KINH BỒ TÁT ĐỊA TRÌ
SỐ 1581
QUYỂN 06
Tác giả: Tối Thắng Tử Đẳng tạo.
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Phẩm 11: XỨ PHƯƠNG TIỆN NHẪN
Thế nào là Bồ-tát hành Nhẫn nhục Ba-la-mật? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh nhẫn. Hai là nhất thiết nhẫn. Ba là nan nhẫn. Bốn là nhất thiết môn nhẫn. Năm là thiện nhân nhẫn. Sáu là nhất thiết hành nhẫn. Bảy là trừ não nhẫn. Tám là đời nầy đời khác lạc nhẫn. Chín là thanh tịnh nhẫn.
Thế nào là tự tánh nhẫn? Bồ-tát dựa vào sức của tư duy, nếu như sức của tánh có thể nhẫn việc làm không lợi ích của người khác thì tất cả các nhẫn nương vào tâm vô tham, tâm bi thuần nhất, đấy gọi là tự tánh nhẫn.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết nhẫn? Lược nói có hai loại: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Hai loại nầy mỗi loại đều có ba thứ: Một là nhẫn đối với người không tạo lợi ích. Hai là nhẫn an khổ. Ba là nhẫn pháp hiểu rõ tư duy.
Nhẫn đối với người không tạo lợi ích, nghĩa là từ xa xưa đến nay, khổ lớn không gián đoạn vì người khác không tạo lợi ích, hiện tiền lại bức thiết, Bồ-tát tư duy như thế nầy: Tự nghiệp của ta quá xấu ác, vốn xưa đã tạo tội nên ngày nay phải chịu khổ. Hôm nay nếu không nhẫn thì trở lại làm nhân duyên khổ lớn cho đời sau. Ta nay vì việc tự tạo khổ lần nữa, không do người khác. Vả lại, thân ta và người kia đều là hành khổ của hết thảy pháp hữu vi. Kẻ kia không biết nên tăng thêm khổ cho ta, ta nay có trí vì sao lại muốn tăng thêm khổ cho kẻ ấy. Lại nữa, Thanh văn tự lợi hãy còn không đem khổ thêm cho người khác, huống gì là Bồ-tát luôn tạo lợi ích rộng cho chúng sinh. Tư duy như vậy rồi, tu tập năm thứ tưởng, đối với người oán kẻ thân, người không oán không thân, thuộc phẩm hạ, trung, thượng, hoặc khổ hoặc vui, có đức, không đức, chúng sinh như vậy, tất cả đều có thể nhẫn. Những gì là năm thứ tưởng? Một là tưởng vốn là thân thuộc. Hai là tưởng pháp số. Ba là tưởng vô thường. Bốn là tưởng khổ. Năm là tưởng thâu giữ.
Tưởng vốn là thân thuộc nghĩa là Bồ-tát khởi tư duy thế nầy: Chúng sinh từ xa xưa đến nay hầu hết đều là thân thuộc, hoặc là cha, hoặc là mẹ, anh em chị em, Hòa thượng, A-xà-lê, hoặc là thầy, hoặc là những bậc thầy đáng tôn kính. Tư duy như vậy, xả bỏ tưởng oán ghét không tạo lợi ích, khởi tưởng vốn thân thuộc, nương vào tưởng vốn thân thuộc rồi, đối với người không tạo lợi ích đều có thể gắng nhẫn.
Tưởng pháp số nghĩa là Bồ-tát khởi tư duy thế nầy: Nhân duyên hành số, pháp số, không có ngã, chúng sinh, thọ mạng, không có kẻ sinh, kẻ mắng, kẻ đánh, kẻ tranh chấp. Khi tư duy đúng đắn như thế, xa lìa tưởng chúng sinh, trụ nơi tưởng pháp số, nương vào tưởng pháp số rồi, đối với người không tạo lợi ích đều có thể an nhẫn.
Tưởng vô thường nghĩa là Bồ-tát tư duy: Tất cả chốn sinh của chúng sinh, hết thảy đều là pháp vô thường hoại diệt, ở trên lại có việc không tạo lợi ích, muốn đoạn mạng kia, như vậy tánh vô thường nơi chúng sinh là pháp chết. Người trí không khởi tâm không thanh tịnh, huống gì lại dùng tay, đá, đao, gậy, nhằm đoạn mạng kia. Chánh tư duy như vậy thì lìa tưởng thường, kiên cố, trụ tưởng vô thường, không kiên cố. Nương nơi tưởng vô thường rồi, đối với người không tạo lợi ích thảy đều có thể an nhẫn.
Tưởng khổ là Bồ-tát quán thế nầy: Người đầy đủ đại lực hãy còn không lìa ba khổ, đó là hành khổ, biến dịch khổ và khổ khổ, huống gì là người không đầy đủ đại lực. Bồ-tát khi quán như vậy, đối với chúng sinh thường khổ muốn khiến họ xa lìa khổ. Vì sao thêm báo lại tăng thêm khổ cho kẻ kia? Khi chánh tư duy như vậy, sẽ lìa tưởng lạc, trụ nơi tưởng khổ, có tưởng nhẫn khổ xong, đối với người không tạo lợi ích đều có thể gắng nhẫn.
Tưởng thâu giữ nghĩa là Bồ-tát tư duy thế nầy: Ta vì tất cả chúng sinh nên phát tâm Bồ-đề, đối với tất cả chúng sinh tác tưởng thân thuộc: Ta nên thâu giữ tất cả khiến được an vui. Không nên đối với các chúng sinh thân thuộc là xứ cần tạo lợi ích, lại gia thêm việc không tạo lợi ích. Khi chánh tư duy như vậy, sẽ diệt trừ tưởng khác, trụ trong tưởng thâu giữ, nương vào tưởng thâu giữ rồi, đối với người không tạo lợi ích đều có thể an nhẫn.
