PHẬT NÓI KINH
ĐẠI GIÁO CĂN BẢN TỐI THẮNG CỦA DIỆU CÁT TƯỜNG

Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng, Triều Tán Đại Phu Thí Quang Lộc Khanh Minh Giáo Đại Sư (kẻ bầy tôi là) PHÁP HIỀN phụng chiếu dịch
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH

QUYỂN TRUNG

PHỆ ĐA LÊ ẤN THÀNH TỰU CÂU TRIỆU NGHI QUỸ PHẦN THỨ SÁU

_Lại nữa, Diệm Man Đắc Ca Minh Vương Căn Bản Thập Thất Tự Đại Minh có tên là Phệ Đa Lê Bí Mật Tâm Ấn hay ở Diệm Man Đắc Ca Đại Vô úy Minh Vương làm Đại Hoan Hỷ. Người trì Minh ấy hoặc ở đất Cấm Phộc, hoặc rừng Thi Đà (Śita-vana)… Nơi chốn như vậy, hiện tiền trì tụng ắt được thành tựu Phệ Đa Lê Ấn Pháp này do Diệm Man Đắc Ca Minh Vương tự nói. Hai tay cài chéo các ngón tay, đem hai ngón vô danh vào lòng bàn tay, co hai ngón trỏ như móc câu, hai ngón cái an trên ngón út, lại hai ngón cái làm đảo ngược nhau giương duỗi.

Phệ Đa Lê Ấn Pháp như vậy, chân thật chẳng hư dối, có uy lực lớn. Thời người trì minh ở trong Hạ Hạ Bộ Đa Mạn Noa La y theo Pháp trì tụng Thập Thất Tự Đại Minh, dùng Phệ Đa La Ấn này thì hay ban cho tất cả điều mong muốn

_Nay nói Phẫn Nộ Mạn Noa La. Như Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La lúc trước, làm bốn phương, bốn góc chỉ rộng một khuỷu tay, chẳng được thêm bớt. Ở tám phương ấy đều đốt lửa, bốn cửa của Mạn Noa La đều an Thú La (Śūla), ở trên Thú La đều an một Tất Lệ Đa (Preta: Quỷ đói) bung xõa tóc trên đầu, lại an tóc mượt của Tất Lệ Đa như Nghi Quỹ của Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La lúc trước. Thời người trì Minh tưởng Thập Thất Tự Đại Minh ở ngay bên trên nửa xác chết tại Mạn Noa La, hóa thành Diệm Man Đắc Ca Minh Vương (Yamāntaka-vidya-rāja) có 12 cánh tay, sáu mặt, sáu chân, toàn thân rực lửa mạnh, làm tướng đại ác.

Như vậy tưởng xong, tụng Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Đại Minh, dùng hương hoa cúng dường, sau đó dùng Ma Hạ Mãn Sa (Mahā-maṃsa) mà làm xuất sinh, dùng xông ướp như làm hương, vật riêng chẳng phải là nghi thức. Thời người trì Minh kết Phệ Đa La Ấn dùng hương hoa cúng dường với xuất sinh

Lại ở ngoài Mạn Noa La, tám phương thắp đèn. Dùng cây củi trong rừng Thi Đà, hoặc cây, que tăm, củi với Ma Hạ Đới La… dùng cây Khư Nỉ La (Khadīra) làm cái muỗng. Ở cửa Nam của Mạn Noa La làm Hộ Ma 7 biến.

Như vậy làm xong, lại làm Pháp Minh Vương thành tựu. Thời người trì Minh chỉ hay khéo biết rõ Pháp Mạn Noa La, tuy chẳng trì tụng tinh thục cũng được thành tựu

Thời người trì Minh dùng một vị Bất Tổn Hoại Giả Tát Đỏa, an trí ở cửa Nam của Mạn Noa La, Hành Nhân an tưởng Phệ Đa La Ấn ở trên trái tim của Tát Đỏa (Satva), liền dùng Minh Vương Đại Minh gia trì vào nước sạch, tắm gội Tát Đỏa. Dùng hương hoa màu đỏ với màu xanh mà gần gũi cúng dường. Lại kết Phệ Đa La Ấn, tưởng 5 phần trên thân của Diệm Man Đắc Ca Minh Vương, làm ủng hộ cho chính mình

Thời người trì Minh, tay cầm cây kiếm bén làm tướng Đại Vô úy, dùng bàn chân trái đạp lên tim của Tát Đỏa, tay kết Kỳ Khắc Ấn, liền tụng Diệm Man Đắc Ca Minh Vương Đại Minh là:

Án, a cốt-lỗ đề ca, diệm man đát ca, hạ nẵng, ma tha, bạn nhạ, hồng, phát tra”

*)OṂ ĀḤ KRODHIKA YAMĀNTAKA HANA MATHA BHAṂJA HŪṂ PHAṬ

Người trì Minh tụng 17 chữ của Đại Minh này, thẳng đến thân Tát Đỏa, dần chấn động, đứng dậy hiện tướng đại ác, chẳng ngừng tác tiếng đại ác. Thời người trì Minh dùng cây kiếm bén đã cầm, cắt lấy máu thịt của thân mình, dùng làm Át Già hiến cho Tát Đỏa. Lúc đó, Tát Đỏa biết ý của người trì Minh, nhận Át Già xong, đứng ở bên trong Bộ Đa Mạn Noa La hiện tướng đại ác

Đây là sức của trì tụng Đại Minh cảm được Diệm Man Đắc Ca Đại Vô Úy Minh Vương mượn chất hiện tướng. Người trì Minh thấy tướng này xong, liền kết Phệ Đa Lê Ấn. Khi Minh Vương thấy Bản Ấn này thì ngưng dứt tướng Tất Lệ Đa đại ác, sau đó ban cho người trì Minh thành tựu tất cả nguyện đã mong cầu

Bấy giờ, Minh Vương liền tự ẩn thân, Tát Đỏa ngã xuống đất biến thành thân vàng ròng, cùng với ba người Đồng Bạn kia tùy ý nhận dùng. Như vậy Pháp thành tựu, cần người có Đức Hạnh lớn mới có thể hứa cho làm Pháp

Nếu không có Đức Hạnh làm Pháp này thì cùng với người Đồng Bạn đều bị trừ diệt. Nếu có Hạnh Đức mà chẳng khéo Ấn Pháp thì cũng bị trừ diệt.

