẹn lợi ích! Đã chỉ rõ cho tôi về cảnh địa ngục và con đường của Bồ-tát. Tôi từ hôm nay, đối với các vật quan trọng không còn dấy tâm tham tiếc chẳng chịu bố thí, nếu bố thí cho kẻ cầu xin thì không hề giận dữ. Vì sao? Vì những kẻ bị sinh vào cõi địa ngục đều là do quả báo của lòng tham lam keo lận không chịu bố thí. Hỡi ôi Nhân giả! Nay hãy cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật Đức Vương Minh, sẽ xin hỏi rõ việc này, theo chỗ Phật chỉ dạy mà cùng thực hiện.

Ma Thất Niệm nói:

–Ta nay đi tới chỗ Đức Phật để làm gì? Người muốn đến đấy thì cứ việc tùy ý. Vì sao? Vì ta sợ Đức Phật ấy sẽ lại bảo ta phát tâm cầu đạo Vô thượng.

Vương tử Đắc Niệm lại nói với ma:

–Ông tự cho mình là người làm lợi ích, là người mong có được an ổn, tất phải cùng tôi đi đến chỗ Đức Phật Đức Vương Minh, theo chỗ Phật chỉ giáo mà cùng tu tập.

Vương tử Đắc Niệm nói như vậy đến ba lần mà ma cũng không chịu nghe theo. Còn bảo:

–Vương tử hãy cứ để mặc tôi! Tôi vốn đã từng nghe theo lời Phật dạy mà phải nhận đủ bao nỗi khổ ải nên nay chẳng thể đến đó được.

Vương tử tức thì cầm lấy tay ma kéo dẫn thẳng tới chỗ Đức Phật, rập đầu đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra ngồi một bên, đem mọi việc đã luận bàn ở trước, cùng hướng về Đức Phật để nêu bày.

Đức Phật nói:

–Này Vương tử Đắc Niệm! Lành thay! Lành thay! Con đã không nghe theo những lời thuyết dụ của kẻ này. Đó chính là ma Thất Niệm đã lừa dối mê hoặc muốn ngăn chân con đường tu tập hạnh Bồ-tát của con.

Vương tử Đắc Niệm bèn nói với ma Thất Niệm rằng:

–Ông nay phải quy ngưỡng nơi Phật, Pháp, Tăng.

Ma nói:

–Chớ nên! Tôi không muốn quy mạng nơi Phật, Pháp, Tăng. Nói xong thì yên lặng.

Bấy giờ Vương tử Đắc Niệm đã được thấy rõ bộ mặt của ma liền nhất tâm lập lời nguyện:

–Nếu con là người chí tâm cầu Phật đạo, thì sẽ khiến cho ma này trở thành hình dạng vị Tỳ-kheo.

Vương tử nguyện xong tức thì ma Thất Niệm liền được cạo tóc mặc pháp phục, tay ôm bình bát đứng ở giữa chúng. Ma Thất Niệm tự thấy thân mình thành người xuất gia, mặc pháp phục mang bát, cầm gậy, đúng hình dạng một vị Sa-môn, liền thưa với Phật rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Nếu bản thân không có tâm quy mạng Tam bảo mà cưỡng ép biến thành hình dạng Sa-môn, pháp nên làm thế chăng?

Đức Phật bảo ma Thất Niệm:

–Ai đã cưỡng ép ngươi cạo đầu mặc áo pháp và thuận mang cầm các pháp khí ấy?

Ma nghe Phật nói thế liền suy nghĩ: “Không người nào trao cho cả! Ta được cạo đầu mặc áo pháp làm Sa-môn như thế này, sao ta không cởi bỏ ra mà đi?”

Liền muốn tự cởi bỏ pháp phục cùng các món ứng khí kia mà không thể rời được, bèn suy nghĩ: “Ta đứng ở đây kéo dài thì giờ chỉ làm cho người ta cười thôi! Nên trốn khỏi chỗ này mà trở lại cung điện cũ của mình.” Suy nghĩ như vậy rồi hốt nhiên biến đi, bay lên cung trời nói với đám quyến thuộc:

–Các ngươi chớ cho rằng ta là Tỳ-kheo. Ta vốn là ma vương Thất Niệm đây. Ta muốn đến chỗ Đức Phật Đức Vương Minh nhằm làm chuyện quấy nhiễu phá hoại, mà việc không thành, lại biến ta trở nên có hình dạng thế này, thật đáng cười thay!

Chúng quyến thuộc mắng rằng:

–Gã ngốc kia, chớ nói chuyện ngông cuồng! Ngươi đích thực không phải là ma vương ở cõi trời. Nay đã có vị vương ở nơi cung điện ấy rồi.

Ma Thất Niệm nghe nói vậy nên hết sức buồn phiền hối tiếc nên gào khóc thở than, rồi trở lại chỗ Đức Phật. Phật Đức Vương Minh dùng diệu lực thần thông tức thì hóa hiện cõi địa ngục A-tỳ, trong ấy có nhiều ngục tốt mang thỏi sắt nung đỏ rực lớn như núi Tudi, Đông tây tìm kiếm ma vương Thất Niệm hiện đang ở đâu. Có người hỏi: “Tìm để làm gì?”. Ngục tốt đáp: “Ta muốn đem thỏi sắt nung đỏ rất lớn này nhét vào miệng nó đấy!” Lại có người bảo: “Ma Thất Niệm đã làm vị Sa-môn được thoát khỏi cảnh địa ngục rồi!” Hoặc có ngục tốt vác ngọn núi lớn rực lửa nơi hai vai, chạy đôn chạy đáo tìm kiếm ma vương Thất Niệm hiện đang trốn ở đâu. Có người hỏi: “Tìm để làm gì?” Ngục tốt đáp: “Muốn đem ngọn núi rực lửa này thiêu đốt tan nát thân xác nó.” Có người cho biết: “Ma Thất Niệm ấy đã được xuất gia thoát khỏi cảnh khổ cõi địa ngục rồi.” Hoặc có ngục tốt mang trên vai mình đống dao sắt như núi, với những ngọn lửa dữ phụt lên, Đông, Tây tìm kiếm cho ra chỗ náu của ma vương Thất Niệm. Có người hỏi: “Tìm để làm gì?” Ngục tốt đáp: “Muốn dùng đao bén này để băm vằm thân xác nó đấy.” Một người bảo: “Ma Thất Niệm đã ở nơi pháp của Đức Phật Đức Minh Vương xuất gia làm Sa-môn, thoát khỏi cảnh khổ ở địa ngục.” Hoặc có ngục tốt vai mang cái chảo lớn đầy ắp nước đồng nung chảy, đông tây tìm kiếm ma vương Thất Niệm hiện đang ở đâu. Có kẻ hỏi: “Ông kiếm ma vương ấy để làm gì?” Ngục tốt đáp: “Tôi muốn đem nước đồng nung chảy này tộng vào miệng hắn đấy, thiêu đốt sạch ngũ tạng lục phủ của loài ma ác ấy.” Có người cho biết: “Ma Thất Niệm đó đã ở nơi pháp của Đức Phật Đức Minh Vương xuất gia nên thoát khỏi cảnh khổ cõi địa ngục rồi!” Hoặc có tên ngục tốt tay cầm chỉa ba bằng sắt cùng cung tên mâu kích đủ thứ khí giới, đôn đáo tìm kiếm và nói: “Ma Thất Niệm ở chốn nào?” Có người hỏi: “Tìm hắn để làm gì?” Ngục Tốt bảo: “Ta muốn dùng bao thứ khí giới này để chém chặt đâm bằm thân xác nó đấy!” Có người mách rằng: “ma vương Thất Niệm ấy đã được xuất gia nên thoát khỏi cảnh khổ cõi địa ngục rồi.”

Bấy giờ, ma Thất Niệm ở trong cảnh địa ngục được nghe đám ngục tốt buông lời giận dữ cùng mang theo các hình phạt dữ để trừng trị mình, nên quá đỗi kinh sợ, bèn suy nghĩ: “Nay đã tận mắt trông thấy không còn hồ nghi gì nữa! Ta rõ là suy thoái mất ngôi vị nơi Thiên cung, bị đưa vào cõi đại địa ngục! Đám ngục tốt ba bề bốn bên đều hô hoán tìm bắt ta. Ta nay biết nương cậy ở đâu? Chỉ có con đường xuất gia thì mới có thể nương tựa được thôi! Nếu Đức Phật tin tâm ta chí thành, sẽ ở nơi pháp Phật xuất gia theo đạo mong thoát được cảnh khổ nơi đại địa ngục này. Có thể đem ý này bày tỏ với Vương tử Đắc Niệm.” Suy nghĩ như vậy rồi, liền hướng về chỗ Vương tử Đắc Niệm bày tỏ hết sự việc và nói:

–Tôi muốn ở nơi Phật pháp xuất gia.

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Ông nếu có thể đem tâm thanh tịnh tin vui mà phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, sau đấy mới được ở nơi pháp xuất gia học đạo. Vì sao? Vì trong các pháp của Phật, không chỉ chính thức được cạo đầu mặc pháp phục mà được xem là xuất gia. Theo đúng nghĩa xuất gia là chỗ mình phải thực hành đúng pháp. Ông nên thực hành rồi mới được xem là xuất gia. Này Thất Niệm! Nên biết là ở trong Phật pháp, nếu có sự tham đắm về ngã và ngã sở cùng phân biệt thì chưa được gọi là xuất gia. Này Thất Niệm! Ông trước phải phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề sau đấy thì chánh quán. Do pháp nào nên gọi là cõi địa ngục? Thể tánh của địa ngục cần được suy tìm như thế, tất sẽ chẳng đạt được thể tánh cố định của địa ngục, cũng lại không thấy có pháp vào địa ngục cùng pháp chẳng vào cõi ấy.

Ma Thất Niệm lúc này liền phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, thường vui thích với sự chánh quán về hình tướng các pháp như vậy, chẳng bao lâu thì đạt được pháp Nhẫn vô sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vương tử Đắc Niệm đã hết lòng khai mở dẫn dắt ma Thất Niệm ấy xa lìa mọi nẻo ác, đạt đến quả địa vị bất thoái. Đức Phật Đức Vương Minh nhân đấy mà thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề cho Vương tử Đắc Niệm.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đó chính là tâm đích thực của bậc Bồ-tát. Các vị Bồ-tát ấy, do có được tâm đó, nên có thể tập hợp được vô lượng, vô biên pháp Phật.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả cho rằng Thất Niệm là một người nào xa lạ chăng? Chớ nên nghĩ thế! Đấy tức là vị Phật thời quá khứ hiệu là Câu-san-đề Phật, ở nơi Hiền kiếp này mà độ thoát chúng sinh xong và nhập Niết-bàn. Còn Vương tử Đắc Niệm thời đó, hiện nay là Đại Bồ-tát Kiên Ý, có mặt trong pháp hội này.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ, Vương tử Đắc Niệm đi đến chỗ cha mẹ mình, đứng một bên và thưa với cha mẹ rằng:

–Con nay muốn được ở nơi pháp của Đức Phật Đức Minh Vương xuất gia tu học.

