KINH ƯU BÀ TẮC GIỚI
Hán dịch: Đời Bắc Lương Tam tạng pháp sư Đàm Vô Sấm, người Trung Ấn Độ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 1

Phẩm 1: TẬP HỘI

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, đức Phật ở tại Tinh xá thuộc cây vườn rừng Kỳ-ĐàCấp-Cô-Độc, nước Xá-vệ, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-Kheo Tăng, năm trăm vị Tỳ-Kheo Ni, một ngàn Ưu-bà-tắc và năm trăm vị ăn xin.

Bấy giờ, trong hội chúng, có một người con của vị trưởng giả, tên là Thiện Sanh, cúi đầu bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Lục sư ngoại đạo thường dạy tín đồ: Nếu ai, một ngày hai buổi. Sáng chiều cung kính lễ lạy sáu phương, thì được giàu có và sống lâu. Vì họ cho: Phương Đông thuộc về lãnh thổ của vua Đế Thích, nếu ai phát tâm cúng dường, thì được vua Đế Thích giúp đỡ; phương Nam thuộc về lãnh thổ của vua Diêm la, nếu ai phát tâm cúng dường, thì được vua Diêm La giúp đỡ; phương Tây thuộc về lãnh thổ của Bà Lâu Na Thiên, nếu ai phát tâm cúng dường, thì được Bà Lâu Na Thiên giúp đỡ; phương Bắc thuộc về lãnh thổ Câu Tỳ La Thiên, nếu ai phát tâm cúng dường, thì được Câu Tỳ La Thiên giúp đỡ; phương Dưới thuộc lãnh thổ của Hoả Thiên, nếu ai phát tâm cúng dường, thì được Hoả Thiên giúp đỡ; phương Trên thuộc về lãnh thổ Phong Thiên, nếu ai phát tâm cúng dường, thì được Phong Thiên giúp đỡ. Bạch Đức Thế Tôn! Trong giáo pháp của Ngài có dạy tín đồ về sáu phương như vậy 536 không?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Trong giáo pháp của Như Lai cũng có nói về sáu phương, đó là sáu Ba-la-mật. Phương Đông là Bố thí Ba-la-mật. Vì sao? Vì mới vừa xuất hiện, là nhân duyên phát sanh trí tuệ sáng suốt; phương Đông thuộc về tâm chúng sanh, nếu có chúng sanh nào cúng dường bằng Bố thí Ba-la-mật, thì được giàu có và sống lâu. Phương Nam là Trì Giới Ba-la-mật. Vì sao? Vì Trì Giới Ba-la-mật gọi là hơn hết, nếu có người nào cúng dường đều cũng được giàu có và sống lâu. Phương Tây là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Vì sao? Vì phương Tây là chỉ về mai sau, nghĩa là bỏ hết tất cả các pháp ác lại phía sau, nếu ai cúng dường cũng được giàu có và sống lâu. Phương Bắc là Tinh tấn Ba-la-mật. Vì sao? Vì phương Bắc có danh hiệu là thắng các pháp ác, nếu ai cúng dường thì được giàu có và sống lâu. Phương Dưới là Thiền định Ba-la-mật. Vì sao? Vì ở phương dưới có thể quán sát rõ ba đường ác, nếu ai cúng dường thì được giàu có và sống lâu. Phương Trên là Bát nhã Ba-la-mật. Vì sao? Vì phương Trên là cao quý, không sanh diệt, nếu ai cúng dường thì được giàu có và sống lâu. Này thiện nam! Đó là sáu phương thuộc tâm chúng sanh, chẳng phải như lục sư Ngoại đạo đã nói. Như vậy, với sáu phương đó, ai có thể phát tâm cúng dường được? Chỉ có hàng Bồ-tát mới có thể cúng dường được.

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Do nghĩa nào mà gọi là Bồ-tát?

Đức Phật dạy:

– Chứng đắc Bồ đề mới gọi là Bồ-tát, tánh Bồ-đề nên gọi là Bồtát.

– Bạch đức Thế Tôn! Nếu nói chứng đắc Bồ-đề rồi mới gọi là Bồtát, vậy lúc chưa cúng dường sáu phương sao có thể gọi là Bồ-tát? Nếu lấy tánh nên gọi là Bồ-tát, thì ai được tánh ấy? Người có tánh ấy mới có thể cúng dường sáu phương, nếu không có tánh ấy, thì không thể cúng dường sáu phương? Như vậy Như Lai không thể nói sáu phương là thuộc tâm chúng sanh.

Phật dạy:

– Này thiện nam! Không phải chứng đắc Bồ-đề, nên gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì chứng đắc Bồ-đề thì đã là Phật rồi. Chưa chứng đắc Bồ-đề, mới gọi là Bồ-tát. Cũng không phải tánh Bồ-đề, gọi là Bồ-tát.

Này thiện nam! Tất cả chúng sanh không có tánh Bồ-đề, như các chúng sanh, không có tánh Trời, người, sư tử, cọp, sói. v.v… mà chỉ do trong đời hiện tại, có nhiều nhân duyên nghiệp lành hòa hợp mà được làm thân Trời, người; hay do hoà hợp nhiều nhân duyên nghiệp ác, mà sanh làm thân sư tử, súc sanh. Bồ-tát cũng vậy, nhờ hội tụ được nhiều nhân duyên nghiệp lành và phát tâm Bồ-đề, nên được gọi là Bồ-tát. Nếu có thuyết nói: “ Tất cả chúng sanh có tánh Bồ-tát”, thì nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì nếu có tánh ấy, thì Bồ-tát không cần tu tập theo nhân duyên nghiệp lành, và cúng dường sáu phương.

Này thiện nam! Nếu có tánh ấy, tức không có người mới phát tâm và không có kẻ thối lui tâm, mà do vô lượng nhân duyên nghiệp lành và phát tâm Bồ-đề, mới gọi là tánh Bồ-tát.

Này thiện nam! Có các chúng sanh tu hành theo ngoại đạo, vì không thích nói về kinh sách điên đảo của họ, nên phát tâm Bồ-đề; hoặc có chúng sanh, ở nơi vắng lặng, và nhờ nhân duyên căn lành bên trong mà phát tâm Bồ-đề; hoặc có chúng sanh, quán sát những tội lỗi trong sanh tử, mà phát tâm Bồ-đề; hoặc có chúng sanh, thấy ác, nghe ác mà phát tâm Bồ-đề; hoặc có chúng sanh biết rõ thân mình tham lam, sân hận, ngu si, ganh ghét, bỏn sẻn, mà phát tâm Bồ-đề; hoặc có chúng sanh thấy các vị Tiên đắc năm pháp thần thông của các ngoại đạo mà phát tâm Bồ-đề; hoặc có chúng sanh muốn biết thế gian có giới hạn hay không có giới hạn, mà phát tâm Bồ-đề; hoặc có chúng sanh thấy nghe Đức Như Lai không thể nghĩ bàn, mà phát tâm Bồ-đề; hoặc có chúng sanh, khởi tâm thương xót mọi loài, mà phát tâm Bồ-đề; hoặc có chúng sanh, yêu thích chúng sanh, mà phát tâm Bồ-đề.

Này thiện nam! Tâm Bồ-đề gồm có ba bậc. Đó là: Thượng, Trung, Hạ. Nếu nói chúng sanh, nhất định có tánh, thì tại sao lại nói có ba bậc khác nhau? Chúng sanh có tâm thấp kém, có thể khởi lên tâm trung bình; chúng sanh có tâm trung bình khởi lên tâm cao thượng, chúng sanh có tâm cao thượng lai trở nên tâm trung bình, chúng sanh có tâm trung bình trở nên thấp kém. Chúng sanh chuyên cần tu tập vô lượng pháp thiện, nên trở thành cao thượng, không chuyên cần tu tập, thì trở thành thấp kém. Nếu khéo tinh tấn tu hành thì gọi là không thối chuyển, ngược lại, không tinh tấn tu hành, gọi là thối chuyển. Trong mọi thời gian, tất cả chúng sanh tu tập pháp thiện, thì gọi là bất thối chuyển; nếu không được như vậy, gọi là thối chuyển. Như vậy, Bồ-tát tất có tâm thối chuyển và tâm sợ hãi. Nếu trong mọi thời gian, tất cả chúng sanh tu tập pháp thiện, chứng đắc bất thối chuyển, thì vị đó Như Lai đã thọ ký là Địa Đại-hỷ, chẳng bao lâu sẽ được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Này thiện nam! Ba bậc Bồ-đề, không có tánh nhất định; nếu có tánh nhất định, thì người đã phát tâm Thanh-văn, Duyên-giác, không thể phát tâm Bồ-đề được.

Này thiện nam! Thí như chúng Tăng, không có tánh nhất định; tánh của ba bậc Bồ-đề cũng như vậy. Nếu nói Bồ-đề có tánh nhất định, đó gọi là ngoại đạo. Vì sao? Vì các ngoại đạo cho là không có nhân quả; như Tự Tại Thiên là không nhân không quả.

Này thiện nam! Hoặc có người nói tánh của Bồ-tát giống như trong đá nhất định có vàng, phải nhờ nhân duyên và các phương tiện thiện xảo, để lấy vàng ra. Tánh của Bồ-tát cũng như vậy. Đó là thuyết của ngoại đạo Phạm chí. Vì sao? Vì các ngoại đạo Phạm chí thường nói: Trong hạt Ni-câu-đà có cây Ni-câu-đà; trong mắt có lửa, có đá; nên Phạm chí nói không nhân không quả, vì nhân tức là quả, quả tức là nhân; hạt Ni-câu-đà có đầy đủ cây Ni-câu-đà, nên biết đó là nhân quả của Phạm chí. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì nhân nhỏ mà quả lớn. Hoặc nói, trong con mắt nhất định có lửa, thì con mắt bị cháy mất rồi, mà con mắt bị cháy, làm sao thấy được! Hoặc trong con mắt có đá, thì đá che mắt làm sao thấy được!

Này thiện nam! Như Phạm chí nói: “ Có tức là có; không tức là không; không thời không sanh, có thời phải diệt”. Nếu nói trong đá có tánh vàng, thì vàng không thể nói là tánh, tánh không thể nói là vàng.

Này thiện nam! Do nhân duyên nên có hoà hợp, vì có duyên hoà hợp nên trước không, sau có. Như Phạm chí nói: “ Không tức vĩnh viễn không”, thì nghĩa này như thế nào? Vàng hoà hợp với thuỷ ngân, thì vàng biến đổi, nếu nói không biến đổi, thì nghĩa này thế nào? Nếu nói chúng sanh có tánh Bồ-tát, đó là ngoại đạo, chứ không phải Phật đạo.

Này thiện nam! Thí như do nhân duyên hoà hợp trong đá mà có vàng; tánh của Bồ-tát cũng là như vậy. Chúng sanh có suy nghĩ gọi là tâm dục, do nhân duyên nghiệp lành, nên lòng ham muốn phát tâm Bồđề, như vậy gọi là tánh Bồ-tát.

Này thiện nam! Như chúng sanh trước không có Bồ-đề, sau mãi mới có. Tánh cũng như vậy, trước không, sau mới có; cho nên không thể nói Bồ-đề có tánh nhất định.

Này thiện nam! Vì cầu trí tuệ nên gọi là Bồ-tát. Muốn biết tất cả pháp chân thật, thì phải trang nghiêm lớn, tâm kiên cố, độ được nhiều chúng sanh, không tiếc thân mạng, đó gọi là Bồ-tát tu hành Đại thừa.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Một là: Thối chuyển. Hai là: Không thối chuyển. Người đã tu ba mươi hai nghiệp tướng gọi là không thối chuyển. Nếu chưa có thể tu ba mươi hai nghiệp tướng thì gọi là thối chuyển. Lại có hai hạng: Một là: Xuất gia. Hai là: Tại gia. Bồ-tát xuất gia, thọ trì đầy đủ tám giới trọng hoàn toàn thanh tịnh, gọi là không thối chuyển. Bồ-tát tại gia, thọ trì đầy đủ sáu giới trọng hoàn toàn thanh tịnh, cũng gọi là không thối chuyển.

Này thiện nam! Ngoại đạo đoạn trừ dục vọng, được phước đức, hơn tất cả phước đức có được của chúng sanh trong cõi dục. Người đắc Tu-đà-hoàn phước đức hơn tất cả ngoại đạo dị kiến. Người đắc Tư-đàhàm phước đức hơn hết thảy quả Tu-đà-hoàn. Người đắc A-na-hàm phước đức hơn tất cả quả Tư-đà-hàm. Người đắc A-la-hán phước đức hơn tất cả quả A-na-hàm. Người đắc Phật Bích- chi phước đức hơn tất cả quả A-la-hán. Người tại gia phát tâm Bồ-đề hơn tất cả quả Phật Bíchchi. Người xuất gia phát tâm Bồ-đề là việc không khó, ngược lại, người tại gia phát tâm Bồ-đề mới thật là không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì người tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc. Lúc người tại gia phát tâm Bồ-đề, thì từ cõi trời Tứ-thiên-vương, cho đến cõi trời Sắc-cứucánh, đều rất kinh ngạc, vui mừng, cùng nhau nói: “ Chúng ta, từ nay đã có được vị đạo sư của cõi Trời Người”.

 

Phẩm 2: PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Tại sao chúng sanh phát tâm Bồ-đề?

– Này thiện nam! Vì có hai điều mà chúng sanh phát tâm Bồ-đề: Được giầu có và được sống lâu.

Lại có hai điều: 1. Không muốn đoạn tuyệt chủng tánh Bồ-tát, 2. Diệt trừ tội lỗi phiền não của chúng sanh.

Lại có hai điều: 1. Xét thấy trong vô lượng kiếp, chịu mọi khổ não, không được lợi ích, 2. Dù có vô lượng chư Phật, cũng không cứu thoát được thân ta, chính chúng ta phải tự độ lấy.

Lại có hai điều: 1. Làm các việc lành, 2. Làm rồi không để biến mất.

Lại có hai điều: 1. Vì đó là phước báo thù thắng hơn tất cả Trời, Người, 2. Vì đó là phước báo thù thắng hơn hàng nhị thừa.

Lại có hai điều: 1. Cầu đạo Bồ-đề mà chịu khổ não, 2. Để được nhiều lợi ích lớn.

Lại có hai điều: 1. Vô lượng chư Phật qúa khứ, vị lai trước khi thành Phật, đều như thân ta, 2. Là quán sát rõ ràng, Bồ-đề là pháp có thể chứng đắc, do đó mà phát tâm.

Lại có hai điều: 1. Quán sát người ở “Sáu trụ” tuy có chuyển tâm, nhưng còn hơn tất cả Thanh-văn, Duyên-giác, 2 Tâm chuyên cần cầu quả Chánh giác Vô thượng.

Lại có hai điều: 1. Muốn cho tất cả chúng sanh đều được giải thoát, 2. Muốn cho chúng sanh có được quả báo giải thoát hơn hẳn hàng ngoại đạo.

Lại có hai điều: 1. Không bỏ tất cả chúng sanh, 2. Xa lìa tất cả phiền não.

Lại có hai điều: 1. Đoạn trừ khổ não trong hiện tại của chúng sanh, 2. Ngăn chặn khổ não trong vị lai của chúng sanh.

Lại có hai điều: 1. Dứt trừ sự chướng ngại của trí tuệ, 2. Đoạn trừ chướng ngại nơi thân của chúng sanh.

Này thiện nam! Phát tâm Bồ-đề có năm điều: 1. Gần gũi bạn lành, 2. Đoạn trừ tâm sân hận, 3. Vâng lời chỉ dạy của thầy, 4. Khởi tâm thương xót, 5. Siêng năng tu tập tinh tấn.

Lại có năm điều: 1. Không thấy lỗi của kẻ khác, 2. Tuy thấy lỗi của kẻ khác, nhưng tâm không hối. 3. Được pháp thiện rồi, tâm không kiêu mạn, 5. Thấy nghiệp thiện của kẻ khác tâm không ganh ghét, 5. Quán sát chúng sanh tưởng như con một.

Này thiện nam! Người có trí, sau khi phát tâm Bồ-đề rồi, có thể phá trừ các quả báo của nghiệp ác lớn như núi Tu-di.

Người có trí, vì ba điều, mà phát tâm Bồ-đề: 1. Vì thấy chúng sanh trong đời ác có năm trược. 2. Vì thấy Đức Như Lai có đạo lực thần thông không thể nghĩ bàn, 3. Vì nghe tám thứ tiếng vi diệu của Đức Như Lai.

Lại có hai điều: 1. Biết rất rõ nỗi khổ của tự thân, 2. Biết rõ nổi khổ của chúng sanh, cũng như nỗi khổ của tự thân, vì trừ nỗi khổ của chúng sanh, cũng như trừ nỗi khổ của chính mình.

Này thiện nam! Nếu có người có thể phát tâm Bồ-đề, nên biết người này, có thể lễ bái sáu phương, được giàu có và được sống lâu, không như thuyết ngoại đạo đã nói.

 

Phẩm 3: TÂM BI

Thiện Sanh bạch Phật:

Bạch Đức Thế Tôn! Lục sư ngoại đạo không nói nhân quả; nay Đức Như Lai nói nhân quả có hai loại: 1. Sanh nhân, 2. Liễu nhân. Vậy như lời Ngài vừa nói thì phát tâm Bồ-đề, thuộc về Sanh nhân hay Liễu nhân?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Như Lai vì chúng sanh nên có thể nói một nhân, hai nhân, ba nhân, bốn nhân, năm nhân, sáu nhân, bảy nhân hoặc đến mười hai nhân. Nói một nhân tức là Sanh nhân. Nói hai nhân tức là Sanh nhân và Liễu nhân. Nói ba nhân tức là phiền não, nghiệp khí. Nói bốn nhân tức là bốn đại. Nói năm nhân, tức là năm chi ở vị lai. Nói sáu nhân, tức như trong Khế kinh nói về sáu nhân. Nói bảy nhân, tức như trong kinh Pháp Hoa nói. Nói tám nhân, tức là tám chi trong hiện tại. Nói chín nhân, tức như trong kinh Đại Thành nói. Nói mười nhân tức như Ưu-bà-tắc Vì-ma-nam nói. Nói mười một nhân, tức như Trí Ấn nói. Nói mười hai nhân, tức như Mười hai nhân duyên.

Này thiện nam! Tất cả các pháp Hữu lậu, có vô lượng vô biên nhân, tất cả các pháp Vô lậu cũng có vô lượng vô biên nhân. Người trí muốn biết tất cả các nhân, nên phát tâm Bồ-đề. Vì vậy, Đức Như Lai được gọi là Nhất Thiết Trí.

Này thiện nam! Tất cả chúng sanh phát tâm Bồ-đề, hoăc có Sanh nhân, hoặc có Liêu nhân, hoặc có cả Sanh nhân, Liễu nhân. Nay ông nên biết, hễ Sanh nhân tức là Đại bi, nhân là Bi, nên mới có thể phát tâm Bồ-đề, cho nên tâm Bi là Sanh nhân.

Thiện Sanh thưa: – Bạch Đức Thế Tôn! Làm sao tu tâm Bi?

Phật dạy: – Này thiện nam! Người trí, thấy rõ tất cả chúng sanh bị đắm chìm trong biển khổ não sanh tử, vì muốn cứu độ họ, nên phát khởi tâm bi. Lại thấy chúng sanh chưa có mười lực, bốn điều không sợ hãi và ba niệm Đại bi: Ta phải làm thế nào, để chúng sanh được đầy đủ, do vậy khởi tâm bi. Lại thấy chúng sanh tuy có nhiều oán độc nhưng cứ tưởng là người thân, vì vậy khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh mê mờ đường chánh, không có người chỉ đường, nên khởi tâm tâm bi; lại thấy chúng sanh nằm trên vũng bùn năm dục, không thể ra khỏi, mà còn buông lung, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh thường bị tài vật, vợ con ràng buộc, không thể xa lìa, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh do được xinh đẹp, sống lâu, mà khởi tâm kiêu mạn, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh bị bạn ác dối gạt, mà tưởng là quyến thuộc, như Lục sư, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh, sanh trong ba cõi chịu mọi khổ não, mà còn tham vướng, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh tạo ra nghiệp ác do thân, khẩu, ý mà chịu nhiều quả khổ, nhưng vẫn vui thích, say đắm, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh ưa thích năm dục, như người khát uống nước muối, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh, dù muốn được an lạc mà không tạo nhân an vui, tuy không thích khổ mà tạo nhân khổ, muốn hưởng cảnh vui cõi trời mà thiếu giới hạnh, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh, đối với không ngã và không ngã sở, mà cứ tưởng có ngã và ngã sở, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh không có tánh cố định, lưu chuyển trong năm đường, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh sợ sanh, già, bệnh, chết mà lại tạo nghiệp sanh, già, bệnh, chết, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh thân tâm chịu nhiều khổ não, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh đau khổ khi tình ái chia ly, mà không đoạn trừ được ái ân, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh ở trong vô minh tối tăm, mà không biết đốt lên ngọn đèn trí tuệ, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh, bị lửa phiền não thiêu đốt, mà không chịu cầu nước mát thiền định Tam muội, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh, do vui năm dục, mà tạo vô lượng tội ác, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh biết năm dục là khổ, mà cứ mong cầu, không có chấm dứt, thí như người đói ăn phải cơm độc, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh, ở trong đời xấu ác gặp vua bạo ngược, chịu nhiều khổ não, mà vẫn phóng dật, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh lưu chuyển trong tám cảnh khổ, mà không đoạn trừ cái nhân khổ, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh đói khát, nóng lạnh không được tự tại, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh huỷ phạm giới cấm, sẽ thọ cảnh khổ ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh sắc lực, thọ mạng, yên ổn và biện tài mà không được tự tại, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh các căn không đầy đủ , nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh sanh ở biên địa, không tu pháp thiện, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh sanh nhằm đời đói khát, thân thể gầy ốm, trộm cướp lẫn nhau, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh sanh trong xứ đao binh, giết hại lẫn nhau, lòng độc ác càng tăng trưởng, phải chịu vô lượng quả báo khổ, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh gặp Phật ra đời, nghe Phật nói pháp thanh tịnh như vị cam lồ mà không thọ trì, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh tin theo thầy tà, bạn ác, không vâng lời dạy bảo của thiện tri thức, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh có nhiều tài vật, mà không biết bố thí, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh canh tác ruộng vườn, giao dịch buôn bán, tất cả đều là khổ, nên khởi tâm bi; lại thấy chúng sanh, cha mẹ, anh em, vợ 5 con, tôi tớ, quyến thuộc không thương mến nhau, nên khởi tâm bi.

Này thiện nam! Người trí nên quán sát cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ, có cảnh an vui thiền định; cũng như sự khổ trong địa ngục, mà tất cả chúng sanh đều phải lãnh chịu, mà khởi tâm bi.

Này thiện nam! Lúc chưa chứng đắc đạo quả, mà quán sát như vậy, gọi là Bi, nếu chứng đắc đạo quả rồi, gọi là Đại bi. Vì sao? Vì lúc chưa chứng đắc đạo quả, dù quán như vậy, nhưng sự quán sát ấy có giới hạn, cho nên chúng sanh cũng là như vậy, còn khi đã chứng đắc đạo quả rồi, thì sự quán sát và chúng sanh không có giới hạn, cho nên gọi là Đại bi. Lúc chưa chứng đạo quả thì tâm bi còn động chuyển, nên gọi là Bi, còn khi đã chứng đắc đạo quả rồi thì tâm bi không còn dao động, nên gọi là Đại bi. Lúc chưa chứng đạo quả, chưa có thể độ các chúng sanh, nên gọi là Bi, khi chứng đắc đạo quả rồi, có thể cứu độ rộng khắp chúng sanh, nên gọi là Đại bi. Lúc chưa chứng đắc đạo quả trí tuệ chưa phát sinh, nên gọi là Bi, khi đã chứng đắc đạo quả rồi, trí tuệ phát khởi, nên gọi là Đại bi.

Này thiện nam! Người trí tu hành bi, tuy chưa có thể đoạn trừ khổ não của chúng sanh, nhưng đã có vô lượng lợi ích.

Này thiện nam! Sáu pháp Ba-la-mật, đều lấy tâm bi làm Sanh nhân.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Xuất gia, Tại gia. Bồ-tát xuất gia, tu tập tâm bi không khó, ngược lại Bồ-tát tại gia, tu tập bi mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

Này thiện nam! Người tại gia, nếu không tu tâm bi, thì không thể đắc giới Ưu-bà-tắc. Nếu tu tâm bi rồi, sẽ được đắc giới.

Này thiện nam! Người xuất gia, chỉ có thể thực hành đầy đủ năm pháp Ba-la-mật, không thể thực hành đầy đủ bố thí Ba-la-mật, còn người tại gia, thì hành đầy đủ cả sáu pháp Ba-la-mật. Vì sao? Vì trong mọi thời gian, đều có thể bố thí được hết tất cả, nên người tại gia trước, nên tu tâm bi, nếu tu tâm bi rồi, thì nên biết, người này sẽ có đầy đủ trì giới, nhân nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Nếu tu tâm bi, thì khó bố thí có thể bố thí, việc khó nhẫn nhục, có thể nhẫn nhục, việc khó làm có thể làm. Vì ý nghĩa này, nên trong tất cả các pháp lành, Bi là cội gốc.

Này thiện nam! Nếu người nào có thể tu tâm bi như vậy, thì nên biết, người đó có thể phá trừ nghiệp ác lớn như núi Tu-di, chẳng bao lâu, sẽ chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng; người này, tuy tạo nghiệp lành ít, nhưng hưởng được phước báo to lớn như núi Tu-di.

 

Phẩm 4: GIẢI THOÁT

Phật dạy:

– Này thiện nam! Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào, tu hạnh bi, thì nên biết những người này sẽ được tất cả phần giải thoát của pháp thể.

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Ngài dạy về Thể. Vậy Thể là thế nào?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Thể nghĩa là thân khẩu ý, mà thân khẩu ý từ nơi phương tiện sanh khởi. Phương tiện có hai: 1. Được nghe, 2. Suy nghĩ.

Lại có ba: 1. Huệ thí, 2. Trì giới, 3. Học rộng.

Thiện Sanh thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Như Ngài vừa dạy, từ ba phương tiện mà được phần giải thoát, vậy ba phương tiện có số nhất định không?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Không. Vì sao? Vì có người dù ở trong nhiều đời bố thí không biết bao nhiêu của cải, cho rất nhiều người, nhưng cũng không có pháp phần giải thoát. Có người, tuy chỉ trong một thời gian ngắn, lấy một vắt cốm đem cho một người ăn xin, mà lại có thể được pháp phần giải thoát. Có người ở chỗ vô lượng Đức Phật, thọ trì giới cấm, mà cũng không được pháp phần giải thoát, nhưng có người chỉ một ngày một đêm, thọ trì tám giới, mà lại được pháp phần giải thoát. Có người trong nhiều đời, ở nơi vô lượng Đức Phật, thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, mà cũng không được pháp phần giải thoát, nhưng có người chỉ đọc tụng một bài kệ bốn câu mà lại được pháp phần giải thoát. Nghĩa ấy là thế nào? Vì tâm của hết thảy chúng sanh, không giống nhau.

Này thiện nam! Nếu người nào, không nhất tâm xem xét kỹ sanh tử là khổ đau, Niết Bàn là an vui, thì người đó dù có huệ thí, trì giới, học rộng nghe nhiều, cũng không được pháp phần giải thoát. Nếu người nào, nhàm chán sanh tử tội lỗi, biết rõ Niết Bàn công đức an vui, thì người này, dù bố thí, trì giới và nghe rất ít, nhưng được pháp phần giải thoát.

Này thiện nam! Người được pháp giải thoát được ở trong ba trường hợp: 1. Khi Đức Phật ra đời, 2. Khi Duyên-giác ra đời, 3. Nếu không nằm trong trường hợp một và hai, thì khi vị trời ở cõi Sắc cứu cánh nói pháp giải thoát, người này nghe rồi liền được phần giải thoát.

Này thiện nam! Như Lai thuở xưa, khi mới phát tâm đâu được gặp Đức Phật và Phật-bích-chi, mà chỉ được nghe vị trời ở cõi Tịnh-cư 56 thuyết pháp giải thoát, sau khi nghe rồi liền phát tâm tu hành.

Này thiện nam! Pháp giải thoát như vậy không phải trời ở cõi Dục mà có thể chứng đắc được. Vì sao? Vì ở trời cõi Dục còn nhiều buông thả. Cũng chẳng phải trời ở cõi sắc mà chứng đắc được. Vì sao? Vì không có ba phương tiện. Cũng không phải trời ở cõi Vô sắc mà có thể chứng đắc được. Vì sao? Vì không có thân khẩu ý, mà pháp thể ấy là thân khẩu ý. Người ở châu Bắc-cu-lô cũng không chứng đắc được. Vì sao? Vì cũng không có ba phương tiện. Pháp phần giải thoát này, chỉ có ba hạng người chứng đắc được, đó là: Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát. Chúng sanh nếu gặp được thiện tri thức, thì chuyển sự giải thoát của Thanh-văn, thành giải thoát Duyên-giác, chuyển sự giải thoát của Duyên-giác, thành giải thoát của Bồ-tát. Bồ-tát chứng đắc được pháp phần giải thoát, thì không còn thối chuyển, không còn hư hoaị.

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Người thuyết pháp dùng nghĩa gì để khéo phân biệt, là những người này có phần giải thoát, những người kia không có phần giải thoát?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Pháp thể giải thoát như vậy, có hai hạng người được chứng đắc, đó là: Xuất gia và tại gia. Hai hạng người này chí tâm nghe pháp và thọ trì, sau khi nghe nỗi khổ trong ba đường dữ, kinh sợ đến dựng đứng lông tóc, buồn khóc, nên nổ lực kiên trì việc trai giới cho đến tội rất nhỏ cũng không hủy phạm. Nên biết, người này được pháp phần giải thoát.

Này thiện nam! Các phái ngoại đạo, được thiền định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, sống lâu vô lượng kiếp, nếu không được pháp phần giải thoát, thì nên xem người này là người địa ngục. Nếu người ở trong địa ngục A-tỳ, trải qua vô lượng kiếp, chịu nhiều khổ não, mà lại được pháp phần giải thoát, thì nên xem người này là người Niết Bàn.

Này thiện nam! Cho nên Như Lai đối với ông Uất-đầu-lam-phất mới khởi tâm thương xót, còn đối với Đề-bà-đạt-đa thì không khởi tâm thương xót.

Này thiện nam! Như Xá-lợi-phất trong sáu vạn kiếp, cầu đạo Bồđề, sở dĩ thối tâm, là do chưa được pháp phần giải thoát, nhưng vẫn còn hơn Duyên-giác lợi căn.

Này thiện nam! Pháp thể giải thoát có ba bậc: Thượng, Trung, Hạ. Bậc thượng là Phật, bậc trung là Duyên-giác, bậc hạ là Thanh-văn.

Này thiện nam! Có người chuyên cần cầu giới Ưu-bà-tắc, ở trong nhiều đời tu hành, theo những điều đã được nghe, mà cũng không được giới. Có người xuất gia, cầu giới Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, tu hành trong nhiều đời, theo điều đã lãnh hội mà cũng không được. Vì sao? Vì không thể đạt được pháp phần giải thoát. Cho nên gọi là tu giới, không được gọi là trì giới.

Này thiện nam! Nếu các Bồ-tát, được pháp phần giải thoát, thì trọn đời, không còn tạo nghiệp cầu sanh trong ba cõi nữa, chỉ luôn nguyện sanh nơi đâu, có lợi ích cho chúng sanh, nếu tự biết phước báo mình sẽ sanh lên cõi trời, liền xoay phước báo ấy để sanh trong cõi người, việc làm ấy chính là bố thí, trì giới, tu thiền định.

Này thiện nam! Nếu hàng Thanh-văn được phần giải thoát, thọ thân tứ đại không qúa ba lần, sẽ đến được giải thoát. Hàng Phật-bíchchi cũng như vậy. Các vị đại Bồ-tát đã được phần giải thoát, dù thọ thân trải qua vô lượng kiếp, thường không thối chuyển, tâm không thối chuyển hơn hẳn tất cả Thanh-văn, Duyên-giác.

Này thiện nam! Nếu được pháp phần giải thoát như vậy, thì dù có bố thí ít, cũng được phước báo vô lượng, ít giữ giới và ít nghe pháp cũng được phước báo lớn lao như thế. Giả sử người này ở trong ba đường ác, không giống như người thọ khổ trong ba đường ác. Nếu các vị Bồ-tát, được pháp phần giải thoát, gọi là Địa-điều-nhu. Sao gọi là Địa-điềunhu? Vì tất cả phiền não dần dần suy yếu, đó là ngược dòng sanh tử.

Này thiện nam! Có bốn hạng người: 1/ Thuận theo dòng sanh tử, 2/ Ngược dòng sanh tử, 3/ Không thuận không nghịch, / Đã đến bờ giải thoát.

Này thiện nam! Pháp giải thoát như vậy, đối với hàng Thanhvăn gọi là Địa-nhu-nhuyến. Đối với hàng Bồ-tát, cũng gọi là Địa-nhunhuyến, hay Địa-hỷ. Vì nghĩa gì mà gọi là Địa-hỷ? Vì nghe mà không thối tâm nên gọi là Địa-hỷ. Vì nghĩa gì mà gọi là Bồ-tát? Là vì thường giác ngộ cho tâm chúng sanh, như vậy Bồ-tát, đối với sách vở của ngoại đạo, chính mình tự biết không thọ trì và không dạy bảo người khác thọ trì. Bồ-tát như thế, không gọi là Trời, Người, chẳng phải gồm thâu vào năm đường, nên gọi là tu hành đạo không chướng ngại.

Này thiện nam! Bồ-đề có bốn chủng tử: 1/ Không tham tài vật, 2/ Không tiếc thân mạng, 3/ Tu hành nhẫn nhục, / Thương yêu chúng sanh.

Này thiện nam! Chủng tử Bồ-đề tăng trưởng như vậy lại có năm điều: 1/ Đối với thân mình không tự khinh rẻ: “Ta không thể chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng”, 2/ Tự thân thọ khổ, tâm không hối hận, 3/ Siêng năng tu hành tinh tấn không ngừng nghỉ, 4/ Cứu giúp vô lượng khổ não của chúng sanh. 5/ Thường khen ngợi công đức vi diệu của Tam Bảo. Người trí lúc tu hành Bồ-đề, thường nên tu tập năm điều nói trên, để hạt giống Bồ-đề nẩy nở tăng trưởng tươi tốt. Lại có sáu điều, là từ bố thí Ba-la-mật cho đến Bát-nhã Ba-la-mật. Sáu pháp Ba-la-mật đều là nhân nơi một pháp mà tăng trưởng, đó là không buông lung. Bồtát buông lung, thì không tăng trưởng sáu Ba-la-mật; còn không buông lung thì mới tăng trưởng sáu Ba-la-mật.

Này thiện nam! Bồ-tát lúc cầu Bồ-đề, phải có bốn điều: 1/ Gần gũi bạn lành. 2/ Giữ tâm vững chắc, khó hoại. 3/ Làm những việc khó làm. 4/ Thương xót chúng sanh. Lại có bốn điều: 1/ Thấy người khác được lợi ích sanh tâm vui mừng. 2/ Thường thích ca tụng công đức người khác, 3/ Thường ưa tu tập sáu pháp niệm xứ, / Siêng nói sanh tử có nhiều tội lỗi.

Này thiện nam! Nếu có người nói lìa tám pháp như vậy mà được Bồ-đề, thì điều này là không thể có.

Này thiện nam! Nếu có Bồ-tát, mới phát tâm Bồ-đề Vô thượng, tức được gọi là phước điền vô thượng. Bồ-tát như vậy thì thù thắng hơn mọi sự việc của tất cả thế gian và của chúng sanh.

Này thiện nam! Nếu có người nói vô lượng thế giới có vô lượng Đức Phật, nhưng đạo quả của Phật rất khó được. Vì sao? Vì thế giới vô biên, chúng sanh cũng vậy; chúng sanh vô biên, Phật đạo cũng không giới hạn. Giả sử Phật đạo dễ được, thì một đức Phật lẽ ra hoá độ được tất cả chúng sanh và nếu như vậy thì thế giới, chúng sanh có giới hạn.

Này thiện nam! Lúc Phật ra đời, độ được chín vạn chín na-do-tha người, đệ tử Thanh-văn của Ngài, độ được một na-do-tha người, mà cũng không độ hết được chúng sanh, nên gọi chúng sanh là vô biên, do vậy mà trong kinh Thanh-văn, Như Lai nói không có mười phương Phật. Vì sao? Vì sợ các chúng sanh xem thường Phật đạo. Thánh đạo của Phật không thuộc về thế gian, nên lời nói của Như Lai không có hư vọng. Đức Như Lai không có tâm đố kỵ đối với việc khó được, nên mới nói không có mười phương chư Phật.

Này thiện nam! Rất nhiều chúng sanh phát tâm Bồ-đề, mà không thể thực hành rốt ráo đạo Bồ-tát. Nếu có người vấn nạn: Ở hiện tại có nhiều Đức Phật, tại sao trong kinh, chỉ nói quá khứ và vị lai là có nhiều đức Phật, không nói trong đời hiện tại có nhiều Đức Phật?

Này thiện nam! Ở trong một quốc độ, Như Lai nói quá khứ, vị lai có nhiều Đức Phật, ở đời hiện tại chỉ có một Đức Phật thôi.

