PHẬT NÓI KINH ĐẠI MA LÝ CHI BỒ TÁT

Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triếu Tán Đại Phu Thí Hồng Lô Thiếu Khanh_ Minh Giáo Đại Sư (kẻ bầy tôi là) THIÊN TỨC TAI phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

QUYỂN THỨ SÁU

_Lại nữa, phát khiển Hiền Thánh, tụng Chân Ngôn này:

“Án – Cật-lý đổ phộc, tát lý-phộc tát đát-phộc la-tha tất địa na, đát-phộc dã tha , nỗ nga nga tha đặc-phộc, một đà vĩ sa diệm, bố nẵng la nga ma nẵng dã”

OṂ– KRTOVAḤ SARVA SATVA-ARTHA SIDDHIRDATTA YATHA ANUGĀGACCHATHAṂ BUDDHA-VIṢAYAṂ PUNARĀGAMANĀYA

Khi tụng Chân Ngôn này thời làm Phát Khiển Căn Bản Ấn: để hai tay ở trên đỉnh đầu, làm tướng bung tán Ấn với tụng Chân Ngôn này:

Án, ma lý chi, mục”

*)OṂ_ MARĪCI MUḤ

Tụng Chân Ngôn xong, A Xà Lê liền tùy theo ý mà đi

_Lại tụng Bách Tự Chân Ngôn để tự ủng hộ nghiệp thân miệng ý của mình.

Chân Ngôn là:

“Án –Phộc nhật-la tát đát-phộc, tam ma dã ma nỗ bá la dã, phộc nhật-la tát đát-phộc đát-phệ nỗ ba để sắt-xá, niết lý-trụ di bà phộc, tô đổ sắt-dụ di bà phộc, a nỗ lạc cật đổ di bà phộc, tố bố sắt-du di bà phộc, tát lý-phộc tất đình di, bát-la dã tha, tát lý-phộc yết lý-ma tố tả di, tức đa, thất-lý diệm câu lỗ, hồng, hạ, hạ, hạ ,hạ, hộc- bà nga tông, tát lý-phộc đát tha nga đa, phộc nhật-la, ma, di, môn tả, phộc nhật-lý bà phộc, ma hạ tam ma dã, tát đát-phộc, Ác”

*)OṂ–VAJRA-SATVA SAMAYAM ANUPĀLAYA – VAJRA-SATVA

TVENA UPATIṢṬA – DṚḌHO ME BHAVA- SUTOṢYO ME BHAVA-

ANURAKTO ME BHAVA- SUPUṢYO ME BHAVA _ SARVA SIDDHIṂ ME PRAYACCHA SARVA KARMASU CA ME CITTA ŚRĪYAṂ KURU HŪṂ_ HA HA HA HA HOḤ – BHAGAVAṂ– SARVA TATHĀGATA VAJRA, MĀ ME MUṂCA _VAJRĪ BHAVA_ MAHĀ-SAMAYA-SATVA_ ĀḤ.

Y theo Nghi Quỹ như vậy, chí thành trì tụng. Nếu thấy điềm lành liền làm riêng Pháp ấy. Nếu làm Tức Tai, dùng vỏ hoa hoặc tấm vải viết Như Ý Bảo Luân đã nói lúc trước, A Xà Lê tự biết rõ bốn Môn bên trong Chân Ngôn Nghi Quỹ Luân. Nếu vì người nữ thì dùng Ngưu Hoàng viết, nếu vì người nam thì dùng Cung Câu Ma Hương viết. Luân Pháp đã thành, lại tưởng chư vị Hiền Thánh trên Luân, tay cầm bình Cam Lộ ban cho tự rưới rót lên đỉnh đầu, các Bản Hiền Thánh Chân Ngôn đều tụng a dụ đa biến, như vậy ta người đều được ngưng dứt tai vạ (tức tai)

_Nếu người nữ muốn cầu con. Ở trên Như Ý Bảo Luân lúc trước cùng với Chân Ngôn đồng viết tên của người nữ này. A Xà Lê kết Căn Bản Ấn, tưởng Diệu Cát Tường (Maṃjuśrī) nhập vào trong thân người nữ, liền được diệt tội, cảm thấy đem đứa con đến cho đầu thai, không có các hoạn nạn