Rồi đứng trước mặt cha mẹ, Vương tử Đắc Niệm đọc bài kệ:

“Con nơi pháp xuất gia
Cha mẹ chớ ngăn ngại
Xuất gia, Phật luôn khen
Là gốc mọi an lạc
Muốn được lạc Đế vương
Sinh Thiên cùng phú quý
Muốn đạt tuệ công đức
Nên nơi pháp xuất gia.
Cha mẹ nay tôn quý
Phải tu hành thí, giới
Lại tạo gốc công đức
Sẽ được là Pháp vương
Gốc hành thí, giới, nhẫn
Nay được là Nhân vương
Nếu muốn thiện tăng trưởng,
Nay nên hành xuất gia
Phước báo người thọ hết
Sau đọa vào nẻo ác
Dấy nghiệp tạo tội nặng
Chẳng thể gặp chư Phật.
Nếu người bỏ phước ấy
Xuất gia hành pháp thiện
Ắt lìa khỏi tám nạn
Sẽ được gặp chư Phật.
Thấy Phật liền tín thọ
Từ tính sinh cung kính
Tâm kính thuận hành đạo
Chóng thành tựu Bồ-đề.
Nếu muốn lìa các nạn
Nên xa tri thức ác
Theo con học xuất gia
Là gốc mọi an lạc.
Chư Thiên, Long, Quỷ thần
Cùng chư Càn-thát-bà
Không thể tạo chướng ngại
Khiến con chẳng xuất gia.
Nếu muốn tạo chướng ngại
Tự dấy nghiệp tội lỗi
Như Tượng vương sức lớn
Theo ý hủy hoại dữ.
Con nay cũng như thế
Đoạn trừ dây tham ái
Dứt xong nên xuất gia
Không ai có thể chuyển.
Cha mẹ luôn kính đức
Mặc nhiên thuận xuất gia.”
Liền hữu nhiễu rồi lui
Đến thẳng nơi chỗ Phật
Tại đây, xuất gia xong
Vô lượng chúng sinh nghe
Tâm đều sinh tin, vui
Theo Vương tử xuất gia
Vương tử Thiện tri thức
Vô lượng con Trưởng giả
Tin Phật pháp vi diệu
Đều cùng nhau xuất gia.
Vua nghe con xuất gia
Bỏ nước cùng tôn vị
Liền cùng tám mươi ức
Bảy mươi na-do-tha
Đám quyến thuộc như vậy
Thảy cùng xin xuất gia
Bấy giờ phu nhân vua
Nghe vua đã xuất gia
Cùng tám vạn thể nữ
Cũng xin được xuất gia
Đều theo Vương tử ấy
Mà phát tâm Đại thừa
Khen xuất gia như thế
Ai chẳng theo tu học.”

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả cho rằng phụ vương của Vương tử Đắc Niệm đã vun trồng căn lành của mình thời ấy là một người xa lạ chăng? Chớ nên nghĩ vậy. Đó chính là ta đấy. Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn đọc bài kệ:

Thời vua cùng đại thần
Thể nữ, đám quyến thuộc
Hai vạn một ngàn năm
Đều tịnh tu phạm hạnh
Mạng chung lúc Phật ấy
Nơi chúng miệng mỉm cười
Thọ ký cho nhà vua
Nói về hạnh nguyện gốc
Vua ấy tu phạm hạnh
Phát nguyện theo Đại thừa
Chung cuộc lìa mọi nạn
Luôn sinh chốn dứt nạn.
Vua ấy vô lượng kiếp
Cúng dường vô số Phật
Hiền kiếp thành Chánh giác
Hiệu là Thích-ca Văn.
Quyến thuộc của vua ấy
Cùng Tỳ-kheo Đắc Niệm
Chốn Phật Thích-ca Văn
Xuất gia làm đệ tử.
Đều tịnh tu phạm hạnh
Rốt lại được thân người.
Sau khi Phật diệt độ
Xá-lợi phân bố khắp
Bấy giờ ở mạt thế
Lúc Phật pháp suy diệt
Trở lại cùng được nghe.
Ta nay nêu giảng kinh
Trí tuệ Phật vô ngại
Nơi thuyết trí sáng tỏa
Nơi mọi chốn ngôn luận
Chung quy đều chân thật.
Nếu người nghe pháp này
Thâm tín, thân rung động
Ắt không khởi hồ nghi:
“Ta chưa được thọ ký”
Nếu người nơi mạt thế
Nơi pháp sâu đắc nhẫn
Bèn nên suy nghĩ rằng:
“Ta nghe Pháp vương thuyết
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Các thiện nam, tín nữ
Nên vui với pháp diệu
Ta đều được thọ ký.”
Lúc Phật nói pháp này
Đại chúng nơi hội lớn
Đủ trọn tám mươi ức
Bảy mươi na-do-tha
Đều đạt Nhẫn nhu thuận
Làm Pháp vương tử nhỏ.

 

Phẩm 24: CHÁNH KIẾN

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Chỗ gọi là chánh kiến nghĩa là thế nào? Này Tôn giả Xá-lợiphất! Chánh kiến ấy là quan sát các pháp không thấy có sự cao thấp. Lại nữa, người quan sát ấy cũng bình đẳng, không khác, vì thế mà gọi là chánh kiến. Thế nào gọi là đẳng? Nhãn tức là Niết-bàn không lìa nhãn mà có Niết-bàn. Nhãn cùng Niết-bàn là hai đồng đẳng. Vậy lấy cái gì mà gọi là đẳng? Chẳng phải nhãn–nhãn đẳng. Chẳng phải Niết-bàn, Niết-bàn đẳng. Vì sao? Vì trong nhãn không có nhãn, trong Niết-bàn không Niết-bàn; trong nhãn không có Niết-bàn, trong Niếtbàn không nhãn. Nhãn cùng Niết-bàn là không hai, không sai biệt. Do không còn sự phân biệt về hai nẻo nên gọi là Đẳng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tức là Niết-bàn. Chẳng lìa ý mà có Niết-bàn. Ý cùng Niết-bàn là hai đồng đẳng. Vậy lấy cái gì mà gọi là đẳng? Chẳng phải ý, ý đẳng; chẳng phải Niết-bàn, Niết-bàn đẳng. Vì sao? Vì trong ý không có ý, trong Niết-bàn không có Niết-bàn; trong ý không có Niết-bàn, trong Niết-bàn không có ý. Ý cùng Niết-bàn là không hai, không phân biệt. Nếu đã dứt phân biệt thì pháp tức là không, không tức đồng đẳng. Đó chính là Chánh kiến.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Do nhận thức đúng đắn ấy nên gọi là chánh kiến, tức là ở trong cái chánh đó không có tướng tà, nên gọi là chánh kiến. Lại nữa, cái nhận biết ấy là vô lượng là không thể nêu xưng, nên gọi là Chánh kiến.

Thế nào gọi là hình tướng hủy hoại Chánh kiến? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như đối với các kinh, có thái độ chống đối chẳng tin, không lãnh hội, không khen ngợi cũng chẳng theo sự chỉ dẫn mà thực hiện. Đó gọi là hủy hoại Chánh kiến.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Mang tính chất phân biệt các pháp thì đấy chính là sự hủy hoại sâu xa đối với chánh kiến. Vì sao? Vì dứt mọi phân biệt tức là đạt được chánh kiến. Như trong kinh nói, đệ tử của bậc Thánh không dấy niệm về hình tướng Địa, cũng lại không dấy niệm về Địa này, Địa kia. Ta ở trong Địa, Địa ở trong ta. Ngoài ra cũng không dấy niệm về các đại thủy, hỏa, phong. Chẳng dấy niệm về các cõi Phạm thế, Quang âm, Biến tịnh. Chẳng dấy niệm về các cõi Quảng quả, Vô cuống, Vô nhiệt, Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Chẳng dấy niệm về Niết-bàn cũng không dấy niệm về Niết-bàn đây, kia. Niết-bàn trong ta, ta trong Niết-bàn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lại về chánh kiến ấy không phải là sự nhận thức về tất cả. Vì sao? Vì mọi hiện hữu làm đối tượng cho nhận thức đều là tà kiến. Dứt mọi nhận thức về tất cả đó là Chánh kiến.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lại về Chánh kiến ấy là không thể ngôn thuyết. Vì sao? Vì hết thảy ngôn thuyết chỉ là âm thanh của không, do người đối với điều ấy mà sinh tham đắm.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lại như chỗ nhận thức về chánh kiến của Như Lai. Ở trong kiến ấy không hề có tà kiến. Vì sao? Vì tất cả ngôn thuyết đều an trụ trong Như. Như chẳng thể thuyết thì ngôn thuyết cũng thế.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả mọi tạo tác của thân cũng lại như vậy, tức là an trụ trong Như, không chánh không tà, dứt mọi phân biệt.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả mọi nghiệp đều an trụ trong