Này thiện nam! Ai hiểu được nghĩa chân thật, thì có thể được Phật đạo. Vô lượng chúng sanh tu hành Phật đạo, phần nhiều do thối thất tâm Bồ-đề, chỉ có một người mới có thể được độ thoát, ví như hoa Am-la. Ví như trứng loài cá (ngư tử).v.v…

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: 1/ Bồ-tát tai gia. 2/ Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia được pháp phần giải thoát không khó; ngược lại Bồ-tát tại gia được pháp phần giải thoát mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 5: BA THỨ BỒ ĐỀ

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Ngài đã dạy: “Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia,và Bồ-tát xuất gia. Bồ-đề có ba thứ: Bồ-đề Thanh-văn, Bồ-đề Duyên-giác, Bồ-đề chư Phật. Nếu người đạt được Bồ-đề gọi là Phật, thì tại sao Thanh-văn, Duyên-giác không gọi là Phật? Nếu người giác ngộ pháp tánh gọi là Phật, tại sao Thanh-văn, Duyên-giác cũng giác ngộ pháp tánh, mà duyên cớ gì không gọi là Phật? Nếu Nhất thiết trí gọi là Phật, tại sao Thanh-văn, Duyên-giác, cũng Nhất thiết trí mà không gọi là Phật? Lại nói Nhất thiết ấy tức là Tứ Đế?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Bồ-đề có ba thứ: 1/ Từ nghe mà được, 2/ Từ tư duy mà được, 3/ Từ tu tập mà được. Thanh-văn là hàng từ nghe mà được Bồ-đề, nên không gọi là Phật. Hàng Phật Bích Chi, từ tư duy mà giác ngộ được chút ít, nên mới gọi là Phật Bích Chi. Còn Như Lai không thầy, không dựa vào nghe và tư duy, chỉ từ tu tập mà giác ngộ được tất cả, nên mới gọi là Phật.

Này thiện nam! Biết rất rõ pháp tánh gọi là Phật. Pháp tánh có hai thứ: Tổng tướng và Biệt tướng. Thanh-văn chỉ biết tổng tướng, nên không gọi là Phật, Phật Bích Chi cũng chỉ biết tổng tướng, không do nghe mà được, nên chỉ gọi là Phật Bích Chi chớ không gọi là Phật. Như Lai Thế Tôn thì tổng tướng, biệt tướng, tất cả đều biết rõ, không từ nghe, không từ suy nghĩ, vô sư , một mình tự giác ngộ lấy, từ tu tập mà được chứng đắc nên gọi là Phật.

Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn duyên trí đầy đủ, Thanh-văn, Duyên-giác dù biết Tứ đế, mà duyên trí không đầy đủ, do ý nghĩa đó, nên không gọi là Phật. Như lai Thế tôn, duyên trí đầy đủ, cho nên được gọi là Phật.

Này thiện nam! Như dòng nước sông Hằng, ba con thú đều cùng lội qua: Thỏ, ngựa và voi; thỏ lội qua, chân không chạm đáy sông, mà chỉ nổi trên mặt nước. Ngựa, có khi chân chạm đến đáy sông, có khi không chạm đến đáy sông. Còn voi, thì lúc nào, chân cũng chạm đến đáy sông. Dòng nước sông Hằng, tượng trưng cho mười hai nhân duyên; hàng Thanh-văn vượt qua cũng như loài thỏ kia qua sông. Duyên-giác vượt qua cũng như loài ngựa kia qua sông. Còn Như Lai vượt qua như loài voi qua sông. Vì vậy Như Lai được gọi là Phật. Thanh-văn, Duyêngiác dù đoạn trừ phiền não, nhưng chưa đoạn trừ được Tập Khí, còn Như Lai đã nhổ sạch mọi cội nguồn Tập Khí, phiền não, nên gọi là Phật.

Này thiện nam! Nghi có hai loại: Nghi Phiền não. Và nghi Vô ký. Hàng nhị thừa đoạn trừ nghi phiền não, chưa đoạn trừ nghi vô ký, Như Lai đoạn cả hai nghi, nên gọi là Phật.

Này thiện nam! Hàng Thanh-văn nhàm chán việc học rộng; hàng Duyên-giác nhàm chán sự suy nghĩ, Như Lai đối với hai điều ấy không sanh tâm nhàm chán, nên gọi là Phật.

Này thiện nam! Thí như vật sạch để đựng đồ sạch, trong ngoài đều sạch. Thanh-văn, Trí Duyên-giác tuy thanh tịnh, mà thân tâm không được trong sạch, Như Lai thì không vậy, trí và thân đều được thanh tịnh, nên gọi là Phật.

Này thiện nam! Thanh tịnh có hai loại: Trí thanh tịnh. Hạnh thanh tịnh. Thanh-văn, Duyên-giác dù có trí thanh tịnh, nhưng hạnh không thanh tịnh, Như lai Thế Tôn Trí, Hạnh đều thanh tịnh, nên gọi là Phật.

Này thiện nam! Công hạnh của Thanh-văn, Duyên-giác còn bị giới hạn; công hạnh của Như Lai Thế Tôn không có giới hạn, nên gọi là Phật.

Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn, chỉ trong một niệm có thể phá trừ hai chướng: Chướng trí. Chướng giải thoát, nên gọi là Phật, Như Lai đầy đủ trí nhân và trí quả, nên gọi là Phật.

Này thiện nam! Như Lai nói pháp, không hai lời, không sai lầm và không hư vọng; trí tuệ không ngại; biện tài lưu loát; đầy đủ nhân trí, thời trí và tướng trí; không che giấu, không cần gìn giữ cũng không nói lỗi, biết rõ tất cả phiền não của chúng sanh, nhân duyên nào phát khởi, nhân duyên nào diệt trừ; tám pháp của thế gian không làm cho ô nhiễm, có lòng thương xót, cứu người khổ não, đầy đủ mười lực, bốn điều không sợ, ba niệm Đại bi, sức lực thân tâm đều được đầy đủ.

Thế nào là đầy đủ thân lực? Này thiện nam! Cõi trời Ba mươi ba, có một thành lớn, tên là Thiện Kiến, thành ấy dài rộng mười vạn lý, phòng xá trăm vạn, các vị trời ở trong thành này, có một ngàn sáu mươi sáu vạn, sáu ngàn sáu trăm sáu mươi sáu vị. Trong ba tháng hạ, vua Thích Đề Hoàn Nhân, muốn đến rừng Ba Lợi Chất Đa để thưởng ngoạn, lúc ấy, trên núi Càn Đà có một con voi chúa, tên là Y-La-BátNa có tới bảy đầu, vua mới khởi niệm, voi liền biết và tự đến. Chư thiên trong thành Thiện Kiến, đều từ trên đầu voi kia lần lượt đi qua rừng BaLợi-Chất-Đa cách thành năm mươi do tuần. Sức mạnh của voi ấy, hơn hẳn tất cả các con voi khác. Giả sử một vạn tám ngàn con voi ấy hợp sức cũng không bằng sức một ngón tay của Phật, do vậy, thân lực của Đức Như Lai hơn hẳn sức lực của tất cả chúng sanh. Thế giới vô biên, chúng sanh cũng vô biên, tâm lực của Đức Như Lai cũng vô biên; cho nên, chỉ có Đức Như Lai mới được gọi là Phật. Hàng nhị thừa, không ai được gọi là Phật. Vì ý nghĩa đó, nên gọi Đức Phật là Vô thượng sư, Đại trượng phu, là Voi chúa trong loài người, là Sư tử, là Long vương, là Điều ngự, là bực dẫn đường chỉ lối, là đại thuyền sư, là đại Y sư, là đại Ngưu vương, là Ngưu vương trong loài người, là Tịnh liên hoa, là đấng Vô sư Độc giác, là Mắt sáng cho các chúng sanh, là đại Thí chủ, là đại Sa môn, là đại Bà la môn, là Tịch tĩnh, Trì giới chuyên cần, Tu hành tinh tấn, là đến với Bờ giác, là được giải thoát.

Này thiện nam! Thanh-văn, Duyên-giác dù có được Bồ-đề, nhưng đều không được những điều như trên, nên chỉ có Như Lai mới gọi là Phật.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia và Xuất gia. Bồ-tát xuất gia phân biệt ba thứ Bồ-đề như vậy không khó; còn Bồ-tát tại gia phân biệt ba thứ Bồ-đề như vậy mới thật là khó! Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 6: TU HẠNH NGHIỆP BA MƯƠI HAI TƯỚNG

Thiện Sanh bạch Phật.

– Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Ngài dạy, thân lực của Bồ-tát khi nào mới thành tựu được?

Phật dạy:

Này thiện nam! Lúc mới tu tập ba mươi hai tướng,

Này thiện nam! Bồ-tát lúc tu tập ba mươi hai tướng, được gọi là Bồ-tát và được thêm hai định: Một là định Bồ-đề; hai là định Hữu. Lại có hai định: Một là Định biết rõ đời sống kiếp trước; Hai là Định nguyên nhân sanh ra chánh pháp.

Này thiện nam! Bồ-tát từ khi mới tu tập ba mươi hai tướng cho đến khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, trong thời gian đó, không nhàm chán việc học rộng. Bậc đại Bồ-tát tu tập mỗi mỗi tướng thường dùng cả trăm phước đức để che chở mình, lúc tu tâm có năm mươi phước, lúc tâm viên mãn cũng có năm mươi, cộng lại thành trăm phước đức.

Này thiện nam! Tất cả phước đức của thế gian không bằng công đức nơi một lỗ chân lông của Đức Như Lai; công đức tất cả các sợi lông của Đức Như Lai không bằng công đức của một tướng tốt, gom hết công đức của tám mươi tướng tốt không bằng công đức của một trong ba mươi hai tướng, công đức tất cả các tướng không bằng công đức của tướng Bạch hào; công đức của tướng Bạch hào không bằng không sánh kịp công đức của tướng Vô-kiến-đảnh.

Này thiện nam! Bồ-tát ở trong vô lượng kiếp, thường vì các chúng sanh, làm lợi ích lớn, chí tâm siêng năng làm các thiện nghiệp, do đó Như Lai mới thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Ba mươi hai tướng này, là phước báo của tâm đại bi. Chuyển luân Thánh vương dù có tướng này, nhưng không thành tựu rõ ràng đầy đủ như vậy. Thể của tướng nghiệp ấy tức là nghiệp thân khẩu ý. Lúc tu nghiệp này, không phải ở cõi trời, châu Bắc-cu-lô, phải là thân nam ở khắp ba phương, không phải là thân nữ. Bậc đại Bồ-tát tu nghiệp này rồi, gọi là mãn ba A- tăng -kỳ-kiếp, thứ đến mới thành tựu Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Này thiện nam! Như Lai thuở xưa chỗ Phật Bảo Đảnh được một A- tăng -kỳ-kiếp thứ nhất, ở chỗ Phật Nhiên Đăng được một A-tăng-kỳkiếp thứ hai, ở chỗ Phật Ca Diếp là đủ một A-tăng-kỳ-kiếp thứ ba.

Này thiện nam! Thuở xưa, Đức Như Lai ở chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni, đầu tiên phát tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, khi đã phát tâm rồi thì cúng dường vô lượng Chư Phật, trồng các thiện căn, tu tập đạo hạnh, giữ giới tinh tấn, học rộng nghe nhiều.

Này thiện nam! Vị đại Bồ-tát tu hành ba mươi hai tướng rồi, tự thân biết rõ mình nhất định thành tựu Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, như là xem quả Am-ma-lặc ở trong bàn tay. Nghiệp tướng kia, tuy là như thế, nhưng khi tu tập thứ lớp không cần phải như thế. Hoặc có người nói: “Như Lai trước được tướng con mắt ngưu vương. Vì sao? Vì lúc làm Bồ-tát, Ngài ở vô lượng kiếp thích dùng con mắt lành, hiền hoà để nhìn chúng sanh, cho nên trước được tướng mắt ngưu vương, thứ đến mới được các tướng khác”. Hoặc có thuyết nói: “Như Lai trước được tướng tám Phạm âm, còn các tướng khác dần dần được sau. Vì sao? Vì trước kia, lúc Ngài làm Bồ-tát đã vô lượng kiếp thường dùng lời dịu hoà và chân thật để dạy bảo chúng sanh, vì thế trước tiên Ngài được tám tướng Phạm âm”. Hoặc có thuyết nói: “Như Lai trước được tướng Vô kiến đảnh, dần dần sau được các tướng khác. Vì sao? Vì khi Ngài làm Bồ-tát trải vô lượng kiếp, cúng dường các sư trưởng, chư Phật, Bồ-tát, cúi đầu đảnh lễ, diệt trừ tâm kiêu mạn, vì thế mà trước hết Ngài được tướng Vô kiến đảnh”. Hoặc có thuyết nói: “Như Lai trước tiên được tướng lông mày trắng, thứ đến được các tướng khác. Vì sao? Vì Khi Ngài làm Bồtát trải qua vô lượng kiếp không dối gạt một chúng sanh nào, cho nên được tướng trắng giữa lông mày.

Này thiện nam! Ngoài đức Phật ra không có ai có thể đạt được nghiệp tướng như vậy.

Này thiện nam! Hoặc có người thứ lớp nói: “Như Lai trước được tướng lòng bàn chân tròn đầy, sau mới được các tướng khác. Vì sao? Vì lúc Ngài làm Bồ-tát trải qua vô lượng kiếp đã bố thí, trì giới, tu tập đạo hạnh, tâm không lay động, nên trước được tướng bàn chân tròn đầy, sau mới được tướng dưới lòng bàn chân các vân xoáy tròn. Vì sao? Vì khi Ngài làm Bồ-tát trải qua vô lượng kiếp cúng dường cha mẹ, sư trưởng, bạn lành, theo như chánh pháp mà giúp đỡ chúng sanh, cho nên thứ đến mới được tướng bàn chân, bàn tay đều có vân xoáy tròn. Được tướng này rồi, kế được tướng ngón tay thon dài. Vì sao? Vì lúc Ngài làm Bồtát chí tâm thọ trì giới thứ nhất và giới thứ tư của giới Ưu-bà-tắc, nên sau đó, được tướng ngón tay ngòi bút và tướng ngón chân dài. Thứ đến, được tướng toàn thân đầy đặn. Vì lúc Ngài hành Bồ-tát đạo, luôn nghe lời dạy bảo của sư trưởng, cha mẹ, bạn lành, cho nên được tướng toàn thân đầy đặn. Thứ đến, được tướng màng lưới giữa các ngón tay, ngón chân. Vì sao? Vì lúc Ngài hành Bồ-tát đạo dùng bốn Nhiếp pháp để gồm thâu chúng sanh, cho nên thứ đến được tướng tay chân mềm dịu, hơn các thân thể khác. Vì sao? Vì lúc Ngài hành Bồ-tát đạo, trải qua vô lượng kiếp, dùng tay tắm rửa cho sư trưởng, cho cha mẹ sạch hết dơ bẩn, dùng dầu thơm xoa vào, nên được tướng chân tay mềm mại. Được tướng ấy rồi thứ đến được tướng lông ở trên thân xoáy đều một phía. Vì sao? Vì lúc Ngài hành Bồ-tát đạo trải qua vô lượng kiếp thường hoá độ chúng sanh, dạy bảo tu hành bố thí, trì giới, làm các việc lành, cho nên được tướng lông ở trên thân xoáy đều. Được tướng ấy rồi thứ đến được tướng bắp chân lộc vương. Vì sao? Vì lúc Ngài hành Bồ-tát đạo chí tâm nghe pháp và nói pháp để diệt trừ tội lỗi sanh tử, cho nên được tướng bắp chân lộc vương. Được tướng ấy rồi, thứ đến được tướng thân tròn đầy như cây cổ thụ Ni-câu-đà. Vì sao? Vì lúc Ngài hành Bồ-tát đạo, trải qua vô lượng kiếp thường bố thí thuốc men cho tất cả chúng sanh bị bệnh tật, cho nên được tướng thân hình tròn đầy. Được tướng ấy rồi, thứ đến được tướng tay dài quá đầu gối. Vì sao? Vì lúc Ngài hành Bồtát đạo trọn đời không bao giờ dối gạt các bậc Hiền Thánh, cha mẹ,sư trưởng và thiện hữu tri thức, nên được tướng tay dài quá đầu gối. Được tướng ấy rồi, thứ đến được tướng âm tàng như mã vương, tượng vương. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp thấy người sợ hãi liền ra tay cứu giúp, sanh tâm hổ thẹn, không nói lỗi người, khéo che tội người khác, cho nên được tướng âm tàng giống như mã vương, tượng vương. Được tướng ấy rồi, thứ đến được tướng thân hình mềm mại, trong mỗi lỗ chân lông đều mọc lên một sợi lông. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, gần gủi người trí, ưa nghe chánh pháp và thích luận bàn, sau khi nghe rồi rất thích tu tập và ưa sửa sang đường sá, lượm bỏ gai gốc, cho nên được tướng da thịt mịn màng, trong mỗi lỗ chân lông mọc lên một sợi lông. Được tướng ấy rồi, thứ đến được thân màu vàng ròng. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, thường bố thí cho chúng sanh phòng xá, ngoạ cụ, thực phẩm, đèn đuốc, cho nên được tướng thân màu vàng ròng. Được tướng ấy rồi, thứ đền được bảy nơi đầy đặn. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải vô lượng kiếp, nơi đáng sân hận mà sanh tâm không sân hận, ưa thích bố thí cho chúng sanh những vật cần dùng, cho nên được tướng bảy nơi đầy đặn. Được tướng ấy rồi, thứ đến được tướng những khớp xương đều đặn tròn đầy. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải vô lượng kiếp; khéo léo phân biệt việc thiện việc ác, lời nói không sai lầm, không nói lời không có ý nghĩa, pháp đáng thọ trì thì thường thuyết giảng, pháp không đáng thọ trì, thì không bao giờ nói ra, cho nên được tướng những chỗ khớp xương không huỷ khuyết. Được tướng này rồi, thứ đến được thêm hai tướng thân cao và má tròn, đều như sư tử. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, không nói hai lưỡi, không dạy người khác nói hai lưỡi, cho nên được hai tướng này. Được tướng này rồi, thứ đến được thêm ba tướng, có bốn mươi cái răng, răng trong sáng, bằng nhau và khép kín. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, dùng pháp mười điều thiện, dạy bảo chúng sanh, chúng sanh thọ nhận rồi sanh tâm vui mừng, thường hay khen ngợi công đức người khác, cho nên được ba tướng này. Được ba tướng này rồi, thứ đến được tướng bốn cái răng cửa trắng trong như ngọc. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, tu tập Từ bi; ở trong cõi dục, thường thích suy nghĩ về các pháp lành, cho nên được tướng bốn răng nanh trắng như ngọc. Được tướng này rồi, thứ đến được tướng trong miệng luôn có mùi vị rất thơm. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, không đợi người đến xin rồi mới cho, nên được tướng này. Thứ đến thêm hai tướng là nhục kế và lưỡi dài rộng. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, chí tâm thọ trì pháp mười điều thiện, đồng thời cũng giáo hoá chúng sanh, cho nên được hai tướng này. Thứ đến được tướng phạm âm. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, không nói lời xấu ác, không dạy người khác nói xấu ác, nên được tướng này. Thứ đến được tướng con mắt trong xanh như mắt ngưu vương. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, dùng con mắt bình đẳng, hiền hoà xem kẻ oán, người thân đều như nhau, nên được tướng này. Thứ đến được tướng bạch hào. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài thường thuyết giảng chánh pháp, pháp chân thật, không hư dối, nên được tướng này. Thứ đến được tướng vô kiến đảnh. Vì sao? Vì lúc hành Bồ-tát đạo, Ngài trải qua vô lượng kiếp, cúi đầu đảnh lễ tất cả thánh hiền, sư trưởng, cha mẹ, một lòng tôn kính, cúng dường, nên được tướng này.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia, Xuất gia. Bồ-tát xuất gia, tu tập nghiệp tướng này không khó; ngược lại Bồ-tát tại gia, tu tập tướng này, mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

KINH ƯU-BÀ-TẮC GIỚI

QUYỂN 2

Phẩm 7: PHÁT NGUYỆN

Thiện Sanh bạch phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Hành nghiệp ba mươi hai tướng tốt, hạng người nào thì thực hành được?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Người trí thực hành được.

– Bạch đức Thế Tôn! Thế nào gọi là người trí?

– Này thiện nam! Nếu ai có thể phát nguyện lớn Vô thượng gọi là người trí.

Bậc đại Bồ-tát, khi phát tâm Bồ-đề rồi, thì thân, khẩu, ý đều làm việc lành, nguyện vì chúng sanh, đời sau được phước báo, tất cả đều chung thọ hưởng. Bậc đại Bồ-tát thường gần gũi chư Phật, Thanh-văn, Duyên-giác, thiện hữu tri thức.v.v… để cúng dường, thưa hỏi về đạo pháp sâu xa và phát tâm thọ trì không để quên mất, rồi phát nguyện: Ta nay gần gũi chư Phật, Thanh-văn, Duyên-giác và những bạn lành, thà trong nhiều đời, chịu nhiều khổ não, nhưng đối với đạo Bồ-đề tâm không thối chuyển; chúng sanh dùng tâm xấu ác, đánh, mắng, mạ nhục tôi, tôi nguyện nhờ nhân duyên ấy mà tăng thêm lòng Từ bi, không khởi tâm niệm xấu ác. Tôi nguyện sau này sinh ra ở đâu, không làm thân nữ, không căn, hai căn, tôi tớ cho người; hoặc nguyện thân tôi, có sức tự tại được người khác hầu cận, không để người khác có oai quyền điều khiển. Nguyện cho thân của tôi đầy đủ các căn, xa lìa bạn ác, không sanh trong đất nước hung ác, hay nơi biên địa, mà thường sanh vào nhà cao sang, có sắc đẹp, sức lực hơn hết, báu vật đầy đủ, được tâm niệm tốt, tự tại, khoẻ mạnh, hễ nói điều gì người nghe đều vui vẻ, xa lìa các chướng ngại, không có xao lãng, lìa các nghiệp ác của thân khẩu ý, thường làm nhiều lợi ích cho chung sanh, vì lợi ích chúng sanh nên không tham tiếc thân mạng, không vì bản thân mà làm việc ác. Khi làm lợi ích cho chúng sanh không mong trả ơn, thường thích thọ trì mười hai bộ kinh, đã thọ trì rồi đem dạy người khác, phá trừ sự hiểu biết sai lầm và hành động ác của chúng sanh, mọi việc giữa đời không thể hơn ta, đã được hơn tất cả người rồi lại đem dạy bảo người khác, khéo điều trị bệnh nặng nơi thân tâm của chúng sanh. Thấy người chia rẽ khiến cho hoà hợp, thấy người sợ hãi tìm cách giúp đỡ, khi giúp đỡ rồi giảng nói các pháp lành cho người ấy nghe, khi họ nghe thì tâm được ổn định. Thấy người khác đói khát, đem cả thân mạng bố thí cho họ, khiến được ấm no, nguyện cho người ấy không khởi tâm tham đắm điều ác, lúc ăn thân ta như ăn cỏ cây. Thường thích cúng dường sư trưởng, cha mẹ, bạn lành và người đức độ, đối với kẻ oán, người thân tâm luôn bình đẳng, thường tu sáu niệm, tưởng vô ngã và mười hai nhân duyên, ở nơi không có Tam Bảo, chọn chỗ vắng lặng, tu tập đức Từ bi. Tất cả chúng sanh, nếu thấy thân tôi, hoặc nghe hay chạm vào đều xa lìa được phiền não. Bồ-tát biết ngoài Bồ-đề ra, không cầu quả gì khác, chỉ cầu làm lợi ích cho chúng sanh.

Này thiện nam! Bồ-tát có thể lập nguyện như vậy. Nên biết, người như thế chính là trưởng giả, có của cải và pháp hơn tất cả, là vị cầu pháp vương mà chưa được Pháp vương.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát thường đầy đủ ba điều: 1. Tâm không ưa thích sách vở ngoại đạo, 2. Tâm không tham muốn cảnh vui sanh tử, 3. Thường thích cúng dường Phật, Pháp, Tăng.

Hoặc lại có ba điều: 1. Vì người chịu khổ tâm không hối hận, 2. Đầy đủ trí tuệ nhiệm mầu vô thượng, 3. Đủ các pháp lành, không sanh tâm kiêu mạn.

Hoặc lại có ba điều: 1. Vì các chúng sanh chịu khổ nơi địa ngục, xem như hưởng cảnh an vui trên cõi trời Tam thiền, 2. Thấy người khác có lợi, không khởi tâm ganh ghét, 3. Làm các việc lành, không vì sanh tử.

Hoặc lại có ba điều: 1. Thấy người khác thọ khổ, xem như mình thọ, 2. Tu tập pháp lành là vì chúng sanh, 3. Khéo tạo các phương tiện khiến họ xa lìa đau khổ.

Hoặc lại có ba điều: 1. Quán sát cảnh vui nơi sanh tử như rắn độc lớn, 2. Ưa ở trong sanh tử là muốn làm lợi ích cho chúng sanh, 3. Quán Pháp nhẫn vô sanh có nhiều công đức.

Hoặc lại có ba điều: 1. Xả bỏ thân, 2. Xả bỏ mạng sống, 3. Xả bỏ tài vật. Xả bỏ ba điều ấy là vì chúng sanh.

Hoặc lại có ba điều: 1. Học rộng nghe nhiều, không nhàm chán, 2. Chịu nhẫn nhịn các điều ác, 3. Dạy người khác tu hạnh nhẫn nhục.

Hoặc lại có ba điều: 1. Tự xem rõ về lỗi mình, 2. Khéo che giấu tội lỗi người khác, 3. Thích tu tâm từ.

Hoặc lại có ba điều: 1. Chí tâm giữ gìn giới cấm, 2. Dùng bốn Nhiếp pháp để gồm thâu chúng sanh, 3. Lời nói dịu dàng, không thô bạo.

Hoặc lại có ba điều: 1. Có thể mở hội thí pháp, 2. Có thể mở hội thí tài vật, 3. Đem hai loại thí này, khuyên chúng sanh thực hành.

Hoặc lại có ba điều: 1. Thường dùng pháp Đại thừa dạy bảo chúng sanh, 2. Thường tu các hạnh tinh tấn tăng thượng, 3. Đối với chúng sanh, không khởi tâm khi dể.

Hoặc lại có ba điều: 1. Mặc dù có nhiều phiền não nhưng có thể chịu đựng được, 2. Biết phiền não có nhiều tội lỗi, mà không nhàm chán, 3. Tự mình đầy đủ phiền não, mà có thể diệt trừ phiền não người khác.

Hoặc lại có ba điều: 1. Thấy người khác có lợi lạc, vui mừng như của mình, 2. Được sự an lạc, không tho hưởng riêng, 3. Ở nơi thừa dưới không khởi tưởng cho là đủ.

Hoặc lại có ba điều: 1. Nghe sự khổ hạnh của các vị Bồ-tát, không có sợ hãi, 2. Thấy người đến xin, không nói không có, 3. Không khởi niệm ta hơn tất cả.

Này thiện nam! Bồ-tát nếu có khả năng quán nhân, quán quả, thì cũng có khả năng quán nhân quả hay quán quả nhân. Bồ-tát như vậy, có thể đoạn trừ nhân quả, có thể chứng đắc nhân quả, Bồ-tát đã có thể đoạn trừ hay chứng đắc được nhân quả, thì gọi là pháp quả, đó là vua của các pháp, là sự tự tại của pháp.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia và Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia lập nguyện như vậy không khó, ngược lại, Bồ-tát tại gia lập nguyện như vậy mới thật là khó! Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 8: BỒ TÁT GIẢ DANH VÀ BỒ TÁT THẬT NGHĨA

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Như Ngài đã dạy, Bồ-tát có hai hạng: Bồtát giả danh và Bồ-tát đúng nghĩa chân thật. Vậy thế nào là Bồ-tát giả danh?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Chúng sanh nếu đã phát tâm Bồ-đề rồi, mà còn thích học pháp thuật của ngoại đạo, dùng kinh điển, sách vở, của họ để đọc tụng, thọ trì, lấy giáo pháp ấy dạy bảo chúng sanh, tự bản thân giết hại kẻ khác, không thích tu tập Từ bi, lại vui thích trong sanh tử, thường làm các nghiệp hưởng cảnh vui sanh tử, không có niềm tin đối với Tam Bảo, sanh tâm nghi ngờ, thương tiếc thân mạng, không thể nhẫn nhục, lời nói thô bạo, hối hận, buông lung, đối với tự thân sinh ý tưởng khi dể, ta không cần chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, đối với phiền não khởi sanh sợ hãi, không siêng năng tu tập để tìm cách phá trừ, thường khởi tâm bỏn sẻn, tham lam, ganh ghét, gần gũi bạn ác, biếng nhác, tâm luôn loạn động, thích chỗ tối tăm, không tin sáu độ, không thích tu tập phước đức, không quán sát sanh tử, thường thích thọ trì lời ác của người khác. Đó là Bồ-tát giả danh.

Này thiện nam! Hoặc có chúng sanh phát tâm Bồ-đề, muốn được chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nghe nói phải trải qua vô lượng kiếp cực khổ tu đạo, sau mới chứng đắc. Nghe như vậy rồi, khởi tâm hối tiếc, dù có tu tập, mà đạo tâm không chơn thật, không có ăn năn, hổ thẹn, không có lòng thương người, vâng theo ngoại đạo, giết dê tế trời, dù có chút tín tâm, nhưng không bền chắc, vui theo năm dục, tạo mọi điều ác, ỷ được sắc đẹp, tiền tài, vật chất mà sanh tâm kiêu mạn, hành động điên đảo, không có lợi ích, vì vui cảnh sanh tử, mà hành bố thí, vì cảnh vui cõi trời mà giữ gìn giới cấm, muốn được sống lâu mà tu thiền định; đó gọi là Bồ-tát giả danh.

Còn Bồ-tát đúng như nghĩa chơn thật, là có thể nghe hiểu nghĩa lí sâu xa, luôn gần gũi với các bạn lành, thích cúng dường sư trưởng cha mẹ, bạn lành, thích nghe mười hai bộ kinh của đức Như Lai, ra sức thọ trì đọc tụng, biên chép, suy nghĩ nghĩa lí. Vì nhân duyên cầu pháp không tiếc thân mạng, vợ con của cải, tâm luôn bền chắc, thương yêu tất cả mọi loài, nói lời dịu dàng, không đợi người hỏi, lời nói chân thật, không nói thô ác và nói hai lưỡi. Đối với tự thân, không khởi tâm khi dể, tự tay thực hành bố thí, không bị ngăn cản, thường thích tu tập, mài gươm trí tuệ, học tập sách vở ngoại đạo là để phá trừ tà kiến, để vượt lên trên tà kiến. Khéo dùng phương tiện để điều phục chúng sanh, ở giữa đám đông không sanh tâm khiếp sợ, thường dạy cho chúng sanh Bồ-đề dễ chứng đắc, khiến cho người nghe không khởi tâm lo sợ, chuyên cần tu tập tinh tấn, xem thường phiền não và làm cho phiền não không được lan rộng. Tâm không vọng động, thường tu nhẫn nhục, vì quả Niết Bàn mà tinh tấn giữ giới, vì chúng sanh nguyện làm người sai bảo, muốn cho chúng sanh được sự an vui, yên ổn, hưởng sự sung sướng, vì kẻ khác sẵn sàng chịu mọi khổ cực, tâm không hối hận. Thấy người thối thất tâm Bồ-đề thì sanh lòng thương xót. Cứu giúp những người đau khổ, soi xét con đường sanh tử, có nhiều tội lỗi, đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật vô thượng, làm việc đời hơn hết mọi người, lòng tin bền chắc, tu tập Từ bi, cũng không mong cầu phước báo Từ bi. Đối với kẻ oán, người thân, tâm luôn bình đẳng, trong bố thí không có phân biệt, bố thí tự thân cũng như vậy; biết được các tướng, vốn là vô thường, nên không tham tiếc thân mạng, dùng pháp bốn Nhiếp pháp để hướng dẫn chúng sanh, biết rõ thế đế, nên tùy mỗi chúng sanh, mà dạy bảo cho họ. Trong lúc vì các chúng sanh chịu khổ, tâm không xao động, vững như núi Tu di; dù thấy chúng sanh phần nhiều tạo nghiệp ác, người tạo nghiệp lành thì ít, tâm quyết không quên, đối với Tam Bảo không sanh lòng nghi ngờ, thích sự cúng dường, nếu còn nghèo khó, thì trước cho người bần cùng, sau mới bố thí phước điền, trước phải vì người nghèo khó, sau mới vì người giàu có, ưa khen ngợi công hạnh của người, mở đường cho họ đến Niết Bàn, biết được kỹ nghệ muốn dạy cho người khác học, thấy người học tập hơn mình, thì sanh tâm vui mừng, không nghĩ lợi cho mình, chỉ nghĩ lợi cho người, toàn thân, khẩu, ý làm các việc lành, không phải vì mình, mà luôn luôn vì người khác. Đó là Bồ-tát đúng với thật nghĩa.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia và Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia thực hành theo Bồ-tát thật nghĩa không khó, ngược lại Bồ-tát tại gia, thực hành theo Bồ-tát thật nghĩa mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 9: TÂM KIÊN CỐ CỦA BỒ TÁT THẬT NGHĨA

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-tát thật nghĩa, làm thế nào để tự biết mình là Bồ-tát thật nghĩa?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát tu hành khổ hạnh, trước tiên mình phải thành tâm.

Này thiện nam! Như Lai nhớ thuở xưa lúc thực hành đạo Bồ-tát , trước theo ngoại đạo tu pháp khổ hạnh, chí tâm thực hành, không thối chuyển, trong nhiều đời, chỉ lấy tro xoa thân, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt đậu, hạt dẻ.v.v… nằm trên chông gai, cây lá, đất đá; lấy nước tiểu trâu làm thuốc trị bệnh, suốt mùa hè dùng năm thứ lửa để sưởi, đầu mùa đông giá lạnh thì để lõa thể, hoặc ăn cỏ, rể, nhánh, lá, trái cây, đất và gió; lúc làm các việc khổ hạnh như thế, cả bản thân mình và người khác đều không có lợi ích, mặc dù khổ cực như vậy, nhưng tâm không thối chuyển, vượt hơn tất cả khổ hạnh ngoại đạo.

Này thiện nam! Như Lai thuở xưa vì bốn việc mà thí xả thân mạng: 1. Vì diệt trừ các phiền não của chúng sanh, 2. Vì muốn chúng sanh được sự an lạc, 3. Vì muốn tự trừ bỏ tham đắm của thân, . Vì muốn báo đáp ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Bồ-tát nếu đã không tiếc thân mạng, thì biết rõ đó là Bồ-tát thật nghĩa.

Này thiện nam! Như lai thuở xưa, vì cầu chánh pháp, mà khoét thân làm thành ba ngàn sáu trăm ngọn đèn. Bấy giờ, Như lai còn nhiều phiền não, thân thật có biết đau khổ, nhưng vì để độ thoát chúng sanh, nên khuyên bảo tâm giữ vững chí nguyện, không được lay động. Trong lúc ấy, lại được đầy đủ ba điều: 1. Rốt ráo không thối chuyển, 2. Được làm Bồ-tát thật nghĩa, 3. Được goị là bậc không thể nghĩ bàn. Đó là Bồtát không thể nghĩ bàn. Lại nữa, Như Lai thuở xưa, vì cầu chánh pháp, nên trong một kiếp, toàn thân phải đau khổ với ngàn mụt ghẻ, khi ấy có đầy đủ tất cả phiền não, thân thật sự biết đau, nhưng vì muốn độ thoát chúng sanh, nên khuyên bảo tâm giữ vững chí nguyện, không được lay động, đó gọi là Bồ-tát không thể nghĩ bàn. Lại nữa, Như Lai thuở xưa, vì cứu một con chim Bồ câu mà phải thí xả thân mạng, lúc ấy vẫn còn đầy đủ các phiền não, thân thật biết đau khổ, nhưng vì muốn độ thoát chúng sanh, nên khuyên bảo tâm giữ vững chí nguyện, không được lay động, đó gọi là Bồ-tát không thể nghĩ bàn.

Này thiện nam! Tất cả bạn ác và các nghiệp phiền não, chính là bạn để trang nghiêm đạo Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả phàm phu, không có trí tuệ và tâm không chánh niệm, nên cho phiền não là kẻ oán địch, còn Bồ-tát có trí tuệ đầy đủ, nên dùng phiền não làm bạn đạo, đối với bạn ác và nghiệp bất thiện cũng như vậy.

Này thiện nam! Xa lìa phiền não, thì hoàn toàn không thọ thân trong cõi xấu ác, vì thế Bồ-tát dù hiện có nghiệp ác, nhưng không phải nghiệp ác của thân khẩu ý tạo ra, mà chỉ là nguyện lực, vì do thệ nguyện ấy, mà có thể thọ thân thú dữ. Vì muốn điều phục súc sanh, nên Bồ-tát thọ thân súc sanh nhưng biết nói tiếng người, biết nói pháp, nói lời chân thật, không nói lời thô ác, nói những lời có ý nghĩa, thường thương yêu mọi loài, tu tập Từ bi, không có vọng động, thì đó là Bồ-tát không thể nghĩ bàn.

Này thiện nam! Như Lai thuở xưa, khi làm thân gấu, dù còn phiền não, nhưng phiền não đối với Như Lai không có lực tự tại. Vì sao? Vì Như Lai đầy đủ chánh niệm, thương yêu chúng sanh, ủng hộ chánh pháp, tu hành pháp hạnh. Tùy lúc lại thọ các thân: Trâu, chim, thỏ, rắn, rồng, voi, kim sí điểu, Bồ câu, nai, vượn, dê, gà, chim trĩ, khổng tước, anh võ, cóc, nhái. v.v… lúc Như Lai thọ thân như vậy, dù đủ phiền não, nhưng phiền não đối với Như Lai không có lực tự tại. Vì sao? Vì Như lai đầy đủ chánh niệm, thương yêu chúng sanh, ủng hộ chánh pháp, tu hành pháp hạnh.

Này thiện nam! Thế gian đói khổ, Như Lai lập đại nguyện, do nơi nguyện lực đó, mà Như lai làm thân cá lớn, để các chúng sanh ăn thịt cá, tránh khỏi nạn đói, rồi tu đạo, chánh niệm, không còn tội lỗi xấu ác. Vào thời bệnh dịch, Như Lai lập nguyện lớn, do sức nguyện ấy, mà làm thân cây thuốc, các người có bệnh thấy nghe hoặc chạm thân cây hay ăn vỏ, ngoài máu, thịt, xương, tuỷ của cây đó, bệnh liền lành hẳn.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát thọ khổ như vậy, mà tâm không hề thối chuyển, đó là Bồ-tát thật nghĩa.

Bồ-tát lúc tu tập sáu Ba-la-mật, không bao giờ mong cầu quả của sáu Ba-la-mật, chỉ lấy lợi ích của chúng sanh làm sự nghiệp, Bồ-tát biết rõ tội lỗi của sanh tử, nhưng muốn ở trong sanh tử là vì sự an vui lợi ích của chúng sanh, Bồ-tát biết rõ sự an vui của giải thoát và khổ đau của sanh tử mà vẫn thích ở trong sanh tử, đó là Bồ-tát không thể nghĩ bàn, Bồ-tát cứu độ chúng sanh, không cầu trả ơn, ngược lại, nơi nào thọ ơn thì thường nhớ nghĩ, để đền đáp.