Nếu có Đức Hạnh, khéo biết Phệ Đa La Tâm Ấn thì đây gọi là Tối Thượng Trì Minh A Xà Lê, nơi Tam Muội của Như Lai thành tựu đầy đủ, thời Phẫn Nộ Minh Vương quyết định hiện trước mặt, hay ban cho Hành Nhân đều được thành tựu tất cả điều ước nguyện.

_Lại nói Đại Minh là:

Án nẵng mô một đà, đạt lý-ma, tăng kỳ tỳ-dược (1) a (2) cốt-lỗ đề ca (3) diệm man đắc ca (4) hạ nẵng (5) ma tha (6) bạn nhạ (7) hồng (8) phệ đa lê (9) lạc kấ-xoa (10) lạc kha71t-xoa hàm (11) đát tha nga đổ nghê-dã, bát dã để, sa-phộc hạ (12)”

*)OṂ NAMO BUDDHA DHARMA SAṂGHEBHYAḤ_ ĀḤ KRODHIKA

YAMĀNTAKA HANA MATHA BHAṂJA HŪṂ PHAṬ_ VEḌĀLE RAKṢA

RAKṢA MĀṂ_ TATHĀGATO-JÑĀYA PAYAS SVĀHĀ

Đây là Như Lai Tam Muội Phệ Đa Lê Đại Minh Ấn Sắc. Người trì Minh ở bên trong Mạn Noa La kết Phệ Đa Lê Ấn, tụng Đại Minh này, lúc đó Minh Vương quyết định hiện trước mặt, Hành Nhân làm tướng Đại Vô Úy thì việc mong cầu tùy theo ý thành tựu

_Lại nữa, Đại Minh Phệ Đa Lê Ấn Pháp cũng nhận một Tát Đỏa, dùng Đại Tam Muội an bên trong Mạn Noa La. Hành Nhân lại y theo Pháo lúc trước, hoặc ở trước mặt Đệm Man Đắc Ca Minh Vương, hoặc ở trong Mạn Noa La, hoặc ở trước tượng Công Đức, hoặc bên trong rừng Thi Đà, hoặc ở trong nhà trống vắng, tùy ý mình ưa thích. Như vậy, y theo Pháp trì tụng một Lạc Xoa khiến cho Pháp tinh thục xong, y theo Phệ Đa Lê Ấn Tam Muội, ở trong nhà trống dùng tro xác chết làm Hạ Hạ Bộ Đa Mạn Noa La thì nội trong bảy ngày đắc được phá hoại

Y theo Nghi Tắc của Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La thứ tự làm cùng dường, từ cửa Nam với cửa Bắc của Mạn Noa La trì tụng Phệ Đa Lê Đại Minh với kết Bản Ấn. Y theo Tam Muội vào ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, người trì Minh an định mà ngồi, trì tụng Đại Minh cho đến khi mặt trời mọc, liền được thành tựu, hay mãn tất cả nguyện. Đây là Tối Thượng Đại Minh Cú do Phẫn Nộ Minh Vương tự nói, hay làm tất cả việc cho đến Bảo Trượng Ấn làm Pháp cũng như thế. Như vậy Phê Đa Lê Ấn đã nói là Pháp Trung Đẳng Thành Tựu

_Lại nữa, vì chúng sinh nghèo khổ nói Pháp thành tựu thứ ba. Như vậy y theo Pháp, thứ tự tùy theo nơi mà Hành Nhân ưa thích, vẽ Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La thù diệu. Ở khoảng giữa ấy an Phệ Đa La Ấn với tưởng chữ của Phẫn Nộ Đại Minh, làm tường hiền thiện vui vẻ, liền kết Phệ Đa Lê Ấn làm cúng dường, tụng Thập Tự Bí Mật Minh hoặc mười chữ dùng bên trên, tối thắng cầu thành tựu, nên tụng Đại Minh này là:

*)OṂ ĀḤ HŪṂ_ DHUḤ VEḌĀLE RAKṢA RAKṢA MĀṂ SVĀHĀ

Đây là Phệ Đa Lê Bản Tâm Đại Minh, y theo Pháp trì tụng mười lạc xoa, ở tại nơi chốn nào, tùy theo ý làm Pháp đều được thành tựu. Minh bí mật này có công năng rộng lớn, hay làm tất cả việc.

