PHẬT NÓI KINH ĐẠI MA LÝ CHI BỒ TÁT

Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triếu Tán Đại Phu Thí Hồng Lô Thiếu Khanh_ Minh Giáo Đại Sư (kẻ bầy tôi là) THIÊN TỨC TAI phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

QUYỂN THỨ NHẤT

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc (Jeṭavaṇe’nāthapiṇḍadasyārāma) trong nước Xá Vệ (Śrāvastya) cùng với chúng Đại Bật Sô (Mahatā-bhikṣu-saṃgha) gồm 1250 người đến dự, kèm với các vị Bồ Tát Ma Ha Tát (Bodhi-satva mahā-satva)

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo chúng Bật Sô rằng: “Có một vị Bồ Tát tên là Ma Lý Chi (Marīci) thường đi trước mặt trời, mặt trăng mà mặt trời, mặt trăng ấy chẳng thể nhìn thấy Bồ Tát. Nay Bồ Tát này: chẳng thể bị nhìn thấy, cũng chẳng thể đuổi bắt được, chẳng thể bị cấm đoán cột trói được, lửa chẳng thể thiêu đốt, nước chẳng thể cuốn chìm, lìa các sự sợ hãi, không ai dám khinh mạn, các Oan Gia (Śatrū) đều chẳng được dịp thuận tiện hãm hại.

Này các Bật Sô! Xưa kia Ta biết danh hiệu của Ma Lý Chi Bồ Tát Ma Ha Tát ấy, cũng chẳng thể bị nhìn thấy, cũng chẳng thể đuổi bắt được, chẳng thể bị cấm đoán cột trói được, lửa chẳng thể thiêu đốt, nước chẳng thể cuốn chìm, lìa các sự sợ hãi, không ai dám khinh mạn, các Oan Gia (Śatrū) đều chẳng thể xâm hại. Nếu có Bật Sô biết danh hiệu của Bồ Tát ấy thì các điều ác như bên trên chẳng thể được dịp thuận tiện, cũng lại như vậy”

Liền nói Đà La Ni là;

Đát nễ-dã tha: Án, bá na cật-la ma tế, ô na dã ma tế, nãi la ma tế, a lý-ca ma tế, ma lý-ca ma tế, ô lý-ma ma tế, phộc nẵng ma tế, ngu la-ma ma tế, chi phộc la ma tế, ma hạ chi phộc la ma tế, an đa lý-đà nẵng ma tế, sa-phộc hạ”

*)TADYATHĀ: OṂ_ PAṆĀGRAMAṢI UDAYA-MAṢI DARA-MAṢI

ARKA-MAṢI MARKA-MAṢI ŪRMA-MAṢI VANA-MAṢI, KURMA-MAṢI JVALA-MAṢI, MAHĀ-JVALA-MAṢI ANTARDHĀNA-MAṢI SVĀHĀ

_Lại nói Ma Lý Chi Bồ Tát Đà La Ni hay khiến cho hữu tình ẩn thân ở trong đường đi, ẩn thân trong nơi chẳng phải là đường đi, ẩn thân trong Chúng, ẩn thân khi gặp nạn vua chúa. Tất cả các nạn: nước, lửa trộm cướp… đều hay ẩn thân, chẳng khiến cho chúng có dịp thuận tiện gây hại. Lại nữa, có người phiền não, người chẳng phiền não đều vì họ làm ủng hộ. Có người mê man, người chẳng mê man cũng đều ủng hộ.

Cho đến nạn voi chúa, sư tử, Rồng, cọp trong tất cả thời thường làm ủng hộ.

Liền nói Đà La Ni là:

Đát nễ dã-tha: A lộ, đa lộ, ca lộ, sa tha lộ, tam ma mẫu lý-đà trí, la khất-xoa, hàm, tát ba lý phộc lãm, tát lý-phộc tát đát-tông thất-tả, tát lý-phộc bà dụ ba nạila phệ tỳ-dược, sa-phộc hạ. Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã. Ma lý chi, nỉ phộc đa dạ, hạ-lý nãi dã, ma phộc lý-đa, dĩ sắt-dã di, đát nễ-dã tha: Án, vãn đa lệ, phộc na lệ, nỗ sắt-tra, bát-la nỗ sắt-tra nam, mãn đà mãn đà, mục khiếm, sa-phộc hạ. Án, ma lý chi, sa-phộc hạ. Án, phộc la lệ, phộc na lệ, phộc la hạ mục khế, tát lýphộc nỗ sắt-tra, bát-la nỗ sắt-tra nam, mãn đà mãn đà, sa-phộc hạ” *)TADYATHĀ: ARŪ TARŪ KARŪ SĀDARŪ SAMA MŪRDHĀTI RAKṢA MĀṂ SAPARIVĀRĀṂ _ SARVA SATVAṂSYA SARVA BHAYOPADRAVEBHYAḤ SVĀHĀ

NAMO RATNA TRAYĀYA_ MARĪCI-DEVĀTĀYA-HṚDAYAM ĀVARTEṢYĀMI_ TADYATHĀ: OṂ_VĀTTĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHAMUKHI_ SARVA DUṢṬA PRADUṢṬĀṆĀṂ BANDHA BANDHA MUKHAṂ

SVĀHĀ

OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ

OṂ_ VARĀLI VADĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA DUṢṬA

PRADUṢṬĀṆĀṂ BANDHA BANDHA SVĀHĀ

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Đà La Ni này xong thời trong Hội chúng Bật Sô với các Bồ Tát, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà, tất cả Đại Chúng nghe điều Đức Phật đã nói đều vui vẻ tin nhận.