Này thiện nam! Tất cả chúng sanh thường cầu lợi cho mình, trái lại, Bồ-tát làm việc luôn cầu lợi cho người, đó là Bồ-tát không thể nghĩ bàn. Bậc đại Bồ-tát dù còn đầy phiền não, mà đối với người thân kẻ oán, đều xem bình đẳng, làm lợi ích giống nhau. Đó là Bồ-tát không thể nghĩ bàn.

Này thiện nam! Các phái ngoại đạo, khi hoá độ chúng sanh, hoặc dùng lời thô ác, đánh đập, mắng nhiếc, đuổi đi, sau mới điều phục. Bồtát thì ngược lại, trong khi hoá độ chúng sanh, không dùng lời hung ác, giận dữ hay thêu dệt, chỉ dùng lời dịu dàng, chân thật, chúng sanh nghe thấy là vui mừng. Ví như hoa sen xanh nở ra gặp đêm có trăng, như hoa sen đỏ nở ra gặp ánh mặt trời.

Này thiện nam! Bồ-tát trong khi bố thí của cải, chỉ có ít mà lại nhiều người đến xin, thì cũng không khởi tâm nhàm chán. Đó là Bồ-tát không thể nghĩ bàn.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn việc không thể nghĩ bàn. Bồ-tát giáo hóa chúng sanh gặp phải những người đui mù, câm điếc, ngu si, hạng biên địa xấu ác, thì tâm vẫn không mỏi mệt, nhàm chán. Đó là Bồtát không thể nghĩ bàn. 1. Tài vật quí báu có thể đem bố thí cho người. 2. Dù còn nhiều phiền não, mà nhẫn nhịn được các việc ác. 3. Thấy chúng sanh chia rẽ, thì làm cho hoà hợp lại. . Trước khi họ sắp chết mà thấy cảnh xấu ác, thì thuyết pháp để họ chuyển đổi. Đó là bốn việc không thể nghĩ bàn. Lại có ba việc không thể nghĩ bàn: 1. Trách mắng tất cả phiền não. 2. Sống trong phiền não, mà không xả bỏ phiền não. 3. Dù còn các phiền não và nghiệp phiền não, mà không vọng động. Đó là ba nghiệp không thể nghĩ bàn của Bồ-tát. Lại có ba việc không thể nghĩ bàn: 1. Là lúc sắp bố thí, tâm sanh vui mừng. 2. Bố thí cho người khác tâm không mong cầu phước báo. 3. Sau khi bố thí, tâm rất vui mừng, không hối hận, đó là ba việc không thể nghĩ bàn của Bồ-tát.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát lúc làm như vậy, tự soi xét tâm mình: “Ta là Bồ-tát giả danh hay Bồ-tát thật nghĩa?” Nếu có ai làm được như vậy, nên biết người đó là Bồ-tát thật nghĩa.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: 1. Bồ-tát tại gia. 2. Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia thực hành những việc như vậy không lấy làm khó, ngược lại Bồ-tát tại gia, thực hành như vậy, mới thật là khó! Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 10: LỢI MÌNH VÀ LỢI NGƯỜI

Thiện Sanh bạch phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ-đề, thế nào là đạo Bồ-đề?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Nếu lìa xa Bồ-đề, thì cũng không có đạo Bồ-đề. Lìa đạo Bồ-đề, thì cũng không có Bồ-đề. Do vậy Đạo của Bồ-đề tức là Bồ-đề, Bồ-đề tức là Đạo của Bồ-đề. Bồ-đề và đạo Bồ-đề thù thắng hơn đạo quả của Thanh-văn, Duyên-giác chứng đắc.

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Đạo quả chứng đắc của Thanh-văn, Duyêngiác, tức là Bồ-đề, tức là đạo Bồ-đề. Tại sao Ngài nói nó thù thắng hơn?

Phật dạy: – Này thiện nam! đạo Thanh-văn, Duyên-giác không rộng lớn, chẳng thể hiểu biết tất cả, cho nên Bồ-đề và đạo Bồ-đề được gọi là Thắng. Cũng như với tất cả kinh sách của thế gian, thì mười hai bộ kinh là trên hết. Vì sao? Vì lời kinh không sai lầm, không điên đảo. Đạo của Nhị thừa đối với đạo Bồ-đề cũng như vậy.

Này thiện nam! đạo Bồ-đề tức là Học cũng là quả của Học. Thế nào gọi là Học? Thực hành đạo Bồ-đề chưa đầy đủ, mà tâm không thối chuyển gọi là Học. Thực hành đạo Bồ-đề đã được đầy đủ, tâm không thối chuyển gọi là quả của Học. Chưa được định tự tại trong A-tăng-kỳkiếp thứ ba gọi là Học. Đã được định tự tại trong A-tăng-kỳ-kiếp thứ ba, gọi là qủa của Học. A-tăng-kỳ-kiếp thứ nhất, chưa thể bố thí hết tất cả, chưa bố thí mọi thời gian, chưa bố thí hết tất cả chúng sanh, A-tăng-kỳkiếp thứ hai dù bố thí được tất cả, nhưng chưa có thể bố thí trong mọi thời gian, chưa có thể bố thí hết tất cả chúng sanh, hai điều trên ấy gọi là Học, A-tăng-kỳ-kiếp thứ ba có thể bố thí được tất cả trong mọi thời gian và cho tất cả chúng sanh, ấy gọi là quả của Học.

Này thiện nam! Bồ-tát tu hành bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, ấy gọi là Học, đến được bờ giác gọi là quả của Học.

Này thiện nam! Có người bố thí mà không có Ba-la-mật, có người có Ba-la-mật mà không gọi là bố thí, có người có Ba-la-mật cũng có bố thí, có người không Ba-la-mật cũng không bố thí.

Này thiện nam! Hạng người có bố thí , mà không có Ba-la-mật, tức là hàng Thanh-văn, Duyên-giác, tất cả phàm phu, ngoại đạo, dị kiến và hàng Bồ-tát thực hành bố thí trong hai A-tăng-kỳ-kiếp đầu. Được

Ba-la-mật mà không bố thí, đó là những người Trì giới Ba-la-mật cho đến Bát nhã Ba-la-mật. Hạng người cũng có bố thí cũng có Ba-la-mật, đó là Bồ-tát thực hành bố thí trong A-tăng-kỳ-kiếp thứ ba. Chẳng bố thí, chẳng Ba-la-mật, ấy là hạng Thanh-văn, Duyên-giác giữ giới, tu thiền định, nhẫn nhục, Từ bi.

Này thiện nam! Chẳng bố thí, chẳng Ba-la-mật gọi là Học, cũng bố thí cũng Ba-la-mật gọi là quả của Học.

Này thiện nam! Hễ là Bồ-tát tức là Tận trí, Vô sanh trí. Vì sao? Vì hai trí này làm cho tâm siêng năng tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ấy gọi là Học. Được Bồ-đề rồi, gọi là quả của Học. Tự mình điều phục được các căn, rồi điều phục cho chúng sanh, gọi là Học. Chính mình được giải thoát và khiến chúng sanh được giải thoát, gọi là quả của Học. Tu tập mười lực, bốn điều không sợ hãi, đại bi, ba niệm gọi là Học, đầy đủ mười tám pháp bất cọng gọi là Học quả. Vì lợi ích cho mình và người, mà tạo nghiệp thiện gọi là Học, đã đem lợi ích cho người rồi, gọi là quả của Học. Học tập pháp thế gian gọi là Học, học tập pháp xuất thế gian gọi là quả của Học. Vì các chúng sanh, không thương tiếc thân hình, tài vật thì gọi là học. Vì chúng sanh không chút thương tiếc thân, của cải và mạng sống gọi là quả của Học. Có thể hoá độ chúng sanh tạo nghiệp làm Trời, người, gọi là Học, tạo nghiệp vô lậu gọi là quả của Học. Bố thí cho chúng sanh tất cả tài vật gọi là Học, thực hành pháp thí gọi là quả của Học. Chính mình diệt trừ tham lam, ganh ghét gọi là Học, diệt trừ tâm tham lam, ganh ghét của người khác gọi là quả của Học. Thọ trì năm căn, tu hành ức niệm, gọi là Học, giáo hoá người khác tu tập thành tựu viên mãn, gọi là quả của Học.

Này thiện nam! Bồ-tát có thiện căn chánh tín, đã được lợi ích cho mình, lại đem lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho mình không gọi là tự lợi, làm lợi ích cho người khác mới gọi là tự lợi. Vì sao? Vì bậc đại Bồ-tát luôn làm lợi ích cho người khác, nên đối với thân mạng, tài vật không khởi tâm tham tiếc, ấy mới gọi là tự lợi. Bồ-tát biết rõ, nếu dùng pháp Thanh-văn, Duyên-giác, dạy bảo chúng sanh, mà chúng sanh không lãnh thọ, thời dùng cảnh vui nơi cõi Trời, người mà dạy bảo cho họ gọi là lợi tha, làm lợi ích cho người khác, cũng tức là làm lợi ích cho mình. Bồ-tát không thể làm kiêm nhiệm lợi ích cho mình và cho người, chỉ làm lợi ích cho mình, thì gọi đó là Bồ-tát bậc dưới. Vì sao? Vì Bồ-tát như vậy, đối với pháp tài sẽ sanh tâm tham đắm, nên không thể kiêm nhiệm việc làm lợi ích cho mình và cho người, Bồ-tát mà để người khác chịu khổ não, còn mình hưởng an vui, thì Bồ-tát như vậy không thể nào làm lợi ích cho người khác. Nếu tự mình không tu hành bố thí, giữ giới, học rộng nghe nhiều, dù có dạy bảo người khác thực hành, thì đó gọi là lợi tha, chứ không thể gọi là tự lợi. Tự mình có đầy đủ chánh tín, năm thiện căn, rồi đem dạy bảo người khác, đó mới gọi là Bồ-tát tự lợi mình và lợi người khác.

Này thiện nam! Lợi ích có hai: Là Đời này và Đời sau. Bồ-tát nếu làm lợi ích trong đời này, không gọi là lợi ích đích thật, Bồ-tát, nếu làm lợi ích đời sau, thì có thể làm lợi ích cho mình và cho người.

Này thiện nam! Cảnh vui cũng có hai: Là cảnh vui thế gian và cảnh vui xuất thế gian. Phước cũng như vậy. Bồ-tát, nếu có hai cảnh vui ấy và hai phước ấy để dạy bảo chúng sanh, thì gọi là tự lợi và lợi tha.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát đầy đủ một pháp, mình và người đều có lợi ích, nghĩa là không buông lung. Hoặc có hai pháp, có thể lợi mình và lợi người, đó là học rộng nghe nhiều và suy nghĩ. Hoặc có ba pháp có thể lợi mình và lợi người: Là thương yêu chúng sanh và siêng năng tu hành tinh tấn, đầy đủ niệm tâm. Hoặc có bốn pháp, có thể lợi mình lợi người, nghĩa là có bốn uy nghi. Hoặc có năm pháp có thể làm lợi mình lợi người: 1. Tín, 2. Giữ giới, 3. Học rộng nghe nhiều, . Bố thí, 5. Trí tuệ. Hoặc có sáu pháp lợi mình lợi người, đó là sáu niệm. Hoặc có bảy pháp, có thể lợi mình lợi người, đó là phá trừ bảy kiêu mạn.

Này thiện nam! Nếu Sa-môn, Bà-la-môn, trưởng giả, nam, nữ, hoặc trong đại chúng có các điều lỗi lầm, Bồ-tát đã thấy rồi thì trước tùy ý mọi người, sau mới nói pháp, khiến được điều phục, nếu Bồ-tát trước không tùy ý mọi người, mà thuyết pháp, ấy gọi là Bồ-tát bậc dưới.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Thích gần gũi bạn lành và Không thích gần gũi bạn lành. Người thích gần gũi bạn lành thì có thể làm lợi ích cho mình và cho người, người không thích gần gũi bạn lành, thì không thể làm lợi ích cho mình và cho người.

Này thiện nam! Thích gần gũi bạn lành lại có hai điều: Là Thích cúng dường và không thích cúng dường. Người thích cúng dường thì có thể lợi mình lợi người, người không thích cúng dường thì không thể lợi mình lợi người. Thích cúng dường lại có hai điều: Có thể nghe pháp, không thể nghe pháp. Người chí tâm nghe pháp là có thể làm lợi mình lợi người; người không chí tâm nghe pháp, thì không thể làm lợi mình lợi người. Chí tâm nghe pháp lại có hai điều: Có thể thưa hỏi, và Không thể thưa hỏi. Người thưa hỏi về nghĩa lý, là có thể làm lợi mình lợi người; người không thưa hỏi, thì không thể làm lợi mình lợi người. Người thưa hỏi nghĩa lí, cũng có hai điều: Chí tâm thọ trì, và không chí tâm thọ trì. Người chí tâm thọ trì là có thể làm lợi mình lợi người; người không chí tâm thọ trì, thì không thể làm lợi mình lợi người. Người chí tâm thọ trì, lại có hai điều: Suy nghĩ, và Không suy nghĩ. Người thường suy nghĩ, là có thể làm lợi mình lợi người, người không suy nghĩ, thì không thể làm lợi mình lợi người. Thường suy ngĩ cũng có hai hạng: Hiểu nghĩa, và không hiểu nghĩa. Người hiểu nghĩa là có thể làm lợi mình lợi người, người không hiểu nghĩa thì không thể làm lợi mình lợi người. Người hiểu nghĩa cũng có hai hạng: Là sống đúng pháp, và sống không đúng pháp. Sống đúng pháp có thể làm lợi mình lợi người, sống không đúng pháp không thể làm lợi mình lợi người. Người sống đúng như pháp, lại có hai hạng: Đầy đủ tám trí, và không đầy đủ tám trí. Thế nào là tám trí? Đó là: Trí hiểu biết pháp. Trí biết rõ nghĩa lí. Trí biết thời gian. Trí biết đủ. Trí biết mình và người. Trí biết quần chúng Trí biết các căn. Trí biết trình độ người cao hay thấp. Người có đầy đủ tám trí như vậy, hễ có nói pháp, là đầy đủ mươì sáu điều: 1. Nói hoà hợp. 2. Nhất tâm nói pháp. 3. Nói có thứ tự. . Nói có hoà hợp. 5. Tùy theo nghĩa mà nói. 6. Nói một cách vui mừng. . Nói tùy ý. . Nói mà không xem thường người nghe. . Nói không trách cứ quần chúng. 10. Nói đúng như pháp. 11. Nói lợi mình lợi người. 12. Nói không có đảo lộn. 13. Nói hợp với nghĩa. 1. Nói lời chân chánh. 15. Nói rồi không khởi tâm kiêu mạn. 16. Nói rồi không mong cầu trả ơn. Người được như vậy, có thể đến nghe người khác pháp, trong lúc đến nghe sẽ có đủ mười sáu điều: Nghe đúng thời. Thích nghe. Chí tâm nghe. Cung kính nghe. Nghe mà không tìm lỗi lầm. Nghe mà không có bàn luận. Nghe không vì để hơn người. Lúc nghe không xem thường người nói. Lúc nghe không xem thường giáo pháp. Lúc nghe không xem thường mình. Lúc nghe xa lìa năm triền cái. Lúc nghe vì muốn thọ trì đọc tụng. Lúc nghe vì muốn trừ năm dục. Lúc nghe đầy đủ tín tâm. Lúc nghe vì muốn điều phục chúng sanh. Lúc nghe muốn đoạn trừ nhĩ căn chạy theo thanh trần.

Này thiện nam! Người nào đầy đủ tám trí, thì có thể nói pháp, nghe pháp, người được như vậy, là có thể làm lợi mình lợi người. Người nào không đầy đủ tám trí, thì không được gọi là làm lợi mình lợi người.

Này thiện nam! Người nói pháp có hai hạng: Thanh tịnh và không thanh tịnh. Người không thanh tịnh lại có năm điều: Vì lợi ích mà nói. Vì muốn có đền ơn mà nói. Vì muốn hơn người mà nói. Vì muốn được phước báo thế gian mà nói. Còn nghi ngờ mà nói. Người thanh tịnh nói pháp lại có năm điều: Trước cho ăn uống sau mới nói. Muốn hưng thịnh ngôi Tam Bảo mà nói. Vì muốn đoạn trừ phiền não cho mình và người mà nói. Vì muốn phân biệt rõ tà và chánh mà nói. Vì muốn người nghe được thù thắng mà nói.

Này thiện nam! Người không thanh tịnh thuyết pháp, gọi là người có tâm cấu bẩn, là kẻ bán giáo pháp, là hạng ô nhục, là người lầm lạc và cũng gọi là người đánh mất tâm ý. Người thanh tịnh nói pháp, gọi là người trong sạch, là người chân chánh, là người nói đúng sự thật và cũng gọi là người tu theo chánh pháp.

Này thiện nam! Nếu biết đầy đủ mười hai bộ kinh, Luận Thanh minh và Luận Nhân minh, biết nhân biết dụ, biết mình biết người, đó gọi là người nói chân chánh. Người nghe cũng có Bốn hạng: 1. Nghe tóm lược mà hiểu nhiều. 2. Tùy sự trình bày mà hiểu. 3. Tùy ý căn bản mà hiểu. . Hiểu rõ từng chữ, từng câu. Đức Như Lai nói pháp, là vì ba hạng người trước, chớ không phải hạng người thứ tư. Vì sao? Vì hạng người này, không phải là pháp khí. Bốn hạng người như thế chia ra làm hai: Hạng thuần thục, Hạng mới phát sanh. Hạng người thuần thục, chỉ trong hiện tại là được điều phục, hạng người mới phát sanh, thì trong vị lai mới được điều phục.

Này thiện nam! Thí như rừng cây rậm, thường có bốn loại cây: 1. Cây dễ chặt, mà khó lấy ra, 2. Cây khó chặt, dễ lấy ra, 3. Cây dễ chặt, dễ lấy ra, . Cây khó chặt, khó lấy ra. Người tại gia cũng có bốn hạng: 1. Dễ điều phục, khó xuất ly, 2. Khó điều phục, dễ xuất ly, 3. Dễ điều phục, dễ xuất ly, . Khó điều phục, khó xuất ly. Bốn hạng người như vậy, muốn giáo hoá phải có ba điều: Quở trách rồi điều phục. Dùng lời dịu dàng để điều phục. Vừa dùng lời dịu dàng vừa quở trách, sau đó mới điều phục. Hoặc cũng có hai hạng: Tự mình điều phục, không nhờ người khác. Tự mình không thể điều phục, phải thỉnh nhờ người khác. Hoặc cũng có hai hạng: Dùng bố thí để điều phục. Dùng lời chú nguyện để điều phục. Pháp điều phục như thế, lại cũng có hai thời: Khi vui mừng. Khi đau khổ. Với bốn hạng người ấy, lúc nói pháp cần có hai phương tiện: Khéo biết việc thế gian. Giúp đỡ công việc cho người.

Này thiện nam! Bồ-tát nếu biết hai phương tiện ấy, tức có thể làm lợi mình lợi người, nếu không biết, thì không thể làm lợi mình lợi người.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát vì muốn lợi ích cho người khác, nên trước học sách ngoại đạo, sau mới học mười hai bộ kinh. Còn chúng sanh, nếu đã nghe mười hai bộ kinh, nên đối với sách vở ngoại đạo bèn sanh tâm nhàm chán. Bồ-tát luôn vì chúng sanh nói sự tai hại của phiền não và cách giải thoát chúng, khen đức hạnh của bạn lành, quở trách lỗi lầm của bạn ác, tán thán công đức người bố thí, chỉ trích tội lỗi của người ích kỷ, Bồ-tát thường ở nơi vắng lặng để tu hành và thường khen ngợi công đức của hạnh vắng lặng, thường tu pháp hành, thường khen ngợi công đức pháp hành, nếu được như vậy, gọi là lợi mình lợi người. Bồ-tát tại gia phải trước tự điều phục, nếu không điều phục, thì không thể xuất gia, Bồ-tát tại gia độ được nhiều người, Bồ-tát xuất gia không được như vậy. Vì sao? Vì nếu không có tại gia, tức không có người xuất gia trong ba thừa. Người xuất gia trong ba thừa tu tập đạo lí, giữ giới ngồi thiền, tụng kinh đều do tại gia làm trang nghiêm.

Này thiện nam! Có người tu đạo thì có người làm trang nghiêm cho. Đạo có nghĩa là pháp hành, người trang nghiêm đạo, nghĩa là hàng tại gia. Bồ-tát xuất gia, vì tại gia mà tu hành đạo nghiệp, người tại gia vì người xuất gia mà tu pháp hạnh. Người tại gia phần nhiều tu hai pháp: Thọ trì và Bố thí. Người xuất gia cũng tu hai pháp: Đọc tụng và giáo hoá.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát thì có cả bốn pháp: Thọ trì. Đọc tụng. Bố thí. Giáo hoá. Được như vậy gọi là lợi mình lợi người. Bồ-tát muốn nói nghĩa lí thâm sâu của pháp giới cho chúng sanh, thì trước nên nói pháp thế gian, sau mới nói lý thâm sâu của pháp giới. Vì sao? Vì dễ giáo hoá. Bậc đại Bồ-tát nên bảo vệ tâm của tất cả chúng sanh, nếu không bảo hộ thì không thể điều phục tất cả chúng sanh, Bồ-tát cũng nên giữ gìn bản thân, nếu không giữ gìn bản thân, thì cũng không thể điều phục được chúng sanh, Bồ-tát không vì tham đắm thân mạng và tài sản, nếu phải giữ gìn thân mạng và tài sản, cũng vì muốn điều phục chúng sanh. Bậc đại Bồ-tát trước là tự mình diệt trừ xấu ác, sau mới dạy bảo người khác diệt trừ xấu ác, nếu không tự mình diệt trừ, mà dạy bảo người khác diệt trừ, thì không có lí như vậy. Vì thế, Bồ-tát trước nên tự mình bố thí, giữ giới, biết đủ, tinh tấn tu hành, sau mới hoá độ mọi người, Bồ-tát nếu không tự mình tu pháp hạnh, thì không thể giáo hoá chúng sanh.

Này thiện nam! Trình độ chúng sanh thường có ba hạng, trình độ Bồ-tát cũng có ba hạng: Thượng, Trung, Hạ. Bồ-tát hạ căn chỉ có thể giáo hoá hạng hạ căn, không thể giáo hoá hạng trung căn và thượng căn. Bồ-tát trung căn, có thể giáo hoá hạng hạ căn và hạng trung căn, không thể giáo hoá hạng thượng căn. Bồ-tát thượng căn có thể giáo hoá hết cả ba hạng.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia, và xuất gia. Bồ-tát xuất gia làm lợi mình lợi người không khó, Bồ-tát tại gia làm lợi mình lợi người mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 11: TRANG NGHIÊM CHO MIÌNH VÀ NGƯỜI

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Bậc đại Bồ-tát đầy đủ mấy pháp, mới có thể làm lợi mình lợi người?

– Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát đầy đủ tám pháp, mới có thể làm lợi mình lợi người. Tám pháp ấy là: 1. Thân mạng sống lâu, 2. Có sắc tướng đẹp đẽ đầy đủ, 3. Thân thể đầy sức lực, . Dòng họ cao sang, 5. Có nhiều của cải quý, 6. Đủ thân nam tử, . Lời nói lưu loát, . Ở giữa chỗ đông người không khiếp sợ.

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì Bồ-tát có được từ chỗ thân mạng sống lâu, cho đến đông người không khiếp sợ?

Phật dạy: – Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát trong nhiều đời, tu tâm Từ bi, không giết hại, do nhân duyên này, mà được sống lâu, cho đến ở chỗ đông người không có sợ hãi; trong vô lượng kiếp thường bố thí y phục, đèn đuốc, do nhân duyên này mà được sắc đẹp; ở trong nhiều đời, không kiêu mạn, do nhân duyên này, mà được dòng họ cao quý; ở trong nhiều đời, thường thực hành bố thí phẩm vật, do nhân duyên này, mà được thân lực đầy đủ; ở trong nhiều đời thường thích nói pháp, do nhân duyên này, mà có nhiều của cải quý; ở trong nhiều đời không thích thân nữ, do nhân duyên này, mà được thân nam tử; ở trong nhiều đời, chí tâm giữ giới, do nhân duyên này, mà nói năng lưu loát; ở trong nhiều đời cúng dường Tam Bảo, do nhân duyên này, mà ở giữa đám đông không sợ hãi. Tám pháp như vậy, có ba nhân duyên: 1. Tài vật thanh tịnh, 2. Tâm thanh tịnh, 3. Phước điền thanh tịnh. Sao gọi là tài vật thanh tịnh? Tài vật thanh tịnh, là tài vật không do trộm cắp, không bị các bậc thánh ngăn cấm, không phảp tài vật của nhiều người chung dùng, không phải tài vật của Tam Bảo, không phải tài vật đã bố thí cho một người, lấy lại cho nhiều người, không phải tài vật của nhiều người lấy cho một người, không phải tài vật do đàn áp người khác, do lường gạt người khác, do lừa dối người khác mà có. Tài vật như vậy gọi là thanh tịnh. Sao gọi là tâm thanh tịnh? Nghĩa là trong bố thí, không vì phước báo trong cõi sanh tử, không vì danh tiếng hơn người, không vì sắc đẹp, sức mạnh, tài vật, không vì muốn gia đình hưng thạnh, bà con đông vầy, chỉ vì trang nghiêm Bồ-đề mà bố thí, chỉ vì muốn điều phục chúng sanh mà bố thí, đó gọi là tâm thanh tịnh. Sao gọi là phước điền thanh tịnh? Người nhận tài vật bố thí đã xa lìa tám điều tà, đó gọi là phước điền thanh tịnh.

Này thiện nam! Nhờ ba nhân duyên như vậy, mà có đầy đủ tám pháp như trên.

Này thiện nam! Sở dĩ Bồ-tát cần sống lâu, là vì muốn chúng sanh khen ngợi việc không giết hại, sở dĩ Bồ-tát cầu sắc tướng tươi đẹp cao tột, vì muốn chúng sanh khi thấy đều sanh vui mừng, sở dĩ Bồ-tát cầu dòng họ cao quý, vì muốn chúng sanh khởi lòng cung kính, sở dĩ Bồ-tát cầu đầy đủ sức khoẻ, vì muốn chúng sanh giữ gìn giới luật, đọc tụng kinh điển, tu tập thiền định, sở dĩ Bồ-tát cầu nhiều của cải quý, vì muốn điều phục chúng sanh, sở dĩ Bồ-tát cầu thân nam tử, vì muốn thành pháp khí để đựng pháp thiện, sở dĩ cầu lời nói lưu loát, vì muốn chúng sanh thọ đúng lời của pháp. Sở dĩ Bồ-tát cầu giữa đám đông không sợ hãi, vì muốn chúng sanh hiểu rõ pháp chân thật.

Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ tám pháp như vậy, có thể làm lợi mình lợi người, thực hành như vậy, gọi là hạnh chơn thật.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát có được tám pháp như vậy, khi thọ trì đầy đủ mười pháp lành, rất thích đem ra giáo hoá cho người, khi thọ trì đầy đủ giới Ưu-bà-tắc cũng thích đem ra giáo hóa cho người, có được sắc đẹp, nhưng không bao giờ vì nó mà sanh tâm kiêu mạn, dù giữ giới thanh tịnh, nghe nhiều, tinh tấn, sức mạnh, dòng họ cao quý và nhiều của quý, trọn không bao giờ vì nó mà sanh tâm kiêu mạn. Không huyễn hoặc, không dối gạt chúng sanh, không phóng túng, tu tập lục hoà. Bồtát tu tập đầy đủ các pháp như vậy, dù còn tại gia nhưng không khác với người xuất gia, Bồ-tát như vậy, quyết không vì kẻ khác mà tạo nhân duyên ác. Vì sao? Vì họ giữ vững tâm hổ thẹn.

Này thiện nam! Người tại gia, giả sử một đời thọ Ưu-bà-tắc giới như vậy, về sau nếu lại sanh vào nơi không có Tam bảo, thì quyết cũng không bao giờ tác tạo các nhân duyên ác. vì sao? Vì đã có hai nhân duyên là: Trí tuệ và không buông lung

Này thiện nam! Ở đời sau nơi xấu ác, không làm việc ác, thì có bốn nhân duyên: Biết rõ tội lỗi của phiền não. Không thuận theo các phiền não. Chịu được các sự khổ cực. Không sanh tâm sợ hãi. Bồ-tát đầy đủ bốn pháp như vậy, sẽ không bị các cảnh khổ và các phiền não khuấy động.

Này thiện nam! Bồ-tát không bị lay động nhờ có năm nhân duyên: 1. Thích tu pháp lành, 2. Phân biệt được thiện ác, 3. Gần gũi chánh pháp, . Thương yêu chúng sanh, 5. Thường biết rõ đời trước.

Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ tám pháp như thế, nếu nghe người ta chê bai, khinh khi, đều có thể nhẫn nhịn được, nếu nghe người ta khen ngợi, ngược lại hổ thẹn, trong tu tập hành đạo sanh tâm vui mừng, không sanh tâm kiêu mạn, cố gắng điều phục người ác. Thấy người chia rẽ, tìm cách hoà hợp, nêu bày việc tốt của người, che tội lỗi của kẻ khác; biết người đã hổ thẹn, không nên vạch ra; nghe việc bí mật của người, không đem nói cho người khác, không vì việc đời mà lập thệ nguyện. Người nào có ít ân nghĩa, với ta vẫn thường suy nghĩ muốn trả thật nhiều; kẻ nào oán thù ta, ta lại khởi tâm lành, người thân kẻ oán chịu khổ, thì trước nên cứu giúp người oán, thấy người bị mắng nhiếc, đem tâm thương xót; thấy người ăn trộm im lặng không khua động; thấy kẻ đến đánh đập phát khởi tâm bi, xem chúng sanh như là cha mẹ; thà mất thân mạng trọn không nói dối. Vì sao? Vì biết được quả báo, đối với các phiền não nên sanh tâm oán ghét, đối với thiện pháp, muốn được gần gũi, đối với ngoại cảnh mà sanh tâm tham đắm, thì tìm cách quán sát tội lỗi của tham đắm ấy; tất cả phiền não cũng là như vậy. Dù ở chung kẻ ác, chẳng bao giờ ở trong cảnh ấy mà khởi tâm thân thiện, dù không ở chung với người chơn thiện, chẳng bao giờ khởi tâm xa lìa người ấy; dù có cúng dường cha mẹ, sư trưởng, chẳng bao giờ vì thế mà làm điều ác, lúc không có của cải, mà thấy người đến xin không khởi tâm xấu ác; dù không gần người hung ác, nhưng trong tâm thường hay thương xót họ, kẻ đem điều ác cho ta, ta dùng điều lành đền đáp; lúc hưởng cảnh vui, không nên coi khinh người khác, thấy người khác khổ đau, không nên mừng ra mặt, thân nghiệp thanh tịnh, giữ gìn bốn oai nghi, liền đem pháp ấy giáo hoá chúng sanh, ý nghiệp thanh tịnh, tu bốn tâm vô lượng, cũng đem pháp ấy giáo hoá chúng sanh; giả sử mình phải chịu khổ cực, để người khác được an vui, cũng vui lòng cam chịu; sự việc thế gian dù không lợi ích, nhưng vì chúng sanh, nên cũng phải học; đối với mọi người, có hiểu biết hơn cũng không kiêu mạn, những gì mình biết, đều dạy cho người, với mong muốn việc này điều lưu truyền trong đời, không bị gián đoạn; đối với bạn thân, không bảo làm ác; ưa dùng tám pháp đã nói ở trên, giáo hoá chúng sanh; nói về nhân quả không có sai lầm, trong lúc thương yêu, nhưng bị xa lìa, tâm không u buồn, nhớ quán vô thường, lúc hưởng an vui, tâm không say đắm, nhớ quán tất cả đều là khổ đau, đều là vô thường.

Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ tám pháp như vậy, thì có thể làm những việc nói trên.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia, và Xuất gia. Bồ-tát xuất gia, tu tám pháp ấy, chẳng phải là khó; ngược lại, Bồ-tát tại gia, tu tập tám pháp ấy mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 12: PHƯỚC TRÍ TRANG NGHIÊM

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Bồ-tát làm thế nào để có thể trang nghiêm cho mình?

Đức Phật dạy:

– Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ hai pháp, thì có thể trang nghiêm cho mình và cho người. Hai pháp đó là Phước đức và Trí tuệ.

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì, mà Bồ-tát được hai pháp trang nghiêm ấy?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Bồ-tát tu tập sáu pháp Ba-la-mật, liền được hai thứ trang nghiêm như vậy. Bố thí, giữ giới, tinh tấn là phước trang nghiêm. Nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ là trí trang nghiêm. Hoặc có sáu pháp gọi là sáu niệm, làm nhân duyên cho hai thứ trang nghiêm, đó là: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là trí trang nghiêm; niệm giới, niệm thí, niệm thiên là phước trang nghiêm.

Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm ấy, thì sẽ có lợi ích cho mình và cho người, có thể vì các chúng sanh, chịu khổ trong ba đường ác, mà tâm Bồ-tát không u buồn hay hối hận. Nếu vị Bồ-tát đủ cả hai thứ trang nghiêm, sẽ được phương tiện thiện xảo vi diệu, biết rõ pháp thế gian và xuất thế gian.

Này thiện nam! Phước đức trang nghiêm cũng tức là trí tuệ trang nghiêm, trí tuệ trang nghiêm cũng tức là phước đức trang nghiêm. Vì sao? Vì Người trí tuệ, có khả năng tu tập đầy đủ mười điều thiện, được của cải giàu sang và rất tự tại, được hai đều ấy, nên có thể lợi mình lợi người. Người trí học pháp thế gian dễ hơn mọi ngươì, do nhân duyên ấy, nên được giàu sang và tự tại. Bồ-tát đầy đủ cả hai pháp ấy, có thể trong hai đời, cả mình và người đều được lợi ích. Người trí có thể phân biệt pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Pháp thế gian nghĩa là biết tất cả Thế luận và tất cả Thế định; pháp xuất thế gian nghĩa là Năm ấm, Mười hai nhập và Mười tám giới. Bồ-tát biết được nhân duyên của hai pháp ấy, nên trong hai đời, đều được lợi ích cả mình và người.

Này thiện nam! Bồ-tát dù biết cảnh vui thế gian là hư vọng, không có thật, mà vẫn tạo nhân duyên vui ở đời. Vì sao? Vì muốn các chúng sanh đều được lợi ích.

Này thiện nam! Hai thứ trang nghiêm như vậy, có hai nguyên nhân chính: 1. Tâm từ, 2. Tâm Bi. Tu hai nhân ấy, dù có trôi lăn trong biển khổ sanh tử, tâm cũng không hối hận. Lại nữa Bồ-tát đầy đủ hai pháp có thể trang nghiêm Vô thượng Bồ-đề: Không thích sanh tử, Quán sát kỹ con đường giải thoát. Nhờ thế, cho nên cũng được lợi ích trong cả hai đời, biết rõ pháp tướng, được đại trí tuệ, khiến cho mình và người giàu có của cải, tăng thêm tuổi thọ.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát đầy đủ hai pháp, khi bố thí tất cả tài vật, không có lo buồn hối hận, gặp nhiều điều ác đều gắng chịu được. Bồ-tát trong lúc bố thí, quán hai thứ ruộng: 1. Ruộng phước, 2. Là bần cùng. Bồ-tát muốn tăng trưởng phước đức, nên bố thí cho kẻ nghèo đói, muốn tăng trưởng trí tuệ vô thượng, nên bố thí cho hạng phước điền, muốn đền ơn, nên bố thí cho hạng phước điền, khởi tâm thương xót, nên bố thí cho hạng bần cùng, muốn xả bỏ phiền não nên bố thí cho hạng phước điền, muốn có công đức nên bố thí cho hạng bần cùng, muốn tăng trưởng nhân duyên vui, nên bố thí cho hạng phước điền, muốn xả bỏ các nhân duyên khổ nên bố thí cho hạng bần cùng. Bồ-tát nếu bố thí cho người thân, vì muốn báo ân; nếu bố thí cho người oán thù, vì muốn trừ tâm hung ác. Bậc đại Bồ-tát thấy người ăn xin đến cầu xin, nên xem họ như người con một, tùy sức nhiều hay ít mà bố thí cho họ, làm được như vậy, gọi là bố thí Ba-la-mật. Trong lúc bố thí, lìa tâm bỏn sẻn, gọi là giữ giới Ba-la-mật, chịu được tất cả những lời trách móc của người đến xin, gọi là nhẫn nhục Ba-la-mật, phẩm vật bố thí phải tận tay đưa cho người, gọi là tinh tấn Ba-la-mật, chí tâm chuyên niệm quán pháp giải thoát, gọi là thiền định Ba-la-mật, không chọn lựa kẻ oán người thân, gọi là bát nhã Ba-la-mật.

Này thiện nam! Như các chúng sanh, lúc ham thích giết hại trong một niệm đầy đủ mười hai nhân duyên. Bồ-tát bố thí cũng như vậy, một niệm là đầy đủ sáu pháp như trên, đó gọi là công đức trí huệ trang nghiêm.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát tạo nhân duyên cho pháp bất cộng, gọi là phước đức trang nghiêm. Dạy bảo chúng sanh đều được ba thứ Bồ-đề, gọi là trí trang nghiêm. Lại nữa, Này thiện nam! Bồ-tát nếu có thể điều phục chúng sanh, gọi là trí trang nghiêm, cùng với chúng sanh chịu các khổ não, gọi là phước trang nghiêm. Bồ-tát có thể khiến cho hết chúng sanh xa lìa ác kiến, gọi là trí trang nghiêm, có thể dạy bảo chúng sanh an trú trong chánh tín, giữ giới, bố thí, nghe nhiều, trí tuệ, gọi là phước trang nghiêm.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát đầy đủ năm pháp, tức có khả năng trang nghiêm Vô thượng Bồ-đề. Năm pháp đó là: Một: Tâm tín . Hai: Tâm bi. Ba: Tâm dũng. Bốn: Đọc tụng các bộ luật thế gian không có nhàm chán. Năm: Học các nghề thế gian cũng không nản chí.

