PHẬT NÓI KINH ĐẠI MA LÝ CHI BỒ TÁT
Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triếu Tán Đại Phu Thí Hồng Lô Thiếu Khanh_ Minh Giáo Đại Sư (kẻ bầy tôi là) THIÊN TỨC TAI phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
QUYỂN THỨ BẢY
_Lại nữa, ở bốn góc của Mạn Noa La an bốn vị Bồ Tát
Góc Đông Nam an Bồ Tát “Án, ô na dã ma tế, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ UDAYA-MAṢI SVĀHĀ
Góc Tây Nam an Bồ Tát “Án, ngu la-ma ma tế, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ KURMA-MAṢI SVĀHĀ
Góc Tây Bắc an Bồ Tát “Án, phộc nẵng ma tế, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ VANA-MAṢI SVĀHĀ
Góc Đông Bắc an Bồ Tát “Án, chi phộc la ma tế, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ JVALA-MAṢI SVĀHĀ
Bồ Tát như vậy đều có ba mặt, có một mặt heo đều cỡi con heo, sắc tướng trang nghiêm, Tiêu Xí đã cầm không có khác nhau
_Lại ở Ngoại Mạn Noa La có bốn cửa, mỗi cửa có một vị Bồ Tát. Chân NGôn của bốn vị Bồ Tát ấy là:
“Án, a lộ, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ ARŪ SVĀHĀ
Đây là Bồ Tát ở cửa Đông có thân màu trắng
“Án, đa lộ, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ TARŪ SVĀHĀ
Đây là Bồ Tát ở cửa Nam có thân màu vàng
“Án, ca lộ, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ KARŪ SVĀHĀ
Đây là Bồ Tát ở cửa Tây có thân màu đỏ
“Án, tát tra lộ, tam ma mẫu lỳ-đà trí, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ SĀDARŪ SAMA MŪRDHĀTI SVĀHĀ
Đây là Bồ Tát ở cửa Bắc có thân màu xanh lục, đều có hai cánh tay, thủ hộ Mạn Noa La
_Lại ở bốn góc cũng có bốn vị Bồ Tát
Góc Đông Nam an Kim Cương Câu Bồ Tát Chân Ngôn
“Án, phộc đa lệ, sa-phộc hạ” *)OṂ_ VATTĀLI SVĀHĀ Bồ Tát này như tướng Đồng Nữ, làm màu hồng, tất cả trang nghiêm, cũng có một mặt heo, ba con mắt, tay cầm cây kim, sợi chỉ
Góc Tây Nam an Kim Cương Sách Bồ Tát Chân Ngôn
“Án, phộc na lệ, sa-phộc hạ” *)OṂ_ VADĀLI SVĀHĀ
Bồ Tát này cũng như tướng Đồng Nữ, thân màu vàng ròng, tất cả trang nghiêm.
Tay trái cầm cành cây Vô Ưu, tay phải cầm cây kim sợi chỉ, hay chặt đứt tất cả điều ác
Góc Tây Bắc an Kim Cương Tỏa Bồ Tát Chân Ngôn
“Án, phộc la lệ, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ VARĀLI SVĀHĀ
Bồ Tát này cũng có tướng Đồng Nữ, thân màu trắng, tất cả trang nghiêm. Tay phải cầm cành cây Vô Ưu, tay trái cầm sợi dây, hay thành tựu tất cả việc.