_Lại nữa, Đức Phật nói: “Nếu có chúng sinh y theo Nghi Tắc rộng lớn này, kết Đại Tỳ Lô Giá Na Ấn, quán tưởng ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Như vậy mặt trời mặt trăng thành Ma Lý Chi Bồ Tát, vị Bồ Tát ấy tay cầm cây kim và sợi chỉ, khâu miệng cùng với con mắt của oan gia kia khiến cho chẳng thể gây hại”

Đức Phật nói: “Ma Lý Chi Bồ Tát ấy luôn đi trước mặt trời mặt trăng mà mặt trời mặt trăng ấy tuy lại có ánh sáng nhưng chẳng nhìn thấy Bồ Tát ấy. Thế nên nay Ta nói Đại Tam Bảo Chân Ngôn là:

Án, bá na cật-la ma tế, ba la cật-la ma tế, ô na dã ma tế, phộc na ma tế, nãi la ma tế, an đa lý-đà nẵng ma tế, sa-phộc hạ. đát nễ-dã tha: a lệ, tô ca lệ, mẫu lệ, tam ma mẫu lý-đà trí, la khất-xoa hàm, tát lý-phộc bà duệ số, sa-phộc hạ. Án, vãn đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế, tát lý-phộc nỗ sắt-tra nẵng, mãn đà mãn đà, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ PAṆĀGRAMAṢI BALĀGRA-MAṢI UDAYA-MAṢI DARA-MAṢI

ANTARDHĀNA-MAṢI SVĀHĀ

TADYATHĀ: ARĪ SUKARĪ MŪRI SAMA MŪRDHĀTI RAKṢA MĀṂ

SARVA BHAYESYO SVĀHĀ

OṂ_ VARĀLI VADĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA DUṢṬĀṆĀṂ

BANDHA BANDHA SVĀHĀ

Nay Chân Ngôn này, nếu khi người trì tụng, phàm có sự mong cầu thì nên xưng tên của mình, tức thời Ma Lý Chi Bồ Tát dùng sức Từ Bi vì chúng sinh ấy: ủng hộ ở trong đường đi, ủng hộ trong nơi chẳng phải là đường đi, ủng hộ trong cúng đông người, ủng hộ khi gặp nạn nước, ủng hộ khi gặp nạn lửa, cho đến tất cả nơi chốn thảy đều ủng hộ, khiến được tăng trưởng tất cả việc tốt lành.

_Nay có Pháp thành tựu. Dùng lụa màu với bản gỗ tốt, ở bên trên ấy vẽ cây Vô ưu (Aśoka-vṛkṣa), ở dưới cây này vẽ Ma Lý Chi Bồ Tát, thân như màu vàng chóe, làm tướng Đồng Nữ, khoác áo Trời màu xanh, tay cầm hoa sen, đỉnh đội tháp báu trang nghiêm. Như vậy vẽ xong, ở trước tranh tượng này, tụng Tối Thượng Tâm Chân Ngôn tám ngàn biến thì việc mong cầu quyết định thành tựu.

Chân Ngôn ấy là:

Án, ma lý chi, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ

Nay Chân Ngôn này cũng hay tiêu trừ tất cả bệnh khổ

_Nếu người ở trước tranh vẽ Ma Lý Chi Bồ Tát ấy, làm Hộ Ma thì hay tăng ích cho việc về voi, ngựa, tiền, lúa đậu, giàu có, vui sướng

Người làm Hộ Ma ấy, nếu dùng Lạc (váng sữa đặc), bơ, mật, cỏ Nỗ Lý Phộc làm Hộ Ma một ngàn biến thì được người yêu trọng, không có bệnh tật, được tài bảo.

Nếu dùng Lạc (váng sữa đặc), gạo, lúa đậu, đường cát làm Hộ Ma một ngàn biến thì hay giáng phục Dạ Xoa nữ.

Nếu dùng dầu hạt cải, cây Ninh Ma (Nimba) làm Hộ Ma một ngàn biến thì hay khiến cho oan gia sinh bệnh

Nếu dùng máu của thân mình, dầu hạt cải làm Hộ Ma một ngàn biến thì hay giết chết oan gia kia

Nếu cần đẩy lui, ngưng dứt, trừ khử tai vạ của oan gia, dùng nước cốt sữa làm Hộ Ma một ngàn biến.

Nếu cần tiêu trừ các độc với giáng phục Quỷ Noa Chỉ Nễ (Ḍākiṇī) thì thuận theo mặt trời, tụng Tâm Chân Ngôn của Ma Lý Chi 108 biến, lại được thông minh.