Này thiên nam tử! Bồ-tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm thì có bảy tướng: Một: Tự biết lỗi lầm. Hai: Không nói lỗi lầm người. Ba: Ưa chăm sóc người bệnh. Bốn: Thích bố thí cho người nghèo. Năm: Được tâm Bồ-đề. Sáu: Tâm không buông lung. Bảy: Trong mọi thời gian thường chí tâm tu tập sáu Pháp Ba-la-mật.

Này thiện nam! Lại có bảy tướng: Một: Thích giáo hoá kẻ oán thù. Hai: Lúc hoá độ không chán. Ba: Chủ yếu muốn họ thuần thục, giải thoát. Bốn: Đã biết thông suốt nghề nghiệp và ngôn ngữ của thế gian, đem giáo hoá chúng sanh, nhưng tâm không tham đắm. Năm: Có thể nhẫn chịu tất cả điều ác. Sáu: Không bao giờ nói mà kẻ khác không thích. Bảy:Thấy người phá giới và kẻ độc ác, tâm không giận hờn, thường hay thương mến.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát biết rõ bảy tướng ấy, thì có thể lợi mình lợi người.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia và Xuất gia. Bồ-tát xuất gia, thực hành hai pháp trang nghiêm ấy không khó; ngược lại Bồtát tại gia thực hành hai pháp trang nghiêm ấy, mới thật là khó! Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

KINH ƯU-BÀ-TẮC GIỚI

QUYỂN 3

Phẩm 13: THÂU GIỮ

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Bồ-tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm, làm thế nào để nuôi dạy đệ tử?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Nên dùng bốn nhiếp pháp để gồm thâu, khiến cho các đệ tử xa lìa những điều ác, tăng trưởng các điều thiện, chí tâm dạy bảo như dạy con một, không cầu báo đáp ơn nghĩa, không mong cầu tiếng khen, lợi dưỡng, cũng không cầu cho mình được an vui.

Này thiện nam! Bồ-tát, nếu không có các điều nói trên mà nuôi dạy đệ tử, thì đó là người xấu ác, là Bồ-tát giả danh, là hạng thấp kém nhơ bẩn, không thanh tịnh, phá hoại pháp Phật, là người không được sự thương xót hộ niệm của mười phương chư Phật.

Này thiện nam! Bồ-tát có thể tùy thời dạy bảo đệ tử. Ở đây nói tùy thời, là lúc khởi tham, sân, si. Khi đệ tử khởi tâm tham lam, nên vì họ nói pháp đối trị, khiến trừ được tâm tham lam; còn sân và si thì cũng vậy; sau đó, mới cho học mười hai bộ kinh, thiền định Tam muội; phân biệt nghĩa lí; điều phục thân tâm, tu pháp lục niệm, pháp không buông lung, chăm sóc nuôi dưỡng người bệnh, nhưng tâm không khởi nhàm chán, chịu được những lời nói độc ác, chê bai, mắng nhiếc, hành hạ mà thân tâm vẫn chịu đựng; giả sử có người khốn khổ, thì nên vì họ mà cứu thoát; diệt trừ tâm xấu ác, nghi ngờ của người, biết được trình độ lanh lợi, trung bình hay ngu si, dạy người ngu dốt thì sanh làm cho họ khởi tín tâm; dạy người trung bình được thuần thục, dạy người lanh lợi mau được giải thoát. Nếu người nào siêng năng dạy bảo được như vậy, gọi là Bồtát thật nghĩa, là người chơn thiện, là hoa sen trắng, là bậc Hương tượng trong loài người, là đấng Điều ngự, Trượng phu, là Đại Thiền sư.

Này thiện nam! Thà chấp nhận điều ác, trong một ngày giết nhiều sinh mạng, chớ quyết không bao giờ nuôi đệ tử ác, không điều phục được. Vì sao? Này thiện nam! Vì giới ác thì chỉ tai hại tự thân; còn nuôi đệ tử ác, không dạy bảo được, sẽ khiến cho vô lượng chúng sanh làm ác, có thể huỷ báng vô lượng pháp lành, phá Tăng hoà hợp, khiến chúng sanh tạo năm tội vô gián, vì thế tội còn ác hơn các luật nghi ác.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia và Xuất gia. Bồ-tát xuất gia, có hai hạng đệ tử: Xuất gia và tại gia, Bồ-tát tại gia chỉ có một hạng đệ tử tại gia. Bồ-tát xuất gia dạy đệ tử xuất gia, học mười hai bộ kinh, tùy theo tội đã phạm, khuyên bảo sám hối, dạy tập tám trí, đó là: Pháp trí. Nghĩa trí. Thời trí. Tri túc trí. Tự trí. Chúng trí. Căn trí. Phân biệt trí.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát, nếu có thể dạy bảo, điều phục đệ tử xuất gia được như vậy, thì thầy và trò đều được vô lượng lợi ích. Thầy trò như vậy làm hưng thạnh ngôi Tam Bảo. Vì sao? Vì người đệ tử, sau khi biết được tám trí, sẽ chuyên cần chăm sóc sư trưởng, Hoà thượng và người có đức độ, già yếu, lãnh thọ lời nói tốt, siêng năng đọc tụng và bố thí pháp, tâm không buông lung, điều phục chúng sanh, chăm sóc người bệnh, cung cấp cho kẻ nghèo.

Này thiện nam! Bồ-tát xuất gia nếu có đệ tử tại gia, cũng trước dạy pháp không buông lung. Không buông lung tức là pháp hành, là cúng dường cha mẹ, các sư trưởng, Hoà thượng, người lớn tuổi, người có đức độ. Cúng dường sự an vui; chí tâm thọ giới, không để huỷ phạm, lãnh vật của người gởi không nên sử dụng, thấy người giận dữ phải nên nhẫn nhịn, những lời hung ác và những lời không có ý nghĩa quyết không nói đến, thương yêu chúng sanh, được các vị quốc vương, đại thần, thường phải cung kính, khiếp sợ; điều phục vợ con, quyến thuộc, phân biệt kẻ oán người thân, không xem thường chúng sanh, diệt trừ kiêu nạm, không gần bạn xấu, ăn uống điều độ, diệt trừ tham dục, hạn chế ham muốn, chỉ biết vừa đủ, những nơi tranh cãi không nên đến đó; cho đến cười đùa, không nói lời xấu ác; đó gọi là pháp không buông lung. Bồ-tát xuất gia, nếu nuôi đệ tử tại gia, trước phải dạy pháp không buông lung, lúc khổ hay vui, thường nên chia sẻ; giả sử người đệ tử tại gia nghèo khó, thiếu thốn cần phải biết để giúp đỡ. Ngoài sáu vật của người xuất gia ra, còn bất cứ vật gì cũng không nên tham tiếc. Lúc họ bệnh, nên tìm vật cần dùng, còn khi nuôi bệnh, thì không khởi tâm nhàm chán, nếu tự mình không có tài vật, nên đi bốn phương tìm cầu, tìm cầu không được thì mượn tài vật của Tam Bảo, sau khi lành bệnh, theo luật thế gian, trả gấp mười lần, như pháp trị dân của vua Ba Tư Nặc. Nếu không trả được, nên dạy: “ Ông nay vay mượn của Tam Bảo rất nhiều không thể trả được, phải nên siêng năng tu tập, chứng quả Tuđà-hoàn cho đến quả A-la-hán, hoặc chí thành phát tâm Bồ-đề, hoặc dạy bảo ngàn người sanh tín tâm thanh tịnh trong Phật pháp, hoặc diệt trừ tà kiến sâu nặng của một người. Bồ-tát xuất gia, có thể dạy bảo đệ tử tại gia như vậy, thì cả thầy lẫn trò đều được lợi ích vô lượng.

Này thiện nam! Bồ-tát tại gia, nếu nuôi đệ tử tại gia , trước cũng nên dạy pháp không buông lung. Pháp không buông lung, tức là cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng, người lớn tuổi, người đức độ. Lại phải cung cấp cho anh em, vợ con, bà con quyến thuộc, người sắp đi xa và kẻ xa lạ đến, nếu có tôi tớ, trước cho ăn uống, sau mới nhờ việc, hoặc dạy cho họ chánh tín Tam Bảo, khổ vui cùng hưởng, quyết không hưởng vui riêng, tùy theo các thời mà ban thưởng, không nên để họ đói khát, đừng bao giờ đánh đập, mắng nhiếc, làm họ đau khổ. Phải nên dùng lời dịu dàng, khuyên răn dạy bảo, giả sử họ bị bệnh, thì chăm sóc điều trị, tùy theo sự thiếu thốn của họ mà cấp dưỡng, những việc của thế gian đều đem dạy bảo hết, cưới vợ cho họ thì lựa chỗ xứng đáng, không nên chọn chỗ thấp kém, dạy năm bộ kinh của đức Như Lai, thấy người chia rẽ, nên khuyên hoà hợp, đã hoà hợp rồi khiến họ tăng trưởng tâm lành. Tất cả người xuất gia trong ngoài các đạo, tùy ý cúng dường, không được lựa chọn. Vì sao? Vì trước phải đem bố thí để gồm thâu sau đó điều phục, đem pháp lục hoà dạy bảo. Nếu cầu tài vật, buôn bán, làm ruộng, phụng sự vua quan, thường phải chí tâm đúng như chánh pháp mà làm; sau khi làm ra của cải phải giữ gìn hay làm phước, khi thấy người khác làm, khởi tâm vui mừng, đó gọi là pháp không buông lung. Bồ-tát tại gia, nếu dạy bảo đệ tử tại gia được như vậy thì cả thầy lẫn trò đều được lợi ích vô lượng.

Này thiện nam! Bồ-tát tại gia nếu được tự tại làm chủ một nước lớn, thì nên giúp đỡ nhân dân như người con một, giảng dạy xa lìa các việc ác, tu hành các pháp lành, thấy người làm ác trừng phạt, khiển trách, chớ nên chém giết. Tài vật của dân sáu phần chỉ đóng thuế một phần; thấy người giận dữ, dạy họ tu tập nhẫn nhục và không buông lung, nói lời dịu dàng, phân biệt người thiện kẻ ác, thấy người có tội bỏ qua không tra khảo, tùy theo tài vật mình có thường hay bố thí, tùy theo sức lực của mình mà đọc tụng năm bộ kinh, khéo giữ gìn thân mạng, tài vật, giáo hoá chúng sanh không cho làm ác, thấy người nghèo khổ khởi tâm thương xót. Ở trong đất nước của mình thường hay tu tập hạnh biết đủ, người ác huỷ báng, quyết không u buồn, không làm việc phi pháp để cầu tài vật, như pháp mà gìn giữ đất nước, xa lìa bảy điều ác:

1. Không thích đánh bạc, đánh cờ, 2. Không thích săn bắn, 3. Không thích uống rượu, 4. Không thích theo dục lạc, 5. Không thích nói lời thô ác, 6. Không thích nói lời hai lưỡi, 7. Không thích làm điều phi pháp để cầu tài vật. Thường thích cúng dường cho người xuất gia, thường khiến mọi người trong nước xem vua như cha mẹ, tin nhân, tin quả, thấy người hơn mình chớ nên ganh ghét, thấy mình hơn người không nên cao ngạo, biết mang ân phải trả ân, ân nghĩa dù ít đáp đền phải lớn, điều phục các căn, thanh tịnh ba nghiệp, khen người hiền lành, quở trách người ác, trước khi muốn nói lựa lời dịu dàng, nếu mình không có thế lực, đúng như pháp mà lệ thuộc người ta, lúc chiếm lấy đất nước của kẻ khác, không huy động bốn thứ binh lính chúng sanh khiếp sợ , nên cứu thoát họ, thường dùng Tứ nhiếp mà thống lãnh họ, khéo biết phân biệt mỗi mỗi pháp tướng, có người không muốn thọ lãnh chánh pháp, phải nên dịu dàng, để điều phục họ.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia, và Xuất gia. Bồ-tát xuất gia nuôi dạy hai hạng đệ tử không lấy làm khó, còn Bồ-tát tại gia nuôi dạy chỉ một hạng đệ tử, nhưng thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia có nhiều nhân xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 14: THỌ GIỚI

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Bồ-tát tại gia làm thế nào để được thọ giới Ưu-bà-tắc?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Bồ-tát tại gia nếu muốn thọ trì giới Ưu-bà-tắc, trước nên tuần tự cúng dường sáu phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới. Phương Đông tức là nói về cha mẹ, nếu người cúng dường cha mẹ y phục, thực phẩm ăn uống, chăn nệm, thuốc men, phòng ốc, đồ vật quý, cung kính lễ bái, khen ngợi, tôn trọng, thì người ấy, gọi là cúng dường phương Đông. Cha mẹ cũng lấy năm điều trao lại: 1. Thật lòng thương yêu, 2. Quyết không dối gạt, 3. Trao hết tài sản cho con, . Lựa dòng họ cao quý mà cưới gã cho con, 5. Dạy bảo nghề nghiệp cho con. Phương Nam tức nói về Thầy tổ, nếu người nào cúng dường Thầy tổ y phục, thực phẩm ăn uống, chăn nệm, thuốc men, tôn trọng, khen ngợi, cung kính, lễ bái, thức khuya dậy sớm, vâng lời làm theo sự dạy bảo chân chánh của Thầy, thì người ấy gọi là cúng dường phương Nam. Ngược lại vị Thầy cũng đem năm điều đáp lại: 1. Dạy bảo cấp tốc không để mất thời giờ, 2. Dạy bảo hết những điều mình đã biết, 3. Học trò hơn mình vẫn không sanh tâm ganh ghét, . Gởi gắm cho bậc Nghiêm sư, bạn tốt, 5. Gần lúc qua đời đem hết tài sản giao phó cho học trò. Phương Tây tức là nói về vợ con, nếu người nào, cung cấp cho vợ con y phục, thực phẩm ăn uống, chăn nệm, thuốc men, chuỗi ngọc và đầy đủ đồ trang sức, người ấy gọi là cúng dường phương Tây. Ngược lại vợ con cũng đem mười bốn điều đáp lại: 1. Hết lòng kinh doanh sự ngiệp, 2. Chăm làm công việc không biếng nhác, 3. Hễ làm việc gì quyết làm cho xong, . Làm việc lanh lẹ không để mất thời gian, 5. Thường vì chồng chăm sóc người thân và bạn của chồng, 6. Giữ gìn sạch sẽ phòng xá, chăn nệm, . Kính mến chồng, nói lời dịu dàng với chồng, . Đối với tôi tớ dạy bảo dùng lời dịu dàng, . Khôn khéo giữ gìn của cải, 10. Thức khuya dậy sớm, 11. Làm các món ăn sạch sẽ, 12. Nhẫn chịu những lời dạy bảo, 13. Che kín những việc xấu, 1. Chăm sóc những người tật bệnh. Nói về phương Bắc tức là thiện tri thức, nếu có người nào hay cúng dường bạn lành tri thức, tùy sức giúp đỡ, khen ngợi, cung kính lễ bái, nói lời dịu dàng, đó là người cúng dường phương Bắc. Ngược lại, thiện hữu tri thức sẽ phải dùng bốn việc báo đáp trở lại: 1. Dạy họ tu pháp lành, 2. Bảo xa lìa pháp ác, 3. Lúc họ khiếp sợ phải cứu giúp, . Khi họ buông lung tìm cách ngăn cản. Nói về phương Dưới tức là tôi tớ, nếu có người cung cấp cho kẻ tôi tớ về y phục, thức ăn, thuốc men khi đau ốm, không la mắng, đánh đập, đó là người có thể cung cấp phương Dưới. Trái lại, tôi tớ nên dùng mười việc đáp lại: 1. Không gây tội lỗi, 2. Không phải đợi sai bảo mới làm, 3. Khi làm quyết phải cho xong, . Làm mau không chậm trể, 5. Chủ dù suy sụp khốn khổ cùng trọn không xa lìa, 6. Thường dậy sớm, . Giữ gìn của cải, . Dù thọ ân rất ít nhưng đền đáp lại nhiều, . Chí tâm cung kính, 10. Khôn khéo che giấu việc xấu. Nói về phương Trên tức là Sa-môn, Bà-la-môn.v.v… nếu có người nào cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn về y phục, thực phẩm ăn uống, phòng xá, ngoạ cụ, thuốc men khi đau ốm, lúc họ sợ hãi có thể cứu giúp, gặp đời đói khát đem của bố thí, nghe chuyện xấu ác tìm cách ngăn dứt, cung kính lễ bái, tôn trọng khen ngợi, đó là người có thể cúng dường phương trên. Là người xuất gia phải lấy năm việc để đền đáp lại: 1. Dạy họ khởi niềm tin, 2. Dạy bảo họ phát sanh trí tuệ, 3. Dạy họ thực hành bố thí, . Dạy họ giữ gìn giới cấm, 5. Dạy bảo học rộng nghe nhiều. Nếu có người cúng dường sáu phương như vậy, thì người ấy sẽ được tăng trưởng tuổi thọ, của cải giàu có và có thể thọ trì giới Ưu-bà-tắc.

Này thiện nam! Nếu có người muốn thọ giới Ưu-bà-tắc, để tăng trưởng tuổi thọ và có nhiều của cải, trước thưa với cha mẹ, nếu cha mẹ đã đồng ý, nên cho vợ con tôi tớ biết, những người ấy đều bằng lòng, cuối cùng đến thưa với người cầm quyền trong nước, người cầm quyền trong nước cho rồi, ở đâu có người xuất gia phát tâm Bồ-đề, liền đến các vị ấy cúi đầu đảnh lễ, dùng lời dịu dàng xin thưa: Bạch Đại Đức! “Con là trượng phu, đầy đủ thân nam tử, nay con muốn thọ giới Bồ-tát Ưu-bà-tắc, cúi xin Đại Đức Từ bi, thương xót chấp nhận cho.” Lúc ấy, vị Tỳ-kheo nên hỏi: “Cha mẹ, vợ con, tôi tớ và nhà cầm quyền trong nước có bằng lòng chưa?” Nếu người ấy đáp đã bằng lòng, nên hỏi tiếp. “Ông có vay mượn tài vật của Phật, Pháp, Tăng và tài sản của người khác không?” Nếu nói không có vay mượn, nên hỏi tiếp: “Nay thân ông trong ngoài có tật bệnh gì không?” Nếu nói không có, thì nên hỏi tiếp: “Ông có làm điều gì tội lỗi với các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni không?” Nếu nói không, thì nên hỏi tiếp: “Ông có tạo tội ngũ nghịch không?” Nếu nói không, thì nên hỏi tiếp: “Ông có lén nghe trộm pháp không?” Nếu nói không, thì nên hỏi tiếp: “Ông có phải là người hai căn hay không căn? Có phá hoại tám quan trai giới không? Có giết người phát tâm Bồ-đề không? Có trộm vật của chúng Tăng hiện tiền, nói lời hai lưỡi, lời hung dữ, đối với mẹ, chị, em, làm việc phi pháp không. Ở trong đại chúng có nói dối không?” Nếu nói không, thì nên hỏi tiếp:

Này thiện nam! Giới Ưu-bà-tắc là rất khó. Vì sao? Vì giới ấy là nền tảng cho mười giới của Sa-di, đại giới của Tỳ-kheo và của Bồ-tát cho đến quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Chí tâm thọ trì giới Ưu-bàtắc, thì có thể được nhiều lợi ích như những giới khác, nếu có huỷ phạm giới ấy, tức là nhiều đời bị đoạ vào ba đường ác chịu nhiều thống khổ, nay ông muốn được nhiều lợi ích, có chí tâm nhận lãnh không? Nếu người muốn thọ giới nói: “Con xin chí tâm thọ nhận”, thì nên dạy: Giới Ưu-bà-tắc khó lắm, nếu quy y Phật rồi, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y Trời, Thần, Quỷ vật.v.v… Nếu quy y Pháp rồi, thà bỏ thân mạng, quyết không vâng theo kinh sách ngoại đạo. Nếu quy y Tăng rồi, thà bỏ thân mạng, quyết không theo thầy tà, bạn ác. Ông có làm được như vậy, mà quy y Tam Bảo không? Nếu nói: “Có thể được”, thì nên dạy tiếp: Này thiện nam! Giới Ưu-bà-tắc rất là khó, nếu người quy y Tam Bảo rồi, thì phải bố thí sự không sợ hãi, cho tất cả chúng sanh, nếu đã có thể bố thí sự không sợ hãi, tức là người được giới Ưu-bà-tắc cho đến quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Ông có làm được như vậy, mà bố thí sự không sợ hãi cho tất cả chúng sanh không? Nếu nói : “ Có thể bố thí được”, thì nên dạy tiếp: “Con người có năm điều trong hiện tại, không thể làm tăng trưởng thọ mạng, và của cải: Ưa giết hại. Ưa trộm cắp. Tà dâm. Nói dối. Uống rượu. Tất cả chúng sanh, do giết hại, nên đời hiện tại bị xấu xí, hung tợn, tiếng ác đồn xa, thọ mạng ngắn ngủi, tài vật hao tổn, quyến thuộc chia lìa, thánh hiền quở trách, mọi người đều không tin tưởng, kẻ khác tạo tội bị tai hoạ lây, đó là nghiệp quả xấu ác trong đời hiện tại. Khi bỏ thân mạng, sẽ bị đoạ vào địa ngục chịu nhiều khổ cực, đói khát thọ mạng, xấu xí, hung tợn, tên tuổi độc ác.v.v…, đó là nghiệp quả xấu ác ở đời sau. Nếu được làm người, thì thân hình xấu xí, hung tợn, nghèo cùng, chết yểu, vì sức lực do một người xấu ác kia sẽ làm ảnh hưởng đến tất ca, năm giống dưa lúa đều bị giảm bớt, người ấy gây tai ương cho cả một thiên hạ. Nếu người ưa trộm cắp, thì thân hình cũng xấu ác, hung dữ, tên tuổi xấu xa, chết yểu, tài sản tổn giảm, bà con xa lìa, người khác mất gì đều nghi đến mình, dù ở gần gũi với người mà không được tin cậy, thường bị Thánh Hiền quở trách, đó gọi là quả báo ở hiện tại. Sau khi xả bỏ thân mạng đoạ vào địa ngục, chịu thân thể xấu xa, hung dữ, tên tuổi ghê tởm, đói khát, khổ não, thọ mạng như vậy rất lâu dài, đó là quả báo đời sau. Nếu được làm người, lại bị nghèo khổ, dù có tài vật, cũng bị đánh mất, không được cha mẹ, anh em, vợ con yêu mến, thân thường thọ khổ, tâm luôn sầu não, vì sức lực của người xấu ác ấy, dẫn đến tất cả nhân dân, dù có ăn uống, nhưng không được mạnh khoẻ tốt đẹp, do quả báo xấu ác của người ấy làm ảnh hưởng đến mọi người.

Này thiện nam! Nếu có người ưa nói dối, thì người ấy đời hiện tại, hay nói lời hung dữ, thân hình xấu xí, dù nói lời chân thật nhưng người ta vẫn không tin, mọi người đều chán ghét và không muốn thấy, đó là quả báo trong đời hiện tại. Sau khi xả bỏ thân này, sẽ đoạ vào địa ngục, chịu nhiều thống khổ, đói khát khổ não, đó là quả báo ở đời sau. Nếu được làm thân người, môi miệng không đầy đủ, có nói ra điều gì dù là lời chân thật, nhưng không ai tin cậy, người thấy không thích, dù nói chánh pháp cũng không ai nghe, vì sức lực của người xấu ác này, làm ảnh hưởng đến mọi vật, tất cả sự sanh sống đều bị giảm.

Này thiện nam! Nếu có người ưa uống rượu, thì người ấy đời hiện tại, hay mất của cải, thân tâm có nhiều tật bệnh, thường ưa tranh cải, tiếng xấu đồn xa, hao mòn trí tuệ, tâm không biết hổ thẹn, sắc mặt xấu xí, ốm yếu, thường bị mọi người quở trách, người không muốn thấy, không thể tu pháp lành, ấy gọi là ác báo hiện tiền của người uống rượu. Sau khi xả bỏ thân mạng đoạ trong địa ngục, chịu đói khác.v.v… nhiều sự thống khổ, đó gọi là quả báo đời sau. Nếu được làm người thân tâm thường bị tán loạn, không thể nhất tâm chánh niệm, suy nghĩ pháp thiện, vì sức lực của người ác ấy mà ảnh hưởng đến tất cả ngoại vật nuôi sống, mọi loài đều bị hư hoại.

Này thiện nam! Nếu có người ưa tà dâm, người ấy không thể giữ gìn thân mình và thân người khác, tất cả chúng sanh thấy đều sanh nghi ngờ, những việc đã làm đều nói dối hết, trong mọi thời gian chịu mọi thống khổ, tâm thường tán loạn, không thể tu tập pháp lành, thường mất của cải, vợ con không yêu mến, chết yểu, đó là quả báo trong đời hiện tại, của sự tà dâm. Sau khi xả bỏ thân mạng rơi vào địa ngục thọ phải thân hình xấu xí, đói khát sống lâu, trong sự khổ não, đó là quả báo đời sau. Nếu làm thân người hình hài xấu xí, lời nói hung dữ, mọi người không muốn nhìn, không thể giữ gìn vơ, con trai, con gái, vì sức lực của người ác ấy dẫn đến tất cả cảnh vật không được tự tại.

Này thiện nam! Năm pháp ác này, ông nay thành thật xa lìa được chứ? Nếu trả lời được, lại nên dạy tiếp:

Này thiện nam! Thọ giới Ưu-bà-tắc, có bốn việc không nên làm: Nhân duyên tham lam không nên hư vọng, nhân duyên sân hận, si mê, khiếp sợ không nên hư vọng, bốn việc ác ấy ông có thể xa lìa được chứ? Nếu nói xa lìa được, lại nên dạy tiếp:

Này thiện nam! Thọ giới Ưu-bà-tắc có năm chỗ không nên đến:

Người hàng thịt. Chốn lầu xanh. Nơi quán rượu. Nhà của vua. Kẻ đê tiện. Năm chỗ như vậy ông có thể xa lìa được chứ? Nếu trả lời được, thì nên dạy tiếp: Này thiện nam! Thọ giới Ưu-bà-tắc có năm điều không được làm: 1. Không buôn bán sinh mạng muôn loài. 2. Không buôn bán dao gươm. 3. Không buôn bán thuốc độc. . Không bán rượu. 5. Không được chèn ép ức hiếp. Năm việc như vậy ông có thể xa lìa được chứ? Nếu nói được thì nên dạy tiếp: Thọ giới Ưu-bà-tắc, có ba việc không nên làm: Không nên làm ghề chài lưới. Không làm nghề thợ nhuộm. Không nên làm nghề thuộc da. Ba việc như vậy, ông có thể xa lìa được chứ? Nếu nói xa lìa được, thì nên dạy tiếp:

Này thiện nam! Thọ giới Ưu-bà-tắc lại có hai việc không nên làm: Cờ bạc. Các loại đờn ca, xướng hát. Hai việc như vậy, ông có thể xa lìa được chứ? Nếu trả lời xa lìa được, lại nên dạy tiếp:

Này thiện nam! Thọ giới Ưu-bà-tắc có bốn loại người không nên gần gũi: Cờ bạc. Rượu che. Dối trá. Bán rượu. Bốn hạng người như vậy ông có thể xa lìa được chứ? Nếu trả lời xa lìa được, lại nên dạy tiếp:

Này thiện nam! Thọ giới Ưu-bà-tắc có pháp buông lung không nên làm: Như khi nóng, lạnh, đói, khát, được ăn nhiều, từ sáng mai đến chiều tối, lúc buồn, lúc làm việc, lúc sắp làm việc, lúc được, lúc mất, lúc sợ, lúc mừng, lúc nạn giặc, lúc đói kém, bệnh khổ, lúc trai trẻ hay già yếu, lúc giàu, lúc nghèo, lúc thân mạng mong cầu của cải, trong những lúc ấy, không lo tu pháp lành, ông có thể xa lìa được chứ? Nếu trả lời xa lìa được, thì nên dạy tiếp:

Này thiện nam! Thọ giới Ưu-bà-tắc trước phải học việc đời, khi học được rồi, đúng như pháp mà làm ra của cải. Nếu làm được của cải, nên chia ra làm bốn phần, một phần cúng dường cha mẹ, nuôi vợ con, quyến thuộc, hai phần nên như pháp làm vốn buôn bán, còn một phần giữ lại. Bốn việc như vậy ông có thể làm được chứ? Nếu trả lời làm được, thì nên dạy tiếp:

Này thiện nam! Tài vật không nên gởi hay giao cho bốn chổ: Người già. Chỗ cách xa. Người tham ác. Người có nhiều quyền thế, bốn nơi ấy ông có thể tránh được chứ? Nếu trả lời được, lại nên dạy tiếp:

Này thiện nam! Thọ giới Ưu-bà-tắc có bốn hạng người ác nên xa lánh: .Người thích nói lỗi kẻ khác. Người thích nói điều tà kiến. Người miệng nói lời dịu dàng mà tâm độc ác. Người làm ít mà ưa nói nhiều, bốn hạng người ấy, ông có thể tránh xa được chứ? Nếu trả lời được, phải khiến cho người ấy, trong suốt sáu tháng gần gũi phụng sự bậc xuất gia có trí, người trí ấy, lại nên để tâm quán sát hành động đi, đứng, nằm, ngồi của vị thọ giới. Nếu biết người ấy, y như lời dạy mà thực hành qua sáu tháng rồi, mời hai mươi vị Tăng làm phép bạch yết ma: “Các Đại Đức Tăng xin lắng nghe, nay có người đến trước chúng Tăng xin thọ giới Ưu-bà-tắc. Suốt sáu tháng nay trang nghiêm thanh tịnh trong bốn oai nghi, chí tâm thọ trì pháp trang nghiêm thanh tịnh, người này là bậc trượng phu, đầy đủ thân nam tử, nếu chúng Tăng bằng lòng thì im lặng, nếu ai không bằng lòng thì nói. Nếu chúng Tăng bằng lòng rồi, người Thầy lại nói:

– Này thiện nam! Hãy chú ý lắng nghe, chúng Tăng đã hoà hợp và chấp nhận cho ông thọ giới Ưu-bà-tắc, giới này là cội gốc của tất cả các pháp thiện, nếu thành tựu được giới này, sẽ chứng được quả Tu-đahoàn, cho đến quả A-na-hàm, nếu phá giới này, thì sau khi mạng chung sẽ đoạ vào ba đường ác.

Này thiện nam! Giới Ưu-bà-tắc là không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì thọ giới này rồi, dù hưởng thọ năm thứ dục lạc cũng không chướng ngại quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-na-hàm, cho nên gọi là không thể nghĩ bàn. Ông vì thương các chúng sanh, mà thọ giới ấy chứ? Nếu trả lời là phải, thì bấy giờ người Thầy cho vị ấy pháp quy y Tam Bảo. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy. Thọ pháp Tam quy xong, gọi là Ưubà-tắc. Bấy giờ, người Thầy lại dạy tiếp:

– Này thiện nam! Hãy lắng nghe! Đức Như Lai nói giới Ưu-bà-tắc, hoặc có một phần hoặc có nửa phần, hoặc không có phần nào, hoặc có nhiều phần, hoặc có toàn phần. Nếu Ưu-bà-tắc thọ Tam quy rồi không thọ năm giới, gọi là Ưu-bà-tắc. Nếu thọ Tam quy y rồi và giữ một giới, gọi là một phần. Thọ Tam quy y rồi, và giữ hai giới, gọi là thiểu phần, nếu thọ Tam quy y rồi và giữ hai giới, nếu phá một giới, gọi là không có phần nào, thọ Tam quy y rồi và giữ ba giới, bốn giới gọi là nhiều phần, thọ Tam quy y rồi và giữ năm giới, gọi là toàn phần. Ông nay muốn thọ Ưu-bà-tắc một phần hay Ưu-bà-tắc toàn phần? Tùy ý người muốn thọ trả lời. Bấy giờ người Thầy theo ý muốn người thọ mà trao truyền cho họ. Trao giới xong lại dạy tiếp: Ưu-bà-tắc có sáu giới trọng.

Này thiện nam! Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, dù là thiên nữ cho đến loài kiến, côn trùng cũng không nên giết. Nếu thọ giới rồi, hoặc miệng sai người khác giết hay tự mình giết, thì người ấy mất giới Ưu-bà-tắc, người ấy không được Noãn pháp, huống là Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm, đó là Ưu-bà-tắc phá giới, Ưu-bà-tắc xấu xa, Ưu-bà-tắc hạ tiện, Ưu-bàtắc không sạch, Ưu-bà-tắc phiền não, đó là giới trọng thứ nhất.

Ưu-bà-tắc dù vì bản thân cũng không nên trộm cắp, dù chỉ một tiền, nếu phá giới này, người ấy sẽ mất giới Ưu-bà-tắc, người ấy không được Noãn pháp huống là Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm, ấy là Ưu-bà-tắc phá giới, Ưu-bà-tắc xấu xa, Ưu-bà-tắc hạ tiện, Ưu-bà-tắc không sạch, Ưu-bà-tắc phiền não, đó gọi là giới trọng thứ hai.

Ưu-bà-tắc dù vì thân mạng cũng không nên nói dối: “Ta đã được pháp quán Bất tịnh đến A-na-hàm”. Nếu phá giới này, sẽ mất giới Ưubà-tắc, là người không được Noãn pháp, huống là Tu-đà-hoàn đến Ana-hàm, đó là Ưu-bà-tắc phá giới, Ưu-bà-tắc xấu xa, Ưu-bà-tắc hạ tiện, Ưu-bà-tắc không sạch, Ưu-bà-tắc đầy phiền não, đó là giới trọng thứ ba.

Ưu-bà-tắc vì dù thân mạng, cũng không tà dâm, nếu phá giới này người ấy sẽ mất giới Ưu-bà-tắc, người ấy sẽ không được Noãn pháp huống là Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm, là Ưu-bà-tắc phá giới, Ưu-bà-tắc xấu xa, Ưu-bà-tắc hạ tiện, Ưu-bà-tắc không sạch, Ưu-bà-tắc đầy phiền não, đó là giới trọng thứ tư.

Ưu-bà-tắc dù vì thân mạng cũng không nói lỗi lầm của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, ưu bà di, nếu người phá giới này sẽ mất giới Ưu-bà-tắc, người ấy không được Noãn pháp huống là Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm, là Ưu-bà-tắc phá giới, Ưu-bà-tắc xấu xa, Ưu-bà-tắc hạ tiện, Ưu-bà-tắc không sạch, Ưu-bà-tắc đầy phiền não, đó là giới trọng thứ năm.

Ưu-bà-tắc dù vì thân mạng cung không được bán rượu, nếu người phá giới này sẽ mất giới Ưu-bà-tắc, người ấy không được Noãn pháp huống là Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm, là Ưu-bà-tắc phá giới, Ưu-bà-tắc xấu xa, Ưu-bà-tắc hạ tiện, Ưu-bà-tắc không sạch, Ưu-bà-tắc đầy phiền não, đó là giới trọng thứ sáu.

Này thiện nam! Nếu thọ giới Ưu-bà-tắc như vậy, lại chí tâm giữ gìn không để khuyết phạm, thì sẽ được kết quả của giới đã nói như trên.

Này thiện nam! Giới Ưu-bà-tắc là chuỗi ngọc để trang nghiêm, là hương vi diệu xông khắp các cõi, ngăn pháp bất thiện, làm thiện luật nghi, là kho tàng quý báu vô thượng, là dòng họ cao quý, là chỗ thanh tịnh, là vị cam lồ, là chỗ sanh pháp lành. Người phát tâm là đã được lợi ích vô lượng, huống gì nhất tâm thọ trì không huỷ phạm.

Này thiện nam! Như lời Phật dạy:

– Nếu Ưu-bà-tắc thọ trì giới rồi mà không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, thì vị Ưu-bà-tắc ấy bị tội Thất ý, không có sám hối thì bị đoạ, là việc làm không được trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ trì giới, mà còn thích uống rượu, thì vị Ưubà-tắc ấy bị tội Thất ý, không sám hối, thì sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, mà nhờm gớm không chăm sóc người bệnh, thì vị Ưu-bà-tắc ấy bị tội Thất ý, không sám hối, bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, thấy người đến xin, mà không cho nhiều ít, để họ về không, vị Ưu-bà-tắc ấy bị tội Thất ý, không sám hối thì bị đoạ, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, thấy các vị Tỳ-kheo, hoặc Tỳ-kheo ni, bậc trưởng lão tôn túc và những Ưu-bà-tắc.v.v… mà không đứng dậy đón chào, lễ bái, thăm hỏi, thì vị Ưu-bà-tắc ấy bị tội Thất ý, không sám hối thì bị đoạ, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, hoặc Ưu-bà-tắc, ưu bà di phá giới, mà khởi tâm kiêu mạn, nói: “Ta hơn những người kia, những người kia không được như ta!” Vị Ưu-bà-tắc ấy bị tội Thất ý, không sám hối thì bị đoạ, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, trong mỗi tháng, không có sáu ngày để thọ trì Bát Quan Trai giới, cúng dường Tam Bảo, thì vị Ưubà-tắc ấy, bị tội Thất ý, không lo sám hối thì bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, trong phạm vi bốn mươi dặm, có nơi giảng pháp, mà không đến nghe, thì vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, mà thọ nhận sàng toạ, ngoạ cụ của Tăng thường trú, vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ đọa, vì đó là việc không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, nghi trong nước có côn trùng, mà cố ý uống, vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch. Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, đến những nơi hiểm nạn, không có bạn, mà cứ một mình đi, vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa. Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, một mình ở lại chùa Ni, vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, vì của cải, thân mạng mà đánh đập tôi tớ của người khác, vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, mà đem thức ăn thừa cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu bà di, thì vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối, sẽ bị đoạ, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, mà còn nuôi mèo, chồn, thì vị Ưubà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, mà nuôi dưỡng voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, tất cả cầm thú mà không làm phép tịnh thí cho người chưa thọ giới, thì vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối, sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, mà không dự trữ Tăng-già-lê, bình bát, tích trượng, thì vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đoạ vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, vì thân mạng, cần phải làm ruộng vườn, không tìm chỗ nước trong và ruộng, cao để gieo trồng, vị Ưu-bàtắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, mà vì thân mạng ở chợ, phố, cân lường, buôn bán, một khi nói giá cả xong, không được nói giá thêm hay dùng cân đo lường không ngay thật, đầy đủ, nếu như có người nào đong lường không đầy đủ, phải bảo họ đong lường thành thật, nếu không làm được như vậy, thì vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, hành dâm không phải chỗ, không phải thời, vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, khi buôn bán không chịu nạp thuế, trốn bỏ đi, thì vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý,không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch. Nếu Ưu-bà-tắc ấy đã thọ giới rồi, bị phạm luật cấm của quốc gia, thì vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý , không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, có lúa mới, trái cây, rau cải đầu mùa mà không đem cúng dường Tam Bảo, mà tự dùng trước, vị Ưu-bàtắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, chúng Tăng không cho phép nói pháp, khêu ngợi, mà vẫn cứ làm; vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, ra đường đi trước Tỳ-kheo, Sa-di, vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, phân chia thức ăn cho chúng Tăng, mà thương Thầy mình, chọn thức ăn ngon và quá phần, thì vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đoạ, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, mà nuôi tằm, vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Nếu Ưu-bà-tắc đã thọ giới rồi, lúc đi đường, gặp người bệnh không dừng lại chăm sóc, thăm hỏi, tìm phương tiện nhờ giởi cho người ở gần, mà bỏ đi, thì vị Ưu-bà-tắc ấy phạm tội Thất ý, không lo sám hối, sẽ bị đọa, vì đó là việc làm không trong sạch.