_Lại nữa, y theo Pháp Đại Nghi Quỹ mà Diệm Man Đắc Ca Minh Vương đã nói thời hết thảy: Cấm Phộc, Si Mỵ, Kính Ái, Điều Phục, giết Thiết Đốt Lỗ, Phát Khiển, Đấu Tranh, Tức Tai, Tăng Ích, Câu Triệu, Huyễn Hóa… y theo Nghi đã làm đều được thành tựu

Thời người trì Minh y theo Pháp thứ tự, trước tiên trì tụng tinh thục, sau đó làm Pháp Phệ Đa Lê ắt được thành tựu. Lại Nghi Quỹ này có nhiều loại, nay Pháp thành tựu này dùng 108 lông đuôi chim công, khiến Đồng Nữ hợp thành sợi dây, cột buộc lông đuôi chim công làm cây phất, dùng cây Khư Nỉ La mới tốt làm cái cán của phất trần, cái cán an một cái tháp, ở trên vỏ hoa dùng Ngưu Hoàng vẽ Phệ Đa La an trong cái tháp ấy

Vào đêm Nguyệt Thực đến trên bờ sông, làm Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La. Người trì Minh ngó nhìn vào nơi tăm tối không có trăng ấy, liền tụng Đại Minh cho đến khi Nguyệt Thực lui thời dùng tay trái cầm cây phất ắt Ma (Māra) chẳng thể gây chướng, khiến cho lông đuôi chim công tự nhiên ấm áp, dần dần có khói, lửa

Nếu cây phất có tướng ấm áp thì đây là tướng thành hoại đều là chỗ biến hóa của Minh Vương. Thời người trì Minh hay vì tất cả cúng sinh làm lợi ích lớn, cùng với các Bồ Tát không có khác

Nếu thấy khói, lửa thì người ấy được Như Ý Thông, hay ẩn mất thân của mình, cũng hay biến thân như tướng Thiên Nữ chẳng già chẳng chết, chứng được Trì Minh Thiên, Thần Thông đại cát tường, tự tại bay trong hư không, thường được nữ Dạ Xoa cung kính vây quanh, ở trong tất cả Trì Minh Thiên là tối thượng bậc nhất, hay làm tất cả việc, cũng là nơi do Uy Lực của Minh Vương biến hóa ra

Khi người trì Minh nếu thấy quân nơi khác muốn đi đến giết hại. Dùng cây phất khua vẫy từ xa thì quân nơi khác liền đứng lại chẳng thể đi. Cho đến hết thảy cọp, sói, sư tử, Rồng độc ác, voi với tất cả Quỷ Thần, trong khoảng cây phất khua múa đều hay ngăn cấm chẳng thể gây hại. Nếu lật ngược cây phất thời lại được như thường, ẩn nơi công dụng.

_Lại nói Pháp Tối Thượng Phệ Đa Lê Ấn Bí Mật Nhãn Dược Thành Tựu. Người trì Minh dùng Ma Ha Phộc Xá (Mahā-vaśa) an trong đầu lâu, đến lúc Nhật Nguyệt Thực thời lấy Ma Ha Phộc Xá làm dầu, dùng thuốc Xích Mã làm tim đèn, dùng lửa trong nhà của Chiên Đà La (Caṇḍāla) để thắp đèn, dùng đầu lâu thu khói đèn này, gia trì một ngày đêm, lại gia trì vào một cây đũa bằng đồng, đem cây đũa thẩm tẩm thuốc rồi chấm ở trong con mắt của mình, nhìn có hai bên trái phải, hay thấy tất cả sắc cảnh ngoài sự chướng ngại như Thiên Nhãn (Devya-cakṣu) kia không có khác. Dùng nước rửa con mắt liền được như thường. Đây gọi là Pháp Tối Thượng Nhãn Dược Thành Tựu

_Lại nói Pháp Si Mỵ thành tựu. Dùng rễ thuốc A Lý Ca, rễ thuốc Mạn Đà La, rễ thuốc Át Thuế Ma Lam, Mộc Hương, rễ thuốc Mô Hạ Nẵng, rễ thuốc Ma Hạ Nễ La, thuốc Thiết La Bán Kháng, hoa Tất Lệ Đa Nuy, thuốc La Nhạ Nại Đa… nhóm thuốc như vậy, lại dùng nhóm Tất Đế Lý Bố Lỗ Sa mà thực hành việc Nguy Hứ Dã (Guhya: bí mật) Vào ngày 8 của kỷ Hắc Nguyệt, khiến Đồng Tử nhghiền thuốc trước thành bột, sau đó dùng Tất Lý Đa La Nhạ thấm tẩm bột thuốc lúc trước, hoặc thấm tẩm Khư La Lệ Đa. Sau đó ở ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, dùng tro xác chết vẽ Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La, gia trì vào thuốc lúc trước 800 biến, tức được thành tựu. Thuốc này hay khiến cho tất cả người với Quỷ Thần làm nơi Si Mỵ. Nếu ở Đấy Tranh Kiếp Hại với nạn lửa, nạn sợ hãi vua chúa… thì hay đối với tân của mình làm ủng hộ. Nếu dùng thuốc xoa bôi thân ấy đến trong Thiện Pháp Đường thì Đế Thích Thiên Chủ cũng khiến cho làm si mỵ. Nếu vượt qua sông, khe suối… tức không có sức cơ bản

_Lại nói hay khiến cho tất cả hàng Bộ Đa (Bhūta) thảy đều nhập ngộ, hay nói Pháp mọi loại việc thành tựu. Dùng da cọp với Nễ Lý Mô Ca Mạo La Nga, thuốc độc,

Uất Kim Cương, rễ thuốc Mô Hạ Nẵng kèm với Đảo La làm bột vụn… Dùng Cổ Dương Mẫu Đát La hòa hợp làm viên lớn như Oản Đậu (tên loại đậu) làm 7 viên hoặc 8 viên. Dùng Cung Câu Ma Hương thấm tẩm, hoặc thấm tẩm máu thỏ, Như vậy thấm tẩm xong, đem viên thuốc an bên trong cái đầu lâu. Vào đêm ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt gia trì vào thuốc ấy 108 biến, dùng một vật khí dùng riêng bên trên, dùng Cung Câu Ma Hương xoa bôi, lấy thuốc lúc trước an bên trong vật khí này, lại trì tụng 8000 biến thì Pháp thuốc này liền quyết định thành tựu, có uy lực lớn. Sau đó Hành Nhân dùng thuốc đánh ném, khoảng sát na khiến kẻ kia nhập ngộ, nói mọi loại việc như mắt kẻ ấy nhìn thấy. Kẻ kia nhập ngộ xong, thì thu lại thuốc lúc trước an bên trong vật khí bằng gỗ

