KINH BỒ TÁT ĐỊA TRÌ

SỐ 1581

QUYỂN 03

Tác giả: Tối Thắng Tử Đẳng tạo.
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Phẩm 6: XỨ PHƯƠNG TIỆN THÀNH THỤC

Thế nào gọi là thành thục? Lược nói có sáu thứ: Một là tự tánh thành thục. Hai là người thành thục. Ba là chủng phân biệt thành thục. Bốn là phương tiện thành thục. Năm là chúng sinh thành thục. Sáu là nhân tướng thành thục.

– Tự tánh thành thục, nghĩa là có chủng tử của pháp thiện, tu tập pháp thiện, tùy thuận hai chướng, có lực thanh tịnh giải thoát thân tâm, phương tiện chân thật, đầy đủ rốt ráo. Có Phật hay không có Phật, đều có khả năng lần lượt đoạn trừ chướng phiền não và chướng trí tuệ. Như ung nhọt lớn đã chín muồi, đến lúc phải vỡ, đấy gọi là thục. Lại như bình gốm, khi được đem dùng, gọi là thục. Như quả Yêm-la… vào lúc dùng được gọi là thục. Như thế, Bồ-tát tu tập pháp thiện, phương tiện chân thật, đầy đủ rốt ráo, theo thứ lớp có thể gánh vác, lìa chướng đạt thanh tịnh, đấy gọi là tự tánh thành thục.

– Người thành thục, lược nói có bốn thứ: Có chủng tánh Thanh văn, do Thanh văn thừa mà thành thục. Có chủng tánh Duyên giác, do Duyên giác thừa mà thành thục. Có chủng tánh Phật, do Đại thừa vô thượng mà thành thục. Người không có chủng tánh thì từ nẻo thiện mà thành thục. Như thế, bốn loại người, chư Phật, Bồ-tát dùng bốn pháp mà thành thục.

– Chủng phân biệt thành thục, lược nói có sáu thứ: Một là các căn thành thục. Hai là thiện căn thành thục. Ba là trí tuệ thành thục. Bốn là hạ thành thục. Năm là trung thành thục. Sáu là thượng thành thục.

Các căn thành thục nghĩa là tuổi thọ đầy đủ, sắc đầy đủ, dòng họ đầy đủ, tự tại đầy đủ, tín ngôn đầy đủ, lực lớn đầy đủ, người đầy đủ, sức đầy đủ, thân được quả báo có khả năng nhận lấy phương tiện dũng mãnh, tinh tấn, tâm không mệt, không chán, đối với tất cả “minh xứ” đều là phương tiện tu học.

Thiện căn thành thục là tánh ít phiền não, không khởi pháp ác, ấm, cái nhỏ mỏng, tính chất ngay thẳng tùy thuận.

Trí tuệ thành thục là “Minh tuệ” đầy đủ, nói thiện nói ác đều có thể giảng giải nghĩa lý, thọ trì phân biệt, sinh trí thành tựu, có thể rốt ráo lìa các phiền não. Các căn thành thục giải thoát chướng báo. Thiện căn thành thục giải thoát chướng nghiệp. Trí tuệ thành thục giải thoát chướng phiền não.

Hạ thành thục có hai nhân duyên: Một là nhân duyên để tu tập các căn, thiện căn, trí tuệ không lâu. Hai là nhân tu tập thấp.

Trung thành thục thì ở giữa hai nhân duyên nầy, một thù thắng, một thấp kém.

Thượng thành thục phải biết đều là thù thắng.

– Phương tiện thành thục có hai mươi bảy thứ: Một là giới sung mãn. Hai là hiện duyên tạo lợi ích. Ba là độ. Bốn là ái lạc nhiếp thọ. Năm là sơ xứ. Sáu là phi sơ xứ. Bảy là viễn tịnh. Tám là cận tịnh. Chín là phương tiện. Mười là tâm tịnh. Mười một là tài thí. Mười hai là pháp thí. Mười ba là thần túc. Mười bốn là thuyết pháp. Mười lăm là ẩn phú thuyết pháp. Mười sáu là hiển hiện thuyết pháp. Mười bảy là hạ phương tiện. Mười tám là trung phương tiện. Mười chín là thượng phương tiện. Hai mươi là văn. Hai mươi mốt là tư. Hai mươi hai là tu. Hai mươi ba là nhiếp thủ. Hai mươi bốn là phục thủ. Hai mươi lăm là tự tác. Hai mươi sáu là thỉnh tha tác. Hai mươi bảy là câu tác.

Giới sung mãn nghĩa là chủng tử của pháp thiện sinh trưởng đầy đủ, nương theo sự tu tập trước, chủng tử của pháp thiện xoay chuyển nương nhau, tăng trưởng đầy đủ, đó gọi là giới sung mãn.

Hiện duyên tạo lợi ích nghĩa là ở trong đời hiện tại, thuyết pháp không trái nghịch, thọ trì không trái nghịch, khéo tùy thuận pháp, pháp lần lượt hướng đến giới sung mãn, do nhân căn bản, nên hiện tại thành thục, duyên hiện tại tạo lợi ích, nhân đời hiện tại thành thục hiện tại.

Độ nghĩa là gần gũi bạn tốt, tín tâm được sinh, tín tăng thêm rồi xa lìa hạnh xấu nơi nhà, thọ trì giới cấm, , không nhà xuất gia thọ giới lìa dục.

Ái lạc nhiếp thọ nghĩa là bước ra khỏi khổ nẻo dục lạc, khổ hạnh, cả hai đều xa lìa, tu hành nẻo vui, rất ưa pháp Phật.

Sơ xứ là do đầu tiên chán pháp, tu hạnh chán lìa, biết nghĩa thù thắng vi diệu, đạt đến công đức lợi ích.

Phi sơ xứ nghĩa là đã độ thành thục, ở đời hiện tại, gần gũi không xa lìa chư Phật, Bồ-tát, tăng trưởng trú xứ, dần dần tiến lên, chuyển thành thù thắng thành thục.

Viễn tịnh nghĩa là khởi tâm biếng nhác, xa duyên tu hành, lưu chuyển trong sinh tử, trải qua nhiều kiếp số; có thể đảm nhiệm sự thanh tịnh cùng với các thứ kia trái nhau, gọi là cận.

Phương tiện tịnh nghĩa là được các nghĩa thiện, vui vẻ vâng làm, chán sợ đời sau với các khổ trong đường ác, ở trong đời nầy, sợ danh xưng xấu ác, thọ trì giới cấm thường hành hạnh mau chóng (đốn pháp).

Tâm tịnh nghĩa là chánh quán các pháp lần lượt gắng nhẫn, đối với chánh pháp không thể hủy hoại, còn khiến cho chúng sinh tu tập chánh pháp, ở trong Tam bảo được nghĩa thiện hơn hết, tín tâm không động.

Tài thí nghĩa là tùy theo những kẻ kia cần gì, các vật y phục, ẩm thực v.v…, tất cả đều bố thí.

Pháp thí là đối với người muốn lãnh thọ giáo pháp thì liền trao cho giáo pháp, người ưa thọ nghĩa, vì họ giảng nói chánh nghĩa.

Thần túc nghĩa là vì thương xót chúng sinh nên dùng thần lực thị hiện, khiến những kẻ kia được tin vui, tín đã tăng lên, tu phương tiện thanh tịnh, các chúng sinh ấy, hoặc thấy hoặc nghe về đại thần biến rồi, ở trong chánh pháp sẽ được tâm thanh tịnh, tu phương tiện thiện.