Này thiện nam! Nếu Ưu-bà-tắc chí tâm thọ trì giới như vậy, người ấy được gọi là Ưu-bà-tắc, như bông sen trắng quý nhất, là Ưu-bà-tắc có đức hạnh, có hương thơm vi diệu, là bông sen trong sạch trong hàng Ưu-bà-tắc, là báu vật chơn thật trong hàng Ưu-bà-tắc, là người trượng phu trong hàng Ưu-bà-tắc.

Này thiện nam! Như Phật đã dạy: Bồ-tát có hai hạng: Tại gia, và Xuất gia. Bồ-tát xuất gia gọi là Tỳ-kheo, Bồ-tát tại gia gọi là Ưu-bàtắc. Bồ-tát xuất gia giữ gìn giới xuất gia không khó, Bồ-tát tại gia, giữ gìn giới tại gia mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 15: TỊNH GIỚI

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Có người đã thọ trì giới này, nhưng làm sao giữ gìn cho được thanh tịnh?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Có ba điều, làm cho giới này được trong sạch: Tin Phật, Pháp, Tăng. Tin sâu về nhân qủa. Có tâm hiểu biết. Lại có bốn điều: 1. Tâm từ. 2. Tâm bi. 3. Không tham lam. 4. Chỗ chưa có ơn, trước phải làm ơn.

Lại có năm điều: 1. Đối với người oán thù, trước dùng điều tốt để làm lợi ích cho họ. 2. Thấy người sợ hãi, ra sức bảo vệ họ. 3. Người ăn xin đến dù họ chưa nói, trước ta phải mở lòng thương xót giúp đỡ cho họ. 4. Hễ bố thí, các nơi đều bình đẳng, không phân biệt. 5. Ban đức Từ bi cho khắp tất cả, không cần đợi chờ cho đầy đủ cơ duyên.

Lại có bốn điều: 1. Không tự xem thường mình không khả năng được quả vị Bồ-đề. 2. Khi tu tập hướng đến quả vị Bồ-đề giữ tâm bền vững. 3. Siêng năng tu tập tất cả pháp lành. 4. Làm những công việc lớn, tâm không mỏi mệt và hối hận.

Lại có bốn điều: 1. Tự học pháp lành, sau khi học xong dạy cho người khác. 2. Tự xa lìa pháp ác và dạy người khác xa lìa pháp ác. 3. Khôn khéo phân biệt pháp lành và pháp ác. 4. Đối với tất cả các pháp, không có bám giữ và dính mắc.

Lại có bốn điều: 1. Biết các pháp Hữu vi đều không có Ta và của Ta. 2. Biết tất cả nghiệp, đều có quả báo. 3. Biết pháp Hữu vi đều là vô thường. 4. Biết từ khổ sanh vui, từ vui sanh khổ.

Lại có ba diều: 1. Đối với chúng sanh, tâm không dính mắc. 2. Bố thí niềm an vui cho chúng sanh, tâm luôn bình đẳng. 3. Việc làm đúng như lời nói.

Lại có ba diều: 1. Bố thí những nhân vui cho chúng sanh. 2. Việc làm không cần trả ơn. 3. Tự quyết định, ta sẽ thành quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Lại có ba điều: 1. Vì các chúng sanh chịu nhiều khổ cực. 2. Thứ tự lãnh thọ. 3. Trong thời gian tu tập, không dừng nghỉ, dù chịu khổ cực, tâm không hối hận.

Lại có ba điều: 1. Chưa trừ được tâm tham ái, mà có thể xả được những đều yêu thích cho người khác. 2. Chưa trừ được lòng giận dữ, nhưng nếu có người đem điều ác ép cho mình, mà vẫn có thể nhẫn chịu được. 3. Chưa trừ được tâm si mê, mà có thể phân biệt được pháp thiện ác.

Lại có ba điều: 1. Khéo biết phương tiện, dạy bảo chúng sanh xa lìa pháp ác. 2. Khéo biết phương tiện, dạy bảo chúng sanh tu tập pháp thiện. 3. Lúc giáo hoá chúng sanh, tâm không mỏi mệt và hối tiếc.

Lại có ba điều: 1. Vì muốn chúng sanh lúc lìa thân đau khổ, đối với thân mạng, tâm không tham tiếc. 2. Vì muốn chúng sanh lúc lìa tâm đau khổ, đối với thân mạng, tâm không tham tiếc. 3. Lúc giáo hoá chúng sanh tu tập pháp lành, đối với thân mạng, tâm không tham tiếc.

Lại có ba điều: 1. Tự bỏ việc mình, trước kinh doanh việc cho người. 2. Lúc kinh doanh việc của người, không được lựa chọn thời tiết. 3. Chẳng bao giờ lo sự cực khổ bức não.

Lại có ba điều: 1. Tâm không ganh ghét. 2. Thấy người khác hưởng an, vui tâm sanh vui mừng. 3. Tâm luôn luôn hướng thiện liên tục không cho gián đoạn.

Lại có ba điều: 1. Thấy người khác có ít tâm thiện, mình luôn ghi nhớ. 2. Người khác giúp đỡ dù chút ít, vẫn lo suy nghĩ báo đáp nhiều. 3. Trong vô lượng kiếp, chịu nhiều khổ cực, tâm vẫn bền vững, không thối chuyển.

Lại có ba điều: 1. Biết rõ sanh tử có nhiều tội lỗi, là do không xả bỏ tất cả nghiệp ác. 2. Thấy các chúng sanh không có người quy y, làm lễ quy y cho họ. 3. Thấy các chúng sanh hung dữ, thì sanh tâm thương xót, không khiển trách, không chấp lỗi lầm của họ.

Lại có ba điều: 1. Thân cận bạn lành. 2. Nghe pháp không nhàm chán. 3. Chí tâm học hỏi lời dạy của thiện tri thức.

Lại có chín pháp: Xa lìa ba pháp, ba thời không hối hận, bình đẳng bố thí cho ba hạng chúng sanh.

Lại có bốn pháp: Nghĩa là Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Này thiện nam! Bồ-tát nếu dùng các pháp thanh tịnh như trên,để thanh lọc thân tâm, cần phải hai thời: Lúc Phật xuất hiện giữa đời. Lúc Duyên-giác ra đời.

Này thiện nam! Chúng sanh tu tập pháp lành có ba điều phát sanh: 1. Nhờ nghe mà sanh. 2. Nhờ suy nghĩ mà sanh. 3. Nhờ tu tập mà sanh. Hai điều nghe và suy nghĩ, thì ở trong hai thời, còn do tu tập mà sanh, thì không hạn định trong hai thời.

Này thiên nam tử! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia và Xuất gia. Bồ-tát xuất gia, làm thanh tịnh giới như vậy không khó; ngược lại, Bồ-tát tại gia hành thanh tịnh giới như vậy mới thật là khó! Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 16: TRỪ CÁC ĐIỀU ÁC

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Bồ-tát đã thọ giới Ưu-bà-tắc, nếu có các điều ác trong hay ngoài, và các nhân duyên bất tịnh, làm sao xa lìa được?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Bồ-tát nếu có các điều ác trong hay ngoài và nhân duyên bất tịnh, thì tâm người ấy, nên tu tập niệm Phật, nếu người chí tâm tu tập niệm Phật, thì sẽ xa lìa được trong hay ngoài các điều ác và nhân duyên bất tịnh, làm tăng trưởng Bi, Tuệ – Bạch đức Thế Tôn! Phải tu tập bằng cách nào?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Nên quán đức Như Lai có bảy điều thù thắng: 1. Thân thể thù thắng. 2. Sống đúng như chánh pháp thù thắng. 3. Trí tuệ thù thắng. 4. Cụ túc thù thắng. 5. Hành xứ thù thắng. 6. Không thể nghĩ bàn thù thắng. 7. Giải thoát thù thắng. Thế nào là thân thể thù thắng? Thân của đức Như Lai được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, sức mạnh ở mỗi một lóng tay, địch với sức mạnh của cả vạn tám ngàn con Hương tượng Y-la-bát-na, chúng sanh ưa nhìn, không nhàm chán, ấy là thân thù thắng. Thế nào là sống đúng như chánh pháp thù thắng? Đức Như Lai đã tự được lợi ích, lại còn thương xót, cứu giúp, làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, ấy gọi là sống như chánh pháp thù thắng. Thế nào là trí tuệ thù thắng? Đức Như Lai có bốn vô ngại trí, các bậc Thanh-văn, Duyên-giác không thể sánh kịp, ấy là trí tuệ thù thắng. Thế nào là cụ túc thù thắng? Đức Như Lai đầy đủ công hạnh, thọ mạng, trì giới và tri kiến, đó là cụ túc thù thắng. Thế nào là hành xứ thù thắng? Đức Như Lai tu tập ba Tam muội, chín thứ thiền định, Thanhvăn, Duyên-giác không thể sánh kịp, đó là hành xứ thù thắng. Thế nào là không thể nghĩ bàn thù thắng? Đức Như Lai có sáu thứ thần thông thù thắng, Thanh-văn, Duyên-giác không thể sánh kịp. Đức Như Lai có mười lực, bốn điều không sợ, đại từ, ba niệm xứ, đó là không thể nghĩ bàn thù thắng. Thế nào là giải thoát thù thắng? Đức Như Lai đầy đủ hai thứ giải thoát thù thắng, trừ được chướng trí tuệ và chướng phiền não, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não, trí duyên nơi hai cảnh đều được tự tại, đó gọi là giải thoát thù thắng. Do đó trong Khế kinh, Tôn giả Xá Lợi Phất đã khen ngợi đức Như Lai đầy đủ bảy pháp thù thắng. Đức Như Lai soi xét từ bất tịnh cho đến quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, hay từ địa trang nghiêm cho đến địa giải thoát, cao hơn đối với hàng Thanh-văn, Duyên-giác; do vậy, đức Như Lai được gọi là đấng Vô thượng Chí Tôn. Đức Như Lai tu pháp Tam muội không, Tam muội diệt tận định, Tứ thiền, quán Từ bi và mười hai nhân duyên, đều vì lợi ích cho chúng sanh. Đức Như Lai nói, không có hai lời, nên gọi là Như Lai. Như thuở xưa, Phật từ địa Trang nghiêm xuất sanh được quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nên gọi là Như Lai. Đầy đủ chánh pháp vi diệu, nên gọi là đại A-la-hán, có thể thọ tất cả sự cúng dường của trời người, nên gọi là A-la-hán. Biết rõ chân đế và tục đế, nên gọi là Chánh biến tri, tu tập, giữ gìn tịnh giới, đầy đủ ba minh, nên gọi là Minh hành túc. Không còn sinh trong ba cõi, nên gọi là Thiện thệ. Biết rõ hai thế giới, đó là thế giới chúng sanh và thế giới quốc độ, nên gọi là Thế gian giải. Khéo biết các phương tiện, để điều phục chúng sanh, nên gọi là Điều ngự trượng phu. Có thể khiến cho chúng sanh không khởi tâm khiếp sợ, dùng các phương tiện giáo hoá chúng sanh xa lìa khổ đến an vui, nên gọi là Thiên nhân sư. Biết tất cả các pháp và tất cả các hành, nên gọi là Phật. Có thể phá trừ bốn ma, nên gọi là Thế Tôn. Hoặc quán Như Lai, tu hành Giới- Định-Tuệ là vì lợi ích chúng sanh, ở trong nhiều đời, với kẻ oán người thân, đều xem bình đẳng, không sai khác, đoạn trừ sạch tất cả vô lượng phiền não, biết rõ mỗi một chúng sanh là mỗi một phiền não, trong nhiều đời chịu nhiều khổ cực. Đức Như Lai luôn vì chúng sanh, nên đối với điều khó bố thí đều có thể bố thí, điều khó nhẫn nhịn nhẫn nhịn được. Phật có hai thứ thanh tịnh: Tu hành trang nghiêm thanh tịnh và Phước báo thanh tịnh. Nhờ uy lực của hai nhân duyên thanh tịnh này, nên từ khi mới tu mười pháp lành và mười Ba-la-mật, về sau chứng quả mười lực và mười hiệu, không có hàng Trời Người nào có thể nói lỗi lầm của Ngài được! Đức Như Lai đầy đủ tám vạn âm thanh, chúng sanh nghe được đều không nhàm chán, do nhân duyên như vậy, nên đức Như Lai vượt hơn tất cả hàng Thanh-văn, Duyên-giác.

Này thiện nam! Nếu người thọ trì giới Ưu-bà-tắc, muốn giới được thanh tịnh, thì nên như thế mà tu niệm Phật. Nếu tu niệm Phật, thì người ấy được xa lìa các điều ác trong hay ngoài, các nhân và duyên không thanh tịnh, tăng trưởng Từ bi, Trí tuệ, đoạn trừ tham, sân, si thành tựu được tất cả các thiện pháp.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Tai gia và Xuất gia. Bồ-tát xuất gia, tâm tu niệm Phật thì không khó, còn Bồ-tát tại gia tu tập như vậy Phật mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 17: CÚNG DƯỜNG TAM BẢO

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Bồ-tát đã thọ giới Ưu-bà-tắc rồi, làm thế nào cúng dường Tam Bảo?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Phước điền ở thế gian có ba hạng: 1. Là ruộng Báo ân. 2. Là ruộng Công đức.3. Là ruộng Bần cùng. Ruộng Báo ân, nghĩa là cha mẹ, sư trưởng, Hoà thượng. Ruộng Công đức, nghĩa là từ khi tu được Noãn pháp cho đến khi được Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Ruộng bần cùng nghĩa là tất cả người cùng khổ. Đức Như lai có hai phước điền: Ruộng Báo ân và Ruộng Công đức, Pháp cũng như thế, còn chúng Tăng có ba phước điền: Ruộng Báo ân, Ruộng Công đức, và Ruộng Bần cùng. Vì nhân duyên ấy, nên Bồ-tát đã thọ giới rồi, phải chí tâm siêng năng cúng dường Tam Bảo.

Này thiện nam! Đức Như lai là kho tàng của tất cả các pháp, do vậy, người trí phải chí tâm chuyên cần, cúng dường các đức Phật hiện còn tại thế, hay đã diệt độ và cả hình tượng nơi tháp, chùa. Nếu ở nơi đồng trống, không có tháp tượng, thì phải chuyên tâm niệm Phật, tôn trọng, khen ngợi, hoặc tự mình làm, hoặc bảo người khác làm, lúc thấy người khác làm khởi vui mừng, như mình có uy lực, cần phải dạy bảo mọi người cùng chung làm. Đã cúng dường rồi, đối với tự thân không còn khinh rẽ, đối với Tam Bảo cũng như vậy. Hễ có cúng dường, không nên sai người khác làm, cũng không vì cúng dường mà cho là hơn người. Trong khi cúng dường không hối hận, sầu não, phải chấp tay cung kính, khen ngợi, tôn trọng, dù dùng một tiền cho đến nhiều tài vật quí báu, hoặc dùng khăn tay cho đến nhiều khăn tay, hoặc dùng một cành hoa cho đến nhiều cành hoa, hoặc dùng một nén hương, cho đến nhiều nén hương, hoặc dùng một bài kệ khen ngợi, cho đến nhiều bài kệ khen ngợi, hoặc dùng một lạy, cho đến nhiều lạy, hoặc đi nhiễu một vòng, cho đến nhiều vòng, hoặc một thời, cho đến nhiều thời, hoặc tự mình làm hay chung với nhiều người khác làm… để cúng dường.

Này thiện nam! Nếu ai có khả năng như vậy, chí tâm cúng dường Phật, Pháp, Tăng, nếu như Ta còn tại thế và sau khi Ta Niết Bàn, cũng không có gì sai khác. Lúc gặp tháp, chùa, nên dùng vàng bạc, đồng, thiếc, dây chuyền, cờ phướn, lọng báu, âm nhạc, hương thơm, đèn dầu dâng lên cúng dường. Nếu gặp tháp, chùa, mà chim, thú đạp sứt mẻ, thì phải tu sửa, quét dọn sạch sẽ. Nếu có gió lớn hay nước, lửa làm hư hoại cũng nên tự sửa lại. Nếu một mình không đủ sức thì nên khuyên nhiều người khác cùng làm, hoặc dùng vàng, bạc, đồng, sắt, đất, cây để sửa chữa. Hoặc bị bụi đất bám lâu, thì phải rưới quyét, lau chùi. Nếu quá nhơ bẩn, phải dùng nước thơm tẩy rửa. Nếu có làm tháp và làm tượng bằng vật báu, thì sau khi làm xong, dùng cờ phướn, lọng báu, hương hoa dâng cúng. Nếu không có báu vật, tự mình không thể làm được, thì lấy gỗ, đất mà tạo thành, khi đã xong rồi, cũng dùng cờ phướn, lọng báu, hương hoa, âm nhạc.v.v… mà cúng dường. Nếu trong tháp có cỏ cây, dơ bẩn, thấy chim thú, chết hay hoa héo rụng xuống hôi thối, rắn, chuột làm hang, ổ.v.v… phải hốt đi, ban lấp, nếu có tượng đồng, tượng gỗ, tượng đá, tượng đất sét, tượng vàng, tượng bạc, tượng lưu ly, tượng pha lê.v.v… thì phải lau chùi, sửa sang, tùy sức, dùng hương thơm xoa, ướp và cũng tùy sức tạo các chuỗi ngọc, chỉ ít cũng giông giống như tháp của vua Chuyển luân thánh vương. Trong Tinh xá, thì nên dùng hương thơm mà tô đắp, hoặc dùng đất mà làm tượng, tháp, rồi dùng lưu ly, pha lê, châu ngọc, vàng xuyến, gấm lụa, linh, khánh, dây cườm mà cúng dường. Lúc tô vẽ hình tượng, không được dùng A dao, sữa, trứng gà, nên dùng nhiều loại hoa xâu lại, hoa rời, dây lụa tốt đẹp, gương sáng, hương bột, hương xoa, hương rời, hương đốt và trổi lên các thứ âm nhạc, ca múa để cúng dường, ngày đêm cũng như vậy. Không như ngoại đạo chỉ đốt tô lạc, đại mạch, để cúng dường. Không bao giờ dùng Tô lạc xoa vào tháp vào hình, tượng, cũng không nên dùng sữa mà rửa, không nên taọ hình tượng Phật thân, có một nửa, nếu có hình tượng nào không đầy đủ, phải bảo người tu sửa lại, sau khi đã hoàn thành rồi mới thỉnh ra, thấy hình tượng bị hư hoại, nên chí tâm cúng dường, cung kính cũng như đối với tượng tốt đẹp. Cúng dường như vậy, phải đích thân làm, nếu tự mình không có khả năng, nên nhờ người khác làm, khuyên mọi người giúp đỡ.

Nếu có người dùng báu vật trong bốn châu thiên hạ, cúng dường Như Lai, cũng có người chỉ đem đủ mỗi công đức, tôn trọng, khen ngợi, chí tâm cung kính, thì phước đức hai người như nhau, nghĩa là thân và tâm của đức Như Lai đều đầy đủ. Thân thì có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp và đầy đủ đại lực. Tâm thì có mười lực, bốn điều không sợ, đại bi, ba niệm, năm trí tam muội, ba thứ pháp môn, mười một thứ không quán, mười hai duyên trí, vô lượng thiền định, đầy đủ bảy trí và có thể vượt đến bờ của sáu Ba-la-mật. Nếu có người dùng những pháp như vậy, khen ngợi Phật, thì người ấy gọi là bậc chân chánh cúng dường Phật.

Thế nào là cúng dường Pháp?

Này thiện nam! Nếu thường cúng dường mười hai bộ kinh, là cúng dường pháp. Thế nào là cúng dường mười hai bộ kinh? Nếu chí tâm cung kính, thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng, đúng như lời nói mà thực hành, đã tự mình làm lại khuyên người khác làm, đó gọi là cúng dường mười hai bộ kinh. Nếu có thể biên chép mười hai bộ kinh, đã biên chép, rồi lại dùng nhiều thứ cúng dường, như cúng dường Phật, (chỉ trừ tắm rửa). Nếu có người thọ trì, đọc tụng kinh điển như vậy, đó là cúng dường Pháp. Lúc cúng dường Pháp cũng như cúng dường Phật, hoặc có Pháp là có căn tánh Bồ-tát, Duyên-giác, ba căn, ba đế, nếu tin như vậy, gọi là cúng dường Pháp. Nếu có người cúng dường bậc phát tâm Bồ-đề, thọ trì giới cấm và những người xuất gia hướng đến quả Tu-đà-hoàn cho tới quả A-la-hán, đó gọi là cúng dường Tăng. Nếu có người có thể cúng dường Tam Bảo, thì nên biết, người ấy trọn không xa lìa mười phương Như Lai, thường cùng chư Phật trong các hành động đi, đứng, nằm, ngồi.

Này thiện nam! Nếu có người nói dù nhiều hay ít, về sự cúng dường ba phước điền trên, thì biết người này, trong vô lượng kiếp đã hưởng nhiều lợi ích.

Này thiện nam tử! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia, xuất gia. Bồ-tát xuất gia, cúng dường Tam Bảo không lấy làm khó, còn Bồ-tát tại gia cúng dường Tam Bảo mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

KINH ƯU-BÀ-TẮC GIỚI

QUYỂN 4

Phẩm 18: SÁU BA LA MẬT

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Như Ngài đã dạy, cúng dường sáu phương là sáu Ba-la-mật. Người cúng dường sáu phương như vậy, sẽ tăng trưởng tài vật và tuổi thọ, người như vậy, có những hành tướng gì?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Nếu không tham tiếc tất cả tài vật, thường làm lợi ích cho tất cả mọi người, thường nhớ đến việc bố thí và ưa thực hành bố thí, có bao nhiêu đem ra bố thí bấy nhiêu, không luận nhiều hay ít. Trong lúc thực hành bố thí, đối với thân mạng, tài vật không nên khinh thường, phải thanh tịnh bố thí không lựa chọn người giữ giới hay phá giới, khen ngợi pháp bố thí, thì thấy người thực hành bố thí vui mừng không ganh ghét, thấy người ăn xin đến khởi tâm vui mừng đứng dậy, đón tiếp lễ phép, lấy ghế mời ngồi, người kia có thưa hỏi hay không thưa hỏi cũng liền khen ngợi phước báo của sự bố thí, thấy người khiếp sợ, thì bảo hộ cho họ. Ở những nơi đói khát, thì nên bố thí thực phẩm ăn uống. Làm việc bố thí, không mong cầu phước báo, bố thí không mong cầu trả ơn, không gạt chúng sanh, luôn khen ngợi công đức Tam Bảo, không nên dùng cân già non, hoặc trộn những vật rẻ tiền để dối gạt người, không ưa uống rượu, cờ bạc và tham dục, thường tu đức hổ thẹn, dù có giàu sang tâm cũng không buông lung, thường làm việc bố thí không khởi tâm kiêu mạn.

Này thiện nam! Người có những đức tính như vậy, nên biết, người này có thể cúng dường, Bố thí Ba-la-mật.

Này thiện nam! Nếu có người thanh tịnh được thân, khẩu và ý, thường tu tâm dịu dàng, không làm tội lỗi, giả sử có tạo tội lỗi thường sanh hổ thẹn, hối lỗi tin tạo nghiệp sẽ bị quả báo, tu tập việc lành tâm sanh vui mừng, đối với tội nhỏ cho là rất lớn, giả sử đã lỡ làm, thì khiếp sợ lo buồn, hối hận, không bao giờ đánh chửi, giận dữ, hại các chúng sanh, trước phải nắm biết ý người, sau mới nói lời dịu dàng, thấy chúng sanh tâm luôn thương mến, biết ơn trả ơn, tâm không bỏn sẻn, không dối gạt chúng sanh, làm ra tài vật đúng như chánh pháp và ưa làm phước đức, công đức tạo ra thường đem giáo hoá người, thấy người nghèo khổ đích thân chịu thế, thường tu tâm từ, thương mến tất cả, thấy người làm ác, thường tìm cách ngăn cản, thấy người làm lành, thì khen ngợi công đức và nói về phước quả, hoặc dùng thân lực đến chỗ người buôn bán, kinh doanh mà phụ giúp, thân thà mất tự tại để người khác được tự tại, thường xa lìa tâm giận dữ, hoặc có lúc vừa khởi lên, liền biết và hổ thẹn! Lời nói luôn chân thật và dịu dàng, tránh xa lời nói hai lưỡi và lời nói không có ý nghĩa.

Này thiện nam! Người có đức tướng như vậy, nên biết, người ấy có thể cúng dường Giới Ba-la-mật.

Này thiện nam! Có người thực hành thanh tịnh thân, khẩu và ý, giả sử chúng sanh đem điều ác đến vu khống, quyết không khởi một niệm giận dữ và quyết không dùng điều ác để trả thù. Nếu người ấy đến xin lỗi, liền hoan hỷ và tha thứ. Lúc nhìn ngắm chúng sanh, tâm thường vui mừng, thấy người làm ác, sanh tâm thương xót, khen ngợi kết quả của sự nhẫn nhục, thường hay quở trách về sự giận dữ; giảng nói về quả báo của sự giận dữ là có nhiều khổ đau, độc ác, lúc tu bố thí phải nhẫn chịu, trước hết là đối với oan gia, phải quán sát họ chỉ là năm ấm và do các duyên hoà hợp mà tạo thành, tại sao ta lại giận dữ? Quán sát về sự giận dữ, chính là nhân duyên chịu khổ trong nhiều đời sau, nếu tâm lỡ phát khởi giận dữ, thì liền ăn năn, lo sợ, hối hận, thấy người khác nhẫn nhục hơn mình, không sanh tâm ganh ghét.

Này thiện nam! Người có đức tướng như vậy, nên biết, người này có thể cúng dường Nhẫn Ba-la- mật.

Này thiện nam! Nếu có người không biếng nhác, không thọ hưởng, không tham, không ưa thích các cảnh vui như ngồi, nằm. Khi làm công đức, thì một việc lớn, cũng như một việc nhỏ, hễ làm là quyết làm cho xong. Trong lúc làm việc không để ý đến sự đói khát, nóng lạnh, đúng thời hay không đúng thời, không xem thường mình, việc lớn chưa xong, không khởi tâm ăn năn. Lúc làm xong rồi, tự mừng là có thể làm hoàn thành, khen ngợi tinh tấn có nhiều phước báo, đúng như chánh pháp làm ra của cải, trong lúc đem dùng phải sao cho hợp đạo lí, thấy người tinh tấn theo lối tà ngụy, khéo nói quả báo hung dữ cho họ, khéo dạy chúng sanh tu hạnh tinh tấn, việc làm chưa xong, giữa chừng không ngừng nghỉ, khi tu pháp lành, không nghe lời người khác. Này thiện nam! Người có đức tướng như vậy, nên biết, người này có thể cúng dường Tinh tấn Ba-la-mật.

Này thiện nam! Nếu người có thể thanh tịnh thân, khẩu, ý thích nơi yên vắng hoặc hang sâu, rừng núi hay nhà trống vắng, không thích ngồi nơi đông người, ồn ào và tham đắm ngoạ cụ, không thích nghe chuyện của thế gian, không thích tham lam, sân hận, si mê, trước khi muốn nói gì phải dùng lời dịu dàng, thường ưa xuất gia, giáo hoá chúng sanh, có ít phiền não, lại xa lìa tư tưởng ác, thấy kẻ oán thù tu đức từ tâm, ưa nói phước báo của sự thiền định, tâm nếu buông lung loạn động, liền lo sợ hổ thẹn, ăn năn; thấy người tu định tà nguỵ chỉ ra tội lỗi việc làm của họ; khéo dạy chúng sanh để đưa họ vào trong chánh định. Này thiện nam! Người có đức tướng như vậy, nên biết người này có thể cúng dường Thiền định Ba-la-mật.

Này thiện nam! Nếu có người thanh tịnh được thân, khẩu, ý, học hết tất cả các việc thế gian, đối với tham, sân, si tâm không đắm chấp, không cuồng loạn, thương các chúng sanh, thường cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng, Trưởng lão và các bậc tôn túc có đức hạnh, tu pháp không buông lung, trước khi nói gì đều dùng lời dịu dàng, không dối gạt chúng sanh, có thể phân biệt được chánh đạo, tà đạo và khéo biết rõ quả báo thiện ác, thường thích nơi thanh vắng, xuất gia tu đạo, thường đem việc đời, để dạy bảo chúng sanh, thấy người học giỏi hơn mình, không khởi tâm ganh ghét, mình có hơn người khác cũng không khởi tâm kiêu mạn, chịu khổ không buồn, hưởng vui không mừng.

Này thiện nam! Người có đức tướng như vậy, nên biết người này có thể cúng dường Bát nhã Ba-la-mật.

Này thiện nam! Trong mỗi phương đều có bốn điều:

Phương Bố thí có bốn: 1. Là điều phục chúng sanh. 2. Là xa lìa đối ngại .3. Là lợi mình. . Là lợi người. Nếu người nào, đối với tài vật, không sanh lòng tham tiếc, cũng không phân biệt kẻ oán người thân, đúng thời hay không đúng thời, thì người ấy, có thể điều phục được chúng sanh. Nhờ đối với tài vật không có tham tiếc, cho nên có thể thực hành bố thí, vì thế lìa được tâm ác bỏn sẻn, trong khi bố thí và sau khi bố thí đều vui mừng, không hối hận, do đó, đời sau hưởng thọ cảnh an vui của cõi Trời, Người và cảnh càng an vui vi diệu hơn nữa, ấy gọi là tự lợi. Nếu có thể khiến cho người khác xa lìa đói khát, khổ sở, ấy gọi là lợi tha.

Phương Trì giới có bốn: 1. Trang nghiêm Bồ-đề, 2. Lìa đối ngại, 3. Tự lợi. . Lợi tha. Trang nghiêm Bồ-đề, là giới Ưu-bà-tắc, đến giới Bồ-tát có thể làm nền móng cho sơ địa đến Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là trang nghiêm. Đã thọ giới rồi, lại được xa lìa giới ác và không giới, đó là xa lìa đối ngại. Đã thọ trì giới rồi, thì được sự cảnh an vui Trời, Người và lại được đến cảnh an vui vi diệu hơn nữa, đó là tự lợi. Đã thọ giới rồi, thì làm cho chúng sanh không sợ hãi, khiến cho chúng sanh đều xa lìa tất cả đau khổ, được vui, đó là lợi tha.

Phương Nhẫn nhục có bốn: 1. Trang nghiêm Bồ-đề. 2. Lìa sự đối ngại. 3. Tự lợi. . Lợi tha. Trang nghiêm Bồ-đề là: Nhờ nhẫn nhục được, tu pháp lành, nhờ tu pháp lành nên được từ sơ địa cho đên Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó là trang nghiêm. Đã tu Nhẫn rồi, thì xa lìa giận dữ, đó là xa lìa đối ngại. Nhờ nhân duyên nhẫn nhục mà hưởng được cảnh an vui cõi trời, người và còn được an vui cao hơn nữa, đó là tự lợi. Nhờ nhân duyên nhẫn nhục, nên mọi người sanh tâm vui mừng, tâm lành, tâm điều phục, đó gọi là lợi tha.

Phương Tinh tấn có bốn điều: 1. Trang nghiêm Bồ-đề. 2. Xa lìa đối ngại. 3. Tự lợi. 4. Lợi tha. Trang nghiêm Bồ-đề, nghĩa là nhờ nhân duyên tinh tấn, nên được tu pháp lành, nhờ tu pháp lành, mà được sơ địa cho đến quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó là trang nghiêm Bồ-đề. Khi tu pháp lành, thì xa lìa được biếng nhác, đó là lìa đối ngại. Nhờ tu pháp lành, nên được hưởng cảnh an vui Trời, Người và còn an vui cao hơn nữa, đó là tự lợi. Dạy bảo chúng sanh, xa lìa pháp ác, đó là lợi tha.

Phương Thiền định cũng có bốn: 1. Trang nghiêm Bồ-đề. 2. Lìa sự đối ngại. 3. Tự lợi. 4. Lợi tha. Trang nghiêm Bồ-đề, nghĩa là nhờ tu Thiền định như vậy, nên được từ sơ địa cho đến Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó là trang nghiêm. Do thiền định, mà tu được nhiều pháp lành, xa lìa được nhẫn suy nghĩ xấu ác, đó là lìa sự đối ngại. Nhờ nhân duyên tu thiền định, thường ưa nơi thanh vắng mà được hưởng cảnh an vui cõi trời, người và cao hơn nữa, đó là tự lợi. Đoạn trừ tham, sân, si của các chúng sanh, đó là lợi tha.

Phương Trí tuệ có bốn: Trang nghiêm Bồ đề. Lìa sự đối ngại. Tự lợi. Lợi tha. Trang nghiêm Bồ-đề, nhờ tu trí tuệ mà được sơ địa cho đến Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó là trang nghiêm Bồ-đề. Do tu Trí tuệ nên xa lìa vô minh, khiến các phiền não không được lan rộng, đó là xa lìa đối ngại. Trừ được phiền não chướng và sở tri chướng, đó là tự lợi. Dạy bảo chúng sanh, khiến được điều phục, đó là lợi tha.

Này thiện nam! Hoặc có thuyết nói; Lìa giới không nhẫn nhục, lìa trí tuệ không thiền định, cho nên chỉ nói có bốn Ba-la-mật; nghĩa là nếu nhẫn nhịn người hung dữ, không đáp trả, tức là Giới; hoặc tu thiền định, tâm không buông lung, tức là trí tuệ. Vì thế, giới tức là nhẫn, tuệ tức là Định, lìa Tuệ không có Định, lìa Định không có tuệ, vì thế Tuệ tức là Định, Định tức là Tuệ, lìa Giới không có Tinh tấn, lìa Tinh tấn không có Giới, vì thế Giới tức là Tinh tấn, Tinh tấn tức là Giới. Lìa Bố thí không có Tinh tấn, lìa Tinh tấn không có Bố thí, vì thế Bố thí tức là Tinh tấn, Tinh tấn tức là bố thí, cho nên không có sáu Ba-la-mật. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì Trí Bát nhã là nhân, Bố thí là quả, Tinh tấn là nhân, trì giới là quả, thiền định là nhân, nhẫn nhục là quả, mà nhân với quả không được làm một, nên phải có sáu Ba-la-mật. Nếu có thuyết nói: Giới tức là Nhẫn, Nhẫn tức là Giới… nghĩa ấy cũng không đúng. Vì sao? Vì Giới là từ người khác mà lãnh thọ, còn Nhẫn thì không phải như vậy, có người không thọ Giới mà nhẫn nhịn được điều ác, vì mọi người tu tập pháp lành, nhẫn nhịn vô số khổ não, nhiều đời thay thế chúng sanh chịu nhiều khổ não, tâm không hối hận, thối lui, cho nên lìa Giới, nhưng lại có Nhẫn nhục.

Này thiện nam! Tam muội tức là Thiền định, Trí tuệ tức là Quán, Thiền định là duyên vào một cảnh, không loạn động, quán là hay phân biệt, vì thế, trong mười hai bộ kinh, Như Lai nói Định khác với Tuệ. Nên biết, chắc chắn có sáu Ba-la-mật. Như Lai, sở dĩ đầu tiên nói Bố thí Ba-la-mật, vì để điều phục chúng sanh. Do lúc bố thí, phải lìa tâm tham, cho nên thứ đến mới nói Giới Ba-la-mật. Lúc bố thí tâm có thể Nhẫn, Xả, Ly. Do vậy, tiếp đến nói Nhẫn Ba-la-mật, vì lúc bố thí tâm an vui, không quán đến thời tiết, vì thế, kế tiếp nói Tinh tấn Ba-la-mật, lúc bố thí tâm chuyên nhất, không có loạn tưởng, nên tiếp sau đó nói Định Ba-la-mật. Vì lúc Bố thí không vì thọ nhận vui sanh tử; cho nên, kế tiếp nói trí Tuệ Ba-la-mật.

Này thiện nam! Thế nào gọi là Ba-la-mật? Lúc bố thí không mong cầu phước báo trong hay ngoài thân, không quán phước điền hay không phước điền, bố thí tất cả tài vật, tâm không bỏn sẻn, không lựa thời tiết, cho nên gọi là Bố thí Ba-la-mật. Cho đến một tội nhỏ, dù có vì thân mạng cũng không huỷ phạm, do vậy gọi là Giới Ba-la-mật. Cho đến người ác đâm cắt thân thể, mà vẫn an nhiên, không giận dữ, nên gọi là Nhẫn ba-la-mật. Trong suốt ba tháng, dùng một bài kệ, khen ngợi đức Phật không có dừng nghỉ, gọi là Tinh tấn Ba-la-mật. Được đầy đủ tam muội Kim cang, gọi là Thiền định ba-la-mật. Này thiện nam! Khi được Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thành tựu đầy đủ sáu Ba-la-mật, nên gọi là Bát nhã Ba-la-mật.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Tại gia và Xuất gia. Bồ-tát xuất gia, có thể thanh tịnh sáu Ba-la-mật không lấy làm khó, Bồ-tát tại gia, thanh tịnh sáu Ba-la-mật mới thật là khó. Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 19: BỐ THÍ

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Bồ-tát đã tu sáu Ba-la-mật, vì chúng sanh có thể làm những việc gì?