Thế nào là nhẫn? Nếu không sân, không báo, tâm không ôm hận, đấy gọi là nhẫn. Nhẫn an khổ nghĩa là Bồ-tát tư duy thế nầy: Ta từ xưa đến nay, vì luôn cầu các việc dục nên tạo những nhân khổ, chịu vô lượng khổ lớn. Đó là sự nghiệp kinh doanh buôn bán ở đời để sống, trồng trọt, phụng sự nhà vua… các khổ như vậy, đều trải qua đầy đủ, đều là ngu tối nên không biết lỗi lẫm, nay phải tu học nhân vui, đầy đủ pháp thiện, thì vô lượng các khổ thảy đều an nhẫn, huống gì là khổ nhỏ. Khi chánh tư duy như vậy, học tuệ đầy đủ, tất cả việc khổ thảy đều có thể an nhẫn. Tất cả các sự khổ lược nói có tám thứ: Một là xứ y. Hai là xứ thế pháp. Ba là xứ oai nghi. Bốn là xứ nhiếp pháp. Năm là xứ Tỳ-khưu tùy giới. Sáu là xứ phương tiện. Bảy là xứ lợi chúng sinh. Tám là xứ các chỗ tạo tác.
Xứ y nghĩa là bốn pháp nương dựa, nương nơi chánh pháp xuất gia, đắc phần Tỳ-khưu. Bồ-tát bị các thứ thô tạp xấu ác không cung kính và gây trở ngại không đúng lúc, tâm không buồn khổ, Bồ-tát đối với các khổ kia, không bỏ tinh tấn, như thế gọi là an nhẫn y khổ.
Xứ thế pháp có chín loại: Một là không lợi. Hai là không khen. Ba là chê bai. Bốn là khổ. Năm là pháp hoại hủy hoại. Sáu là pháp tận diệt tận. Bảy là pháp lão suy lão. Tám là pháp bệnh hiện bệnh. Chín là pháp tử hiện tử. Các thế pháp nầy, hoặc lìa hoặc hợp có thể sinh các khổ, đấy gọi là xứ thế pháp. Bồ-tát đối với các khổ kia không bỏ tinh tấn, như thế gọi là an nhẫn nơi thế pháp khổ.
Xứ oai nghi có bốn oai nghi là đi, đứng, ngồi, nằm. Bồ-tát nầy hoặc đi, hoặc ngồi, ngày đêm hai thời, trừ bỏ ấm chướng, tâm được thanh tịnh, không nằm phi thời, giường nằm nệm ngồi trải bằng cỏ, lá, nhân đấy mệt nhọc sinh các khổ, thảy đều có thể nhẫn. Bồ-tát đối với các khổ kia không bỏ tinh tấn, đó gọi là an nhẫn nơi oai nghi khổ.
Xứ nhiếp pháp có bảy thứ: Cúng dường báu, cúng dường đức, thưa hỏi, thọ nhận chánh pháp, rộng vì người nói, dùng âm thanh vi diệu để tán thán, một mình yên tịnh tư duy, quán sát xứng lượng, nhớ nghĩ thâu nhận, tu tập chỉ quán. Nếu Bồ-tát thâu giữ bảy pháp nầy làm phương tiện tu tập, thì các khổ v đã khởi đều có thể an nhẫn, trọn không nhân đấy mà bỏ chánh phương tiện.
Xứ Tỳ-khưu tùy giới có bảy thứ: Một là hủy hình đẹp, bỏ râu tóc, xả tướng thế tục. Hai là đắp y hoại sắc. Ba là trừ bỏ việc làm thế tục, không như pháp; tâm chánh niệm trụ. Bốn là nương vào người mà sống, bỏ sự nghiệp thế tục. Năm là suốt đời theo người khác xin y, không cất chứa. Sáu là suốt đời ngăn cản năm dục của người, thâu giữ các căn môn, xả phi phạm hạnh. Bảy là suốt đời xả bỏ các thứ vui chơi như ca múa, xướng hát. Những thứ như vậy đã tạo ra những gian nan, Tỳ-khưu hành giới do vậy sinh khổ. Bồ-tát an nhẫn không xả bỏ tinh tấn. Tinh tấn, siêng năng nghĩa là Bồ-tát tinh tấn cúng dường Tam bảo, thọ trì đọc tụng kinh tạng Bồ-tát, biên chép, giải nói và suy nghĩ về các nghĩa ấy, tăng thêm chuyên cần, tinh tấn để tu tập Thánh đạo, do đấy sinh khổ, Bồ-tát an nhẫn không do đấy mà bỏ tinh tấn.
Xứ lợi chúng sinh lược nói có mười một việc, như trước đã nói, do đấy sinh khổ, Bồ-tát an nhẫn, không nhân đấy mà bỏ tinh tấn.
Xứ các chỗ tạo tác thì sự nghiệp của người xuất gia là y bát…, sự nghiệp của người tại gia là tạo tác để sinh sống, nhân đó sinh khổ, Bồtát an nhẫn không nhân đấy mà bỏ tinh tấn.
Bồ-tát tuy thọ các khổ, nhưng quyết phải an nhẫn tu Bồ-đề vô thượng, không thể không tu tập, tu tập rồi trọn không thối chuyển, tâm thường hoan hỷ, không sinh nhiễm ô. Đó gọi là pháp nhẫn an khổ.
Nhẫn tư duy giải nghĩa là Bồ-tát đối với pháp phải lựa chọn đúng đắn, khéo quán sát mở bày, đối với tám thứ xứ giải thâm nhập buộc giữ niệm, đó là công đức Tam bảo, là nghĩa chân thật, là lực đại thần thông của chư Phật Bồ-tát, hoặc nhân, hoặc quả, được nghĩa thích hợp, đắc nghĩa phương tiện, nhận biết về hành xứ. Lại nữa, giải có hai nguyên do: Một là tu tập lâu xa, hai là được vui tịnh trí. Đấy gọi là Bồ-tát hành nhất thiết nhẫn. Nương vào ba loại phân biệt, nói rộng là nan nhẫn…
Thế nào là nan nhẫn? Lược nói có ba thứ: Nếu Bồ-tát đối với chúng sinh thấp kém, không tạo lợi ích cho mình, đều có thể an nhẫn, đấy gọi là nan nhẫn thứ nhất.