Góc Đông Bắc an Kim Cương Linh Bồ Tát Chân Ngôn
“Án, phộc la hạ mục khế, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ VARĀHA-MUKHI SVĀHĀ
Bồ Tát này cũng có tướng Đồng Nữ, thân màu hồng, tất cả trang nghiêm. Tay cầm cung tên, hay làm cho tất cả chúng sinh kính yêu
Nhóm Bồ Tát này đều có đủ ba mặt, có một mặt heo đều đủ ba con mắt, đứng như tướng múa đạp trên con heo
_Lại nữa, bốn phương bốn góc của Ngoại Mạn Noa La đều có một vị Bồ Tát thủ hộ
Đông Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, ma hạ chi phộc la ma tế, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ MAHĀ-JVALA-MAṢI SVĀHĀ
Bồ Tát như vậy như tướng Đồng Nữ, màu thân như mây, cỡi con heo, có ba mặt đều có ba con mắt, làm một mặt heo, hai cánh tay, tay phải cầm móc câu Kim Cương, tay trái cầm sợi dây Kim Cương, miệng ló ra nanh bén, người nhìn thấy sợ hãi
Đông Nam Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, phộc la hạ mục khế”
*)OṂ_ VARĀHA-MUKHI
Bồ Tát như vậy có sắc tướng, tiêu xí đồng với Bồ Tát ở phương Đông
Nam Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, bá na cật-la ma tế, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ PAṆĀGRA-MAṢI SVĀHĀ
Bồ Tát như vậy cũng như tướng Đồng Nữ, thân màu vàng, tất cả trang nghiêm, ba mặt đều có ba mắt, một mặt heo, hai cánh tay, tay trái cầm chày Kim Cương, tay phải cầm cành cây Vô Ưu
Tây Nam Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, phộc la la, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ VARĀLA SVĀHĀ
Bồ Tát như vậy có thân tướng, tiêu xí đều đồng với Bồ Tát ở phương Nam
Tây Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, ma ba la cật-la, ma tế, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ MA BALĀGRA-MAṢI SVĀHĀ
Bồ Tát như vậy cũng như tướng Đồng Nữ, thân màu vàng, ba mặt, một mặt heo, hai cánh tay, tay cầm cung tên
Tây Bắc Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, phộc na la, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ VADĀLA SVĀHĀ
Bồ Tát như vậy có thân tướng, tiêu xí đều đồng với Bồ Tát ở phương Tây
Bắc Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, ô lý-ma ma tế, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ ŪRMA-MAṢI SVĀHĀ
Bồ Tát như vậy cũng như tướng Đồng Nữ, thân màu xanh lục, tất cả trang nghiêm, mặc áo Trời màu xanh, tay cầm cây kim với sợi chỉ
Đông Bắc Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, phộc la lệ, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ VARĀLI SVĀHĀ
Bồ Tát như vậy có thân tướng, tiêu xí đều đồng với Bồ Tát ở phương Bắc
Tám vị Đại Bồ Tát này đều có một mặt heo, có đàn heo vây quanh, thân tướng tương tự nhau, đủ thế lực lớn, ủng hộ Mạn Noa La, hay ban cho Pháp thành tựu. Nếu người trì tụng y theo Nghi tác Quán thì điều đã mong cầu đều được viên mãn
_Lại tưởng Mạn Noa La phát ra tất cả ánh sáng. Ánh sáng ấy vi diệu nhập vào bên trong chày Kim Cương, biến thành Ma Lý Chi Bồ Tát, thân như màu vàng Diêm Phù Đàn, phóng ánh sáng lớn, mặc áo Trời màu xanh, đỉnh đội cái tháp báu, bàn chân nương trên con heo lớn, sáu cánh tay, ba mặt. Mặt chính màu vàng ròng, đoan nghiêm mỉm cười. Mặt bên trái là tướng heo màu đen, xấu ác, miệng hiện nanh bén, le lưỡi chau mày, làm đại phẫn nộ, người nhìn thấy sợ hãi. Mặt bên phải màu trắng như mặt trăng mùa Thu. Tay trái cầm cây cung, sợi chỉ, cành cây Vô Ưu. Tay phải cầm mũi tên, cây kim, chày Kim Cương.
Như vậy tưởng xong, thời tất cả Hiền Thánh trong Mạn Noa La y theo làm ủng hộ , cấm đoán cột trói điều ác, chẳng khiến cho được dịp thuận tiện gây hại, an trụ chúng sinh, đều được khoái lạc.