_Lại nói Pháp Tối Thượng Kính Ái thành tựu. Thời người trì Minh cần tự mình yêu thích, sau đó dùng rễ Lạc Cật Đa, thuốc xa La Bán Khư, thuốc La Nhạ Nại Đa Niết Lý Ba, lá thuốc Ô Bột Lan Đa, với cánh con ong… nhóm thuốc như vậy khiến một Đồng Nữ giã nát thành bột, dùng Lý Đa thấm tẩm bột thuốc ấy rồi an bên trong hoa sen. Vào ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, cầm giữ thuốc này, tũng Đại Minh một ngàn biết ắt được thành tựu, hay khiến cho La Nhạ (Rāja: vua chúa) sinh Tâm kính yêu. Người trì Minh lấy chít ít thuốc ngầm bỏ vào thức ăn của người khác, người kia ăn xong liền sinh kính yêu. Hoặc đem bột thuốc này tẩm trên áo của người kia thì cũng được kính yêu, cho đến Đế Thích Thiên Chủ cũng có thể khiến cho vị ấy sinh kính yêu

Như vậy, nếu thuốc này chẳng thể bỏ vào thức ăn với rải trên áo của người kia. Hoặc dùng đất, gỗ đắp khắc hình người ấy, dùng thuốc lúc trước đồng giã rây, chứa đầy bên trong một vật khí, rồi lại gia trì đến 7 ngày đêm thì người kia tự đi đến kính yêu, vui vẻ… liền hiến tiền của, lụa là, châu báu…

_Lại nữa, Pháp Điều phục Thiết Đốt Lỗ (Oan gia). Dùng lông đuội chim công, thuốc Ma Hứ kiến Tổ Ca, lông ngựa, lông trâu, hạt Mạn Đà La, hoa A Tư Ma La với Tất Bạt…thuốc như vậy đều phân bằng nhau kèm dùng La Nhạ Tát đồng nghiền thành bột, sau đó không có viên. Người trì Minh ở trong ban đêm y theo Pháp gia trì tám ngàn biến xong. Lại dùng lông ngựa, lông mèo để chung một chỗ rồi thiêu đốt, lấy khói xông ướp thuốc. Nếu muốn điều phục Thiết Đốt Lỗ (Oan gia) dùng một viên thuốc lại tán thành bột rải trên đầu người kia, liền được điều phục. Pháp này là điều mà Diệm, Man Đắc Ca tự nói, trong Pháp Điều Phục thì Pháp này là tối thượng

_Lại nữa Pháp tối thắng giết Thiết Đốt Lỗ. Người trì Minh y theo Pháp tương ứng đều được thành tựu, chỉ tại chí thành không có nghi ngờ. Như có người phá diệt Tam Bảo, tổn giảm Chính Pháp, năm Nghịch giết hại… người ác như vậy thì có thể dùng Pháp này để điều phục, chẳng phải là loại này thì chẳng hứa cho làm Pháp

Người trì Minh kia phát Tâm Bồ Đề, làm lợi ích lớn thì hứa cho làm Pháp này. Đây là Như Lai Tam Muội lợi ích cho hữu tình, đoạn trừ mọi ác, thủ hộ Tam Bảo, cứu độ Tứ Sinh (chúng sinh sinh theo bốn cách: trứng, thai, ẩm thấp, hóa sinh), y theo Pháp thọ trì, cho đến cung Rồng (Nāga-pura: Long cung) cũng hay thành tựu

Nếu người có Tâm ôm giữ sự ganh tỵ, chẳng nhận thức được sự lương thiện, tùy theo ý làm tổn hại kẻ khác… mà muốn làm Pháp này thì cho đến trong mộng cũng không thể thành tựu. Nếu Hành Thân có thân tâm thanh tịnh, sùng kính người hiền, tôn trọng điều thiện, đủ Đại Từ Bi rộng hành cứu giúp, dẫn dắt chúng sinh quay về đường Chính Giác, liền hứa cho làm Pháp thành tựu này.

Người trì Minh kia lấy đất dưới bàn chân của người phá hoại Tam Bảo. Lấy được đất xong, phát Tâm phẫn nộ, dùng Mẫu Đát La (Mūtra: nước tiểu) của con trâu hòa làm bùn, tạo hình tượng kẻ kia, dùng tro của xác chết xoa bôi hình tượng ấy, dùng nhóm than, gai góc, vỏ trấu, xương… lấp kín bên trong bụng, tim của tượng ấy cho đến lỗ tai, lỗ mũi, miệng, con mắt thảy đều lấp đầy, ở trên thân tượng ấy viết ngược chữ Phát Tra (PHAṬ). Thời người trì Minh dùng bàn chân trái đạp lên hình tượng ấy, kết Phệ Đa La Ấn, xưng tên của Thiết Đốt Lỗ (oan gia), tụng Đại Minh tám ngàn biến thì các nhóm người ác, Thiết Đốt Lỗ mau tự trừ diệt. Nếu làm Pháp này hại người trì nhóm Tam Muội khác thì người làm Pháp tự bị phá hoại

_Lại nói Pháp Phát khiển Thiết Đốt Lỗ (oan gia). Nên dùng cây Kha Nỉ La làm cây cọc dài 8 ngón tay, đem cây cọc thấm tẩm dầu hạt cải. Thấm tẩm xong, xoa bơi nơi tro xác chết, dùng da của con quạ tự chết bao bọc trên cây cọc ấy, dùng sợi dây màu đỏ cột buộc. Thời người trì Minh ở trong ban đêm hướng về cây cọc ấy, trước tiên kết Phệ Đa Lê Ấn, xưng tên người kia, liền tụng Phát Khiển Đại Minh tám ngàn biến, rồi đem cây cọc ấy đóng chôn trước cửa nhà của người kia thì Thiết Đốt Lỗ ấy tự mau chóng bỏ đi. Nghi Phát Khiển này có uy lực tối thắng, cho đến Đế Thích Thiên Chủ nhìn thấy Nghi Quỹ này cũng phải mau chóng xa lìa, huống chi là người ác.