_Lại nữa, Pháp tăng ích. Dùng Cung Câu Ma Hương ở trên vỏ hoa, viết Như Ý Bảo Luân Chân Ngôn với tên của mình, liền tự đội trên đỉnh đầu. Sau đó, hướng mặt về phương Bắc, tưởng trong trái tim của mình có chúng Hiền Thánh màu vàng đậm, đều cầm cái bình báu chứa đầy châu báu, giáng vào Đạo Trường. Liền gia trì vào ngón giữa sẽ được tăng ích, làm đại tài chủ

_Nếu làm Pháp kính ái, cũng dùng Luân này. Dùng Xích Đàn, Ngưu Hoàng, mỡ chim Yến, hoa của cây Vô Ưu, thuốc Vô Danh…ḥòa chung với màu, viết Kính Ái Chân Ngôn ở trên vỏ hoa. Dùng sáp ong làm hình người kia, đem Luân trên vỏ hoa an trong trái tim của người ấy, dùng bơ, mật, hoa hồng cúng dường. Lại làm Quán Tưởng: tưởng mũi tên như hoa của cây Vô Ưu bắn hoàn toàn vào trái tim ấy. Hướng mặt về Thủy Thiên (Varuṇa) tụng Bản Chân Ngôn a dụ đa số, đến nửa đêm gia trì vào ngón vô danh, liền được kính ái thành tựu.

_Nếu làm Pháp giáng phục. Nghi Tắc như lúc trước, ở trên Luân (Cakra: bánh xe) viết Giáng Phục Chân Ngôn. Liền tự Quán Tưởng Chân Ngôn Luân (Mantracakra: bánh xe viết chữ của Chân Ngôn) ngửa mặt lên giáng phục người kia, dùng sợi dây móc dẫn. Làm Quán Tưởng xong, liền tụng Chân Ngôn thì người đã muốn giáng phục, đều đi đến chịu hàng phục

_Lại nữa, muốn làm Pháp khiến điều phục người có năm tội Nghịch. Dùng thuốc độc, hạt cải, nước cốt của cây A Lý ca hòa chung với nhau. Vào lúc giữa ngày (giờ Ngọ) hướng mặt về phương Nam, dùng xương người làm bút, ở trên áo của xác chết viết Như Ý Luân Chân Ngôn lúc trước với viết Kính Ái Chân Ngôn lúc trước, lại thêm chữ Ô (栥: U), chữ Phát (傋: PHA) gia trì vào ngón trỏ. Lại dùng bột xương người, tro thiêu đốt xác chết, đất sạch, đất dưới bàn chân của người năm nghịch hòa chung với nhau làm hình người ấy. Đem Chân Ngôn Luân để trong trái tim của hình ấy, dùng lửa của cây Khư Nỉ La nướng hình ấy, tụng Giáng Phục Chân Ngôn úc trước a dụ đa số thì người kia liền bị bệnh nặng. Nếu đem hình ấy chôn dấu trong miếu thờ Thần với bên trong rừng Thi Đa thì người kia bị nhóm bệnh nóng sốt. Pháp này y theo dùng điều phục là tối thượng.

_Lại nữa, Pháp khiến cho người kia ganh ghét lẫn nhau. Dùng máu trâu, máu ngựa, cây Nãnh Ma (Nimba), máu mèo hòa chung màu này với nhau, ở trên áo của xác chết viết Chân Ngôn Luân lúc trước. Lại lấy tro thiêu đốt người, đất ở hai bên bờ sông với đất dưới bàn chân của người kia hòa hợp đều làm hình của người ấy. Hướng mặt hình ấy về phương Tây, đem Chân Ngôn Luân để ở trong trái tim, rồi dùng lông trâu, lông ngựa cột chặt hình ấy, lại dùng ba loại thuốc độc xoa bôi. Người làm Pháp tưởng hai người kia, một người cỡi trâu, một người cỡi ngựa giết hại lẫn nhau. Như vậy tưởng xong, dùng lửa của cây Khư Nỉ La nướng hình ấy, tụng Chân Ngôn a dụ đa số rồi đem hình ấy chôn dấu dưới nhà, hoặc trong rừng Thi Đa. Tức hai người kia gây oán thù với nhau. Dùng Nghi Pháp này thì hàng Dục Giới Thiên còn bị như điều này, huống chi là người phàm