Chân Ngôn ấy là:

Án, phộc la lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế, tát lý-phộc nỗ sắttrạm, mãn đà mãn đà, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VARĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA DUṢṬĀṂ BANDHA BANDHA SVĀHĀ

_Ma Lý Chi Bồ Tát Tối Thượng Tâm Chân Ngôn

Án, ma lý chi, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ

Ấn của Tâm Chân Ngôn này là: Chắp hai tay lại, hơi cong mười ngón tay như hoa nở rộ, trở lại co hai ngón cái vịn hai ngón giữa như tướng nắm tay (quyền)

Ngồi Kiết Già, an Ấn Tướng ở trên vành rốn. Nay Tâm Ấn này hay thành tựu tất cả việc tối thượng. Nếu cầu Pháp Tối Thượng Thắng thì được dùng. Nếu việc trung hạ thì chẳng hứa cho dùng.

Tâm Ấn này hay thành tựu Phước Đức thanh tịnh cát tường rộng lớn, mau hay tiêu trừ tất cả chướng ngại, nghiệp tội. Tất cả nơi chốn thường được mọi người cung kính.

_Ma Lý Chi Bồ Tát Nhất Bách Bát Danh Chân Ngôn, nếu người trì tụng thì luôn làm ủng hộ.

Chân Ngôn ấy là:

Đát nễ-dã tha: A lý-ca ma tế, ma lý-ca ma tế, ô na dã ma tế, nãi la ma tế, phộc nẵng ma tế, ngu la-ma ma tế, chi phộc la ma tế, ma ha chi phộc la ma tế, an đa lý-đà nẵng ma tế, sa-phộc hạ. Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã, đát nễ-dã tha: Án, vãn đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế, tát lý-phộc nỗ sắt-tra, bát-la nỗ sắt-tra nam, mãn đà mãn đà, mục khiếm, sa-phộc hạ”

*)TADYATHĀ: ARKA-MAṢI MARKA-MAṢI UDAYA-MAṢI DARA-MAṢI

VANA-MAṢI KURMA-MAṢI JVALA-MAṢI MAHĀ-JVALA-MAṢI ANTARDHĀNA-MAṢI SVĀHĀ

NAMO RATNA-TRAYĀYA_ OṂ VATTĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA DUṢṬA PRADUṢṬĀṆĀṂ BANDHA BANDHA MUKHAṂ SVĀHĀ

Nghi Pháp này trích trong Phẩm Trì Minh Thiên.

_Tiếp theo, Pháp Biệt Minh thành tựu khiến Hành Nhân kia trước tiên Quán Tưởng, tưởng Ma Lý Chi Bồ Tát ấy ngồi trên thân con heo màu vàng ròn, thân mặc áo trắng, đỉnh đội cái tháp báu, tay trái cầm cành hoa Vô Ưu (Aśoka), lại có đám heo vây quanh. Tác Quán này xong, nếu đi trên đường xa, như có nạn lớn của nhóm giặc thì dùng tay cầm góc áo của thân mình, niệm Tâm Chân Ngôn 7 biến gia trì vào góc áo, lại thắt gút góc áo thì nạn của nhóm oán tặc chẳng thể xâm hại được.

_Lại có Pháp thành tựu. Trước tiên, khiến Hành Nhân vào Tam Ma Địa (Samādhi), tưởng trên vành trăng có chữ An (軠: AṂ). Lại suy nghĩ trong tất cả Pháp đều không có cái ta, tiếp theo quán thân của mình tràn khắp trong hư không như tướng của Đức Tỳ Lô Giá Na Phật (Vairocana-buddha) ở Kim Cương Liên Hoa Tạng (Vajra-padma-garbha), ngồi Kiết Già trên tòa sư tử (Siṃhāsana), kết Tỳ Lô Ấn, tướng hiền thiện trang nghiêm. Khi nhớ niệm chữ Hàm (伐:MAṂ) thời vành trăng phát ra ánh sáng chiếu diệu khắp cả, thành Ma Lý Chi Bồ Tát Lại tụng Chân Ngôn này:

Án, ma lý chi, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ

Lúc đó, Bồ Tát tay cầm cây kim và sợi chỉ; thân hiện màu vàng ròng, khâu miệng cùng với con mắt của kẻ ác kia, khiến chẳng xâm hại được

_Lại có Pháp thành tựu. Khiến Đồng Nữ xe sợi dây 21 điều, chẳng được dùng chỉ bị đứt đoạn. Tụng Căn Bản Chân Ngôn 108 biến gia trì vào sợi dây ấy Chân Ngôn là:

Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã, ma lý chi nỉ phộc đa dạ, hạ-lý nãi dã ma phộc đa, dĩ sắt-dã di, đát nễ-dã tha: Án, vãn để lệ, vãn để lệ, vãn đa lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khư, tát lý-phộc nỗ sắt-tra, bát-la nỗ sắt-tra nẵng, tác sô lý-mục khiếm, mãn đà nễ, sa-phộc hạ”