Thuyết pháp nghĩa là mình khéo hiểu nghĩa, lại có thể vì người mà giảng nói, mình và chúng sinh đều cùng hướng về chánh đạo, đại trí mau thành, sẽ tùy thuận thuyết pháp.

Ẩn phú thuyết pháp nghĩa là đối với chúng sinh trí thấp, che giấu nghĩa sâu xa, vì họ nói pháp thô cho dễ thực hành.

Hiển hiện thuyết pháp nghĩa là với chúng sinh có trí tuệ thâm nhập pháp Phật, sẽ vì họ mà giảng nói chỗ sâu xa vi diệu.

Hạ phương tiện nghĩa là phương tiện không thường, phương tiện không nhanh chóng.

Trung phương tiện nghĩa là hoặc phương tiện thường hoặc phương tiện nhanh, hành một xả một, không thể đầy đủ.

Thượng phương tiện là phương tiện đầy đủ cả hai.

Văn là nghe hiểu các loại kinh pháp của Đức Phật đã thuyết giảng như Tu-đa-la… thọ trì đọc tụng, hành phương tiện tinh cần.

Tư nghĩa là ở chỗ yên vắng, tư duy các pháp, khai tỏ hiểu thông thấu đạt quyết định về pháp tướng.

Tu nghĩa là chỉ, cử, xả. Trước hành chỉ quán rất vui thích, tu tập chỉ quán xả tâm.

Nhiếp thủ là nương dựa vào tâm không tham, tu hành bố thí. Chăm sóc các Hòa thượng, các thầy bệnh tật, cúng dường đầy đủ các thứ như y phục, thức ăn uống, thuốc thang. Nếu có lo lắng hối hận và các phiền não, có thể vì họ giải bày. Tu những thứ như vậy là như pháp cúng dường.

Phục thủ là tâm tư duy chân chính, tự mình ngăn giữ phiền não, thấy các chúng sinh khác, hoặc có kẻ phạm lỗi, phạm bậc hạ thì quở trách, phạm bậc trung thì trị phạt, phạm bậc thượng thì đuổi đi. Quở trách và trị phạt là vì sự an lạc cho kẻ ấy và chúng sinh khác. Nếu đuổi đi, trở lại thì thuận cho sám hối, kẻ ấy vừa được an lạc, vừa lợi ích cả cho người khác. Nếu kẻ đó không trở lại sám hối, thì cũng tạo an lạc cho người khác, nghĩa là người khác thấy kẻ đó phạm tội bị đuổi đi, nhân đấy tự mình phải giữ gìn.

Tự tác nghĩa là tự mình như pháp mà trú, tùy thuận thuyết pháp, khiến chúng sinh khác ra khỏi xứ bất thiện an lập nơi xứ thiện. Nếu không như pháp trụ thì mọi người sẽ nói: Ông nay làm sao dạy trao người khác phát khởi cùng suy niệm, người khác lẽ ra nên dạy bảo ông phát khởi và suy niệm.

Thỉnh tha nghĩa là khéo dùng phương tiện thiện xảo thuyết pháp, đại chúng nhận biết tăng thêm kính mến, sẽ khuyến thỉnh thuyết pháp để thành thục chúng sinh.

Câu tác nghĩa là tự làm và khuyến thỉnh người khác, cả hai đều thành thục. Đấy là hai mươi bảy thứ phương tiện thành thục. Sáu loại thành thục kia đã phân biệt đầy đủ, đó là các căn thành thục, thiện căn thành thục, trí tuệ thành thục, hạ, trung, thượng thành thục.Chúng sinh thành thục nếu lược nói có sáu thứ: Nghĩa là Bồ-tát trú trong sáu địa, thành thục chúng sinh. Trú ở địa hành giải Bồ-tát hành giải hành. Trú nơi địa tâm tịnh Bồ-tát hành tâm tịnh. Trú nơi địa hành đạo tích Bồ-tát hành đạo tích. Trú nơi địa quyết định Bồ-tát hành quyết định. Trú nơi địa quyết định hành Bồ-tát hành hạnh quyết định. Trú nơi địa cứu cánh Bồ-tát hành cứu cánh. Đối với chúng sinh không có chủng tánh, thì từ nẻo thiện thành thục, thường có tiến, có lùi. Với chúng sinh có chủng tánh, khiến được thành thục, không có thối mất, thường thường tiến thêm.

– Nhân tướng thành thục là pháp tu tập căn bản của Thanh văn.

Trú hạ thành thục là dục hạ, phương tiện hạ, chưa xa lìa nẻo ác, đối với pháp hiện tại, không đắc quả Sa-môn, đối với pháp hiện tại không đắc Niết-bàn.

Trú trung thành thục nghĩa là dục trung, phương tiện trung, không rơi vào cõi ác, ở trong pháp hiện tại, đắc quả Sa-môn, không đắc Niếtbàn.

Trú thượng thành thục nghĩa là dục thượng, phương tiện thượng, không rơi vào cõi ác, ở trong pháp hiện tại đắc quả Sa-môn và Niết-bàn, thành Phật-bích-chi, giống như Thanh văn. Vì sao? Đạo đồng Thanh văn, nhưng hơn Thanh văn, nghĩa là thân sau cùng không thầy mà tự giác ngộ.

Lực tu tập căn bản là tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đoạn trừ tất cả kiết, chứng đắc A-la-hán, vì thế gọi là Duyên giác.

Lại nữa, Bồ-tát trú ở địa giải hành, phải biết là hạ thành thục, địa tâm tịnh là trung thành thục, địa quyết định cứu cánh là thượng thành thục. Bồ-tát trú hạ thành thục, dục hạ, phương tiện hạ, chưa lìa cõi ác, phải biết đó là A-tăng-kỳ thứ nhất đã mãn, hiển bày bất động, lạc tịnh, đạo phẩm đều không thành thục. Bồ-tát trú trung thành thục thì dục trung, phương tiện trung, không rơi vào cõi ác, đó là A-tăng-kỳ thứ hai đã mãn, sáng rõ bất động, đạo phẩm thành tựu, lạc tịnh không thành tựu. Bồ-tát trú thượng thành thục, dục thượng, phương tiện thượng, không rơi vào cõi ác, A-tăng-kỳ thứ ba đã mãn, hiển bày bất động, lạc tịnh, đạo phẩm, tất cả đều thành tựu, tánh kia thuần hậu, đầy đủ hiển nhiên. Tăng thêm quả diệu, tăng thêm phước lợi, nên gọi là hiển nhiên. Không trở lại, không thối lui, tiến lên vững chắc, nên gọi là bất động. Ở địa Bồ-tát thanh tịnh không gì hơn nên gọi là lạc tịnh.

Với tài thí thành thục, thần túc thành thục, ẩn phú thuyết pháp thành thục, hạ phương tiện thành thục, văn tuệ thành thục, năm thứ thành thục nầy, tu tập dài lâu vẫn còn là bậc hạ, huống chi lại là tu tập ngắn hạn. Ngoài ra, tất cả sự thành thục mỗi mỗi đều nói có ba loại: là hạ hạ, hạ trung, hạ thượng. Trung hạ, trung trung, trung thượng. Thượng hạ, thượng trung và thượng thượng. Như thế, phân biệt về thượng trung hạ thì có vô lượng thành thục. Phải biết chư Phật, Bồ-tát thành thục chúng sinh, Bồ-tát đối với sự thành thục nầy, như đã nói là tự thành thục pháp Phật, các căn thành thục, thiện căn thành thục, trí tuệ thành thục, hạnh hạ trung thượng thành thục, là dùng pháp Tam thừa để thành thục chúng sinh.