_Lại nữa, có người ác năm Nghịch phá hoại Tam Bảo…. khiến cho họ đấu tranh với nhau đều được Pháp mài diệt. Người trì Minh nên dùng máu heo với thuốc Bạt La Đát Ca… nhóm thuốc như vậy giã rây làm bột, dùng Niết Lý Phộc Xá hòa hợp xong, kết Phệ Đa La Ấn, tụng Đại Minh tám ngàn biến. Dùng thuốc này làm hương, thiêu đốt bên trong lò thì hết thảy người tạo ác phá hoại Tam Bảo ngửi thấy mùi hương này thì cùng nhau đấu tranh, mọi loại đập đánh cho đến chết… với vợ con, quyến thuộc ấy đấu tranh đến chết cũng lại như vậy. Cho đến châu thành, thôn xóm với quân phương khác kia ngửi thấy mùi hương đều bị phá hoại cũng như thế

_Lại nữa, Pháp Huyễn Hóa. Người trì Minh dùng tro của xác chết, máu thỏ hòa hợp một chỗ đồng đưa vào bên trong cái đầu lâu, sau đó làm Mạn Noa La như bên trong Tất Lệ Đồ Đắc Yết Tra Mạn Noa La an Phệ Đa La Ấn rồi làm cúng dường rộng lớn. Ở cửa Nam của Mạn Noa La tùy theo sức, dùng bơ với tro xác chết lúc trước làm Hộ Ma, tụng Đại Minh tám ngàn biến, làm Hộ Ma cũng tám ngàn biến. Như vậy làm xong, đến khi sáng sớm thời thấy lò Hộ Ma như cái thành Càn Thát Bà. Liền dùng tro bên trong lò xoa bôi trên hoa màu trắng, dùng hoa ném vào không trung thì hay hiện chư Phật ở ngay bên trong lầu gác.

Nếu xoa bôi hoa màu vàng, ném vào không trung thì hay hiện ngàn số Đại A La Hán

Hoặc xoa bôi vào hoa màu đỏ, ném vào không trung thì hay hiện chư Thiên, Thiên Nhân

Hoặc xoa bôi vào hoa màu xanh, ném vào không trung thì hay hiện nhóm Dạ Xoa (Yakṣa), La Xoa Sa (Rākṣasa: La Sát) cho đến Tất Lệ Đa (Preta: Quỷ đói), Đa Noa Chỉ (Ḍākiṇī), Cung Bạn Noa (Kumbhaṇḍa). Tất cả hay hiện, tùy theo ý của Hành Nhân

Lại dùng nước sạch, gia trì 7 biến rồi rưới vảy ở hư không thì Pháp Huyễn đã hiện thảy đều ngưng dứt.

Lại dùng 7 cái lông cánh của con quạ làm cây phất, dùng xương làm cái cán, dùng tro xác chết xoa bôi cái cán, vọng lên hư không từ xa phất phủi thì tùy theo ý quán tưởng việc mong muốn, tùy theo Tâm hóa hiện tất cả đều thành. Hoặc hiện ra người đi qua sông lớn, sông nhỏ, biển lớn. Hoặc hiện ra người vật từ lầu gác cao lớn rơi xuống bên dưới. Hoặc hiện ra cung điện của Long Vương. Hoặc hiện ra mọi người tụ hội. Hoặc hiện ra quân, ngựa giao chiến. Như vậy mọi loại việc đều được thành tựu. Nếu muốn ngưng dứt, dùng tay trái cầm cây phất phất phủi thì tất cả đều chẳng hiện. Pháp Huyễn như vậy do Minh Vương tự nói

_Lại nữa, Pháp Tức Tai (Śāntika). Hoặc vì thân của mình, hoặc vì người khác. Dùng diệu hoa màu trắng, dùng Bạch Đàn Hương làm hương xoa bôi, xoa bôi lên hoa trắng, y theo Pháp kết Phệ Đa Lê Ấn, tụng Đại Minh 1008 biến gia trì xong. Hành Nhân ở sông lớn, sông nhỏ thông suốt với dòng chảy của biển. Liền đi đến, ở trong con sông lớn dùng hoa màu trắng, mỗi đóa hoa gia trì 108 biến rồi ném trong con sông. Làm Pháp như vậy thì tai nạn đại ác mau được tiêu trừ… cho đến tất cả tai nạn của vua, quan, người dân trong đất nước, châu, huyện, thành hào, thôn xóm… y theo Pháp trì tụng đều được tiêu trừ.