*)NAMO RATNA-TRAYĀYA

MARĪCI-DEVATĀYA-HṚDAYAM ĀVARTEṢYĀMI

TADYATHĀ: OṂ_ VATTĀLI VATTĪLI VATTĀLI VARĀLI VARĀHAMUKHI_ SARVA DUṢṬA PRADUṢṬĀṆĀṂ CAKṢUR-MUKHAṂ BANDHANI SVĀHĀ

_Lại niệm Chân Ngôn này 108 biến. Chân Ngôn là:

Nẵng mô ma lý chi nỉ phộc đa duệ, đát nễ-dã tha: Án, vãn đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế, tát lý-phộc nỗ sắt-tra, nga-la thế, mãn đà di, saphộc hạ”

*)NAMO MARĪCI-DEVATĀYE

TADYATHĀ: OṂ_ VATTĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI _ SARVA DUṢṬA AGRASE BANDHA ME SVĀHĀ

Như vậy niệm tụng gia trì xong. Nếu tự ủng hộ, dùng sợi dây ấy kết 7 gút, mỗi một gút niệm Ma Lý Chi Bồ Tát một tiếng, sau đó đem sợi dây đeo trên cổ. Như tại đường di, nơi có nạn gấp, lại niệm Ma Lý Chi Bồ Tát Chân Ngôn thì tự thân cùng với người đồng hành đều được giải thoát.

_Nếu ở trú xứ của mình, như lúc trước làm Pháp, ban ngày đối diện mặt trời, ban đêm đối diện mặt trăng tụng Chân Ngôn này 7 biến thì quyết định được thành thựu.

Chân Ngôn là

“Nẵng mô tát lý-phộc một đà, mạo địa tát đát-phệ tỳ-dược. Đát nễ-dã tha: A lệ, tô ca lệ, mẫu lệ, tam ma mẫu lý-đà trí, la khất-xoa, la khất-xoa, hàm. Tát lýphộc bà duệ tỳ-dược, sa-phộc hạ”

(Chân Ngôn bên dưới đây thảy đều thông dụng)

*)NAMO SARVA BUDDHA BODHISATVEBHYAḤ

TADYATHĀ: ARĪ SUKARĪ MŪRI SAMA MŪRDHĀTI RAKṢA RAKṢA MĀṂ_ SARVA BHAYEBHYAḤ SVĀHĀ

Án, phộc la lệ, phộc na lệ, phộc la hạ mục khế. Tát lý-phộc nỗ sắt-tra, mãn đà mãn đà, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VARĀLI VADĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA DUṢṬA BANDHA BANDHA SVĀHĀ

Án, ma lý chi, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ

Án, phộc la lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế. Tát lý-phộc nỗ sắttra, bát-la nỗ sắt-tra nam, mãn đà mãn đà, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VARĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA DUṢṬA PRADUṢṬĀṆĀṂ BANDHA BANDHA SVĀHĀ

Án, ma lý chi, sa-phộc hạ. Ô lý-ma ma tế, phộc nẵng ma tế, ngu la-ma ma tế, chi phộc la ma tế, ma hạ chi phộc la ma tế, an đa lý-đà nẵng ma tế”

*)OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ_ ŪRMA-MAṢI VANA-MAṢI KURMA-MAṢI JVALA-MAṢI MAHĀ-JVALA-MAṢI ANTARDHĀNA-MAṢI

Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã. Đát nễ-dã tha: Án, vãn đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế. Tát lý-phộc mãn đà mãn đà, sa-phộc hạ”

*)NAMO RATNA-TRAYĀYA

TADYATHĀ: OṂ_ VATTĀLI VADĀRI VARĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA BANDHA BANDHA SVĀHĀ

Án, ma lý chi, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ

Án, vãn đa lệ, vãn đa lệ, vãn đa lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế. Tát lýphộc nỗ sắt-tra nam, mãn đà mãn đà, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VATTĀLI VATTĀLI VATTĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA DUṢṬĀṆĀṂ BANDHA BANDHA SVĀHĀ

Án, ma lý chi, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ

Án, vãn đa lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế. Tát lý-phộc nỗ sắt-tra, bát-la nỗ sắt-tra nam, tác sô mục khiếm, mãn đà di, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VATTĀRI VARĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA DUṢṬĀṆĀṂ PRADUṢṬĀṆĀṂ CAKṢU MUKHAṂ BANDHA ME SVĀHĀ

Án, vãn đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế. Tát lý-phộc nỗ sắttra, bát-la nỗ sắt-tra nam, nga-la thể, mãn đà di, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VATTĀRI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI _ SARVA DUṢṬA PRADUṢṬĀṆĀM AGRASE BANDHA ME SVĀHĀ

Án, a lý-ca ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ ARKA-MAṢI SVĀHĀ

Án, ma lý-ca ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARKA-MAṢI SVĀHĀ

Án, an đa lý-đà nẵng ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ ANANTARDHĀNA-MAṢI SVĀHĀ

Án, đế tổ ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ TEJO-MAṢI SVĀHĀ

Án, ô na dã ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ UDAYA-MAṢI SVĀHĀ

Án, nga la-ma ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ KURMA-MAṢI SVĀHĀ

Án, phộc nẵng ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VANA-MAṢI SVĀHĀ

Án, chi phộc la ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ JVALA-MAṢI SVĀHĀ

Án, ma hạ chi phộc la ma tế, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MAHĀ-JVALA-MAṢI SVĀHĀ

Nhóm Chân Ngôn như vậy cùng với Nghi Tắc lúc trước đồng dụng thì việc mong cầu đều được thành tựu.