Nếu đối với người giúp việc, tự có thể gắng nhẫn, đó gọi là nan nhẫn thứ hai.
Người thuộc dòng họ thấp kém, khởi lỗi tăng thượng mà có thể an nhẫn, đó gọi là nan nhẫn thứ ba.
Thế nào là nhất thiết môn nhẫn của Bồ-tát? Lược nói có bốn thứ: Một là an nhẫn việc không tạo lợi ích của người thân thuộc. Hai là an nhẫn việc không tạo lợi ích của oán gia. Ba là an nhẫn những việc không tạo lợi ích của người không thân không oán. Bốn là an nhẫn những việc không tạo lợi ích thượng, trung, hạ.
Thế nào là thiện nhân nhẫn? Lược nói có năm thứ. Bồ-tát nầy trước thấy hành nhẫn có nhiều phước lợi, nghĩa là người tu hành nhẫn, ở đời vị lai không có nhiều kết hận, không nhiều trái lìa, tâm nhiều hỷ lạc, khi chết không hối, thân hoại mạng chung sinh vào đường thiện, sinh lên cõi trời. Thấy những công đức phước lợi như vậy, nên có thể tự an nhẫn và dạy người hành nhẫn, đối với người khác luôn ca ngợi công đức nhẫn nhục, thấy người hành nhẫn sinh tâm tùy hỷ.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết hành nhẫn? Nghĩa là sáu thứ, bảy thứ, lược nói là mười ba thứ. Bồ-tát thấy người không nhẫn nhục, mắc khổ báo lớn, lo sợ cho nên nhẫn. Vì tâm từ, tâm bi, tâm gần gũi sâu xa, tâm thương yêu đối với chúng sinh cho nên nhẫn. Ân cần muốn cầu Bồ-đề vô thượng, muốn đầy đủ nhẫn nhục Ba-la-mật làm nhân cho nên nhẫn. Do sức của nhẫn nên xuất gia.
Đức Thế Tôn dạy: Thường phải đầy đủ những giới thọ trì, là xuất gia nhẫn, đấy gọi là thọ pháp nhẫn. Chủng tánh đầy đủ và trước trụ hiện tại tu tập, đó gọi là tánh nhẫn. Biết tất cả pháp không có chúng sinh, mọi nhận thức phải lìa ngôn thuyết, pháp số, đó gọi là chánh niệm pháp nhẫn. Hết thảy không tạo lợi ích nhẫn, nhất thiết nhẫn, nhất thiết xứ nhẫn, đó là một người và đại chúng hội. Tất cả thời nhẫn, nghĩa là sáng sớm, giữa trưa, chiều tối, ngày đêm, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc bệnh, không bệnh, hoặc nằm, hoặc đứng dậy, thân luôn luôn hành nhẫn, không xúc não ai, miệng thường hành nhẫn xa lìa lời nói không thân ái, ý thường hành nhẫn không khởi sân hận, kể cả không khởi những hy vọng bất tịnh.
Thế nào là Bồ-tát hành trừ não nhẫn? Lược nói có tám thứ: Một là Bồ-tát đối với người cầu khổ, an nhẫn không não hại. Hai là đối với người ác tăng thượng hung bạo, nương vào tâm đại bi mà an nhẫn không não hại. Ba là đối với người xuất gia phạm giới, nương vào tâm đại bi mà an nhẫn không não hại. Và năm thứ tinh tấn an nhẫn không não hại. Chúng sinh khổ não vì muốn dứt trừ khổ nên cầu pháp và pháp tiếp pháp hướng pháp, như vậy nên rộng vì họ mà tuyên thuyết. Nếu chúng sinh đã làm thì thảy đều lo liệu giúp đỡ, tinh tấn hành trì, đó gọi là tám thứ trừ não nhẫn. Chúng sinh tạo hoạn nạn thì an nhẫn để dứt trừ, còn chỗ nào thiếu thốn thì an nhẫn để tạo lợi ích.
Thế nào là Bồ-tát nơi đời nầy đời khác vui thích nhẫn? Lược nói có chín thứ: Bồ-tát nầy trụ trong pháp thiện, không buông lung, có thể an nhẫn đối với các trường hợp lạnh, nóng, đói, khát, mòng muỗi đốt, chích, tiếp xúc với những thứ độc hại của gió, mặt trời, tất cả đều an nhẫn, thân tâm khổ nhọc đều an nhẫn. Rơi vào biển sinh tử, chịu sinh, già, bệnh, chết, thương xót chúng sinh chịu đủ các khổ, các thứ nhẫn nhục như vậy, Bồ-tát ở trong hiện pháp tự trụ an lạc, tất cả các ác thảy đều xa lìa, lại làm nhân duyên cho đời sau được an lạc, lại còn giúp được người đời nay đời sau an ổn vui vẻ. Vì thế nên gọi là đời nầy đời sau vui thích nhẫn.