Lúc đó, A Xà Lê kết Kim Cương Câu Ấn, tụng Chân Ngôn thỉnh triệu Hiền Thánh. Ấn này: đem hai ngón trỏ cùng móc ngược nhau, hai ngón út cũng móc ngược nhau, lưng bàn tay cùng dính với nhau, dựng thẳng Ấn ngang ngực, tụng Chân Ngôn này:
“Nhược, hồng, vãn, hộc, bát-la phộc lý-đa dã”
*)JAḤ HŪṂ VAṂ HOḤ PRAVARTAYA
Thỉnh triệu Hiền Thánh xong, hiến nước Át Già. Dùng bàn tay nâng cái chén, liền tụng Chân Ngôn này:
“Án, ma lý chi, a lý-kiến, bát-la để tha, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ MARĪCI ARKAṂ PRATĪCCHA SVĀHĀ
Tiếp theo, tụng Động Nhạc Chân Ngôn:
“Án, ma lý chi, phộc nễ-diệm, bát-la để tha, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ MARĪCI VĀDYAṂ PRATĪCCHA SVĀHĀ
Lại kết Ma Lý Chi Ấn, tụng Chân Ngôn này:
“Án, ma lý chi, ê hứ-duệ hừ, vĩ ca tất đa, ngật-lý noa ca lý-sa duệ”
*)OṂ_ MARĪCI EHYEHI VIKĀSITĀ GṚHṆA ĀKARṢĀYE
Tụng Chân Ngôn này xong. Liền kết Mạn Noa La Tam Muội Ấn: Chắp hai tay lại, hơi mở đầu ngón tay, đem hai ngón cái vịn ngón giữa như tướng cái vòng. Ngồi Kiết Già, an Ấn trên rốn, tụng Chân Ngôn này:
“Án, ma lý chi, a đát-la, tán nễ hứ đổ, di bà phộc, a nỗ la cật-đố, di bà phộc, tô đổ sắt-dụ, di bà phộc, tô bố sắt-dụ, di bà phộc, tát lý-phộc tất địa di, bát-la dã tha”
*)OṂ_ MARĪCI_ ATRA SAṂ-NIHITO ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SUTOṢYO ME BHAVA, SUPOṢYO ME BHAVA_ SARVA SIDDHIṂ ME PRAYACCHA
Khi tụng Chân Ngôn này thời đem Ấn lúc trước lại an trên trái tim, trên cổ, trên trán, trên đỉnh đầu… lúc đó thọ nhận Quán Đỉnh, dùng kết Ấn này: co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay, ngón trỏ cùng đối nhau, đem hai ngón giữa đè bên trên ngón trỏ ấy, các ngón còn lại như Kim Cương Hợp Chưởng, an trên đỉnh đầu của mình, quán tưởng Tỳ Lô Giá Na Phật có thân màu vàng ròng, kết Tỳ Lô Ấn để ở trên đỉnh đầu, tụng Chân Ngôn này:
“Án, bộc khiếm, a tỳ săn tả hàm”
*)OṂ BHUḤ KHAṂ ABHIṢIṂCA MĀṂ
Lại đem hai tay làm Kim Cương Phộc, hai ngón giữa cùng hợp nhau dựng thẳng.
Đây gọi là Kim Cương Ba La Mật Ấn
Tụng Chân Ngôn này:
“Án, phộc nhật-la, tát đát-phộc, hồng”
*)OṂ VAJRA-SATVA HŪṂ
Lại hơi co ngón giữa như hình báu. Đây gọi là Bảo Ba La Mật Ấn
Tụng Chân Ngôn này:
“Án, phộc nhật-la, la đát-nẵng, đát-lãm”
*)OṂ_ VAJRA-RATNA TRĀṂ
Lại đem hai ngón giữa làm như tướng lá hoa sen. Đây gọi là Pháp Ba La Mật Ấn
Tụng Chân Ngôn này:
“Án, phộc nhật-la, đạt lý-ma, hứ-lý”
*)OṂ_ VAJRA-DHARMA HRĪḤ
Lại đem hai ngón giữa (?hai ngón út) cùng ràng cột nhau, hai ngón cái cũng như thế. Đây gọi là Yết Ma Ba La Mật Ấn
Tụng Chân Ngôn này:
“Án, phộc nhật-la la yết lý-ma, ác”
*)OṂ_ VAJRA-KARMA AḤ
Tụng Chân Ngôn này xong. A Xà Lê nói: “Nay Ta quán đỉnh”. Như vậy đem Ấn
an trên trán, phía sau đỉnh đầu, tai phải, tai trái
Tiếp theo, tụng A Súc Phật Chân Ngôn, làm Xúc Địa Ấn. Bảo Sinh Phật Chân Ngôn làm Thí Nguyện Ấn. vô Lượng Quang Phật Chân Ngôn làm Nhập Định Ấn.