_Lại nữa, Pháp cấm đoán cột trói hung ác. Dùng thuốc độc, hạt cải, Thư Hoàng, nước cốt Hoàng Khương, đất đỏ hòa chung với nhau, ở trên vỏ hoa viết Cấm Phộc Chân Ngôn Luân, rồi đem Luân này an trong một cái chén, dùng trong che lấp đầy, lại dùng một cái chép úp lên rồi côn dấu ở nơi kín đáo, tụng Chân Ngôn a dụ đa số thì người kia liền bị cấm đoán cột trói (cấm phộc)

_Lại nữa, Pháp phát khiển oan gia. Dùng thuốc độc màu đỏ, nước cốt cây Nãnh Ma hòa hợp làm mực, dùng lông cánh con quạ làm bút, ở trên áo của xác chết, hoặc là cây Ba La Xá… viết Phát Khiển Chân Ngôn, làm bánh xe Như Ý, liền tự tụng Chân Ngôn a dụ đa số, đem bánh xe cột trên cổ con quạ rồi phóng thả về phương Tây Bắc hoặc phương Nam cũng được, trải qua khoảng sát na thì oan gia kia tự thoái lùi.

_Lại nữa, Pháp phá hoại oan gia. Dùng thuốc độc, muối, hạt cải với máu trên ngón tay của mình hòa hợp một chỗ, dùng xương người làm bút, ở trên áo của xác chết hoặc trên đầu lâu, viết Chân Ngôn Luân. Lại dùng tro thiêu đốt người với bột xương người, đất sạch, đất dưới bàn chân của oan gia, thuốc độc hòa hợp làm bùn rồi làm hình oan gia. Đem Chân Ngôn Luân để trong trái tim của hình ấy, liền tự hướng mặt về phương Nam tưởng trên ngón trỏ có ba đầu heo màu đen, vẫn tụng Chân Ngôn a dụ đa số, lại tưởng hình oan gia ở trước mặt của mình bị phá nát vô số, có trăm ngàn con chim kên kên với nhóm quạ ăn oan gia ấy. Như vậy tưởng xong, đem hình chôn dấu dưới nhà của oan gia, hoặc trong rừng Thi Đa thì nội trong ba ngày, oan gia kia bị chết.

_Lại nữa, Pháp cầu tuôn mưa xuống. Như Nghi Tắc lúc trước, trước tiên quán tưởng Đức Tỳ Lô Gia Na Phật, tiếp theo tưởng tất cả Hiền Thánh trên Như Ý Bảo Luân, tay cầm bình Cam Lộ như phụng lời răn dậy của Thầy, suốt cả ngày Chú vào Rồng, liền nhập vào Tam Muội thì Rồng liền tuôn mưa xuống.

_Lại nữa, Pháp cầu tuôn mưa xuống. Dùng Cung Câu Ma Hương, Bạch Đàn, Thanh Đại ở trên vỏ hoa viết Chân Ngôn Luân. Lại lấy đất trên Đả Ngõa Luân (?bánh xe ngói bị đập vỡ) làm hình con Rồng, dùng sợi dây màu xanh cột buộc Chân Ngôn Luân ở trên cổ Rồng, rồi an con Rồng bên trong một chén nước cốt sữa, lại dùng một cái chép đậy lên, dùng Kim Cương Ấn ấn lên hai cái chép ấy, vẫn tụng Chân Ngôn a dụ đa số, liền đưa con Rồng vào bên trong gian phòng của Rồng (long đường) thì tuôn mưa lớn xuống.

