PHẬT NÓI KINH ĐẠI BI KHÔNG TRÍ KIM CƯƠNG ĐẠI GIÁO VƯƠNG NGHI QUỸ

(Mahātantra-rāja-māyākalpa. Hoặc Hevajra ākinī-jāla sa vara-tantra)

Hán dịch: Đời Tống_ Tây Thiên Tam Tạng Ngân Thanh Quang Lộc Đại Phu Thí Quang Lộc Khanh_ Phổ Minh Từ Giác Truyền Phạm Đại Sư PHÁP HỘ (Dharmarak a) phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

QUYỂN THỨ TƯ

NÓI PHƯƠNG TIỆN

PHẨM THỨ MƯỜI BA_CHI KHÁC

Bấy giờ Vô Ngã Minh Phi (Nairātmyā-yoginī) là bậc Thượng Thủ với tất cả nhóm Kim Cương Noa Cát Ni (Vajra- āki ī) đều cầm năm Cam Lộ tương ứng, cúng dường Đức Thế Tôn Kim Cương Tát Đoả (Bhagavate-vajra-satva) xong.

(Đức Thế Tôn) uống vị Kim Cương Cam Lộ (Vajra-am ta-rasa) hiện Uy Thần lớn, phát Tâm vui vẻ nói: “Ngươi với nhóm Kim Cương Noa Cát Ni! Sự chân thật rất ư bí mật này của Ta, cúng dường tất cả Phật xong, đối với Bản Tính Kim Cương, nay Ta mở bày”

Thời các Minh Phi (Yoginī) được đại hoan hỷ, quỳ gối phải sát đất, chắp tay cung kính, lắng nghe điều Phật dạy.

Đức Phật nói: “Như được thức ăn uống thì đối với thứ ngon, thứ chẳng ngon…đừng sinh chán lìa. Tắm gội bụi dơ thì không có tưởng sạch sẽ. Giả sử lại chẳng tu Thiền Định, chẳng tụng câu Chú, chẳng buông bỏ ngủ mê, chẳng hộ giữ Căn Môn…đối với thức ăn năm Tịnh, bình đẳng ăn vào. Tất cả Quyến Thuộc, Tâm không có yêu đính, không có tưởng Oán Thân. Chẳng hành lễ bái trước tượng vẽ, tượng đá, tượng gỗ. Đối với Pháp Thế Gian đều hay xa lìa. Đối với hàng Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Phệ Xá, Thủ Đà La…chẳng ưa thích gần gũi. Bề ngoài của Chiên Đà La Uế Hạnh làm nhóm người ở nhà cầu…cũng chẳng xa lìa. Hoặc dùng Ma Niêm với lá Hoắc Hương, thuốc Độc Lạt…vị chua, vị đắng, vị lạt với vị thơm ngon, thức ăn uống dư thừa…Dùng Trí chẳng hai của Tâm Bồ Đề cho nên chút phần của Thế Gian chẳng có thức gì chẳng ăn. Lại được hoa Cô Tô Ma tự nhiên sinh để trong vật khí hoa sen, nhập vào Thi Lợi Sa với thuốc Già Noa để làm Cam Lộ. Dùng tro của rừng lạnh (Hàn Lâm: nơi chứa xác người chết) xoa bôi thân, mặc áo rách nát đủ màu, dùng hoa Tất Lợi Đa kết vòng hoa nghiêm sức”

_Lại nữa Kim Cương Tạng nói: “Do sáu Căn thanh tịnh tức tất cả cảnh giới thanh tịnh rộng lớn. Đức Thế Tôn há chẳng nói các Căn này thanh tịnh là giáp trụ của Thân đại dũng kiện sao?”

Kim Cương Tạng bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các người Thanh Văn đã chẳng thể biết Đại Tam Muội Gia đấy. Đức Phật nói quyết định như khoảng sát na lìa các phiền nảo. Đức Như Lai đối với bốn loại Giáo Lý chẳng làm Thuyết đấy thì thế nào gọi là phương tiện nói?”

