KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BẢO KHIẾP

Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Cầu-na-bạt-đà-la, người Thiên Trúc
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại tinh xá nơi khu vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc thành Xá-vệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, chúng Bồ-tát năm ngàn vị.

Khi ấy, Đức Thế Tôn đang giảng nói pháp cho đại chúng gồm các Thanh văn, Bồ-tát nơi đạo tràng ở vườn hoa Ca-lợi-la. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với năm trăm vị Bồ-tát, vua trời Đế Thích, Phạm thiên, trời Hộ thế cung kính vây quanh… đồng đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến nơi, các vị đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh bảy vòng rồi ngồi qua một bên, các Bồ-tát cũng ngồi qua một bên.

Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay Đức Như Lai giảng nói pháp gì, kính xin Thế Tôn tuần tự, tiếp tục giảng nói cho chúng con, đừng để đoạn dứt.

Đại đức Tu-bồ-đề nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Trước tiên, Đức Thế Tôn sẽ giảng nói pháp cho các Thanh văn. Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hôm nay, tôi kính thỉnh Nhân giả giảng nói về pháp Bồ-tát.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Hôm nay, Đại đức dùng pháp Bồ-tát làm gì? Này Đại đức Tubồ-đề! Tất cả các Thanh văn và các Duyên giác đều chẳng phải là pháp khí của Bồ-tát.

Đại đức Tu-bồ-đề nói:

–Kính xin Nhân giả giảng nói. Các chúng sinh lợi căn sẽ tự nghe nhận được.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Hôm nay, Đại đức có thể biết thế nào là phap khí và chẳng phải pháp khí của Phật chăng?

Đại đức Tu-bồ-đề thưa:

–Thưa Nhân giả! Thanh văn chúng tôi nhờ nghe âm thanh nơi lời dạy của Phật mà được hiểu pháp thì làm sao tôi có thể biết được thế nào là pháp khí và chẳng phải pháp khí của Phật. Thưa Nhân giả! Kính thỉnh Nhân giả giảng nói về pháp khí của Phật và chẳng phải pháp khí của Phật.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Thưa Đại đức! Những người lệ thuộc vào quả vị đều chẳng phải là pháp khí, vì bị pháp giới ràng buộc. Nếu quan sát pháp giới mà không rời bỏ tất cả chúng sinh, không rơi vào quả vị, không ở trong kết sử… những người như thế mới là pháp khí của Phật.

Lại nữa, thưa Đại đức! Nếu người đạt đến cảnh giới của pháp học và pháp vô học, không bị trói buộc, rời bỏ tất cả những sự nóng bức, gò bó của chúng sinh, tâm sinh ra mệt mỏi, lo sợ, cho đến một niệm cũng không ưa thích ở trong kết sử. Những người như vậy đều chẳng phải là pháp khí của Phật.

Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Nếu người có thể đến hết đời vị lai, phát ra sự không lo không sợ rất mực trang nghiêm, tu hành các hạnh trong ba cõi nhưng không bị ba độc (tham, sân, si) làm nhiễm ô, ở trong sinh tử khởi tưởng xem như trong vườn nhà, ưa thích các cõi nhưng không chứa nhóm các nghiệp trong các cõi. Những người như vậy gọi là pháp khí của Phật.

Lại nữa, thưa Đại đức! Người không dục nhiễm mà thị hiện dục nhiễm, chẳng phải người sân hận mà thị hiện có sân hận, không phải là người si mê mà thị hiện có si mê, đoạn trừ các kết sử mà thị hiện ở trong ba cõi, dẫn dắt chúng sinh mà không hề có tâm tự cao, gánh vác, đảm nhận đối với tất cả chúng sinh, khiến họ đạt được chủng tánh nơi ba ngôi báu vô thượng và đầy đủ các môn Tam-muội không gián đoạn… những người như vậy được gọi là pháp khí của Phật.

Tôn giả Tu-bồ-đề thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Pháp tánh là nhất như, nhất thật tế, vậy thì làm sao phân biệt để nói pháp khí hay chẳng phải pháp khí?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Thưa Đại đức! Ví như người thợ đồ gốm chỉ dùng một loại đất bùn mà làm ra nhiều loại đồ dùng, rồi cũng một ngọn lửa nung chín để tạo thành hoặc đồ đựng dầu, hoặc đồ đựng váng sữa, hoặc đồ đựng mật, hoặc đồ đựng vật dơ. Tánh của đất bùn này không gì sai khác, tánh của lửa nung cũng vậy, không có gì khác biệt, như vậy, như vậy…

Thưa Đại đức! Nơi một pháp tánh nhất như, nhất thật tế, tùy theo các hạnh nghiệp mà làm ra các “đồ dùng” khác nhau. Đồ đựng dầu và đồ đựng váng sữa dụ cho Thanh văn, Duyên giác, đồ đựng mật dụ cho các Bồ-tát, đồ đựng vật nhơ uế dụ cho hàng phàm phu.

Đại đức Tu-bồ-đề thưa:

–Thưa Nhân giả! Có khi nào noi pháp khí là chẳng phải pháp khí, chẳng phải pháp khí là pháp khí chăng?

–Thưa Đại đức! Có.

–Nghĩa là thế nào?

–Thưa Đại đức! Tất cả các kết sử là chẳng phải pháp khí. Sự huân tập tất cả các kết sử là chẳng phải pháp khí. Đó chẳng phải là pháp khí, mà cũng gọi là pháp khí của Phật. Nếu đoạn trừ tất cả các phiền não thì pháp khí như vậy chẳng phải là pháp khí của Phật.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Đồ dùng thì đựng những gì?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Không đựng là đựng, nếu đựng đồ mà không bị chảy, thì đó là đồ dùng còn nguyên, còn đựng đồ mà bị rỉ chảy thì đó là đồ dùng đã bị hư bể.

Thưa Đại đức! Giống như hư không là đồ dùng của các cây thuốc, rừng rậm, nhưng cũng chẳng phải là đồ dùng, Bồ-tát cũng vậy, là pháp khí của Phật mà cũng chẳng phải là pháp khí.

Thưa Đại đức! Giống như cây cối mọc lên từ mặt đất, nhờ có “đồ dùng” hư không mà cây cối được lớn lên. Như vậy, thưa Đại đức! Bồ-tát được sinh ra từ các tâm thiện, nhờ “đồ dùng” Trí tuệ ba-la-mật mà được tăng trưởng.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Bồ-tát được tăng trưởng điều gì?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Giống như sự tăng trưởng của hư không, sự tăng trưởng của Bồ-tát cũng vậy. Nên Bồ-tát không có tăng trưởng cũng chẳng có giảm bớt. Vì sao? Vì không tăng các kết sử, không giảm các pháp Phật.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Thưa Nhân giả! Pháp Phật và kết sử có gì khác nhau?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Thưa Đại đức! Như tất cả những nơi được ánh sáng của núi chúa Tu-di chiếu đến đều có cùng một màu vàng ròng. Cũng vậy, thưa Đại đức! Ánh sáng của trí tuệ chiếu đến thì tất cả các kết sử đều có cùng một màu, đó là màu pháp Phật. Vì thế, thưa Đại đức! Pháp Phật và kết sử được quan sát bằng trí tuệ Bát-nhã thì không có gì khác nhau. Cho nên, tất cả các pháp đều là pháp Phật.

Đại đức Tu-bồ-đề thưa:

–Thưa Nhân giả! Vì sao tất cả các pháp đều là pháp Phật?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Vì Như là đối tượng được giác ngộ của trí Phật.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Như là đối tượng được giác ngộ của trí Phật là thế nào?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Như sự đầu tiên và cuối cùng của Đại đức cũng vậy, đều không lìa Như, vì thế nên nói đối tượng được giác ngộ của trí Phật là Như.

Đại đức Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Sự đầu tiên và cuối cùng là gì?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Ban đầu thì không, sau cùng thì rỗng lặng, nên gọi là đầu tiên và cuối cùng.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Trống không và rỗng lặng có khác nhau chăng?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Thưa Đại đức! Ý của Đại đức nghĩ sao, vàng tạp và vàng ròng có khác nhau hay không?

Đáp:

–Nếu dùng lời nói thì chúng có khác nhau.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Cũng vậy, thưa Đại đức! Nếu dùng lời nói thì nói có không, nói có rỗng lặng, còn nếu có trí tuệ thì không lệ thuộc vào văn tự, không chấp thủ nơi văn tự.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Phàm phu và bậc trí có khác nhau chăng?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Thưa Đại đức! Như lời Phật dạy thì do tướng của nghiệp mà gọi là phàm phu, cũng do tướng của nghiệp mà gọi là bậc trí.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Thưa Nhân giả! Nghiệp có những tướng gì?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Nhân duyên là tướng, tùy theo sự thực hành tạo tác mà có tên gọi khác nhau. Nếu không có sự thực hành tạo tác thì cũng không có tên gọi khác nhau. Phàm phu có tạo tác nên có tên gọi khác nhau, bậc trí tuệ không tạo tác nên không có tên gọi khác nhau, ở giữa có và không thì gọi là Thánh hạnh. Nhưng đối với các phàm phu, Thánh hạnh này gọi là chẳng phải hạnh.

Đại đức Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Bậc Thánh là những ai?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Là chỉ chung cho những vị đồng thể nhập vào phạm trù không chấp thủ, không tranh cãi.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Vậy thì có các pháp cũng đồng thể nhập vào phạm trù không chấp thủ và không tranh cãi chăng?

–Thưa Đại đức! Có các pháp ấy.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Đó là những pháp gì?

Đáp:

–Tất cả các dòng sông đổ về biển cả rồi thì đều có cùng một vị mặn. Cũng vậy, thưa Đại đức! Tất cả các pháp thể nhập vào nẻo không chấp thủ và không tranh cãi đều có đồng một vị, đó là vị giải thoát.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Thoát khỏi điều gì thì được gọi là giải thoát?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Thưa Đại đức! Vì nhân duyên gì mà có trói buộc hoặc không có trói buộc?

Đại đức Tu-bồ-đề thưa:

–Vì không có trí tuệ nên bị trói buộc.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Như vậy, chấm dứt chỗ không có trí tuệ ấy thì gọi là giải thoát. Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Các pháp đều bình đẳng, sao lại nói trí tuệ và không có trí tuệ?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Như vào mùa hạ trời nóng thì gọi là nước nóng, vào mùa đông trời lạnh thì gọi là nước lạnh, nhưng tính chất của nước nơi hai mùa ấy vẫn không có gì khác nhau. Như vậy, thưa Đại đức! Tư duy không chân chánh, bị phiền não nóng bức nên được gọi là không có trí tuệ. Còn tư duy chân chánh thì gọi là trí tuệ. Nhưng trong đó, không có người nào được gọi là trí tuệ hay không trí tuệ.

Đại đức Tu-bồ-đề nói:

–Thưa Nhân giả! Ý nghĩa này thật khó hiểu.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Do tạo tác hai hành (kiến hành và ái hành).

–Ý nghĩa này thật khó thấy.

–Do không có mắt tuệ.

–Ý nghĩa này thật khó thể nhập.

–Do không thấu đạt tận cùng.

–Ý nghĩa này thật khó biết.

–Do tăng thượng mạn.

–Ý nghĩa này thật khó lãnh hội.

–Do rời bỏ tánh giác.

–Ý nghĩa này rất khó giải thoát. –Do ưa thích hang ổ.

–Ý nghĩa này thật khó suy nghĩ.

–Do trong đó không có hành tướng.

–Ý nghĩa này thật khó giác quán.

–Do trong đó không có sự nói năng.

–Ý nghĩa này không thể đạt được.

–Vì trong đó, thậm chí một chút ý nghĩa cũng không có.

–Ý nghĩa này chính là đối tượng được kiến giải của bậc trí.

–Do hiểu rõ về Như của tự tâm.

Đại đức Tu-bồ-đề lại hỏi:

–Thưa Nhân giả! Đức Như Lai đã dạy là có lợi căn và không có lợi căn, vì sao Đại sĩ lại dạy pháp như vậy?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Lợi căn là không thật có, nếu ở trong điều ấy mà muốn có đối tượng để đạt được thì lợi căn cũng gọi là chẳng phải lợi căn. Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Lại nữa, lợi căn được gọi là tịch tĩnh, nếu ở trong đây mà khởi lên các tạo tác về thân, tâm thì lợi căn cũng gọi là chẳng phải lợi căn. Vì thế nên Đức Như Lai nói về lợi căn và chẳng phải lợi căn.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Như lời Đức Phật dạy, tất cả các pháp đều chẳng phải pháp, điều này nghĩa là gì?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Thưa Đại đức! Như lời Phật dạy, có thể biết được pháp Phật như ví dụ về chiếc bè, pháp còn nên xả bỏ huống gì là chẳng phải pháp. Nếu pháp đã nên xả bỏ thì không gọi là pháp hay không phải pháp.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Thưa Nhân giả! Pháp của Đức Phật Như Lai có thể là chẳng phải pháp chăng?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Thưa Đại đức! Pháp của Đức Như Lai không có nhất định. Vì không nhất định nên không thể nói là pháp hay chẳng phải pháp. Vì thế, Đức Phật nói tất cả các pháp đều chẳng phải pháp.

Đại đức Tu-bồ-đề thưa:

–Thật là hiếm có, thưa Nhân giả! Nếu những Bồ-tát mới phát tâm nghe giảng nêu như vậy mà không bị sợ hãi.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi:

–Ý của Đại đức nghĩ sao? Con của sư tử chúa nghe tiếng gầm của sư tử có kinh sợ chăng? Như con của chim nhạn chúa bay trong hư không có sợ rơi xuống đất chăng?

Đại đức Tu-bồ-đề đáp:

–Thưa Nhân giả! Chúng không sợ.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Cũng vậy, thưa Đại đức! Nếu có Bồ-tát là chủng tánh của Như Lai, đi đến trong Như, từ Như sinh ra, nghe tất cả các pháp, tất cả các âm thanh, tất cả những sự giảng nói đều không hề kinh sợ. Thưa Đại đức! Phàm có sợ hãi thì sợ hãi đối với điều gì?

Đại đức Tu-bồ-đề thưa:

–Nếu cho rằng kiến chấp về ngã là thật có thì liền có sự sợ hãi.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Bồ-tát đã hiểu rõ kiến chấp về ngã nên không hề sợ hãi đối với tất cả các pháp, tất cả các âm thanh, tất cả những sự giảng nói.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Thưa Nhân giả! Nếu Bồ-tát đã hiểu rõ chỗ kiến chấp về ngã thì sao các vị ấy không chứng quả?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Không có Bồ-tát nào đạt được quả chứng, vì hàng Bồ-tát tuy quan sát biết như vậy nhưng là để hướng đến trí Phật, nên không chấp vào quả chứng. Bồ-tát thường tu hành tâm đại Bi đối với tất cả chúng sinh, tuy hiểu rõ chỗ kiến chấp về ngã nhưng không bị rơi vào quả chứng.

Đại đức Tu-bồ-đề hỏi:

–Nhưng Bồ-tát có phương tiện thiện xảo, sao chỉ biết rõ chỗ kiến chấp về ngã mà không chứng quả?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Bồ-tát nào bao gồm được cảnh giới của phương tiện bằng trí tuệ thì các Bồ-tát ấy tuy biết rõ chỗ kiến chấp về ngã mà vẫn không chấp vào quả chứng.

Thưa Đại đức! Ví như đại lực sĩ cầm dao bén chặt cây sa-la, tuy cây bị chặt nhưng vẫn còn đứng vững chưa bị ngã xuống. Cũng vậy, thưa Đại đức! Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh, có tâm Từ bi lớn và đại trí tuệ phương tiện, tuy biết rõ kiến chấp về ngã mà không hề chứng quả.

Thưa Đại đức! Đến lúc nào đó, trời mưa xuống thật lớn, thật thấm nhuần, cây sa-la ấy liền sống lại, sinh ra nhiều cành lá hoa quả có lợi ích cho chúng sinh. Cũng vậy, thưa Đại đức! Bồ-tát được thấm nhuần tâm đại Từ, đại Bi, nhưng từ cảnh giới trí tuệ của Bồ-tát mà trở lại sinh vào ba cõi, thị hiện thọ nhận sinh tử trong các dòng họ, làm cho chúng sinh được nhiều điều lợi ích lớn.