_Lại nữa, Pháp Thành Tựu. Tụng Tối Thượng Tâm Chân Ngôn này

Án, ma lý chi, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI SVĀHĀ

Ấy là Tức Tai, Tăng Ích, Điều Phục, Kính Ái làm Pháp đồng dụng đều được thành tựu

_Lại người trì tụng nếu làm giáng phục. Nên tác Quán Tưởng, suy nghĩ người kia ngồi trên Phong Luân, dùng tay của mình cầm sợi dây với móc câu, dùng chữ Hạ Lý (HRĪḤ), chữ Hồng (HŪṂ) an ngay trong trái tim của người ấy. Tác Quán

Tưởng xong, triệu thỉnh thì có thể bên ngoài một trăm do tuần, hoặc nam hoặc nữ đều đến tập hội, thảy đầu chịu hàng phục, không có gì chẳng thuận, thành tựu điều đã mong cầu.

_Lại có Pháp thành tựu. Khi mặt trời mới mọc, khiến một Đồng Nữ tắm gội sạch sẽ, dùng hoa màu tắng, Chiên Đàn xoa bôi thân, mặc quần áo màu trắng. Dùng Cù Ma Di (Gomayī: phân bò) tạo làm, ở trong Mạn Noa La thiếu đốt An Tất Hương, dùng mỡ chim Yến thấm nhiễm ngón tay cái, khiến niệm Chân Ngôn này 108 biến.

Chân Ngôn là:

Án, tức lý tức lý, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ CILI CILI MUḤ SVĀHĀ

Lại tụng Chân Ngôn 108 biến gia trì vào dầu ấy. Đem dầu này xoa bôi trên ngón tay cái, xoa bôi xong thì hay hiện nhóm tượng người Trời

Lại tụng Chân Ngôn Án Hàm (OṂ MAṂ) gia trì đèn 108 biến thì Đồng Nữ kia hay nhìn thấy việc quá khứ như đối trước mắt, với hay điều phục tất cả chúng mẫu Quỷ. Lại hay niệm Chân Ngôn Án, vãn đa lệ, hàm, mục (OṂ_ VĀNTĀRI MAṂ

MUḤ) a dụ đa (Ayuta: một vạn) số thì quyết định hay biết tất cả việc thiện ác.

_Lại có Pháp thành tựu hay khiến oan gia sinh bệnh khổ, gây hại chẳng thành. Dùng đất tro thiêu đốt người chết với bột xương, lại lấy đất dưới bàn chân của oan gia hòa chung một chỗ làm bùn, tạo làm hình oan gia. Lại dùng thuốc độc, hạt cải, sữa, cây A Lý Ca hòa chung, viết tên của oan gia với viết Chân Ngôn ngay trên cái áo của xác chết.

Chân Ngôn ấy là:

Án, ma lý chi, a mẫu khiếm, nhập-phộc lý noa, nga-lý hận-noa, nga-lý hậnnoa, ba dã, hồng phát tra, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI AMUKAṂ JVALIṆA GṚHṆA GṚHṆA APAYA HŪṂ

PHAṬ SVĀHĀ

Lại tụng Chân Ngôn này tám trăm biến, chôn dấu bên dưới nhà của oan gia sẽ khiến cho kẻ ấy sinh bệnh.

Lại dùng một đầu lâu, dùng nhóm thuốc độc, sữa lúc trước, ở trên đầu lâu viết tên của oan gia với viết một chữ Hàm (伐:MAṂ), ở chung quanh chữ Hàm viết bốn chữ La (捖: RA). Dùng lửa của cây Khư Nỉ La nướng cái đầu lâu ấy. Cái đầu lâu kia làm tướng ác, chôn dấu ngay trong nhà của oan gia thì quyết định sinh bệnh

_Nếu muốn giết mạng của oan gia. Dùng thuốc độc, muối, hạt cải, máu của thân mình… hợp làm mực, dùng xương người làm bút, cũng ở trên đầu lâu viết tên của oan gia, kèm viết hai chữ Hồng Phát Tra (HŪṂ PHAṬ) niệm Chân Ngôn tám ngàn biến thì kẻ kia quyết định bị chết.

Chân Ngôn là;

Án, ma lý chi hồng, a mẫu kiếm, ma la dã, hồng phát tra, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI HŪṂ_ AMUKAṂ MĀRĀYA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này xong, nếu đem đầu lâu chôn ngay trong rừng Thi Đa thì trong 3 ngày mạng của kẻ kia bị hoại.