Thế nào là Bồ-tát hành thanh tịnh nhẫn? Lược nói có mười thứ: Một là người không tạo lợi ích, không có tâm báo trả. Hai là không khởi sân hận. Ba là không có tưởng oán ghét. Bốn là thường tạo lợi ích trước như bản tâm, sau cũng vậy, luôn làm việc lợi ích, bỏ việc không tạo lợi ích. Năm là đối với người không tạo lợi ích cho mình, dùng lời nhẹ nhàng từ tạ. Sáu là nếu kẻ kia sám hối, nên nhanh chóng thọ nhận. Bảy là thấy kẻ kia không nhẫn, dùng tâm bi giúp thêm cho họ. Tám là thấy kẻ kia tu nhẫn, kính Phật thêm gấp bội. Chín là với chúng sinh sợ hãi khởi tâm bi sâu xa. Mười là đoạn trừ tất cả những lỗi không nhẫn, lìa dục đạt thanh tịnh. Mười thứ đó gọi là Bồ-tát hành thanh tịnh nhẫn. Như vậy từ tự tánh nhẫn, cho đến thanh tịnh nhẫn, là quả đại Bồ-đề rộng lớn vô lượng, nhờ nương vào nhẫn nầy mà tất đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Phẩm 12: XỨ PHƯƠNG TIỆN TINH TẤN
Thế nào là Bồ-tát hành Tinh tấn Ba-la-mật? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh tinh tấn. Hai là nhất thiết tinh tấn. Ba là nan tinh tấn. Bốn là nhất thiết môn tinh tấn. Năm là thiện nhân tinh tấn. Sáu là nhất thiết hạnh tinh tấn. Bảy là trừ não tinh tấn. Tám là đời nầy đời khác vui thích tinh tấn. Chín là thanh tịnh tinh tấn.
Thế nào là tự tánh tinh tấn? Tâm Bồ-tát nầy có thể thâu nhận vô lượng pháp thiện, tạo lợi ích an lạc cho hết thảy chúng sinh, luôn sáng rõ không gián đoạn cũng không điên đảo các thân khẩu ý nghiệp vốn khởi, đấy gọi là tự tánh tinh tấn của Bồ-tát.
Thế nào là nhất thiết tinh tấn? Lược nói có hai thứ: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Hai thứ nầy, mỗi thứ có ba loại: Một là tinh tấn hoằng thệ. Hai là thâu giữ các pháp thiện. Ba là tạo lợi ích cho chúng sinh. Tinh tấn hoằng thệ nghĩa là Bồ-tát trước hết khởi phương tiện tinh tấn, tâm thường gắng sức , mặc áo giáp với thệ nguyện rộng lớn mà, khởi niệm thế nầy: Ta làm nhân duyên thoát khổ cho tất cả chúng sinh, đem trăm ngàn đại kiếp làm một ngày một đêm. Như vậy với số ức trăm ngàn đại kiếp ở trong địa ngục cho đến khi thành Phật, thề không thối chuyển, không đắc Bồ-đề vô thượng, trọn không xả tinh tấn, huống gì là chỉ trong thời gian ngắn thọ chịu một ít khổ. Đấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn hoằng thệ. Như vậy, giống với Bồ-tát hành tinh tấn hoằng thệ, khởi hiểu một ít, tin một ít rồi có thể nuôi lớn vô lượng tánh siêng năng nơi phương tiện mở bày giác ngộ, huống gì là thành tựu tinh tấn hoằng thệ như vậy. Bồ-tát vì Bồ-đề vô thượng nên tạo lợi ích cho chúng sinh, không do vì khó khăn mà sinh tưởng thối mất.
Tinh tấn thâu giữ pháp thiện là Bồ-tát lấy tinh tấn làm phương tiện để thành tựu Bố thí Ba-la-mật, làm phương tiện để thành tựu Giới, Nhẫn, Thiền định, Trí tuệ Ba-la-mật cũng như vậy. Lược nói có bảy thứ: Một là bất động, tất cả phiền não vọng tưởng, dị luận, vô lượng các khổ không thể làm cho nghiêng động. Hai là kiên cố, chỉnh đốn phương tiện. Ba là đắc vô lượng minh xứ, an trụ trong chánh niệm. Bốn là phương tiện đầy đủ, nghĩa vốn sẽ được không điên đảo nơi đạo, tùy thuận mà được. Năm là nghĩa chánh tinh tấn tạo lợi ích cho nghĩa vốn sẽ được để thành tựu nguyện. Sáu là sáng rõ, thường chuyên cần tạo phương tiện. Bảy là xa lìa kiêu mạn, tinh tấn theo phương tiện, tâm không tự khen ngợi. Bồ-tát tu bảy thứ nầy, thâu giữ các pháp thiện, phương tiện tinh tấn, chóng đầy đủ các Ba-la-mật, đắc quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Tất cả Bồ-đề pháp hành thiện, đều từ tinh tấn nầy mà thành tựu, vì thế nên tinh tấn nầy là nhân tối thượng, tối thắng, không còn gì hơn. Vì thế nên trong kinh, Đức Thế Tôn dùng mọi lời khen ngợi tinh tấn là nhân để đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Bồ-tát hành tinh tấn, đem lợi ích cho chúng sinh có mười một thứ, như trong phẩm giới đã nói, ở đó nói giới, ở đây nói tinh tấn.
Thế nào là Bồ-tát hành nan tinh tấn? Lược nói có ba thứ: Bồ-tát tinh tấn không gián đoạn, không tưởng về y phục, thức ăn, tưởng về giường nằm, tọa cụ, tưởng thân mình, thường tu pháp thiện, đấy gọi là nan tinh tấn thứ nhất.
Bồ-tát tinh tấn như vậy cho đến xả thân thọ thân, thường tu pháp thiện, không bỏ tinh tấn, đấy gọi là nan tinh tấn thứ hai.
Bồ-tát nầy phân biệt bình đẳng, công đức đầy đủ, không nhanh không chậm, tâm không điên đảo, lấy nghĩa thành tựu tinh tấn làm lợi ích, đó gọi là nan tinh tấn thứ ba. Lại nữa, lực của các nan tinh tấn ở Bồ-tát nầy, phải biết đó là nhân thâu giữ đại bi và trí tuệ.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết môn tinh tấn? Lược nói có bốn thứ: Một là lìa bỏ pháp nhiễm ô. Hai là sinh pháp bạch tịnh. Ba là trừ sạch ba nghiệp. Bốn là trí tuệ tăng ích.