_Lại nữa, Pháp Tăng Ích (Puṣṭika). Người trì Minh ở trước tháp Xá Lợi, xếp bày hương hoa giáp vòng làm cúng dường lớn. Hoặc vì thân mình hoặc vì người khác, hoặc nhóm nam nữ… mỗi mỗi xưng tên (…) cầu việc tăng ích. Liền kết Phệ Đa La Ấn, trì tụng Đại Minh một A Dữu Đa (Ayuta: một vạn ức). Nghi này là điều mà Đức Phật đã nói, không có gì chẳng thành tựu. Người trì Minh ở trước cái tháp ấy, làm Mạn Noa La vuông vức, tám phương thắp đèn, rải mọi loại diệu hoa với hiến thức ăn uống, đốt An Tất Hương, phát Tâm Bồ Đề, tin tưởng chân thật, thanh tịnh làm lễ chư Phật, hướng mặt về tháp Xá Lợi, mội ngày ba thời, dựng tượng tháp Phật thì mau được ngưng dứt tai vạ (tức tai)

_Lại nữa, Pháp Tăng Ích. Người trì Minh chẳng được vì thân của mình, phát ý Từ Bi vì khắp tất cả hữu tình, khiến lìa các khổ như mẹ yêu con, lợi sinh cũng như thế. Người trì Minh dùng Ngưu Hoàng với La Cật Đa (Rakta: màu đỏ ? Rudhira: máu huyết) của thân mình hòa hợp như hương xoa bôi, chứa đầy bên trong cái đầu lâu. Vào lúc mặt trăng mới bị ăn (sơ thực) thì gia trì vào thuốc này, cho đến khi mặt trăng bị ăn hết. Dùng bàn tay nâng thuốc, lại tụng Đại Minh cho đến khi nguyệt Thực lui hết thời Hành Nhân lấy chút ít thuốc này chấm ở tam tinh… mỗi khi nhìn thấy thì quốc vương, đại thần đều sinh kính yêu, cho đến tất cả hữu tình nhìn thấy đều sùng mộ tôn trọng, vui vẻ ngắm nhìn.

_Lại nữa, Pháp Câu Triệu (Ākarṣaṇa) là Diệu Cát Tường (Maṃjuśrī: Văn Thù) hóa thân Phẫn Nộ Minh Vương tự nói. Thời người trì Minh nên dùng tóc trên đầu của Đồng Nữ tự chết, hợp tóc làm sợi dây, vào ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt an trong cái đầu lâu, sau đó ngày ngày trì tụng Đại Minh, đến ngày Nguyệt Thực, đi đến nơi khiết tịnh bên bờ sông Diêm Mưu Nẵng (Yamunā) làm Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La, hiến cúng dường lớn, tác Phệ Đa Lê Ấn, trì tụng Đại Minh, dùng mọi loại thức ăn uống làm Xuất Sinh cho các Quỷ Thần, đến khi sợi dây tóc chấn động dựng đứng thì Pháp đều thành tựu. Thời người trì Minh cầm sợi dây này, câu triệu chư Thiên với hàng Đế Thích, trong khoảng sát na mau chóng đi đến hiện trước mặt, tùy theo Hành Nhân nói việc mong muốn thì tất cả thành tựu.

Lại, Hành Nhân ấy dùng sức trì tụng lại được Thần Thông. Hết thảy hàng Dạ Xoa nữ, Càn Thát Lý Phộc nữ với Thiên Nữ… dùng sợi dây câu triệu, trong khoảng sát na liền đến. Điều Hành Nhân đã muốn thì không có gì chẳng tùy theo ý. Như muốn hoan lạc với nữ tức cùng nhau hoan lạc, nhưng chẳng được dính mắc với niềm vui đó.

Phàm thân thể của người nữ chẳng sạch, có nhiều các thứ uế ác, người trì Minh cần phải xa lìa. Nếu câu triệu chư Thiên với hàng Dạ Xoa, La Xoa Sa… tức liềnđṇ hiện trước mặt, vây quanh giáp vòng. Lại đem Hành Nhân đến các cõi Trời với nơi mà mình đã cư ngụ… điều đã mong cầu đều được. Hoặc cần cung điền, lầu gác, mọi loại thuốc Thánh với vô số trăm ngàn cây Kiếp Thọ (Kalpa-vṛkṣa) thời mỗi mỗi đều được, rồi tự nhận dùng. Người trì Minh kia tăng Thọ Mệnh một A Lý Một Đà số (Arbuda: một ngàn vạn), lìa hẳn sự đót khát, bệnh tật với nạn khổ não của nhóm yêu thương mà phải bị chia lìa. Nếu sợi dây chấn động dựng đứng là tướng của Pháp thành. Sợi dây ấy chẳng lay động thì Pháp ấy chưa thành, cũng hay làm được việc mong muốn của Thế Gian huống chi là thành tựu vậy.

Hoặc câu triệu nam, hoặc câu triệu nữ… liền duỗi mở sợi dây, xưng tên người kia, trì tụng Đại Minh đủ số một trăm, lại tụng chữ Hột Lý (HRĪḤ) thì người kia liền mau đến, ví như chim bay không có lúc tạm nghỉ. Cho đến La Nhạ (Rāja: vua chúa) và quyến thuộc, với tất cả hữu tình trong các nẻo: tiền của, lụa là, vàng, vật báu, voi, ngựa, xe cộ, hoa quả, nhóm vật… hoặc thấy hoặc nghe Hành Nhân câu triệu thì thảy đều đi đến, tùy theo ý nhận dùng

Nếu Hành Nhân kia y theo Đại Minh Tam Muội này mà dùng câu triệu thì ngoài một trăm Do Tuần cũng khiến cho mau đến, đừng sinh nghi ngờ.

Như vậy là Pháp sợi dây thành tựu

 

DIỆM MAN ĐẮC CA PHỆ ĐA LÊ ẤN TU HÀNH NGHI QUỸ PHẦN THỨ BẢY

_Lại nữa, y theo Pháp thứ tự hết thảy Nghi Quỹ tu hành tối thượng của Diệm Man Đắc Ca Phệ Đa Lê Ấn… nơi người trì Minh hay ban cho thành tựu. Đây là điều mà Diệu Cát Tường đã hóa Phẫn Nộ Minh Vương tự nói. Đại Minh này có uy lực lớn, hoặc lại tụng 7 chữ đến 10 chữ trở lên… Trời, Người nghe thấy đều được an vui

Người trì Minh ấy y theo Pháp thứ tự. Trước tiên tụng Đại Minh 6 lạc xoa để được tinh thục, sau đó làm tranh tượng, lại tụng Đại Minh 3 lạc xoa, y theo Nghi Quỹ này bắt đầu trì tụng, tùy theo ý đã mong cầu, không có gì chẳng thành tựu.