_Nếu muốn khiến cho oan gia kịa bị loạn tâm. Dùng một lông cánh con quạ, niệm Chân Ngôn tám ngàn biến gia trì vào cái lông cánh ấy rồi chôn dấu trong nhà của oan gia, trải qua khoảng sát na sẽ mau khiến cho Tâm kẻ kia bị loạn Chân Ngôn là:

Án, ma lý chi, tả la, bát-la tả la, thi già-la, nga di nễ, a mẫu ca mộng, tả trá dã, hồng phát tra, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI CALA PRACALA ŚĪGHRA GĀMINI AMUKAṂ

CHAṬĀYA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

Hoặc quán tưởng oan gia cỡi con Lạc Đà, cũng trong một sát na khiến cho kẻ kia bị loạn tâm

_Nếu muốn khiến cho oan gia yêu ghét đấu tranh. Dùng tro thiêu xác chết, đất hai bên bờ sông với đất dưới bàn chân của oan gia hòa chung với nhau làm bùn rồi làm hình oan gia, đảo ngược an trên khuôn mặt ấy, dùng lông trâu với lông ngựa làm sợi dây, cột buộc thân oan gia ấy, dùng thuốc độc, hạt cải với dầu xoa bôi trên thân ấy. Dùng máu trâu, máu ngựa với cây Nãnh Ma (Nimba), ở trên áo của xác chết viết tên của oan gia, viết bốn chữ Phát (傋誆: PHAṬ), khoảng giữa viết một chữ Hồng (猲: HŪṂ), giáp vòng viết chữ Hàm (伐:MAṂ) vây quanh. Bên trong an trí ở trong trái tim của oan gia, miệng tụng Chân Ngôn với tưởng oan gia cỡi con trâu với ngựa chống chỏi giết lẫn nhau thì oan gia kia liền ganh ghét lẫn nhau.

Chân Ngôn là:

Án, ma lý chi, hồng, a mẫu kiếm, vĩ nỉ-phệ sa dã, hồng, phát, sa-phộc hạ

*)OṂ_ MARĪCI HŪṂ AMUKAṂ VIDHVAṂSAYA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

_Hoặc làm hình hai vị Trời Hạ La (Hara) với Nỗ Lý Nga (Dūrga) chôn ngay trong rừng Thi Đa, niệm Chân Ngôn lúc trước cũng được u ghét

Hoặc dùng sừng trâu, xương ngựa làm hình oan gia. Dùng thuốc độc, hạt cải, máu trâu, máu ngựa viết tên của oan gia. Ngay trên thân của oan gia dùng lửa của cây Khư Nỉ La nướng, lại niệm Chân Ngôn lúc trước thì khoảng một sát na nhóm kia ganh ghét lẫn nhau. Hình đã làm ấy cũng chôn dấu trong nhà của oan gia.

_Nay Ta lại nói Pháp giáng phục oán binh. Nếu có đất nước bị oán binh của nước láng giềng đi đến xâm phạm vào lãnh thổ. Nếu vị Đại Quốc Vương muốn phá hoại điều phục thời đī với Pháp thành tựu này sinh tin trọng sâu xa. Trước tiên thỉnh vị A Xà Lê như Pháp cúng dường rồi tự nói việc mong cầu. Thời vị A Xà Lê vì tất cả chúng sinh phát Tâm thương u lo lắng (từ mẫn) nhập vào Tam Ma Địa. Trong Mạn Noa La kia tất cả vật hiến cúng, sử dụng đều nên đầy đủ với người đồng làm việc Pháp chẳng được khuyết thiếu. Ở trước bức tranh của Ma Lý Chi Bồ Tát, dùng Bạch Đàn làm Mạn Noa La, hiến nhóm hoa màu trắng, hương đốt, hương xoa bôi với vòng hoa… dùng Lạc (váng sữa đặc), sữa, đường cát làm thức ăn cúng dường, niệm Chân Ngôn của nhóm Hiến thực, đều 7 biến.

Chân Ngôn là:

Án, ma lý chi, bác cật-đán, bát-la đế tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI BHAKTAṂ PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Đồ Hương Chân Ngôn 7 biến

Án, ma lý chi, hiến đà, bát-la đế tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI GANDHA PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Hoa Chân Ngôn 7 biến

Án, ma lý chi, bổ sắt-ba, bát-la đế tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI PUṢPA PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Đăng Chân Ngôn 7 biến

Án, ma lý chi, nỉ ba, bát-la đế tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI DĪPA PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Thiêu Hương Chân Ngôn 7 biến

Án, ma lý chi, độ ba, bát-la đế tha, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI DHŪPA PRATĪCCHA SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này xong, A Xà Lê phát tâm vui vẻ, hồi thí cúng dường Bồ Tát, rồi quán tưởng thân mình làm tướng đại dũng mãnh, tụng Cấm Oán Binh Chân Ngôn ba a dụ đa.

Chân Ngôn là:

“Án, vãn đa lệ, phộc na lệ, phộc la, phộc la hạ mục khế, tát lý-phộc nỗ sắttra, lý bố, tái nễ-diệm, sa-đán bà dã, hồng phát tra, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VATTĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI _ SARVA DUṢṬA

RIPU-SAINYAṂ STAMBHĀYA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

Tụng Chân Ngôn này, Trai Giới thanh tịnh ắt thấy điềm lành, thiện ác rồi làm Pháp Hộ Ma. Trước tiên làm lò Hộ Ma, dùng cây Ba La Xá, gỗ cây Bồ Đề, gỗ cây Ưu Đàm Bát .ẩm mới làm củi, đều dài 12 ngón tay, dùng sữa, lạc (váng sữa đặc), đường cát thấm tẩm hai đầu, dùng cỏ Nỗ Lý Phộc đồng làm Hộ Ma tám ngàn, tụng Cấm Oán Binh Chân Ngôn lúc trước tám ngàn, tức tất cả việc mong cầu đều hay thành tựu.