Bất Không Thành Tựu Phật Chân Ngôn làm Vô Úy Ấn
_Lại tụng Phẫn Nộ Chân Ngôn:
“Án, nại-la”
*)OṂ_ DRA
Hai tay đều nắm Kim Cương Quyền, khiến hơi co ngón trỏ, an trên trái tim, trên cổ, trên ngực, trên trán… như cột buộc vòng hoa dùng làm ủng hộ
_Lại dùng hai bàn tay, hai bên búng ngón tay tức chỉ chưởng (ngón tay với lòng bàn tay) làm tướng vui vẻ
“Án, phộc nhật-la đổ sắt-dã, hộc”
*)OṂ_ VAJRA TUṢYA HOḤ
_Lại tưởng chữ A (A) biến thành vành trăng, vành trăng có chữ Ác (嫙: AḤ) biến thành chày Yết Ma Kim Cương. Liền kết Yết Ma Ấn, tụng Chân Ngôn này:
“Án, phộc nhật-la, tát đát phộc, tăng nga-la hạ. Phộc nhật-la, la đát nẵng ma nỗ đa lãm. Phộc nhật-la , đạt lý-ma nga dã nãi. Phộc nhật-la, yết lý-ma, ca lỗ bà phộc”
*)OṂ_ VAJRA-SATVA SAṂGRAHA_ VAJRA-RATNAM ANUTTARA_ VAJRA-DHARMA GĀYANA _ VAJRA-KARMA KARODBHAVA
_Đem hai tay nắm Kim Cương Quyền, tụng Kim Cương Hy Hý Chân Ngôn: “Án, phộc nhật-la, la tế, hồng”
*)OṂ_ VAJRA-LĀṢYE HŪṂ
“Án, phộc nhật-la, ma la, hồng”
*)OṂ_ VAJRA-MĀLE HŪṂ
“Án, phộc nhật-la, nghệ đế, hồng”
*)OṂ_ VAJRA-GĪTE HŪṂ
“Án, phộc nhật-la, niết-lý đế-duệ, hồng”
*)OṂ_ VAJRA-NṚTYE HŪṂ
“Án, phộc nhật-la, bổ sắt-bế, hồng”
*)OṂ_ VAJRA-PUṢPE HŪṂ
“Án, phộc nhật-la, độ bế, hồng”
*)OṂ_ VAJRA-DHŪPE HŪṂ
“Án, phộc nhật-la, nỉ bế, hồng”
*)OṂ_ VAJRA-DĪPE HŪṂ
“Án, phộc nhật-la, hiến đệ, hồng”
*)OṂ_ VAJRA-GANDHE HŪṂ
_Lại tụng Nội Ngoại Cúng Dường Chân Ngôn:
“Án, a ca lỗ mục khiếm, tát lý-phộc, đạt lý-ma noa, a nễ-dã nỗ đát-bán đát phộc”
*)OṂ_ A-KĀRO MUKHAṂ SARVA-DHARMĀNĀṂ ĀDY-ANUT-
PANNNATVĀT
_Lại làm Quán Tưởng: tưởng trên trái tim của mình hiện ra một vành trăng, trên vành trăng có Chân Ngôn như tướng vòng hoa, đều có ánh sáng như thắp đèn bên trong vành trăng, với tất cả Hiền Thánh trong Mạn Noa La đều có ánh sáng.