Thưa Đại đức! Giả sử có trận gió lớn thổi đến cây sa-la ấy, các cành lá hoa quả đều bị rơi rụng xuống đất. Cũng vậy, thưa Đại đức! Các Bồ-tát ấy được gió mạnh đại trí tuệ thổi đến, nên “rơi” trên đạo tràng và hoàn toàn diệt độ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Lành thay! Lành thay! Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ông đã khéo giảng nói về cảnh giới phương tiện bằng trí tuệ của Bồ-tát và giảng nói pháp tương ưng với đại Từ, đại Bi.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hãy nghe Như Lai nêu rõ! Giống như Đại Long vương phát khởi tâm ấy, làm nổi lên đám mây lớn, trong khắp đám mây kia thình lình nổi sét đánh đến đâu cháy rụi đến đó, rồi lại làm mưa lớn tuôn xuống cho tất cả được sinh trưởng. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát dùng phương tiện làm nổi lên đám mây trí tuệ lớn và theo phương tiện thị hiện làm tất cả những việc làm của phàm phu để giáo hóa phàm phu, thị hiện thực hành các hạnh Thánh để điều phục chúng sinh.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như gốc cây đại hương có hương thơm, hương thơm của cộng, hương thơm của lá, hương thơm của hoa, hương thơm của quả, mỗi loại đều thơm khác nhau.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thân tỏa hương thơm trí tuệ của Bồ-tát cũng vậy, tùy theo sự nghe hiểu thích hợp của chúng sinh mà tỏa ra hương thơm pháp tương ứng, nhưng gốc rễ đại Bi vẫn không dời đổi.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như trên cổ của vua trời Đế Thích có viên ngọc báu ma-ni Tỳ-lăng-già chiếu sáng khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhờ năng lực chiếu sáng của ngọc ấy mà tất cả các sự vật đều được nhìn thấy rõ, nhưng viên ngọc báu ấy không hề có sự nhớ nghĩ, phân biệt. Như vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Viên ngọc báu thanh tịnh ví dụ cho trí tánh của Bồ-tát hiện rõ tất cả mọi điều, nhưng Bồ-tát không hề có tưởng phân biệt.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như ngọc như ý có khả năng làm cho tất cả chúng sinh được mãn nguyện, nhưng ngọc báu này cũng không hề có sự nhớ nghĩ, phân biệt. Bồ-tát cũng có ngọc báu tâm ý thanh tịnh, có thể làm cho tất cả chúng sinh đều được mãn nguyện, nhưng đối với tất cả mọi nơi thì không hề có sự nhớ nghĩ, phân biệt.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như nhờ hư không mà lửa cháy được, nhờ hư không mà trời mưa xuống được, nhưng hư không ấy không hề nóng hay lạnh. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Cũng vậy, Bồ-tát theo phương tiện ở trong ba cõi, thực hiện Niết-bàn tĩnh lặng, không bị phiền não nóng bức, ở trong pháp Phật không hề bị chấp thủ, cả hai đều được lợi ích.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như từ hư không mà sinh ra các cây độc, cũng từ hư không mà sinh ra những cây thuốc, nhưng hư không vẫn không bị chất độc làm hại, cũng chẳng bị cây thuốc làm mất đi sự trong sạch. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tat nào có trí tuệ và phương tiện thì thân năm ấm giống như cây độc, năm căn: tín, tấn… giống như cây thuốc, Bồ-tát vẫn không vì năm ấm trói buộc mà bị nhiễm ô, cũng chẳng nhờ các căn mà được thanh tịnh, cả hai đều có lợi ích.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như ống lọc nước, nếu vừa chận lại thì nước liền ngưng chảy, vừa thả tay ra thì nước chảy trở lại. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát nào có phương tiện trí tuệ thì an trụ trong Tam-muội, thành tựu các thần thông lớn, không còn lệ thuộc vào các cõi. Nếu vừa xuất định liền thị hiện vào các cõi, tùy theo đối tượng thích ứng mà diễn nói các pháp.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như con chim cực đẹp, khéo che chở cho chim con, không tiếc thân mạng. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Bồ-tát an trú trong tâm đại Bi, khéo cứu giúp chúng sinh, không tiếc thân mạng của mình.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như sư tử chúa tể loài thú không sợ hãi điều gì, chỉ trừ lửa cháy. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát có đủ phương tiện thì không sợ hãi điều gì, chỉ trừ sự giải thoát của hàng Thanh văn và Duyên giác.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như voi chúa Y-la-ninh là loài súc sinh mà có thể hiện ra tất cả những việc trang nghiêm, đó là nhờ năng lực phước đức của vua trời Đế Thích. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Bồ-tát có thể làm cho các loài súc sinh hiện ra pháp trang nghiêm, tùy theo đối tượng thích ứng mà hóa độ cho họ.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như đồ lấy lửa có thể sinh ra ngọc báu lửa và lửa, cả hai đều có thể đốt cháy được. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tâm của Bồ-tát mới phát tâm và tâm cuối cùng khi đến đạo tràng của Bồ-tát, cả hai đều có thể đốt cháy tất cả các kết sử của hết thảy chúng sinh.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như các cây cối có nhiều loại màu sắc, nhiều loại hương thơm và nhiều loại quả, tất cả đều nhờ nơi bốn đại mà được sinh trưởng. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát dùng nhiều loại pháp môn để tu tập các căn lành, tất cả các căn lành đều bao gồm tại tâm Bồ-đề, nhờ hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề mà được tăng trưởng.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như bánh xe báu của vua Chuyển luân, nếu nó đi thì bốn bộ binh đều đi theo. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát có đủ phương tiện và Trí tuệ ba-la-mật, các vị đi đến nơi nào, thì tất cả các pháp hỗ trợ Bồ-đề của các vị đều theo đến đó.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như chim con của chim chúa Calăng-tần-già đang còn ở trong trứng, mỏ của nó chưa tượng ra hình mà đã có thể phát ra tiếng hót vi diệu của chim Ca-lăng-tần-già. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Các Bồ-tát ở trong trứng pháp Phật, tuy chưa diệt kiến chấp về ngã, chưa ra khỏi ba cõi, nhưng đã có thể diễn nói âm thanh vi diệu của pháp Phật, đó là các âm thanh về hành không, vô tướng, vô tác.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như chim Ca-lăng-tần-già đến chỗ của đàn chim khổng tước, nó không hề hót lên, về lại trong đàn chim Ca-lăng-tần-già thì nó mới hót. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát nếu vào trong chúng hội của tất cả các hàng Thanh văn, Duyên giác, không hề giảng nói về các pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật, đến với chúng Bồ-tát, bấy giờ mới giảng nói.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như bất ngờ có trận cuồng phong nổi lên, tất cả các cây cối, núi non trong cõi Diêm-phù-đề đều không thể chịu nổi. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Khi Bồ-tát giảng nói về pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật, thì các Thanh văn, Duyên giác hữu học và vô học đều không thể tin hiểu, trừ khi được Đức Phật hộ trì. Nếu có người nào tin hiểu thì đó là nhờ Đức Phật hộ trì.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như cung mặt trời phát ra ánh sáng chiếu đến mọi vật nhơ sạch, không hề có sự tăng giảm, cũng không ai có thể chê trách. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát theo phương tiện phóng ra ánh sáng trí tuệ, tuy Bồ-tát cùng ở chung với tất cả phàm phu nhưng trí tuệ ấy không bị hư hoại, cùng ở với các Thanh văn, Duyên giác nhưng vẫn không bị đám nhiem, không ai có thể chê trách ánh sáng trí tuệ phương tiện của Bồ-tát.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như cây Ba-lợi-chất-đa và cây Câu-tỳ-đà-la, khi lá của chúng rụng, chư Thiên cõi trời Tam thập tam đều vô cùng hoan hy, nói: “Cây này không bao lâu nữa sẽ đơm hoa kết trái.” Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát nào có thể xả bỏ tất cả thì chư Phật đều rất hoan hỷ, cho rằng: “Không bao lâu nữa, Bồ-tát này sẽ cùng với tất ca chúng sinh đều được nở hoa chánh pháp, ra quả chánh pháp.”

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như cây mềm mại tùy theo gió thổi mà chuyển động nên không sợ bị gãy. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Bồ-tát có thể khéo léo tùy thuận chúng sinh nên không sợ bị rơi vào phạm vi của tất cả các Thanh văn, Duyên giác.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như nước chảy xuôi theo dòng. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát không kiêu mạn cũng như vậy, đến các cõi mà vẫn thuận theo, hướng đến Nhất thiết trí.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như biển cả thuở ban đầu mới lập, nó ở chỗ thấp nhất, cho nên sau đó, tất cả các dòng sông đều chảy đổ về biển cả. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát diệt trừ hết những ngã mạn, cao ngạo, thì sau đó tất cả các pháp Phật đều đổ dồn về Bồ-tát.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như ngọc báu kim cương có thể phá vỡ được tất cả các châu báu khác, mà ngọc báu này vẫn không bị phá vỡ. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát dùng phương tiện thu phục tất cả các hàng Thanh văn, Duyên giác nhưng không rơi vào trong các quả vị ấy.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như hoa Mạn-đà-la, khi trời không có gió, hương thơm của nó lan xa khắp một do-tuần. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát dùng phương tiện không có tuệ căn của bậc Thánh, nhưng hương thơm của tâm Từ lan tỏa đến khắp tất cả chúng sinh.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như người ngửi được hương thơm của hoa Mạn-đà-la thì được khỏi hẳn tất cả các bệnh, không còn lo lắng khổ sở. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Các Bồ-tát đại Từ, đại Bi, nếu có ai được các vị ấy tùy hỷ thì các bệnh phiền não của người đó đều được trừ diệt, không còn bị bức ngặt.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như khi Đức Phật xuất hiện ở đời thì hoa Ưu-đàm-bát cũng liền xuất hiện. Cũng vậy, này Bồ-tát Vănthù-sư-lợi! Có Bồ-tát ra đời thì tất cả hoa của các pháp Phật đều xuất hiện.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như Đại Long vương A-na-bà-đạt-đa làm tuôn mưa khắp cõi Diêm-phù-đề. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Bồ-tát dùng mưa pháp lớn của các tâm vô lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả) làm thấm nhuần tất cả chúng sinh.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như ao của Long vương A-na-bàđạt-đa chảy ra bốn con sông lớn đổ đầy về biển cả. Cũng vậy, này Bồtát Văn-thù-sư-lợi! Các Bồ-tát dùng dòng bốn Nhiếp pháp chảy đầy vào biển Nhất thiết trí.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nhờ có biển cả ma mọi người trong cõi Diêm-phù-đề mới có được các châu báu. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nhờ có Bồ-tát nên khiến cho tất cả các Thanh văn, Duyên giác được đầy đủ các pháp bảo giải thoát.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tất cả các sắc đều nương vào bốn đại. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tất cả các pháp của Bồ-tát là chỗ nương tựa đạt giải thoát của các chúng sinh.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như trong rừng sâu co cây thuốc lớn không thể làm lợi ích cho nhiều chúng sinh. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu người được điều phục theo pháp Thanh văn thì không thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như trong thành lớn sinh ra cây thuốc lớn tất rất hữu ích cho nhiều người. Cũng vậy, này Bồ-tát Vănthù-sư-lợi! Bồ-tát được sinh ra từ trong đại Từ, đại Bi, không bỏ tâm như châu báu Nhất thiết trí, có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như trận mưa lớn, thế nước chảy của nó không tồn tại được lâu. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thanh văn giảng nói pháp, sự tự tại không tồn tại được lâu.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như dòng nước mùa Xuân chảy qua thời gian lâu dài. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát giảng nói pháp được tồn tại lâu dài ở đời.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như cây ở núi Tuyết, tuy bị chặt đứt nhưng không bao lâu sẽ sống lại được. Cũng vậy, này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Như Lai thực hành các Phật sự rồi liền nhập Niết-bàn, nhưng hạt giống Tam bảo thì không đoạn dứt.

Bấy giờ, Đại đức Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thật hiếm có thay! Bạch Thế Tôn! Hôm nay Thế Tôn đã diễn nói về công đức nơi các pháp vô lượng, vô biên của các Bồ-tát, là các công đức chân thật.

Bạch Thế Tôn! Lại càng hiếm có thay! Bồ-tát nghe công đức chân thật này mà không vui, cũng chẳng cao ngạo.

Đức Phật nói:

–Này Tu-bồ-đề! Vì các căn của các Bồ-tát vốn tự thanh tịnh, nên các vị nghe các công đức không vui cũng không cao ngạo.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! The nào là các căn của các Bồ-tát vốn tự thanh tịnh?

Đức Phật nói:

–Này Tu-bồ-đề! Đó là căn vô ngã thanh tịnh, căn không chúng sinh thanh tịnh, căn không thọ mạng thanh tịnh, căn không trượng phu thanh tịnh, căn không người khác thanh tịnh, căn không kiến chấp về thân thanh tịnh, căn không có vô minh, hữu ái thanh tịnh, căn không có ngã và ngã sở thanh tịnh.

Đại đức Tu-bồ-đề thưa:

–Thế nào là thanh tịnh?

Đức Phật nói:

–Không trói buộc cũng không giải thoát, đó là thanh tịnh. Không sinh, không diệt, không đến, không đi, đó là thanh tịnh. Không vọng tưởng, không phân biệt, không cao, không thấp, không tạo tác, chẳng phải là không tạo tác, không tối tăm, không sáng suốt, không phiền não, chẳng phải là không phiền não, không sinh tử, không Niết-bàn… đó gọi là thanh tịnh.

Đại đức Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu không sinh tử, không Niết-bàn thì thế nào là thanh tịnh?

Đức Phật nói:

–Này Tu-bồ-đề! Sự thanh tịnh này là không nhớ nghĩ, phân biệt về sinh tử và Niết-bàn, cũng không chấp thủ, đắm nhiễm. Này Tu-bồđề! Ví như nói “Làm thanh tịnh hư không”, thật ra không có vật gì phải được trừ bỏ để khiến cho hư không thanh tịnh. Cũng vậy, này Tubồ-đề! Điều được gọi là thanh tịnh ấy thật ra không có pháp nào được gọi là thanh tịnh. Nếu có người nghe đến mà không sợ hãi, thì đó gọi là thanh tịnh.

Này Tu-bồ-đề! Lúc này, ông có thanh tịnh không?

Đại đức Tu-bồ-đề đáp:

–Bạch Thế Tôn! Con thanh tịnh vì không có cấu uế.

–Nếu không có cấu uế thì ông thanh tịnh như thế nào?

–Bạch Thế Tôn! Pháp tánh thanh tịnh, con đã biết rõ.

–Hôm nay, ông đã có thể biết pháp tánh thanh tịnh rồi chăng?

–Bạch Thế Tôn! Nếu có pháp khác xa lìa khỏi pháp giới thì có thể biết được pháp giới, không có pháp giới thì có thể biết được pháp giới.

Đức Phật hỏi:

–Này Tu-bồ-đề! Nếu không có một pháp nào xa lìa khỏi pháp giới thì ai là người có thể biết được pháp giới?

Khi ấy, Đại đức Tu-bồ-đề im lặng không đáp.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Đại đức Tu-bồ-đề:

–Thưa Đại đức! Sao Đại đức không đáp lời Đức Như Lai?

Đại đức Tu-bồ-đề nói:

–Thưa Nhân giả! Vì tôi vốn không phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì sao? Vì tôi vốn không tu tập pháp biện tài vô ngại, vô tan. Như vậy, biện tài vô ngại, vô tận là pháp biện tài của Bồ-tát, còn biện tài có chướng ngại, có cùng tận là pháp biện tài của hàng Thanh văn.

–Vậy trong pháp giới này là có chướng ngại hay sao?

–Trong pháp giới này không có chướng ngại, vì không chướng không ngại là tướng của pháp giới.

–Thưa Đại đức! Nếu pháp giới ấy là không chướng không ngại, thì vì sao Đại đức lại nói là có chướng ngại?

–Thưa Nhân giả! Vì tôi đã chứng đắc pháp gián đoạn nên biện tài có chướng ngại, nếu biết pháp giới mà không chứng đắc thì biện tài mới không chướng ngại.

–Thưa Đại đức! Ở trong pháp giới lại có pháp có thể gián đoạn sao?

–Thưa Nhân giả! Pháp giới này là không thể gián đoạn vì tất cả các pháp môn đều là pháp giới.

–Nếu tất cả các pháp môn đều là pháp giới thì vì sao Đại đức lại nói mình chứng đắc pháp gián đoạn?

–Vì cảnh giới của hàng Thanh văn là có giới hạn nên tôi nói là có gián đoạn. Cảnh giới của Phật là không có hạn lượng nên nói là không chướng ngại, không ngưng trệ.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi:

–Pháp giới có sinh khởi hay không?

Đại đức Tu-bồ-đề đáp:

–Pháp giới là không có cảnh giới, diệt hết các cảnh giới thì gọi là pháp giới.

–Thưa Đại đức! Nếu không có cảnh giới, diệt hết các cảnh giới thì vì sao Đại đức lại ở trong chỗ không có cảnh giới mà giảng nói về cảnh giơi, vì sao lại nói có nhiều loại cảnh giới?

Đại đức Tu-bồ-đề nói:

–Trước đây, tôi không nói về biện tài có chướng ngại, có ngưng trệ là của Thanh văn; biện tài không chướng ngại, không ngưng trệ là pháp biện tài của Bồ-tát.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi:

–Thưa Đại đức! Hôm nay Đại đức không đạt được biện tài vô ngại phải không?

–Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tôi đã đạt được biện tài vô ngại.

–Đại đức đã đạt biện tài vô ngại, vì sao lại im lặng không đáp lời Phật?

Đại đức Tu-bồ-đề đáp:

–Vì tôi không biết căn cơ của tất cả chúng sinh nên biện tài còn ngưng trệ, chướng ngại. Nếu biết rõ về căn cơ của tất cả chúng sinh thì đó là biện tài cua Bồ-tát. Vì vậy, khi Bồ-tát giảng nói pháp không hề bị chướng ngại.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi:

–Thưa Đại đức! Khi biết rõ pháp giới và đạt được biện tài, Đại đức có biết cảnh giới có tướng chướng ngại hay không?

–Thưa không, Nhân giả! Tôi chỉ biết cảnh giới là tướng không chướng ngại, không biết cảnh giới có tướng chướng ngại.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi:

–Nếu đã biết rõ cảnh giới không có tướng chướng ngại thì sao Đại đức không nói mà lại im lặng?

–Đức Phật thường khen ngợi Đại đức Xá-lợi-phất là bậc trí tuệ đệ nhất, Nhân giả hãy thưa hỏi Đại đức ấy, Đại đức ấy sẽ trả lời cho Nhân giả.

Khi đó, Đại đức Xá-lợi-phất nói:

–Xin Đại đức hãy giảng nói! Hôm nay, tôi muốn được nghe pháp từ Đại đức và Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.

Đại đức Tu-bồ-đề nói:

–Hôm nay, tôi không giảng nói. Vì sao? Vì tôi đã từng được thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi này đến các cõi Phật, ở trước trăm ngàn vạn ức Đức Phật mà giảng nói chánh pháp, khiến cho tất cả các hàng Thanh văn đều im lặng. Vậy thì hôm nay, làm sao tôi có thể ở trước Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà nói lời gì.

Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Về phương Đông, có nước tên là Đoan nghiêm, ở đó có Đức Phật hiệu là Quang Tướng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác, hiện đang thuyết pháp, có vị Đại Thanh văn tên là Trí Đăng đạt trí tuệ bậc nhất.

Bấy giờ, Đức Như Lai Quang Tướng nhập định tĩnh lặng, đại Thanh văn Trí Đăng liền đến cõi Phạm thiên, dùng âm thanh lớn để giảng nói pháp, tiếng vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Tôi theo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến thế giới ấy, lúc đó cũng có vô số Bồ-tát và trăm ngàn Thiên tử theo hầu Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi để nghe pháp. Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở cõi trời Quang âm phát ra âm thanh lớn nghe vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Đại Thanh văn Trí Đăng nghe âm thanh lớn này, vị ấy không thể chịu nổi, từ trên tòa ngã xuống, vô cùng kinh hãi, lông tóc đều dựng đứng. Trí Đăng liền đi đến chỗ Đức Phật Quang Tướng, đến nơi, đảnh lễ ngang chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi chắp tay thưa hỏi việc ấy: “Bạch Thế Tôn! Ai đã phát ra âm thanh đáng kính sợ như vậy? Con nghe âm thanh ấy không thể nào chịu nổi, từ trên tòa ngã xuống như con chim nhỏ bị trận cuồng phong thổi đến.”

Đức Phật Quang Tướng nói với Thanh văn Trí Đăng: “Có vị Bồtát không còn thoái chuyển tên là Văn-thù-sư-lợi, hiện thần thông lớn đi đến cõi này, vì muốn gặp Như Lai để cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen, nên ở cõi trời Quang âm phát ra âm thanh lớn, âm thanh này vang xa khắp tam thiên đại thiên thế giới, tất cả cung điện của các ma đều bị ẩn mất.”

Bấy giờ, Thanh văn Trí Đăng bạch Phật Quang Tướng: “Con rất muốn được nhìn thấy bac Trượng phu đại thiện Văn-thù-sư-lợi.”

Đức Phật Quang Tướng liền vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà hiện tướng, làm cho Văn-thù-sư-lợi và đại chúng gồm các Bồ-tát cùng các vị trời quyến thuộc đều đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, các vị đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng, biến hóa ra cùng ngồi trên các tòa hoa sen ở một bên. Lúc ấy, đại Thanh văn Trí Đăng hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: “Vì lợi ích gì mà Nhân giả đến cõi này?”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Đại đức Trí Đăng: “Hôm nay, tôi muốn gặp Đức Như Lai Quang Tướng để cung kính đảnh lễ, hầu thăm

và thưa hỏi chánh pháp, nên đã đến đây.”

Đại đức Trí Đăng hỏi: “Thưa Nhân giả! Như thế nao thì được gọi là thanh tịnh gặp Phật? Thế nào là đảnh lễ Phật? Thế nào là gần gũi Phật? Thế nào là hầu thăm Phật? Thế nào là thưa hỏi Phật?”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: “Thưa Đại đức! Nếu thấy pháp thanh tịnh gọi là thanh tịnh thấy Phật. Cả thân lẫn tâm không thấp không cao mà đứng ngay ngắn, không lay không động, tâm ý tịch tĩnh thực hành hạnh tịch tĩnh, thưa Đại đức! Như vậy gọi là đảnh lễ Đức Phật.

Không quan sát mình, không quan sát người khác, không quan sát Phật, không quan sát Pháp, không quan sát Tăng, không thấy dễ, không thấy khó, không thấy tạo tác cũng không thấy không tạo tác, một lạy, một thân, tất cả các thân Phật đều thể nhập vào Pháp thân, thấy thân mình cùng thể nhập vào pháp tánh, thấy cũng như không thấy, không gần, không xa, này Đại đức, như vậy gọi là gần gũi Đức Phật.

Nếu ở chỗ Đức Như Lai, vì thưa hỏi việc tu hành nên không gì là khong tu hành, không thấy có pháp, không thấy người tu hành, thấy tự mình và pháp đều nhập vào sự tu hành, thăm hỏi về tâm định tĩnh, không tán loạn, người thăm hỏi, nơi thăm hỏi và pháp thăm hỏi đều không thật có, không hề tham chấp, ở trong ba đời mong cầu đều không thể nắm bắt, ba phạm trù thanh tịnh để thưa hỏi như vậy, thì này Đại đức, đó gọi là thăm hỏi Đức Phật.

Nếu hỏi đáp qua lại không tìm tòi lỗi lầm, tùy theo điều được thưa hỏi mà Như Lai ấn chứng và khen ngợi, đại chúng hoan hỷ, không ganh ghét điều thưa hỏi của người khác, khi có điều gì được thưa hỏi đều khiến cho vô lượng chúng sinh phát khởi đạo trang nghiêm cho đến đạo tràng, này Đại đức, đó là thưa hỏi Đức Phật.”

Khi ấy, Đức Như Lai Quang Tướng khen ngợi Bồ-tát Văn-thùsư-lợi: “Lành thay! Lành thay! Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hãy nên gặp Như Lai như vậy, nên đảnh lễ như vậy, nên gần gũi như vậy, nên thăm hỏi như vậy, nên thưa hỏi Như Lai như vậy.”

Lúc ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Tỳ-kheo Trí Đăng: “Thưa Đại đức! Thế nào là gặp Phật? Thế nào là đảnh lễ Phật? Thế nào là gần gũi Phật? Thế nào là thăm hỏi Phật? Thế nào là thưa hỏi Phật?”

Đại đức Trí Đăng đáp: “Thưa Nhân giả! Những điều Nhân giả hỏi không phải là cảnh giới của tôi. Tôi tùy theo âm thanh mà được nghe người khác giảng nói.”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Thưa Đại đức! Nếu không hiểu rõ thì làm sao Đại đức đạt được tâm giải thoát?”

Đại đức Trí Đăng đáp: “Nhờ bốn Thánh đế mà tôi đạt được giải thoát.”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi: “Bốn Thánh đế là gì?”

Đại đức Trí Đăng đáp: “Tu hành riêng một mình, không có bạn bè gọi là Thánh đế.”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Nếu tu hành riêng một mình không có bạn bè, thì làm sao thấy được tâm bình đẳng để đạt được sự giải thoát của bậc Thánh?”

Đại đức Trí Đăng đáp: “Thưa Nhân giả! Tôi nương vào Thế đế mà nói, chẳng phải là Đệ nhất nghĩa.”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Thế đế ấy có nhập vào Đệ nhất nghĩa hay không?”

Đại đức Trí Đăng đáp: “Nếu không nhập vao Thế đế thì chẳng phải là Đệ nhất nghĩa.”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Vậy thì sao Đại đức lại nương vào Thế đế để nói chẳng phải là Đệ nhất nghĩa? Nếu Thế đế hội nhập vào Đệ nhất nghĩa thì cả hai đều có nghĩa là một Đệ nhất nghĩa.”

Đại đức Trí Đăng nói: “Thưa Nhân giả! Bồ-tát mới phát tâm mà nghe điều Nhân giả giảng nói thì các vị ấy sẽ rất sợ hãi.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Thưa Đại đức! Đại đức mà còn kinh sợ huống gì là các Bồ-tát mới phát tâm.”

Đại đức Trí Đăng đáp: “Tất cả không gì có thể làm cho tôi sợ hãi.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Thưa Đại đức! Chẳng phải là nhờ sợ hãi sinh tử mà tâm được giải thoát sao?”

Đại đức Trí Đăng đáp: “Thưa Nhân giả! Nhờ sợ hãi, nhàm chán mà tâm được giải thoát.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Thưa Đại đức! Vì thế nên tôi nói: Đại đức vốn cũng sợ hãi, huống gì là các Bồ-tát mới phát tâm.”

Đại đức Trí Đăng hỏi: “Thưa Nhân giả! Bồ-tát làm thế nào để đạt được giải thoát?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Nhờ không sợ hãi, không nhàm chán nên Bồ-tát đạt được giải thoát.”

Đại đức Trí Đăng lại hỏi: “Nhân giả nói nhờ không sợ hãi, không nhàm chán mà đạt được giải thoát, ý nghĩa ấy như thế nào?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Bồ-tát không sợ hãi trăm ngàn vạn ức binh chúng nơi các ma. Bồ-tát không nhàm chán đối với việc vì tất cả chúng sinh. Bồ-tát không sợ việc chứa nhóm các căn lành. Bồ-tát không nhàm chán việc tu tập trí tuệ trang nghiêm. Vì ý nghĩa ấy, tôi nói: Không sợ hãi, không nhàm chán thì tâm đạt được giải thoát.”

Bấy giờ, trong chúng hội có các vị Thiên tử, dùng nhiều loại hoa để rải cúng dường Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, rồi khen ngợi: “Nếu trú xứ nào thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi tức là được thấy Phật. Nơi chốn thuyết pháp của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nên cung kính xem như tháp Phật. Nếu chúng sinh được nghe pháp này, nên biết, chúng sinh ấy đã bao gồm được các đức.”

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Đại đức Trí Đăng: “Đức

Phật nói Đại đức là người có trí tuệ bậc nhất. Vậy trí tuệ ấy là hữu vi hay là vô vi? Nếu hữu vi thì đó là ba tướng sinh diệt, còn nếu vô vi thì không có ba tướng.”

Đại đức Trí Đăng nói: “Người tu vô vi được Đức Phật gọi là bậc Thánh.”

Bồ-tát Văn-thù hỏi: “Thưa Đại đức! pháp vô vi này có thể tu tập không?”

Đại đức Trí Đăng đáp: “Thưa không, Nhân giả.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Vậy thì sao Đại đức nói tu pháp vô vi thì được gọi là bậc Thánh?”

Bấy giờ, đại Thanh văn Trí Đăng liền im lặng. Đức Như Lai Quang Tướng bảo Bồ-tát Văn-thù: “Ông hãy giảng nói về các pháp môn, khiến cho cả chúng hội được không thoái chuyển đối với đạo Chánh chân Vô thượng.”

Bồ-tát Văn-thù bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp đều là pháp môn tịch tĩnh, tất cả những lời nói đều là pháp môn tịch tĩnh nên hiện bày sự tịch tĩnh.

Lúc này, có vị Bồ-tát tên là Pháp Dũng đang ngồi trong chúng hội, hỏi Bồ-tát Văn-thù: “Những điều mà Đức Như Lai giảng nói về tham, sân, si… đều là pháp môn tịch tĩnh hiện bày tịch tĩnh chăng?”

Bồ-tát Văn-thù hỏi: “Này thiện nam! Tham, sân, si ấy từ đâu sinh khởi?”

Bồ-tát Pháp Dũng đáp: “Từ vọng tưởng mà sinh khởi.”

Bồ-tát Văn-thù lại hỏi: “Vọng tưởng ấy ở chỗ nào?”

Bồ-tát Pháp Dũng đáp: “Vọng tưởng trụ ở nơi điên đảo.”

Bồ-tát Văn-thù hỏi: “Sự điên đảo ấy lại ở chỗ nào?”

Bồ-tát Pháp Dũng đáp: “Thưa Nhân giả! Sự điên đảo trụ ở nơi tư duy, nhớ nghĩ không chân chánh.”

Bồ-tát Văn-thù lại hỏi: “Sự tư duy, nhớ nghĩ không chân chánh ấy ở chỗ nào?”

Bồ-tát Pháp Dũng đáp: “Ở nơi ngã và ngã sở.”

Bồ-tát Văn-thù hỏi: “Ngã và ngã sở ở chỗ nào?”

Bồ-tát Pháp Dũng đáp: “Ở nơi kiến chấp về thân.”

Bồ-tát Văn-thù hỏi: “Kiến chấp về thân ở nơi nào?”

Bồ-tát Pháp Dũng đáp: “Ở nơi kiến chấp về ngã.”

Bồ-tát Văn-thù hỏi: “Kiến chấp về ngã ở chỗ nào?”

Bồ-tát Pháp Dũng đáp: “Kiến chấp về ngã ấy không có chỗ ở, không có nơi chốn, chính là chỗ ở của kiến chấp về ngã. Vì sao? Vì ngã ấy tìm kiếm khắp mười phương cũng không có được, huống gì là có chỗ ở.”

Bồ-tát Văn-thù hỏi: “Này thiện nam! Nếu pháp mà tìm kiếm khắp mười phương đều không tìm được thì đó gọi là pháp môn gì?”

Bồ-tát Pháp Dũng đáp: “Đó là không có pháp môn.”

Bồ-tát Văn-thu lại hỏi: “Vậy thì sự tịch tĩnh ấy có pháp môn chăng?”

Bồ-tát Pháp Dũng đáp: “Cũng là không có pháp môn.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Vì ý nghĩa ấy, cho nên, tôi nói: Các pháp là pháp môn tịch tĩnh, tất cả những lời nói đều là pháp môn tịch tĩnh, hiện bày tịch tĩnh.”

Lúc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói pháp này xong, có tám trăm Bồtát đều đạt được pháp nhẫn. Bồ-tát Văn-thù nói pháp xong, liền từ tòa ngồi đứng dậy, cung kính đảnh lễ ngang chân Đức Thế Tôn Quang Tướng rồi rời khỏi chúng hội ra đi…

Vì vậy, thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Đại đức nên biết, không có Thanh văn hay Bồ-tát nào có thể thấu suốt được biện tài của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Vậy thì hôm nay làm sao tôi có thể dám biện luận với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.

Bấy giờ, Đại đức Tu-bồ-đề lại nói với Đại đức Xá-lợi-phất:

–Thưa Đại đức! Đại đức có thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dùng những sự thần biến gì để đến các cõi Phật hay không?

Đại đức Xá-lợi-phất đáp:

–Thưa Đại đức! Thuở xưa, tôi đã từng cùng với Bồ-tát Văn-thùsư-lợi ở nơi phương Tây, đi đến các cõi Phật, thấy có cõi Phật bị tai nạn về lửa nổi lên, nơi đám lửa ấy hóa ra lưới hoa sen, Bồ-tát Văn-thù ở trong lưới đó mà đi đến được. Lại thấy cõi Phật bị tai nạn về lửa lan tràn khắp nơi, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở trong lửa ấy vẫn đi qua được, nếu lửa có đụng chạm vào người, thì cũng giống như dùng chiên-đàn thoa trên thân rồi nằm trên vải lụa Ca-thi rất êm ái, mềm mại và vô cùng vui thích.

Lại có cõi Phật trống không, chẳng có gì, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hóa ra cung điện Phạm thiên, nhập thiền định rồi từ nơi định ấy mà vào được cõi kia.

Lại có cõi Phật vô cùng nhỏ hẹp, chúng sinh ở cõi ấy tạo nhiều nghiệp ác, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến được cõi đó, khiến tất cả chúng sinh từ bỏ, không làm các điều ác, thành tựu được sự giác ngộ, trí tuệ và tâm Từ: “Ta sẽ thành tựu chánh đạo Vô thượng, nhưng phải chấm dứt tham, sân, si cho các chúng sinh, diễn nói chánh pháp, khiến tất cả chúng sinh đều đạt được Tam-muội về tâm Từ.” Đó gọi là Bồ-tát thành tựu giác ngộ, trí tuệ và tâm Từ.

Thưa Đại đức! Thuở ấy, tôi đã từng thấy những việc như vậy. Tôi lại ở riêng một mình, đã từng suy nghĩ: “Thần thông của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và thần thông của mình đều như nhau không có gì khác.” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi biết được suy nghĩ ấy của tôi, liền cùng tôi đi đến các cõi Phật. Đến cõi có tai nạn về lửa, Bồ-tát Văn-thù-sưlợi nói: “Đại đức hãy dùng năng lực thần thông mà đi vào cõi ấy.”

Khi đó, tôi dùng hết năng lực thần thông, trừ diệt được tai nạn về lửa kia trải qua bảy ngày đêm. Tôi và Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã đi vào cõi ấy. Sau đó, chúng tôi lại đi đến tam thiên đại thiên thế giới thứ hai, lại càng rộng lớn hơn thế giới trước rồi ở trong đó, Bồ-tát Vănthù-sư-lợi hỏi: “Nhờ thần lực của ai mà Đại đức vào được thế giới này?”

Khi ấy, tôi đáp: “Nhờ thần lực của Nhân giả mà tôi đến được thế giới này.”

 

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giữ tâm chánh niệm trước mặt, dùng thần lực của Bồ-tát, trong khoảng thời gian bằng một niệm, biến hóa ra lưới hoa sen che khắp bên trên đám lửa rồi đi vào cõi ấy. Vào xong, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi tôi: “Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Ý Đại đức nghĩ sao? Thần lực của Đại đức hơn hay thần lực của tôi hơn?”

Tôi nói: “Thưa Nhân giả! Chim cánh vàng chúa bay nhanh hơn hay chim nhỏ bay nhanh hơn?”

Bồ-tát Văn-thù hỏi lại tôi: “Ý Đại đức nghĩ sao? Hai loài chim ấy, loài nào bay nhanh hơn?”

Tôi đáp: “Thần lực của tôi giống như loài chim nhỏ kia, còn thần lực của Nhân giả thì nhanh hơn, thù thắng đặc biệt hơn cả chim cánh vàng.”

Bồ-tát Văn-thù liền bảo tôi: “Thưa Đại đức! Đại đức suy nghĩ một mình: Thần lực của Bồ-tát Văn-thù và thần lực của ta đều như nhau không có gì khác.”

Tôi đáp: “Thưa Nhân giả! Thần lực của Nhân giả, tôi không thể sánh bằng.”

Bồ-tát Văn-thù hỏi: “Làm sao Đại đức biết được?”