Diệm Man Đắc Ca Đại Vô Úy Minh Vương này hay trừ tất cả Ma, hay ban cho tất cả Nguyện, hay trừ tất cả tai vạ. Thời người trì Minh tắm gội khiết tịnh, ba áo ngay ngắn, phát Tâm chí thành, ngày ngày y theo nương cậy Minh Vương, cung kính cúng dường, làm tự ủng hộ. Sau đó tưởng chữ vi diệu ngay trong trái tim, lại tưởng chữ này biến thành hoa sen, tưởng thân của mình ngồi trên hoa sen, tưởng ở chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tưởng chữ Án (OṂ) ở ngay trên đỉnh đầu, tưởng chữ A (ĀḤ) ở ngay trên con mắt. Như vậy quán tưởng làm tự ủng hộ, sau đó trì tụng Đại Minh, hoặc tụng 7 chữ đến 10 chữ trở lên

Hoặc vào quân trận, kết Bản Bộ Ấn, tưởng Tâm Đại Minh, tưởng Đầu Đại Minh, tưởng Đỉnh Đại Minh, tưởng Thân Đại Minh rồi tưởng làm giáp trụ, hai tay Đại Minh hóa làm khí trượng. Y theo Đại Minh Tam Muội, kết Diệm Man Đắc Ca Phệ Đa Lê Bản Ấn tưởng tại trái tim của mình, tay phải kết Bảo Trượng Ấn làm tướng đại ác. Thời người trì Minh phát Tâm tin tưởng trong sạch, dùng mọi loại hương hoa thượng diệu với các quả trái quý báu cùng dường nhóm tranh tượng Công Dức trong Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La hay ban cho tất cả Nguyện đã mong cầu được thành tựu.

_Lại nữa, Nghi Quỹ làm tượng hay ban cho tất cả Nguyện. Trước tiên, người trì Minh trì tụng tinh thục, sau đó làm tượng. Phàm tượng đã làm, hoặc dùng vàng, bạc, Thâu Thạch, Sinh Đồng (đồng chưa nung luyện), Thục Đồng (đồng đã tôi luyện) cho đến Lưu Ly, Pha Lê với tất cả nhóm châu báu. Tượng đã thành đều được thành tựu việc của Phước Báo, Công Đức rộng lớn.

Nếu người trì Minh cầu địa vị của La Nhạ (Rāja: vua chúa) thì tên làm tượng bằng vàng, thân cao 8 ngón tay ắt được thành tựu

Nếu cầu phú quý thì nên làm tượng bằng bạc, thân cao 10 ngón tay

Muốn trừ bệnh tật thì nên làm tượng bằng sinh đồng, thân cao 16 ngón tay

Nếu muốn điều đã mong cầu tùy theo ý thì nên làm tượng bằng thục đồng, thân cao 20 ngón tay

Nếu trừ oan gia với cầu phú quý thì nên làm tượng bằng Thâu Thạch, thân cao 22 ngón tay

Nếu muốn hay ban cho tất cả việc đã mong cầu thì nên làm tượng bằng Lưu Ly, thân cao 16 ngón tay

Nếu muốn thân tâm tinh tiến với Tức Tai, Tăng Ích thì nên làm tượng bằng Pha Lê, thân cao 12 ngón tay

Nếu muốn thành tựu Pháp của cây kiếm với vào hang A Tu La thì nên làm tượng bằng mọi vật báu, thân cao 8 ngón tay

Như vậy, Tôn Tượng như Pháp dụng Tâm, xảo diệu trang nghiêm, đầy đủ các tướng… y theo Pháp cúng dường thì tất cả điều mong cầu, không có gì chẳng thành tựu

Như dùng nhóm tiền, vàng, bạc… làm Thánh Tượng của Minh Vương thì bàn tay cầm khí trượng của Bản Bộ, ngồi trên Tất Lệ Đa (Preta: Quỷ đói), thân có 16 mặt, đại ác nhìn ngó, 12 cánh tay, 6 cái chân, thân đeo 3 cái đầu, dùng Tất Lệ Đa làm vòng hoa trang sức, mặc áo da cọp, lại đeo quấn quanh nách, đứng như thế múa bên trái. Nghi quỹ như vậy y theo Pháp mong cầu thì tất cả thành tựu.

_Lại nữa, dùng cây gỗ làm Thánh Tượng của Minh Vương, y theo Pháp Nghi Quỹ, cũng hay màn tất cả nguyện đã mong cầu. Nếu làm Thánh Tượng của Minh Vương thì dùng thông cho tất là các cây gỗ

Nếu dùng cây Bạch Đàn với cây Tùng làm tượng tối thượng thì thân cao 12 ngón tay, hay ban cho tất cả nguyện

Nếu dùng rễ cây A Lý Ca làm tượng, thân cao 16 ngón tay thì mọi mong cầu đū được. Nếu cao 14 ngón tay ắt được phú quý, an vui

Nếu dùng gỗ cây Vô Ưu làm tượng, thân cao 5 ngón tay thì hay làm Kính Ái

Nếu dùng cây Tùng làm tượng, thân cao 6 ngón tay thì hay Câu Triệu, Giáng Phục chư Thiên với A Tô La Vương khiến sinh kính yêu