Bỏ pháp nhiễm ô nghĩa là Bồ-tát tinh tấn lìa các phiền não, chưa khởi thì không cho khởi, khởi rồi khiến cho diệt.
Sinh pháp bạch tịnh nghĩa là chưa sinh pháp thiện nên tìm mọi phương tiện khiến cho sinh, pháp thiện sinh rồi tìm cách khiến cho tăng rộng.
Trừ sạch ba nghiệp nghĩa là Bồ-tát tinh tấn làm ba nghiệp thanh tịnh, đều có thể khéo thâu giữ nghiệp thân khẩu ý. Trí tuệ tăng ích nghĩa là Bồ-tát tinh tấn được văn, tư, tu tuệ, tăng trưởng đầy đủ.
Thế nào là Bồ-tát hành thiện nhân tinh tấn? Lược nói có năm thứ: Một là không có không làm tất cả phương tiện dục do không dừng nghỉ. Hai là không thuận theo bậc dưới, nếu đã khởi bậc trung hoặc bậc thượng, thì nuôi lớn tinh tấn. Ba là không biếng nhác, dũng mãnh luôn sáng tỏ, lâu dài không gián đoạn, phương tiện tinh tấn tâm không thối mất, không dứt, không hoại. Bốn là tạo lợi ích không theo nghĩa điên đảo, tạo phương tiện thâu giữ. Năm là ân cần với phương tiện tinh tấn, nhanh chóng đạt đến đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết hành tinh tấn? Nghĩa là sáu thứ, bảy thứ, lược nói có mười ba thứ. Sáu thứ ấy, đó là: Thường tinh tấn là thường có phương tiện. Đốn tinh tấn là đạt đến phương tiện tột cùng. Dựa vào tinh tấn là nhờ nơi sức của tinh tấn gốc. Phương tiện tinh tấn là suy nghĩ mưu tìm phương tiện thiện xảo. Bất động tinh tấn là gặp tất cả khổ không nghiêng động, cũng không hướng theo nghĩa khác. Tinh tấn không biết đủ là thắng tấn có hạn lượng thì không hoan hỷ. Bồ-tát thành tựu sáu thứ như vậy là nhất thiết hành tinh tấn, nghĩa là ân cần tinh tấn, có thể thực hiện kiên cố, đối với các pháp thiện không thể hủy hoại.
Lại có bảy thứ: Một là cùng với dục đều tinh tấn, ân cần mong muốn phát nguyện nuôi lớn Bồ-đề vô thượng. Hai là cùng đầy đủ tinh tấn. Nơi các phiền não nhiễm ô khác tâm vẫn trụ. Đối với các pháp thiện thì tâm trụ bình đẳng. Ba là tinh tấn thắng tiến. Tâm trụ nơi các phiền não khác, phiền não như trên, đoạn phiền não kia như cứu lửa cháy đầu. Bốn là cầu tinh tấn, là mong cầu hết thảy minh xứ. Năm là học tinh tấn. Các pháp phải học như vậy, tùy theo sự thích hợp ấy mà khởi pháp tiếp pháp hướng. Sáu là tinh tấn tạo lợi ích cho chúng sinh, có mười một thứ, như trước đã nói. Bảy là tự tạo chánh phương tiện, bảo vệ tinh tấn, nếu có thiếu sót thì như pháp sám hối, đó gọi là bảy thứ. Với mười ba thứ như vậy, gọi là Bồ-tát hành nhất thiết hành tinh tấn. Bồ-tát hành trừ não tinh tấn và đời nầy đời khác vui thích tinh tấn, giống như trong phẩm nhẫn đã nói.
Thế nào là Bồ-tát hành thanh tịnh tinh tấn? Lược nói có mười thứ: Một là tùy thuận. Hai là tu tập. Ba là chuyên chú. Bốn là khéo thâu giữ. Năm là thời đầy đủ. Sáu là phân biệt tướng đầy đủ. Bảy là không thối chuyển. Tám là bất hoại. Chín là bình đẳng. Mười là hồi hướng nơi đại Bồ-đề.
Bồ-tát nầy vì dứt trừ phiền não nên tùy chỗ ứng hợp, tu tập để đối trị. Như ái trói buộc thì tu quán bất tịnh, sân thì tu tâm từ, si thì quán duyên khởi. Giác quán đảo loạn thì tu niệm An ban, mạn thì tu phân biệt giới nơi phương tiện quán. Những thứ như thế gọi là tùy thuận tinh tấn.
Bồ-tát nầy không thành tựu tinh tấn của nghiệp ban đầu, nghĩa là tâm đã chấp trụ ở bậc giáo thọ giáo giới, phương tiện tu tập, phương tiện điều phục, đấy gọi là Bồ-tát tu tập tinh tấn.
Bồ-tát nầy không tu tập tinh tấn ở bậc giáo thọ giáo giới, phương tiện trụ tâm đúng là nghiệp đầu tiên, Bồ-tát nầy đối với phương tiện ấy, chuyên tinh phương tiện, thường phương tiện, đốn phương tiện, đó gọi là tinh tấn chuyên chú.
Bồ-tát nầy nhờ vào các chỗ tôn trọng, hoặc sức của đa văn nên không thọ điên đảo, tâm kia được an trụ trong phương tiện tinh tấn, đấy gọi là tinh tấn khéo thâu giữ.
Bồ-tát nầy không thọ điên đảo như thế, khi dừng nghỉ thì tu chỉ, khi động thì tu động, khi xả thì tu xả, đấy gọi là tinh tấn thời đầy đủ.