Tưởng như vậy xong, liền làm trì tụng, hiến nước Át Già, tụng Át Già Chân Ngôn, hiến nhóm thức ăn uống, năm loại cúng dường, tụng Bản Chân Ngôn. Như vậy làm xong, dùng tay trái cầm cái chuông (linh), tụng Linh Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-la kiến trí, la noa đa, bát-la la noa đa, tam bát-la la noa đa, một đà sát đát-la, bát-la tả lý nễ, bát-la nhạ-noa, bá la di đa, nẵng na, sa-phộc bà phệ, phộc nhật-la đà la, hột-lý na dạ, phộc đổ, sa ni, hồng hồng hồng”
*)OṂ_ VAJRA-GHAṂṬE RAṆATĀ PRARAṆATĀ SAṂ-PRARAṆATĀ BUDDHA-SATRĀ PRACĀRINI, PRAJÑĀ-PĀRAMITĀ DĀNA SVABHĀVE VAJRA-DHĀRA HṚDAYA VATU SANI, HŪṂ HŪṂ HŪṂ
Tụng Chân Ngôn này xong. Lại dùng tay phải ném chày Kim Cương, tụng Chân Ngôn này:
“Án, tát lý-phộc, đát tha nga đa, tất địa, phộc nhật-la tam ma dã, để sắt-xá, ế sa đát-tông, đà la dã di, để hứ hứ hứ hứ, hồng”
*)OṂ_ SARVA-TATHĀGATA SIDDHI, VAJRA-SAMAYA TIṢṬA_ ESĀṂ TVAṂ DHĀRA YĀMI _ HI HI HI HI HI HŪṂ
_Lại tụng Chân Ngôn khen ngợi năm Đức Như Lai là:
“A sô tỳ-dã phộc nhật-la, ma hạ nhạ-noa nẵng, phộc nhật-la đà đổ, ma hạ một đà đát-lý, mạn noa la đát-lý, phộc nhật-la nga-la cụ sa, phộc nhật-la, nẵng mô sa-đổ đế”
*)AKṢOBHYA-VAJRA MAHĀ-JÑĀNA VAJRA-DHĀTU, MAHĀ-BUDDHA DHṚ, MAṆḌALA DHṚ, VAJRĀGRA-KOŚA VAJRA NAMOSTUTE
“Phệ lỗ tả nẵng, ma hạ thuật đà, phộc nhật-la, phiến đa, ma hạ la đế, bát-la cật-lý để, bát-la bà sa-phộc lãm, đạt lý-hàm, nỉ xá phộc nhật-la, nẵng mô sa-đổ đế”
*)VAIROCANA MAHĀ-ŚUDDHA VAJRA-ŚĀNTA MAHA-RATI PRAKṚTE PRABHĀSVARAṂ DHARMAṂ DIŚA-VAJRA NAMOSTUTE
“La đát-nẵng la nhạ, tô nghiễm tỳ lý-dã, khư, phộc nhật-la ca xá, tô nễ lý-ma la, sa-phộc bà phộc, thuật đà, nễ lý-lệ ba, bà sa, ngọc hứ-dã, nẵng mô sa-đổ đế”
*)RATNA-RĀJA SU-GAṂBHĪRYA KHA VAJRA-ĀKĀŚA SU-NIRMALA SVABHĀVA ŚUDDHA NIR-LEPA BHĀSA GUHYA NAMOSTUTE
“Phộc nhật-la, di đa, ma hạ la nhạ, nễ lý-phộc yết la-ba khư, phộc nhật-la đạt-lỳ ca, la nga, ba la di ta, bát-la bát-đa, sa, phộc nhật-la nẵng mô sa-đổ đế”
*)VAJRA AMITA MAHĀ-RĀJA, NIRVĀ-GARBHA KHA VAJRA-DHṚK RĀGA PĀRAMITĀ PRĀPTA SA-VAJRA NAMOSTUTE
“A mục già, phộc nhật-la, tăng một đà, tát lý-phộc xá ba lý bố la ca, thuật đà, sa-phộc bà phộc, tam bộ đa, phộc nhật-la tát đát-phộc, nẵng mô sa-đổ đế”
*)AMOGHA-VAJRA SAṂ-BUDDHA SARVA SAPARIPŪRAKA ŚUDDHA
SVABHĀVA SAṂPUṬĀ VAJRA-SATVA NAMOSTUTE
Tụng Tán Phật xong. A Xà Lê ấy phát Tâm dũng mãnh như Bản Tôn kia. Hết thảy thức ăn uống, tắm gội, vật dùng để ngồi, vật dùng để nằm với Kinh Hành, tất cả việc… đều y theo Bản Tôn bí mật tu tập. Từ sáng sớm, giữa ngày, mặt trời lặn… ba thời như vậy trì tụng kèm kết Ấn Tướng làm cúng dường xong. Lại làm Quán Tưởng, đến thời thứ tư cũng cúng dường như vậy. Liền đem Công Đức đã khéo làm này, hồi hướng Thật Tế với Chúng Sinh Giới, tùy theo ý mong cầu, không có gì chẳng thành tựu
_Liền tụng Phát Khiển Chân Ngôn:
“Án – Cật-lý đổ phộc, tát lý-phộc tát đát-phộc la-tha tất địa na, đát-phộc dã tha , nỗ nga nga tha đặc-phộc, một đà vĩ sa diệm, bố nẵng la nga ma nẵng dã”
OṂ– KRTOVAḤ SARVA SATVA-ARTHA SIDDHIRDATTA YATHA ANUGĀGACCHATHAṂ BUDDHA-VIṢAYAṂ PUNARĀGAMANĀYA
Làm Phát Khiển Ấn, ở trên đỉnh đầu của mình bung tán Ấn ấy. Lại tụng Chân Ngôn này:
“Án, ma lý chi, mục”
*)OṂ_ MARĪCI MUḤ
_Tiếp theo, tụng Bách Tự Chân Ngôn làm tự ủng hộ thân miệng ý.