Như, chẳng phải chánh chẳng phải tà, không có sự phân biệt. Hết thảy mọi nghiệp báo cũng an trụ trong Như, như đã nêu bày về hình tướng của nghiệp. Do đó mà Như Lai luôn thuyết giảng về sự chân thật. Nói như thế này: Nếu có tạo nghiệp tất có nghiệp báo, nghiệp báo luôn theo nghiệp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như vậy thì trí ấy được gọi là trí Phân biệt năm đường. Trí năm đường ấy đều là chẳng phải trí. Tất cả năm đường ấy đều từ chẳng phải Trí sinh ra.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát nghe điều này chẳng nên kinh sợ khởi tâm thoái chuyển.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Có bốn thứ pháp, nếu người quên gần gũi thì chỉ tăng thêm ngu si, chẳng sinh trí tuệ. Những gì là bốn pháp ấy? Đó là tìm đọc, tu tập theo kinh điển của ngoại đạo, điều này sẽ làm tăng sự ngu si, trí tuệ chẳng sinh. Đó là thân cận tu tập các pháp tà kiến, điều này cũng làm tăng thêm sự ngu si, chẳng sinh trí tuệ. Đó là vui thích với sự “quyết đoán”, điều này cũng làm tăng ngu si, không sinh trí tuệ. Đó là đối với các pháp thâm diệu cùng hòa hợp với không, chẳng lãnh hội, chẳng đọc, cũng chẳng chánh quán, điều ấy cũng làm tăng ngu si chẳng sinh trí tuệ. Đấy là bốn pháp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Trái với bốn pháp vừa kể thì có thể làm phát sinh trí tuệ, phải nên tu tập. Thế nào là bốn pháp nên tu tập? Đấy là tu tập theo chánh kiến, nên dứt trừ tà kiến, đó là pháp thứ nhất, có khả năng phá bỏ ngu si làm phát sinh trí tuệ. Nếu có những nơi chốn đọc tụng kinh điển bên ngoài, thì người tu tịnh hạnh phải xa lánh lìa bỏ, chẳng nên dừng trú ở đấy, đó là pháp thứ hai có khả năng phá bỏ ngu si làm phát sinh trí tuệ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu ở các trú xứ có những người thuộc loại “đoạn sự” thì người tu tịnh hạnh chẳng nên cùng dừng lại với họ, nếu muốn ở lại thì chỉ nên nói bàn về chánh đạo, chớ bàn lẫn lộn về phi pháp, chỉ nên dứt bỏ việc ấy để có sự an ổn cùng hành, cũng là nhằm ngăn chận chế ngự những kẻ thích nói phi pháp, cũng là nhằm bảo vệ hòa hợp tăng khiến khỏi bị kẻ xấu phá hoại. Đó là pháp thứ ba có khả năng phá bỏ ngu si làm sinh trưởng trí tuệ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đối với các kinh pháp thâm diệu ấy phải nhất tâm lắng nghe lãnh hội, theo như sự chỉ dạy mà tu tập, vì mọi người mà diễn nói rộng khắp khiến chánh pháp trụ thế lâu dài. Đấy là pháp thứ tư có thể phá bỏ ngu si làm phát sinh trí tuệ. Bốn pháp nên tu tập là thế.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Pháp của hàng Bồ-tát ấy là thực hiện một cách sâu xa sự hổ thẹn để giữ giới luật thanh tịnh, không dấy các nghiệp. Bồ-tát nên sinh tâm vô sở úy, lập nguyện trang nghiêm, luôn nên tu tập hạnh bậc Đại nhân, khởi hạnh tinh tấn lớn lao dứt sạch mọi biếng trễ.

 

Phẩm 25: CA NGỢI SỰ CHỈ GIÁO

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Bồ-tát nếu vì sự ủng hộ chánh pháp thì phải thông đạt mọi biện luận chân chánh. Như đệ tử ta đã hỏi, Như Lai bấy giờ thật hết sức vui mừng. Vì sao? Vì Phật chủng đã luôn được nối tiếp. Vì thế mà hàng đệ tử Thanh văn các vị nên vì Bồ-tát diễn thuyết chánh pháp, chỉ giáo, đem lại lợi ích, vui vẻ, thì sẽ đạt được vô lượng, vô biên phước đức.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như đệ tử của ta, các vị Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, luôn nhớ nghĩ đến Phật pháp, và cũng luôn nhớ nghĩ đến Như Lai, vì sự cầu pháp nên trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp phải chịu bao nỗi khổ. Đem sự nhớ nghĩ như thế, vì chư Bồ-tát mà nêu giảng, cho đến một bài kệ. Lại suy nghĩ như vầy: Các vị Bồ-tát này, do được nghe pháp ấy cùng sự chỉ giáo đem lại lợi ích, vui thích, nên đã vun trồng căn lành, tu tập Phật pháp, dốc đạt quả vị Vô thượng Bồ-đề, nhằm dứt trừ bao khổ não trong cõi sinh tử từ vô thủy của vô lượng, vô biên chúng sinh, để vì họ mà thuyết pháp. Chỗ phước đức có được, giả sử mọi chúng sinh hữu hình hiện có trong khắp bốn cõi thiên hạ đều được làm thân người, ở nơi phước đức ấy, mỗi người giữ lấy một phần, góp lại cao như núi Tu-di, mà chỗ phước đức kia vẫn không hết.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như khắp bốn cõi thiên hạ, hoặc tiểu thiên trung thiên đại thiên thế giới với mọi chúng sinh hiện có, có hình sắc, không hình sắc, có tưởng không có tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, giả sử trong lúc đều được làm thân người, mỗi người dùng một đồ vật lớn như núi Tu-di, ở nơi phước đức ấy lấy bỏ vào đầy ắp rồi đem đi, cũng không lấy hết được!

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Những đệ tử của ta, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, vì chư Bồ-tát thuyết giảng chỉ một bài kệ bốn câu, cùng chỉ giáo đem lại lợi ích, vui thích, đã đạt được vô lượng, vô biên phước đức như thế.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các vị Bồ-tát ấy nếu biết người đó vì mình mà thuyết pháp, giúp đạt được lợi ích lớn nên có thể thành tựu được từng ấy pháp Phật, lại cũng có thể làm tăng trưởng trí tuệ của Phật. Như dùng đầu đội cùng vai mang vác tất cả đủ mọi thứ an lạc mà cung cấp, cho đến khi thành tựu quả vị Vô thượng Bồ-đề, thì trước hết vì họ thuyết pháp khiến thấy được bốn chân lý chắc chắn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các vị Bồ-tát ấy tuy có sự cung cấp lợi ích nhiều như thế, nhưng vẫn chưa báo hết ân kia. Vì sao? Vì chính nhờ người ấy mà Bồ-tát mới có thể nhận thức lãnh hội vô lượng, vô biên pháp Phật. Do đó nên biết là người vì chư Bồ-tát mà giảng thuyết chánh pháp thì ân ấy khó báo đáp hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Về quá khứ xa xưa, đã trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Phổ Thủ Như Lai với đủ các tôn hiệu Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thọ mạng bảy vạn năm. Chúng Thanh văn đệ tử của Đức Phật ấy có ba hội thuyết pháp lớn. Hội đầu tiên thuyết pháp có tám mươi na-do-tha người, đều được đều thành đạo. Hội giữa thuyết pháp có sáu mươi na-do-tha người; hội sau thuyết pháp có bốn mươi na-do-tha người, cũng đều đắc đạo cả.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ thế trọn đủ trong bốn ngàn năm. Thời gian chánh pháp sắp sửa suy diệt, có vị Tỳ-kheo tên là Diệu Trí, là bậc lợi căn, trí tuệ thông đạt, nghe nhiều biết rộng. Vua cõi Diêm-phù-đề thời ấy tên là Hoan Hỷ. Kinh thành nơi nhà vua ngự trị cũng có tên là Hoan hỷ. Thành này chiều dài đến mười hai do-tuần, rộng bảy do-tuần, dân chúng đông đúc với cuộc sống sung túc, an lạc, yên tĩnh. Trong thành ấy có vị Trưởng giả tên là Nhu Nhuyễn. Người con của vị Trưởng giả tên là Lợi Ý đã đến chỗ của Tỳ-kheo Diệu Trí thăm hỏi rồi ngồi một bên để nghe pháp. Tỳ-kheo Diệu Trí liền thuyết giảng về pháp của hàng Bồ-tát, khiến cho con vị Trưởng giả ấy nghe và lấy làm hoan hỷ, liền đem y quý báu giá trị ngàn vàng cúng dường cho vị Tỳ-kheo và thưa rằng:

–Pháp sư, lành thay! Đã thuyết giảng pháp vi diệu! Mong được Pháp sư chiếu cố đến nhà con thuyết giảng về pháp như vậy, sẽ khiến cho chúng con đạt được lợi ích lớn lao mà công việc pháp thí của Pháp sư cũng được quả phước to lớn. Từ nay trở đi, con xin dốc hết sức mình để cúng dường về y phục, đồ ăn uống, thuốc men và mọi thứ cần dùng trong đời sống, lại muốn được Pháp sư đồng ý cho làm học trò gần gũi. Con cũng xin dốc lòng cúng dường cung cấp.

Tỳ-kheo Diệu Trí bày tỏ sự chấp thuận và nói:

–Lành thay!