_Lại nữa, Pháp cầu tuôn mưa xuống. Dùng nhóm thuốc độc, ở trên áo của xác chết, hoặc trên cái bình ngói bị vỡ… viết Chân Ngôn Luân. Ở tâm của bánh xe viết hai chữ Phát tra (傋誆: PHAṬ), trên cây căm phương Đông vẽ A Nan Đa Đại Long Vương (Ananta), trên cây căm phương Nam vẽ Phộc Tô Chỉ Long Vương (Vāṣuki), trên cây căm phương Tây vẽ Đức Xoa Ca Long Vương (Takṣaka), trên cây căm phương Bắc vẽ Yết Cú Tra Ca Long Vương (Karkoṭaka), trên cây căm phương Đông Nam vẽ Thương Khư La Long Vương (Śaṅkha-pāla), trên cây căm phương Tây Nam vẽ Đại Liên Hoa Long Vương (Mahā-padma), trên cây căm phương Tây Bắc vẽ Liên Hoa Long Vương (Padma), trên cây căm phương Đông Bắc vẽ Câu Lý Ca Long

Vương (Kulika). Ở trên vành xe vũ tất cả Rồng tuôn mưa xuống với viết Giáng Vũ Chân Ngôn. Như vậy, lại làm Quán Tưởng: tưởng trong lửa của cây Khư Nỉ La có Ma Lý Chi Bồ Tát làm tướng phẫn nộ. Tưởng xong liền tụng Chân Ngôn a dụ đa số thì mau tuôn mưa lớn xuống.

Nếu mưa chẳng ngưng. Dùng bột vàng, Thư Hoàng với Hoàng Khương hòa chung với nhau, ở trên cái chén ngói, viết Chân Ngôn, dùng tro phủ lấp đầy cái chén ấy. Dùng sợi dây màu vàng cột buộc trên cái chén, dùng hoa màu vàng cúng dường, liền tụng Chân Ngôn a dụ đa số thì mưa ấy mau chóng ngưng dứt.

_Lại nữa, Pháp cấm oan gia. Dùng nhóm thuốc độc, ở trên áo của xác chết viết Ma Tế Bồ Tát Chân Ngôn với Căn Bản Chân Ngôn rồi chôn dấu ở nơi kín đáo, liền tụng Chân Ngôn a dụ đa số rồi tùy theo ý Kinh Hành thì tất cả oan gia tự nhiên bị ngăn cấm (cấm chỉ)

_Lại nữa, Pháp ngăn cấm oán binh chẳng khiến cho xâm phạm đất nước. Nếu quốc vương tin trọng Phật Pháp, cung kính A Xà Lê, làm Đàn Pháp này thì quyết định chẳng bị xâm phạm. Dùng Thư Hoàng, nước cốt của Hoàng Khương ở trên áo của xác chết viết Ma Tế Bồ Tát Chân Ngôn với tên của Nghịch Chủ, làm Như Ý Bảo Luân. Lấy đất ở hai bên bờ sông, đất trong ngã tư đường, hoặc đất trên núi, tro thiêu đốt người đồng hòa làm bùn rồi làm hình của Oán Binh Chủ (người chủ của binh oán), đem Chân Ngôn Luân để trong trái tim của hình ấy. Lại dùng bùn làm hình một con heo, bên trong miệng heo ngậm bàn chân của Oán Binh Chủ với nửa thân thể rũ xuống… đều an trong một cái chén, lại dùng một cái chén hợp lại rồi đem chôn dấu bên trong địa giới của Oán Binh. Dùng cây cọc gỗ Khư Nỉ La dài 8 ngón tay đóng trên hình Oán ấy. Dùng thức ăn uống, rượu thịt xuất sinh cúng tế. Thời A Xà Lê treo tranh tượng Ma Lý Chi, ở mặt sau của bức trang, tùy theo ý viết Chân Ngôn rồi an trên phan, phướng, phát tướng phẫn nộ như Kim Cương Minh Vương, liền tụng Chân Ngôn a dụ đa số, ngồi trên xe voi đế trước mặt quân kia thì Oán Binh như bị sợi dây cột trói chân tay, không có nơi cho sự dũng cảm, sợ hãi rồi tự thoái lui