Chân Ngôn là:
“Án –Phộc nhật-la tát đát-phộc, tam ma dã ma nỗ bá la dã, phộc nhật-la tát đát-phộc đát-phệ nỗ ba để sắt-xá, niết lý-trụ di bà phộc, tô đổ sắt-dụ di bà phộc, a nỗ lạc cật đổ di bà phộc, tố bố sắt-du di bà phộc, tát lý-phộc tất đình di, bát-la dã tha, tát lý-phộc yết lý-ma tố tả di, tức đa, thất-lý diệm câu lỗ, hồng, hạ, hạ, hạ ,hạ, hộc- bà nga tông, tát lý-phộc đát tha nga đa, phộc nhật-la, ma, di, môn tả, phộc nhật-lý bà phộc, ma hạ tam ma dã, tát đát-phộc”
*)OṂ–VAJRA-SATVA SAMAYAM ANUPĀLAYA – VAJRA-SATVA
TVENA UPATIṢṬA – DṚḌHO ME BHAVA- SUTOṢYO ME BHAVA-
ANURAKTO ME BHAVA- SUPUṢYO ME BHAVA _ SARVA SIDDHIṂ ME PRAYACCHA SARVA KARMASU CA ME CITTA ŚRĪYAṂ KURU HŪṂ_ HA HA HA HA HOḤ – BHAGAVAṂ– SARVA TATHĀGATA VAJRA, MĀ ME MUṂCA _VAJRĪ BHAVA_ MAHĀ-SAMAYA-SATVA_ ĀḤ.
Như vậy trì tụng y theo Pháp Quỹ Nghi thì điều đã muốn, điều đã cầu, tất cả thành tựu
_Lại có Pháp thành tựu. Y theo Nghi Tắc của tranh tượng lúc trước, mỗi mỗi quán tưởng xong
Lại tưởng trên trái tim của mình có một vành trăng, trên vành trăng có chữ Phạn vi diệu thứ mười hai (嫙:AḤ), ở trên đầu chữ có hai Diệu Nhật Nguyệt (Nhật Diệu và Nguyệt Diệu) phát ra mọi loại ánh sáng. Ánh sáng ấy biến thành Thiên Nhân Sư, liền hiến cúng dường
Lại tưởng Pháp của tất cả đều không có cái tôi. Tụng Chân Ngôn này:
“Án, sa-phộc bà phộc, thuật đệ”
*)OṂ_ SVABHĀVA ŚUDDHE
Tụng Chân Ngôn xong, lại nhập vào Tam Muội, chỉ có cái Như của Chân Không Thật Tính thanh tịnh, Tâm Cảnh ngầm hợp, lìa các phân biệt
Lại quán chữ Phạn lúc trước biến thành cây Vô Ưu. Ở trên cây này có bình Cam Lộ, cái bình có chữ Hàm (伐: MAṂ) hóa thành Ma Lý Chi Bồ Tát. Y theo Tướng
Nghi này, quán tưởng thân của mình cũng thành Ma Lý Chi Bồ Tát màu vàng đậm cũng như màu vàng Diêm Phù Đàn, hoặc như màu mặt trời mới mọc, đỉnh đội cái tháp báu, mặc áo Trời màu hồng, vòng đeo tai, xuyến đeo cổ tay, dây đai báu, chuỗi Anh Lạc, mọi loại trang nghiêm. Tám cánh tay, ba mặt, ba mắt, môi như màu hoa Mạn Độ Ca, phóng ánh sáng lớn, ở trong cái tháp báu có Đức Tỳ Lô Giá Na Phật đội vòng hoa Vô Ưu. Tay trái cầm sợi dây, cây cung, cành cây Vô Ưu với sợi chỉ. Tay phải cầm chày Kim Cương, cây kim, móc câu, mũi tên. Mặt chính có tướng hiền thiện mỉm cười, màu vàng đậm hoặc màu Đàn Kim. Tướng mắt dài rộng, môi như màu đỏ tươi, làm tướng đại dũng mãnh. Mặt bên trái là mặt heo, phẫn nộ xấu ác, ló nanh bén ra bên ngoài, le lưỡi, chau mày khiến người sợ hãi. Mặt bên phải màu hầng đậm như màu báu hoa sen, phát ra ánh sáng tối thượng, dung mạo hiền từ vui vẻ như tướng Đồng Nữ. Tay kết Tỳ Lô Ấn, đứng như thế múa đạp trên xe heo. Bên dưới Bồ Tát có chữ Hạ (祌: HA), chữ này biến thành Đại Diệu La Hầu như ăn nuốt mặt trời mặt trăng
Khi làm Quán Tưởng thời ban ngày đối trước mặt trời, ban đêm đối trước mặt trăng.