_Lại nữa, dùng vỏ hoa với tấm lụa, bên trên dùng dùng Cung Câu Ma Hương, Ngưu Hoàng đồng viết Chân Ngôn. Trước tiên viết tên của oan gia, tiếp theo viết chữ Hàm (MAṂ) vây quanh, tiếp theo viết hai chữ Thất Chỉ (ṬAKKI) vây quanh, lại viết Mạt Đa Lệ Bồ Tát Chân Ngôn vây quanh giáp vòng như tướng vòng hoa. Lại viết chữ Hàm vây quanh. Ở bên ngoài chữ Hàm viết bốn chữ Ám (AṂ), Hàm (MAṂ), Tham (THAṂ), Hàm (MAṂ) vây quanh, Bốn phương làm bốn cửa với bốn góc, phương trục bên trên, bên dưới sao chép khí trượng Kim Cương. Khiến nhóm quốc vương, Tể Thần hoặc trên cổ hoặc trên cánh tay đều đeo một Đạo sẽ hay khiến cho tất cả quân chúng làm ủng hộ lớn. Khi vào trận thời nhóm binh khí đao kiếm chẳng thể gây thương hại, được chiến thắng lớn

_Lại dùng oán binh. Lấy áo của người bị thương chết hoặc áo xác chết trong rừng Thi Đa. Dùng Hoàng Khương (củ gừng màu vàng) với Thư Hoàng viết Chân Ngôn này ngay bên trên. Lại lấy đất bên hai bờ sông với đất trong ngã tư đường, tro thiêu người chết hòa chung với nhau làm hình Oán Binh Chủ (người Chủ của Oán Binh), đem Chân Ngôn đã viết lúc trước an trí ngay trong trái tim của Oán Binh Chủ. Lại lấy đất hoặc miến gạo và Hoàng Khương hòa hợp làm một con heo. Đem Oán Binh Chủ lúc trước an ngay trong miệng con heo. Lại đem hay cổ tay hợp nơi thân con heo ấy rồi đem đến ranh giới của Oán Binh, an trí dưới đất. Dùng cây Khư Nễ Mộc làm cây cọc dài 8 ngón tay rồi đóng trên trái tim của Oán Binh Chủ kia. Dùng rượu thịt có vị mới cúng tế. Khiến A Xà Lê ngồi trên con voi hoặc ngồi trên xe ngựa hướng mặt trước trận, bày cờ phướng, bên trên an tranh tượng Ma Lý Chi Bồ Tát, thân màu vàng

A Xà Lê đầu đội mão vàng ròng, thân mặc áo màu vàng, tay cầm chuông chày, phát Tâm đại dũng mãnh. Lại tưởng ngồi trên xe do heo kéo, tụng Cấm Oán Binh Chân Ngôn làm tướng phẫn nộ thì Oán Binh tự bại, mau chịu hàng phục.

Chân Ngôn là:

“Án, vãn đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế, tát lý-phộc nỗ sắttra, lý bố, tái nễ-diệm, sa-đán bà dã, hồng phát tra, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VATTĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI_ SARVA RIPUSAINYAṂ STAMBHĀYA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

Pháp thành tựu này giáng phục Oán Quân không có nghi ngờ.

_Lại có Pháp thành tựu hay giáng phục Tha Oán (oan gia) ủng hộ Chúng của mình. Ở nơi vắng lặng trong rừng Thi Đa, an bức tranh Ma Lý Chi Bồ Tát, ở trước bức tranh ấy dùng Cù Ma Di (Gomayī: phân bò) làm Mạn Noa La, hiến năm loại cúng dướng tùy theo sức, phát Tâm dũng mãnh quán tưởng Ma Lý Chi Bồ Tát, làm tướng phẫn nộ có ba mặt, mỗi mặt có ba con mắt, một mặt làm mặt con heo ló răng nang ra bên ngoài, lưỡi như ánh chớp sáng, làm tướng đại ác. Thân phát ra lửa sáng vòng khắp chiếu sáng ngang bằng với ánh sáng của 12 mặt trăng, Thể mặc áo xanh, áo Trời màu xanh hở vai, ánh sáng như nhóm báu Đại Thanh, thân màu vàng chóe với mọi loại trang nghiêm, có tám cánh tay: tay bên phải cầm chày kim cương, móc câu kim cương. Tay bên trái cầm cây cung, cành cây Vô Ưu, sợi dây. Đỉnh đội cái tháp báu, đứng bên trong vành trăng, chân phải như thế múa đạp, chân trái đạp lên thân oan gia. A Xà Lê niệm tụng Chân Ngôn, làm tướng phẫn nộ. Lại lấy đất ở hai bên bờ sông, bột xưng người, tro thiêu đốt xác chết hòa chung với nhau làm hình oan gia. Lại dùng Khổ Lạt Giả, chất độc, muối, hạt cải với nước cốt Mạn Đà La hòa chung với nhau, ở trên áo cúa xác chết viết tên của oan gia với Chân Ngôn, cũng đưa vào trong trái tim của oan gia.