Phẩm 7: XỨ PHƯƠNG TIỆN BỒ ĐỀ VÔ THƯỢNG

Thế nào là Bồ-đề? Lược nói có hai thứ đoạn và hai thứ trí, đó gọi là Bồ-đề. Hai thứ đoạn nghĩa là đoạn chướng phiền não và đoạn chướng trí. Hai thứ trí nghĩa là trí đoạn chướng phiền não, lìa cấu đạt thanh tịnh, tất cả phiền não không còn tương tục và trí đoạn chướng trí, tất cả đối tượng được hiểu biết không chướng ngại.

Lại nữa, trí thanh tịnh, Nhất thiết trí, trí vô ngại, diệt tất cả tập khí phiền não, thanh tịnh sáng suốt, đọan dứt rốt ráo, đấy gọi là Bồ-đề vô thượng. Trí đoạn trừ rốt ráo tất cả tập khí phiền não, gọi là trí thanh tịnh. Trí đối với tất cả giới, tất cả sự, tất cả chủng, tất cả thời, đều không ngại, đó gọi là Nhất thiết trí.

Giới có hai thứ là thế giới và giới chúng sinh. Sự có hai thứ là hữu vi và vô vi. Như thế sự hữu vi, vô vi có vô lượng thứ phân biệt: Phân biệt tự tướng sai biệt, phân biệt tổng tướng sai biệt, phân biệt nhân quả, phân biệt giới, phân biệt nẻo, cõi, phân biệt thiện, bất thiện, vô ký. Thời tức có ba thời: Thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Như vậy, biết tất cả giới, tất cả sự, tất cả chủng loại, tất cả thời, đấy gọi là Nhất thiết trí.

Không nhờ phương tiện, phát tâm liền biết, đối với tất cả pháp, hiểu rõ không ngăn ngại, đấy gọi là trí vô ngại.

Lại nữa, một trăm bốn mươi pháp bất cộng và trí vô tránh, nguyện trí, vô ngại biện của Như Lai, đấy gọi là Bồ-đề vô thượng. Một trăm bốn mươi pháp bất cộng của Phật là ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp theo hình, bốn trí vô ngại, nhất thiết chủng thanh tịnh, mười lực, bốn vô úy, ba niệm xứ, ba bất hộ, đại bi, pháp không quên, đoạn trừ các tập, nhất thiết chủng diệu trí. Các pháp Phật nầy, trong phẩm An lập sẽ nói rộng.

Bồ-đề vô thượng là đầy đủ bảy vô thượng, đối với tất cả Bồ-đề là tối cao vô thượng. Thế nào là bảy vô thượng? Một là thân vô thượng. Hai là đạo vô thượng. Ba là chánh vô thượng. Bốn là trí vô thượng. Năm là thần lực vô thượng. Sáu là đoạn vô thượng. Bảy là trụ vô thượng. Như Lai có ba mươi hai tướng trang nghiêm thân Ngài, gọi là thân vô thượng. Như Lai tự độ, độ người, cứu độ rất nhiều, thương xót thế gian, đem lợi ích an lạc cho chư Thiên và người đời, đó gọi là đạo vô thượng. Như Lai là bậc vô thượng, vô đẳng, thành tựu bốn chánh chân: chánh giới, chánh kiến, chánh oai nghi và chánh mạng, đó gọi là chánh vô thượng. Như Lai là bậc vô thượng, vô đẳng, thành tựu bốn trí vô ngại: Pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và lạc thuyết vô ngại, đó gọi là trí vô thượng. Như Lai là bậc Vô thượng, Vô đẳng, thành tựu sáu thần thông, như trước đã nói, đó gọi là thần lực vô thượng. Như Lai là bậc Vô thượng, Vô đẳng, thành tựu hai đoạn là đoạn tất cả phiền não tập khí và đoạn chướng trí, đó gọi là đoạn vô thượng. Như Lai là bậc Vô thượng, Vô đẳng, với ba chủng trụ, trụ nhiều trong đó là Thánh trụ, Thiên trụ, Phạm trụ, đó gọi là trụ vô thượng. Chánh thọ Không, Vô tướng, Vô nguyện, Diệt tận, gọi là Thánh trụ. Bốn thiền, bốn định vô sắc, gọi là Thiên trụ. Bốn tâm vô lượng gọi là Phạm trụ. Như Lai trụ trong Thiên trụ, Như Lai trụ trong bốn pháp Thánh trụ, trụ trong Tam-muội Không và định Diệt tận. Trong Thiên trụ thì trụ nơi thiền thứ tư, trong Phạm trụ thì trụ nơi đại bi. Vì thế Như Lai ngày đêm sáu thời thường dùng Phật nhãn quán sát thế gian, người nào nên độ, chưa khởi thiện căn, thì Như Lai sẽ khiến khởi, cho đến người nào đáng đắc quả vô thượng, Như Lai sẽ kiến lập, đó gọi là trụ vô thượng. Thân vô thượng gọi là đại trượng phu. Đạo vô thượng gọi là đại bi. Chánh vô thượng gọi là đại giới, đại pháp. Trí vô thượng gọi là đại tuệ. Lực vô thượng gọi là đại thần thông. Đoạn vô thượng gọi là đại giải thoát. Trụ vô thượng gọi là đại trụ, đa trụ.