Bồ-tát nầy đối với tướng chỉ, cử, xả, trụ nơi Tam-muội khởi tướng, thường khéo quán sát, không vọng phân biệt, đấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn phân biệt tướng. Bồ-tát nầy nghe nói đệ nhất thắng diệu, đệ nhất thâm diệu không thể nghĩ bàn. Vô lượng Bồ-tát với phương tiện tinh tấn, tâm không tự khinh, cũng không khiếp nhược, không thiếu thắng tấn, sinh tưởng là đủ mà không cầu tiến lên, ấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không thoái chuyển.
Bồ-tát nầy thường giữ gìn căn môn, ăn uống biết lượng, đầu đêm cuối đêm không ham ngủ nghỉ, phương tiện tinh tấn, tâm trụ chánh trí. Như vậy những Tam-ma-bạt-đề đầy đủ tinh cần, thành tựu nghĩa tạo lợi ích chân chánh, đó gọi là Bồ-tát hành tinh tấn bất hoại.
Bồ-tát nầy tạo phương tiện tinh tấn, không nhanh không chậm, bình đẳng tu tập, tất cả phương tiện bình đẳng đốn tu, đấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn bình đẳng.
Bồ-tát nầy với tất cả phương tiện tinh tấn đã làm đều hồi hướng về Bồ-đề vô thượng, đó gọi là Bồ-tát hành tinh tấn chánh hồi hướng. Như vậy từ tự tánh tinh tấn, cho đến thanh tịnh tinh tấn, sẽ đắc quả Đại Bồ-đề. Bồ-tát nương vào tinh tấn ấy tức hành đầy đủ Tinh tấn Bala-mật, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Phẩm 13: XỨ PHƯƠNG TIỆN THIỀN
Thế nào gọi là Bồ-tát hành thiền Ba-la-mật? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh thiền. Hai là nhất thiết thiền. Ba là nan thiền. Bốn là nhất thiết môn thiền. Năm là thiện nhân thiền. Sáu là nhất thiết hành thiền. Bảy là trừ não thiền. Tám là đời nầy đời khác vui thích thiền. Chín là thanh tịnh thiền.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành tự tánh thiền? Đối với tạng Bồ-tát, nghe, suy nghĩ, trước hết hành thiện thế gian xuất thế gian, một lòng an trụ, hoặc phần chỉ, hoặc phần quán, hoặc cùng cả hai loại, hoặc đều phần, đấy gọi là tự tánh thiền.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nhất thiết thiền? Lược nói có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Tùy chỗ thích hợp, mỗi thứ đều có ba loại: Một là thiền hiện pháp lạc trụ, hai là thiền sinh ra Tam-muội công đức, ba là thiền tạo lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát hành thiền định xa lìa tất cả vọng tưởng, thân tâm dừng nghỉ, tịch diệt bậc nhất, từ cử tâm tức, lìa bỏ tham đắm nơi vị và tất cả tướng. Đấy gọi là thiền hiện pháp lạc trụ. Bồ-tát hành thiền định, sinh ra đủ các thứ Tam-muội không thể nghĩ bàn, vô lượng vô biên thuộc về chủng tánh của mười lực. Các Tam-muội kia, hết thảy hàng Thanh văn, Phật-bích-chi không biết đến tên gọi, huống gì là có thể khởi và phát sinh. Nhị thừa giải thoát, trừ nhập, nhất thiết nhập tuệ vô ngại, nguyện trí vô tránh, công đức thắng diệu. Đó gọi là thiền sinh ra Tam-muội công đức của Bồ-tát. Lợi ích cho chúng sinh có mười một thứ, như trước đã nói. Bồ-tát nương vào thiền, đối với mọi việc làm của chúng sinh, đem nghĩa lợi ích, đều cùng đồng sự để trừ các khổ. Như chỗ nên nói, biết ân báo ân, bảo vệ các sự lo sợ, các nạn buồn khổ, tất cả vì họ chỉ bày. Vật dụng sinh sống không đầy đủ thì cung cấp những thứ cần dùng, như pháp cất chứa các điều thiện có thể tùy thuận, thấy công đức thật, hoan hỷ ca ngợi, thấy người có lỗi, đem tâm từ điều phục, dùng thần lực tạo sợ hãi, hoặc khiến cho hoan hỷ, đấy gọi là lược nói nhất thiết thiền rốt ráo không gì hơn.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nan thiền? Lược nói có ba thứ. Bồ-tát quen tu tập thiền định thắng diệu từ lâu, đối với các Tam-muội tâm được tự tại, thương xót chúng sinh muốn cho họ được thành tựu, bỏ đệ nhất thiền lạc, sinh nơi dục giới. Đấy gọi là Bồ-tát hành nan thiền thứ nhất. Bồ-tát nương vào thiền, sinh ra vô lượng các Tam-muội sâu xa không thể nghĩ bàn, vượt lên tất cả Thanh văn, Phật-bích-chi. Đó gọi là Bồ-tát hành nan thiền thứ hai. Bồ-tát nương nơi thiền chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Đó gọi là Bồ-tát hành nan thiền thứ ba.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nhất thiết môn thiền? Lược nói có bốn thứ: Một là thiền có quán có giác. Hai là thiền kết hợp với hỷ. Ba là thiền kết hợp với lạc. Bốn là thiền kết hợp với xả.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành thiện nhân thiền? Lược nói có năm thứ: Một là không tham đắm vị. Hai là cùng hành với tâm từ. Ba là cùng hành với tâm bi. Bốn là cùng hành với tâm hỷ. Năm là cùng hành với tâm xả.