Đức Phật nói: “Này Kim Cương Tạng! Ông hãy một lòng lắng nghe! Nay Ta vì bậc Đại Tâm dùng phương tiện nói Đại Tam Muội Gia.

Như nói Ma Niêm (Madya ) tức là nghĩa quả trái (quả thật)

Như nói Di La (Milana) tức là nghĩa Câu Triệu

Như nói Kha Tra Tất Lợi Kha Nam (Khe a -pre kha a ) tức là nghĩa đi lại

Như nói A Tát Đa Bà La Nam (Asthyābhara am) tức là nghĩa châu báu

Như nói Mạn Noa Lỗ ( amaru) tức là nghĩa tiếng trống

Như nói Nỗ La Nỗ La (Dundura ) tức là người Đức mỏng

Như nói Ca Lăng Nhạ La (Kāliñjara ) tức là người Phước Thiện

Như nói Ninh Nê Hàm (Di ima ) tức là nghĩa không có tiếp chạm

Như nói Cát Ba La (Kapāla ) tức là vật khí hoa sen

Như nói Nghĩa Để Vọng Bát Đa (T ptikara ) tức là nghĩa ăn uống

Như nói Ma La Đỉnh (Mālatīn) tức là nghĩa hái lấy ăn (thái thực)

Như nói Ngột Tham (Gūtha ) tức là nghĩa bốn bình đẳng

Như nói Mẫu Đa La (mūtra ) tức là nghĩa Diệu Hương

Như nói Tất La Cám (Sihlaka ) tức là nghĩa tự nhiên sinh

Như nói Du Cát La (Śukra ) tức là nghĩa tạo tác

Như nói Mạt Sa (Mā sa ) tức là nghĩa màu trắng

Như nói Du (?Kunduru ) tức là nghĩa tương ứng

Như nói Mô La Cám (Bolaka ) tức là nghĩa Kim Cương

Như nói Cô La Cám (Kakkolaka ) tức là nghĩa Liên Hoa

Như nói Cô Lãm (kula ) tức là nghĩa Bộ Loại

Như nói Phộc La Noa (Var a ) tức là nghĩa có phân biệt, không có phân biệt

_Đối với năm Bộ của Phật cũng nói như vậy

Như nói Nỗ Di ( o bī) tức là Kim Cương Bộ (Vajra-kulāya)

Như nói Na Chi (Na ī) tức là Liên Hoa Bộ (Padma-kulāya)

Như nói Tán Noa Lê (Ca āli) tức là Bảo Bộ (Ratna-kulāya)

Như nói Noa Nhạ Đa (Dvijā) tức là Như Lai Bộ (Tathāgata-kulāya) Như nói Lạt Nhạ Kế (Rajakī) tức là Yết Ma Bộ (Karma-kulāya)

Như nói Mẫu Đà La (Mudra) tức là nghĩa Diệu Thành Tựu (Susiddhi)

Lại người tu Quán được thành tựu nước Kim Cương (Kim Cương Thuỷ) làm cúng dường xong rồi tự uống vào”

_Đức Phật nói: “Này Kim Cương Đại Tát Đoả! Ta vì ông nói, chẳng phải là điều kia, tất cả chỉ nên tôn trọng mà nhiếp thọ. Đối với Kim Cương Không Trí Quán Đỉnh Đại Chân Thật Cú Tam Muội Phương Tiện đừng vọng tuyên nói mà bị tội lỗi lớn, rốt ráo không có nghi ngờ.

Hoặc bị Quỷ Mỵ, Oán Tặc xâm nhiễu, bệnh sốt rét, Cổ Độc cho đến người đó mau hướng đến cái chết (mệnh chung). Giả sử lại có người đối với Tam Muội này, như Thế Y Vương với Phật Đạo Sư đối với phương tiện đấy cũng đừng vị họ nói. Bất Động Sứ Giả ấy với bốn Đại Minh Phi phát đại phẫn nỗ.

Đấy gọi là nghĩa trong tất cả Nghi Quỹ.