Lại nữa, Như Lai có mười thứ danh xưng công đức, tùy niệm công đức. Những gì là mười? Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Bà-già-bà. Chẳng phải chẳng như thuyết nên gọi là Như Lai. Do được tất cả nghĩa, phước điền vô thượng, nên được cúng dường, đấy gọi là Ứng. Như hiển bày đệ nhất nghĩa, nên gọi là Đẳng Chánh Giác. Ba minh, như Khế kinh đã nói. Hành là chỉ quán đầy đủ, nên gọi là Minh Hành Túc. Đệ nhất tiến lên, vĩnh viễn không còn trở lại gọi là Thiện Thệ. Biết thế giới, giới chúng sinh, tất cả loại phiền não và thanh tịnh, gọi là Thế Gian Giải. Đệ nhất điều phục tâm, trí phương tiện thiện xảo, tất cả thế gian chỉ có một trượng phu, gọi là Vô Thượng Điều Ngự Sĩ. Bốn thứ trí chân thật là nghĩa pháp chân thật, chỉ rõ về bất liễu nghĩa, nương nhất thiết nghĩa, tuyên thuyết rộng rãi, đoạn trừ hết thảy nghi, hiển bày chốn thâm diệu thanh bạch, là gốc của các pháp, chỉ dẫn tất cả các pháp, vì xả tất cả, thoát hết thảy khổ, là vị thầy diễn nói nghĩa pháp, thích đáng cho nhân thiên, đấy gọi là Thiên Nhân Sư. Tụ nghĩa lợi ích, tụ phi nghĩa lợi ích, tụ phi nghĩa phi phi nghĩa lợi ích, đầy đủ tất cả chủng loại bình đẳng hiển bày, đấy gọi là Phật. (Ba tụ nầy là thiện, bất thiện, vô ký). Phá trừ tất cả lực ma, gọi là Bà-già-bà. Hoặc trong vô lượng kiếp không có một Đức Phật xuất thế. Hoặc trong một kiếp có nhiều Đức Phật ra đời. Nơi mười phương vô lượng thế giới, có vô lượng vô biên A-tăng-kỳ Đức Phật xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì nơi mười phương thế giới có vô lượng Bồ-tát, đều phát đại nguyện. Nếu một Bồtát, ngày như thế, phần như thế, tháng như thế, năm như thế phát tâm Bồ-đề, tất cả Bồ-tát cũng lại như vậy. Tức ở trong ngày nầy, phần nầy, tháng nầy, năm nầy phát tâm Bồ-đề, đồng một oai nghi, đồng một khả năng, đồng một phương tiện, tất cả Bồ-tát cũng lại như vậy. Một thế giới có vô lượng Bồ-tát, đồng nguyện, đồng thí, đồng giới, đồng nhẫn, đồng tinh tấn, đồng thiền định, đồng trí tuệ, huống gì là mười phương vô lượng thế giới, mỗi một thế giới có vô lượng vô số Bồ-tát. Không có hai Bồ-tát đồng nguyện, đồng hành, ở một quốc độ đồng một lúc thành Phật, huống chi là vô lượng đồng một lúc đều thành. Lại nữa, hết thảy Bồ-tát nhất thời đồng hành lần lượt thành Phật, thì đây cũng không đúng, cũng không phải một vị thành, còn lại đều không thành. Vì thế nên mười phương vô lượng thế giới, tùy vào chỗ tịnh “không”, nơi không có Phật, thì Bồ-tát đồng hành mỗi một thành Phật, vì thế nên vô lượng thế giới có vô lượng Phật.

Không một thế giới có hai Đức Phật xuất hiện. Vì sao? Vì Bồ-tát nơi đêm dài sinh tử khởi nguyện và phương tiện như vầy: Ta nên ở chỗ không có pháp Phật, nói rộng chánh pháp, điều phục chúng sinh, giúp họ thoát các khổ, nhập nơi Niết-bàn, đêm dài sinh tử như vậy, nuôi dưỡng đại nguyện lớn dần, thâu nhận chánh đạo, quả đại nguyện thành. Vả lại, một Như Lai có thể ở trong tam thiên đại thiên quốc độ làm được tất cả Phật sự, nếu Đức Phật thứ hai ra đời cũng không lợi ích gì. Lại nữa, trong một thế giới, một Đức Phật ra đời, có thể khiến chúng sinh tự sự tùy thuận quyết định siêng năng tu tập. Vì sao? Vì chúng sinh khởi niệm, tất cả thế giới chỉ có một Như Lai, giáo hóa khắp rồi sẽ nhập Niết-bàn. Lại không có Phật, có thể khiến chúng ta tu hành phạm hạnh, nghe nhận chánh pháp. Nghĩ rồi nhanh chóng thực hành, thuần tu tinh tấn, hành trì phạm hạnh, nghe nhận chánh pháp. Nếu nhiều Đức Phật thì không nhanh chóng siêng năng tu hành, vì thế nên nói trong một thế giới chỉ có một Như Lai, chúng sinh sẽ tự quyết định siêng tu.

Tất cả Như Lai đều bình đẳng không sai khác, chỉ trừ bốn việc: Một là thọ mạng. Hai là danh xưng. Ba là chủng tánh. Bốn là sắc thân. Chỉ có bốn việc nầy là có tướng sai khác, không có công đức nào khác, cũng không có nữ nhân đắc Bồ-đề vô thượng. Vì sao? Vì Bồ-tát ở trong A-tăng-kỳ kiếp đầu đã xả thân nữ, cho đến ngồi nơi gốc cây Bồ-đề không thọ thân nữ. Vì tất cả người nữ tánh nhiều phiền não, gây tạo trí ác, không thể do phiền não trí ác mà có thể chứng đắc Bồ-đề vô thượng.

Như vậy, Bồ-đề vô thượng có vô lượng nghĩa, nêu tóm tắt thì gồm có: Nghĩa tự tánh, nghĩa vô thượng, nghĩa danh xưng công đức, nghĩa tùy niệm công đức, nghĩa kham năng, nghĩa tối thắng, thảy đều như trên đã nói, nên biết đều là chân thật.

Lại nữa, bất tư nghì vượt qua các tư nghì, vô lượng vô biên công đức đầy đủ, vượt quá lên trên tất cả Thanh văn, Phật-bích-chi, nên gọi là Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, là tối thắng đệ nhất, không gì sánh kịp, không gì cao hơn.

Phẩm 8: XỨ PHƯƠNG TIỆN LỰC CHỦNG TÁNH

Đã nói về học xứ của Bồ-tát, nay sẽ nói về Bồ-tát học. Như vậy Bồ-tát muốn học tốt Bồ-tát học phải có bảy việc: Một là tu nhiều tin hiểu. Hai là cầu pháp. Ba là thuyết pháp. Bốn là pháp tiếp pháp hướng. Năm là chánh giáo thọ. Sáu là giáo giới. Bảy là thâu giữ phương tiện nơi thân, khẩu, ý nghiệp.

Thế nào là Bồ-tát tu nhiều tin hiểu? Bồ-tát, trong tám thứ xứ giải, tịnh tín đứng đầu, nhất tâm quyết định việc ưa muốn thành tựu, là công đức Tam bảo: Công đức của Phật, Pháp, Tăng. Chư Phật, Bồ-tát thần lực tự tại, là nghĩa chân thật, là nghĩa vô số nhân, nghĩa vô số quả, tùy thuận tương ưng mà không điên đảo. Đắc nghĩa, đắc phương tiện, có khả năng nhận đắc. Có đắc phương tiện thì có thể thủ đắc nghĩa. Đắc nghĩa tức là Bồ-đề vô thượng. Đắc phương tiện tức là tất cả đạo lý Bồtát đã tu học. Đó là tin hiểu, khéo giảng nói. Tức là Tu-đa-la, Kỳ dạ, Thọ ký v.v… nơi vô lượng ngôn giáo, khéo giảng nói vi diệu, Bồ-tát đối với tám thứ xứ giải nầy, có hai loại giải lực: Một là tu nhiều giải hành. Hai là vui hành nhẫn sâu.

Bồ-tát cầu pháp, cầu pháp nào? Cầu như thế nào? Vì sao cầu? Cầu pháp nào, tức nếu lược nói là cầu tạng Bồ-tát, cầu tạng Thanh văn, ngoại luận, thế gian công nghiệp xứ trí. Mười hai bộ kinh, chỉ có một bộ Phương Quảng là tạng Bồ-tát, mười một bộ còn lại là tạng Thanh văn. Ngoại luận lược nói có ba thứ: Nhân luận, Thanh luận và Y phương luận. Thế gian công nghiệp xứ trí nghĩa là các thứ sự nghiệp, như các thợ vàng, thợ bạc… và các thứ khác thuộc về minh xứ. Minh xứ có năm thứ: Một là nội minh xứ. Hai là nhân minh xứ. Ba là thanh minh xứ. Bốn là y phương minh xứ. Năm là công nghiệp minh xứ. Năm thứ minh xứ nầy Bồ-tát đều cầu học. Những lời Phật dạy gọi là Nội luận, lược nói có hai loại: Một là hiển bày chánh nhân quả. Hai là hiển bày điều đã làm không hoại, không tạo tác, không thọ nhận. Nhân luận cũng có hai loại: Một là có thể hàng phục luận của người. Hai là tự diễn rộng nghĩa của mình. Thanh luận có hai thứ: Một là hiển bày giới sắc. Hai là hiển bày ngôn từ thiện xảo. Y phương luận có bốn thứ: Một là hiển bày khéo biết bệnh. Hai là hiển bày nguyên nhân của bệnh. Ba là hiển bày có thể dứt trừ bệnh đã khởi. Bốn là hiển bày bệnh đã dứt trừ rồi khiến không khởi lại.