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nhất thiết hành thiền? Đó là sáu thứ, bảy thứ, lược nói có mười ba thứ: Thiền thiện, thiền vô ký hóa hóa, thiền phần chỉ, phần quán, thiền tự lợi tha lợi, thiền chánh niệm, thiền xuất sinh lực thần thông công đức, danh duyên, nghĩa duyên, chỉ tướng duyên, cử tướng duyên, xả tướng duyên, thiền hiện pháp lạc trụ đệ nhất nghĩa, đó gọi là mười ba thứ nhất thiết hành thiền của Bồ-tát.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành trừ não thiền? Lược nói có tám thứ: Một là Bồ-tát nhập định, trừ các khổ hoạn, các độc hại, như mưa đá, sương muối, bệnh nóng, bệnh quỷ, đấy gọi là chú thuật đã dựa vào thiền. Hai là Bồ-tát nhập định, có thể trừ các bệnh từ bốn đại khởi lên, đấy gọi là trừ khổ thiền. Ba là Bồ-tát nhập định có thể khởi lên mưa cam lồ, tiêu trừ tai nạn, cứu giúp đói khát, đó gọi là vân vũ thiền. Bốn là Bồ-tát nhập định, cứu giúp các nạn sợ hãi, khiến tất cả nhân, phi nhân ở dưới nước, trên đất đều lo sợ, đấy gọi là đẳng độ thiền. Năm là Bồtát nhập định, có thể đem các thức ăn uống tạo lợi ích cho chúng sinh đói khát ở chốn đồng trống vắng, đấy gọi là lợi ích thiền. Sáu là Bồ-tát nhập định, hay đem của cải vật dụng điều phục chúng sinh, đó gọi là điều phục thiền. Bảy là Bồ-tát nhập định, biết rõ các thứ say mê ở trong mười phương, nhằm mở bày tạo giác ngộ, đấy gọi là khai giác thiền. Tám là Bồ-tát nhập định, chúng sinh làm gì thảy đều giúp cho thành tựu, đó gọi là đẳng tác thiền.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành thiền đời nầy đời khác vui thích? Lược nói có chín thứ: Một là thiền thị hiện thần túc, điều phục chúng sinh. Hai là thiền thị hiện tùy thuyết, điều phục chúng sinh. Ba là thiền biến hiện những điều răn dạy, điều phục chúng sinh. Bốn là thiền vì chúng sinh ác thị hiện cõi ác. Năm là thiền vì chúng sinh mất sự tranh luận, dùng tranh luận tạo lợi ích. Sáu là thiền vì các chúng sinh mất sự nhớ nghĩ, dùng niệm tạo lợi ích. Bảy là thiền tạo luận không điên đảo, vi diệu, tán tụng Ma-đắc-lặc-già, khiến chánh pháp trụ lâu ở đời. Tám là thiền đối với các kỹ thuật của thế gian có nghĩa tạo lợi ích thâu giữ chúng sinh, đó là thư, số, toán, kế, các phương pháp mưu sinh v.v…. Chín là thiền phóng hào quang tạm dứt các khổ nơi đường ác.
Thế nào gọi là thanh tịnh thiền của Bồ-tát? Lược nói có mười thứ: Một là thiền tịnh thế gian thanh tịnh, không vị, không nhiễm ô. Hai là thiền tịnh xuất thế gian thanh tịnh. Ba là thiền tịnh phương tiện thanh tịnh. Bốn là thiền tịnh đạt căn bản thanh tịnh. Năm là thiền tịnh căn bản thượng thắng tấn thanh tịnh. Sáu là thiền tịnh lực nhập trụ khởi thanh tịnh. Bảy là thiền tịnh lực xả lại nhập thanh tịnh. Tám là thiền tịnh lực thần thông đã tạo ra thanh tịnh. Chín là thiền tịnh lìa tất cả kiến chấp đạt thanh tịnh. Mười là thiền tịnh đoạn chướng phiền não, chướng trí đạt thanh tịnh. Bồ-tát với vô lượng thiền như vậy, được quả đại Bồ-đề. Bồ-tát nương vào đấy chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Phẩm 14: XỨ PHƯƠNG TIỆN TUỆ
Thế nào là Bồ-tát hành Bát nhã Ba-la-mật? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh tuệ. Hai là nhất thiết tuệ. Ba là nan tuệ. Bốn là nhất thiết môn tuệ. Năm là thiện nhân tuệ. Sáu là nhất thiết hành tuệ. Bảy là trừ não tuệ. Tám là đời nầy đời khác vui thích tuệ. Chín là thanh tịnh tuệ.
Thế nào là Bồ-tát hành tự tánh tuệ? Nhập tất cả cảnh giới của đối tượng nhận biết, tùy theo cảnh giới nhập rồi, như pháp mà chọn, quán duyên năm minh xứ, là nội minh, nhân minh, thanh minh, y phương minh, thế công xảo minh. Đấy gọi là tự tánh tuệ.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết tuệ? Lược nói có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Thế gian, xuất thế gian mỗi thứ đều có ba: Đối tượng nhận biết chân thật, tùy theo sự hiểu biết mà phân biệt. Hai là khéo thâu giữ năm minh xứ và ba tụ pháp. Ba là những việc tạo lợi ích cho chúng sinh, Bồ-tát dùng vô ngôn nói pháp vô ngã để hiểu rõ chân đế. Hiểu rồi, đối với thượng Bát nhã xứ tịch diệt bậc nhất, buộc niệm an trụ, lìa các vọng tưởng, diệt trừ hư giả, nhập quán bình đẳng nơi đại tổng tướng; kiến lập và hủy báng hai thứ ấy đều xa lìa, đi vào trung đạo. Đấy gọi là tuệ tùy giác phân biệt. Khéo thâu giữ năm minh xứ như trong phẩm Lực chủng tánh đã nói rộng.
Ba tụ nghĩa là pháp tụ nghĩa tạo lợi ích, là pháp tụ không phải nghĩa tạo lợi ích, là pháp tụ phi nghĩa tạo lợi ích, phi phi nghĩa tạo lợi ích.