 

GOM TẬP TẤT CẢ NGHI QUỸ BỘ

PHẨM THỨ MƯỜI BỐN

_Bấy giờ Kim Cương Tạng là bậc Thượng Thủ cùng với tất cả Kim Cương Noa Cát Ni, Tâm sinh nghi ngờ, rất ư ưu não rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Trong Phẩm Tiền Hành nói Kim Cương Ca Vũ Thành Tựu. Thế nào là Kim Cương Ca Vũ? Thế nào là Bản Tôn Quán Đỉnh? Đối với nhóm Ấn nào, nói tác dụng của nhóm Sân? Lại Phẩm Chân Ngôn nói Chủng Tử của Vô Ngã Minh Phi như thế nào? Chủng Tử từ đâu mà sinh ra? Phẩm Kim Cương Bộ nói Tướng của 32 Huyết Mạch, bàn về sự thanh

tịnh của điều ấy. Nguyện xin Đức Thế Tôn vì con trừ bỏ sự nghi ngờ” Đức Phật nói: “Kim Cương Ca Vũ, ấy là:

“Cô la dĩ lý chi a, mạo la mông mẫu nê lý ca, cô la khư, cát tất trá, hộc, mạt nhạ y, cát lỗ ni cát a y, lộ la, đát hứ, tả la, khát nhạ y, nga trì, ma dã noa tất nhạ a y, hát lệ, ca lăng nhạ la, bát nê a y, nột nỗ lỗ, mạt nhĩ a y, tạt ô tam ma, cát sô lý, tất la-ca, cát bốc lỗ la y a y, ma la, y ấn đà noa, sa lệ, đát hứ, bà lỗ, ha nhất a y, tất-lăng khát noa, khế trá, cát lăng đế, thú đà thú đà, nô nhạ nê a y, nê lam thú áng huỷ, tả noa vĩ, a y đam hứ, nhĩ, tát la phộc, a vĩ bát nê a y, vị lệ dã nhĩ ông nỗ lỗ mạt trá y ninh nê vị, đa hinh, mạt nhạ a y lý”

Kim Cương Vũ (Vajra-n tye) đối với Tướng của Hứ Lỗ Ca (Heruka) đừng nên quên niệm, Tâm sinh yêu thích, liên tục quán tưởng.

Lại Kim Cương Minh Phi (Vajra-yoginī) với nhóm Du Nghĩ Ni (Yoginī) như các Phật Mẫu. Kim Cương Ca Vũ ấy mà thường chân thật, hộ trì thân của mình với quyến thuộc khác. Đây là nơi mà các Thế Gian đã trì tụng, hay sinh tin yêu. Thế nên đối với điều này rất sinh tôn trọng, như tướng Nguyệt Ái đừng có nghi ngờ”

_Thời Kim Cương Tạng bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Tự Tính của Câu Sinh Hỷ đấy, đâu là chỗ vứt bỏ mà hay sinh tất cả tương ứng? Ví như Hư Không không có cùng tận”

Đức Phật nói: “Như vậy! Như vậy! Như ông đã nói”

 

_Kim Cương Tạng nói: “Thế nào là Tâm Bồ Đề sinh ra phương tiện?”

Đức Phật bảo: “Nói Luân Đàn này, dùng Uy Lực của chữ gia trì thứ tự thì gọi là Tâm Bồ Đề sinh ra phương tiện. Thế, Phi Thế Tục có hai loại tướng như hoa Câu Na ở dưới ánh trăng màu trắng, Diệu Lạc của Thế Gian cũng lại như vậy.

Nói: Phật Bồ Tát như vậy nhậm trì, tin hiểu Luân Hồi (Samsāra) không có trở lại Niết Bàn (Nirvā a). Đã nói nhóm hình sắc (Rūpa:sắc), âm thanh (Śabda:thanh) là Luân Hồi. Nhóm cảm giác (Vadanā:thọ) là Luân Hồi, nhóm Căn (Indriya) là Luân Hồi, nhóm Sân (Dve a) là Luân Hồi. Tức dùng Pháp đấy mà gọi tên Niết Bàn

Nói: không có si (Vô Si) là Niết Bàn, không có mê loạn là Niết Bàn, Thanh Tịnh là Niết Bàn. Nếu chẳng phải là Tâm Bồ Đề của Thế Tục, dùng Đồng Tử có đủ tướng là Thượng Chủng Tộc (dòng tộc bậc trên), Tính Hạnh điều nhu, thù diệu, trang nghiêm.