Lúc này, con vị Trưởng giả liền cung kính đảnh lễ ngang chân pháp sư, đi nhiễu quanh qua phía tay phải, xong rồi ra về. Sau đấy, Tỳ-kheo Diệu Trí thân hành đến nơi nhà vị Trưởng giả kia thuyết pháp giáo hóa Lợi Ý, cha mẹ cùng đám quyến thuộc, đều khiến họ dốc tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Người con vị Trưởng giả ấy, do phước đức như thế, cho nên trải qua vô lượng a-tăng-kỳ Kiếp chưa từng xa lìa Phật, luôn được nghe pháp và gặp các bậc Thiện tri thức.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả cho rằng Lợi Ý là một người xa lạ nào chăng? Chớ nên nghĩ như thế. Đó chính là ta đấy. Còn cha của Lợi Ý tức Trưởng giả Nhu Nhuyễn thời đó chính là Đức Phật Cadiếp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý Tôn giả cho rằng mẹ của Lợi Ý cùng đám quyến thuộc trong gia đình ấy, đối với đạo Vô thượng Bồđề có sự thoái chuyển chăng? Chớ nên nghĩ như vậy. Vì sao? Vì những người đó đã có được sự bất thoái đối với chánh pháp giải thoát vô thượng. Hiện tại đang ở nơi chỗ ta tịnh tu Phạm hạnh, ta đã vì họ mà thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo Diệu Trí liền ở thân ấy mà nhập Niết-bàn vô dư. Như bậc Tỳ-kheo đó không như người theo pháp Tiểu thừa nhập Niết-bàn. Chỉ vì nhân duyên phước đức thuyết pháp cho một người là Lợi Ý, con vị Trưởng giả, mà còn thành tựu được Phật đạo, huống hồ lại còn vì trưởng Giả Như Nhuyễn và đám quyến thuộc để thuyết pháp, thì phước đức tất nhiên là rất lớn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như vị Tỳ-kheo đó là không nhập Niết-bàn, không thấy tất cả mọi vật dụng cúng dường hiện có nơi thế gian này là có thể báo đáp hết được ân kia. Vì sao như thế? Ta theo Tỳ-kheo Diệu Trí, được nghe chánh pháp, nhờ đấy mà đạt được Pháp Phật hết sức lớn lao, thâm diệu, thanh tịnh. Vì vậy phải nên biết rằng: Nếu như người đã dốc vì Bồ-tát mà thuyết pháp, chỉ giáo đem lại lợi ích, vui vẻ, thì tất thu đạt được vô lượng, vô biên phước đức. Vì sao? Vì Bồ-tát phát tâm là nhầm tạo nên vô lượng công việc lợi ích.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn, lúc mới đầu dần dần tạo thành, nên rõ đều là chốn trú xứ của các ngọc báu Ma-ni, hữu giá hay vô giá. Những ngọc báu ấy đều từ nơi biển lớn sinh ra. Bồ-tát phát tâm cũng giống như thế. Lúc mới đầu dần dần dấy khởi, phải biết đó chính là chốn phát sinh của các thứ châu báu trí tuệ, hoặc thế gian cùng xuất thế gian, hữu lậu – vô lậu, hữu vi – vô vi, hoặc cấu hoặc tịnh, hết thảy đều là pháp khí.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn, lúc mới đầu dần dần tạo thành, nên biết đó chính là chốn trú xứ của đại thân chúng sinh, từ trong ấy sẽ sinh trưởng, nuôi dưỡng càng thêm đông đúc phồn thịnh. Bồ-tát phát tâm cũng giống như vậy. Lúc mới đầu dần dần sinh khởi, nên biết đấy chính là cõi, với vô lượng vố số đại thân trí tuệ, đại thân căn lành, của mọi chúng sinh làm chốn trú xứ. Tất cả đều nương nơi tâm ấy mà được tăng trưởng.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển cả, lúc mới bắt đầu dần dần tạo thành, nên biết đó chính là chốn trú xứ của các loại Đại Long vương. Các loại Đại Long vương ấy, chẳng vì chỗ rình rập bắt ăn thịt của chim Kim Sí, với đôi cánh luôn quạt gió dậy khắp cũng không có thể làm cho các Đại Long vương lo sợ. Những Long vương đó, xuất phát từ biển lớn, có thể dấy những đám mây to phủ kín tám vạn châu, tưới khắp các ao đầm lớn, không đâu là không đầy dẫy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát phát tâm cũng giống như thế. Lúc đầu dần dần sinh khởi, nên biết đấy chính là cõi mà Đại Bồ-tát Long làm nơi trú xứ lúc thành tựu Phật đạo. Đại Long vương ấy không gì chỗ rình rập bắt ăn thịt của chim Kim Sí. Bồ-tát an trụ nơi pháp Phật thâm diệu cũng như vậy, các thứ ma quân không thể xuất hiện. Đại Long vương ấy, không gì đôi cánh quạt gió dậy khắp của chim Kim sí mà buồn phiền. Những gì muốn làm cho buồn phiền đều tức thời bị tiêu diệt. Bồ-tát cũng như thế. Hết thảy các thứ quân ma đều không thể phá hoại hay gây buồn phiền được. Muốn dấy tâm buồn phiền liền đều bị tiêu diệt ngay, nên có thể hủy hoại mọi sự gây rối, trói buộc, tạo tác điều xấu của ma.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Long vương ấy, từ chốn biển lớn xuất phát, nơi bốn cõi thiên hạ cùng tám vạn châu, tuôn khắp mưa tuệ khiến mọi nơi chốn đều thấm đượm sung dũ; cỏ cây, rừng rậm, trăm thứ cây lương thực, cây thuốc đều được sinh trưởng. Cũng khiến cho hết thảy mọi loài chúng sinh dứt những lo nghĩ về đói khát. Làm công việc tuôn mưa xong thì trở về nơi cung của mình. Đại Bồ-tát Long cũng lại như thế. Xuất phát từ pháp Phật, có thể ở nơi thành ấp thôn xóm trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới mà tuôn xuống những trận mưa pháp lớn; có khả năng đoạn trừ vô số, vô lượng sự ham muốn về ái dục của chúng sinh trong ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn lúc bắt đầu hình thành, ở nơi tám vạn các châu trong bốn cõi thiên hạ với mọi dòng nước hiện có cùng những trận mưa lớn nhỏ đem nước các sông ngòi khe suối chảy dồn vào biển. Biển thảy đều có thể nhận lấy mà không tăng giảm, vì tính chất của biển như thế.

Mọi dòng nước đổ về biển đều lìa bỏ tên gốc của mình để cùng mang tên là nước biển. Những dòng nước ấy cũng đều mất đi vị gốc của mình để cùng có một vị mặn. Bồ-tát phát tâm cũng như thế. Từ lúc mới bắt đầu hình thành cho đến khi thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề đầy đủ pháp Phật, có thể dùng trí tuệ để dứt trừ những những mối nghi của chúng sinh, để thành tựu các căn lành, trí tuệ phước đức của các bậc Đại luận sư. Nếu chưa thành tựu thì Phật sẽ vì đấy mà dứt nghi, tất cả đều mất đi cái danh xưng gốc của mình để cùng mang một hiệu là đệ tử của Phật.

Như nước của biển lớn cùng một vị mặn, các đệ tử của ta cùng có được sự ly dục và một vị giải thoát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn lần lượt chuyển thành sâu rộng, thì nước nơi biển ấy cũng liền trở nên sâu, những người đi tìm châu báu không thể vào được. Do từ chỗ dần dần sâu cho đến khi sâu thăm thẳm nên thành biển cả.

Tâm của các vị Bồ-tát cũng như thế. Từ lúc mới bắt đầu phát khởi rồi dần dần chuyển thành sâu rộng cho đến khi không gì có thể so sánh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tâm của Bồ-tát ấy dần dần trở nên rộng lớn sâu xa, như thế là nhờ tu tập các pháp Ba-la-mật Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định. Chỗ gọi là Trí tuệ ba-la-mật ấy tức là sự thâm diệu không gì có thể sánh của Phật pháp vậy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nẻo hành hóa của Bồ-tát lúc mới chứng đắc một cách sâu xa về cõi chân lý giác ngộ, thì vô lượng chúng sinh cần tìm pháp bảo cũng không thể tiếp cận được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển cả sở dĩ được tạo thành đều vì lợi ích của hết thảy muôn loài trong thế gian. Bồ-tát phát tâm cũng giống như thế. Từ lúc bắt đầu cho đến mãi về sau đều vì lợi ích của tất cả chúng sinh nơi thế gian.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn mới bắt đầu lần lượt phát sinh các thứ châu báu mang đặc tính của từng châu. Bồ-tát phát tâm cũng giống như vậy. Lúc mới bắt đầu rồi dần đạt được các pháp Niệm xứ, Chánh cần, bốn Như ý túc, Căn, Lực, Giác, Đạo cùng các pháp Thiền định, Tam-muội, Bối xả, các pháp bảo mang đặc tính từng châu.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là điều hy hữu! Thế Tôn đã có thể vui thích thuyết giảng về những khía cạnh của biển cả với những thí dụ dùng để làm sáng tỏ sự phát tâm của Bồ-tát, phước đức thật vô lượng, vô biên!

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Tâm của Bồ-tát ấy, chẳng thể dùng thí dụ của biển lớn mà có thể lãnh hội trọn vẹn được. Vì sao? Vì tâm ấy đã dốc phát đại nguyện trang nghiêm. Như Lai nếu nói về phước đức của tâm ấy thì mãn cả một kiếp hay hơn nữa cũng không thể nói hết. Là vì các vị Bồ-tát phát tâm như thế là có thể thành tựu được những sự nghiệp lớn lao, khó ai hơn được, không gì có thể hủy hoại, thâm diệu tột bực, có khả năng đem lại cho mọi chúng sinh đầy đủ mọi sự an lạc, chuyển đổi cảnh khổ trong ba cõi, làm phát sinh trí tuệ lớn, khó lường được bến bờ, không một nơi chốn nào bị ngăn ngại đối với ánh sáng chiếu tỏa của trí tuệ lớn ấy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nên ghi nhớ lời quan trọng này: Tâm của các vị Bồ-tát, phát nguyện và thành tựu được những sự nghiệp lớn lao, điều ấy thật không thể nào nói hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như cả cõi tam thiên đại thiên thế giới lúc đầu dần dần sinh khởi, nên biết nơi ấy chính là chốn nương tựa của tất cả mọi loài chúng sinh hiện có. Bồ-tát lúc mới bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồ-đề cũng như vậy. Nên biết đấy chính là nẻo sáng nhờ đó mà vô lượng chúng sinh có được trí tuệ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như núi chúa Tu-di lúc đầu dần dần phát khởi, nên biết đó chính là chốn trú xứ của vô lượng chư Thiên. Nhờ vào núi chúa ấy mà chư Thiên cõi trời Đao-lợi đã đánh phá chúng A-tu-la. Bồ-tát lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ-đề cũng vậy. Tu tập, thành tựu đạo quả Phật-đà, chính là nơi nương tựa của vô lượng, vô số đệ tử. Như chư Thiên cõi trời Đao-lợi nhờ vào núi Tu-di mà có thể đánh thắng chúng A-tu-la, chúng sinh cũng như thế, nhờ vào sự giác ngộ của Như Lai mà có thể tiêu diệt các thứ ma.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như núi chúa Thiết vi, lúc đầu dần dần phát khởi, nên biết rằng nơi đó chính là chốn nhờ đấy mà chúng sinh ngăn chặn được gió Bát-đá-ha-bà-la khiến nó không thể hủy hoại được. Bồ-tát cũng vậy. Lúc mới bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồđề, lần lượt chuyển biến đạt đến sự kiên cố tột bực không gì hủy hoại được. Nên biết đấy chính là chỗ chúng sinh có thể gần gũi nhờ đó mà ngăn chận được các loài “gió ma” khiến chúng không thể phá hoại.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như núi chúa Tuyết sơn lúc đầu dần dần phát khởi, nên biết đó chính là nơi chốn nương tựa để phát sinh của bao thứ thảo mộc dược liệu. Bồ-tát cũng vậy, ngay từ lúc sơ sinh, đã là chỗ nói theo của vô số, vô lượng chúng sinh về các pháp dược, nhờ đấy mà có thể diệt trừ bao thứ bệnh tật phiền não.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như “Bảo Tính” lúc mới bắt đầu phát sinh, nên biết đó là chỗ tạo được những phần lợi ích của vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh. Bồ-tát cũng thế. Từ lúc mới bắt đầu dấy khởi “Bảo Tính Đại Trí”, nên biết rằng đấy chính là chốn mà vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh đã tạo được những phần lợi lạc.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như “Nhật Thiên tử”, từ lúc sắp thành hình, nên biết đấy chính là chốn đã chiếu tỏa khắp tám vạn các châu trong bốn cõi thiên hạ, nhờ đó mà mọi nơi được soi sáng nung ấm. Bồ-tát cũng thế! Từ lúc mới bắt đầu phát khởi, dần dần tăng trưởng, thành tựu trú xứ như Phật. Nên biết đó chính là chốn nhờ đấy mà chúng sinh trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới tạo được ánh sáng chánh pháp lớn lao. Cũng có thể làm khô cạn hết mọi tham ái giận dữ phiền não còn ứ đọng, cấu uế.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như ao A-nậu-đạt, lúc mới dần dần hình thành, nên biết đó chính là chốn mà Long vương A-nậu-đạt làm nơi trú xứ. Từ nơi bờ của ao ấy, nước sẽ chảy ra bốn dòng sông lớn, đem lại lợi ích cho tất cả mọi loài chúng sinh, dứt trừ mọi sự đói khát, tạo nên các thứ châu báu như vàng bạc rồi dần dà đổ vào biển cả. Pháp Đại thừa ấy từ lúc đầu dần dần phát khởi cũng giống như thế. Hết thảy hàng Bồ-tát nhờ vào cỗ xe lớn ấy mà có thể tu học các pháp Phật, đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đấy mà diễn nói khắp chốn về bốn sông pháp lớn: Đó là Nghĩa vô ngại, Pháp vô ngại, Ngôn từ vô ngại và Lạc thuyết vô ngại. Đó còn là ba cánh cửa giải thoát: Không, Vô tướng, Vô tác; tám pháp vị Bối xả, các Căn, Lực, Giác, Đạo. Những âm thanh như thế, vô lượng, vô số chúng sinh được nghe xong, liền đoạn trừ được phiền não, có thể khiến họ chứng đắc chân lý, hoàn toàn lìa bỏ mọi khổ não.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế là tâm của chư Bồ-tát, lúc đầu và dần dần phát khởi, có thể thành tựu những sự việc to tát khó ai hơn, không gì hủy hoại được, cũng không một sự việc gì có thể sánh bằng, đem lại lợi ích lớn lao cho vô lượng chúng sinh khiến họ được phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai tuy nêu bày thuyết giảng về việc ấy nhưng chẳng thể nói hết được. Vì vậy nên biết rằng, nếu có người có thể vì chư Bồ-tát mà thuyết giảng, chỉ dẫn đem lại lợi ích, vui vẻ, thì chỗ công đức đạt được phải nói là vô lượng, vô biên chẳng thể nêu tính.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta dùng Phật nhãn xem phước báo ấy thật không thấy đâu là biên vực bờ mé. Theo hướng của cỗ xe nào cũng đều đến được. Như người cúng dường Phật, tức chỗ vun trồng căn lành, cho đến khi Phật nhập Niết-bàn, chung cuộc thật chẳng đầy đủ hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Về đời quá khứ xa xưa, có một vị Bồtát tên là Lạc Pháp, sinh trưởng trong gia đình vương giả, mọi lời nói tốt đẹp nghe được đều biên chép để đọc tụng. Bấy giờ vị Vương tử ấy vì cầu pháp nên đã đi khắp các thôn ấp trong nước. Lúc này, có một người đang đứng bên cạnh hầm sâu, nói với Lạc Pháp rằng:

–Này Vương tử! Ta sẽ trao cho ông bài kệ do Phật nói.

Bồ-tát nghe vậy liền đi đến bờ hầm sâu, nói với người kia:

–Ôi thiện nam! Ông sẽ trao cho tôi bài kệ do Phật nói?

Người kia đáp:

–Chẳng thể trao mà không có gì cả!

Bồ-tát Lạc Pháp, thân mặc chiếc áo quý giá, áo này giá trị đến hai mươi ức Kim, lại có xâu chuỗi anh lạc bằng ngọc Ma-ni đeo nơi cổ tăng thêm vẻ đẹp. Ngọc báu này giá trị đến những bốn mưới ức Kim. Người ấy trong thấy vậy liền sinh tâm tham lam, bèn suy nghĩ: “Nếu vị Vương tử này chịu trao cho ta chiếc áo quý giá và xâu chuỗi bằng ngọc Ma-ni kia, thì sau đấy ta mới trao bài kệ Phật nói.”

Lúc này Vương tử nói với người kia rằng:

–Ông cần vật gì tôi sẽ xin trao cho, để ông trao cho tôi bài kệ do Phật nói.

Người ấy tâm tham lam càng tăng trưởng mãnh liệt, nên bảo

Bồ-tát:

–Như ông có thể trao cho tôi chiếc áo quý giá đang mặc kia cùng xâu chuỗi ngọc ấy, và sau khi được nghe bài kệ của Phật rồi thì ông hãy nhảy xuống hầm sâu này. Nếu chấp nhận như vậy thì trước sẽ lập thệ, sau đấy tôi mới vì ông mà nói bài kệ của Phật.

Vương tử đáp:

–Ôi Nhân giả! Ông muốn tôi phải lao xuống hầm sâu này là nhằm được lợi ích gì?

Người kia bảo:

–Tôi không có được gì cả! Chỉ sợ là ông nay đã trao chiếc áo quý giá ấy cùng xâu chuỗi ngọc kia, khi được nghe bài kệ rồi bèn sinh tâm hối tiếc, cậy vào thế lực hơn người mà trở lại đoạt lấy của tôi.

Vương tử đáp:

–Ông hãy nói bài kệ đi, tôi chung cuộc chẳng hề hối tiếc gì.

Người kia liền nói:

–Nếu chẳng chịu lập thệ, đủ biết là tâm ông chắc chắn sẽ hối tiếc!

Bồ-tát lại nói:

–Ông hãy nói bài kệ đi! Tôi sẽ tuân theo ý mà trao cho ông chiếc áo quý giá này cùng với xâu chuỗi ngọc, rồi cũng lao xuống hầm sâu đây ngay!

Người kia nghe Bồ-tát đã lập thệ như vậy bèn vì Bồ-tát mà đọc một bài kệ của Phật. Bấy giờ, Bồ-tát liền trao chiếc áo quý giá và xâu chuỗi bằng ngọc, lại phát nguyện: “Nếu tôi thành tâm bỏ chiếc áo quý giá cùng châu báu Ma-ni, vui vẻ không hối tiếc gì, thì do lời chân thật này, sẽ khiến cho tôi hôm nay từ trên cao rơi xuống sâu được an ổn, đứng thẳng, không bị thương tổn gì.”

Bày tỏ lời nguyện như vậy xong bèn tự lao xuống hầm sâu. Trong khoảnh khắc rơi chưa tới đất ấy, Bồ-tát liền được Tứ Thiên vương thông thả đến tiếp đưa đặt xuống đất.

Người kia bèn nói: “Thật ít có người như thế này! Bài kệ do Phật nói thật hết sức vi diệu sâu xa hàm chứa lợi ích lớn lao!” Người ấy cũng liền từ trên bờ cao nhảy xuống hầm sâu, và đến chỗ Bồ-tát thưa rằng:

–Vương tử thật là hy hữu! Đã có thể vì việc khó làm như vậy là nhằm cầu pháp gì?

Bồ-tát đáp:

–Tôi dốc lòng vì pháp ấy, tức sẽ đạt đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thành tựu Phật đạo xong, sẽ độ cho những ai chưa được độ, những kẻ chưa được giải thoát sẽ giúp họ giải thoát, những người chưa diệt trừ được khổ não sẽ giúp họ diệt trừ, những ai chưa có sự an lạc sẽ khiến họ đạt được an lạc!

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Người ấy nghe Bồ-tát nói xong bèn sinh tâm tin tưởng, bảo Bồ-tát:

–Xin được trả lại chiếc áo quý giá cùng xâu chuỗi ngọc. Vì sao? Vì ông mặc chiếc áo quý giá cùng đeo xâu chuỗi ngọc này thật là thích hợp!

Bồ-tát đáp:

–Thật chẳng phải vậy! Cũng như người đã nôn ra lẽ nào trở lại ăn những thứ vừa nôn sao?

Người ấy thưa rằng:

–Nếu không nhận trở lại các vật ấy thì xin nhận lấy sự hối hận của tôi. Về sau này khi đắc đạo quả Phật-đà sẽ xin thể hiện sự cứu độ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả cho rằng Vương tử Lạc Pháp thời ấy đã vì một bài kệ của Phật mà cởi chiếc áo quý giá cùng chuỗi ngọc Ma-ni để trao cho người đó, xong lại tự mình lao xuống hầm sâu kia, lẽ nào là một người xa lạ chăng? Chớ nên nghĩ thế! Đó chính là ta hôm nay đấy. Còn người kia, bấy giờ đã vì ta mà nói bày kệ, sau ở nơi chỗ ta mà có được tín tâm, lại nói rằng: “Khi ông thành Phật thì xin sẽ độ tôi”, người ấy lẽ nào là một người nào khác chăng? Đấy chính là Tỳ-kheo Hòa Già Lợi hiện nay.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Một thời ta từng cùng với các vị Tỳ-

kheo ở tại gần một khe nước sâu, thường đi kinh hành những chỗ vắng vẻ. Lúc này, Tỳ-kheo Hòa-già-lợi đang ở trên bờ cao. Ta bèn gọi lớn rằng:

–Hãy tự mình lao người xuống đi!

Do tin lời Phật nên Hòa-già-lợi liền lao người xuống khe sâu, nhưng không bị thương tổn gì, lại được sáu thứ thần thông.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả hãy xem diệu lực của sự vun trồng căn lành ấy. Người đó vì ta chỉ nói một bài kệ, lại tin lời ta nói nên đã tự thân quy y nay được giải thoát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Người ấy vốn từ gốc có tâm tham, nhờ vun trồng căn lành mà hãy còn dứt được hết các lậu, huống hồ là người đã tin nhận lời ta nói, thông đạt ánh sáng trí tuệ của Phật, thuyết pháp cho Bồ-tát, dù chỉ một bài kệ bốn câu, cùng chỉ dẫn đem lại lợi ích, vui vẻ? Ta chưa hề thấy phước đức ấy bao giờ hết được, trừ khi nhập Niết-bàn.