Tám xứ như vậy, Bát nhã khéo thâu giữ, đầy đủ vô thượng đại tuệ, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Những việc làm lợi ích cho chúng sinh có mười một loại, như trước đã nói, đối với mỗi một xứ kia, trí tuệ tạo phương tiện điều phục chúng sinh.
Thế nào là nan tuệ? Lược nói có ba thứ: Biết rõ về pháp vô ngã sâu xa, đó gọi là nan tuệ thứ nhất. Tạo phương tiện để điều phục chúng sinh, đó gọi là nan tuệ thứ hai. Tất cả chỗ hiểu biết không có chướng ngại, đó gọi là nan tuệ thứ ba.
Thế nào gọi là nhất thiết môn tuệ? Lược nêu có bốn thứ: Đó là tuệ học tạng Thanh văn, tạng Bồ-tát, hành văn, tư. Bồ-tát suy nghĩ về việc làm tùy thuận, lìa các chướng ngại, tuệ thuộc về lực tư duy. Vô lượng tuệ nơi chánh định địa thuộc về lực tu tập.
Thế nào là Bồ-tát hành thiện nhân tuệ? Lược nói có năm thứ: Một là tuệ được nghe chánh pháp. Hai là tuệ kết hợp nội chánh tư duy. Ba là tuệ kết hợp phương tiện tự lợi lợi tha. Bốn là tuệ đối với các pháp, pháp tướng, pháp trụ quyết định không điên đảo. Năm là tuệ lìa phiền não. Lại có năm thứ: Một là vi tế, như nhập nơi cảnh giới của tánh kia. Hai là rộng khắp, như nhập nơi cảnh giới của tánh kia. Ba là các thứ trí tuệ vốn được cùng sinh. Bốn là chư Phật Như Lai và Bồ-tát đại địa đã thuyết giảng pháp nghĩa, đều có thể thọ trì. Năm là tuệ đạt được địa tâm tịnh cho đến thọ tuệ thuộc về địa cứu cánh.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết hành tuệ? Đó là sáu thứ, bảy thứ, lược nói có mười ba thứ: Nơi bốn chân đế là: Khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, cứu cánh tận trí, vô sinh trí, đó gọi là sáu thứ. Bảy thứ là: Pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, thần thông trí, tướng trí, mười lực phương tiện trí, bốn sự cụ túc trí.
Thế nào là Bồ-tát hành trừ não tuệ? Lược nói có tám thứ: Một là biết kinh pháp nên gọi là pháp vô ngại. Hai là biết pháp tướng nên gọi là nghĩa vô ngại. Ba là biết tên các pháp nên gọi là từ vô ngại. Bốn là biết các pháp với đủ loại cú, nghĩa, nên gọi là lạc thuyết vô ngại. Năm là trí hàng phục tất cả dị luận. Sáu là trí kiến lập tất cả chánh luận. Bảy là trí có thể tu sửasản nghiệp, tăng trưởng tiền tài. Tám là trí khéo hiểu biết về vương pháp, quyết đoán việc đời.
Thế nào là Bồ-tát hành tuệ đời nầy đời khác đều vui thích? Lược nói có chín thứ: Với nội minh xứ, trí khéo kiến lập thanh tịnh. Trí đối với nhân minh, thanh minh, y phương minh, thế công xảo minh, nội minh, đều khéo kiến lập thanh tịnh. Như vậy Bồ-tát khéo nương vào năm minh thanh tịnh để điều phục chúng sinh ngu si, buông thả, biếng nhác, khiến họ thuận nơi nẻo chánh. Theo thứ tự của những điều kia, chỉ dạy rõ ràng, soi sáng, hoan hỷ.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành thanh tịnh tuệ? Lược nói có mười thứ: Nghĩa chân thật có hai thứ, cho đến nghĩa tánh như, tánh chân thật. Nghĩa thâu nhận lưu chuyển có hai thứ, là chánh nhân và quả. Nghĩa thâu nhận giữ lấy có hai thứ, là điên đảo, không điên đảo, đều nhận biết như thật. Nghĩa phương tiện có hai thứ, là tất cả nên làm, không nên làm, đều nhận biết như thật. Nghĩa cứu cánh có hai thứ: cấu uế và thanh tịnh, đều nhận biết như thật. Như thế với năm loại gồm mười thứ, phân biệt tuệ tịnh, nên biết là thanh tịnh thứ nhất. Bồ-tát như thế khéo quyết định nơi tuệ vô thượng, đắc quả Đại Bồ-đề. Bồ-tát nương vào đấy, hành đầy đủ Bát nhã Ba-la-mật, chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Sáu thứ Ba-la-mật nầy, khắp trong các kinh Đức Thế Tôn luôn phân biệt giảng nói. Tôi nay lược nói, nên tạo sự phân biệt nầy: Trong kinh Đức Như Lai đã nói Bố thí Ba-la-mật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật, phân biệt từ Tự tánh bố thí Ba-la-mật cho đến Thanh tịnh bố thí Ba-la-mật gồm thâu, tùy theo chỗ thích ứng với pháp kia. Như vậy, Giới Ba-la-mật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật gồm thâu, tùy theo chỗ thích ứng với pháp kia, nên biết cũng như vậy. Khi Như Lai còn làm Bồ-tát, ở trong vô lượng đời luôn tương ưng khổ hạnh, tất cả bố thí Ba-la-mật đều tương ưng, nên biết cho đến Trí Tuệ Ba-la-mật tương ưng, hoặc là một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc cả sáu Ba-la-mật. Nên biết sáu Ba-la-mật nầy phát khởi Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, Bồ-tát với pháp đại thanh tịnh như biển lớn trong sạch, nhân của hết thảy chủng loại chánh pháp hết thảy chúng sinh là châu báu vô cùng quý giá. như vậy với vô lượng các thứ công đức trí tuệ đầy đủ, sẽ chứng đắc quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, rốt ráo không gì hơn.