Chân Ngôn là:

“Án, vãn đa lệ, phộc na lệ, phộc la lệ, phộc la hạ mục khế, hồng, a mẫu kiếm, ma la dã, hồng phát tra, sa-phộc hạ”

*)OṂ_ VATTĀLI VADĀLI VARĀLI VARĀHA-MUKHI HŪṂ AMUKAṂ

MĀRĀYA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

Lại dùng thịt xác chết khô với An Tất Hương hòa chung với nhau làm thành viên, dùng mỡ người thấm thẩm thuốc, lấy củi dư sót khi thiêu xác chết nhóm lhu73a cùng với dầu hạt cải làm Hộ Ma tám ngàn biến, mỗi một lần Hộ Ma xưng tên Sư Vương của oán binh. Làm Pháp này xong, muốn vần Cấm Phộc liền được Cấm Phộc. Nếu muốn giết hại liền có thể giết hại. Hoặc A Xà Lê hướng mặt về Oán Trận, dùng bột xương người với mỡ người, dầu hạt cải làm Hộ Ma, miệng tụng Chân Ngôn thì trong khoảng một sát na, Oán Quân tự đầu hàng

_Lại có Pháp thành tựu hay chận đứng tai nạn của loài gia súc. Nếu muốn làm Pháp, dùng Bạch Đàn, Cung Câu Ma, Ngưu Hoàng hòa chung với nhau, viết Chân Ngôn ở trên cây phướng trắng, an trí gia súc bên trong căn gác ở cửa chuồng, trên tờ giấy viết Chân Ngôn khiến người chăn nuôi gia súc đội trên đỉnh đầu, lại ở trên đầu của loài gia súc cũng đội một bản. Liến viết Chân Ngôn có bốn chữ này: Ám (庨: AṂ), Hàm (伐: MAṂ), Tham (叮: THAṂ), Hàm (伐: MAṂ). Tiếp theo viết chữ Phộc (砉: VA) vòng khắp. Lại viết chữ Hàm (伐: MAṂ) vây quanh một vòng. Như vật viết chép, lại dùng cây Khư Nỉ La làm cây cọc dài 8 ngón tay, dùng chỉ ngũ sắc ràng cột, tụng Chân Ngôn 108 biến rồi đóng cây cọc ấy.

Chân Ngôn là

Án, ma lý chi, hồng, tát lý-phộc vĩ cận-nẵng, ô tô na dã, hồng, phát tra, saphộc hạ”

*)OṂ_ MARĪCI HŪṂ_ SARVA VIGHNA OTUNAYA HŪṂ PHAṬ

SVĀHĀ

Chân Ngôn này gia trì cây cọc với phát khiển Ma thông dụng đều được

Sau đó ở trong cái chuồng ấy, hướng mặt về phương Đông an trí tranh tượng Ma Lý Chi Bồ Tát, ở trước mặt Bồ Tát làm Hộ Ma, bốn phương đàu sâu xuống đất một khuỷu tay, dùng nước thơm rưởi vảy sạch sẽ, bốn góc của cái lò an 4 cái bình Át Già, bỏ năm loại lúa đậu, nước thơm tràn đầy bên trong. Dùng Bạch Đàn xoa bôi bốn mặt bình. Lại dùng cành nhánh của 5 loại cây: cây Ni Câu Đà, cây Bồ Đề, cây Ưu Bát Đàm, cây A Một La, cây A Lý Ca… tụng Chân Ngôn 108 biến rồi an cành cây ấy bên trong miệng bình, đều dùng hai bức lụa trắng che trùm cái bình, xong dùng cây cọc Khư Nỉ La đã gia trì lúc trước, đóng trong bốn góc của lò Hộ Ma. Lại dùng Cù Ma Di (phân bò) xoa bôi vị trí theo thứ tự, dùng phấn năm màu phân chia Đàn. Dùng hoa Câu Tô Ma, hoa Ưu Bát La, hoa sen trắng, hương hoa màu nhiệm. Dùng Bạch Đàn có mùi vị xông ướp hoa ấy rải tán ngay trên Đàn. Dùng sữa, lạc (váng sữa đặc), đường cát, cơm gạo tẻ tràn đầy cái bát hiến cúng dường. Thắp đèn bơ vòng khắp nghiêm sức…dựng bày phan, phướng, trên cây phướng treo hai cái phan lụa trắng, viết Chân Ngôn lúc trước, thiêu đốt An Tất Hương. Như vậy cúng dường thì Bồ Tát tác đại hoan hỷ, thành tựu việc mong cầu

_Tiếp theo, bên dưới riêng nói rõ Pháp Hộ Ma

 

PHẬT NÓI KINH ĐẠI MA LÝ CHI

_QUYỂN THỨ NHẤT (Hết)_

Trang: 1 2 3 4 5 6 7