Tôi đáp: “Hàng Thanh văn chưa đoạn trừ tập khí, cho nên tôi vốn đã không thể sánh bằng Nhân giả.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Lành thay! Lành thay! Đúng như lời Đại đức nói! Thưa Đại đức! Vào đời quá khứ xa xưa, nơi bờ biển nọ có hai vị Tiên ở. Một vị tên là Dục Pháp, vị kia tên là Phạm Dữ. Bấy giờ, tiên Dục Pháp đã đạt được năm thần thông, tiên Phạm Dữ thì nhờ năng lực của chú thuật mà có thể đi được trong hư không. Hai vị đều dùng thần lực của mình để vượt qua biển cả rồi trở lại chỗ ở. Lúc đó, tiên Phạm Dữ nói: “Thần lưc của Dục Pháp và thần lực của tôi đều như nhau không khác.” Lại vào một lúc khác, hai vị cùng từ bờ bên này qua bờ bên kia và đến đảo của quỷ La-sát. Có quỷ La-sát phát ra âm thanh của tiếng sáo, nghe âm thanh ấy, từ trên hư không, Phạm Dữ bị mất năng lực của chú thuật và rơi xuống đất. Dục Pháp vì thương Phạm Dữ nên dìu Phạm Dữ trên cánh tay trái rồi đưa về chỗ ở.

Thưa Đại đức! Ý Đại đức nghĩ sao? Vị tiên Phạm Dữ ấy đâu phải la người lạ, đừng nghĩ là ai khác, chính là Đại đức, và tôi là tiên Dục Pháp. Thưa Đại đức! Lúc ấy, Đại đức cũng không bằng tôi mà lại cho là bằng, ngày nay cũng không bằng mà cho là bằng. Vì sao? Vì kiến chấp thiên lech.”

Bấy giờ, Đại đức Xá-lợi-phất lại nói với Đại đức Tu-bồ-đề:

–Tôi lại nhớ tôi cùng với Bồ-tát Văn-thù từ các thế giới ở phương Nam đi qua trăm ngàn cõi Phật rồi cùng đến cõi nước tên là Nhất thiết trang nghiêm, Phật hiệu là Bảo Văn. Đến nước ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với tôi: “Hôm nay, Đại đức có thấy cõi Phật này không, các nước mà chúng ta đã đi qua, Đại đức có nhìn thấy hết không?”

Tôi đáp: “Tôi đã thấy.”

Bồ-tát lại hỏi: “Đại đức đã nhìn thấy những gì?”

Khi ấy, tôi đáp: “Tôi nhìn thấy hoặc nước tràn đầy, hoặc thấy lửa tràn lan, hoặc thấy cõi hư không, hoặc thấy sự sống hưng thịnh, vui vẻ.”

Bồ-tát Văn-thù lại hỏi: “Làm thế nào mà Đại đức thấy được?”

Tôi đáp: “Nếu thấy nước tràn đầy thì tôi nói nước tràn đầy, nếu thấy lửa tràn lan thì tôi nói lửa tràn lan, nếu thấy cõi hư không thì tôi nói cõi hư không, nếu thấy sự sống hưng thịnh, vui vẻ, thì tôi nói sự sống hưng thịnh, vui vẻ.”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Đó chính là cảnh giới theo đối tượng nhìn thấy của Đại đức.”

Tôi liền hỏi: “Thưa Nhân giả! Vậy Nhân giả làm thế nào để thấy được các cõi Phật?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Thế giới hư không chính là thế giới chư Phật. Vì sao? Vì Đại đức còn mê lầm nên mới thấy nước, lửa, cõi hư không và sự sống hưng thịnh, vui vẻ. Thưa Đại đức! Những điều mà Đại đức đã nhìn thấy đều không thật, tương ứng sinh diệt. Thế giới hư không thì không nhờ nhân duyên mà có, nhưng bản tánh của hư không vẫn tồn tại. Cũng vậy, thưa Đại đức! Phiền não khách trần làm nhiễm ô tâm ý, nhưng bản tánh của tâm vẫn không ô nhiễm. Thưa Đại đức! Như tai họa về lửa đốt cháy trong các kiếp nhiều bằng số cát sông Hằng nhưng không hề thiêu đốt hư không. Cũng vậy, thưa Đại đức! Trong các kiếp nhiều như số cát sông Hằng, mỗi chúng sinh đều tạo tác các nghiệp bất thiện, các tội đại nghịch nhưng bản tánh của tâm họ vẫn không bị nhiễm ô. Thưa Đại đức! Thiện nam, thiện nữ nào hiểu rõ được sự thanh tịnh của bản tánh pháp giới như vậy thì không có phiền não, nhơ uế, sự che lấp hay sự trói buộc nào có thể làm cho tâm họ bị buồn bực được. Đó gọi là pháp môn không có sự ngăn che trói buộc. Nếu nương tựa vào pháp môn này thì tất cả các pháp đều không thể che lấp, hiểu rõ được sự thể nhập thanh tịnh của tất cả các pháp, hoàn toàn không có một pháp nào ngăn che được tâm ý.”

Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thần thông biến hóa giảng nói pháp như vậy. Tôi thấy những sự thần thông của Bồ-tát, các Bồ-tát còn không thể đạt được, huống nữa là các Thanh văn.

Bấy giờ, Đại đức A-nan lại thưa với Đại đức Xá-lợi-phất:

–Tôi cũng đã từng nhìn thấy thần thông biến hóa của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Thưa Đại đức! Ngày trước, một thuở nọ, Đức Thế Tôn ở tại tinh xá nơi khu vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo Tăng tám trăm vị, chúng Đại Bồ-tát gồm một vạn hai ngàn vị. Lúc ấy, trời nổi mưa to bảy ngày bảy đêm mà vẫn không tạnh. Các Đại đức Thanh văn, vị thì đạt được thiền định và giải thoát, vị thì nhập vào thiền định bảy ngày không ăn, những người phàm phu và các vị hữu học khác thì tuyệt thực trong năm ngày, ai nấy đều đói lả và ốm gầy hẳn, nên không thể đến để diện kiến Đức Phật Thế Tôn và để cung kính cúng dường. Khi đó, tôi nghĩ: “Các vị Tỳ-kheo đang thật là khổ sở, mình nên đến thưa trình lên Phật.” Rồi tôi liền đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ ngang chân Phật, thưa: “Bạch Thế Tôn! Các vị Tỳ-kheo đã tuyệt thực năm ngày nay, tất cả các vị đều ốm gầy, không thể đứng dậy nổi.”

Đức Thế Tôn hỏi: “Này A-nan! Bây giờ, ông hãy đem việc này

đến nói với Văn-thù-sư-lợi. Vị ấy sẽ cung cấp thức ăn đầy đủ cho các Tỳ-kheo.”

Tôi vâng lời Phật dạy, đi đến chỗ tịnh thất của Bồ-tát Văn-thù. Đến nơi, tôi trình bày tường tận mọi việc như vậy. Khi ấy, đang giảng pháp cho các vua trời Đế Thích, Phạm vương và bốn vua trời Hộ thế, Bồ-tát Văn-thù liền đáp lời tôi: “Thưa Đại đức A-nan! Đại đức hãy trải tòa ngồi, khi nào thấy tôi đến thì đánh kiền chùy lên.”

Tôi nghe được lời nói ấy của Bồ-tát Văn-thù, liền trải tòa ngồi ở một chỗ nọ để nhìn lúc nào thì Bồ-tát Văn-thù ra khỏi thất. Bồ-tát Văn-thù vừa mới giảng thuyết Tam-muội Phân biệt nhất thiết thân cho các vua trời Đế Thích, Phạm vương và bốn vua trời Hộ thế, xong Bồtát vẫn không ra khỏi phòng. Tôi suy nghĩ: “Chắc Bồ-tát Văn-thù sẽ không cho thực phẩm cho các Tỳ-kheo kia.” Bồ-tát Văn-thù biến hóa thân hình, vì các vua trời Đế Thích, Phạm thiên và bốn vua trời Hộ thế, giảng nói Tam-muội Phân biệt nhất thiết thân. Bồ-tát Văn-thù cũng liền nhập vào Tam-muội này, từ phòng đi ra, Bồ-tát vào thành Xá-vệ để lần lượt khất thực, nhưng lúc ấy tôi không nhìn thấy Bồ-tát. Ma vương Ba-tuần nghĩ: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã thốt lên tiếng gầm sư tử rồi, sẽ vào thành Xá-vệ để đi khất thực. Ta sẽ ngăn che hết trong thành Xá-vệ, làm cho các Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ không ai ra vao để cúng dường thức ăn.” Khi đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đi đến trước các nhà dân, nhưng mọi nơi, cửa nẻo đều đóng kín, không người lui tới. Bồ-tát Văn-thù liền quan sát biết rõ: “Đây chính là do ma Ba-tuần che giấu hết mọi người. Ta nên nói lên lời thệ nguyện chân thành.” Nghĩ xong, Bồ-tát Văn-thù nói lời chí thành: “Tôi đã chứa nhóm được trong mỗi lỗ chân lông đều có phước đức và trí tuệ, giả sử các thế giới Phật nhiều như số cát trong sông Hằng, các ma ở đầy trong đó đều là không thật có. Nếu lời nói của tôi là đúng như thật thì sự ngăn che của ma hãy tan đi, khiến cho tự thân của ma đều làm thân hình cư sĩ ở trong các giao lộ và trên mọi ngả đường và nói lên như sau: “Nên cúng dường Bồ-tát Văn-thù! Nên cúng dường Bồ-tát Văn-thù! Người nào cúng dường như vậy sẽ đạt được phước báo lớn. Nếu bố thí cho tất cả các chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới các vật dụng ưa thích trong trăm ngàn ức năm thì phước cũng không bằng cúng dường cho Bồ-tát Văn-thù một chút thực phẩm bằng đầu móng tay.”

Trong khoảng chốc lát, Bồ-tát Văn-thù lập thệ nguyện như thế. Khi ấy, các vị trời làm cho tất cả các cửa của các nhà ở trong thành đều mở ra, khiến mọi người đều hướng đến Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Ma Ba-tuần làm thân hình cư sĩ ở trên khắp các ngả đường, nói lớn như sau: “Hãy cúng dường Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nên cúng dường Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu ai cúng dường Bồ-tát Văn-thù, sẽ đạt được phước báo lớn. Nếu bố thí cho tất cả các chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới các đồ dùng ưa thích, trải qua trăm ngàn năm thì phước đức cũng không bằng cúng dường Bồ-tát Văn-thù một chút thực phẩm bằng đầu móng tay.”

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù dùng diệu lực thần thông khiến cho một bình bát của Bồ-tát đựng được tất cả các đồ ăn, thức uống… nhưng không bị trộn lẫn, giống như đang đựng trong các đồ đựng khác nhau. Thức ăn để đủ cho tám trăm Tỳ-kheo và một vạn hai ngàn Bồ-tát đều dùng đựng trong một bình bát ấy, nhưng vẫn không thấy vơi cũng chẳng thấy đầy. Bấy giờ, khất thực ở thành Xá-vệ xong, Bồ-tát Vănthù ra khỏi thành, bưng bình bát đặt xuống đất và bảo ma Ba-tuần: “Nếu ngươi là người thanh tịnh thì hãy bưng bình bát trước mặt này đi.”

Ma Ba-tuần không thể nhấc bình bát lên nổi, vô cùng xấu hổ, nói: “Tôi không thể nhấc bình bát này lên được.”

Bồ-tát Văn-thù hỏi: “Ngày hôm nay, ngươi đã thành tựu thần lực nơi thành lớn này, sao lại không nhấc nổi một chiếc bình bát nhỏ lên khỏi mặt đất?”

Khi đó, ma Ba-tuần dùng hết thần lực cũng không thể nhấc chiếc bát lên được một phần nhỏ dù chỉ bằng một phần sợi lông, lấy làm kỳ lạ cho là điều chưa từng có, nói: “Thần lực của tôi nhấc bổng được núi Y-sa-đà, đặt núi ấy trên tay rồi đưa thẳng lên hư không, sao bây giờ lại không thể nhấc một chiếc bát nhỏ này lên được một phần dù chỉ bằng một phần sợi lông.”

Bồ-tát Văn-thù nói với ma Ba-tuần: “Chỉ có bậc đại chúng sinh, đại nhân, đại lực mới có thể bưng bình bát, còn ma Ba-tuần như ngươi thì không thể nào bưng lên được.”

Nói xong, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền dùng một ngón tay bưng bình bát lên đặt vào tay ma Ba-tuần và nói với ma: “Ngươi là người thanh tịnh, hãy bưng bình bát này đi trước ta.”

Ma Ba-tuần dùng hết thần lực của mình để bưng bình bát rồi đi trước Bồ-tát.

Bấy giờ, Thiên tử Tự Tại cùng với hai ngàn Thiên tử hầu hạ xung quanh, đồng đến chỗ của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, đảnh lễ ngang chân Bồ-tát, đi nhiễu quanh bên phải Bồ-tát xong, nói với ma Batuần: “Ngươi chẳng phải là người hầu, sao lại bưng bình bát đi trước Bồ-tát?”

Ma Ba-tuần đáp lời Thiên tử: “Hôm nay, tôi không thể trái lời người có thần lực.”

Thiên tử nói: “Này ma Ba-tuần! Ngươi cũng thành tựu năng lực đại oai thần mà.”

Khi ấy, ma Ba-tuần nhờ năng lực hộ trì của Bồ-tát Văn-thù-sưlợi, đáp: “Này Thiên tử! Năng lực của kẻ ngu si là năng lực của ma, năng lực của bậc trí tuệ là năng lực của Bồ-tát. Năng lực của kẻ kiêu mạn là năng lực của ma, năng lực đại trí tuệ là năng lực của Bồ-tát. Năng lực các tà kiến là năng lực của ma, năng lực không, vô tướng, vô tác là năng lực của Bồ-tát. Các năng lực điên đảo là năng lực của ma, năng lực của chân lý chắc thật là năng lực của Bồ-tát. Năng lực ngã, ngã sở là năng lưc của ma, năng lực đại Từ bi là năng lực của Bồ-tát. Năng lực tham, sân, si là năng lực của ma, năng lực giải thoát là năng lực Bồ-tát. Năng lực sinh tử là năng lực của ma, năng lực không sinh, không diệt, không tạo tác và năng lực pháp Nhẫn vô sinh là năng lực của Bồ-tát….”

Ma vương Ba-tuần nói pháp này xong, trong đại chúng có năm trăm Thiên tử phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, một ngàn hai trăm Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với ma Ba-tuần bưng bình thức ăn ấy đến để trong vườn hoa Ca-lợi-la rồi đều đi ra.

Lúc đó, tôi không thấy Bồ-tát Văn-thù, cho đến giờ thọ thực mà Bồ-tát van chưa ra khỏi phòng. Tôi suy nghĩ: “Bồ-tát Văn-thùsư-lợi chắc sẽ không giúp cho đại chúng các Tỳ-kheo rồi, mình nên về thưa lại Đức Phật.”

Tôi liền về lại chỗ Đức Phật, đảnh lễ ngang chân Phật rồi thưa: “Thưa Thế Tôn! Giờ ngọ đã đến mà Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vẫn chưa ra khỏi phòng.”

Đức Phật nói: “Này A-nan! Ông không đến vườn Ca-lợi-la và không nhìn thấy gì hay sao?”

Tôi đáp: “Bạch Thế Tôn! Con chỉ thấy một chiếc bình bát nhỏ, trong đó có đầy thức ăn.”

Đức Phật nói: “Hãy mau đi đánh kiền chùy để tập hợp đại chúng Tỳ-kheo.”

Tôi thưa: “Bạch Thế Tôn! Chúng Tỳ-kheo thì đông, chỉ một bình bát thức ăn này thì biết cho vị nào?”

Đức Phật nói: “Ông đừng lo chuyện ấy! Giả sử tất cả các chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới ăn một bình bát thức ăn này trong trăm ngàn năm còn không hết được. Vì sao? Vì nhờ thần lực của Bồ-tát Văn-thù giữ gìn bình bát này. Văn-thù-sư-lợi có pháp bố thí Ba-la-mật với vô lượng công đức.”

Vâng lời Đức Phật, tôi liền đánh kiền chùy để tập hợp chúng Tăng. Khi ấy, thức ăn trong bình bát không bị trộn lẫn, hương vị rất thơm ngon hảo hạng, đại chúng đã dùng no đủ mà thức ăn trong bát vẫn không vơi giảm.

Lúc này, vì muốn quấy nhiễu Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, ma Batuần lại biến hóa ra bốn ngàn Tỳ-kheo, y phục rách rưới, oai nghi thô tháo, tay bưng bình bát bể mẻ, mặt mũi hốc hác, tay chân khẳng khiu, thân hình xấu xí, đi đứng lôi thôi lếch thếch… Các Tỳ-kheo ấy lấy thức ăn trong bình bát kia ăn no đầy đủ. Khi ấy, ma Ba-tuần lại khiến cho các Tỳ-kheo này mỗi người ăn nhiều bằng mười lần dân chúng thành Ma-kiệt-đà ăn, nhưng thức ăn trong bình bát vẫn còn đầy không hề vơi bớt. Khi đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dùng thần lực giữ gìn nên các Tỳ-kheo do ma Ba-tuần hóa ra có ăn bao nhiêu thì bình bát vẫn không vơi đi một phần nào. Họ dùng tay bốc ăn no nê tràn đầy, không thể nào nuốt nổi nữa, tất cả đều bị nghẹn hơi, trợn mắt và ngã lăn xuống đất.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi ma Ba-tuần: “Các Tỳ-kheo của ngươi sao không ăn nữa?”

Ma ác đáp: “Thưa Nhân giả! Các Tỳ-kheo này đều ngã xuống đất gần chết, Nhân giả đã bỏ thuốc độc vào thức ăn phải không?”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Người đã diệt hết các độc thì làm gì còn chất độc. Người bên trong vẫn còn độc thì cho người khác chất độc, còn người bên trong không còn độc thì không cho người khác chất độc. Này Ba-tuần! Chất độc nghĩa là tham, sân, si. Người đã thuần thục trong pháp khen ngợi hoàn hảo mà cho người khác chất độc, điều đó không thể có.