_Đức Tỳ Lô Phật ấy có bốn vị Bồ Tát ở bốn phương vây quanh Đông Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, ma lý chi, phộc đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế, a ca lýsa dã, nhược, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ MARĪCI VATTĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI
ĀKARṢĀYA JAḤ SVĀHĀ
Như vậy, Bồ Tát này màu hồng, mặc áo Trời màu hồng, ba mặt trong đó có một mặt heo, mặt đều có ba con mắt, bốn cánh tay. Tay trái cầm sợi dây, cành cây Vô Ưu. Tay phải cầm cây kim. móc câu Kim Cương. Ý muốn giáng phục đều được thành tựu
Nam Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, ma lý chi, phộc đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế. Tát lýphộc nỗ sắt-tra nam, mục khiếm, mãn đà mãn đà, hồng, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ MARĪCI VATTĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA
DUṢṬĀṆĀṂ BANDHA BANDHA HŪṂ SVĀHĀ
Như vậy, Bồ Tát này thân làm màu vàng, mặc áo Trời màu vàng. Tay trái cầm sợi dây, chày Kim Cương. Tay phải cầm cành cây Vô Ưu với cây kim… khâu miệng, mắt của người ác
Tây Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, ma lý chi, phộc đa lệ, phộc na lệ, phộc la hạ mục khế. Tát lý-phộc nỗ sắt-tra nam, sa-đán bà dã, tông, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ MARĪCI VATTĀLI VADĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA
Như vậy, Bồ Tát này có quần áo, thân sắc như lúc trước không có khác. Tay phải cầm chày Kim Cương với cây kim. Tay trái cầm cành cây Vô Ưu với sợi dây… hay cấm đoán, cột trói tất cả người ác.
Bắc Phương Bồ Tát Chân Ngôn là:
“Án, ma lý chi, phộc đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế. Tát lýphộc tát đát-tông, di phộc, xá ma nẵng dã, hộc, sa-phộc hạ”
*)OṂ_ MARĪCI VATTĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA-
SATVA MĪVA SAMĀNAYA HOḤ SVĀHĀ
Như vậy, Bồ Tát này có áo và màu sắc như lúc trước, thân như màu mặt trời mới mọc. Tay phải cầm mũi tên với chày Kim Cương. Tay trái cầm cành cây Vô Ưu với cây cung… kính yêu tất cả chúng sinh.
A Xà Lê kia nên Quán Tưởng như vậy. Bốn vị Đại Bồ Tát ấy có Trí Tuệ, Thần Lực khó thể so lường. Ở Mạn Noa La, khi thỉnh triệu thời dùng Kim Cương Câu Ấn với Bản Chân Ngôn như Nghi Tắc lúc trước
Các Trì Tụng A Xà Lê nếu y theo Pháp Hành thành tựu của Ma Lý Chi, tinh tiến tu tập dũng mãnh, chẳng thoái lùi, không có khuyết phạm thì chúng sinh như vậy khiến được Đại Trí thanh tịnh của Bồ Tát
PHẬT NÓI KINH ĐẠI MA LÝ CHI BỒ TÁT
_QUYỂN THỨ BẢY (Hết)_
Dịch xong một Bộ gồm 7 quyển vào ngày 04/06/2015