– Này thiện nam! Nếu Bồ-tát đã tu như vậy, thì hãy cứu vớt chúng sanh đang chìm đắm trong biển khổ sanh tử.

Này thiện nam! Nếu có người, đối với tài vật và các thực phẩm ăn uống khởi lòng bỏn sẻn, thì nên biết người này, trong vô lượng kiếp đã bị quả báo ngu si, nghèo khổ, do vậy, Bồ-tát lúc mới tu hạnh Bố thí Ba-la-mật cần làm lợi ích cho mình và cho người.

Này thiện nam! Nếu người ưa bố thí, thì đối với tất cả kẻ oán thù đều phải xem như người thân, người không được tự tại đều làm cho tự tại, tin vào nhân quả của sự bố thí, tin vào nhân quả của sự trì giới, thì người ấy mới được phước quả của sự bố thí.

Này thiện nam! Có người nói Bố thí tức là ý. Vì sao? Vì ý, tức là căn bản của bố thí, nghĩa này không đúng! Vì bố thí tức do năm ấm, do thân, khẩu, ý đầy đủ mà bố thí. Bố thí nếu vì tự lợi và lợi tha, hay chỉ lợi tha thì cũng phải đầy đủ năm ấm, bố thí như vậy có thể trang nghiêm đạo Bồ-đề, xa lìa phiền não, được nhiều của cải, đó gọi là kết quả chánh đáng của sự bố thí. Sống lâu, xinh đẹp, mạnh khỏe, an vui, có biện tài, gọi là kết quả phụ của sự bố thí. Phước quả của sự bố thí có khi vì tài vật bố thí thù thắng, nên phước quả thù thắng, cũng có khi phước điền thù thắng, nên được phước quả thù thắng, hoặc có khi thí chủ thù thắng, nên được quả thù thắng. Tu hành hướng đến quả Tu-đàhoàn, đến thân cuối cùng là Bồ-tát, cho đến thành Phật, gọi là phước điền thù thắng, bố thí cho người phước điền như vậy, nên được quả báo thù thắng. Nếu có người bố thí tài vật đầy đủ sắc, hương, vị, xúc quí nhất, ấy là tài vật thù thắng, nhờ bố thí tài vật thù thắng nên được phước quả thù thắng. Nếu có thí chủ tín tâm thuần thục, với sự bố thí, giữ giới, nghe nhiều, trí tuệ thì được phước báo thù thắng.

Này thiện nam! Người có trí bố thí có năm hạng: Chí tâm bố thí. Tự tay đưa vật bố thí. Tín tâm bố thí. Theo thời tiết bố thí. Đúng như pháp làm ra tài vật bố thí.

Này thiện nam! Người có chí tâm bố thí được kết quả gì? Nếu người chí tâm bố thí sẽ được nhiều của cải quý, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, ngọc báu, san hô, voi, ngựa, bò, dê, ruộng vườn, nhà cửa, nô tỳ và nhiều người thân thuộc, người chí tâm bố thí, được phước như vậy. Người tự tay đưa vật bố thí được kết quả gì? Người chính tay mình trao vật bố thí cho người được phước báo cũng như trên. Người tín tâm bố thí, được kết quả gì? Người tín tâm bố thí sẽ được phước báo cũng như ở trên, thường được cha mẹ, anh em, thân thuộc, tất cả chúng sanh yêu mến, người tín tâm bố thí được phước báo như vậy. Người theo thời tiết bố thí cũng được phước báo gì? Người theo thời tiết bố thí cũng như trên và những tài vật cần dùng cứ theo thời mà có được, người theo thời tiết bố thí gồm phước báo như vậy. Người đúng như pháp bố thí, thì được kết quả gì? Người đúng như pháp bố thí , được phước báo, cũng như nói ở trên, nhưng khi được tài vật rồi, không bị vua quan, giặc cướp, nước lửa cướp đoạt.

Nếu có người dùng màu sắc tốt đẹp bố thí, nhờ nhân duyên ấy, được thân hình tươi đẹp; nếu người dùng hương thơm bố thí, nhờ nhân duyên ấy, tiếng tốt đồn xa; nếu người dùng vị ngon bố thí, nhờ nhân duyên ấy, mọi người thích thấy, nghe, khi đã được nghe thấy rồi, lại đem lòng thương mến; nếu người đem xúc bố thí, nhờ nhân duyên ấy, được xúc đẹp thù thắng, người nhận đã rồi, thì được sống lâu có sắc đẹp, mạnh khỏe an vui và có biện tài.

Này thiện nam! Có người nói: Bố thí nơi tháp, tượng, sẽ không được phước báo, sống lâu, xinh đẹp, mạnh khoẻ, an vui và có biện tài, vì không có người thọ nhận. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì có tín tâm. Thí chủ đã có tín tâm thực hành bố thí, do đó được năm phước báo như trên.

Này thiện nam! Ví như có Tỳ-kheo, tu tập tâm từ, như vậy tâm từ đó thật không có sự thọ học, nhưng cũng đạt được vô lượng phước báo. Bố thí tháp, tượng cũng như vậy, tức cũng được năm phước báo.

Này thiện nam! Do phước điền mà có đủ các loại phước báo. Vì vậy, mà Như lai nói, phước điền được quả báo, tài vật được quả báo, thí chủ được quả báo.

Này thiện nam! Bố thí có hai thứ: Một là Bố thí pháp, hai là Bố thí tài vật. Bố thí pháp thì được phước báo cả hai là pháp và tài. Còn Bố thí tài vật, chỉ duy nhất trở lại được phước báo tài vật quý.

Là Bồ-tát phải tu hành cả hai pháp Bố thí ấy, coi đó là hai việc làm có thể giúp chúng sanh xa lìa được khổ não; giúp chúng sanh điều phục tâm mình.

Này thiện nam! Lại cũng có ba loại Bố thí; Một là bố thí pháp; hai là bố thí điều không sợ hãi; ba là bố thí tài vật. Dùng bố thí pháp là dạy cho người khác xuất gia, thọ giới, bạch tứ Yết ma, tu đạo; thuyết giảng chánh pháp để phá bỏ tà kiến, thường giảng giải rõ ràng điều chân thật và điều không chân thật, nêu bày về bốn điên đảo và không buông lung, đó gọi là bố thí pháp. Nếu có chúng sanh sợ hãi vua quan, hay các loài sư tử, cọp, báo, hay các nạn lửa, nước; hay sợ hãi đạo tặc… Bồ-tát thấy rồi, thì phải ra sức cứu họ ngay; đó gọi là bố thí không sợ hãi. Tự mình đối với của cải quý báu, dù đẹp, dù xấu, dù nhiều, dù ít đều phá bỏ tánh keo kiệt, không tham tiếc. Từ bò, dê, voi, ngựa, đến nhà cửa, phòng ốc, giường nằm, vườn cây, giếng nước; từ những nô tỳ, nô bộc, đến những bò, lừa, lạc đà kéo xe, từ những vật bằng đồng bằng sắt như bình, vò.. đến những vật bằng gai mịn như giường, đồ ngồi, quần áo, kể cả các chuỗi ngọc, hương hoa, đèn sáng… từ những vật kết bằng tơ lụa đẹp như rèm cửa, lọng che, màn phủ, trường kỉ… đến những vật tạc và tạo do cỏ, cây, nước, đá… hết thảy những vật ấy, có ai đến xin đều sẵn sàng đem cho. Đó gọi là bố thí tài vật.

Này thiện nam! Khi bố thí, có bốn điều hệ luỵ: 1. Lòng xan tham. 2. Không tu bố thí. 3. Xem thường vật nhỏ. . Cầu phước báo ở thế gian. Bốn hệ lụy như vậy, có hai pháp trừ được: 1. Tu vô ngã và Tu vô thường.

Này thiện nam! Nếu muốn bố thí phải phá sạch năm điều: 1. Tâm giận dữ. 2. Tâm tham lam. 3. Tâm ganh ghét. . Tham tiếc thân mạng. 5. Không tin nhân quả. Nếu phá trừ được năm điều ấy, thường được an vui bố thí. Người ưa bố thí, lại được năm điều: 1. Thường không xa lìa các bậc thánh nhân. 2. Tất cả chúng sanh thích nhìn thích nghe. 3. Vào trong đại chúng không có khiếp sợ. . Được danh tiếng tốt. 5. Trang nghiêm Bồ-đề.

Này thiện nam! Bồ-tát là người bố thí cho tất cả. Vậy thế nào là bố thí tất cả?

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát làm ra tài vật đúng như chánh pháp là chỉ để mà bố thí; nên gọi là bố thí tất cả. Thường đem tâm thanh tịnh, mà thí cho người, gọi là thí tất cả; ít tài sản mà luôn bố thí, gọi là thí tất cả; điều mình ưa thích cũng đem ra bố thí, gọi là thí tất cả; bố thí không cầu phước báo, gọi là thí tất cả; trong lúc bố thí không quán là phước điền hay không phước điền, gọi là thí tất cả. Kẻ oán người thân đều bố thí bình đẳng, gọi là thí tất cả. Bồ-tát thường bố thí tài vật cho hai hạng: 1. Thí cho chúng sanh. 2. Thí cho không phải chúng sanh. Trong hai hạng ấy ban cho đến cả thân mình cũng không tham tiếc, gọi là thí tất cả. Bồ-tát bố thí do tâm thương xót, gọi là thí tất cả; trước lúc bố thí, trong lúc bố thí, sau khi bố thí không hề có hối tiếc, gọi là thí tất cả. Hoặc có khi dùng vật không thanh tịnh bố thí, để khiến cho người trước được vui mừng. Các chất như rượu, chất độc, dao gậy, gông xiềng. v.v… hoặc được tự do dùng hay không tự do dùng quyết không đem bố thí; không bố thí cho người bệnh những thức ăn và thuốc uống không sạch, không cướp đoạt, dù chỉ một tiền của người khác, đem ra bố thí. Bồ-tát trong lúc bố thí dù có thế nào quyết không đánh đập, mắng chửi, làm cho những người tôi tớ giận hờn, khổ não. Bố thí tài vật đúng như chánh pháp, không mong cầu phước báo đời này hay đời sau; khi bố thí rồi thường hay soi xét tội lỗi của phiền não, soi xét sâu xa về công đức vi diệu của Niết Bàn, ngoài đạo Bồ-đề không mong cầu gì khác. Trong lúc bố thí cho người nghèo khổ thì khởi tâm thương mến; lúc bố thí cho người phước điền thì khởi tâm cung kính; bố thí cho người thân thuộc; không xem như vật bỏ. Nếu thấy người xin, xem tướng mạo của họ mà cho, không chờ họ mở lời xin. Vì sao? Vì không đợi người cầu xin mà tự cho, thì được phước báo vô lượng!

Này thiện nam! Thí chủ có ba hạng: Thượng, trung và hạ. Người không tin nghiệp quả, thường tham lam, bỏn xẻn, sợ tài vật hết, thấy người đến xin, sanh lòng giận dữ và muốn ngăn cấm; đó là bậc hạ. Dù có tin nghiệp quả, nhưng đối với tài vật vẫn sanh tâm tham tiếc, sợ tài vật hết, thấy người đến xin, sanh tâm ghét bỏ; đó là bậc trung. Tin sâu vào nghiệp quả; đối với tài vật không tham trước; quán các tài vật, đều là vô thường; thấy người đến xin, có của để cho, thì vui, không có để cho, là buồn; đem vật nơi thân ra bố thí; đó là bậc thượng. Lại cũng có bậc hạ, thấy người đến xin ngoảnh mặt làm lơ, hay dùng lời độc ác để mắng chửi, huỷ nhục. Lại cũng có bậc trung, mặc dù có bố thí, nhưng xem thường, không cung kính. Lại cũng có bậc thượng, người chưa xin, đã đem tài vật ra cho, với tâm cung kính. Lại có bậc hạ, chỉ cốt mong cầu phước báo hiện tại. Lại có bậc trung, chỉ vì mong cầu phước báo nơi vị lai. Lại có bậc thượng, là vì thương xót mà bố thí. Bậc hạ có kẻ vì muốn đền ơn mà bố thí. Bậc trung có kẻ, vì sự nghiệp mà bố thí. Bậc thượng có kẻ vì pháp tạng mà bố thí. Bậc hạ có kẻ vì sợ người khác hơn mình mà bố thí. Bậc trung có kẻ vì muốn mọi người cùng như ta mà bố thí. Bậc thượng không chọn kẻ oán người thân mà bố thí. Bậc hạ có tài vật nói lại không. Bậc trung có nhiều tài vật thì nói ít. Bậc thượng thì xin ít lại cho nhiều. Người Bố thí nhưng không có tài vật, cũng có ba hạng: Người thấp kém, thấy người đến xin, thì tâm ác, giận dữ, trách móc. Người bậc trung, thấy người đến xin, nói thẳng không có. Người bậc thượng, thấy người đến xin tự cảm thấy xấu hổ, vì không có tài vật để cho nên tâm sanh sầu não. Này thiện nam! Hoặc có bậc hạ thường bị Hiền Thánh quở trách; bậc trung thường được Hiền Thánh thương yêu; bậc thường Hiền Thánh nhìn thấy thì khởi tâm hoan hỷ.

Này thiện nam! Người trí thực hành bố thí, là vì lợi ích người khác, biết của cải là vô thường; vì muốn chúng sanh khởi tâm vui mừng, vì thương yêu mọi người; vì muốn trừ lòng bỏn sẻn; không cầu phước báo đời sau; vì muốn trang nghiêm đạo Bồ-đề. Cho nên Bồ-tát bố thí tất cả rồi, thì không sanh tâm ăn năn, không lo tài vật hết, không xem nhẹ tài vật, không xem thường bản thân, không đoán thời tiết, không quán người xin, thường nhớ đến người ăn xin, như khi đói nghĩ đến món ăn; gần gũi bạn lành, học hỏi chánh pháp, thấy người ăn xin đến, tâm sanh vui mừng, như nhà bị cháy, đem được tài vật ra, vui mừng, khen ngợi; cho tài vật có nhiều tội lỗi, bố thí xong rồi, liền sanh vui mừng, như gởi của cho người lành; lại còn nói với người ăn xin: “ Ông đúng thật là người đã trợ duyên cho tôi được công đức; nay tôi được xa lìa tâm tham lam, đều nhờ ông đến xin. Có nghĩa là đối với người đến xin, luôn đem lòng thương mến; đã bố thí cho người ăn xin rồi, lại còn dạy cho họ, phải đúng như pháp giữ gìn, siêng năng tu hạnh cúng dường Phật, Pháp và Tăng. Bồ-tát như vậy là thích hành bố thí, và nhờ đó mà xa lìa mọi buông lung; mặc dù đem thân mình ra bố thí cho người đến xin, nhưng không bao giờ sanh một niệm ác; nhờ vậy mà được tăng trưởng Từ-bi, Hỷ-xả; không khinh người nhận, không tự cao, hay tự vui mừng là ta có tài vật cân xứng với người muốn xin; tăng trưởng lòng tin, không nghi ngờ nghiệp quả.

Này thiện nam! Nếu có thể quán tài vật là vô thường, quán các chúng sanh như là con một của mình; người như vậy, mới có thể bố thí cho người đến xin. Này thiện nam! Người ấy như vậy sẽ không còn phiền não làm chuyển động, vững như núi Tu di gió không thể lay động. Người như vậy, mới có thể làm chỗ quay nương tựa cho các chúng sanh, người như vậy mới đầy đủ bố thí Ba-la-mật.

Này thiện nam! Người trí có bốn điều, nên thích bố thí: 1. Nhờ bố thí mà phá trừ phiền não. 2. Nhờ bố thí mà phát được nhiều thệ nguyện. 3. Nhờ bố thí được thọ hưởng an lạc. . Nhờ bố thí được nhiều tài vật quý báu.

Này thiện nam! Tâm không tham lam cũng gọi là bố thí. Vậy thế nào là không tham lam? Bố thí là sự nghiệp, tài vật được tạo nên từ sự nghiệp, nghiệp làm ra đầy đủ tài vật rồi đem ra bố thí, nên gọi là không tham. Thế nào là nhờ sự bố thí mà phá trừ phiền não? Nghĩa là khi đã thực hành bố thí, thì phá trừ được keo kiệt, tham lam, ganh ghét, giận dữ, ngu si. Thế nào là nhờ bố thí phát được nhiều thệ nguyện? Nghĩa là nhờ bố thí nên mới có thể phát được nhiều thệ nguyện thiện hoặc ác. v.v… do nguyện thiện ác, mà được quả thiện ác. Vì sao? Vì lực của thệ nguyện. Thế nào là bố thí mà được an lạc? Nhờ vào bố thí mà hưởng được cảnh an lạc ở cõi Trời, người cho đến cảnh an vui vô thượng. Thế nào là do bố thí được nhiều tài sản? Nhờ bố thí nên mong cầu vàng, bạc, cho đến súc sinh cũng đều được như ý.

Này thiện nam! Người ưa bố thí tức phá trừ được năm pháp xấu ác: Tà kiến. Không có niềm tin. Buông lung. Tham lam, keo kiết. Sân hận, si mê. Tâm đã lìa ác rồi, thì khởi sanh vui mừng, nhờ sự vui mừng, nên dần dần đến chân chánh giải thoát; người như vậy hiện tại được bốn phước báo: 1. Mọi người đều thích nhìn, cho đến kẻ oán thù cũng ưa nhìn thấy. 2. Tiếng tốt vang xa. 3. Lúc vào chỗ đông người không khiếp sợ. . Tất cả người hiền ưa đến kết bạn.

Này thiện nam! Người nào tu bố thí rồi; mà tâm không hối hận, người như vậy nếu bị người đời não hại, phải đoạ vào địa ngục, dù ở chỗ xấu ác, nhưng người ấy không bao giờ đói khát. Cũng do nhân duyên đó, mà xa lìa được hai sự khổ: Nỗi khổ phải nuốt viên sắt. Nỗi khổ uống nước đồng sôi. Nếu bị làm thân súc sanh, thì thực phẩm ăn uống đều dễ tìm, không thiếu kém. Nếu làm ngạ quỷ không bị đói khát, thường được no đủ. Nếu được làm người sống lâu, xinh đẹp, mạnh khỏe, an vui, có biện tài, tín tâm giữ giới, học rộng nghe nhiều, trí tuệ hơn người, dù sanh vào đời hung ác cũng không làm việc bất thiện, sanh vào đời pháp ác, quyết không thọ chịu, đối với chỗ khiếp sợ, không sanh lo sợ. Nếu sanh lên cõi trời được mười việc thù thắng.

Này thiện nam! Người trí do hai việc mà hành bố thí: Điều phục tự tâm. Làm tan lòng giận dữ của kẻ khác, Như Lai nhờ đó mà được gọi là đấng Vô Thượng Tôn.

Này thiện nam! Người trí hành bố thí rồi, không mong cầu người nhận khởi tâm yêu mến, nhớ nghĩ không mong cầu danh tiếng, không bị khiếp sợ, không mong cầu người hiền thấy đễ kết làm bạn thân, cũng không mong cầu phước báo ở cõi Trời, Người, mà luôn soi xét đến hai điều: Đem của không chơn thật đổi lấy của chơn thật. Quyết không làm theo tâm tánh tham lam. Vì sao? Vì đối với tài vật khi ta chết đi không đem theo được, vì thế tự tay mình đem ra bố thí, mà khởi tâm an vui.

Này thiện nam! Người bố thí, trước tiên nên thử tâm mình, đem tài vật bên ngoài bố thí, biết tâm đã điều phục rồi, sau đó mới đem vật trong thân bố thí, nhờ hai sự bố thí ấy mà được hai pháp: Xa lìa ba cõi, 610 được giải thoát chơn chánh.

Này thiện nam! Như người đi xa mang vật nặng, nên rất khổ cực, nếu bỏ bớt đi, thì được vui mừng. Người bố thí thấy người đến xin, thì lấy của ra cho, tâm sanh vui mừng vì cũng giống như vậy.

Này thiện nam! Người trí thường suy nghĩ: Muốn tài vật theo mãi bên ta đến đời sau, sao trước chẳng bố thí. Với lại quán sát cái khổ của người bần cùng, cái sung sướng của người giàu có, cho nên chuyên tâm ưa thực hành bố thí.

Này thiện nam! Nếu có người, có tài sản thấy người đến xin, liền nói tôi không có, hay tôi đang đau khổ, thì nên biết người ấy, đã nói những lời bạc đức, nghèo cùng ở đời sau, người như vậy gọi là buông lung.

Này thiện nam! Người không có tài vật, tự nói tôi không có. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì tất cả nước, cỏ cây ngoài đồng ai lại chẳng có, dù là vị quốc vương chưa chắc thí được. Dù nghèo khổ nhưng không phải không thí được. Người nghèo cũng có ăn uống, ăn rồi rửa chén bát, để nước lắng cặn thí cho loài khác ăn, cũng được phước báo. Nếu đem một ít bột nhỏ như hạt bụi thí cho loài kiến cũng được phước báo vô lượng. Trong thiên hạ, những người nghèo khổ, ai lại không có một ít bột nhỏ như hạt bụi? Có ai một ngày không ăn ba vắt cơm, để nuôi được thân mạng, do vậy các người nên đem nửa phần ăn bố thí cho người đến xin.

Này thiện nam! Những người nghèo khổ, có ai đến nỗi, ở trần không có quần áo? Nếu có áo quần, sao lại không có một cái khăn để người ta buộc ghẻ lở hay miêng vải bằng ngón tay để làm tim đèn.

Này thiện nam! Trong thiên hạ, có ai nghèo khổ đến nỗi không có thân thể, nếu có thân thấy người làm phước, đến đó giúp đỡ, vui mừng không chán nản, cũng gọi là thí chủ, cũng được phước đức, có lúc được một phần, hoặc có khi bằng nhau, hoặc có khi nhiều hơn. Do nhân duyên như vậy, nên khi nhận sự cúng dường của vua Ba Tư Nặc, Như Lai cũng chú nguyện: Dù là cho vua hay cho người làm, thì phước vẫn như nhau, không có sai khác.

Này thiện nam! Như người mua hương: Nào hương xoa, hương bột, hương rời, hương đốt, bốn loại hương như vậy, người làm, người mua, người cân lường.v.v… đều nghe mùi thơm không khác, mà các loại hương mùi thơm của nó không hao giảm chút nào. Tu hạnh bố thí công đức nó cũng như vậy. Dù nhiều ít, lớn nhỏ, nếu tâm tùy hỷ, đi đến để giúp cho, hoặc ở xa chỉ nghe thấy mà tâm sanh đồng ý vui mừng, thì

phước báo không có sai khác, vì tâm đều giống nhau.

Này thiện nam! Nếu không có tài vật, mà thấy người khác bố thí lại sanh, tâm không tin tưởng, nghi ngờ bậc phước điền, ấy là người bần cùng. Nếu có nhiều tài sản, tự tại vô ngại, có phước điền cao quý, nhưng lại không có tín tâm, không thể dâng cúng, cũng gọi là bần cùng. Do vậy, người trí tùy có nhiều hay ít cứ đem ra bố thí, trừ sự bố thí ra, không có việc gì mà được cảnh an vui cõi Trời, Người và cảnh an vui vô thượng. Do vậy, trong khế kinh Như Lai nói: Người trí tự quán: Một vắt cơm, để ăn thì ta sống, đem bố thí thì ta chết, vậy mà cũng đem ra bố thí, huống gì có nhiều tài vật?

Này thiện nam! Người trí nên quán tài vật là vô thường, do vô thường, mà tài vật tổn thất, hao giảm, không được lợi ích, gì trong vô lượng đời sống dù là vô thường, mà biết đem ra bố thí thì lại được nhiều lợi ích. Vậy vì sao ta nay tham tiếc không đem ra bố thí? Người trí soi xét thế gian, có người giữ giới, học rộng nghe nhiều, nhờ sức lực giữ giới, học rộng nghe nhiều mà được quả vị A-la-hán, dù được quả vị ấy rồi mà không thể ngăn được nỗi khổ đói khát. Nếu vị A-la-hán khó có được phòng xá, y phục, thực phẩm ăn uống, ngoạ cụ, thuốc men, đều là do kiếp trước không tạo duyên bố thí, Người phá giới nếu ưa bố thí thì dù đoạ địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ cũng thường được no đủ.

Này thiện nam! Trừ pháp bố thí ra, không có hành phước gì mà cùng được hai quả: Tự tại và Giải thoát. Nếu người giữ giới, dù được sanh lên cõi Trời, mà không tu bố thí, cũng không được thức ăn ngon quý nhất, chuỗi ngọc vi diệu. Nếu người muốn cầu an lạc giữa thế gian và sự an vui vô thượng, phải thích bố thí. Người trí nên soi xét sanh tử không giới hạn, thì sự thọ hưởng an vui, cũng như vậy. Do đó, vì đoạn trừ sanh tử mà bố thí, chứ không mong cầu hưởng an lạc, hoặc soi xét thế này: Mặc dù giàu có khắp bốn châu thiên hạ, hưởng nhiều an vui cũng không biết đủ, cho nên ta vì quả an vui vô thượng mà hành bố thí, không vì cảnh vui Trời, Người. Tại sao? Vì tất cả đều là vô thường, có giới hạn.

Này thiện nam! Nếu có thuyết nói: Người cho, người thọ nhận và người hưởng an vui, cũng đều là năm ấm cả, năm ấm như vậy tức là vô thường, xả thí cho năm ấm ai là người cho, ai là kẻ thọ nhận? Mà quả lành thì không diệt. Cho nên không có người cho, không có người thọ nhận. Nên hỏi lại họ: Như vầy là có người thí và có người thọ nhận sao? Nếu nói thí tức là người bố thí, thọ nhận tức là ngã. Lại nên nói: Ta cũng như vậy, thí tức là người thí, ngã tức là năm ấm, nếu nói thí cho năm ấm, mà cõi này vô thường, thì ai ở cõi đó mà lãnh thọ? Ông hãy chú ý lắng nghe, Như Lai sẽ giải bày cho: Hạt giống là vô thường hay là thường? Nếu nói thường, vì sao hạt giống diệt mà sanh mầm, nếu thấy vậy là lỗi lại nói là vô thường. Lại bảo với họ: Nếu vô thường, lúc hạt giống tiếp xúc với nước, đất, nhân công.v.v…làm thế nào, cái mầm kia được lớn lên? Nếu nói, hạt giống dù vô thường, nhưng nhờ sự tác động, nên được kết quả sanh mầm. Vậy thì nên nói năm ấm cũng là như thế. Nếu nói trong hạt giống trước đã có mầm, công nhân, nước, phân chỉ làm liễu nhân. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì hiểu rõ nhân đối với cảnh vật không tăng không giảm, nhiều vẫn là nhiều, ít vẫn là ít, mà nay nước, phân, mầm tăng trưởng, thế nên trước không, nay có. Nếu nói hiểu rõ nhân thì có hai: Nhiều và Ít. Nhiều tức là thấy lớn, ít tức là thấy nhỏ, cũng như đốt đèn, ánh sáng lớn thấy nhiều sự vật, ánh sáng nhỏ thấy được ít. Nghĩa này cũng không đúng. Vì sao? Vì cũng như một hạt giống, phần nhiều cùng với nước, phân, không thể một giờ, một ngày mà lớn lên được; có người đồng, người hơn. Nếu nói rõ nhân chỉ có hai thứ, nhưng cần đợi thời tiết, vật ít hiển bày ít, vật nhiều hiển bày nhiều, như vậy tôi nói không tăng không giảm. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì theo giáo pháp của ông, lúc nào cùng thường, vì thế không nên nói như vậy.

Này thiện nam! Hạt giống khác, mầm khác, dù hình thức trước và sau khác nhau, nhưng tương tợ không gián đoạn, năm ấm cũng vậy.

Này thiện nam! Như hạt giống phát triển thành mầm, mầm lớn dần thành cây, cây sanh trưởng ra lá, ra hoa, hoa kết tụ thành quả, năm ấm của một đường tăng dần, năm ấm của năm đường cũng như vậy. Nếu nói người này làm, người khác hưởng thọ; nghĩa ấy chủ trương của ông, không phải ta nói, vì như trong giáo pháp của ông, tác giả là ngã, thọ giả là thân, mà không nói là người này làm người khác hưởng thọ! Chẳng hạn người thọ giới, không sát sanh, tức là ngã, vì nhờ nhân duyên ấy, nên được thân tốt đẹp, vì thế pháp của ông có lỗi, người hưởng thọ không do nhân, người tạo nhân không có kết quả. Nếu nói ngã làm, thân thọ, thì ngã cũng như vậy, ở đây làm, bên kia thọ. Hoặc nên hỏi lại thân và ngã của ông có khác nhau? Thân hưởng thọ ăn uống, mặc áo quần, đeo chuỗi ngọc, nhờ ăn uống các thức ăn ngon mà được xinh đẹp, mạnh khoẻ; nếu các thức ăn không ngon, thì không được xinh đẹp, ốm yếu. Xinh đẹp hay xấu xí nếu phụ thuộc vào nhân duyên, thì ngã sẽ được vào chỗ nào? Nếu nói, ngã được u buồn hay vui mừng, thì tại sao không phải người này làm, người khác thọ hưởng. Ví như người có nhiều sức lực, do uống tô, lạc, người ấy uống lâu ngày, nên thân thể được mạnh khoẻ, xinh đẹp, lại có người yếu ốm, thấy người kia uống tô, lạc, liền sanh vui mừng, thì được xinh đẹp, mạnh khoẻ sao? Nếu nói không, thì ngã cũng như vậy, thân tạo ra mọi việc, tại sao ngã thọ hưởng? Vì không tương tự như nhau. Trong pháp của Như Lai không như vậy. Năm ấm tạo tác, năm ấm thọ hưởng tương tơ, không có gián đoạn.

Này thiện nam! Nếu nói năm ấm là vô thường, thì ở cõi này, không đến cõi kia, vẫn hưởng được thọ báo. Nghĩa ấy cũng không đúng. Vì sao? Vì trong giáo pháp của Như lai, nếu có làm tức có hưởng, hoặc có trường hợp người này làm, người khác thọ hưởng, không làm, không có sự thọ hưởng, có làm có thọ hưởng, năm Ấm tạo tác, năm Ấm lãnh thọ, người này làm, người khác thọ hưởng, ở cõi người làm ở cõi trời thọ hưởng, không làm không có sự thọ hưởng. Nhờ nhân duyên tạo tác và hoà hợp nên mới có, chứ vốn không có tự tánh thì làm gì có sự tạo tác và thọ hưởng? Ý ông nếu cho người này làm, người khác thọ hưởng, tại sao lại nói là liên tục không gián đoạn. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì pha thuốc độc vào sữa, đến khi thành đề hồ cũng có thể giết người được, lúc là sữa khác, lúc là đề hồ cũng khác, tuy là có khác, nhưng tương tợ sanh không gián đoạn, nên có thể giết người. Năm ấm cũng vậy, mặc dù có khác, nhưng thứ lớp tương tợ sanh không đoạn diệt, do đó có thể nói. Người này làm, người khác thọ hưởng, có làm có thọ hưởng, không làm không thọ hưởng. Nghĩa là nếu lìa năm ấm, thì không có ngã và ngã sở, tất cả chúng sanh do điên đảo che mờ tâm tánh. Hoặc nói Sắc tức là Ngã, cho đến Thức tức là Ngã. Hoặc cũng có thuyết nói, Sắc tức là Ngã, còn lại bốn Ấm là ngã sở, cho đến Thức cũng như vậy. Hoặc có thuyết nói, lìa riêng năm ấm ra, sẽ có ngã, việc ấy không thể có! Vì sao? Vì ngã ở trong pháp của Phật, thì sắc không phải là ngã. Vì sao? Vì Sắc là vô thường, không tạo tác, không tự tại, do vậy, bốn ấm không được gọi là Ngã sở, cho đến Thức cũng vậy. Nhiều duyên hoà hợp lại, mới sanh ra một pháp khác, gọi là tạo tác, nhưng thật ra, không tạo tác gì khác! Các duyên hoà hợp mà sanh ra pháp khác, gọi là thọ, nhưng thật ra chẳng thọ gì khác! Đó gọi là không làm không thọ hưởng. Nếu ông cho rằng, người này làm người khác thọ hưởng, tại sao người này tạo nghiệp, người khác không được thọ? Mà đều có đủ năm ấm, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì “Khác” có hai thứ: 1. Là Thân khác. 2. Là Tên khác. 1. Là Phật Đắc, 2. Là Thiên Đắc. Phật Đắc hay Thiên Đắc, thân và tên đều khác nhau, đó là nhân duyên của thân khẩu mới khác. Thân khẩu khác nên nghiệp tạo ra cũng khác. Từ sự tạo nghiệp có sai khác, nên đời sống, sắc, lực, an vui hay biện tài cũng khác nhau, vì thế, không phải Phật Đắc tạo nghiệp, Thiên Đắc thọ quả. Mặc dù cũng cùng năm ấm, Danh và Sắc là một, nhưng Thọ và Tưởng lại hành động khác: Phật Đắc hưởng an vui, Thiên Đắc thì chịu khổ cực, Phật Đắc khởi tham lam, Thiên Đắc khởi giận dữ, vì thế không được gọi là tương tợ. Sắc và Danh tuy là một, nhưng thật ra có khác, hoặc có trường hợp Phật Đắc màu trắng, Thiên Đắc màu đen. Nếu cái tên đồng một nghĩa, thì khi một người sanh ra, tất cả các người khác cũng sanh ra, một người chết, thì tất cả các người khác cũng chết. Nếu ông không chấp nhận như vậy, thì không được nói người này làm người khác thọ hưởng. Nếu ý ông cho cũng có trường hợp người này làm người khác thọ hưởng, thì tôi cũng cho như vậy, là có trường hợp người này làm người khác thọ hưởng. Nếu cho người này làm thì người khác thọ hưởng, tức cùng lỗi với tôi. Tại sao không thấy lỗi của mình, mà chỉ trích lỗi người khác? Nghĩa này không đúng .Vì sao? Vì nghĩa về khác của tôi, có hai: Tuần tự sanh, cũng tuần tự diệt. Tuần tự sanh nhưng không tuần tự diệt Vì sanh có khác, nên diệt cũng có khác. Do vậy, Ta nói người này làm người khác thọ hưởng, đây làm kia thọ, không đồng lỗi với ông. Ví như có người muốn đốt làng, ngay trong đống cỏ khô, ném một que lửa, lửa từ đó cháy lan ra khắp, đến cả trăm dặm, hai trăm dặm. Ông thôn trưởng tìm bắt được thủ phạm, liền tra khảo: “ Ngươi là người tàn ác, tại sao đốt cháy cả làng của chúng ta?” Thủ phạm trả lời: “Sự thật không phải tôi đốt, tôi đã ném que lửa chỉ cháy tàn và chỗ tôi đốt, chỉ có một đống rác nhỏ, tôi nay bồi thường lại cho đống rác nhỏ, còn bao nhiêu vật khác, tôi không bồi thường.” Khi ấy, người thôn trưởng nói: “Người ngu! Do một chút ít lửa của ông, nên dần dần sanh ra nhiều lửa khác, đốt cả trăm dặm, hai trăm dặm đều là do đóm lửa của ông sao không chịu bồi thường? Dù biết lửa kia có khác, khi mới bắc đầu cháy cũng có khác, nhưng vì nối tiếp không gián đoạn, nên ông phải có tội.” Năm ấm của nghiệp lành hay dữ, cũng là như vậy. Khi thọ lãnh quả báo dù nói năm ấm, không tạo tác, nhưng dần dần tiếp tục sanh, cho nên có thọ báo. Ví như có người cùng với một người khác cầm đuốc, thách cầm đuốc đi xa đến một trăm dặm, nếu không đến ta sẽ thua ông, còn như đến ông sẽ thua ta. Người cầm đuốc đi đến trăm dặm rồi, liền đến người kia đòi tài vật. Người kia liền nói: Đuốc ông phát ra dấu tích đã diệt, tại sao ở chỗ này theo ta đòi tài vật? Người cầm đuốc trả lời: Lửa kia mặc dù đã diệt, nhưng thứ lớp nối tiếp nhau cháy đến chỗ này. Hai người nói vậy đều có lý cả. Vì sao? Vì nghĩa đúng như vậy. Có làm có thọ hưởng, người này làm người khác thọ, đều không có lỗi. Nếu có thuyết nói: Năm ấm cũng vậy. Người này làm người khác thọ hưởng, đều không có lỗi, ví như hai bên bờ và giữa dòng, gọi chung là sông Hằng, khi mùa hè, thì hai bên bờ cách nhau rất xa, khi mùa thu đến hai bờ gần lại. Định tướng của nó là vô thường khi lớn khi nhỏ, dù có tăng có giảm nhưng mọi người đều cho là con sông. Hoặc có thuyết nói: Đây không phải là sông”, người trí cũng nói: Có “khác” và “không khác”. Năm ấm cũng vậy. Người trí cũng nói “ Có làm có thọ hưởng. Làm khác thọ hưởng khác”. Ý ông nếu cho hai bờ là đất, giữa dòng là nước, thần sông là sông, thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì nếu thần sông là sông, thì tại sao lại nói sông trong sông đục, có bờ bên này, có bờ bên kia, giữa dòng có cạn, có sâu, đến nơi biển cả có thể đo được hay không đo được. Thí như có cây tức có thần ở, nếu như không có cây, thần ở đâu? Sông và thần cũng là như vậy, cho nên hai bờ và giữa dòng thứ lớp không có gián đoạn, đều gọi chung là sông, do vậy, có thể nói: Năm ấm hay là khác năm ấm, cũng vậy. Ví như có người chửi mắng, làm nhục người quyền quí, do nói lời thô ác ấy, mà chân bị xiềng xích! Chân thật ra không nói lời thô ác, mà lại bị gông xiềng, cho nên không được quyết định nói là “Dị tác Dị thọ, Tức tác Tức thọ”. Chỉ người có trí mới có thể nói “Dị tác Dị thọ, Tức tác Tức thọ”. Thí như bình đựng dầu, tim, lửa, nhân công những nhân duyên đó hoà hợp lại mới gọi là đèn sáng. Ý ông nếu cho đèn sáng là có tăng có giảm, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì đã giảm thì không tăng, tăng thì không giảm, do có thứ lớp sanh, nên nói đèn có tăng, giảm. Ý ông nếu cho đèn là vô thường, dầu tức là thường, dầu nhiều sáng nhiều, dầu ít sáng ít, thì nghĩa ấy cũng không đúng. Vì sao? Vì dầu là vô thường, nên có hết, có cháy, nếu như dầu là thường, thì hai niệm sẽ dừng lại, mà hai niệm dừng lại, thì cái gì cháy và cái gì hết? Do vậy, người trí cũng nói, đèn sáng tức là khác, năm ấm cũng vậy. Ánh sáng tức là sáu nhập, dầu tức là nghiệp, vì nhân duyên của các nghiệp, nên năm ấm có tăng, có giảm, có kia, có đây. Như có người nói về lời của A-để-da, câu nói A-để-da đã qua lâu lắm rồi ngày nay không còn, người đời tương truyền nhau nói, không bao giờ diệt, cho nên vẫn được gọi là lời của A-để-da. Người trí cũng nói đó là lời của A-để-da hay chẳng phải là lời của A-để-da, mặc dù có nghĩa phải và không phải, nhưng đều không có lỗi, năm ấm cũng vậy, cũng có thể nói Tức tác Tức thọ, Di tác Dị thọ. Có người rất giàu không có con cháu truyền thừa, khi đã chết rồi, tài sản sẽ nhập vào của công, nhưng rồi có người nói: “ Tài sản ấy thuộc về tôi”. Nhà chức trách bảo: “ Tài sản ấy, của người khác làm ra tại sao thuộc về ông?” Người ấy nói: “ Tôi là con cháu bảy đời của người chết, kế tiếp không đoạn tuyệt, tại sao tài sản ấy không thuộc về tôi?” Nhà chức trách liền nói: Đúng vậy, đúng vậy! Của này thuộc về ông. Người trí nói, năm ấm cũng vậy, Tức tác Tức thọ, Dị tác Dị thọ. Ý ông nếu cho năm ấm tạo nghiệp, khi đã thành rồi liền diệt, mà thân vẫn còn, nghiệp không có chỗ nương tựa. Nghiệp mà không có chỗ nương tựa, tức là không có nghiệp, khi bỏ thân này rồi, lấy cái gì mà chịu quả báo, nên nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì tất cả nghiệp quá khứ đều chờ đợi thể, chờ đợi thời, ví như hạt quýt, nhân nơi cây quýt mà sinh, rồi dần dần qua lại tạo ra vị ngọt. Người ta muốn trái quýt, nên đem hạt trồng. Hạt, cây, cành, lá, hoa sinh ra quả đều chưa tạo được vị, đến khi quả chín muồi vị mới phát ra. Như vậy mùi vị chẳng phải trước không, nay mới có, cũng không phải không có nhân duyên, mà do trái quýt mùa trước. Nghiệp của thân, khẩu, ý cũng như vậy. Nếu nói vậy, thì nghiệp trụ vào chỗ nào? Nghiệp ở trong đời quá khứ, đợi đúng thời gian, thân thể mới thọ quả báo, như người uống thuốc, phải trải qua một thời gian, thuốc tuy đã tan biến, nhưng cũng đợi đến lúc tốt mới phát huy sức mạnh. Nghiệp của thân, khẩu, ý cũng như vậy. Mặc dù quá khứ đã diệt, nhưng đến thờivẫn phải thọ quả báo. Ví như trẻ nhỏ, ban đầu học tập, dù niệm niệm diệt, không có chỗ đứng lại, nhưng đến khi trăm tuổi, cái học cũng không mất. Nghiệp ở quá khứ, cũng như vậy, dù không có chỗ trụ, nhưng đến thời là tự thọ quả báo. Vì thế nên nói: Chẳng phải năm Ấm tạo, năm ấm thọ, lại cũng không được cho chẳng phải năm Ấm thọ. Nếu có thể hiểu rõ ràng, thông đạt hết những việc này, thì người ấy sẽ được quả vị Vô thượng.