Lại nữa, này Ba-tuần! Độc nghĩa là vô minh, hữu ái, chấp ngã, ngã sở, chấp không có nhân duyên, chấp vào danh sắc, chấp tham, sân, si, chấp ngã, chấp chúng sinh, chấp các triền cái, chấp thủ các ấm, khởi tâm kiêu mạn, chấp thủ các nhập, thường ở trong ba cõi, bị lệ thuộc, nương tựa, giữ gìn những điều lấy bỏ… hoặc đến, hoặc đi, đắm nhiễm nơi thân, chấp chặt vào thọ mạng, suy nghĩ bất tịnh, tâm ưa thích điều ô nhiễm, tạo nhiều lỗi lầm, trái nghịch pháp nhân duyên, chấp thường, chấp đoạn, dua nịnh, kiêu mạn, vọng tưởng phân biệt, làm điều dối trá, chấp giữ vào chỗ ở, vào ra, co duỗi đều kinh sợ pháp không, ở trong pháp vô tưởng lại cho là đọa lạc, trong pháp vô tác lại sinh ý tưởng sợ chết, trong pháp vô trước lại khởi ý tưởng sợ hãi, đối với việc ra khỏi sinh tử thì khởi tưởng cho là trói buộc, ở trong dòng phien não không hề có ý tưởng vượt qua, đối với pháp hỗ trợ đạo quả Bồ-đề lại cho là phi pháp, đối với tà kiến lại tưởng là chánh kiến, đối với tri thức ác lại cho là tri thức thiện, trái lời Phật dạy, chê bai chánh pháp, khinh thường chúng Tăng, không bỏ kiêu mạn, tăng trưởng tranh cãi, thật cho là không thật, không thật cho là thật, ở trong dục lạc lại cho là pháp công đức, ở trong hữu vi tâm sinh dối trá, mê hoặc, ở trong sinh tử không thấy lỗi lầm của nó, đối với Niết-bàn lại sinh ý tưởng sợ hãi…

Này Ba-tuần! Ở trong diệu pháp, các pháp như vậy gọi là chất độc. Trong chánh pháp của Phật, không có những pháp như vậy. Này Ba-tuần! Pháp cam lộ được gọi là pháp Phật, pháp an ổn gọi là pháp Phật, pháp không hý luận gọi là pháp Phật, pháp không lỗi lầm gọi là pháp Phật, pháp không còn kết sử gọi là pháp Phật, pháp cốt yếu đạt giải thoát gọi là pháp Phật, pháp không sợ hãi gọi là pháp Phật, pháp không phân biệt gọi là pháp Phật, pháp không chấp tự mình và người khác gọi là pháp Phật, pháp không chê trách gọi là pháp Phật; pháp như là nhà cửa, là nơi nương tựa, là đảo, là bến bờ, pháp giữ gìn ủng hộ… gọi là pháp Phật; pháp tịch tĩnh, thuần thục gọi là pháp Phật; pháp tự thanh tịnh, không cấu uế và soi sáng gọi là pháp Phật; pháp hướng đến chân chánh gọi là pháp Phật; pháp điều phục khéo léo, không còn vọng tưởng gọi là pháp Phật; pháp tùy cơ nghi để khéo léo giáo hóa, dẫn dắt gọi là pháp Phật; pháp tự giảng nói và nói về người khác gọi là pháp Phật, pháp thu phục các ngoại đạo theo đúng như pháp gọi là pháp Phật, pháp điều phục các ma gọi là pháp Phật, pháp làm gián đoạn dòng sinh tử gọi là pháp Phật, pháp chánh niệm gọi là pháp Phật vì an trụ trong niệm xứ, pháp tinh tấn chân chánh gọi là pháp Phật vì đoạn trừ các điều ác, pháp bốn thần túc gọi là pháp Phật vì quán tưởng thân tâm nhẹ nhàng, pháp về các căn gọi là pháp Phật vì tín đứng đầu, pháp về các lực gọi là pháp Phật vì không ai có thể làm cho khuất phục được, các pháp giác quán gọi là pháp Phật vì tuần tự giác quán, pháp con đường chân chánh gọi là pháp Phật vì nhập vào các dòng Thánh chân chánh, pháp Tam-muội gọi là pháp Phật vì hoàn toàn tịch tĩnh, pháp trí tuệ gọi là pháp Phật vì quán xuyến hết các pháp giải thoát của bậc Thánh, pháp chân lý chắc thật gọi là pháp Phật vì không còn giận dữ; pháp về các biện tài gọi là pháp Phật vì pháp, ngôn từ và ý nghĩa giảng nói đều không trở ngại; pháp thấu rõ vô thường, khổ, không, vô ngã gọi là pháp Phật vì chê trách tất cả các pháp hữu vi; pháp không gọi là pháp Phật vì thu phục được tất cả các ngoại đạo, pháp tịch tĩnh gọi là pháp Phật vì hướng đến Niết-bàn, pháp Ba-la-mật gọi là pháp Phật vì đạt đến bờ bên kia, pháp phương tiện gọi là pháp Phật vì khéo léo giáo hóa, pháp về tâm Từ gọi là pháp Phật vì trí không lỗi lầm, pháp về tâm Bi gọi là pháp Phật vì không bức ngặt, pháp về tâm Hỷ gọi là pháp Phật vì diệt trừ sự không vui lòng, pháp Xả gọi là pháp Phật vì việc làm được hoàn thành, pháp thiền gọi là pháp Phật vì diệt trừ kiêu mạn, pháp không gián đoạn ba ngôi báu gọi là pháp Phật vì phát tâm Bồ-đề; tất cả các pháp an lạc, không còn khổ não đều gọi là pháp Phật vì không đưa đến các cõi….” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giảng nói pháp này xong, năm trăm Thiên tử theo Ma vương Ba-tuần đều phát tâm cầu đạo quả Chánh giác Vô thượng, họ nói: “Bạch Thế Tôn! Kính xin Thế Tôn khiến cho chúng con được an trú trong pháp mà Thế Tôn đã khen ngợi.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền mỉm cười. Đại đức A-nan thưa: “Thưa Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười?”

Đức Phật hỏi: “Này A-nan! Ông có thấy những Tỳ-kheo của ma

Ba-tuần biến hóa hay không?”

Đại đức A-nan đáp: “Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.”

Đức Phật nói: “Vào năm trăm năm sau, khi pháp gần diệt hết, sẽ có những Tỳ-kheo thân hình xấu xí như vậy, y phục rách rưới không tề chỉnh như vậy, thấp kém như vậy, không có trí như vậy… Vì sao? Vì các Tỳ-kheo đời sau phiền não nặng nề, tham lam lợi dưỡng, mưu làm nhiều việc, phá bỏ Tỳ-ni, trái vượt giới giải thoát, lìa bỏ pháp thanh tịnh. Những chỗ tới lui của họ đều nặng vì lợi lộc, không chú trọng đời sau, bị đui điếc, què chân, lú lẫn không có trí tuệ, mang nhiều bệnh tật… Những người như vậy đều ở trong pháp của ta mà xuất gia thọ giới, chỉ lo quyến thuộc và những người cung cấp, không vì trọng pháp. Này A-nan! Những giáo pháp mà ta thuyết giảng, chân chánh như vậy, đáng quý như vậy, nhưng lúc ấy, những người đó cũng sẽ chẳng thèm thấy, nghe. Chư Thiên lo buồn, còn ma vương Ba-tuần thì sẽ vô cùng vui mừng, không còn gì phải lo nghĩ.”

Lúc ấy, tôi (tức Đại đức A-nan) thưa: “Bạch Thế Tôn! Vì sao ma vương Ba-tuần lại vô cùng vui mừng, không còn gì phải lo nghĩ?”

Đức Phật nói: “Này A-nan! Vì những người ác ấy làm những việc làm của ma, ma vương Ba-tuần không còn việc gì để làm. Vì sao? Vì do các Tỳ-kheo ấy không có hạnh chân chánh. Nếu có Tỳkheo nào siêng năng tinh tấn như cứu lửa cháy trên đầu, những người như vậy, Ma vương sẽ tìm tòi những điều dở của họ. Cho nên, này Anan! Ông hãy siêng năng, tạo phương tiện, chưa đạt được làm cho đạt được, chưa giải thoát khiến được giải thoát, chưa chứng đắc khiến cho chứng đắc, thu phục bè nhóm của ma, làm rạng rỡ pháp Phật, ủng hộ giữ gìn chánh pháp, thực hành cúng dường pháp, không nên buông lung, đó chính là giáo pháp của ta.”

Đức Phật giảng nói pháp như vậy xong, năm trăm Tỳ-kheo (do ma vương hóa ra) đều muốn bỏ mạng sống, thưa: “Thưa Thế Tôn! Chúng con không muốn thấy cõi đời xấu ác ấy.”

Rồi họ liền nhảy vọt lên hư không, dùng lửa đốt cháy thân. Năm ngàn chư Thiên đều cúng dường Phật. Hai trăm Tỳ-kheo xa lìa trần cấu được Pháp nhãn thanh tịnh. Hai trăm Tỳ-kheo được dứt hẳn các lậu, tâm đạt giải thoát. Ba vạn hai ngàn Bồ-tát đạt được pháp nhẫn. Vua trời Đế Thích, Phạm vương, bốn vua trời Hộ thế và các quyến thuộc đều đảnh lễ ngang chân Phật, rồi thưa: “Kính xin Đức Thế Tôn trụ lâu ở đời, xin đừng cho chúng con nhìn thấy cõi đời xấu ác như vậy. Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sinh nào được nghe kinh này, họ sẽ không bao giờ biếng trễ và làm những việc buông lung, họ cũng

không làm những việc làm ác của ma.”

Khi ấy, nghe như vậy xong, tôi bất tỉnh ngã xuống đất.

–Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tôi thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thành tựu diệu lực thần thông không thể nghĩ bàn như vậy, và tôi cũng chính mắt nhìn thấy việc giảng nói pháp như vậy.

Bấy giờ, Đại đức Ca-diếp nói với Đại đức Xá-lợi-phất:

–Tôi cũng đã từng được thấy thần thông hiếm có của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Bấy giờ, Đức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu, tôi xuất gia cũng được một thời gian khá dài. Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mới đến thế giới Ta-bà này, Bồ-tát từ thế giới Bảo Vương của Đức Phật Bảo Tướng đến để được gặp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và cung kính cúng dường. Thuở ấy, Đức Thế Tôn ở tinh xá nơi khu vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc thành Xá-vệ. Ba tháng hạ an cư, tôi không hề thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở trước Như Lai, trong chúng Tăng, trong giờ thọ thực, trong ngày tụng giới, hay đi theo thứ tự trong hàng ngũ chúng Tăng… Qua ba tháng xong, vào ngày tự tứ, tôi mới thấy Bồ-tát. Tôi liền hỏi: “Thưa Nhân giả! Ba tháng an cư mùa hạ, Nhân giả ở đâu?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Thưa Đại đức! Tôi ở nơi hậu cung của vua Ba-tư-nặc thành Xá-vệ trong một tháng, lại một tháng tôi ở trong trường học của trẻ con, còn trong một tháng cuối cùng tôi ở trong nhà của các dâm nữ.”

Nghe như vậy xong, tôi không vui chút nào, liền suy nghĩ: “Sao lại phải ở chung với những người không thanh tịnh như vậy mà tự tứ.” Nghĩ xong, tôi liền ra khỏi nhà đi đánh kiền chùy tập hợp chúng Tăng để đuổi Bồ-tát Văn-thù ra khỏi chúng. Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói với Bồ-tát Văn-thù: “Ông hãy đến xem, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hôm nay, vì sao Đại Ca-diếp lại đánh kiền chùy?”

Bồ-tát Văn-thù thưa: “Thưa Thế Tôn! Con đã thấy, các vị ấy muốn đuổi con ra khỏi chúng.”

Đức Phật nói: “Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bây giờ, ông hãy hiện bày cảnh giới thần lực thần thông của ông để làm cho tâm của các Thanh văn ấy được thanh tịnh, để khỏi sinh tâm không thanh tịnh đối với ông.”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền nhập vào Tam-muội tên Hiện nhất thiết Phật độ. Khi Bồ-tát nhập vào Tam-muội ấy, trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng trong khắp mười phương đều có Đại đức Đại Ca-diếp là vị tu khổ hạnh bậc nhất đang đánh kiền chùy.

Khi đó, Đức Thế Tôn hỏi tôi: “Này Ca-diếp! Hôm nay, vì sao mà ông lại đánh kiền chùy?”

Tôi thưa: “Thưa Thế Tôn! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã tự nói: Trong ba tháng an cư mùa hạ, vị ấy ở trong hậu cung của vua và ở trong nhà của dâm nữ. Vì muốn tập hợp Tăng chúng để đuổi vị ấy nên con đánh kiền chùy.”

Khi ấy, từ nơi thân của Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng chiếu khắp mười phương, Đức Thế Tôn bảo tôi: “Ông hãy nhìn khắp mười

phương thế giới xem thử có thấy gì không.”

Tôi liền nhìn khắp vô lượng, vô số các thế giới nhiều như cát sông Hằng ở khắp mười phương, trong các thế giới ấy đều có Đại Cadiếp đang đánh kiền chùy vì muốn đuổi Bồ-tát Văn-thù. Tất cả những cõi ấy cũng đều có Bồ-tát Văn-thù đang ngồi ở trước Phật.

Đức Phật hỏi: “Ông muốn đuổi Bồ-tát Văn-thù ở chỗ nào trong các thế giới nơi khắp mười phương ấy?”

Tôi liền đảnh lễ nơi chân Đức Thế Tôn rồi thưa: “Bạch Thế Tôn! Cho con xin được sám hối. Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn như vậy của Bồ-tát. Con chỉ theo Phật đạt được trí có hạn lượng mà vẫn chưa đạt được trí tuệ vô lượng, vì không biết nên đã đánh kiền chùy.”

Đức Phật nói: “Này Đại Ca-diếp! Ông đã nhìn thấy Văn-thù-sưlợi trong các thế giới ở khắp mười phương, vị ấy cũng trong ba tháng an cư mùa hạ ở trong hậu cung của vua và trong nhà các dâm nữ. Chính ở những nơi ấy, Văn-thù-sư-lợi đã khiến cho năm trăm cô gái trong cung vua Ba-tư-nặc được tâm không thoái chuyển đối với đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vị ấy cũng khiến cho năm trăm dâm nữ và năm trăm đồng tử đạt tâm không thoái chuyển đối với đạo Chánh chân Vô thượng. Lại có trăm ngàn chúng sinh nhờ pháp Thanh văn mà được thuần thục, vô số chúng sinh được sinh lên cõi trời.”

Khi ấy, tôi thưa: “Thưa Thế Tôn! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giảng nói pháp gì mà có thể giáo hóa chúng sinh như vậy?”

Đức Phật đáp: “Này Ca-diếp! Ông hãy hỏi Văn-thù-sư-lợi, vị ấy sẽ đáp lời ông.”

Tôi liền hỏi Bồ-tát Văn-thù: “Thưa Nhân giả! Nhân giả giảng nói pháp gì để có thể thu phục chúng sinh như vậy?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Thưa Đại đức! Không phải chỉ nhờ giảng nói pháp mà giáo hóa được chúng sinh. Thưa Đại đức! Có chúng sinh thì dùng sự vui vẻ để thu phục, có chúng sinh thì phải dùng sự ủng hộ, hoặc dùng oai lực để điều phục, hoặc dùng tiền của, hoặc dùng sự tham cầu, hoặc hiện bày sự trang nghiêm, hoặc có khi cũng thị hiện thần thông, hoặc hiện thân Đế Thích, hiện ra thân Phạm vương, thân vua trời Hộ thế, hoặc thân vua Chuyển luân, hoặc tùy theo đối tượng mà hiện ra thân chư Thiên, hoặc dùng lời dịu dàng, hoặc dùng lời mạnh mẽ, hoặc dùng cả hai, hoặc bằng cách trách phạt, hoặc dùng cách lợi ích bí mật, hoặc thị hiện làm con… Vì sao? Thưa Đại đức! Vì chúng sinh có nhiều loại pháp để giáo hóa họ. Thưa Đại đức! Tôi dùng phương tiện để giáo hóa chúng sinh, sau đó mới giảng nói pháp để khiến cho họ được hoàn toàn thuần thục.”

Khi ấy, tôi hỏi: “Thưa Nhân giả! Nhân giả đã giáo hóa được bao nhiêu chúng sinh?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Thưa Đại đức! Tôi đã điều phục được các chúng sinh nhiều bang pháp giới.”

Tôi lại hỏi: “Pháp giới là bao nhiêu?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Như cõi chúng sinh.”

Tôi hỏi tiếp: “Cõi chúng sinh lại có bao nhiêu?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Như cõi hư không. Như vậy, thưa Đại đức! Pháp giới, cõi chúng sinh và cõi hư không là như nhau, không hai, không khác.”

Tôi lại hỏi: “Thưa Nhân giả! Đức Phật xuất hiện ở đời không có đối tượng giáo hóa chăng?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Thưa Đại đức! Như người bị bệnh nóng nên luôn miệng nói sảng: “Trong đây có quỷ thần dựa nhập.” Có vị thầy thuốc giỏi cho người ấy uống váng sữa, bệnh nóng được thuyên giảm, người kia không còn nói sảng nữa. Ý Đại đức nghĩ sao? Trong đó có quỷ thần nào bỏ đi không?”

Tôi đáp: “Dạ không! Thưa Nhân giả! Nhờ uống váng sữa mà người ấy được hết bệnh nóng.”

Bồ-tát Văn-thù lại hỏi: “Thưa Đại đức! Vị thầy thuốc ấy có phải đã làm nhiều lợi ích cho người đó không?”