_Lại nữa, Pháp tức tai. Trước tiên, tùy theo ý xuất sinh thức ăn, tất cả nơi chốn cúng dường. Song, tự Tâm làm Quán Tưởng: tưởng tất cả Hiền Thánh trong Như Ý Bảo Luân ủng hộ người đī. Liền y theo Pháp thỉnh triệu xong, dùng nước Cam Lộ cúng dường

Liền tụng Chân Ngôn này:

Án, khư khư, khư hứ khư hứ, nga-lý hận-nẵng, nga-lý hận-noản, đổ, tát lýphộc bộ đế ca, phộc lệ, ma ma, phiến đế-dựng, câu lý-phộc đổ, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ KHA KHA, KHĀHI KHĀHI, GṚHṆA GṚHṆA ANU SARVA-

BHŪTAKA BALIṂ MAMA ŚĀNTYAṂ KURVATTU SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này xong thì ta người đều được ngưng dứt tai vạ.

_Lại nữa, nếu mưa lâu chẳng tạnh thì có Pháp cầu cho tạnh mưa. Khiến người trì tụng làm Pháp Quán Tưởng: Tưởng Ma Lý Chi Bồ Tát, làm màu mây đen, bụng lớn, mặt ác, phẫn nộ ngó nhìn. Lại tưởng Chân Ngôn Luân ở trái tim của Bồ Tát như Đại Kiếp Hỏa, cây cối héo khô. Như vậy tưởng xong, liền lè lưỡi liếm ăn, trong khoảng nháy mắt thì Trời tự nhiên trong xanh

_Lại nữa, Pháp cấm phộc (cấm đoán cột trói). Dùng Thư Hoàng, nước cốt của Hoàng Khương, đất đỏ hòa chung một chỗ, ở bên trong vật khí bằng đồng, vẽ hình người kia. Lại ở trên trái tim viết Cấm Phộc Chân Ngôn Luân để ở nơi ấn kín rồn an trí trong nước. Dùng hoa màu vàng để làm cúng dường, liền tụng Chân Ngôn thì hết thảy người oán ác đi qua lại đều hay bị cấm đoán cột trói.

_Lại nữa, Pháp khiến cho Tâm của Oan Gia bị mê loạn. Như lúc trước, trên Như Ý Luân viết nhóm Mê Loạn Chân Ngôn. Dùng đất ở chỗ con người tiểu tiện với nước cốt của cây Mạn Đà La hòa hợp làm hình Oan Gia. Đem Chân Ngôn Luân để trong trái tim của hình ấy, dùng lửa của rừng Thi Đa nướng hình ấy, tụng Chân Ngôn a dụ đa số, liền chôn dấu hình ấy bên dưới nhà oan gia thì kẻ kia mau bị mê loạn. Hoặc đem hạt Mạn Đa La đưa vào bên trong thịt rồi ngâm trong nước7 ngày, lấy ra cho oan gia ăn, hoặc hòa chung với rượu, hoặc dùng hương đốt thì đều bị mê loạn. Nếu cần trừ bỏ sự mê loạn, dùng nước cốt sữa tẩy rửa thân của mình, tụng Chân Ngôn a dụ đa số, liền được ngưng dứt tai vạ, được trở lại như cũ.

_Lại nữa, có Pháp: nếu có người chồng mê đắm người nữ mà muốn khiến cho người chồng lãng quên, vứt bỏ. Dùng nước cốt của hoa Nãnh Ma (Nimba). Nếu không có nước cốt của hoa này thì dùng thuốc độc, máu trên ngón trỏ của mình hòa chung với nhau, ở trên áo của xác che61y viết tên của người chồng ấy, rồi như lúc trước làm bánh xe, dùng nước ct của cây Tất Tổ thấm tẩm qua, dùng lửa của cây táo nướng, liền tụng Chân Ngôn a dụ đa số rồi đem Chân Ngôn Luân chôn ở dưới cửa thì người chồng kia liền tăng lãng quên rồi không còn mê đắm nữa.