 

KINH ƯU-BÀ-TẮC GIỚI

QUYỂN 5

Phẩm 19: BỐ THÍ (Phần tiếp theo)

Này thiện nam! Có người, đối với thân mạng và tài sản tâm keo kiệt không bố thí, gọi đó là bỏn sẻn. Người mạng tâm keo kiệt, không bố thí, thì không sanh tâm thương xót, không lưu trữ phước điền, không tìm cầu phước điền, thế rồi lại tìm cầu lỗi lầm, cho tài vật này khó được, bố thí thì phải chịu khổ; hoặc cho là không có phước quả, không người bố thí, không người lãnh thọ, mạng tâm tham lam cùng vợ con, quyến thuộc.v.v… tích chứa tài sản, cầu được danh tiếng, thấy tài sản nhiều, khởi tâm vui mừng, xem tài vật là thường còn, đó gọi là xấu xa keo kiệt, do xấu xa keo kiệt, mà làm dơ nhớp đến tâm chúng sanh. Vì lí do ấy, đối với tài sản của người khác, còn tham tiếc, không thể bố thí, huống gì là vật của mình. Người trí thực hành bố thí, không mong cầu báo ân, không vì cầu sự nghiệp, không vì giữ gìn để tạo cho người khác tham lam, bỏn sẻn, không vì cầu thọ hưởng cảnh an vui ở cõi Trời, Người, không vì cầu tiếng tốt vang khắp mọi nơi, không vì sợ khổ của ba đường ác, không vì sự cầu xin người khác; không vì muốn được hơn người khác, không vì sợ mất tài sản, không vì muốn có nhiều tài sản, không vì vật của người ấy không dùng, không vì tục lệ của gia đình, không vì sự gần gũi. Người trí thực hành bố thí, vì lòng thương xót, vì muốn cho người khác được an lạc, vì muốn người khác sanh tâm bố thí, vì biết đó là cội gốc hành đạo của các thánh nhân, vì muốn phá trừ các phiền não, vì muốn nhập Niết Bàn, đoạn trừ sanh tử.

Này thiện nam! Bồ-tát bố thí, xa lìa được bốn điều ác: Phá giới. Nghi ngờ. Tà kiến. Bỏn sẻn. Hoặc xa lìa năm điều: 1. Lúc bố thí, không lựa chọn người đức hạnh hay không đức hạnh. 2. Lúc bố thí, không nói thiện ác. 3. Lúc bố thí, không chọn chủng tánh. . Lúc bố thí không xem thường ngươi đến xin. 5. Lúc bố thí không dùng lời thô ác mắng chửi.

Hoặc lại có ba điều mà dẫu đã bố thí, vẫn không được phước báo thù thắng: 1. Trước phát tâm bố thí nhiều, nhưng sau bố thí ít. 2. Lựa chọn vật xấu bố thí cho người. 3. Sau khi thực hành bố thí rồi, sanh tâm hối hận.

Này thiện nam! Hoặc cũng có tám điều, mà bố thí rồi vẫn không được thành tựu phước báo cao quí: 1. Thí rồi, lại vạch tìm lỗi lầm của ngươì lãnh thọ. 2. Lúc bố thí, tâm không bình đẳng. 3. Bố thí rồi, mong người lãnh thọ làm việc lại cho mình. 4: Thí rồi, vui mừng, tự khen ngợi mình. 5. Trước nói không có, sau mới đem ra cho. 6. Thí rồi, dùng lời thô ác mắng chửi. 7. Thí rồi, cầu mong được tài vật gấp đôi. 8. Thí rồi sanh tâm nghi ngờ. Thí chủ mà như vậy, thì không gần gũi được chư Phật và các bậc Thánh Hiền.

Nếu đem đầy đủ Sắc, Hương, Vị, Xúc bố thí cho người, gọi là tịnh thí. Nếu đúng như pháp mà có được tài sản, để bố thí, cũng gọi là tịnh thí. Xem tài vật là vô thường, không thể giữ lâu được, mà hành bố thí, gọi là tịnh thí. Vì phá phiền não, mà hành bố thí, gọi là tịnh thí. Vì nhân duyên thanh tịnh tự tâm mà bố thí, gọi là tịnh thí. Nếu xem ai là người bố thí, ai là người lãnh thọ, thí những vật gì, vì nhân duyên gì mà bố thí, nhờ nhân duyên bố thí như vậy, thì được những phước báo gì? Bố thí như vậy gọi là mười hai nhập. Người nhận, thí chủ, nhân duyên, quả báo đều là mười hai nhập, có thể soi xét như vậy mà bố thí, gọi là tịnh thí. Nếu lúc thực hành bố thí cho các bậc phước điền, mà sanh tâm vui mừng, như các vị mong cầu công đức, ta cũng mong cầu phước đức như thế không ngừng nghỉ. Bố thí cho vợ con, quyến thuộc, tôi tớ; khiến họ thương mến; thí cho người nghèo khổ, vì muốn họ trừ được khổ cực. Trong lúc bố thí, không mong cầu phước báo ở thế gian, chỉ muốn phá trừ kiêu mạn, mà bố thí để tâm được dịu dàng, để nhờ bố thí mà xa lìa được ba cõi, cầu được giải thoát vô thượng. Quán sát kỹ sanh tử, có nhiều tội lỗi, mà hành bố thí, không quán có phước điền hay không có phước điền, mà bố thí. Nếu có thể thực hành bố thí được như vậy, thì phước báo đi theo người đó như trâu nghé theo mẹ.

Nếu vì cầu phước báo mà bố thí, thì chẳng khác gì đổi chác giữa phố chợ, ví như, vì sự sống mà cày ruộng gieo trồng, tùy theo giống đã gieo trồng mà gặt hái kết quả; thí chủ bố thí, cũng như vậy, tùy sự bố thí mà hưởng được phước báo. Cũng như người lãnh thọ, khi ăn uống rồi, được bổ dưỡng, thân thể sẽ xinh đẹp, mạnh khoẻ, an vui, biện tài, thí chủ cũng vậy, được năm phước báo như thế. Nếu thí cho chúng sanh thì được phước báo gấp trăm lần, bố thí cho người phá giới được phước báo gấp ngàn lần, bố thí cho người giữ giới được phước báo gấp mười ngàn lần; bố thí cho người ngoại đạo đã xa lìa dục vọng, được phước báo gấp trăm ngàn lần, bố thí cho người đang tu chánh đạo, được phước báo ngàn ức lần, bố thí cho bậc Tư Đà Hàm hướng, được phước báo vô lượng, cho đến bố thí bậc đã thành Phật, thì được phước báo cũng vô lượng.

Này thiện nam! Hôm nay, Như Lai sẽ vì ông, mà phân tích rõ các phước điền, nên nói như vậy. Bố thí sẽ được phước báo đến trăm hay vô lượng. Nếu có thể chí tâm, khởi lòng thương xót, mà bố thí cho súc sanh, so với sự chuyên tâm cung kính cúng dường chư Phật, thì phước đức đó chân chính và giống nhau. Như Lai nói phước báo gấp trăm lần, nghĩa là đem sự sống lâu, xinh đẹp, sức mạnh, an vui, biện tài, mỗi mỗi đều gấp trăm lần, cho đến phước báo vô lượng, cũng như vậy. Vì thế, trong Khế Kinh, Như Lai nói: “ Như Lai thí cho Tôn giả Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất thí cho Như Lai, nhưng Như Lai được phước báo nhiều hơn, không phải Xá Lợi Phất được phước báo nhiều hơn”. Hoặc có thuyết nói: Người lãnh thọ làm ác, làm tội lây cho thí chủ, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì thí chủ, lúc bố thí là muốn trừ sự khổ cực cho họ, chớ chẳng phải giúp người kia tạo tội, vì thế, thí chủ được phước báo, còn người lãnh thọ làm ác là tự lấy tội lỗi trói mình, không làm lây sang thí chủ. Thí chủ, nếu đem vật quý giá, trong sạch để bố thí, thì đời sau được xinh đẹp, mọi người thích nhìn, tiếng tốt vang xa, mọi sự mong cầu đều được toại ý và sanh vào dòng họ cao quí, vì thế không gọi là ác, sao nói là thí chủ mắc tội? Thí chủ, bố thí rồi, vui mừng không hối hận, gần gũi bạn lành, giàu có, tự tại, sanh vào nhà quí phái, được hưởng cảnh vui của Trời, Người và cảnh an vui vô thượng, có thể xa lìa tất cả phiền não trói buộc, thí chủ được kết quả tốt đẹp như vậy, sao nói bị quả báo xấu ác? Thí chủ có thể tự tay mình bố thí, được sanh vào nhà quyền quí, gặp được thiện tri thức, được nhiều của báu và quyến thuộc đông đảo, đã thành tựu rồi có thể thọ dụng và còn đem bố thí, tất cả chúng sanh vui mừng thích nhìn, thấy rồi sanh lòng cung kính, tôn trọng, khen ngợi, thí chủ hưởng được những phước báo như vậy, sao nói là bị quả báo xấu ác? Thí chủ, nếu đã đem tài vật thanh tịnh bố thí, nhờ nhân duyên ấy được nhiều tài vật quí báu, sanh vào dòng họ cao quí, quyến thuộc rất nhiều, thân không tật bệnh, tâm không khổ não và không lo sợ, bao nhiêu tài sản không bị vua quan, giặc cướp, nước, lửa làm tổn hại, giả sử có mất tài vật cũng không buồn, trong vô lượng kiếp thân tâm an lạc, sao nói là chịu quả báo xấu ác? Nếu lúc chưa bố thí phát khởi tín tâm, trong khi bố thí lại vui mừng, bố thí xong lại an vui, thì lúc mong cầu, khi giữ gìn hay khi thọ hưởng, không bị khổ não, nếu lấy y phục đem ra bố thí, thì được sắc đẹp vi diệu, nếu lấy thực phẩm đem ra bố thí, thì được sức mạnh vô lượng, nếu lấy đèn sáng đem ra bố thí, thì được đôi mắt trong sáng, nếu lấy xe cộ đem ra bố thí, thì được an lạc, nếu lấy nhà cửa đem ra bố thí, thì được vật cần dùng không thiếu, thí chủ được phước báo tốt đẹp như vậy, sao nói là chịu quả báo xấu ác?

Lại nữa, thí chủ đã cúng dường chư Phật rồi, thì cho dù có dùng hay không dùng, phước báo cũng đã quyết định. Bố thí cho người và chúng Tăng, có hai loại phước: Từ khi dùng mà sanh phước. Từ người thọ nhận mà sanh phước. Vì sao? Vì khi thí chủ, trong khi bố thí, đã tự mình đả phá lòng tham lam, với người thọ nhận, thì phá trừ lòng bỏn sẻn cho họ, vì thế, nói từ khi dùng mà sanh phước. Lại nữa, từ khi dùng có thể chuyển sự thọ nhận ấy, làm cho chúng Tăng tăng trưởng. Bố thí mà không mong cầu phước báo ở thế gian, không do phiền não khởi lên để bố thí, vì thế được phước báo thanh tịnh cao cả, gọi là Niết Bàn. Nếu có người lập, nguyện mỗi ngày, trước khi ăn, đều đem bố thí cho người khác, sau mới ăn, nếu trái với lời thệ nguyện này, sẽ đền lễ vật cho đức Phật, nếu có phạm thì sanh hổ thẹn, còn không trái phạm, thì người ấy, nhờ nhân quyên đó, mà được trí tuệ nhiệm màu. Bố thí như vậy là hơn tất cả các hạng bố thí, người ấy cũng được gọi là thí chủ cao cả. Nếu có thể theo sự yêu cầu của người đến xin, mà bố thí, thì người ấy, về sau, trong vô lượng kiếp mọi sự mong cầu, đều được toại ý. Nếu có người tâm ý đều thanh tịnh, tài vật, phước điền thanh tịnh, thì người này, sẽ được vô lượng phước báo. Nếu cung cấp đầy đủ việc ăn mặc cho vợ con, tôi tớ; luôn luôn thương mến, vui mừng mà cho, thì đời sau được vô lượng phước báo. Hoặc có người, thấy ruộng vườn, nhà kho có nhiều chim chuột ăn phá lúa gạo, mà thường khởi tâm thương yêu, suy nghĩ, chim chuột đã nhờ ta mà sinh sống, nghĩ như vậy rồi, vui vẻ, không khởi tâm giết hại; thì biết người này, vô lượng phước báo. Nếu vì bản thân mua sắm y phục, chuỗi ngọc, vàng xuyến để trang điểm vào thân và các vật khác, mua sắm được rồi rất là vui mừng, nhưng chính mình chưa dùng, lại đem ra bố thí cho người khác; thì người này đời sau muốn gì đều được toại ý. Nếu có ai đó nói: “Xa lìa bố thí, sẽ được quả lành”, thì không thể có được. “Lìa tài sản được bố thí, lìa người lãnh thọ có bố thí, không lìa keo kiệt thành bố thí”, cũng không thể có được. Nếu thấy người không đến cầu xin, nhưng biết họ thiếu thốn, đem của cải ra bố thí, họ xin ít cho nhiều, xin vật xấu cho vật tốt, kêu người khác đến xin vật thí, tự mình đi đến bố thí, thì biết người này đời sau được nhiều kho báu, những vật không đáng giá đều biến thành của báu. Vì đùa giỡn mà bố thí, không phải phước điền mà bố thí, không tin nhân quả mà bố thí, bố thí như vậy không gọi là bố thí. Nếu chỉ bố thí cho bậc phước điền, không thích bố thí cho người bình thường, thì người ấy đời sau được phước báo là không ưa bố thí. Nếu người bố thí xong rồi, sanh tâm hối hận, hoặc nếu cướp đoạt vật của người khác đem bố thí, thì người ấy dù, đời sau được tài vật, nhưng thường bị hao mòn, không tích tụ được. Nếu áp đảo quyến thuộc để có tài vật bố thí, thì người này, đời sau, dù được phước báo lớn, nhưng thân thường bị bệnh tật. Nếu trước đã không cúng dường cha mẹ, lại bức bách vợ con, tôi tớ khốn khổ, mà hành bố thí, thì đó là người ác, giả danh bố thí, chẳng phải đúng nghĩa bố thí. Người như vậy, mà bố thí thì không có lòng thương xót, không biết đền ơn, người này đời sau, dù được tài vật quí báu, thường bị đánh mất, không giữ gìn được, không thể đem ra sử dụng, thân nhiều bệnh khổ. Nếu người đúng như pháp, đem của ra bố thí, thì người này, đời sau, được vô lượng phước báo, có tài vật sử dụng. Nếu có người, không đúng như pháp, đem của ra bố thí, thì người này, dù đời sau được phước báo là thường nhờ cậy người khác mà được, nếu người khác ấy, chết đi liền bị nghèo cùng. Người trí quán sát kĩ cảnh vui của Trời, Người, vua Chuyển Luân Thánh Vương, dù là nhiệm mầu, nhưng đều vô thường, do vậy, trong khi bố thí chẳng mong cầu phước báo ở cõi Trời, Người.

Này thiện nam! Thí có hai loại: Tài thí và Pháp thí. Tài thí là bậc hạ, pháp thí là bậc thượng. Thế nào là pháp thí? Nếu có Tỳ-kheo, Tỳkheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di dạy bảo người khác về Tín, Giới, Đa văn, Trí tuệ, hoặc đem giấy mực cho người khác chép hoặc tự mình chép kinh điển của đức Như Lai, sau đó thí cho người, bảo họ đọc tụng, đó là pháp thí. Người bố thí như vậy, đời sau, được xinh đẹp không ai sánh bằng. Vì sao? Vì chúng sanh nghe pháp sẽ đoạn trừ tâm sân hận, do nhân duyên ấy mà đời sau thí chủ được nhiều tướng đẹp, không ai sánh bằng. Chúng sanh nghe pháp, sinh tâm Từ bi, không có giết hại, nhờ nhân duyên ấy, nhiều đời sau được sống lâu. Chúng sanh nghe pháp, nên không trộm cắp tài vật người khác, nhờ nhân duyên ấy, nhiều đời sau vị thí chủ được nhiều tài vật quí. Chúng sanh nghe pháp tâm thích bố thí, nhờ nhân duyên ấy nhiều đời sau thí chủ được nhiều sức khỏe. Chúng sanh nghe pháp đoạn trừ sự buông lung, nhờ nhân duyên ấy, thí chủ thân được an lạc. Chúng sanh nghe pháp đoạn trừ ngu si, nhờ nhân duyên ấy, đời sau thí chủ được biện tài vô ngại. Chúng sanh nghe pháp sanh tín tâm, không còn nghi ngờ, nhờ nhân duyên ấy, thí chủ được tín tâm sáng suốt. Trì giới, bố thí, đa văn và trí tuệ cũng đều như vậy, do vậy, pháp thí thù thắng hơn tài thí.

Nếu có thuyết nói: “ Con tu pháp lành, cha làm điều ác, nhờ con tu phước lành khiến cha không bị vào đường ác”. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì nghiệp của thân, khẩu và ý mỗi người mỗi khác. Nếu cha mất, rồi đoạ vào ngạ quỷ, con vì cha làm phước, thì có thể hưởng được. Nếu sanh lên cõi trời đều không nhớ nghĩ đến tài vật trong cõi người, vì trên cõi trời tài vật nhiệm mầu thù thắng hơn, còn nếu đoạ vào địa ngục, thân chịu khổ cực, không có thời gian nghĩ đến, do vậy không hưởng được, trong súc sanh hay loài người, cũng là như vậy. Còn bảo ngạ quỷ vì nhân duyên gì mà hưởng được? Do ngạ quỷ vốn có lòng tham lam, bỏn sẻn, nên mới đoạ làm ngạ quỷ, đã làm thân ngạ quỷ thường hối hận tội lỗi trước, nhớ nghĩ muốn được, nên hưởng được phước người khác hồi hướng. Nêu người tạo nghiệp sanh trong một đường khác, còn quyến thuộc đoạ làm ngạ quỷ, thảy đều được hưởng, vì thế, người trí, vì ngạ quỷ mà siêng năng làm phước đức. Nếu đem y phục, thức ăn, nhà cửa, ngoạ cụ, tài vật riêng tư bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn v.v… và những người nghèo khổ, xin ăn, vì nhờ sự chú nguyện của họ khiến được phước đức, nhờ thần lực nhân duyên của lời chú nguyện trong lúc bố thí, nên người bị đoạ làm ngạ quỷ cũng được uy lực lớn, tùy vào sự bố thí đều được thừa hưởng, vì chỗ thác sanh của loài ngạ quỷ về là như vậy. Các loài ngạ quỷ về thức ăn không giống nhau, hoặc có loài ăn mủ, hoặc có loài ăn phân dơ, hoặc có loài ăn huyết tanh, đồ mửa, đồ đàm dải, được vật thí rồi tất cả biến thành thức ăn ngon bổ nhất. Mặc dù đem nước cặn bẩn rửa chén, thí cho loài có thể ăn được, có người ngăn giữ lại không cho ăn, thì vị thí chủ như thế cũng được phước đức, vì thí chủ đó có lòng Từ bi thương xót. Nếu cúng tế thì ai thọ hưởng? Tùy chỗ cúng tế mà có người thọ hưởng, hoạc gần rừng cây thì thần cây thọ hưởng, ở nhà, sông, suối, giếng, núi rừng, đồi cũng vậy, người cúng tế cũng được phước đức. Vì sao? Vì khiến những loài thọ hưởng sanh tâm vui mừng. Phước đức do cúng tế cũng có thể giữ gìn thân mạng và tài sản. Nếu nói giết súc vật để cúng tế cũng được phước đức. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì không thấy người nào, ở đời trồng hạt Y Lan, mà mọc cây Chiên Đàn! Giết súc vật mà được phước đức? Nếu người muốn cúng tế nên dùng hương hoa, sữa, tô lạc, thuốc men. Muốn người chết được phước thì có ba thời: Mùa xuân tháng hai, mùa hạ tháng năm, mùa thu tháng chín.

Nếu người đem phòng xá, ngoạ cụ, thuốc men, vườn, rừng, ao, giếng, trâu, dê, voi, ngựa và các vật sinh hoạt; bố thí cho người khác, bố thí xong rồi, thì người ấy mất phước đức của người ấy sẽ tùy theo tài vật đã bố thí lâu hay mau; phước đức thường sanh theo người đó, như bóng theo hình. Hoặc có thuyết nói: Sau khi chết thì, phước báo ấy liền mất. Nghĩa nầy không đúng. Vì sao? Vì vật hư hoại, không dùng trong hai thời ấy, mới là thì mất, chẳng phải mạng chung là mất! Nếu người xuất gia, theo tại gia học những sự vui mừng, ăn uống, trong những ngày lễ, theo pháp thế gian chẳng phải chân thật, nhưng cũng tin pháp thế gian và xuất thế gian; nếu có thể tùy theo tài vật của nhà mình, có tốt hay xấu, thường ưa bố thí; đó gọi là thí tất cả. Nếu đem từng phần của cơ thể, vợ con và vật quý trọng, bố thí cho người, đó gọi là bố thí không thể nghĩ bàn. Nếu có kẻ ác, người phá giới, oan gia, không biết ơn nghĩa, không tin nhân quả, cưỡng bức đòi xin, người có thế lực, người mạnh khoẻ, người hay mắng nhiếc, kẻ sau khi giận dữ, dối bày tướng tốt ;người rất giàu, sang, mà bố thí cho mười một hạng người như vậy, gọi là bố thí không thể nghĩ bàn.

Này thiện nam! Tất cả sự bố thí, có ba điều căn bản: Một: Thí cho người nghèo khổ vì tâm thương xót. Hai: Thí cho người oan gia vì không cầu trả ơn Ba: Thí cho người phước đức vì tâm vui mừng cung kính.

Này thiện nam! Nếu người có rất nhiều tài vật, trong rất nhiều năm cúng dường Tam Bảo, mặc dù được nhiều phước báo, nhưng không bằng khuyên người cùng chung nhau hoà hợp bố thí. Nếu người xem nhẹ tài vật ít, xấu, mà không chịu bố thí, thì người ấy, đời sau, càng thêm nghèo khổ. Nếu người cùng nhau chung bố thí tài vật và phước điền với tâm bình đẳng, thì phước báo của hai người ấy, không có gì khác nhau. Có người tâm và tài vật, đều đồng nhau, phước điền lại thù thắng nên được phước báo cũng thù thắng. Có người phước điền và tâm đều là bậc hạ, nhưng tài vật lại thù thắng, nên được phước báo cũng thù thắng. Có người phước điền và tài vật đều bậc hạ, nhưng tâm bố thí lại thù thắng, thì được phước báo cũng thù thắng. Có người phước điền và tài vật đều thù thắng, nhưng tâm bố thí là bậc hạ, thì phước báo không thù thắng.

Này thiện nam! Người trí khi bố thí, không mong cầu phước báo. Vì sao? Vì biết rõ có tạo nhân thì tức nhiên có kết quả. Nếu người: Không có tâm Từ bi; không biết ân nghĩa, không tham công của bậc Thánh nhân, tham tiếc tài sản, thân mạng, nặng lòng tham đắm, người như thế, không thể bố thí. Người trí quán sát kỹ tất cả chúng sanh ai là người cầu tìm tài vật mà không tiếc thân mạng, sau khi được tài vật lại có thể đem ra bố thí cho người khác, nên biết người ấy có thể hy sinh cả thân mạng. Nếu người tham đắm, không thể xả bỏ tài sản, thì nên biết người ấy cũng tham tiếc thân mạng. Nếu xả bỏ thân mạng, quyết cầu tài vật để bố thí, thì nên biết người này là đại thí chủ. Nếu người được tài vật mà tham tiếc, không chịu bố thí, thì nên biết, người này, đã gieo hạt giống nghèo khổ ở đời sau. Vì thế, trong Khế kinh Như Lai nói: Trong bốn châu thiên hạ, người ở châu Diêm Phù Đề có ba việc thù thắng: Mạnh khỏe. Có tâm ghi nhớ. Hạnh trong sạch. Không thấy phước báo, mà vẫn có thể dự bị tạo nhân, không tham tiếc thân mạng để cầu tài vật, khi có tài vật rồi, lại diệt trừ được tâm bỏn sẻn, để đem tài sản ra bố thí, bố thí xong rồi, tâm không hối hận, lại có thể phân biệt phước điền và không phước điền, nên gọi là mạnh khoẻ.

Này thiện nam! Người sau khi bố thí, tâm sanh hối hận, đều do ba điều: Đối với tài sản còn sanh tâm tham trước. Học hỏi theo tà kiến. Thấy người thọ nhận có tội lỗi. Lại có ba điều: Sợ kẻ khác quở trách. Sợ tài sản hết phải chịu khổ. Thấy người khác sau khi bố thí phải chịu mọi khốn khổ.

Này thiện nam! Người trí trong ba giai đoạn bố thí, không có tâm hối, hận là nhờ có ba điều: 1. Sáng suốt tin nhân quả. 2. Gần gũi bạn lành. 3. Không tham đắm tài sản. Tin nhân quả lại có hai việc: Nhờ nghe pháp từ người khác. Trong tâm tự suy nghĩ. Gần gũi bạn lành, cũng có hai việc: Có niềm tin sâu xa. Có trí tuệ. Không tham đắm tài sản, cũng có hai việc: Quán vô thường, 2. Không được tự tại.

Này thiện nam! Thí chủ nếu có thể quán sát như thế mà thực hành bố thí, thì nên biết thí chủ ấy có thể đầy đủ hạnh bố thí Ba-la-mật, do vậy, trước khi Như Lai nói: Có bố thí, chẳng phải Ba-la-mật; có Ba-lamật chẳng phải bố thí; cũng có bố thí cũng có Ba-la-mật; chẳng phải bố thí chẳng phải Ba-la-mật .

Này thiện nam! Người trí có ba hạng: 1. Có thể xả bỏ tài vật bên ngoài. 2. Có thể xả bỏ tài vật cả trong và ngoài thân. 3. Sau khi bố thí tài vật trong và ngoài thân, lại còn thêm việc giáo hoá chúng sanh. Thế nào là giáo hoá chúng sanh? Thấy người bần cùng, trước phải bảo: Ông có thể quy y Tam Bảo được chứ? Thọ trì trai giới được chứ? Nếu họ trả lời: “ Có thể thọ được”. Thì trước truyền Tam quy đến trai giới, sau đó bố thí tài vật. Nếu họ nói không thể thọ trì được, thì nên dạy: Nếu ông không thể thọ trì, thì nên nói theo ta: “ Tất cả các pháp là vô thường, vô ngã, Niết Bàn là vắng lặng”. Nếu họ trả lời có thể nói theo được, thì nên dạy họ nói sau đó bố thí cho họ. Nếu họ nói, tôi chỉ nói được hai điều, không thể nói các pháp là vô ngã; thì nên dạy tiếp: Nếu ông không thể nói các pháp là vô ngã, thì có thể nói các pháp là không tự tánh? Nếu họ có thể trả lời là có thể nói được, thì dạy họ nói, rồi liền đem tài vật ra bố thí. Nếu trước có thể giáo hoá, sau bố thí như vậy, gọi là bậc đại thí chủ.

Này thiện nam! Nếu có thể giáo hoá chúng sanh như vậy, đến kẻ oán người thân cũng không có sự lựa chọn trong bố thí, gọi là bậc đại thí chủ.

Này thiện nam! Người trí nếu có tài sản quí báu, nên tu hành bố thí như vậy; còn nếu không có tài vật, thì phải thay nhau khuyên người có tài sản, khiến họ làm bố thí như vậy, nếu người thí chủ đó trước đã biết việc ấy rồi, thì không cần khuyên bảo mà nên đem sức mình đến để hổ trợ.

Nếu người nghèo, không có tài vật, thì nên học chữa bệnh và chú thuật, tìm các phương thuốc bình thường, để có người cần dùng là đem bố thí cho họ. Chí tâm khám bệnh, nuôi dưỡng chữa trị cho lành. Khuyên người có tài sản, hợp tác để có đủ các thứ thuốc, hoặc là viên, hoặc là tán, hoặc nhiều thứ thuốc thang. Hiểu rõ về các thứ thuốc rồi, thì đi khắp mọi nơi tìm người trị bệnh, đặt bàn bắt mạch, khám biết bệnh gì, tùy theo bệnh ấy mà điều trị, lúc trị bệnh khéo biết phương tiện, dù bệnh nằm chỗ dơ bẩn, cũng không sanh tâm nhờm gớm, bệnh tăng biết tăng, bệnh giảm biết giảm; hoặc có thể biết thuốc này uống vào làm tăng thêm bệnh, biết thuốc kia có thể trị được bệnh. Nếu có người bệnh xin thứ thuốc làm tăng thêm bệnh, nên tìm phương tiện, tùy theo trường hợp, mà khuyên bảo, chớ nói không có, vì nếu nói không có, làm họ tăng thêm đau khổ. Nếu biết bệnh ấy, nhất định phải chết, cũng không nói chết, chỉ nên dạy họ quy y Tam Bảo, niệm Phật, Pháp và Tăng, siêng tu cúng dường, vì người ấy mà nói bệnh khổ đều do nhân duyên không tốt ở đời trước, nên mắc phải khổ báo ấy, nay nên sám hối. Người bệnh nghe rồi, nếu khởi tâm giận dữ, dùng lời thô ác mắng chửi, thì im lặng không nói lại, cũng không bỏ đi, nên nhớ ta là người đi chăm sóc bệnh, cẩn thận không trách cứ. Họ lành bệnh rồi, vẫn đến thăm hỏi, vì sợ sau này bệnh nặng trở lại, nếu thấy bình phục như lúc bình thường, tâm nên vui mừng, không cầu trả ơn. Nếu người bệnh chết, nên tìm cách mai táng, nói lời an ủi bạn bè, quyến thuộc, Không được dùng các thứ thuốc uống vào tăng thêm bệnh, đem bố thí cho người. Nếu điều trị bệnh, khi họ đã lành rồi, sanh tâm vui mừng, đem cho tài vật, cứ nên lãnh thọ, rồi đem bố thí cho những người nghèo khổ.

Nếu có thể chăm sóc, điều trị được như thế, nên biết người này, là đại thí chủ, là người chân thật cầu đạo Vô thượng Bồ-đề.

Này thiện nam! Người trí, lúc cầu đạo Bồ-đề, giả sử có nhiều tài vật quí báu, cũng nên học hỏi cách chữa bệnh như vậy. Tổ chức chăm sóc bệnh, mở phòng khám bệnh và cung cấp vật cần dùng cho người bệnh, như ăn uống, thuốc men…

Đường sá gồ ghề, lồi lõm, thì sửa lại bằng phẳng rộng rãi, dẹp bỏ gai gốc, đá sỏi, các thứ dơ bẩn. Chỗ hiểm trở, có thể dùng ván, cây đà, dây v.v… đều đem thí cho, để sửa chữa lại. Những đoạn đường xa, trống vắng, thì nên đào giếng, trồng cây ăn trái, sửa sang khe suối. Ở chỗ không có cây lớn, vì người mà trồng cây có bóng mát, để có nơi cho mọi người gánh nặng mỏi mệt họ nghỉ; có thể vì họ, xây đắp nền cấp, xây dựng nhà khách và các thứ cần dùng, như bình, chậu, đèn đuốc, giường ghế, ngoạ cụ v.v… đều phải sắm đủ. Chỗ nước chảy dồn đọng lại những vật dơ bẩn, thì phải làm cầu cống. Ở những bến đò, bố thí cầu, ghe, tàu, bè, để những người không thể qua được, tự mình đưa qua, đối với những người già yếu, trẻ con ốm yếu, không có sức lực, tự tay mình dìu dắt đưa họ qua sông. Ở bên cạnh đường nên xây tháp, trồng hoa, cây ăn trái. Thấy người khiếp sợ liền ra tay cứu giúp, che giấu. Dùng tài vật hoặc lời khuyên lơn, người đuổi bắt, xin họ tha cho. Nếu thấy người đi đường, gần đến chỗ nguy hiểm, liền đến để đưa họ qua đoạn đường đó. Nếu thấy người mất đất đai, muốn quyên sinh, tùy nghi giúp cho và dùng lời khôn khéo khuyên lơn, an ủi. Nếu người đi xa mệt mỏi, nên cho họ tắm rửa, xoa bóp chân tay cho họ, thí cho giường nằm, nếu không có giường nằm, lấy cỏ mà trải, trời nóng dùng quạt và đưa áo xiêm cho họ mặc, trời lạnh cho họ lửa và y phục ấm, hoặc tự tay mình làm hoặc bảo người khác làm. Buôn bán ở chợ phải dạy người ta ngay thẳng, không vì tham lam dối gạt lẫn nhau. Thấy người đi đường, nên chỉ giúp người ta, chỗ nào nên đi, chỗ nào không nên đi, nghĩa là chỗ có nhiều nước, cỏ, không có giặc cướp thì nên đi, còn chỗ nào có nhiều tai nạn thì không nên đi. Thấy người mang giày, dép, áo xiêm, chén bát hư hoại, liền vì họ may vá, giặt rửa, nhuộm v.v…, có khi họ bị chuột, rắn, rệp, trùng độc len lỏi vào người, có thể giúp họ bắt bỏ đi. Bố thí phải đúng như ý muốn của người, luôn tạo sự thuận hợp. May vá, giặt rửa sạch sẽ những vật của Tăng thường trú, như toạ cụ, ngoạ cụ, trên nhà xí, nên để nước sạch, xà phòng hay tro đất sạch v.v… Nếu tự tay mình làm ra y phục, bình bát thì trước dâng lên cúng dường Đức Phật, cha mẹ, sư trưởng, Hoà thượng đều dùng sau đó mới tự dùng. Nếu dâng cúng chư Phật, thì dùng hương hoa tốt, hễ ăn vật gì, thì trước cúng dường Sa-môn, Phạm chí sau mới tự dùng. Thấy người ở xa đến nên ân cần dịu dàng thăm hỏi, bố thí nước trong, tắm rửa thân thể và dầu xoa chân, hương hoa, dương chi, Bồn tắm, dầu thơm, nước thơm, mật, áo lót, người xoa dầu, khi họ tắm rửa xong, lại lấy các loại hương hoa, thuốc viên, thuốc bột, thực phẩm ăn uống, nước ngọt, tùy họ cần gì, đem ra bố thí, hoặc bố thí dao cạo tóc, cạo râu, đẫy lọc nước, kim, chỉ, áo bá nạp, giấy, bút, mực v. v… Nếu không thường bố thí được như vậy, thì chọn những ngày trai mà bố thí. Nếu thấy người mù tự mình đến cầm tay, cho gậy, chỉ đường. Nếu thấy người nghèo khổ của tài sản hao tổn, cha mẹ đều chết, nên lấy tài vật đem cho, dùng lời dịu dàng nói pháp, an ủi, khuyên lơn, khéo léo nói về hai quả của phiền não và phước đức.