Tôi đáp: “Thưa Nhân giả, đúng vậy.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Thưa Đại đức! Thế gian bị bệnh nóng điên đảo nên vô ngã cho là ngã, ở trong ngã tưởng nên bị trôi lăn trong sinh tử. Vì vậy, Đức Như Lai xuất hiện ở đời tùy theo hình sắc của thế gian mà dạy pháp môn giải thoát thích hợp để họ biết cách giải thoát khỏi ngã tưởng, đoạn trừ điên đảo nên Ngài vì các chúng sinh ấy mà giảng nói pháp. Họ nghe pháp rồi liền được diệt trừ tất cả các tưởng, không còn chấp thủ, biết cách thoát khỏi các tưởng rồi liền vượt qua dòng sinh tử đến được bờ bên kia, đó gọi là Niết-bàn.

Thưa Đại đức! Ý Đại đức nghĩ sao? Có người nào còn chấp ngã, chúng sinh, người nuôi dưỡng mạng sống và bậc Trượng phu có thể nhập vào Niết-bàn không?”

Tôi đáp: “Thưa không, Nhân giả.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Thưa Đại đức! Vì lợi ích như vậy mà Như Lai xuất hiện ở đời, Như Lai chỉ vì hiển bày tướng bình đẳng, không vì sinh hay diệt, chỉ vì để giảng giải cho người được hiểu rõ phiền não là không thật….”

Khi ay, tôi nói: “Thưa Nhân giả! Việc làm của Bồ-tát thật là hiếm có! Bồ-tát quan sát biết bản tánh của chúng sinh đều hoàn toàn tịch tĩnh, vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh mà không bỏ sự trang nghiêm, biết bản tanh của chúng sinh là Niết-bàn hoàn hảo. Bồtát lại còn có thể phát thệ nguyện lớn trang nghiêm.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Thưa Đại đức! Những sự trang nghiêm của Bồ-tát đồng với Như Như.”

Tôi nói: “Thưa Nhân giả! Xin Nhân giả giảng nói về sự phát ra trang nghiêm lớn của Bồ-tát.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Đại Bồ-tát phát ra sự trang nghiêm lớn có ba mươi hai việc. Ba mươi hai điều ấy gồm:

  1. Bồ-tát giáo hóa vô lượng sinh tử, phát ra sự trang nghiêm lớn vì tánh không như mộng.
  2. Bồ-tát làm cho vô lượng chúng sinh được diệt độ, phát ra sự trang nghiêm lớn vì không chấp ngã.
  3. Bồ-tát cúng dường phụng sự vô lượng các Đức Phật Thế Tôn, phát ra sự trang nghiêm lớn vì tướng đồng với Pháp thân.
  4. Bồ-tát nghe nhận tất cả các pháp Phật, phát ra sự trang nghiêm lớn vì tướng như tiếng vọng.
  5. Bồ-tát ủng hộ tất cả các pháp Phật, phát ra sự trang nghiêm lớn vì thấu đạt tướng bình đẳng của các pháp.
  6. Bồ-tát thu phục tất cả các ma, phát ra sự trang nghiêm lớn vì tánh tướng của tất cả các phiền não đều thanh tịnh.
  7. Bồ-tát điều phục tất cả các ngoại đạo làm phát ra sự trang nghiêm lớn, khiến cho những người chấp có, chấp không đều hiểu rõ tướng nhân duyên.
  8. Bồ-tát xả bỏ tất cả những gì mình có, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, vì tất cả các tướng đều xả bỏ hoàn toàn.
  9. Bồ-tát chứa nhóm các công đức giới hạnh Đầu-đà, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, vì không có tướng thực hành.
  10. Bồ-tát có năng lực nhẫn nhục làm phát ra sự trang nghiêm lớn, vì không có tướng bị thương tổn.
  11. Bồ-tát tinh tấn làm phát ra sự trang nghiêm lớn, vì hiểu rõ thân tâm đều tịch tĩnh.
  12. Bồ-tát tu tập tất cả các thiền định, giải thoát, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, lìa bỏ tất cả các thứ nương tựa.
  13. Bồ-tát có Trí tuệ ba-la-mật vô ngại, phát ra sự trang nghiêm lớn, trừ sạch vô minh và các kiến chấp si ám.
  14. Bồ-tát dùng phương tiện phát ra sự trang nghiêm lớn, thị hiện tất cả các việc làm.
  15. Bồ-tát tu đại Từ phát ra sự trang nghiêm lớn, vì tướng như hư không.
  16. Bồ-tát tu đại Bi phát ra sự trang nghiêm lớn, hiểu rõ năm cõi đều như hư không.
  17. Bồ-tát tu tâm đại Hỷ, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, không còn sự lo buồn.
  18. Bồ-tát tu tâm đại Xả, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, xa lìa tướng khổ vui.
  19. Bồ-tát tu tập viên mãn trí tuệ thần thông, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, quan sát thấy được giải thoát rõ ràng như trong lòng bàn tay.
  20. Bồ-tát không nhớ nghĩ đến các pháp vô ngã, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, không sợ rơi vào các quả vị Thanh văn, Duyên giác.
  21. Bồ-tát quan sát các ấm như oán thù, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, biết các tướng như huyễn.
  22. Bồ-tát quan sát bốn đại như rắn độc, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, tướng đồng như pháp giới.
  23. Bồ-tát quan sát các nhập như làng xóm trống không, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, biết các tướng như thù oán.
  24. Bồ-tát không chấp vào ba cõi, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, không lệ thuộc các chỗ cư trú.
  25. Bồ-tát bao gồm chắc chắn các cõi, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, tướng cõi và chẳng phải cõi.
  26. Bồ-tát tu tâm đại Bi, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, tướng không thoái lui.
  27. Bồ-tát làm vị thầy thuốc giỏi bậc nhất, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, tùy theo bệnh tật của chúng sinh mà ban cho thuốc pháp.
  28. Bồ-tát làm vị đại thương buôn, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, chỉ bày hướng dẫn đạo ba thừa giải thoát.
  29. Bồ-tát không hề làm gián đoạn hạt giống ba ngôi quý báu, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, biết báo ân tất cả chư Phật.
  30. Bồ-tát biết tánh các pháp vốn không sinh, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, đạt được pháp Nhẫn vô sinh.
  31. Bồ-tát vì đạt được đạo quả không thoái chuyển mà làm phát ra sự trang nghiêm lớn, xả bỏ tất cả các phiền não trói buộc trong ba cõi và xả bỏ các quả vị Thanh văn, Duyên giác.
  32. Bồ-tát trang nghiêm đạo tràng, làm phát ra sự trang nghiêm lớn, dùng trí tuệ tương ưng như thật, trong một niệm biết rõ tất cả các pháp đúng như thật.

Như vậy, thưa Đại đức Ca-diếp! Đó là ba mươi hai loại làm phát ra sự trang nghiêm lớn của Bồ-tát. Đại Bồ-tát dùng sự trang nghiêm lớn ấy để tự trang nghiêm. Thể của bốn đại có thể biến đổi tánh của chúng, nhưng Bồ-tát đối với đạo Vô thượng không hề thoái chuyển.”

Tôi liền nói: “Phát ra một sự trang nghiêm lớn thì đã đạt không thoái chuyển, huống nữa là phát ra ba mươi hai loại. Thưa Nhân giả! Trong pháp của Thanh văn không có pháp trang nghiêm.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Thưa Đại đức! Vì thế, Thanh văn không có sự trang nghiêm lớn như các Bồ-tát, dù chỉ là có tên gọi. Thưa Đại đức! Ý Đại đức thế nào? Như có người mạnh khỏe mặc áo giáp đồng, tay cầm đao bén để khéo léo trang nghiêm, cũng có người yếu đuối tự làm trang nghiêm một cách thô xấu, vậy thì hai sự trang nghiêm ấy có thể so sánh nhau không?”

Tôi đáp: “Thưa không, Nhân giả.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Thưa Đại đức! Vì ý nghĩa ấy cho nên sự trang nghiêm của Bồ-tát, tất cả các Thanh văn và các Duyên giác đều không thể có được.”

Khi Bồ-tát Văn-thù giảng nói về sự trang nghiêm lớn của Bồ-tát, một vạn hai ngàn Thiên tử phát tâm cầu đạo quả Chánh chân Vô thượng.

Vì vậy, thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tôi thấy Bồ-tát Văn-thù-sưlợi có trí tuệ, thần thông không thể nghĩ bàn vô lượng như thế.

Bấy giờ, Đại đức Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử nói với Đại đức Xálợi-phất:

–Thưa Đại đức! Tôi cũng đã từng được nhìn thấy việc làm của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Thuở ấy, Đức Phật ở trong vườn cây Am-la thuộc thành Tỳ-xá-ly cùng với năm trăm đại Tỳ-kheo đông đủ. Lúc đó, Ni-kiền Tử Tát-già ở trong thành Tỳ-xá-ly cùng với sáu vạn quyến thuộc đông đủ đang cung kính cúng dường. Tôi nhập vào Tam-muội để quan sát các Ni-kiền Tử này. Khi ấy, tôi thấy có trăm ngàn Ni-kiền Tử đáng được giáo hóa. Tôi liền đến để thuyết pháp cho họ. Không có người nào trong số họ chịu lắng nghe và có tâm thiện tốt, họ lại nhìn ngó, cười khinh thường và nói những lời thô ác. Tôi khổ nhọc uổng phí trong ba tháng mà không giáo hóa được một người nào. Sau ba tháng ấy với tâm ý không một chút vui vẻ, tôi bỏ ra đi.

Luc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền biến hóa ra trăm ngàn ngoại đạo và Bồ-tát tự làm thầy của họ. Bồ-tát dẫn theo năm trăm đệ tử ấy đến chỗ của Ni-kiền Tử Tát-già, đảnh lễ ngang chân vị ấy rồi thưa: “Từ xa, con đã được nghe danh đức của Đại sư, nên chúng con đã đến thành Tỳ-xá-ly này. Người là thầy của con, con là đệ tử. Xin hãy thu nhận và thương tưởng dạy bảo chúng con, để cho chúng con không gặp Sa-môn Cù-đàm, khiến cho chúng con không nghe pháp trái ngược của ông ấy.”

Tát-già đáp: “Lành thay! Lành thay! Ông đã được thuần tịnh, không bao lâu nữa sẽ được hiểu rõ pháp điều phục của ta.”

Rồi Tát-già tuyên bố với các đồ chúng của mình: “Từ nay về sau, năm trăm Ma nạp này sẽ hòa hợp đồng ở đây, cùng nhau học hỏi.

Những điều họ nói, các ông phải chuyên tâm lắng nghe.”

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi va năm trăm đệ tử được biến hóa ấy, được ngồi theo thứ tự, thọ nhận giới pháp của Ni-kiền Tử, oai nghi thù thắng hơn cả Tát-già, luôn luôn gần gũi khen ngợi công đức của ba ngôi báu, đồng thời cũng khen ngợi công đức của Tát-già, khiến cho tâm của những Ni-kiền Tử ấy đều thân thiết, nương tựa nhau.

Đến lúc nọ, biết mọi người đã nhóm họp, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Đối tượng tu hành của chúng ta là các kinh điển chú thuật và kinh Tỳ-đề-già, khi nào đọc tụng lên, các công đức của Sa-môn Cùđàm sẽ nhập vào kinh của chúng ta mà đến. Sa-môn Cù-đàm có công đức pháp chân thật. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm có sự đản sinh thành tựu, cha mẹ thanh tịnh, dòng giống vua Chuyển luân, trang nghiêm thân thể bằng hàng trăm tướng phước, lại nghe, khi Ngài đản sinh, đại địa chấn động, vua trời Đế Thích, Phạm thiên theo hầu, bước đi bảy bước và nói: Trong tất cả các đời, ta là bậc thù thắng bậc nhất, lớn mạnh bậc nhất, ta sẽ diệt hết các đời sinh tử. Trong hư không lại tự nhiên sinh ra hai dòng nước, các vị vua trời Đế Thích, Phạm thiên tắm rửa cho Ngài, các âm nhạc cõi người, cõi trời không tấu mà tự trổi lên, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp thế giới, diệt các đường ác, người điếc liền được nghe, người mù bỗng được nhìn thấy… Lúc ấy, tất cả các chúng sinh đều không bị phiền não, đều an vui, không tạo tác. Có vị Bà-la-môn đoán tướng: Nếu không xuất gia sẽ làm vị vua Chuyển luân, nếu xuất gia thì sẽ trở thành Phật, là vua các pháp. Nhưng Đức Cù-đàm ấy đã bỏ ngôi vua Chuyển luân, xuất gia tu đạo. Nơi đạo tràng, thu phục trăm ức ma ác, thành đạo Bồ-đề và vận chuyển bánh xe pháp vi diệu mà tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Ma, Phạm thiên, Thiên vương Hộ thế, hoặc trời, hoặc người, tất cả thế gian… đều không thể vận chuyển. Những pháp mà Ngài thuyết giảng, ban đầu, giữa và sau cùng đều thiện. Ban đầu thiện là gì? Đó là thân làm điều thiện, miệng, ý cũng thực hành điều thiện. Ở giữa thiện là gì? Học và thực hành giới thù thắng, học và thực hành định thù thắng và tuệ thù thắng. Sau cùng thiện là gì? Là pháp môn giải thoát về Tam-muội Không, pháp môn giải thoát về Tam-muội Vô tướng và pháp môn giải thoát về Tam-muội Vô nguyện.

Lại nữa, ban đầu thiện nghĩa là lòng tin, ước muon và không buông lung. Ở giữa thiện là định và niệm chuyên chú một chỗ. Sau cùng thiện là trí tuệ vi diệu.

Lại nữa, ban đầu thiện là niềm tin kiên cố vào Đức Phật. Ở giữa thiện là niềm tin bền chắc vào chánh pháp. Sau cùng thiện là niềm tin không thể hủy hoại vào Thánh tăng chứng đắc có quả vị.

Lại nữa, ban đầu thiện là nghe pháp từ người khác. Ở giữa thiện là chánh niệm tu hành. Sau cùng thiện là đạt được chánh kiến của bậc Thánh.

Lại nữa, ban đầu thiện là biết rõ khổ, đoạn trừ tập (nguyên nhân của khổ). Ở giữa thiện là tu hành chánh đạo. Sau cùng thiện là chứng đắc diệt độ.

Như thế gọi là ban đầu, giữa và sau cùng đều thiện của hàng Thanh văn.

Thế nào là ban đầu, giữa và sau cùng đều thiện của Bồ-tát? Không bỏ tâm Bồ-đề được gọi là ban đầu thiện. Không nghĩ đến các thừa thấp kém được gọi là ở giữa thiện. Hồi hướng về Nhất thiết trí đó là sau cùng thiện.

Lại nữa, ban đầu thiện là có tâm Từ, bình đẳng đối với chúng sinh. Ở giữa thiện là đối với chúng sinh khởi tâm đại Bi, thực hành các phương tiện. Sau cùng thiện là tâm Hỷ, Xả bình đẳng đối với tất cả.

Lai nữa, ban đầu thiện là chế ngự tâm tham lam bỏn sẻn, xa lìa sự phá giới, bỏ hẳn tâm giận dữ, chấm dứt biếng trễ, không ở trong tâm tán loạn, giết hại và không hiểu biết. Ở giữa thiện là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Sau cùng thiện là dùng các pháp Ba-la-mật để hồi hướng về Nhất thiết trí.

Lại nữa, ban đầu thiện là dùng bốn Nhiếp pháp để giáo hóa chúng sinh. Ở giữa thiện là giữ gìn, ủng hộ chánh pháp không tiếc thân mạng. Sau cùng thiện là phương tiện thiện xảo không lệ thuộc vào các quả vị.

Lại nữa, ban đầu thiện là thiền định như đất, không bỏ tất cả các tâm và hạnh của Bồ-tát. Ở giữa thiện là dùng phương tiện thiện xảo biết tới, biết lùi, an trụ trong địa không thoái chuyển. Sau cùng thiện là ở trong một đời, đạt được chánh vị quán đảnh. Đó là ban đầu, giữa và sau cùng đều thiện của Bồ-tát.”

 

Bấy giờ, ở giữa đại chúng các ngoại đạo, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lần lượt mở bày chánh pháp như vậy, khiến cho năm trăm ngoại đạo xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh, tám ngàn ngoại đạo phát tâm cầu đạo quả Chánh chân Vô thượng. Khi ấy, năm trăm đồ chúng ngoại đạo do Bồ-tát Văn-thù hóa ra đều ở trước Bồ-tát, đảnh lễ năm vóc sát đất, thưa: “Nam-mô Phật-đà! Nam-mô Phật-đà!” Các ngoai đạo khác, những người chưa tin chắc, thấy năm trăm Ma-nạp nói lời như vậy, họ cũng bắt chước đảnh lễ năm vóc sát đất và nói: “Nam-mô Phật-đà! Nam-mô Phật-đà!”

Lúc đó, Thích Đề-hoàn Nhân đưa hoa Mạn-đà-la cho mọi người và bảo: “Các ông hãy dâng hoa này để cúng dường Đức Phật.”