 

Phẩm 26: NÓI VỀ SỰ HỦY HOẠI TÂM BỒ-TÁT

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Nếu người vì các vị Bồ-tát thuyết giảng dù chỉ một bài kệ bốn câu, cùng chỉ dẫn đem lại lợi ích vui vẻ, hỗ trợ cho sự thành tựu Phật đạo của Bồ-tát, thì được từng ấy phước đức. Nếu lại có người, vì muốn phá hoại tâm của Bồ-tát, nên cố tạo ra những ngăn ngại, thì sẽ cho rằng người đó đã gây nên tội lỗi như thế nào? Vì sao? Vì đối với những kẻ đã và sẽ làm cái việc phá hoại quấy nhiễu kia, được nghe nói về tội lỗi như vậy thì sẽ tự thân hối cải.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Nếu người tạo ra những ngăn ngại để phá hoại tâm của Bồ-tát thì sẽ đắc vô biên tội. Như người muốn phá hoại ngọc báu vô giá thì người ấy ắt bị mất đi vô lượng tài lợi. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế thì, nếu người phá hoại, quấy nhiễu tâm của Bồ-tát thì chính là đã hủy diệt vô lượng Pháp bảo.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như việc trồng các cây dược liệu, nếu có người chặt phá đi khiến các cây ấy không tăng trưởng, thì người đó chính là đã hủy hoại các pháp trị liệu bệnh cho vô số chúng sinh, khiến nhiều chúng sinh phải bị khốn khổ vì bệnh tật. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như vậy là, nếu người muốn phá hoại tâm của Bồ-tát ấy, tức tâm an lạc lớn, tâm đại trí dược có khả năng diệt trừ bao nỗi khổ não của vô số chúng sinh, thì phải biết rằng, người ấy chính là đã khiến cho vô lượng, vô số chúng sinh bị các thứ tham, sân, si mạn, keo kiệt, ganh ghét, dua nịnh, không biết hổ thẹn, cùng các thứ bệnh phiền não khác xâm hại; cũng là khiến cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh bị mất đi cõi trú xứ Niết-bàn an lạc.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu có người hủy hoại ao A-nậu-đạt và sát hại đại Long vương, thì nên biết rằng người ấy chính là đã hủy diệt, làm mất đi loại nước gồm tám thứ công đức có khả năng dứt trừ đói khát cho hết thảy các loài chúng sinh. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế là, nếu người phá hoại quấy nhiễu tâm của Bồ-tát ấy, thì chính là đã hủy hoại thứ nước Bát Thánh Đạo có khả năng diệt trừ bao nỗi ham muốn ái dục của vô lượng chúng sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như có người hủy hoại cung điện mặt trời, thì người ấy chính là đã hủy hoại ánh sáng của chúng sinh trong bốn cõi thiên hạ. Như vậy là, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu người phá hoại quấy nhiễu tâm của Bồ-tát ấy, thì nên biết rằng người đó chính là đã hủy diệt ánh sáng chánh pháp lớn lao của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như người phá hoại tất cả “Bảo Tính” thì nên biết rằng người đó chính là đã hủy hoại vô lượng châu báu của chúng sinh. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế là, nếu người phá hoại, quấy nhiễu tâm Bồ-tát ấy, thì nên biết rằng chính là đã hủy hoại vô lượng a-tăng-kỳ các phần của Pháp bảo. Cũng xem là đã hủy diệt các kinh như thế khiến chúng sinh không được nghe thấy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như từ “Bảo Tính” phát sinh ra vô lượng vật báu cung cấp đầy đủ cho chúng sinh. Như thế là, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tâm của chư Bồ-tát chính là “Pháp Bảo–Tánh” Từ pháp bảo ấy sinh ra các pháp Phật với diệu lực của trí tuệ thần thông chẳng thể nghĩ bàn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì thế mà nên biết rằng, kẻ phá hoại tâm của Bồ-tát ấy, ắt đắc vô lượng, vô biên tội sâu dày.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như người với tâm ác đã làm cho thân Phật chảy máu, nếu lại có người phá giới, chẳng tin, hủy hoại, lìa bỏ tâm Bồ-tát ấy, thì hai tội ấy ngang nhau.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đối với kẻ tâm ác làm thân Phật chảy máu, ta đã nói đầy đủ về năm tội vô gián. Nếu người hủy hoại tâm Bồ-tát thì tội này còn hơn cả trường hợp trước. Vì sao? Vì dấy năm tội vô gián hãy còn chẳng thể hủy hoại được pháp của một vị Phật. Còn như người đã hủy hoại tâm Bồ-tát thì chính là đã đoạn diệt hết thảy các pháp Phật.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như giết hại trâu bò thì chính là đã hủy hoại các thứ sữa, lạc và tô. Như thế là:

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu người phá hoại tâm của Bồ-tát ấy thì đấy chính là sự đoạn diệt hết thảy trí tuệ Phật.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì thế, nếu người phá giới, bất tín, mắng nhiếc, dùng lời lẽ phỉ báng, hủy hoại tâm của Bồ-tát, thì nên biết rằng tội đó còn nặng hơn năm tội vô gián.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Về tội vô gián ấy, như khiến cho bốn cõi thiên hạ đều đầy cả các bậc A-la-hán. Nếu có một người đã tước đoạt hết thảy sinh mạng của các vị đó, thì theo ý của Tôn giả, người ấy đã gây ra tội lỗi nhiều chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều!

Phật Bảo:

–Ta nay nói rõ với Tôn giả: Nếu người buông lời phỉ báng, hủy hoại, quấy nhiễu Bồ-tát khiến sự tín thọ bị thay đổi, lìa bỏ tâm ấy, làm mất đi trí tuệ của Phật, thì so với tội trước, trăm phần ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, tội trước chưa bằng một, cho đến dùng thí dụ cũng không thể nêu hết được. Vì sao? Vì ở trường hợp trước, tuy tước đoạt sinh mạng của từng ấy A-la-hán, nhưng mà không thể ngăn trở các pháp các hạnh của chư Phật như mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Trí vô ngại, mười tám pháp Bất cộng, hạnh đại Từ, đại Bi, hạnh bất hư; không ngăn ngại các tướng hảo của Như Lai như Tượng Vương Hồi Quán, Sư Tử Phấn Tấn, Vô Kiến Đỉnh Tướng; không hề ngăn trở việc Như Lai thổi vang lên đầy đủ trăm ngàn thứ tiếng loa chánh pháp; cũng không phương hại đến việc chuyển bánh xe chánh pháp vô thượng; không ngăn trở được thần lực tự tại của bậc Thánh Chủ; cũng lại không ngăn trở trí tuệ có khả năng thông tỏ các thứ căn trí lợi, độn cùng đủ thứ đủ loại dục lạc khác biệt của tất cả chúng sinh.

–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu được các pháp Đại thừa Kiên thệ trang nghiêm. Nếu có người đến phá hoại, quấy nhiễu tâm ấy khiến cho Bồ-tát thoái chuyển, lìa bỏ, thì người đó chính là đã ngăn trở mười thứ lực của Phật, cho đến thứ trí tuệ có khả năng thông tỏ vô số tham dục của chúng sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như khắp bốn cõi thiên hạ cũng như cả tam thiên đại thiên thế giới đều có đầy đủ các vị A-la-hán, nhiều như rừng rậm hay rừng tre, lau, đồng lúa, mè… nếu có một người đã khởi tâm tước đoạt hết sinh mạng của các vị A-la-hán ấy, thì theo ý Tôn giả, người ấy đắc tội lỗi nhiều chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều!

Phật bảo:

–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu lại có người, mang tâm giận dữ, khinh mạn, phá giới, bất tín, hủy hoại làm tán loạn tâm của Bồ-tát, thì người đó đắc tội, chỉ có Phật mới có thể biết hết được. Vì sao? Vì người ấy đã hủy hoại, làm tán loạn tâm của Bồ-tát, tức chính là đã hủy diệt hết thảy pháp Phật cùng đoạn mọi Phật chủng. Vì sao? Vì nếu không có Bồ-tát từ thời xa xưa đã dốc phát tâm Vô thượng Bồđề, thì làm sao có được ánh sáng trí tuệ cùng diệu lực tự tại của Phật như vậy xuất hiện ở thế gian?

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì thế mà tâm của Bồ-tát ấy là tâm vô thượng, tâm vĩ đại, tâm sâu xa. Cho nên, đối với bốn chúng đệ tử

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng các bộ chúng Thiên Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lưu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, Nhân phi nhân hiện đang có ở đây, cũng như hết thảy thế gian đều nên kính lễ. Vì sao? Vì, nếu người có được tâm ấy thì nên biết là, về đời vị lai sẽ là Bậc Thế Tôn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo ý Tôn giả thì sao? Như Lai ngợi khen tâm của Bồ-tát ấy, thì trong sự tán dương đó là nhằm để phân biệt cùng hạng với sự tôn xưng của chúng sinh, như gia thế Sát-lợi, gia thế Bà-la-môn, gia thế lớn Cư sĩ, Chuyển luân vương, Tứ Thiên vương thiên, Thích Đề-hoàn Nhân; hoặc như Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất-đà thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên; hoặc như Phạm thiên, Đại phạm vương… với những tôn hiệu như thế chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Chẳng phải thế, bạch Thế Tôn! Vì sao? Vì Thế Tôn chỉ nói về tâm ấy là thanh tịnh là vĩ đại là sâu xa bậc nhất như vậy.

Đức Phật bảo:

–Vậy theo ý Tôn giả thế nào, như ta đã tán dương tâm ấy như thế, thì trong sự khen ngợi đó, vả chăng là nhằm nói đến các vị đại lực sĩ như Na-la-diên, hoặc trẻ hoặc già, hoặc giàu sang, nghèo hèn, cao thấp đủ hạng người chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Chẳng phải.

Đức Phật bảo:

–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả nhận thấy tâm ấy xuất hiện ở bất cứ nơi chốn nào, hoặc nơi người trẻ, người già, hoặc nơi kẻ giàu sang, nghèo khổ, có sức mạnh, không sức mạnh… thì các vị đều nên kính lễ, nhớ nghĩ, giữ gìn, trợ giúp để những người ấy thành tựu được tâm nguyện của họ. Đấy là sự báo ân không gì hơn của bậc Thanh văn, đã dùng pháp thí để giáo hóa chư Bồ-tát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu các vị Thanh văn có thể làm được như vậy thì đó chính là sự cúng dường Như Lai đầy đủ nhất. Đấy còn gọi là có thể chỉ dẫn khiến các vị Bồ-tát, đối với tâm Vô thượng Bồ-đề, đã không thoái chuyển.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Bồ-tát có ba thứ tâm:

  1. Tâm mới bắt đầu phát khởi.
  2. Tâm chuyển biến.
  3. Tâm thành tựu.

Trong ba tâm ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi chủ yếu là tâm nào?

Đức Phật nói:

–Đúng thế! Đúng thế! Như Tôn giả vừa nêu, Bồ-tát có ba thứ tâm: Tâm ban đầu, tâm chuyển biến và tâm đã thành tựu.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Trong các tâm ấy, Như Lai chủ yếu tán dương tâm ban đầu và tâm chuyển biến, nhờ đấy mà tâm nguyện được thành tựu. Vì sao? Vì, nếu như có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, không hề thoái chuyển vào hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, do không thoái chuyển ấy nên dần dần sẽ thành tựu được đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Vì thế, Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, phải nên quan sát tâm ấy là tướng không.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Những gì nơi tâm ấy được gọi là tướng không?