Thế gian công nghiệp xứ trí nghĩa là hiển bày các sự nghiệp thế gian đã thành tựu.

Thế nào là Phật giảng thuyết? Là nhân không điên đảo có mười thứ, nên biết là gồm thâu tất cả các nhân, tất cả phiền não, tất cả thanh tịnh, tất cả vô ký. Những gì là mười? Một là nhân tùy thuyết. Hai là nhân dĩ hữu. Ba là nhân chủng thực. Bốn là nhân nhiếp. Năm là nhân sinh. Sáu là nhân trưởng. Bảy là nhân tự chủng. Tám là nhân cộng sự. Chín là nhân tương vi. Mười là nhân bất tương vi. Tất cả danh pháp nầy, có danh rồi tưởng, tưởng rồi nói. Danh, tưởng ngôn thuyết của các pháp nầy, gọi là nhân tùy thuyết. Do có sự cho nên có tạo tác, đấy gọi là nhân dĩ hữu. Do có tay cho nên có làm, do có chân cho nên có dạo đi, do có thân cho nên có co, duỗi, do có đói khát cho nên có tìm cầu đồ ăn uống, những thứ như vậy vô lượng vô biên gọi là nhân dĩ hữu. Trồng các hạt giống, gọi là nhân chủng thực. Đất nước thấm nhuần gọi là nhân nhiếp. Mầm ở trong hạt gọi là nhân sinh. Mầm cành tiếp nối cho đến thành thục gọi là nhân trưởng. Vô số các hạt giống mỗi mỗi tự sinh, gọi là nhân tự chủng. Sáu nhân: nhân dĩ hữu, nhân chủng thực, nhân nhiếp, nhân sinh, nhân trưởng, nhân tự chủng, gọi chung là nhân cộng sự. Chướng ngại sự sinh gọi là nhân tương vi. Không chướng ngại gọi là nhân bất tương vi. Tương vi có sáu thứ:

Một là ngữ tương vi, nghĩa là Sa-môn, Bà-la-môn nói kinh luận, trước sau trái nhau.

Hai là sở ưng tương vi, nghĩa là nói tất cả nghĩa và lý trái nhau.

Ba là sinh tương vi, nghĩa là sinh duyên không đầy đủ, chướng ngại sự sinh khởi.

Bốn là xứ tương vi, nghĩa là các pháp như sáng, tối, thương, giận, khổ, vui.

Năm là oán tương vi, nghĩa là các loài rắn độc, chuột, chó sói, mèo, những loài thú ấy đều là oán hại.

Sáu là đối trị tương vi, nghĩa là tu quán bất tịnh để đối trị tham dục, tu từ để chấm dứt sân giận, tu tâm bi để đình chỉ giác hại, tu đạo phẩm vô lậu để đoạn vĩnh viễn phiền não. Trong đây, dùng sinh tương vi để nêu bày. Các nhân nầy thuộc về hai nhân: Một là nhân sinh. Hai là nhân phương tiện. Gieo trồng các chủng tử sinh gọi là nhân sinh, các nhân khác gọi là nhân phương tiện.

Lại có bốn duyên: Duyên nhân, duyên thứ đệ, duyên duyên và duyên tăng thượng. Nhân sinh là duyên nhân. Nhân phương tiện là duyên tăng thượng. Duyên thứ đệ và Duyên duyên là tâm, tâm số pháp. Nghĩa là tâm, tâm số pháp sinh trước, khai mở dẫn dắt thâu nhận duyên, thâu nhận sinh. Thế nên, hai duyên thâu giữ những gì thuộc về nhân.

Vì sao mười nhân nầy sinh khởi tất cả sự của thế gian? Vì sao sinh tất cả phiền não? Vì sao sinh tất cả thanh tịnh? Như các loại lương thực, thế gian thường dựa vào mà sống; các danh, tưởng, ngôn thuyết, như gọi lúa nếp, lúa tắc, lúa nếp hương, lúa gạo, mè, đậu, lúa mì. Đấy gọi là nhân tùy thuyết. Như đại mạch hoặc đem đến, hoặc mang đi, hoặc lấy, hoặc cho, vô số những thứ ngôn thuyết như vậy, ngoài ra tất cả cũng như thế. Do có thân đói khát, gầy ốm nên cầu tìm thức ăn uống, những thứ như vậy gọi là nhân dĩ hữu. Như gieo trồng các hạt giống, mỗi một đều tự sinh, là bắt đầu gieo trồng chủng tử, gọi là nhân chủng thực. Đất nước thấm nhuần khiến mầm được sinh, đó gọi là nhân nhiếp. Mầm mọc nơi hạt giống gọi là nhân sinh. Lại nữa, mầm lá cành thân cây lần lượt nối tiếp nhau cho đến thành thục, đó gọi là nhân trưởng. Như hạt giống lúa mì thì sinh mầm lúa mì chứ không phải loại khác, ngoài ra cũng như thế, đấy gọi là nhân tự chủng. Từ nhân dĩ hữu cho đến nhân tự chủng, đều gọi là nhân cộng sự, vì tất cả hòa hợp mà sinh nên gọi là nhân cộng sự. Sương, mưa đá, tai họa, chướng ngại phá hoại gọi là nhân tương vi, những cái kia không đầy đủ, không chướng ngại, gọi là nhân bất tương vi. Ngoài ra, tất cả việc ở thế gian đều do mười nhân sinh ra, tùy theo chỗ thích hợp nên biết.

Vì sao sinh tất cả phiền não? Tất cả duyên khởi kia là danh, tưởng, ngôn thuyết. Đó là: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh lão bệnh tử, ưu bi khổ não, đó gọi là nhân tùy thuyết của phiền não. Vô minh duyên hành cho đến sinh duyên lão tử… cảnh giới ngôn thuyết từng nhớ lại rồi tham đắm vị, các chi hữu sinh, đó gọi là phiền não nơi nhân dĩ hữu. Các pháp như vô minh… chủng tử hiện pháp, sinh các thứ sinh khác như sinh lão bệnh tử, đó gọi là nhân chủng thực. Không gần thiện hữu nghe thọ chánh pháp, học tập tư duy bất chánh, nên vô minh v.v… sinh, đó gọi là nhân nhiếp. Mỗi mỗi chủng tử đều từ nơi vô minh… sinh, gọi là nhân sinh. Từ vô minh đến hữu sau có tăng tiến cùng tìm cầu, đến sinh khác như sinh lão bệnh tử, đấy gọi là nhân trưởng. Các loại chủng tử đều từ vô minh cho đến hữu sau, sinh nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và cõi người, trời, đấy gọi là phiền não nơi nhân tự chủng. Từ nhân dĩ hữu cho đến nhân tự chủng, đó gọi là nhân cộng sự. Nếu có chủng tánh gặp được Phật ra đời diễn thuyết pháp thiện, gần thiện tri thức, nghe nhận chánh pháp, tư duy chánh niệm, pháp tiếp pháp hướng, đạo phẩm thanh tịnh, gọi là phiền não nơi nhân tương vi. Như trên đã nói, nếu không đầy đủ, gọi là nhân bất tương vi.