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và các đại chúng cung kính vây quanh cùng đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến nơi, họ đảnh lễ ngang chân Phật rồi đứng qua một bên. Khi ấy, các đại chúng cũng đảnh lễ ngang chân Phật rồi đứng qua một bên. Lúc đó, đệ tử của ngoại đạo Ni-kiền Tử dâng hoa Mạn-đà-la rải cúng dường Đức Phật, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi đứng qua một bên. Nhờ năng lực hộ trì của Bồ-tát Văn-thù, các Ma-nạp do Bồ-tát biến hóa đều thưa: “Bạch Thế Tôn! Hôm nay, chúng con đến đây nhưng chẳng vì để gặp Phật. Vì sao? Vì Như Lai là Pháp thân. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì phước đức của chung Tăng. Vì sao? Vì các Thánh tăng của Như Lai tu pháp vô vi. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì công đức. Vì sao? Vì trong pháp giới không có công đức và những sự khen ngợi. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu đạo. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều là đạo hoàn hảo. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì chứng quả. Vì sao? Vì không có lá, hoa, hay quả nào gọi là giải thoát. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì biết khổ. Vì sao? Vì xa lìa hai hành được gọi là giải thoát. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì đoạn trừ tập. Vì sao? Vì các pháp hoàn toàn không hòa hợp. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì chứng đắc diệt. Vì sao? Vì tất cả các pháp rốt ráo đều là diệt. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu đạo. Vì sao? Vì xa lìa có, không. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng tu niệm xứ. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều xa lìa xứ và chẳng phải xứ. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu chánh tinh tấn. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều xa lìa thiện, ác và vô úy. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu các như ý túc. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều chẳng có đến, đi. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu các căn. Vì sao? Vì tất cả các căn đều là nghĩa xa lìa. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu các lực. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không có lực và chẳng phải lực. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu các giác chi. Vì sao? Vì trong Đệ nhất nghĩa không có mặt của giác. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu chánh đạo. Vì sao? Vì không có sự đi đến cùng tận biên giới của thế gian. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu định. Vì sao? Vì trong định luôn luôn tịch tĩnh không khuấy động. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tu tuệ. Vì sao? Vì tuệ xuất thế gian không còn gì xen tạp. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì ba minh. Vì sao? Vì minh ấy đều rốt ráo là không. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì pháp giải thoát. Vì sao? Vì bản tánh các pháp là không trói buộc. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì làm Sa-môn. Vì sao? Vì xa lìa các phiền não được gọi là Sa-môn. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì làm Bà-la-môn. Vì sao? Vì đoạn trừ các hình sắc được gọi là Bà-la-môn. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì làm Tỳ-kheo. Vì sao? Vì tánh các pháp không hư hoại. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì đạt bờ bên kia. Vì sao? Vì sáu nhập luôn luôn tịch diệt. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì ít ham muốn. Vì sao? Vì cho đến một chút ham muốn cũng không có. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì biết đủ. Vì sao? Vì pháp không nắm giữ. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì tịch tĩnh. Vì sao? Vì thân tâm không lầm lỗi. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì bạn bè. Vì sao? Vì không ở chung với ba cõi. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng gần gũi bạn bè. Vì sao? Vì không thấy có hai. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì A-lan-nhã (nơi tịch mịch vắng vẻ). Vì sao? Vì các hành trong ba cõi đều là A-lan-nhã. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng tu pháp không tranh cãi. Vì sao? Vì chỉ một mình không bạn bè mới gọi là không tranh cãi. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì khất thực. Vì sao? Vì chúng con đã hoàn toàn đoạn trừ tưởng thực. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng sợ tất cả các hành trong sinh tử. Vì sao? Vì không chấp vào sự thật. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng sợ hãi tránh né tham, sân, si. Vì sao? Vì không có các vong tưởng phân biệt. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng siêng năng đoạn trừ kết sử. Vì sao? Vì tánh của tất cả các phiền não đều Như như, không nhiễm ô. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng ra khỏi kiến chấp về ngã. Vì sao? Vì tự thân là chẳng phải thân. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng làm thanh tịnh các tri kiến. Vì sao? Vì tánh các phiền não đều Như Như. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng đoạn trừ các điên đảo. Vì sao? Vì tánh của thường, lạc, ngã, tịnh là giải thoát. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vượt qua các dòng sinh tử. Vì sao? Vì không thấy có bờ bên này và bờ bên kia. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng đoạn trừ năm triền cái. Vì sao? Vì triền cái và giải thoát đều thông suốt. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng ra khỏi các trói buộc. Vì sao? Vì tận cùng pháp chân thật không hề có tướng trói buộc. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì đoạn trừ sự hối hận. Vì sao? Vì không hối hận về chân đế gọi là Sa-môn. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng lìa bỏ nghi ngờ. Vì sao? Vì luôn luôn có lòng tin vào pháp giải thoát thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng nhổ mũi tên ái dục lên. Vì sao? Vì niềm tin vào giải thoát đã thông suốt. Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng vì Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều là Niết-bàn hoàn hảo….”

Khi các Ni-kiền Tử được biến hóa nói pháp như thế, có hai trăm Tỳ-kheo không khởi lên các lậu, tâm được giải thoát.

Bấy giờ, trong chúng hội có hai trăm Tỳ-kheo trước đây đã chứng đắc trạng thái thiền thứ tư, các vị ấy khởi tăng thượng mạn cho rằng mình đạt thân sau cùng nên khinh thường người khác, liền đứng dậy bỏ đi và nói: “Các pháp được giảng nói ấy trái với tất cả thế gian. Chúng ta vốn đã được nghe giảng nói pháp tùy thuận, hôm nay chúng ta lại nghe giảng nói những điều chẳng phải pháp, chẳng phải Tỳ-ni, chẳng phải lời của bậc Đạo sư.” Đại đức Phú-lâu-na nói:

–Lúc ấy, tôi liền nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: “Hai trăm Tỳ-

kheo từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi và nói: Các pháp được nói ra ấy trái với thế gian.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Thưa Đại đức Phú-lâu-na! Vì có nhân duyên mà việc thuyết pháp này trái với thế gian. Vì sao? Thưa Đại đức! Thế gian lệ thuộc vào các ấm, giới, nhập, cho nên những người ấy muốn rời bỏ sinh tử và hướng đến Niết-bàn, nhưng họ không biết được thật tánh của sinh tử vĩnh viễn không thể đạt được tức là Niếtbàn, không biết trong đây chẳng có sinh tử cũng chẳng đến Niết-bàn. Chấp nhận sự không hiểu biết như vậy nên mới nói thế gian và sinh tử trái nghịch nhau. Lại chấp có bốn Đế trái với pháp này, mà trong Đệ nhất nghĩa thì chẳng hề có bốn Đế, lại chẳng có đạo, chẳng có công đức. Những người cho trái nhau vì họ còn sự phân biệt. Nếu đã phân biệt thì liền có sự trái nhau. Đạo là bình đẳng nên tất cả các pháp bình đẳng, vì thế gọi là không phân biệt. Nếu hiểu rõ về không phân biệt thì không có trái nhau. Nếu chấp ngã thì có tăng thượng mạn, có tăng thượng mạn nên có trái nhau. Nếu không tạo tác trên, cũng không tạo tác dưới, sự trung đạo bình đẳng này không tạo tác trên dưới, không tạo tác cũng chẳng phải không tạo tác. Người như vậy gọi là không còn tăng thượng mạn, nếu không còn tăng thượng mạn nên không còn trái nhau. Như lời Phật dạy: Ta không tranh cãi với thế gian, chỉ có thế gian tranh cãi với ta. Vì sao? Vì Phật đã đoạn trừ những việc tranh cãi. Nguồn gốc của sự tranh cãi là gì? Đó là: thật hay không that, chánh hay tà… Như lời Phật dạy, điều mà Bà-la-môn nói là thật. Ý Đại đức nghĩ sao? Là hư vọng chẳng chân thật? Là chánh hay tà? Hay là cả

hai? Và dựa vào đâu mà Đại đức biết được điều đó?”

Bấy giờ, ở trước chỗ con đường hai trăm Tỳ-kheo bỏ đi ra, Bồtát Văn-thù-sư-lợi biến hóa ra lửa cháy tràn lan, không thể nào đi qua được. Hai trăm Tỳ-kheo liền dùng thần lực để đi trên hư không, nhưng bên trên toàn lưới bằng sắt bao vây ngăn họ lại. Khi đó, các Tỳ-kheo ấy, trên thì bị lưới sắt, dưới thì bị lửa, không còn biết phương cách xoay sở, họ sợ hãi lông tóc dựng đứng. Họ chỉ thấy con đường đi đến rừng Kỳ-đà được trang trí bằng nhiều hoa sen và thấy nhiều người hướng về chỗ Đức Phật để được nghe nhận chánh pháp. Tất cả liền quay trở lại vườn hoa Ca-lợi-la trong rừng Kỳ-đà và hướng đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến nơi, các vị đảnh lễ ngang chân Phật rồi đứng qua một bên.

Đại đức Phú-lâu-na nói:

–Khi đó, tôi liền hỏi các Tỳ-kheo ấy: “Các ông đến chỗ nào và từ đâu đến?”

Các Tỳ-kheo nói: “Thưa Đại đức Phú-lâu-na! Chúng tôi là những A-la-hán các lậu đã hết, thành tựu trạng thái thiền thứ tư, đầy đủ các thần thông. Chúng tôi nghe Bồ-tát Văn-thù nói pháp trái nhau nên bỏ đi, nhưng bị lửa lớn tràn lan ở cõi Phật này nên không thể đi qua được. Liền dùng thần lực để bay lên hư không nhưng lại bị lưới bang sắt bao vây ngăn lại. Trên dưới đều bị lửa lớn, chúng tôi muốn thưa hỏi Đức Phật về đạo quả A-la-hán.”

Khi ấy, Đức Phật nói với tôi: “Này Phú-lâu-na! Nếu có lửa lớn mà tránh được, điều đó không thể có. Này Phú-lâu-na! Nếu đã rơi vào lưới kiến chấp mà có thể ra khỏi lưới sắt, điều đó không thể có. Này Phú-lâu-na! Nếu đã bị chìm vào nước ái dục mà có thể qua được thế giới của nước, điều đó cũng không thể có. Vì sao? Này Phú-lâu-na! Các Tỳ-kheo này chưa dập tắt được lửa tham, sân, si, vì thế nên họ không thể ra khỏi lửa. Này Phú-lâu-na! Các Tỳ-kheo này bị mắc trong lưới kiến chấp, vì vậy, họ không thể ra khỏi lưới sắt. Này Phú-lâu-na! Cac Tỳ-kheo này bị chìm trong nước ái dục mà có thể vượt qua nước lớn, điều này không thể có. Này Phú-lâu-na! Nhưng lửa, lưới sắt và nước ấy vốn không có chỗ đến cũng không đi về đâu, chỉ nhờ thần lực của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nên mới thấy được những điều ấy. Này Phú-lâu-na! Tham, sân, si, các kiến chấp, ái dục… các pháp ấy đều không từ đâu đến cũng không đi về đâu, chỉ từ điên đảo vọng tưởng, phân biệt, tham dục, phân biệt ta – người mà ra. Do vậy, sinh tử không có ngã cũng không có đối tượng thân thuộc. Nếu không có tâm tán loạn, phát khởi sự tu hành chân chánh, ở một nơi yên tĩnh trang nghiêm tu thiền. Nếu đạt thiền rồi sẽ không kiêu mạn, không chấp thủ. Tâm định tĩnh thực hành quan sát các pháp: pháp nào là nhân, pháp nào là duyên… Quan sát như thế sẽ được thấy biết đúng như thật: Vô minh duyên hành… cho đến lo buồn, khổ sở nhóm họp. Như vậy được gọi là rời khỏi tà kiến.

Như vậy, vô minh diệt thì hành diệt… cho đến lo buồn, khổ sở diệt. Đó gọi là chánh kiến, là quả vị chân chánh vô vi, không có vô minh đời quá khứ nào có thể diệt, không có vô minh đời hiện tại va vị lai nào có thể diệt. Nhưng suy nghĩ không chân chánh thì vô minh liền phát khởi. Nếu vô minh diệt thì tư duy không chân chánh chẳng sinh khởi. Nếu tư duy không chân chánh ấy diệt thì vô minh cũng diệt. Nếu vô minh diệt thì gọi là sự diệt hoàn toàn. Vì vậy, vô minh diệt thì các hành diệt. Nếu tư duy chân chánh thì quan sát biết đúng như thật. Thân bốn đại này si ám không hiểu biết, như cỏ cây gạch ngói, như bóng, như dợn nắng. Như ta đã giảng nói, thân này như vậy, tâm này như vậy, ý này như vậy, thức này như vậy, tâm này không có hình tướng, màu sắc, không thể nắm giữ, tâm giống như huyễn không thể diễn tả, không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa, không thể nắm bắt được… Nếu Tỳ-kheo nào thành tựu tư duy chân chánh như vậy thì được biết tất cả các pháp xưa nay vốn không sinh. Nếu các pháp không sinh tức là Đệ nhất nghĩa.”

Khi Đức Phật giảng nói pháp này, hai trăm Tỳ-kheo, nhiều người không chấp nhận pháp ấy, hoàn toàn diệt tận các lậu, tâm được giải thoát.

Bấy giờ, Ni-kiền Tử Tát-già mất các đồ chúng, lo buồn không vui, ông đi đến chỗ Đức Thế Tôn nơi vườn Ca-lợi-la và khu vườn Kỳđà Cấp cô độc, thuộc thành Xá-vệ. Sau khi thăm hỏi Đức Phật, ông đứng qua một bên thưa: “Thưa Cù-đàm! Tôi luôn luôn nghe Sa-môn Cù-đàm dùng năng lực huyễn thuật để chiếm đoạt đồ chúng của người khác, đến nay tôi mới chính mắt nhìn thấy. Người đã sai khiến Vănthù-sư-lợi phá hoại đồ chúng của tôi rồi đưa họ đến chỗ Phật, nghe nhận và làm theo pháp tà, không đến chỗ của tôi, không nghe lời dạy của tôi, tự ý muốn làm gì thì làm….”

Lúc ấy, có một ngoại đạo vừa xuất gia tên là Thắng Chí đang ngồi trong chúng hội liền dùng lời chân thật nói với Ni-kiền Tử: “Hãy ngưng lại, thưa Ni-kiền Tử! Đừng ở trước Đức Thế Tôn, đại chúng Tỳkheo và Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi sinh tâm không cung kính, không nên để mất lợi ích, chịu khổ lâu dài và đừng nên ưa thích bị đọa vào đường ác. Xin Ni-kiền Tử Tát-già hãy nghe tôi nói ví dụ để lam rõ ý nghĩa này.

Ví như có người ngu si, không có trí tuệ, muốn xin váng sữa, cầm bình đi đến sông Hằng, múc nước rồi đi đến chỗ khác, khuấy nước mãi đến lúc mệt lả mà vẫn chẳng thấy váng sữa. Cũng vậy, thưa Ni-kiền Tử! Các ngoại đạo của người muốn tu hành đoạn trừ kết sử, thọ giới hơ đốt thân, oai nghi và các pháp đều là tà vạy nên không thể đoạn trừ được gì, cũng giống người múc nước sông Hằng ấy. Rồi lại ở trong pháp điều phục của Thế Tôn mà khởi tâm giận dữ, sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.”

Rồi lại nói tiếp: “Thưa Ni-kiền Tử! Như có một người thông minh trí tuệ muốn có váng sữa. Người ấy lấy loại sữa tốt rót vào bình rồi khuấy đều, chỉ dùng sữa rất ít nhưng được rất nhiều váng sữa, lại từ sinh tô chuyển thành thục tô. Cũng vậy, thưa Ni-kiền Tử! Những người tại gia, xuất gia trong chánh pháp của Đức Phật có đầy đủ niềm tin thanh tịnh, có nhiều đường hướng đến giải thoát, siêng năng tu tập tiến tới và nhanh chóng đạt được giải thoát, cũng như người trí vì muốn có được váng sữa mà rót sữa vào bình.

Lại nữa, thưa Ni-kiền Tử! Như có hai người, người này đập bể hàng trăm ngàn chiếc bình sành của người kia, sau đó, ban cho người kia những chiếc bình quý báu đẹp. Thưa Ni-kiền Tử! Ý ông nghĩ sao?

Người này có làm tổn hại người kia không?”

Ni-kiền Tử đáp: “Không, thưa Thắng Chí.”

“Cũng vậy, thưa Ni-kiền Tử! Những đệ tử ngoại đạo như những chiếc bình sành của người kia, phá vỡ rồi liền hội nhập vào pháp của Như Lai, cũng như có được những chiếc bình quý báu, chỉ được tăng thêm chứ không có gì bị hao tổn. Lại nữa, thưa Ni-kiền Tử! Như có người lái buôn ngu si không biết phương cách xoay xở, đưa nhiều người vào con đường không đúng. Lại có một người lái buôn khác có trí tuệ lớn, thương yêu mọi người, hướng dẫn họ đi theo con đường đúng đắn. Cũng vậy, thưa Ni-kiền Tử! Các người cũng như người tự xưng là thầy kia, là người chẳng biết đường, là người dẫn chứng bất thiện, là người chẳng thấy con đường và không thể giảng nói về con đường đạo. Vì vậy, các người hướng dẫn chúng sinh vào con đường tà vạy. Hôm nay, Đức Thế Tôn như là vị lái buôn lớn, biết con đường thiện, thấy con đường và giảng nói về con đường, dẫn dắt các ngoại đạo đưa họ vào con đường chân chánh. Thưa Ni-kiền Tử! Đồ

chúng cua người tất cả đều ở đây, người hãy dẫn họ về.”

Khi ấy, một vạn hai ngàn người đều theo Ni-kiền Tử Tát-già trở về. Ngoài ra những người ở lại đều đạt được các minh.

Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Hãy đến đây các Tỳkheo, các ông đều thành Sa-môn.”

Bấy giờ, Đức Phật hỏi ngoại đạo Thắng Chí: “Ông có thấy một vạn hai ngàn người bỏ đi theo Tát-già hay không? “.

Thắng Chí đáp: “Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.”