Dùng hương Tất La Ha hoà hợp với Long Não cùng với thức ăn uống ngon ngọt, tuỳ phần cúng dường, đối với thân của Ta Người thành tựu nghĩa lợi.

Lại Kim Cương Liên Hoa (Vajra-padma) mà làm tương ứng, sinh ra thứ tự thì chẳng nên xa lìa. Dùng vật khí hoa sen hoặc vỏ ốc màu trắng để làm Cam Lộ. Như vậy Chính Lý có Đại Lực Năng, tức là Vô Ngã Minh Phi. Dùng Đại Ấn Mạn Noa La trụ trong lỗ rốn, từ Tự Tính của âm chữ A (哧:Ā) với chữ Đề (司:Di) ấy nói Thắng Tuệ đấy sinh ra thứ tự tương ứng. Chẳng phải là dài, ngắn, vuông, tròn…mà Câu Sinh Hỷ như vậy sinh ra thọ dụng Diệu Lạc cùng với Đại Ấn mà được thành tựu. Tự Tính của hình sắc (Rūpa:sắc), âm thanh (Śabda: thanh), mùi ngửi (Gandha: hương), vị nếm (Rasa: vị), cảm xúc (Spra avya: xúc), Pháp Giới (Dharma: Pháp), Trí Tuệ (Prajña), Phương Tiện (Upāya) với Đại Diệu Lạc tức Luân Đàn ấy

Tự Tính của năm Trí là Đại Viên Kính Trí (Adarśa-J āna), Bình Đẳng Tính Trí (Samatā-Jñāna), Diệu Quán Sát Trí (Pratyavek ana-Jñāna), Thành Sở Tác Trí  (K tya-mu hāna-Jñāna), Thanh Tịnh Pháp Giới (Dharma-dhātu-parak ti-Jñāna:Pháp Giới Thể Tính Trí). Bản Tính Pháp Giới của Vô Ngã Minh Phi này như Ta là hàng Mạn Noa La Vương (Ma ala-rāja) không có khác”

_Lại nữa Kim Cương Tạng nói: “Nơi Luân Đàn, quán tưởng Đạo. Như điều ấy sinh ra chư Phật, Hiền Thánh. Nguyện xin Đức Thế Tôn trước tiên vì chúng con nói Giới Tướng đấy’

Đức Phật nói: “Trước tiên ở trong Thân trụ A Tự Môn, Kim Cương Liên Hoa Đại Ấn, Phương Tiện Học Xứ. Giới bên trong bên ngoài (nội ngoại giới) này, nay Ta mở bày

Dùng Lý Thú, Tam Ma Bát Để bí mật của chữ A khiến cho phiền não cột buộc bên ngoài chẳng hiện khởi, biết rõ ba Thân Luân: Pháp, Báo, Hoá với nghĩa của Đại Lạc (Mahā-sukha). Như vậy trũ Tâm Ý, cổ họng, đỉnh đầu sinh ra vô lượng chư Phật, Hiền Thánh

Hoá Thân Luân (Nirmā a-kāya-cakra) ấy y theo Luật của Thượng Toạ Bộ xuất ra Biến Hoá Thân (Nirmā a-kāya)

Pháp Thân Luân (Dharma-kāya-cakra) y theo Luật của Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivādā ) tuyên nói Pháp

Báo Thân Luân (Sa bhoga-kāya-cakra) y theo Luật của Chính Lượng Bộ (Sammitiyā ) là chỗ thọ dụng mùi vị của tất cả thức ăn uống

Đại Lạc Luân (Mahā-sukha-cakra) y theo Luật của Đại Chúng Bộ (Mahāsa ghikā ) trụ Diệu Lạc