Đó gọi là mười nhân sinh tất cả phiền não, nên biết.

Vì sao sinh tất cả thanh tịnh? Tất cả pháp tịnh cho đến Niết-bàn diệt tận, với các danh, tưởng, ngôn thuyết, đó gọi là pháp tịnh nơi nhân tùy thuyết. Niệm xứ, chánh cần nầy cho đến tám chánh đạo, vô minh diệt cho đến sinh lão bệnh tử diệt, danh, tưởng, ngôn thuyết như vậy, đó gọi là pháp tịnh nơi nhân tùy thuyết. Do có vô minh… cho nên ưa cầu pháp tịnh, pháp tịnh, pháp tịnh được sinh, đó gọi là nhân dĩ hữu. Nếu người đầy đủ chủng tánh, hướng đến Niết-bàn hữu dư, vô dư mà tu hành đầu tiên thì gọi là thanh tịnh nơi nhân chủng thực. Chủng tánh gồm thâu chủng tử của đạo phẩm vô lậu, đối với các pháp đạo phẩm, đó gọi là nhân sinh. Gần gũi thiện tri thức, nghe nhận pháp thiện, tu chánh tư duy, các căn thành thục, đấy gọi là nhân nhiếp. Chủng tử kia sinh pháp đạo phẩm, hướng đến Niết-bàn Vô dư, đó gọi là nhân trưởng. Chủng tánh Thanh văn do Thanh văn thừa mà bát Niết-bàn. Chủng tánh Duyên giác do Duyên giác thừa mà bát Niết-bàn. Chủng tánh Đại thừa do Đại thừa vô thượng mà bát Niết-bàn, đấy gọi là nhân tự chủng. Từ nhân dĩ hữu cho đến nhân tự chủng, gọi là nhân cộng sự. Chủng tánh không đầy đủ, không gặp được Phật ra đời, sinh chỗ có các nạn, không gần gũi bạn tốt, không nghe pháp thiện, không tư duy chân chánh, tập hành đạo tà, đấy gọi là pháp tịnh nơi nhân tương vi. Nhân tương vi nầy không đầy đủ, đó gọi là nhân bất tương vi. Các phiền não nơi nhân tương vi, là nhân của pháp tịnh. Pháp tịnh nơi nhân tương vi là nhân thanh tịnh, đều cũng như đây, không khác, không hơn.

Thế nào là quả? Lược nói có năm thứ: Một là quả báo. Hai là quả y. Ba là quả giải thoát. Bốn là quả sĩ phu. Năm là quả tăng thượng. Các pháp bất thiện thì có báo đường ác, pháp thiện hữu lậu được báo đường thiện, đó gọi là quả báo. Nếu hành tập pháp bất thiện, ưa trụ trong pháp bất thiện, thì pháp bất thiện tăng. Nếu tu tập pháp thiện, ưa trụ trong pháp thiện, thì pháp thiện tăng trưởng. Nghiệp trước thế nào, quả sau sinh tương tự, đấy gọi là quả y. Tám chánh đạo diệt trừ các phiền não, gọi là quả giải thoát. Hoặc đạo lý thế tục diệt các phiền não, phàm phu không rốt ráo lìa bỏ, không phải quả giải thoát. Hoặc đối với hiện pháp, nương vào các thứ nghiệp công xảo xứ ở thế gian, các việc của sĩ phu, đó là mua bán, làm nông, quan lại cai trị, viết vẽ toán số, xem bói, ấn phong, mỗi mỗi đều có quả sinh, đó gọi là quả sĩ phu.

Nhãn thức là quả tăng thượng của nhãn căn, cho đến ý thức là quả tăng thượng của ý căn, sinh lý không hoại đó là quả tăng thượng của mạng căn. Tất cả hai mươi hai căn đều làm tăng thượng, đều có quả sinh, phải biết đều là quả tăng thượng. Hai mươi hai căn nầy, về tăng thượng như nơi xứ Nhiếp sự đã nói. Bồ-tát như vậy biết Đức Phật hiển bày chánh nhân quả xong, đối với xứ phi xứ thì chủng tánh trí lực sẽ lần lượt tu tập, thanh tịnh tăng trưởng, chẳng phải không tạo tác khác tạo tác mà có được sự thành thục, cũng không phải nghiệp tự tạo tác, trải qua nhiều kiếp mà mất. Người tạo không mất, không tạo tác không thọ nhận. Phật đã hiển bày như vậy, Bồ-tát biết như thật về chủng tánh nơi trí lực, của tự nghiệp rồi, thứ tự tu tập, thanh tịnh tăng trưởng.

Thế nào là Bồ-tát cầu nghe pháp? Là Bồ-tát trụ ân cần cung kính cầu thuyết pháp thiện, ngữ pháp thiện, như thế lược nói, cầu thiện thuyết pháp trụ siêng năng cung kính trụ. Nếu Bồ-tát được nghe một thuyết pháp thiện, dù đường đi đến là đường ác, đại địa bị thiêu đốt, vẫn hãy còn hoan hỷ, từ trong đó vượt qua huống chi là nghe nhiều. Được nghe pháp một lần, hãy còn không luyến tiếc thân mạng luôn được yêu quý, huống gì là các tài sản khác. Một lần nghe thuyết pháp mà yêu thích cung kính, so với sự kính mến ở trước gấp trăm ngàn vạn lần, cho đến toán số ví dụ cũng không so sánh được. Nghĩa là nghe thuyết pháp thiện, tâm không chán đủ, tăng trưởng tịnh tín, thân kia êm dịu, tâm chính trực, thấy biết ngay thẳng, vui thích công đức sâu xa. Đến chỗ thuyết pháp tâm không trở ngại, cung kính trừ “mạn”, chỉ cầu chánh pháp, không cầu danh xưng, vì mình và người mà tu các thiện căn, không vì lợi dưỡng. Đến chỗ thuyết pháp, nghe pháp với tâm không nhiễm ô, tâm không tán loạn. Tâm không nhiễm khi nghe pháp nghĩa là xa lìa phiền não tự cao, xa lìa phiền não như tưởng xem thường, tưởng hạ thấp. Có bảy hành xa lìa phiền não cao ngạo: Một là thường nghe. Hai là muốn lãnh thọ. Ba là nghe ngay. Bốn là cung kính mà nghe. Năm là không đùa giỡn. Sáu là tùy thuận. Bảy là không tìm cầu lỗi lầm. Bảy hành như vậy sẽ xa lìa phiền não cao ngạo. Có bốn hành xa lìa phiền não nơi tưởng xem thường: Một là cung kính pháp. Hai là cung kính người thuyết pháp. Ba là không xem nhẹ pháp. Bốn là không coi thường người thuyết pháp. Bốn hành như vậy sẽ xa lìa phiền não nơi tưởng xem thường. Một hành xa lìa phiền não nơi tưởng hạ thấp, đó là nghe nhận chánh pháp, không tự xem nhẹ việc nghe pháp. Dùng một hành nầy là xa lìa phiền não nơi tưởng hạ thấp. Xa lìa những lỗi như thế, để nghe nhận chánh pháp, đó gọi là Bồ-tát tâm không nhiễm khi nghe pháp.