_Lại nữa Pháp người nữ muốn khiến cho người yêu kính. Dùng Ngưu Hoàng, lá cây Cát Tường với máu người, ở trên vỏ hoa đồng viết Chân Ngôn Luân với viết tên gọi, tụng Chân Ngôn a dụ đa số gia trì vào Luân ấy rồi đeo trên cổ, liền được người kính yêu.

Như vậy, nhóm Chân Ngôn của Ma Lý Chi Bồ Tát. Nếu A Xà Lê y theo Pháp thọ trì, luôn luôn trì tụng thì việc đã mong cầu, không có gì chẳng thành tựu. Ấy là: cây kiếm Thánh, thuốc bôi mắt, giày da, thuốc viên; giáng phục Dạ Xoa Nữ, Thiên Nữ, Long Nữ, A Tu La Nữ, Khẩn Nẵng La Nữ… thảy đều tùy thuận, kính yêu, hòa hợp. Người trì Minh ấy dùng uy đức của Chân Ngôn như uy lực Thần Thông của Ma Lý Chi Bồ Tát thì hết thảy Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Yết Tra Bố Đan Nẵng, Tỳ Xá Tả, La Xoa, Mẫu Quỷ, Noa Chỉ Nễ Quỷ, Ô Sa Đa La, Quỷ đói, Thân Quỷ, Mê Quỷ, Đại Diệu, Phệ Đa Noa, Tức Tả Ca với bộc tùng (tôi tớ), các hàng Quỷ ác, loài ôm giữ tâm ác…. còn chẳng dám xâm phạm lên bóng ảnh của người trì Minh kia, huống chi là hại thân ấy. Thế nên Trì Minh A Xà Lê hay được Phước lớn thanh tịnh, hay tăng trưởng Cát Tường rộng lớn, hay tiêu trừ tất cả tội nặng, hay thành tựu Bản Tôn Tam Muội, sẽ chứng Tỳ Lô Pháp Thân.

Kinh Ma Lý Chi. Các ngươi thích ứng nên tin nhận, đọc tụng

_Lại nữa, nhóm Pháp tức tai, tăng ích… khi bắt đầu ra công thì đều có thời phần.

Làm Pháp tức tai, dùng lúc sáng sớm (giờ Mão). Pháp tăng ích cũng dùng lúc sáng sớm, Pháp giáng phục dùng lúc giữa ngày (giờ Ngọ), Pháp kính ái dùng lúc nửa đêm (giờ Tý).

Như vậy, sắc tướng của bốn Pháp đều khác nhau

Pháp tức tai thì vật khí đã dùng với quần áo của người trì Minh đều dùng màu trắng

Pháp tăng ích thì vật khí đã dùng với quần áo của người trì Minh đều dùng màu vàng

Pháp kính ái thì vật khí đã dùng với quần áo của người trì Minh đều dùng màu hồng

Pháp giáng phục thì vật khí đã dùng với quần áo của người trì Minh đều dùng màu đen

Như trước đã nói Như Ý Bảo Luân, viết chép Chân Ngôn nên dùng làm Pháp, có 22 loại cầu tất cả việc thảy đều chân thật, không có gì chẳng thành tựu.

A Xà Lê ấy y theo Nghi Quỹ này thông đạt bí mật. Chân Ngôn Vương này thù thắng bậc nhất

“Chính tâm quy mệnh lễ

Ma Lý Chi Bồ Tát

Tỳ Lô Giá Na Phật

Đã nói Pháp thành tựu

Y Thắng Nghi Quỹ này

Từ Bi lại tuyên nói

Chúng ta nếu được nghe

Lìa hẳn các hiểm nạn”

_Lại nữa, nếu Đệ Tử có ở Mạn Noa La được thọ nhận Quán Đỉnh, thừa tự sự răn dạy của Thầy, trì Bản Tam Muội, phát Tâm thanh tịnh cầu Đạo vô thượng (Agramārga) cứu độ tất cả chúng sinh, rồi làm Pháp này. Trước tiên tụng Chân Ngôn này: “Án, hồng, phát tra”

*)OṂ_ HŪṂ PHAṬ

Tụng Chân Ngôn xong. Tay tác Phẫn Nộ Quyền an trên trái tim, trên cổ, trên trán, trên đỉnh đầu. Liền dùng nước súc miệng, vào gian phòng thờ Hiền Thánh, giăng bức tranh Ma Lợi Chi Bồ Tát, tụng Tịch Ma Chân Ngôn gia trì vào nước hương.