Đức Thế Tôn phân biệt bốn loại Quả Bất Động. Dùng Nghiệp Thắng Tuệ mà làm Giáo Giới. Pháp Luân (Dharma-cakra) ấy như Thọ Dụng (Sa bhoga) đấy, nói không có chỗ lay động mà được Quả lớn (đại quả), nơi Diệu Lạc Luân có đủ đại lực hay có Sĩ Phu dùng tương ứng sinh ra Quả Báo thanh tịnh. Nghĩa Loại của nhóm đấy nói tên gọi Thánh Thai là nơi Du Chỉ (Yogī)

Nếu Tâm người lìa nhóm Tham, giả sử ở trong bào thai cũng như mặc quần áo Pháp. Quán mẹ sinh ra tức là các Phật Mẫu (Buddha-mātā): yêu thương, lo lắng, dạy dỗ, nuôi nấng. Khom lưng cung kính như bậc thầy gần gũi dạy bảo (Upādhyāya: Thân Giáo)

Do Ta xưa kia thuận sinh Thế Gian, từ A Tự Luân (唒) sinh ra chữ Khiếm (丈:Kha ), đỉnh đầu tròn trịa, da dẻ thanh khiết như tướng Bật Sô (Bhik u:Tỳ Kheo). Lại chúng sinh mười tháng mới sinh trên đất, vào lúc ấy thời Ta đã mãn địa vị Đại Tự Tại của Hạnh Thập Địa. Cho nên A Tự Môn (唒) gom chứa chúng sinh như Phật không có nghi ngờ”

_Bấy giờ nhóm Vô Ngã Minh Phi nghe Đức Phật nói xong thời Tâm sinh nghi ngờ, rất ư sợ hãi, choáng váng té xuống mặt đất

Lúc đó Hội nhìn thấy xong, bảo nhóm Kim Cương Minh Phi rằng: “Đất, nước, lửa, gió, Hư Không đấy. Năm Đại Chủng này chỉ có Phật mới hiểu biết được”

Thời Vô Ngã Minh Phi như được nghe trong mộng, từ mặt đất đứng dậy, bạch rằng: “Thế Tôn! Như vậy chúng sinh vì sao mà bị các cấu nhiễm che lấp? Hay trừ bỏ nhóm ấy thì gọi là bậc Chính Giác (Samyak-sa buddha)

Thế Tôn! Chân thật như vậy không có hư vọng”

Đức Phật nói: “Như người không có Trí uống thuốc Huỷ La Noa thì mệt mỏi sinh ra trạng thái say mờ. Nếu lìa Si Ái, đấy tức là giải thoát.

Nếu người đối với Kim Cương Không Trí tin tưởng, ưa thích, nghe nhiều, hiểu thấu phương tiện Xuất Ly, chặt đứt sự cột trói của Vô Minh, chẳng sinh chấp thủ. Đối với Trời, Người, A Tu La, Địa Ngục, Quỷ đói, Súc Sinh…khởi Đại Giác Ngộ không có tướng chúng sinh sẽ thành Chính Giác (Samyak-sa bodhi)

Lại các loài trùng ở trong phân dơ bẩn thường ưa thích Thể của mình mà còn chẳng biết sự ưa thích của hàng Trời, Người. Tính Giác này tuỳ theo chỗ hiện của Tâm, chẳng phải là Thế Giới khác mà được thành Chính Giác. Giả sử Chiên Đà La gây tạo các nghiệp giết chóc, người đấy là kẻ ngu không có Trí, chấp dính… chẳng biết hành vi đó rất ngu si tăm tối, ở trong sáu nẻo hưng khởi hành vi chọn lấy Hữu Chi (một trong 12 Chi là nhân chiêu vời nghiệp quả thiện ác) làm chỗ lưu chuyển

Nếu Kim Cương Không Trí được phương tiện đấy trừ bỏ sự gom chứa của Ngã Mạn, thanh tịnh cảnh giới được Đạo Vô Thượng, nơi Thắng Hạnh này thành tựu không có nghi ngờ.