Thế nào là tâm không loạn khi nghe pháp? Có bốn hành: Một là nhất tâm. Hai là nghiêng mình mà nghe. Ba là định ý. Bốn là hết mực chuyên chú vui thích nghe nhận chánh pháp. Đó gọi là Bồ-tát cầu nghe pháp.

Bồ-tát vì lý do nào mà cầu nghe pháp? Bồ-tát cầu Phật thuyết pháp, vì lãnh thọ chánh pháp, sau mới hướng đến chánh pháp, vì người khác giảng nói rộng.

Bồ-tát cầu Nhân luận là muốn biết chỗ sai lầm của luận kia, muốn hàng phục luận khác. Người chưa tin pháp Phật khiến sinh niềm tin, người sinh niềm tin rồi khiến thêm rộng lớn.

Bồ-tát cầu Thanh luận là rộng vì chúng sinh diễn nói lời chân chánh khiến họ ưa thích, vì làm trang nghiêm ý vị của từ, cú, ở trong một nghĩa được trang nghiêm với nhiều thứ ngôn từ.

Bồ-tát cầu Y phương luận là vì nhằm trừ các thứ bệnh cho chúng sinh, thâu nhận đại chúng. Bồ-tát cầu trí công nghiệp xứ của thế gian, vì ít phương tiện mà thâu hoạch được nhiều của cải tạo lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Vì dạy cho chúng sinh đủ các thứ sự nghiệp, nên Bồtát cầu năm minh xứ như thế. Vì Bồ-đề vô thượng, đại trí rốt ráo viên mãn, chẳng phải không theo thứ lớp, học tất cả pháp để đắc trí hết thảy không chướng ngại, đó gọi là Bồ-tát đã tìm cầu theo như chỗ tìm cầu mà làm.

Bồ-tát vì người mà giảng nói là giảng nói cái gì? Giảng nói như thế nào? Vì lý do gì mà giảng nói? Bồ-tát như pháp đã cầu, như pháp ấy nói, như nghĩa đã cầu nghĩa, như nghĩa ấy  nói. Vì hai lý do nên giảng nói, một là tùy thuận thuyết, hai là thanh tịnh thuyết. Tùy thuận thuyết là trụ nơi oai nghi như pháp mà thuyết giảng, không phải không như pháp, không vì người không bệnh ngồi ở chỗ cao mà thuyết giảng. Người che đầu, người đi trước, đều không vì họ mà giảng nói, như nơi kinh đã nói rộng. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ-tát tự cung kính pháp, do cung kính pháp nên khiến cho các chúng sinh phát khởi sự cung kính sâu xa, nghe rồi thì phụng trì không khởi khinh mạn. Giảng nói tất cả, giảng nói không gián đoạn, không keo kiệt đối với pháp, không làm vị thầy mỏi chán, theo thứ tự nơi cú vị mà nói, theo thứ tự nơi cú vị mà lãnh thọ, theo thứ tự phân biệt mà nói về nghĩa lợi ích và pháp lợi ích. Đối với các thứ nghĩa lợi ích, chỉ bày điều cần chỉ bày, trao truyền điều đáng trao truyền, soi tỏ chỗ đáng soi tỏ, vui mừng việc đáng vui mừng, hiện trí, tỷ trí, nghe đầy đủ từ thầy, lại vì người mà giảng nói, luôn suy lường, nghe đầy đủ để thuận hướng về nẻo thiện, không giảng nói tạp loạn, phải khéo giảng nói, không nói ẩn giấu, theo sự thích hợp của mọi người vì họ giảng nói rộng, như nói bốn Thánh đế.

Mười lăm thứ nầy, Bồ-tát vì khắp chúng sinh tùy thuận khéo giảng nói, tất cả đều là lợi người, cần phải biết.

Lại nữa, Bồ-tát đối với người không tạo lợi ích cho mình nên trụ trong tâm từ mà giảng nói. Với hành giả nơi nẻo ác thì trụ trong tâm an ổn mà giảng nói. Với chúng sinh khổ, vui, buông lung, nghèo thiếu, trụ trong tâm an lạc, thương xót mà giảng nói. Không do ganh ghét trói buộc để tự khen ngợi mình, chê bai người, lìa tâm tham chấp, không cầu danh lợi, vì người thuyết pháp. Năm thứ như vậy là Bồ-tát thanh tịnh nói pháp. Trước sau lược nói có hai mươi thứ: Một là thời. Hai là đốn. Ba là thứ lớp. Bốn là tương tục. Năm là nhẫn nại. Sáu là hoan hỷ. Bảy là dục. Tám là vui. Chín là mừng. Mười là không chê bai. Mười một là ứng hợp. Mười hai là văn tự đầy đủ. Mười ba là không xen tạp. Mười bốn là như pháp. Mười lăm là tùy chúng. Mười sáu là tâm từ. Mười bảy là tâm an. Mười tám là tâm thương xót. Mười chín là không tự khen mà chê người. Hai mươi là không nương vào danh lợi. Đó gọi là Bồ-tát vì người thuyết pháp.

Thế nào là Bồ-tát pháp tiếp pháp hướng? Lược nói có năm thứ: Như pháp mong cầu, như pháp đã thâu giữ, thân, khẩu, ý tùy chuyển, chánh tư và tu. Hoặc pháp nầy Đức Thế Tôn cấm thân khẩu ý làm, hoặc nghe cho thân, khẩu, ý làm, đối với nghiệp thân, khẩu, ý kia, như vậy là nên xa lìa, như vậy là nên tu tập, thân, khẩu, ý tùy chuyển, đấy gọi là pháp tiếp pháp hướng.

Chánh “tư” là Bồ-tát một mình ở chỗ thanh tịnh, như pháp đã nghe, tư duy, lượng tính, quán xét, trước hết xa lìa chỗ không tư lượng, tư lượng đối với pháp, siêng tư duy nhanh chóng, thường tư duy, tư duy nhanh, phương tiện không dừng. Bồ-tát đầy đủ chánh tư, đầy đủ hành tùy thuận nhập, có chỗ xả bỏ, dựa vào nghĩa, không dựa vào vị, nói tối nói sáng, Bồ-tát đều nhận biết như thật. Trước hết suy xét người nên nhập, người đã nhập rồi, luôn luôn tư duy. Bồ-tát lìa chỗ không tư lượng nghĩa là không theo tâm ngu, tâm loạn, mà siêng tư duy, thường tư duy nhanh chóng tư.

Phương tiện không dừng là với người chưa hiểu nghĩa, khiến được hiểu, hiểu nghĩa rồi khiến không quên mất. Đầy đủ là có chỗ nhập, chỗ hành, không do người khác, có khả năng quán xét đầy đủ. Có chỗ xả là nếu biết các pháp không phải là cảnh giới kia, thì nên tự nghĩ:  Cảnh giới này Đức Phật vốn biết không phải là cảnh giới của ta, như vậy là không phỉ báng, tự không có tội lỗi. Bồ-tát dựa vào nghĩa không dựa vào vị là khéo hội nhập lời nói ẩn mật của Như Lai. Khéo biết về thuyết giảng ngầm, rõ nghĩa là đối với nghĩa chân thật, không hề dao động.