Đức Phật nói: “Này Thắng Chí! Những vị ấy sẽ ở trong số chúng hội đầu tiên của Phật Di-lặc. Vì sao? Vì nhờ họ đã được nghe pháp sâu xa như vậy và đã cúng dường ta. Ni-kiền Tử Tát-già cũng sẽ là người có trí tuệ bậc nhất ở chỗ Đức Phật Di-lặc, giống như Xá-lợi-phất ở chỗ ta hiện nay. Vì sao? Vì ta biết vị ấy đã hiểu rõ về ngã, nhưng vì ngã mạn nên chưa bỏ kiến chấp được.”

Khi ấy, Thắng Chí thưa Bồ-tát Văn-thù: “Thưa Nhân giả! Đời mạt pháp sau này sẽ có nhiều Tỳ-kheo tăng thượng mạn.”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Này thiện nam! Vào đời mạt pháp sau này, khi pháp gần diệt hết, những người tăng thượng mạn rất hiếm có. Vì sao? Vì không thể tu hành chứng đắc bốn Thiền, chứng đắc bốn Thiền rồi thường khởi lên tăng thượng mạn. Vào đời mạt pháp sau này, khi chánh pháp gần diệt hết, các Tỳ-kheo còn không thể trụ tâm được huống nữa là chứng đắc bốn Thiền. Vì vậy, này thiện nam! Vào đời mạt phap sau này, những người tăng thượng mạn rất hiếm có. Lại nữa, này thiện nam! Có hai loại người tăng thượng mạn. Một là tin vào kiến chấp, hai là ngã mạn về thiền định. Người ngã mạn về thiền định nghĩa là vì lợi dưỡng và tiếng khen nên khởi lên tăng thượng mạn. Người tin vào kiến chấp chính là những người khởi lên tăng thượng mạn, chê bai pháp Phật. Người tăng thượng mạn sẽ bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.”

Thắng Chí thưa: “Thưa Nhân giả! Phải làm thế nào để biết được tâm của người nào đó có tăng thượng mạn hay không?”

Bồ-tát Văn-thù đáp: “Những người phàm phu muốn đạt Niết-bàn mà thật sự chẳng phải là A-la-hán, nếu nghe giảng nói pháp này, họ sẽ lo sợ, kinh hãi, nên biết, những người phàm phu ấy là những người có tâm tăng thượng mạn, chẳng phải là các A-la-hán thật sự của Đức Như Lai. Nếu nghe pháp từ người khác mà lo sợ, kinh hãi, nên biết, đó chính là những kẻ phàm phu, là người tăng thượng mạn, chẳng phải là A-la-hán. Những người ấy có thể báo đáp thanh tịnh các đối tượng thi ân nhưng không phải là A-la-hán. Nếu dứt sạch tất cả các kết sử phiền não, người ấy không còn đối tượng nương tựa, là ruộng phước của thế gian. Nếu còn tất cả các kết sử phiền não tức còn đối tượng nương tựa, chẳng phải là ruộng phước của thế gian, nếu ở trong đây, nên biết, đó là người tăng thượng mạn. Tất cả các pháp đều thể nhập Niết-bàn, nếu quan sát, phân biệt về Niết-bàn, nên biết, đó là người tăng thượng mạn. Tất cả các pháp là không nên biết, không nên đoán, không nên chứng, không nên tu… Nếu không biết sự thấy ấy, nên biết, đó gọi là người tăng thượng mạn.”

Thắng Chí hỏi: “Thưa Nhân giả! Nếu người không tăng thượng mạn thì có hình tướng ấn chứng nào không?”

Bồ-tát Văn-thù nói: “Không trái, không hoại diệt, đó là hình tướng ấn chứng của người không tăng thượng mạn. Vì sao? Vì không có âm thanh nào có thể gây cho người này sự sợ hãi, họ giống như sư tử chúa. Tất cả các âm thanh đều không thể khiến người ấy sợ hãi, Tỳ-kheo không tăng thượng mạn cũng vậy, nghe các âm thanh không hề sợ hãi. Vì sao? Vì người ấy biết rõ âm thanh giống như tiếng vọng. Như tiếng vọng ấy không có tâm, ý, thức mà có âm thanh. Biết về tâm, ý và thức đúng như thật như vậy. Tất cả các âm thanh đều do duyên mà khởi lên, không hề chân thật. Biết như vậy rồi thì biết không pháp nào có một tên nhất định là âm thanh. Nghe âm thanh Phật không ham thích, nghe tiếng của ngoại đạo cũng không chê bai, nghe pháp thiện thanh tịnh tâm không ham thích, nghe pháp nhiễm ô cũng không ghét bỏ. Khéo léo biết rõ tận cùng trước sau của tất cả các âm thanh. Tướng ấn chứng như vậy là không tăng thượng mạn, là ấn chứng không có cao thấp, ấn chứng đúng như thật, ấn chứng con đường tri kiến chân chánh, ấn chứng thể nhập vào nhất đạo, ấn chứng hội nhập pháp giới bình đẳng, an chứng như không thể hủy hoại, ấn chứng không trái với như, ấn chứng an trú trong chân thật, ấn chứng Đệ nhất nghĩa không, ấn chứng ba đời đều bình đẳng, ấn chứng không có sự sinh khởi ban đầu, ấn chứng quan sát về tánh của chánh pháp… Các ấn ấn chứng tất cả các pháp như vậy. Tỳ-kheo như thế gọi là không tranh cãi, nghe rồi liền được vô ngại, không lo, không sợ, không kinh, không hãi, không chấp ngã, không chấp vào pháp, tất cả đều bình đẳng….”

Bấy giờ, ngoại đạo Thắng Chí thưa: “Thưa Thế Tôn! Hôm nay, từ chỗ của bậc tri thức thiện, con được nghe đạo chân chánh và công đức của Đại thừa. Bạch Thế Tôn! Hôm nay, từ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, được nghe thuyết giảng pháp này, con xin phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Lành thay! Bạch Thế Tôn! Kính xin Thế Tôn giảng nói pháp ứng hợp để khiến con được nghe rồi liền nhanh chóng tu tập pháp hỗ trợ Bồ-đề, nhanh chóng đạt đạo Chánh chân Vô thượng, vì khắp tất cả vô lượng, vô số các chúng sinh.”

Đức Phật nói: “Này Thắng Chí! Bồ-tát có hai pháp nhanh chóng thông đạt đầy đủ Đại thừa. Hai pháp ấy là gì? Đó là tinh tấn và không buông lung.

Trong đó, tinh tấn nghĩa là đúng như pháp mà đạt được của cải, thì đều xả bỏ tất cả. Không buông lung nghĩa là bố thí không mong được đền đáp, tất cả đều hồi hướng về Nhất thiết trí.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là chân chánh đoạn trừ tất cả các pháp ác bất thiện, thành tựu viên mãn đầy đủ tất cả các pháp thiện. Không buông lung nghĩa là kiên cố giữ gìn giới thanh tịnh, không phải vì phước báo đời sau mà tất cả đều hoi hướng về đạo Vô thượng.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là tu hành nhẫn nhục, không tiếc thân mạng. Không buông lung nghĩa là không có tâm làm hại đến các chúng sinh.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là chứa nhóm các pháp thiện không biết nhàm chán. Không buông lung nghĩa là chứa nhóm các pháp thiện, hồi hướng về đạo Vô thượng.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là tâm không nhàm chán đối với các thiền chi. Không buông lung nghĩa là không tham đắm thiền vị đối với các thiền chi.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là chứa nhóm những sự học rộng không thấy nhàm chán. Không buông lung nghĩa là chánh niệm, tu hành trí tuệ của bậc Thánh.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là không bỏ bốn Nhiếp pháp. Không buông lung nghĩa là không được để thân tâm rời xa chánh pháp.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là có tâm Từ bình đẳng duyên nơi tất cả chúng sinh. Không buông lung nghĩa là không được vin dựa theo pháp từ của chúng sinh.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là dạy cho chúng sinh phát tâm cầu Nhất thiết trí. Không buông lung nghĩa là quan sát tất cả các pháp đều như huyễn, nhưng không bao giờ rời bỏ tâm cầu Nhất thiết trí.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là phát khởi ba minh. Không buông lung nghĩa là giữ gìn không để rơi vào các lậu.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là tu tập Thánh đế siêng năng như bị lửa đang thiêu cháy trên đầu. Không buông lung nghĩa là không tùy theo sự chứng đắc ma diệt độ.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là vì để làm viên mãn các tướng mà chứa nhóm điều thiện không thấy mỏi mệt. Không buông lung nghĩa là quan sát Pháp thân.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là tu hành, làm thanh tịnh cõi Phật. Không buông lung nghĩa là làm thanh tịnh cõi chúng sinh.

Lại nữa, tinh tấn nghĩa là chứa nhóm ba mươi bảy pháp hỗ trợ Bồ-đề. Không buông lung nghĩa là an trú trong pháp giải thoát tịch tĩnh…

Thắng Chí nên biết! Bồ-tát có được các nghiệp thiện, phương tiện là đều do tinh tấn mà được thành tựu. Bồ-tát có được hạnh nghiệp Nhất thiết trí là do không buông lung mà thành tựu. Cho nên, ta nói Bồ-tát thành tựu trí tuệ và phương tiện, không sợ hãi, không thoái chuyển đối với đạo Chánh chân Vô thượng.”

Khi Phật giảng nói pháp ấy, ngoại đạo Thắng Chí đạt được pháp Nhẫn vô sinh, tâm thanh tịnh và vô cùng hoan hỷ, bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la. Tam thiên đại thiên thế giới chấn động đủ sáu cách, ánh sáng rực rỡ soi chiếu khắp nơi, âm nhạc cõi trời không tấu mà tự trổi lên, trời rưới mưa hoa.

Bấy giờ, biết được tâm của Thắng Chí, Đức Thế Tôn liền mỉm cười. Theo pháp thường lệ, khi chư Phật mỉm cười, từ nơi khuôn mặt có vô số trăm ngàn ánh sáng rực rỡ nhiều màu sắc, chiếu đến khắp vô lượng, vô biên thế giới, lên đến cõi Phạm thiên, ngăn ngại cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng, che lấp mất cung điện của ma, rồi trở lại, nhiễu quanh bên phải thân Phật trăm ngàn vòng và nhập vào nơi đỉnh đầu.

Khi ấy, Đại đức A-nan, nương nơi thần lực của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, hướng về Đức Phật, chắp tay nói kệ:

Hoa phước đức, trí tuệ
Ánh sáng hướng dẫn đời
Hoa ba mươi hai tướng
Các vẻ đẹp trang nghiêm.
Đi như sư tử chúa
Lực tinh tấn mạnh mẽ
Vì sao Phật mỉm cười
Kính xin Phật giảng nói.
Lời Phật như tiếng sấm
Tiếng Phật: Sư tử gầm
Tiếng Ca-lăng-tần-già
Nghe thanh tịnh dịu êm.
Tiếng tam thiên thế giới
Chư Thiên và loài người
Muốn so với tiếng Phật
Tính toán không thể được.
Trí Thanh văn, Duyên giác
Và trí các Bồ-tát
Không thể sánh bằng Phật
Không biết Nhất thiết trí.
Kính xin Phật giảng nói
Vì sao lại mỉm cười?
Trời, Người, Rồng, Tu-la
Nghe đều đạt Bồ-đề.
Tâm được lìa hai bên
Cũng không chấp ở giữa
 Tất cả đều không chấp
Bình đẳng như hư không.
Hết thảy không thể đến
Vượt trên mọi thế gian
Thưa Bậc Trí hư không
Vì sao Phật mỉm cười?
Ánh sáng xanh, vàng ròng
Màu hồng, tím, đỏ, trắng
Từ mặt sáng rực rỡ
Nhiều như cát sông Hằng.
Chiếu khắp vô số cõi
Rộng rãi như hư không
Diệt đường ác, được vui
Nhờ ánh sáng Phật soi.
Phóng ánh sáng đầu gối
Là thọ ký Thanh văn
Phóng ánh sáng nơi tay
Nói về Bích-chi-phật.
Phật thọ ký Đại thừa
Đạo Nhất thiết trí tuệ
Ánh sáng lợi chúng sinh
Rồi nhập vào đỉnh đầu.
Lành thay Đức Thế Tôn!
Bậc Ứng Cúng ba cõi
Xin như thật giảng bày
Diễn nói cho đại chúng.
Dứt trừ nghi, được vui
Vì sao Phật mỉm cười?
Ngàn vạn ức chúng sinh
Nghe rồi tâm hoan hỷ.

Nghe kệ thỉnh mời như vậy xong, Đức Phật hỏi:

–Này A-nan! Ông có thấy thiện nam Thắng Chí, người bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, đạt được pháp Nhẫn vô sinh, chắp tay đảnh lễ ta và được trăm ngàn chư Thiên cúng dường hay không?

Đại đức A-nan đáp:

–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.

Đức Phật nói:

–Này A-nan! Thiện nam Thắng Chí này đã từng ở chỗ bảy mươi hai ức Đức Phật, trồng các căn lành, thực hành đạo Bồ-tát, tu tập đạo Chánh chân Vô thượng.

Thuở đó, Thắng Chí thường làm vua Đại chuyển luân, cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen các Đức Như Lai ấy, luôn tu hành phạm hạnh, ủng hộ, thọ trì tất cả các pháp của chư Phật ấy.

Này A-nan! Từ đây về sau, thiện nam Thắng Chí cũng sẽ luôn gặp vô lượng, vô số Đức Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, luôn tu hành phạm hạnh, khiến cho vô lượng, vô số chúng sinh ở trong đạo Bồ-đề. Sau vô lượng, vô số kiếp, chứa nhóm đạo Bồ-đề rồi, sẽ đạt đạo Chánh chân Vô thượng, thành Bậc Tối Chánh Giác, hiệu là Trí Quang Vương gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời, nước tên là Hỷ kiến, kiếp tên là Nhất bảo nghiêm.

Này A-nan! Những đồ dùng của nước Hỷ kiến ấy giống như trong cõi trời Tha hóa tự tại. Chúng sinh ở nước ấy không tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không ai có các hình tướng xấu, mọi người đều cung kính nhau, hoan hỷ, vui vẻ. Tất cả chúng sinh đều đến gặp Đức Phật Trí Quang Vương, thậm chí trong mộng cũng luôn được thấy Phật, không rời sự niệm Phật. Vì vậy, nước ấy mới có tên là Hỷ kiến. Trong kiếp ấy chỉ có một Đức Như Lai làm các Phật sự. Phật và chúng sinh đều sống thọ một kiếp. Vì thế, kiếp ấy được gọi là Nhất bảo nghiêm.

Này A-nan! Phật Trí Quang Vương ấy có chúng đệ tử toàn là Bo-tát chín mươi hai ức vị đều là những vị của pháp hội buổi đầu, đạt tâm không thoái chuyển. Khi Như Lai Trí Quang Vương sắp vào Niếtbàn, Ngài sẽ thọ ký cho Bồ-tát Sư Tử Tấn Khứ sẽ thành Phật hiệu là Sư Tử Tướng gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, sống thọ mười trung kiếp, sau đó mới Niết-bàn và Tăng chúng cũng sẽ gồm vô lượng, vô biên các Bồ-tát.

Khi Phật Trí Quang Vương Niết-bàn, xá-lợi toàn thân Ngài được thờ trong một tòa tháp báu rộng sáu mươi do-tuần, cao tám mươi dotuần, tháp được trang trí bằng nhiều châu báu.

Bấy giờ, Bồ-tát Thắng Chí từ hư không đi xuống, đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải bảy vòng, hướng về Đức Phật khen ngợi bằng cách nói kệ Pháp giới bất hoại:

Cõi Sắc và pháp giới
Cõi chúng sinh đồng nhau
Cõi ấy bằng cõi trí
Nay thọ ký cho con.
Cõi thọ, cõi phiền não
Cũng như cõi hư không
Các pháp đồng cảnh giới
Hôm nay con đến đây.
Pháp giới và cõi Dục
Và cùng với ba cõi
Cũng đồng như hư không
Sự thọ ký cũng vậy.
Cõi sinh tử, Niết-bàn
Cũng đồng như pháp giới
Cõi này và cõi nước
Cõi đất, cõi gió, lửa.
Cõi các ấm, các nhập
Cõi mắt, cõi nhãn thức
Cõi ý và pháp giới
Cảnh giới đều đồng đẳng.
Không thọ ký các ấm
Giới và nhập của con
Không thọ ký danh, sắc
Không thọ ký trong, ngoài.
Nhờ âm thanh mà biết
Đạo sư thọ ký con
Âm thanh là tịch tĩnh
Phật không có tâm ý.
Thực hành tâm thọ ký
Con cũng không có thức
Để được nhận thọ ký
Như con, Phật cũng vậy.
Như Phật con cũng vậy
Các chúng sinh cũng thế
Thọ ký – nhận: Đều vậy
Thọ ký là chân thật.
Như Như đều rời bỏ
Không hủy hoại pháp giới
Trụ tận cùng chân thật
Con kính lễ Thế Tôn.
Đồng vào tất cả pháp
Như hư không vô vi
Biết rõ các phương tiện.

Khi ấy, nói kệ khen ngợi Đức Phật xong, Bồ-tát Thắng Chí đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi ngồi qua một bên.

Lúc đó, Đức Phật bảo:

–Này A-nan! Ông nên thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này và ở giữa đại chúng giảng nói rộng rãi.

Đại đức A-nan thưa:

–Thưa Thế Tôn! Con xin thọ trì. Kinh này tên là gì và phải phụng giữ như thế nào?

Đức Phật nói:

–Này A-nan! Kinh này tên là Văn-thù-sư-lợi Thần Thông Sở Trì, còn gọi là Diệt Trừ Nhất Thiết Chư Ma Ngoại Đạo Âm Thanh, cũng có tên là Thái Bảo, hoặc là Bảo Khiếp, hãy như vậy mà thọ trì.

Đức Phật giảng nói kinh này xong, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Thắng Chí, Đại đức A-nan và các đại chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, loài Người và Càn-thát-bà… nghe lời Phật day đều vô cùng hoan hỷ.