Chân Ngôn là:

Án, ma lý chi, hồng, tát lý-phộc, vĩ cận-nam, nỗ tha na dã, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI HŪṂ SARVA VIGHNĀṂ DUṬA-NAYA SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn xong, liền làm Quán Tưởng: tưởng trong trái tim của mình có chữ A (唒: A) biến thành vành trăng, có chữ Áng (哷: AṂ) biến thành vành mặt trời.

Tướng của mặt trời mặt trăng ấy như màu vàng ròng sáng rực, lại phát ra ánh sáng Yết Ma. ánh sáng ấy biến thành Chính Đẳng Chính Giác Thiên Nhân Sư. Liền tự làm lễ hiến các cúng dường, rồi tụng Chân Ngôn:

Án, ma lý chi, bà cật-đán, bát-la để tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI BHAKTAṂ PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này hiến thức ăn uống dâng lên Đức Phật

Án, ma lý chi, bổ sắt-bán, bát-la để tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI PUṢPAṂ PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này hiến hoa dâng lên Đức Phật

Án, ma lý chi, độ bán, bát-la để tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI DHŪPAṂ PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này hiến hương dâng lên Đức Phật

Án, ma lý chi, nỉ bán, bát-la để tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI DĪPAṂ PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này hiến đèn dâng lên Đức Phật

Án, ma lý chi, hiến đà, bát-la để tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI GANDHAṂ PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này hiến hương xoa bôi dâng lên Đức Phật

Án, ma lý chi, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này gia trì vào nước Át Già, như vậy mỗi mỗi cúng hiến

Nếu không có sức bày biện nhóm thức ăn uống này cúng dường. Tức quán tưởng nhóm thức ăn uống, mỗi mỗi cúng hiến

Như vậy quy y ba báu Phật Pháp Tăng, ruộng phước trong sạch chân thật, hối sám tất cả tội chướng xong, hết thảy tùy hỷ các Công Đức tốt lành, phát Nguyện, Hồi Hướng rằng:

“Ta phát Tâm Bồ Đề

Các Công Đức đã làm

Hồi hướng đến Chân Như

Vòng khắp cả Pháp Giới

Tất cả các chúng sinh

Đồng thấm ướt lợi lạc

Phát Tâm vô thượng khắp

Đều thành Chính Đẳng Giác

Như vậy tụng Kệ ba biến xong, liền nhập vào Tam Muội suy nghĩ: “Tất cả các Pháp đều không có cái Ta”. Làm Quán này xong, liền tụng Vô Ngã Chân Ngôn:

Án, du nễ-dã đa, nhạ-noa nẵng, phộc nhật-la, sa-phộc bà phộc đát-ma câu hám”

*)OṂ_ ŚŪNYATĀ-JÑĀNA-VAJRA SVABHĀVA ATMAKOHAṂ

Tụng Chân Ngôn này xong, lại nhập vào Tam Muội, quán chữ vi diệu như huyễn như hóa không có Thật Tính ấy. Tiếp theo, quán sáu đường (địa ngục, quỷ đói, súc sinh, người, A Tu La, Trời) trong ba cõi (Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới), bốn loài sinh (sinh trong trứng, sinh trong bào thai, sinh ở nơi ẩm thấp, sinh theo cách biến hóa) trong chín nơi cư ngụ (cửu hữu gồm có: Dục Giới Thiên, Sơ Thiền Thiên, Nhị Thiền Thiên, Tam Thiền Thiên, Tứ Thiền Thiên, Không Xứ, Thức Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ), nhóm hình sắc, năm Trần, bốn Đại bên trong bên ngoài… chỉ theo Duyên sinh đều không có Thể thật, tất cả Tính trống rỗng, chẳng lìa sự nhận thức (Vijñāna: thức). Quán như vậy xong thì hết thảy nghiệp chướng quá khứ hiện tại thảy đều trừ diệt.