Bồ-tát khi mới nhập chánh tư, trước chưa đắc nhẫn, nay đã đắc nhẫn, đã đắc nhẫn rồi, vững chắc tùy thuận nhập vào tu tuệ. Tám thứ như vậy thuộc về chánh tư của Bồ-tát. Người tu pháp tiếp pháp hướng, lược nêu có bốn thứ: Một là chỉ. Hai là quán. Ba là tu tập chỉ quán. Bốn là vui trụ chỉ quán. Chỉ nghĩa là tám thứ chánh tư của Bồ-tát, khéo chánh chân thật, thuyết pháp lìa ngôn từ, hoặc sự hoặc lý, buộc tâm trong duyên, xa lìa tất cả hư giả, nóng vội, và các sự nghĩ nhớ. Trong duyên giải thoát, buộc tâm an lập nơi tướng Tam-muội, nói rộng cho đến nhất tâm, đấy gọi là chỉ.

Quán nghĩa là chỉ kia luôn huân tu, nhớ nghĩ tư duy, như chánh tư duy nơi pháp tướng, ghi nhớ chọn lựa, cho đến “Minh-tuệ”, đấy gọi là quán.

Tu chỉ quán nghĩa là nếu hành chỉ quán, thường tu phương tiện, chóng tu phương tiện, đấy gọi là tu tập chỉ quán. Vui trụ chỉ quán là nơi các tướng của chỉ quán, tâm trụ bất động, phương tiện bất động, có thể tự quán sát, ở nơi tâm đã thâu nhận không tán loạn, đấy gọi là vui trụ chỉ quán. Bồ-tát như vậy như vậy tu tập chỉ quán, như vậy như vậy ưa trụ chỉ quán, như vậy như vậy chỉ quán thanh tịnh, như vậy như vậy thân tâm khinh an dần dần tăng trưởng, như vậy như vậy quán thanh tịnh, như vậy như vậy tri kiến rộng thêm, như vậy như vậy hành tập. Người tu tuệ thân tâm lìa ác, biết được tất cả tri kiến thanh tịnh. Tất cả nghiệp tu tuệ đều từ bốn thứ tu như vậy sinh khởi.

Vì sao gọi là chánh giáo thọ? Lược nói có tám thứ chánh giáo thọ. Bồ-tát nương nơi Tam-ma-đề, dạy người tu hành, tâm không để sót. Bồtát dạy người, tức tự giáo thọ, như đối với các pháp Phật, trước phải biết bốn thứ cầu: Một là cầu tâm biết cầu tâm. Hai là cầu căn biết cầu căn. Ba là cầu hy vọng biết cầu hy vọng. Bốn là cầu sử biết cầu sử. Năm là tùy theo chỗ thích hợp dùng các loại môn độ mà độ thoát, đó là bất tịnh, tâm từ, phân biệt duyên khởi giới, niệm an-na-bát-na. Đấy gọi là tùy theo môn độ thích hợp mà độ thoát. Sáu là chấp biên thường, để đối trị nên nói trung đạo. Bảy là chấp biên đoạn, để đối trị nói trung đạo. Tám là trừ tăng thượng mạn không làm cho là làm, tăng thượng mạn không đắc cho là đắc, không xúc cho là xúc, không chứng cho là chứng. Tám thứ giáo thọ kia lược nói có ba chỗ thâu giữ. Ba chỗ nghĩa là trước tâm chưa trú, khiến buộc niệm trong duyên, tâm đã trú rồi, khiến được tự nghĩa, là đạo của chánh phương tiện. Người chưa rốt ráo khiến trụ trong xả, biết căn tâm kia hy vọng, kiết sử ấy tùy sự thích hợp với môn độ mà độ thoát, khiến tâm chánh trụ, buộc niệm trong duyên. Việc chấp đoạn, thường, để đối trị nên giảng nói trung đạo, khiến người trụ tâm thành tựu tự nghĩa, là đạo của chánh phương tiện. Tăng thượng mạn không làm cho là làm, cho đến tăng thượng mạn không chứng cho là; chứng, người chưa rốt ráo thì khiến trụ trong xả. Ba việc như vậy, gồm thâu tám thứ giáo thọ. Như vậy, Bồ-tát lãnh thọ sự chỉ dạy từ người khác, truyền trao cho người xong, tám lực chủng tánh thanh tịnh tăng trưởng. Đó là: Trí lực thiền định, giải thoát, Tam-muội, chánh thọ. Trí lực của các căn lợi độn, trí lực của vô số hành giải, trí lực của vô số giới, trí lực hết thảy chí xứ đạo, trí lực túc mạng, trí lực sinh tử và trí lực lậu tận.

Thế nào gọi là giáo giới? Lược nói có năm thứ: Một là ngăn cấm hành giả có tội. Hai là hành giả vô tội thì đồng ý. Ba là hoặc cấm hoặc chấp thuận, người có thiếu giảm, như pháp nêu lên. Bốn là người luôn luôn vi phạm thì điều phục cho nhớ nghĩ. Năm là không vẩn đục, không biến hoại, thuần tịnh, chánh hướng, hoặc cấm, hoặc nghe pháp, công đức chân thật, thương mến, nhớ nghĩ, khen ngợi, khiến hoan hỷ, đó gọi là lược nói về năm việc giáo của giới Bồ-tát. Đó là: Hoặc cấm hoặc chấp thuận, hoặc nêu lên, hoặc điều phục, hoặc hoan hỷ.

Thế nào là Bồ-tát gồm thâu phương tiện nơi thân, khẩu, ý nghiệp? Lược nói Bồ-tát có bốn nhiếp sự, gọi là phương tiện. Như Đức Thế Tôn nói: Bốn nhiếp sự, gọi là phương tiện. Lược nêu bốn thứ phương tiện để điều phục chúng sinh, thâu giữ chúng sinh không có gì hơn. Một là tùy nhiếp phương tiện. Hai là nhiếp phương tiện. Ba là độ phương tiện. Bốn là tùy thuận phương tiện. Bồ-tát dùng các thứ tài thí, theo đó mà thâu phục chúng sinh, để không ai là không tin thọ vâng thuận tu hành. Đấy gọi là bố thí tùy nhiếp phương tiện. Tiếp theo là thực hành ái ngữ, khiến chúng sinh ngu si xa lìa chốn tối tăm, gồm thâu đầy đủ chỉ bày. Đấy gọi là ái ngữ nhiếp phương tiện. Nhiếp đủ, chỉ bày rồi, khiến chúng sinh xả bỏ xứ bất thiện, hiểu biết nhận lãnh chỗ thiện, điều phục lạc trụ. Đấy gọi là hành lợi độ phương tiện. Bồ-tát như vậy, dùng đồng sự tùy thuận độ thoát chúng sinh, cung kính điều phục, không khởi lời: Ông tự không tín giới, tuệ thí, đa văn, làm sao chỉ dạy cho người, nêu tội, cho niệm? Đấy gọi là đồng sự tùy thuận nhiếp phương tiện. Bốn thứ nhiếp phương tiện như vậy, hoặc chung hoặc riêng đều gọi là Bồ-tát nhiếp phương tiện nơi thân, khẩu, ý nghiệp… nhiếp phục chúng sinh, điều phục thành thục.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10