Nói Bốc Cát Tây Minh Phi (Puka ī-yoginī), đấy tức là Địa Giới, Thể bền cứng ấy tức là nghĩa ngu si. Đức Phật nói: “Thân y theo Tâm sinh ra, nếu ở chỗ khác quyết định chẳng thể được”. Thế nên là Tỳ Lô Giá Na Như Lai Bộ

Nói Thiết Phộc Lý Minh Phi (Śavarī-yoginī), đấy tức là Thuỷ Giới, Tính thấp ướt ấy là Lý Thú của Bản Tôn. Đức Phật nói: “Thân y theo Tâm sinh ra, nếu ở chỗ khác chẳng dấy lên ứng hiện”. Bởi thế là A Súc Như Lai Bộ

Nói Tán Noa Lý Minh Phi (Ca alī-yoginī), đấy tức là Hoả Giới, tức Lý Thú của Tham. Đức Phật nói: “Lửa Tham Ái dùng màu đỏ làm tướng của mình, do Tham dấy lên lời nói hai lưỡi”. Bởi thế là Bảo Sinh Như Lai Bộ

Nói Nỗ Di Ni Minh Phi ( omvinī-yoginī), đấy tức là Phong Giới, là Lý Thú của Bản Tôn. Đức Phật nói: “Do Tham cho nên dấy lên sự ganh ghét”. Bởi thế là Bất

Không Thành Tựu Như Lai Bộ

Như vậy Yêu Lý Minh Phi (Gaurī-yoginī), Tưu Lý Minh Phi (Caurī-yoginī), Vĩ Đa Lý Minh Phi (Vetalī-yoginī), Khát Tam Ma Lý Minh Phi (Ghasmarī-yoginī), cũng nói như trên, nơi Kim Cương Không Trí như vậy trụ trì Tam Ma Bát Để (Samāpatti)

_ Lại nữa Vô Ngã Bồ Tát ở tướng bình đẳng, vì lợi cho chúng sinh nên thỉnh hỏi câu Chân Ngôn Mạt Lân Đại Cúng Dường

Thời Kim Cương Tát Đoả đối với các chúng sinh, khiến hộ giũ mạng của người khác. Vì loài gây chướng, tất cả Tần Na Dạ Ca (Vināyaka) nói Mạt Lân Đại Cúng Dường Minh là:

“Án, ấn nại, dã ma, nhạ la, nhạ sát, phổ phộc, phộc hát-ni, phộc dụ, la sát, tán nại, tô nhạ, ma nại, phộc bát, đa la bát đa lê, át trá tát bát, y nam mạt lân, bồng nhạ, nhưng già, bổ sáp-ba, độ ba, mãng sa, vĩ cận-nam, áng hát, ca nhạ, tát phộc sa đạt, khản để, khô ni, thí nhiếp huỷ nại. Án, át ca lỗ mưu kháng, tát lý-phộc đạt lý-ma noa ma ninh-dã na-dữu đát-bán na, đát-phộc đa. Án a hồng, phát trá, tát-phộc hạ”

Mạt Lân Đại Cúng Dường Minh như vậy. Người khéo hiểu Du Già cúng dường tất cả hàng Bộ Đa (Bhūta) được đại cát tường.

Nếu cầu Tín Ái thì Chư Thiên hộ thế sinh đại hoan hỷ.

Nếu làm Giáng Phục thì mau phá Oán Địch.

Nếu làm Câu Triệu thì hay sai khiến các Ma (Māra).

Nếu làm Tức Tai, Tăng Ích thì được Đại Phú Lạc liên tục chẳng gián đoạn”

_Lại nữa Kim Cương Tạng nói: “Trước kia, Đức Như Lai nói Minh Phi Địa Hành (Bhūcarī-yogi ī), Không Hành (Khacarī-yogi ī). Nay con chẳng biết đang là Bộ Chủ nào?”