Nếu dùng gỗ cây Long Hoa làm tượng, thân cao 7 ngón tay thì hay trừ bệnh tật với diệt oan ác

Nếu dùng đầu lâu người làm tượng, thân cao 12 ngón tay. Người trì Minh chẳng cần tinh thục việc Pháp, chỉ một hướng cúng dường, hay thành tựu tất cả việc Đây gọi là Pháp làm tượng

_Lại nữa, Pháp vẽ tranh tượng. Thời người trì Minh lấy cái áo của người đã chết, dùng nước giặt sạch sẽ xong, dùng làm tranh tượng dài một khuỷu tay, dùng tóc trên đầu người làm bút, chẳng được dùng năm màu để vẽ, chỉ dùng máu thỏ với đất đỏ vẽ tranh tượng. Chính giữa vẽ Diệm Man Đắc Ca Minh Vương, làm tướng đại ác đáng sợ, bàn chân đạp lên Tất Lệ Đa, đứng như thế múa bên trái, sáu mặt đều có ba con mắt, tóc trên đầu dựng đứng, lông mày thô, mắt rộng đều làm màu vàng đỏ, 6 chân, 12 cánh tay. Bên phải: tay thứ nhất tác Thí Nguyện Ấn, tay thứ hai cầm Tam Xoa, tay thứ ba cầm cây kiếm, tay thứ tư cầm cây búa, tay thứ năm cầm cây gậy báu, tay thứ sáu cầm móc câu. Bên trái: tay thứ nhất tác Kỳ Khắc Ấn, tay thứ hai cầm cây giáo, tay thứ ba cầm Đổ Ma La, tay thứ tư cầm cây côn báu, tay thứ năm cầm đầu lâu, tay thứ sáu cầm sợi dây, dùng da cọp làm áo, miệng ló răng nanh bén

Ở hai bên trái phải của Minh Vương, lại vẽ Tâm Minh Ấn.

Ở bên phải Minh Vương vẽ Bảo Trượng Tâm Ấn Minh, thân làm tướng Đại Ác, tóc trên đầu dựng đứng, làm màu vàng đỏ, tay kết Bảo Trượng Ấn dùng làm khí trượng, đứng như thế múa bên trái cũng làm Kỳ Khắc Ấn, nhăn mặt chau mày

Ở bên trái Minh Vương vẽ Phệ Đa Lê Tâm Ấn Minh, khắp thân rực lửa có uy lực lớn, ngắm nhìn Minh Vương, mặt có ba con mắt, chau mày, tóc trên đầu dựng đứng, hình bụng rộng lớn, tay cầm Tam Xoa làm Kỳ Khắc Ấn, phụng Giáo Sắc của Phật giáng phục các Ma, hay điều phục kẻ khó điều phục

Như vậy vẽ xong, an trí ở nơi sâu kín vắng lặng. Dùng hương, hoa, thức ăn uống… ngày ngày cúng dường, y theo Nghi Quỹ của Bảo Trượng Tâm Ấn với Phệ Đa Lê Tâm Ấn này làm Pháp đắt được thành tựu. Tranh tượng của Tâm Ấn này khi làm Mạn Noa La thời người trì Minh triển khai cúng dường, tùy theo ý mong cầu, không có gì chẳng mãn nguyện.

Như vậy vẽ xong, ở nơi sâu vắng treo máng tranh tượng với an trí chư Phật, Hiền Thánh như Pháp cúng dường. Người trì Minh ngồi trên cỏ Cát Tường rồi làm gia trì, chiêm ngưỡng tranh tượng, tay cầm xâu chuỗi hạt Kim Cương, chuyên chí trì tụng Đại Minh ba lạc xoa, như thân tâm mỏi mệt thì tạm thời ngưng nghỉ, sau đó lại tụng đến ba lạc xoa. Đủ số xong, lên trên đỉnh núi, lại tụng Đại Minh, siêng tu Khổ Hạnh ắt được thành tựu.

Y theo Nghi đã nói Pháp thành tựu của Trung Phẩm với Hạ Phẩm.

Nếu chẳng siêng tu Khổ Hạnh ắt chẳng thành tựu. Khi người trì Minh tu Khổ

Hạnh thời tác tưởng không sợ hãi của Tôn Na Bồ Tát, cầm cái bát ăn xong, tu hạnh Mâu Ni, đình chỉ các Căn. Sau đó cầm cây côn bằng gỡ Khư Nỉ La của bậc chẳng tổn phá, đi kinh hành nơi đường nguy hiểm, lìa các nguy nạn. Thời người trì Minh tác Hạnh không sợ hãi của Phẫn Nộ Minh Vương, tụng Diệm Man Đắc Ca Đại Minh đủ 6 tháng thì được thành tựu tối thượng.

Như vậy, lâu dài thọ trì hạnh không sợ hãi của Phẫn Nộ Minh Vương, hay giết các Ma. Hoặc khi làm Pháp trì tụng thời nếu có cảnh Ma hiện trước mặt tạo mọi loại tướng thì chẳng được sợ hãi. Hoặc hiện tướng Thiên Nữ đoan nghiêm cũng đừng nói chuyện, Tâm chẳng tán loạn, phát ý Bồ Đề, trì Phẫn Nộ Đại Minh thì các nhóm Ma kia tự nhiên bị phá hoại, diệt mất chẳng hiện.

Đây gọi là Tối thành tựu sở cầu như ý. Người trì Minh một lòng thọ trì

PHẬT NÓI KINH

ĐẠI GIÁO CĂN BẢN TỐI THƯỢNG CỦA DIỆU CÁT TƯỜNG

_QUYỂN TRUNG (Hết)_

Trang: 1 2 3