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tâm gọi là ý thức tức là thức ấm, là ý nhập, ý giới tâm, cho nên tướng nó là không. Tâm không có hình tướng của tâm, cũng không có kẻ tạo nên. Vì sao? Vì nếu có người tạo nên thì chính là có sự tạo tác từ kẻ khác. Nhưng nếu người ấy nhận lấy như tâm tự tạo thì chính là tự tạo, tự nhận lấy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tâm ấy hình tướng nó là không, không có kẻ tạo ra, không có kẻ khiến tạo ra. Như không có người tạo ra thì tất không tướng tạo tác. Nếu người hý luận cho là tâm ấy có hình tướng, tức là đã chống lại các pháp vô ngại, không, vô tướng. Nếu đã chống lại các pháp Vô ngại, không, vô tướng, thì người đó cũng chống lại Như Lai. Chống lại Như Lai, nên biết rằng kẻ ấy ắt bị rơi rớt vào chốn hầm hố sâu tức là đọa vào các nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cùng mang nặng những kiến chấp về ấm giới, nhập, kiến chấp về ngã, về nhân, về chúng sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nên ghi nhận lời quan trọng này: Kiến chấp về Phật, Pháp, Tăng, kiến chấp về Niết-bàn, đều là Hữu sở đắc kiến. Những thứ kiến chấp ấy là gốc của các nẻo ác. Chúng sinh do tham vướng các thứ kiến chấp đó nên bị rơi rớt vào các hầm hố sâu, không chỉ riêng mình mà còn bao kẻ khác cũng bị rơi vào đấy. Hầm hố sâu kia chính là năm nẻo sinh tử vậy.

Lúc bấy giờ trong chúng hội có một người ăn xin tên là Tuyển Trạch, từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Con nay không muốn bị đọa vào chốn hầm hố sâu ấy, cũng không dám muốn cùng với Như Lai tranh biện. Con từ trước tới giờ sinh tâm như vầy: Muốn đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì phải tự mình sinh niệm trở lại. Con là người nghèo nàn vốn chịu nhiều khổ não, việc mưu sinh khó khăn. Các hàng gia thế lớn như Sát-lợi, Bà-la-môn, Cư sĩ, hãy còn chẳng có thể học hỏi đạo Vô thượng Bồ-đề, huống hồ là con, là kẻ ăn xin nghèo hèn hết mực. Nay theo Phật, được nghe Phật khen ngợi về tâm mới phát của Bồ-tát, trong ấy Đức Phật không nói về giòng họ lớn Sát-lợi, về các gia thế lớn Bà-la-môn, Cư sĩ cùng các bậc Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên; chẳng nói về Phạm thế, Phạm Thiên vương; lại cũng không nói về những hạng giàu nghèo, sang hèn. Con kể từ hôm nay quyết định phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng tự coi thường thân mạng mình.

Đức Phật nói:

–Lành thay! Này Tuyển Trạch! Ông từ hôm nay mới thực sự là theo học Như Lai.

Khi ấy, Tuyển Trạch liền ở trước Đức Phật cung kính đọc bài kệ:

Con chẳng mong khen ngợi
Ngợi khen chẳng thượng diệu
Muốn cầu ý tối thắng
Trí vô thượng của Phật.
Phật, thế gian tôn quý
Thế gian không gì hơn
Nơi chúng sinh khổ não
Nên dốc tâm quy mạng.
Phật chứng pháp vô lậu
Vi diệu, vô lượng tịnh
Thương chúng sinh nên dạy
Độ thoát khổ sinh tử.
Thần lực Phật vô ngại
Hào quang cũng vô biên
Đạt trí tuệ không bờ
Phước đức thật vòi vọi.
Thế Tôn, bản tâm con
Cũng nhằm đạt quả Phật
Tâm trở lại thoái chuyển
Ai giúp kẻ nghèo hèn?
Các bậc Vương, Cư sĩ
Thích Phạm các tôn thần
Uy đức lớn trời, người
Hãy còn chẳng đạt được.
Huống con kẻ nghèo hèn
Ăn xin để nuôi mạng
Trí Phật, đời khó sánh
Làm sao mà có được?
Thế Tôn biết tâm con
Gọi Xá-lợi-phất nói:
“Ta nói tâm phát ấy
Không giàu nghèo sang hèn
Cũng chẳng nói Sát-lợi
Bà-la-môn, Cư sĩ
Chư Thiên, Long, Quỷ thần
Chỉ nói phát tâm tịnh.”
Nay được nghe Phật dạy
Tâm con thêm sức lớn
Ắt sẽ được thành Phật
Nếu phải phát tâm lớn
Trời đất có chuyển đổi
Tu-di thành bụi tre
Hư không hãy còn đổi
Tâm con chẳng thể chuyển.
Giả như mọi chúng sinh
Hết thảy đều là ma
Ào đến để quấy phá
Tâm con định, không đổi.
Nếu có người trước con
Mà nói lời thế này:
“Trí Phật rất khó được
Ai cho kẻ nghèo hèn?”
Con nghe thế xin thưa:
“Ngươi chính kẻ nghèo hèn
Ngươi không có “tín tài”
Ta sẽ được làm Phật
Chư Phật vốn không tánh
Cũng không có “định chủng”
Chỉ nhất tâm hồi hướng
Nơi Đại thừa vô thượng
Đó chính tánh chư Phật
Cũng là chủng Như Lai.”
Nhất tâm cầu Phật đạo
Cúng dường nên quả Phật
Con chẳng tiếc thân mạng
Cũng không tham thế lạc
Chỉ theo đạo Vô thượng
Độ hết thảy chúng sinh
Nay ở trước Pháp Vương
Xin bày lời chân thật
Nếu có gì sai lầm
Xin Phật thương xót dạy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lại:

Ông phát tâm Vô thượng
Theo nẻo Vô thượng thừa
Trong ấy chẳng sai lầm
Sẽ thành Phật, Pháp vương.
Tuyển Trạch nghe Phật nói
Tâm được vô lượng vui
Do được tâm thanh tịnh
Bay cao bảy Đa-la.
Thế Tôn liền mỉm cười
Miệng phóng quang năm sắc
Chiếu sáng khắp đất trời
Lại về nhập đỉnh đầu.
A-nan liền chắp tay
Hỏi bậc Lưỡng Túc Tôn:
“Bậc Đại Hùng trí diệu
Nay do từ nhân nào
Trong thành Vương xá này
Kẻ ăn xin hạ tiện
Trụ ở nơi không trung
Chắp tay kính lễ Phật.
Nay chư Thiên, Long vương
Dạ-xoa, nhân phi nhân
Đều nhất tâm chắp tay
Kính lễ kẻ hèn ấy.
Con nay hỏi Thế Tôn
Vì sao cười, phóng quang
Ai tu hành Phật đạo
Mà muốn được thọ ký?
Ai sẽ trụ Phật đạo
Mà phát tâm Vô thượng
Sẽ chứng tuệ tối thắng
Độ mọi già, bệnh, chết?
Ai sẽ ngồi đạo tràng
Trừ diệt chúng quân ma
Đắc Phật đạo Vô thượng
Chuyển pháp luân tối diệu?
Ai sẽ đạt trí lớn
Được vô lượng thần thông
Đạt trí tuệ vô ngại
Biết mọi căn chúng sinh?
Ai sẽ được Phạm âm
Ngôn thuyết thảy diệu kỳ
Do trí chân vô ngại
Thuyết giảng mọi chân lý?
Ai chứng đạo Vô thượng
Luôn trụ định vi diệu
Thông tỏ tâm ba cõi
Từ bi nên thuyết pháp?
Ai sẽ lúc nói pháp
Trời người đều hoan hỷ
Sẽ đạt hạnh Bất hư
Pháp Tượng Vương Hồi Quán?
Ai dẫn dắt đại chúng
Nghiêm tịnh thế giới Phật
Lìa hết thảy các nạn
Rộng mở nẻo tịch diệt?
Thế Tôn uy đức lớn
Con xin hỏi việc ấy
Do duyên gì mỉm cười
Mong đáp, chúng hoan hỷ?

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

–Như Lai nhân vì người ăn xin Tuyển Trạch ấy nên đã mỉm cười và phóng hào quang lớn. Tức thì trong chúng hội, Thiên, Long, Dạ-xoa, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân phi nhân có đến tám mươi ức na-do-tha chúng, thảy đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Ta vì các vị ấy mà thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc này Đức Thế Tôn, muốn làm sáng tỏ ý nghĩa trên nên nói bài kệ:

Như Lai lúc nói nhân duyên ấy
Đủ tám mươi ức na-do-tha
Chúng sinh thảy phát tâm Vô thượng
Tất cả đều sẽ thành Phật đạo.
Nay, Tuyển Trạch, là kẻ trí sâu
Nơi không trung chắp tay hoan hỷ
Cung kính ca ngợi cúng dường ta
Tự nguyện đạt giác ngộ như Phật.
Người ấy do phước đức nhân duyên
Chung cuộc không đọa các nẻo ác
Mọi đời thường lìa chốn tám nạn
Kiếp kiếp luôn được thấy chư Phật
Đã được gặp chư Phật như thế
Nên đạt được Vô thượng Bồ-đề
Lọng báu, cờ phướn cùng hoa hương
Đủ mọi thứ ấy cúng dường Phật
Nhiều đời chư Phật còn tu tập
Y phục thượng diệu cùng các món
Giường chiếu, đồ nằm và thuốc men
Mọi thứ đầy đủ cúng dường Phật
Sẽ lần lượt được gặp Di-lặc
Quyết cầu Phật nên thêm cung kính
Đem bảy mươi ức na-do-tha
Châu báu Ma-ni để cúng dường
Mỗi mỗi ngọc Ma-ni tỏa sáng
Chiếu khắp cả tám mươi do-tuần
Mọi sức sáng châu báu hợp lại
Tỏa chiếu được khắp mọi thế giới
Lại dùng bảy báu xây tháp miếu
Cả bảy mươi ức na-do-tha
Mỗi tháp ấy cao rộng mười dặm
Dùng các báu diệu để trang nghiêm
Y phục, giường phản cùng chăn đệm
Cũng bảy mươi ức na-do-tha
Thảy đều trang nghiêm đủ như thế
Dâng Phật Di-lặc và chúng Tăng.
Ba tháng an cư luôn cúng dường
Trải trăm năm chẳng hề mỏi mệt
Người ấy sau này sẽ xuất gia
Trong pháp Di-lặc tu phạm hạnh
Tâm luôn cung kính cùng yêu thích
Cung kính cúng dường Phật Di-lặc
Lần lượt học hỏi hạnh Bồ-tát
Tất thấy chư Phật trong Hiền kiếp
Từ đó lại được gặp chư Phật
Số lượng hơn cả cát sông Hằng
Thấy rồi, tâm được thêm thanh tịnh
Càng thêm cúng dường, tu Phật đạo
Người ấy tâm tịnh, đủ phước báo
Ta nay lược nói, chẳng thể hết.
Quả ấy vô lượng, khó nêu, dụ
Ai được nghe nói đều cầu Phật.
Người ấy qua lại trong sinh tử
Hằng hà sa kiếp cầu Phật đạo
Đời cuối sẽ chứng Trí vô thượng
Thành Phật hiệu là Tập Kiên Thật
Thọ mạng tính đến một ngàn kiếp
Thế giới thời Phật rất thanh tịnh
Cõi Diêm-phù-đề cũng trang nghiêm
Như cung Đao-lợi đỉnh Tu-di.
Thế Tôn Tập Kiên Thật
Chúng hội lớn Thanh văn
Hơn ức na-do-tha
Như hằng hà sa số
Trong mỗi mỗi hội lớn
Có hằng hà sa người
Đều đắc A-la-hán
Lực thần thông tự tại
Thảy thông đạt ba tạng
Mọi hỏi đáp đều tường
Như Xá-lợi-phất đây
Đệ nhất trong trí tuệ.
Có hội lớn Bồ-tát
Số lượng còn nhiều hơn
Đại Bồ-tát Phật ấy
Cũng tên A-dật-đa
Các vị Bồ-tát đó
Đắc pháp Nhẫn vô sinh
Thân chuyển sinh các nước
Theo chốn đều thành Phật
Trong mỗi mỗi hội lớn
Bồ-tát hằng sa số
Phật ấy cũng thọ ký
Sẽ thành đạo Vô thượng.
Sau khi Phật diệt độ
Pháp trụ trọn một kiếp
Xá-lợi được chia khắp
Cũng như ta diệt độ
Xá-lợi Tập Kiên Thật
Trời người đều cúng dường
Theo chỗ thích mọi loài
Hiện các lực thần thông
Tháp miếu xá-lợi đó
Đều xây bằng bảy báu
Lan can cùng cột báu
Cờ lọng và hoa hương
Đem những báu diệu ấy
Trang nghiêm tháp Như Lai
Dùng các tháp miếu đó
Nghiêm tịnh cõi Diêm-phù
Nếu người mang các hoa
Cúng dường nơi tháp Phật
Liền biến thành lọng hoa
Có thần lực như vậy
Thế Tôn Tập Kiên Thật
Hình tượng nơi các tháp
Theo chỗ thích chúng sinh
Mỉm cười phóng hào quang
Hào quang lớn tỏa chiếu
Trở về nhập chốn gốc
Như nhập nơi đỉnh tướng
Tự biết Phật thọ ký
Như hào quang vào miệng
Biết nhận Duyên giác thừa
Hào quang vào ngã rốn
Tự biết nhận Thanh văn
Hình tượng Thế Tôn ấy
Có lực thần thông đó
Mãn một kiếp như thế
Hết kiếp mới chấm dứt
Pháp hữu vi vô thường
Nên phải càng tinh tấn.

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là điều ít có! Người ăn xin Tuyển Trạch là hạng hạ tiện mà tâm đã thành tựu được các pháp thượng diệu tôn quý. Như thế thì có người trí nào dám coi thường hàng hạ tiện?

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Như Tôn giả đã nói, không có người trí nào dám khinh thường con người hạ tiện ấy, chỉ trừ hạng phàm phu không hiểu biết, không có trí tuệ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chính từ ý nghĩa ấy nên trong kinh ta đã nói, kẻ trí không nên khinh mạn trong việc đánh giá ngừoi khác. Khinh mạn trong việc đánh giá người khác chính là tự làm thương tổn mình.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo ý Tôn giả cho rằng, người ăn xin tên Tuyển Trạch này, xưa nay hầu như đã được Thiên, Long, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân bày tỏ sự kính lễ chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không phải thế! Vì sao? Vì người bần tiện này chưa được Đức Như Lai thọ ký, nên chưa được mọi người kính lễ. Nay, do được Đức Thế Tôn thọ ký rồi nên được hết thảy Trời, Người, A-tu-la… đều cùng kính lễ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đó là chư Phật ở đời vị lai đạt được tri kiến vô ngại không cùng quả vị với hàng Thanh văn, Bích-chiphật. Vì vậy mà, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các hàng đệ tử của ta, tin tưởng thọ nhận lời Phật nói, nếu vì chúng sinh mà diễn thuyết chánh pháp, thì vào những lúc ấy trước hết phải nên tán dương công đức cùng thần lực của Phật. Chúng sinh được nghe đều ấy, thì có thể phát tâm cầu trí tuệ chư Phật, do đó có sự phát tâm đó mà Phật chủng luôn được nối tiếp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả chúng sinh trong thế gian, ít có người vì người khác mà mong cầu lợi lạc, đem lại lợi lạc cho mình và cho người, điều ấy là hết sức khó.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vả như việc vị tha cầu lợi thì trong chúng sinh, những người có khả năng đem lại lợi lạc cho chính mình, những người đó hãy còn khó khăn. Vì sao? Vì hạng phàm phu hiện nay, muốn cầu lợi ích cho chính mình thì ngược lại, lại tự làm thương tổn mình. Vì sao? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta chẳng thấy có người nào nếu xâm phạm tác hại cho kẻ khác mà chính mình lại không bị suy kém sầu khổ. Do đó, nên biết rằng, đứng vững trong việc tạo nhân đem lại lợi ích cho chính mình đã là điều khó rồi, lại ở trong ấy vừa tự lợi, lợi tha thì thật là hết sức khó khăn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu như người hủy hoại kẻ phát tâm cầu pháp Đại thừa thì nên biết rằng người đó chẳng thể tự lợi cũng như lợi tha. Người ấy cũng không thể gọi là người tu tập đạo pháp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Kẻ ngu si ấy đã hành động theo tà đạo, và đã đánh mất đi phần tự lợi cùng lợi tha. Chính do nhân duyên đó nên người ấy sẽ gặp phải tám pháp suy não. Thế nào là tám pháp? Đó là:

  1. Mất đi chỗ yêu mến quý trọng của bạn thân, gia đình, quyến thuộc.
  2. Cõi nước suy yếu, loạn lạc.
  3. Tài sản ngày một hao tốn.
  4. Họa lửa thiêu đốt.
  5. Quan trên bắt bớ.
  6. Các căn bị hư hại.
  7. Chết bị đọa vào địa ngục.
  8. Bị ngục tốt tra khảo đánh đập.

Đấy là tám pháp suy não.

Lại nữa, còn có tám pháp bất an lớn. Những gì là tám pháp? Đó là bị sinh vào các nẻo ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chính là sự bất an lớn. Nếu được làm thân người thì thường sinh ở chốn biên địa, chẳng biết thiện ác, ở chốn không có Phật, không có pháp và Thánh chúng, chính là sự bất an lớn. Giả như được thân người và sinh ở vùng giữa nước thì lại bị điếc mù câm ngọng suy tàn trăm tật, đấy cũng là sự bất an lớn. Tuy được sinh ở vùng giữa nước với đầy đủ thân người nhưng luôn bị suy yếu, mang tâm dua nịnh tà vạy, hư trá gian ngoa, đó cũng chính là pháp bất an lớn. Thọ giáo ngoại đạo, ưa thích đối với tà luận, tà kiến, ác hạnh, tạo thành các nghiệp về thân, khẩu, ý luôn bất tịnh, chư Phật, Hiền thánh cũng chẳng thể cứu được, đó cũng là pháp bất an lớn. Nếu được sinh ở vùng giữa nước với đầy đủ thân người nhưng ngay vào đêm Phật đắc đạo, liền bị mạng chung nên chẳng gặp được Phật pháp, đó cũng được gọi là pháp bất an lớn. Đấy là tám pháp bất an lớn mà kẻ khinh mạn, hủy hoại người cầu Phật đạo luôn gặp phải.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nên biết rằng, người khinh mạn hủy hoại ấy, nếu sinh vào cõi địa ngục tất bị đọa nơi đại Địa ngục A Tỳ, mang thân hình to lớn nhận lấy nhiều thống khổ cùng liên tiếp dấy các tội nặng. Nếu đọa vào các nẻo súc sinh thì làm loại ác trùng, ác thú luôn đói khát khổ cực phải xâm phạm cướp đoạt thân mạng loài khác, ngốn ngấu cả thịt xương để nuôi sống mạng mình, theo chốn sinh sống mà tiếp tục tăng thêm các nghiệp gây tội ác. Nếu sinh vào các loài vật ở nước thì sẽ làm cá Ma-già, luôn bị ngư dân Già-la-thấtthủ-ma-la cùng dân Uất-đà-la dùng lưới bủa giăng bắt lấy, lúc sống thân bị cắt cứa chịu bao khổ não mong muốn chết đi mà chẳng được. Như lại được sinh trên đất liền thì hoặc làm lạc đà, lừa, trâu bò, dê chó heo. Nếu làm thân lạc đà, trâu bò thì luôn bị người xỏ mũi lôi dắt, thân thường mang chở nặng nhọc, lại còn bị gậy đập roi quất dù có kêu rống cũng chẳng một ai cứu giúp, giữa đường vì đói mệt chẳng thể bước tới nỗi nữa. Thân mạng chưa dứt, liền bị mỗ thịt lột da, thịt xương hầu như chẳng còn gì cả! Lại còn bị mắng nhiếc là đồ ăn hại, vô tích sự.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả hãy xem xét các nhân duyên gây nên tội lỗi ấy, theo như chỗ thấu đạt của ta thì nếu muốn nói đầy đủ, từ kiếp này sang kiếp khác cũng không thể hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Cần ghi nhận lời quan trọng này: Nếu kẻ hủy hoại tâm của Bồ-tát ấy thì không thể nào tránh khỏi việc bị đọa vào tám nạn. Vì sao? Vì kẻ ấy luôn tiếp tục dấy khởi các nghiệp gây nên tội lỗi. Nên biết rằng, các vị là những người đã thoát khỏi các nạn ấy vì luôn tự cứu giúp mình.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10