Đức Phật nói: “Vì trong ba Mật Luân Thân miệng ý dùng Trú Xứ của Ta với Vô Ngã Bồ Tát trụ bậc trên, bậc giữa, bậc dưới. Trong đây mở bày bộ có ba loại, năm loại hoặc mở sáu loại. Tức năm Như Lai đối trị với Tham, Sân, Ngu Si, nói hai lưỡi, ganh ghét. Lại nơi năm loại tuỳ theo thứ tự ấy, quán tưởng sinh ra Diệu Lạc thanh tịnh của Kim Cương Tát Đoả.

Lại ba loại tức là Như Lai Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim Cương Bộ dùng đối trị nhóm Tham, Sân, Si kia.

Lại nữa, một Bộ là A Súc Như Lai Kim Cương Uy Đức hiện tướng phẫn nộ đối trị với Pháp giận dữ (sân Pháp)”

 

KIM CƯƠNG VƯƠNG HIỆN RA PHẨM THỨ MƯỜI LĂM

Bấy giờ Không Trí Đại Kim Cương Vương mở bày tất cả Bản Tôn, tất cả Tự Tính Thân Mạn Noa La, trụ Cực Diệu Lạc Kim Cương Tâm Chủng Tử, sinh ra Nhất Thiết Tự Tướng Mạn Noa La Vương có 16 cánh tay, 8 mặt, 4 chân, đội vòng hoa đầu lâu, hiện tướng phẫn nộ, cầm giữ năm Ấn, được đại vô uý.

Thời Vô Ngã Bồ Tát bạch lời như vầy: “Trước kia, tôi chẳng biết 15 địa vị,

Quyến Ái Chủng Trí của Mạn Noa La đấy. Nguyện vì tôi nói”

Thời Kim Cương Vương (Vajra-rāja) như vậy thở dài, cầm Cát Ba La, ném chày Kim Cương tồi phục Ma xong, nói bày Mạn Noa La Luân như lúc trước: bốn góc, bốn cửa với dây giăng Kim Cương, chuỗi ngọc, nửa vòng chuỗi, vô lượng báu tạp xen nhau trang nghiêm. Dùng Chủng Trí chữ Hồng (Hū ) A ( A) của Ta phóng ánh sáng màu xanh, rực lửa mạnh mẽ, sinh ra 8 mặt, 16 cánh tay, bàn chân đạp lên bốn Ma, hiện tướng phẫn nộ, đội vòng hoa đầu lâu với chuỗi ngọc màu nhiệm, được đại vô uý, trụ trong vành mặt trời, đứng như thế múa, đỉnh đầu đội chày Kim Cương Thiện Xảo, màu đen phẫn nộ, dùng tro xoa bôi thân, miệng tụng chữ Hồng phát tra ( Hū pha ) nhập vào Lạc Tịch Tĩnh Ly Phiền Não Phộc Diệu Tam Ma Địa, mặt chính màu đen đậm, mặt bên phải như hoa Câu Na màu trắng, mặt bên trái màu hồng hiển tướng rất phẫn nộ, mặt bên trên tuôi cười, bốn mặt còn lại đều màu đen xanh, tổng cộng có 24 con mắt.

Như vậy nối tiếp nhập vào Lạc Hy Hý Tam Ma Địa. Từ Ngạn Tự Môn (Ga ) sinh ra Ngao Lý Minh Phi trụ ở cửa Đông

Lại nhập vào Mãn Tha Na Tương Ứng Tam Ma Địa. Từ Tôn Tự Môn (Ca ) sinh ra Tưu Lý Minh Phi trụ ở cửa Nam, làm người giữ cửa.

Lại nhập vào Kim Cương Liên Hoa Tương Ứng Tam Ma Địa. Từ Tông Tự Môn (Va ) sinh ra Vĩ Đa Lý Minh Phi trụ ở cửa Tây

Lại nhập vào Phá Đại Phiền Não Ám Tam Ma Địa. Từ Cám Tự Môn (Gha ) sinh ra Khát Tam Ma Lý Minh Phi trụ ở cửa Bắc, làm người hoại Ma

Từ Bôn Tự Môn (Pa ) sinh ra Bốc Cát Tây Minh Phi trụ ở phương Y Xá Na (phương Đông Bắc)