Liền tụng Tam Nghiệp Thanh Tịnh Chân Ngôn:

Án, sa-phộc bà phộc, thuật đà, tát lý-phộc đạt lý-ma sa-phộc bà phộc thuật độ hám”

*)OṂ_ SVABHĀVA ŚUDDHA SARVA-DHARMA SVABHĀVA ŚUDDHOHAṂ

Tụng Chân Ngôn này ba biến, liền nhập vào Tam Muội (Samādhi). Lại tưởng Chữ Án (湡: OṂ) trên Như Ý Bảo Luân biến thành Tỳ Lô Giá Na Phật ở trên tòa Sư

Tử nơi Liên Hoa Tạng (Padma-garbha), làm Kim Cương Kết Già Phu Tọa, thân làm màu vàng ròng, kết Tỳ Lô Ấn làm tướng nhập Định với búi tóc, mão trên đầu, đủ tất cả trang nghiêm. Trên trái tim của Đức Phật ấy có vành trăng, vành trăng có chữ Phạn vi diệu thứ năm thứ sáu, đủ âm thứ nhất thứ hai, Thể như Pháp Giới (Dharma-dhātu). Lại ở trên chữ vi diệu có mặt trời mặt trăng như màu Đàn Kim, tất cả Như Lai thọ trì chữ này, lại hay biến hóa thành chày Ngũ Cổ Kim Cương, tên gọi là Như Lai Tộc (Tathāgata-kulāya). Chày Kim Cương ấy dùng sức Thần Thông nhập vào trong thân

Tỳ Lô Giá Na rồi tự tuyên nói Pháp Mạn Noa La

Bốn phương của Đàn này làm bốn cửa, dưới cái lầu có tám cây cột, dùng châu báu, Anh Lạc trang nghiêm. Ở bốn góc Đàn an mặt trăng báu ấy, mặt trăng có một nữa Kim Cương (bán Kim Cương). Trong Mạn Noa La an tám lớp chày Kim Cương, mỗi mỗi thù diệu. Lại dùng Kim Cương vây quanh một vòng, phóng ánh sáng lớn như một ngàn mặt trăng mùa Thu.

Liền tụng An Bồ Tát Chân Ngôn:

Án, a lý-ca ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ ARKA-MAṢI SVĀHĀ

Ở phương Đông an vị Bồ Tát này, thân làm màu hồng như tướng Đồng Nữ, mặc áo Trời màu xanh, tất cả trang nghiêm, tay cầm cây kim với sợi chỉ khâu mắt miệng của oan gia

Lại tụng An Bồ Tát Chân Ngôn:

Án, ma lý-ca ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARKA-MAṢI SVĀHĀ

Ở phương Nam an vị Bồ Tát này, thân làm màu vàng ròng như tướng Đồng Nữ, mặc áo Trới màu xanh, tất cả trang nghiêm, tay trái cầm cành cây Vô Ưu, tay phải cầm cây kim với sợi chỉ

Lại tụng An Bồ Tát Chân Ngôn:

Án, an đa lý-đà nẵng ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ ANANTARDHĀNA-MAṢI SVĀHĀ

Ở phương Tây an vị Bồ Tát này, thân làm màu vàng như tướng Đồng Nữ mặc áo

Trời màu xanh, tất cả trang nghiêm, tay phải cầm cành cây Vô Ưu, tay trái cầm sợi dây

Lại tụng An Bồ Tát Chân Ngôn:

Án, đế tổ ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ TEJO-MAṢI SVĀHĀ

Ở phương Bắc an vị Bồ Tát này, thân như màu mặt trời mới mọc, như tướng Đồng Nữ, mặc áo Trời màu xanh, tất cả trang nghiêm, tay cầm cung tên

Bốn vị Bồ Tát này an trụ như vậy

 

PHẬT NÓI KINH ĐẠI MA LÝ CHI BỒ TÁT

_QUYỂN THỨ SÁU (Hết)_

Pages: 1 2 3 4 5 6 7