Lại nhập vào Mãn Tha Na Tương Ứng Tam Ma Địa. Từ Thương Tự Môn (Śa ) sinh ra Thiết Phộc Minh Phi trụ ở cửa phương Hoả Thiên (phương Đông Nam)

Từ Tán Tự Môn (La ) sinh ra Tán Noa Lê Minh Phi trụ ở phương La Sát (phương Tây Nam)

Từ Nông Tự Môn (Da ) sinh ra Nỗ Di Ni Minh Phi trụ ở phương Phong Thiên (phương Tây Bắc)

_Bấy giờ Không Trí Đại Kim Cương Vương lại nhập vào Hư Không Tính Tam Muội, đột nhiên chẳng hiện. Bốn Đại Chủng Minh Phi ấy dùng mọi loại Kim Cương Ca Vịnh cúng dường.

Địa Đại Ngao Lý Minh Phi nói rằng:

“Lành thay Kim Cương Vương!

Mau khởi ý Đại Bi

Muốn giúp các chúng sinh

Chẳng nên trụ Không Tính (Śūnyatā: Tính trống rỗng)”

Thuỷ Đại Thiết Phộc Lý Minh Phi nói rằng:

“Khởi Không Không Trí Chủ

Trụ Không (Śūnya: trống rỗng) chẳng lợi lạc

Vì người cầu thành tựu

Chẳng nên trụ Không Tính

Hoả Đại Tán Noa Lê Minh Phi nói rằng:

“Vì sao trụ Không Tính

Để chẳng thấy phương sở?

Tôi thỉnh Đại Bi Tôn

Mau thành các lợi lạc”

 

Phong Đại Noa Di Ni Minh Phi nói rằng:

“Tôi biết Tâm Không Trí

Thân từ huyễn hoá có

Bậc chẳng đoạn Đại Bi

Đừng tác Ý như vậy”

Thời Không Trí Đại Kim Cương Vương lại từ Chủng Trí chữ Hồng A hiện ra thân Đại Kim Cương, tướng Trí nhu nhuyễn, trang nghiêm thù diệu, làm thế dũng mãnh, phẫn nộ mỉm cười, được đại vô uý. Bên trong ôm giữ Bi Mẫn (lòng thương xót) vắng lặng hiếm có, Lý Thú của mùi vị thù thắng, hiện chín loại múa giỡn. Bên trái bên phải có 16 cánh tay, mỗi mỗi đều cầm một vật khí Đại Liên Hoa. Ấy là: Địa, Thuỷ, Hoả, Phong, Nhật, Nguyệt, Đa Văn Thiên Vương với Diễm Ma Thiên Chủ, voi, ngựa, Khát La, bò, Lạc Đà, Ý sinh, Sư Tử, con mèo. Bàn chân đạp trên mặt đất, làm thế khắc kỵ Trời, A Tu La

Ngao Lý Minh Phi: tay phải nắm cây đao báu, tay trái cầm con cá Ma Kiệt

Tưu Lý Minh Phi: tay phải cầm cái trống Khuê Lâu, tay trái cầm Phộc La Hạ

Vĩ Đa Lý Minh Phi: lòng bàn tay phải có con rùa, tay trái cầm vật khí hoa sen

Khát Tam Ma Lý Minh Phi: tay phải cầm Thận Long, tay trái cầm vật khí hoa sen Bốc Cát Tây Minh Phi: tay phải cầm sư tử, tay trái cầm cây búa

Thiết Phộc Lý Minh Phi: lòng bàn tay phải có tượng Tỳ Kheo, tay trái cầm Tích Trượng

Tán Noa Tây Minh Phi: tay phải cầm bánh xe tám căm, tay trái cầm Lê Cụ

Nỗ Di Ni Minh Phi: tay phải cầm chày Kim Cương, tay trái tác Ấn Kỳ Khắc (Ấn của sự thống trị)

 

PHẬT NÓI KINH ĐẠI BI KHÔNG TRÍ KIM CƯƠNG ĐẠI GIÁO VƯƠNG NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ TƯ (Hết)_

 

Trang: 1 2 3 4