Này thiện nam! Nếu có thể tu tập bố thí như vậy, gọi là thí chủ thanh tịnh.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia vàBồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia làm thí chủ thanh tịnh, không lấy làm khó, Bồ-tát tại gia, làm thí chủ thanh tịnh mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 20: TAM QUY THANH TỊNH

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Như trước đây Ngài dạy: “ Có người đến xin trước phải dạy Tam quy cho họ, sau mới “Bố thí”. Vì nhân duyên gì phải thọ Tam quy? Thế nào gọi là Tam quy?” Phật dạy:

– Này thiện nam! Vì để phá trừ các sự đau khổ, diệt trừ phiền não, thọ hưởng an vui tịch diệt không có gì sánh bằng, do nhân duyên ấy, mà phải lãnh thọ Tam quy.

Này thiện nam! Tam quy nghĩa là Phật, Pháp và Tăng. Phật là người có thể nói nguyên nhân phá trừ phiền não, được giải thoát chân chánh; Pháp là cách thức để phá trừ nguyên nhân phiền não và được giải thoát chân thật; Tăng là người lãnh thọ giáo pháp, phá trừ phiền não, nhờ đó mà được giải thoát chơn chánh. Hoặc có thuyết nói: “ Nếu như vậy, tức chỉ có Nhất quy y” . Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì Đức Như Lai có ra đời hay không ra đời, chánh pháp vốn thường có, không phân biệt. Như Lai ra đời mới có sự giảng giải rõ ràng; vì thế phải quy y riêng Phật. Như Lai ra đời hay không ra đời, chánh pháp vẫn thường có mà không người lãnh thọ, chỉ có các đệ tử Phật mới lãnh thọ, vì thế phải quy y riêng Tăng. Con đường đưa đến giải thoát chơn chánh gọi là Pháp. Không có thầy chỉ dạy, một mình tự giác ngộ lấy gọi là Phật, có thể theo đúng như chánh pháp mà thọ trì gọi là Tăng. Nếu không có Tam quy, vì sao nói có bốn niềm tin bất hoại? Người được Tam quy hoặc đủ, hoặc không đủ. Thế nào gọi là đủ? Nghĩa là quy y cả Phật, Pháp và Tăng. Thế nào là không đủ? Nghĩa là Đức Như Lai chỉ quy y đối với pháp.

Này thiện nam! Người được Tam quy đầy đủ như các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.

Này thiện nam! Phật, Duyên-giác và Thanh-văn khác nhau, vì thế Tam Bảo không thể không khác. Thế nào gọi là khác? Lúc phát tâm khác, khi đắc đạo khác, khi tu hành khác và tánh phần đều khác, do vậy gọi là khác. Vì nhân duyên gì mà nói Phật tức là Pháp? Vì có thể giảng giải được pháp, nên gọi là Phật, thọ lãnh giáo pháp, phân biệt giảng thuyết gọi là Tăng. Có thuyết nói: Phật cũng nhập vào hàng ngũ chúng Tăng, thì không có Tam Bảo, tam quy y và bốn niềm tin bất hoại. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì Phật nếu nhập vào hàng ngũ Tăng, thì không có Tam bảo sao? Không có ba quy y, bốn niềm tin bất hoại sao?

Này thiện nam! Pháp của Bồ-tát khác pháp của Phật cũng khác.

Bồ-tát có hai hạng: Hậu thân Bồ-tát. Lúc tu tập đạo lí. Quy y hậu thân của Bồ-tát gọi là quy y Pháp. Quy y Bồ-tát lúc tu tập gọi là quy y Tăng, quán pháp Hữu vi có rất nhiều tội lỗi, ở riêng một nơi tu tập được vị cam lồ, nên gọi là Phật. Tất cả pháp giới Vô lậu, Vô vi gọi là Pháp. Thọ trì giới cấm, đọc tụng, giảng giải mười hai bộ kinh, gọi là Tăng. Nếu có người nói: “ Như Lai đã diệt độ rồi, quy y Phật là quy y thế nào?”

Này thiện nam! Quy y pháp vô học của các Đức Phật, trong đời quá khứ, quy y như vậy, gọi là quy y. Như lúc trước, Như Lai dạy trưởng giả Đề Vị, nên quy y chúng Tăng đời sau. Quy y chư Phật đời quá khứ, cũng như vậy. Phước điền, quả báo có nhiều hay ít sai khác, chia ra làm ba. Nếu Phật còn tại thế và sau khi vào Niết Bàn, phước báo của sự cúng dường không có sai khác. Người lãnh thọ quy y cũng như thế. Như Phật còn tại thế, vì hàng đệ tử mà chế ra giới luật, khi đức Phật đã tịch diệt, có người huỷ phạm, cũng bị tội báo, quy y chư Phật quá khứ, cũng như vậy, Như lai lúc gần Niết Bàn, tất cả Trời, Người vì sự Niết bàn của Phật, dâng lên cúng dường rất nhiều tài vật, bấy giờ Như Lai chưa vào Niết Bàn, vẫn còn tại thế nhưng thọ nhận những sự cúng dường của đời sau, quy y chư Phật trong quá khứ cũng như vậy. Thí như người có cha, mẹ ở xa, người ấy có lúc giận dữ chửi mắng, cũng bị mắc tội, hoặc có lúc cung kính, khen ngợi cũng được phước báo. Quy y chư Phật ở đời quá khứ, cũng như vậy. Vì thế Như Lai nói: Như Lai còn tại thế và sau khi Niết Bàn, có thiết lễ cúng dường, thì người cúng dường hưởng phước báo cũng giống nhau.

Này thiện nam! Có người nam hay nữ có thể nói ba lần pháp Tam quy, gọi là Ưu-bà-tắc, gọi là Ưu-bà-di. Chư Phật chỉ quy y Pháp, nhưng Pháp do Phật thuyết giảng, nên được hiển hiện, vì thế trước tiên nên quy y Phật. Thanh tịnh thân, khẩu, ý, chí tâm niệm Phật. Niệm rồi xa lìa được sợ hãi, khổ não, do vậy nên quy y Phật trước. Người trí soi xét kĩ về trí tuệ và giải thoát của Đức Như Lai là hơn hết có thể giảng pháp giải thoát và nhân duyên giải thoát, có thể thuyết giảng về cõi vắng lặng vô thượng, có thể làm khô cạn biển lớn khổ não sanh tử, oai nghi đĩnh đạt, ba nghiệp vắng lặng, vì thế, trước tiên nên quy y Phật. Người trí quán sát sâu xa về pháp trong cõi sanh tử là nỗi khổ lớn, nhờ đạo lí chơn chánh vô thượng, mới có thể diệt trừ. Pháp sanh tử là khát ái, nghèo đói, vị cam lồ Vô thượng mới làm no đủ cả. Pháp sanh tử là lo sợ, hiểm nạn, chánh pháp cao cả diệt trừ được hết. Sanh tử là sai lầm, không đúng sự thật, Vô thường cho là thường, vô ngã cho là ngã, không an lạc cho là an lạc, không thanh tịnh cho là thanh tịnh, chánh pháp cao quí thì diệt trừ được tất cả, do nhân duyên ấy nên quy y Pháp. Người trí nên quán sát đồ chúng của ngoại đạo là những người không có hổ thẹn, sống không đúng pháp, tuy có tu tập, nhưng không biết con đường chơn chánh, dù có cầu giải thoát nhưng không đạt được mục đích, dù được một ít pháp lành của thế tục, nhưng ích kỷ không dạy lại cho người, không phải tánh của việc thiện mà tưởng là việc thiện. Còn Tăng chúng của Phật tâm đều vắng lặng, tâm thương yêu rộng lớn, ít ham muốn, biết đủ, sống như chánh Pháp, tu đạo chơn chánh, chứng được giải thoát, sau khi chứng đắc đạo quả đem dạy lại cho tất cả mọi người, vì thế nên quy y Tăng. Nếu biết lễ bái Tam Bảo như vậy, cung kính đón tiễn, tôn trọng, khen ngợi, như pháp vững tin, không còn nghi ngại ấy mới gọi là cúng dường Tam Bảo. Nếu có người nào, đã quy y Tam Bảo, dù không thọ giới, nhưng diệt trừ tất cả pháp xấu ác, tu tập tất cả các pháp chơn thiện, tuy ở tại gia, sống đúng chánh pháp, thì cũng gọi là Ưu-bà-tắc. Nếu có ai đó nói: “ Trước không quy y Phật, Pháp, Tăng Bảo, thì nên biết người ấy không được đắc giới”. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì trước kia Như Lai đã dạy: “ Thiện lai Tỳ-kheo!” Là người dù chưa được quy y Tam Bảo, nhưng mà giới luật đã được đầy đủ. Hoặc nếu có ai đó nói: “ Nếu không thọ đủ tất cả các giới, tức không được giới. Pháp Bát quan Trai giới cũng như vậy”. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì không thọ đủ nên không được giới, nhưng có người chỉ cầu Ưu-bà-tắc, làm sao được giới, nhưng thật sự vẫn là được giới, chỉ không trọn đủ hoàn toàn đó thôi. Bát Quan Trai giới, nếu không thọ đủ, dù không gọi Trai, nhưng có thể được gọi là lành.

Này thiện nam! Nếu có thể làm trong sạch thân, khẩu, ý nghiệp mà thọ giới Ưu-bà-tắc, thì gọi là năm ấm.Vậy thế nào gọi là năm ấm? Không lãnh thọ sự hiểu biết sai lầm, không nói về sự hiểu biết sai lầm, mà chỉ tin, hiểu cái đúng và chỉ nói điều hiểu biết đúng, tu hành chánh pháp thì gọi là năm ấm.

Thọ Tam quy rồi, mà làm các việc si mê, thọ pháp ngoại đạo và lời dạy của trời Tự Tại, ấy là nhân duyên mất Tam quy. Nếu người chất phác, chân thật, tâm không tham lam, tu hành, biết hổ thẹn, ít ham muốn biết đủ, người ấy không lâu sẽ được thân tâm thanh tịnh. Nếu có người tạo ra nhiều thứ nghiệp xấu, muốn được an vui, nên tu tập nghiệp lành, như việc buôn bán ở chợ, nhưng kì thật tâm người ấy, không thương yêu chúng sanh, như vậy, người ấy không được pháp Tam quy. Nếu người vì giữ gìn nhà cửa, thân mạng, mà cúng tế các vị thần, thì người ấy không gọi là mất pháp quy y, nếu người chí tâm tin ngoại đạo, có thể cứu được tất cả lo sợ, mà lễ bái họ, thì người này mới mất pháp Tam quy. Nếu nghe theo các trời, có vị từng thấy công đức của Phật hơn mình, mà lễ bái cúng dường, thì người ấy, mất pháp Tam quy. Hoặc có lúc lễ bái Tự tại Thiên vương, cũng như lễ bái các vị vua thế gian, trưởng giả, người quý phái, các bậc có tuổi có đức hạnh, người như vậy, không mất pháp Tam quy. Dù có phải lễ bái giáo pháp tà đạo, cũng nên cẩn thận, không được lãnh thọ, lúc cúng dường các vị trời, nên khởi tâm Từ bi, vì để gữ gìn tài sản, đất nước và sự lo sợ của dân. Giáo thuyết của tà kiến, tại sao không lãnh thọ? Người trí nên quán sát kĩ giáo pháp ngoại đạo, vì họ nói: “ Tất cả vạn vật, đều do trời Tự tại tạo ra” . Nếu do trời Tự tại tạo ra, vì sao ngày nay Như Lai phải tu pháp thiện? Hoặc nói : “ Rơi mình xuống vực sâu, nhảy vào lửa, nhịn đói, xả bỏ thân mạng tức thì hết khổ”. Đó là nguyên nhân khổ, sao nói là thoát khổ? Tất cả chúng sanh tạo nghiệp thiện ác và do nghiệp duyên mà tự chịu quả báo. Nếu có thuyết nói: “ Tất cả vạn vật, thời tiết, trăng sao, đều do trời Tự tại tạo ra”. Tà thuyết nói như vậy, thì ta cần gì tạo ra các công việc trong hiện tại và đâu có nhận lãnh nghiệp quả quá khứ làm gì? Người trí biết rất rõ nghiệp quả như vậy, tại sao còn nói thời tiết, trăng sao do trời Tự tại tạo ra! Còn nếu nói thời tiết, trăng sao là nhân duyên thọ chịu những khổ vui; thì thiên hạ có cùng thời tiết, tinh tú, tại sao có người khổ, có người vui, có người nam, có người nữ? Cõi Trời, A-tu-la có cùng thời tiết, đồng sanh một tinh tú, sao có lúc cõi Trời hơn A-tu-la, hoặc có lúc A-tu-la hơn cõi Trời, mà không như nhau? Hoặc có lúc các vị vua cùng thời tiết, cùng tinh tú, cùng chung pháp chế cai trị, mà có người mất nước, có người giữ gìn được đất nước? Các ngoại đạo cũng nói: “ Nếu có năm tháng xấu, tinh tú xấu xuất hiện, nên dạy chúng sanh, tu tập pháp lành, để tống khứ tai hoạ”. Nếu đã do năm tháng xấu và tinh tú xấu sinh ra, tại sao tu tập pháp thiện lại diệt trừ được? Do nhân duyên ấy, người trí sao thọ lãnh giáo pháp của ngoại đạo?

Này thiện nam! Tất cả chúng sanh, tùy theo nghiệp đã tạo, nếu tu theo sự chân chánh sẽ được an lạc, nếu tu theo sự hiểu biết sai lầm, sẽ bị khổ đau. Do tu nghiệp thiện, mà được tự tại, được tự tại rồi chúng sanh gần gũi, mình sẽ nói nhân duyên tạo nghiệp lành mà được tự tại, tất cả chúng sanh đều do nhân duyên tu nghiệp lành, nên hưởng được an lạc, chứ không phải do năm tháng xấu, hay tinh tú không tốt.

Này thiện nam! Vua A-Xà Thế và Đề-Bà-Đạt-Đa đều do nhân duyên tạo nghiệp xấu ác, nên đoạ vào địa ngục, không phải do năm tháng xấu, tinh tú không tốt, mà bị quả báo đó. Uất-Đầu-Lam-Phất do 632 nhân duyên tà kiến, đời sau bị đoạ vào trong địa ngục lớn.

Này thiện nam! Tất cả pháp thiện do lòng tham muốn làm căn bản, nhờ nhân duyên tham muốn mà được Tam Bồ-đề và quả giải thoát. Vào trong pháp xuất gia, phá trừ các nghiệp xấu và nghiệp trong ba cõi, năng thọ trì giới luật, gần gũi chư Phật, bố thí và xả cho tất cả người ăn xin, tu tập định tánh, diệt trừ quả báo xấu ác, tiêu diệt tội lỗi, quyết được “ Định Tụ”, xa lìa ba chướng, khôn khéo tu tập diệt trừ phiền não, ấy là nhân duyên tham muốn để thọ trì Tam quy, nhờ thọ trì Tam quy mà được thọ giới, đã thọ giới rồi nên hiểu biết tu tập hơn hẳn hàng Thanhvăn. Có người lo sợ sư tử, cọp, sói, các loại thú dữ .v.v… quy y với Phật còn được giải thoát, huống chi là người phát tâm lành cầu đạo xuất thế mà không được giải thoát? Ông Cấp Cô Độc dạy bảo mọi người trong nhà. Đến như người con, còn ở trong thai cũng cho thọ Tam quy. Người con trong thai thật ra không thể thành tựu Tam quy. Tai sao? Vì pháp Tam quy cần phải từ chính miệng mình phát ra lời nói. Mặc dù không được thành tựu nhưng cũng được ủng hộ.

Này thiện nam! Các ngoại đạo nói: “ Tất cả thế gian đều do trời Tự Tại tạo ra”. Họ cũng nói: “ Vào đời sau hơn trăm kiếp, sẽ có một vị Huyễn Hoá xuất thế, họ nói người Huyễn Hoá ấy tức chỉ cho Phật. Nếu trời Tự tại có thể làm Phật, thì tại sao Phật phá nghĩa quy y của trời Tự tại? Nếu trời Tự tại không thể làm Phật, tại sao nói tất cả thế gian đều do trời Tự Tại tạo ra? Ngoại đạo lại nói: Trời Đại Phạm thiên vương, Trời Đại Tự Tại, Tỳ Nựu Thiên Chủ đều là một, lại nói chỗ sanh của mỗi vị có khác nhau. Trời Tự Tại có các tên: Thường, Chủ, Hữu, Luật Đà, Thi Bà, mỗi mỗi tên đều có sự khác nhau, cũng cầu giải thoát, cũng là giải thoát. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì Trời Tự Tại sanh ra chúng sanh, tạo ra các cõi, tạo nghiệp thiện ác và các nghiệp quả báo, tạo tham, sân, si trói buộc chúng sanh, lại nói chúng sanh lúc được giải thoát đều vào trong thân, do vậy giải thoát là pháp vô thường. Nghĩa này không đúng. Vì nếu vô thường, thì làm thế nào được gọi là giải thoát? Như con Bà-la-môn trở lại được sống lâu. Do vậy không nên gọi trời Tự Tại và ba vị trời kia, cũng không được gọi là một. Vì sao? Vì người A-chu-na, mà Tỳ-nựu-đại thiên, vì họ tạo pháp giải thoát, do ý nghĩa ấy mà gọi là một. Nếu nói giải thoát là vô thường, thì nên biết là huyễn, chứ không phải Phật là huyễn. Nếu biết được chánh kiến, chơn ngã rõ ràng, đó là giải thoát. Lại có thuyết nói: “ Thấy được vi trần gọi đó là giải thoát”. Lại có thuyết nói: “ Thấy được tánh khác, ngã khác, gọi là giải thoát”. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì có khả năng tu tập đạo lí, thì thấy được Tứ đế chân thật, thì người ấy mới thấy được tánh, thấy được ngã. Nếu người đã thọ Tam quy, người ấy có thể thấy được Tứ đế chân thật. Tam quy chính là cội nguồn của tất cả thiện pháp, cho đến cội nguồn của Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia và Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia hành thanh tịnh Tam quy, không lấy làm khó, Bồ-tát tại gia, hành thanh tịnh Tam quy mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 21: BÁT QUAN TRAI GIỚI

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người thọ Tam quy Trai giới, thì người ấy, được những phước báo gì?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Nếu có người, được thọ Tam quy Y, nên biết, người này, được phước báo không cùng tận.

Này thiện nam! Nước Ca-Lăng-Già, có kho tàng chứa bảy báu, gọi là Tân-già-la. Dân chúng trong nước đó bao gồm lớn nhỏ, nam nữ, nếu dùng xe cộ, voi, ngựa, lạc đà, lừa v.v… chở trong bảy ngày, bảy tháng và bảy năm, cũng không thể hết. Nếu có người chí tâm thọ Tam quy Trai giới, thì người ấy được công đức phước báo nhiều hơn vật báu của kho tàng kia.

Này thiện nam! Nước Tỳ-đề-ha có kho bảy báu, tên là Bán-lăngca. Dân chúng trong nước đó, bao gồm lớn nhỏ, nam nữ nếu dùng xe cộ, ngựa, voi, lạc đà,lừa v.v… chở đi bảy ngày, bảy tháng, bảy năm cũng không thể hết được. Nếu có người, chí tâm thọ Tam quy Trai giới, thì người ấy được công đức phước báo nhiều hơn vật báu của kho tàng kia.

Này thiện nam! Nước Ba-La-Nại, có kho bảy báu, tên là Nhương Khư. Dân chúng trong nước ấy lớn nhỏ, nam nữ nếu dùng xe cộ, ngựa, voi, lạc đà, lừa v.v… chở đi trong bảy ngày, bảy tháng, bảy năm cũng không hết vật báu, trong kho bảy báu kia. Nếu có người thọ trì Tam quy Trai giới, thì người ấy công đức phước báo có được sẽ nhiều hơn vật báu trong kho tàng kia.

Này thiện nam! Nước Càn-đà-la có kho bảy báu, tên là Y-La-BátĐa. Dân chúng trong nước ấy bao gồm lớn nhỏ, nam nữ thường, nếu dùng xe cộ, voi, ngựa, lạc đà, lừa v.v… chở đi trong bảy ngày, bảy tháng, bảy năm cũng không thể hết vật báu trong bảy kho tàng ấy. Nếu có người chí tâm thọ Tam quy trai giới, thì công đức phước báo, của người này có được nhiều hơn vật báu của kho tàng kia.

Này thiện nam! Có người theo người khác, ba lần thọ Tam quy, ba lần thọ, Tám giới, đó gọi là đầy đủ Ưu-bà-tắc trai giới, một ngày một đêm khi ánh sáng mặt trời vừa xuất hiện là lúc xả giới, cho nên không được bên tượng Phật cầu thọ giới. Phải theo người nào căn bản thanh tịnh, thọ rồi thanh tịnh tu tập, giác quán thanh tịnh, tâm niệm thanh tịnh và cầu phước báo thanh tịnh, đó mới gọi là Tam quy, Trai giới thanh tịnh.

Này thiện nam! Nếu người quy y và thọ Tám Trai giới thanh tịnh như thế, ngoài năm tội ngũ nghịch ra, còn tất cả tội khác, đều diệt trừ được hết. Do vậy giới này, không thể một lúc mà hai người cùng thọ. Vì trong một lúc mà hai người cùng thọ, thì nhân duyên gì một người hủy phạm, một người kiên trì? Vì thần lực của giới này, nên đời sau, trong cuộc sống không làm việc ác, đã thọ giới rồi, có tạo lỗi lầm không bao giờ mất giới. Nếu trước đó, quan sai đem sắc lịnh đến để xử tử một người, nhưng lịnh chậm chưa đến, người thọ lịnh liền phát tâm thọ Trai giới, lúc thọ Trai giới thì lệnh đến nên phải giết, mặc dù cùng một lúc, nhưng nhờ oai lực của giới, mà không mắc tội sát sanh. Nếu có người quyền quí, thường hay ra lệnh làm các việc ác, mà muốn thọ Trai giới, thì trước nên cảnh tỉnh họ phải diệt trừ các điều ác, để được trong sạch, nếu trước không bảo họ diệt trừ các điều ác, mà liền cho họ thọ Trai giới; như vậy không được gọi là Trai giới. Người muốn thọ Trai giới, trước phải báo cho người lãnh đạo trong địa phương của mình: Tôi muốn thọ Trai giới, hễ đến những ngày Trai giới, phải đình chỉ những hình phạt. Nếu thọ trì Trai giới thanh tịnh như vậy, thì người ấy được vô lượng phước báo, cho đến mọi sự an lạc cao quý.

Khi Phật Di Lặc ra đời, người thọ Trai giới cả trăm năm, không bằng đời Như Lai bây giờ chỉ một ngày đêm. Vì sao? Vì hiện tai đời này chúng sanh đầy đủ những điều ô trược, vì thế Như Lai vì bà Lộc Tử nói: Này thiện nữ! Nếu cây Sa La có thể thọ Tám Trai giới, thì cũng được hưởng an vui nơi cõi Trời, Người với niềm vui cao quí.

Này thiện nam! Tám Trai giới này, tức là chuỗi ngọc để trang nghiêm Bồ-đề vô thượng. Trai giới như vậy, vừa dễ thọ trì, mà lại được nhiều công đức; nếu có người, cảm thấy thọ trì dễ như vậy, mà không thọ trì, đó là người buông lung.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia và Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia, dạy bảo chúng sanh, thọ trì thanh tịnh Tám Trai giới không khó, Bồ-tát tại gia, dạy bảo người khác thọ trì thanh tịnh Tám Trai giới, mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

KINH ƯU-BÀ-TẮC GIỚI

QUYỂN 6

Phẩm 22: NĂM GIỚI

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Những người nào được Tam quy và những người nào không được Tam quy?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Những người tin nhân, tin quả, tin về đạo lí chân thật, tin mình có thể được chánh đạo, thì được Tam quy. Những người chí tâm, niềm tin không thối chuyển, gần gũi Tam Bảo, nghe lời chỉ dạy của bạn tốt, thì được Tam quy. Giới Ưu-bà-tắc cũng vậy. Nếu có khả năng quán, giơí Ưu-bà-tắc có nhiều công đức phước báo và diệt được vô lượng pháp ác, chúng sanh vô số thọ khổ cũng như vậy. Khó được làm thân người, dù được làm thân người, khó đủ các căn; dù đủ các căn, khó có được tín tâm, dù được tín tâm, khó gặp bạn lành, dù gặp bạn lành, khó được tự tại, dù được tự tại, nhưng các pháp vô thường. Ta nay nếu tạo ác nghiệp, do nghiệp ác này mà thân tâm thọ quả báo xấu trong hai đời, vì nhân duyên ấy, hễ thân, khẩu, ý làm ác, là kẻ thù của ta. Giả sử ba nghiệp tạo ác, mà không mắc quả báo, thì những nghiệp ác ở hiện tại, cũng không nên làm. Trong hiện tại, ba nghiệp ác sanh Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ác; khi chết sanh hối hận. Vì sao? Vì nhân duyên ấy, ta thọ Tam quy và Tám trai giới để xa lìa tất cả nghiệp ác và bất thiện. Người trí, nên quán giới có hai loại: Giới Thế gian, Giới Đệ nhất nghĩa. Nếu không nương nơi Tam Bảo mà thọ giới, gọi là giới Thế gian, giới ấy không bền chắc, như màn vẽ không có keo, do vậy, ta trước quy y Tam Bảo, sau mới thọ giới, hoặc thọ giới trọn đời hoặc thọ chỉ trong một ngày một đêm, đó là pháp Tám Trai giới của Ưu-bà-tắc. Hễ là pháp thế gian thì không thể phá trừ được các nghiệp ác ở đời trước, còn thọ Tam quy giới, thì phá trừ được, dù tạo tội lớn cũng không mất giới, vì nhờ oai lực của giới. Hai người cùng tạo tội ác, một người thọ giới, một người không thọ giới, thì người đã thọ giới tội nặng hơn, còn người chưa thọ giới tội nhẹ hơn, vì phá bỏ lời dạy của Phật. Tội có hai loại: Tánh trọng. Giá trọng. Hai tội ấy, lại có nặng nhẹ, hoặc có người tội nặng lại tạo nhẹ, có người tội nhẹ mà tạo nặng, như Ương Quật Ma thọ giới thế gian, Rồng Y La Bát thọ giới Đệ nhất nghĩa. Ương Quật Ma La phá tánh trọng, nên không tội nặng, Rồng Y La Bát phá hoại giá chế, nên bị tội nặng; vì thế có người tội nặng thành nhẹ, tội nhẹ thành nặng, do vậy, không nên cho giới đồng, được phước báo cũng giống nhau. Giới Thế gian cũng có không giết hại, không trộm cắp; giới Đệ nhất nghĩa, cũng không giết hại, không trộm cắp; cho đến không uống rượu cũng như vậy. Giới Thế gian nguồn gốc của nó không thanh tịnh, sau khi thọ rồi sẽ không thanh tịnh, nên khi thực hành không thanh tịnh, giác quán không thanh tịnh, tâm niệm không thanh tịnh, phước báo không thanh tịnh; nên không gọi là giới Đệ nhất nghĩa, chỉ gọi là giới thế gian; do vậy, ta thọ đầy đủ giới Đệ nhất nghĩa.

Này thiện nam! Chúng sanh đời sau thân cao tám trượng, tuổi thọ tám vạn bốn ngàn năm, lúc ấy mới thọ giới. Hoặc nay trong đời xấu ác, nếu có người thọ giới, thì phước báo hai người bằng nhau, vì ba thiện căn bình đẳng. Hoặc có thuyết nói: “Nếu giết hại thân mạng sẽ được đắc giới”. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì hễ là giới cấm, thì với tất cả loại vật đáng giết, đều không được giết. Loài vật đáng giết mà không được giết, nhiều đến vô lượng vô biên, phước báo của giới cũng vô lượng vô biên như vậy.

Này thiện nam! Trong tất cả sự bố thí, bố thí sự không sợ hãi là thứ nhất; vì thế, Như Lai mới nói rộng năm thứ bố thí, tức là năm giới; năm giới như vậy, làm cho chúng sanh, xa năm điều lo sợ. Năm thứ bố thí ấy, rất dễ tu hành, rất tự tại, không chướng ngại và không tốn kém tài vật mà được phước báo vô lượng vô biên, xa lìa năm thứ bố thí ấy, không thể chứng được quả Tu-Đà-Hoàn cho đến quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Này thiện nam! Nếu người nào, thọ giới rồi; nên biết, người ấy, được các vị Trời, Người cung kính ủng hộ; được danh tiếng rộng khắp, dù có gặp cảnh xấu ác, tâm không u buồn, chúng sanh thích gần gũi, ưa đến nương tựa. Con của trưởng giả Cấp Cô Độc, mặc dù vì tám ngàn đồng tiền vàng mà thọ giới cũng được phước báo vô lượng công đức.

Này thiện nam! Vì tài vật mà thọ giới, còn được lợi ích, huống là có người chí tâm vì pháp giải thoát mà không được phước báo sao?

Này thiện nam! Có năm pháp lành bao quanh các giới ấy, luôn làm cho giới tăng trưởng như nước sông Hằng. Năm pháp ấy là: 1: Tâm tư. 2:Tâm bi. 3: Tâm hỷ. : Nhẫn nhục. 5: Lòng tin. Nó làm cho người đó có khả năng phá trừ tà kiến sâu dày, tâm không nghi ngờ, đầy đủ chánh niệm, tu tập thanh tịnh, cội gốc cũng thanh tịnh, xa lìa những giác quán xấu.

Này thiện nam! Nếu người nào có khả năng xa lìa năm điều ác, gọi là thọ giới, thì xa lìa được tất cả điều ác của thân, khẩu, ý. Nếu có người náo đó nói, xa lìa năm giới này rồi, cũng có thể thoát khỏi sanh tử, thì nghĩa này không có lý.

Này thiện nam! Nếu người nào muốn vượt biển khổ sanh tử, thì nên chí tâm thọ trì năm giới. Trong năm giới này, có bốn giới đời sau thành vô tác giới, chỉ vì lòng ái nhiễm khó đoạn trừ, nên phải không thành, do nhân duyên trói buộc nơi dâm dục, vậy nên chí tâm, cẩn thận, không buông lung. Nếu có thuyết nói: “Lại có vô lượng pháp rất nặng; chư Phật trong quá khứ, vì nhân duyên gì không ngăn cấm, mà chỉ ngăn cấm không uống rượu?”

Này thiện nam! Do uống rượu, tâm không còn biết hổ thẹn; đối với ba đường dữ không còn biết lo sợ; vì nhân duyên ấy, nên không thọ được bốn giới kia. Do vậy, chư Phật quá khứ ngăn cấm không cho uống rượu. Nếu có thuyết nói: “Như Lai đã nói: Rượu có nhiều tội lỗi, tại sao năm giới không để nó ở phần đầu?” Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì giới không uống rượu là giá trọng, không phải là tánh trọng. Như lai trước chế ra giới tánh trọng, sau chế ra giá trọng.

Này thiện nam! Như Lai trước đã có nói, trong tháng có trăng hay tối trăng đều có ba ngày Trai, là dựa theo ngoại đạo, vì họ thường dùng những ngày ấy, cúng dường các vị trời, nên Như Lai nói có ba ngày Trai. Này thiện nam! Nhờ dây buộc nên màn cửa không rơi, pháp ba ngày Trai cũng vậy. Chúng sanh, nếu phát tâm thọ trì Trai giới, không bao giờ đọa vào ba đường ác.

Này thiện nam! Có người, lúc muốn bố thí, lúc cúng dường Tam Bảo, lúc thì tọa thiền, lúc tu tập thiện pháp, lúc thì đọc kinh cúng dường cha mẹ, lại còn tự lập nguyện: “Nếu ta không làm, phải tự phạt lấy”, thì người này, ngày đêm phước đức tăng trưởng như dòng sông Hằng. Năm giới như vậy có năm phước báo: Quả vô tác. Quả báo. Quả thừa. Quả tạo tác. Quả giải thoát. Nếu có người thọ trì đầy đủ năm giới, nên biết, người này được năm phước báo như vậy. Nếu có vị Ưu-bà-tắc thường đến chùa, đến các Tăng phòng, gần gũi các vị Tỳ-kheo để thưa hỏi giáo lý, chú ý lắng nghe thọ trì, ghi nhớ, không quên, phân biệt ý nghĩa. Lại còn dạy cho chúng sanh, thì người ấy được gọi là Ưu-bà-tắc lợi mình và lợi người. Nếu Ưu-bà-tắc không siêng học tập những lời đã nói trên, xem thường Tỳ-kheo, hoặc vì muốn tìm lỗi lầm mà đến nghe pháp, chớ không có tín tâm, cung kính, phụng thờ ngoại đạo, làm theo công đức của họ, tin vào ngày tháng và các sao hạn; thì Ưu-bà-tắc ấy gọi là không kiên cố, không sống đúng như chánh pháp. Nếu Ưu-bà-tắc tuy không làm năm tội ác, mà dạy người khác làm, thì Ưu-bà-tắc ấy không sống đúng như chánh pháp; nếu Ưu-bà-tắc trước nhận tài vật của người khác hứa sẽ làm xong, mà không làm xong, thì Ưu-bà-tắc ấy sống không đúng chánh pháp; nếu Ưu-bà-tắc đi làm người thâu thuế thương mại; thì Ưu-bà-tắc ấy, sống không đúng với chánh pháp. Nếu Ưu-bàtắc tính giá tiền, rồi mới trị bệnh, trị rồi bán tài vật của người bệnh, thì Ưu-bà-tắc ấy sống không đúng với chánh pháp. Nếu Ưu-bà-tắc làm không đúng với giới luật nhà nước, thì Ưu-bà-tắc ấy, sống không đúng với chánh pháp. Nếu Ưu-bà-tắc tự mình không làm việc ác, không dạy người khác làm việc ác, không nhớ nghĩ việc ác, thì gọi là Ưu-bà-tắc sống đúng với chánh pháp. Nếu Ưu-bà-tắc do phiền não mà tạo các việc, lại không sanh tâm hổ thẹn, sám hối, gọi là Ưu-bà-tắc sống không đúng chánh pháp. Nếu Ưu-bà-tắc vì thân mạng mà tạo các tội ác, thì gọi là Ưu-bà-tắc sống không đúng chánh pháp. Nếu Ưu-bà-tắc đã được thân người làm mà việc phi pháp, thì không gọi là người. Nếu được tín tâm, luôn làm việc phước đức, tu tập chánh niệm, quán tất cả các pháp đều là vô thường, còn không phải ta và không phải của ta, đối với tất cả các pháp tâm không vướng mắc, thấy tất cả các pháp đều không được tự tại, sanh, diệt, khổ, không đều không vắng lặng. Thân người khó được, tuy được thân người nhưng các căn khó đủ, dù đủ các căn khó được chánh kiến, dù được chánh kiến; khó được tín tâm, dù được tín tâm, khó được bạn tốt, dù gặp bạn tốt, khó được nghe chánh pháp, dù được nghe chánh, pháp khó được thọ trì, thường quán được như vậy, mới xứng đáng gọi là người. Nếu người quán dục giới là vô thường, cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng đều vô thường, nhờ nhân duyên ấy, mà không cầu sanh trong ba đường ác, cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, quán như vậy rồi, mới thấy ba cõi không bền chắc; đem thân không bền chắc đổi lấy thân bền chắc, tức là ra sức lễ bái cúng dường, cung kính đưa đón, tự tay bố thí, đích thân làm việc phước, đó gọi là đem thân không kiên cố, đổi lấy thân kiên cố, lấy tài vật không kiên cố đổi lấy tài vật kiên cố, có thể tự đem đồ ăn uống, tiêu dùng làm bố thí, cung cấp cho người bệnh, người ốm yếu, người đi đường. Chí tâm cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo khổ v.v…, đó gọi là đem của cải không bền chắc, đổi lấy của cải chân thật, lấy mạng sống mỏng manh đổi lấy đời sống chơn thường Tu hành lục niệm, Từ, Bi, Hỷ, Xả, chứng được bốn chân đế, sáng suốt soi xét sanh, già, bệnh, chết, tin sâu quả báo của nghiệp thiện ác, biết rõ ân ái sẽ có chia ly,biết tất cả chúng sanh không được tự tại, biết chưa được thánh đạo thì lực sanh tử là rất mạnh, tất cả niềm vui trong đời thường đều có ẩn mầm đau khổ, dù tâm không lãnh thọ, nhưng không vướng mắc, giống như tháng lạnh ,tìm lửa để sưởi ấm, trọn đời không làm ác, tu nhẫn nhục và hai loại bố thí, giúp cho chúng sanh quán sát kỹ khổ vui với tâm bình đẳng, hễ nói điều gì dùng lời dịu dàng, khéo dạy chúng sanh, dạy bảo họ sống đúng với chánh pháp, xa lìa bạn ác, tâm không buông lung, uống rượu, đánh bạc, săn bắn v.v… đều không làm, đó là đem mạng sống không bền chắc đổi lấy mạng sống lâu dài.

Này thiện nam! Nếu được làm thân người, lại được giàu có và tự tại, trước nên cúng dường cha mẹ, sư trưởng, Hoà thượng, người lớn tuổi, người giữ gìn chánh pháp, cung cấp cho người từ xa đến hay người bắt đầu đi, những vật cần dùng, giúp người tàn tật, lời nói dịu dàng, thường hay hổ thẹn, không chỉ kính tin người có đức, hễ thấy có Hiền Thánh giữ giới, đa văn, nên đem thực phẩm ăn uống, nhà cửa, ngoạ cụ, y phục, thuốc men dâng lên cúng dường, tin chắc chúng Tăng có nhiều công đức, tu tập hướng Tu Đà Hoàn để chứng đắc quả Tu Đà Hoàn, cho đến tu tập hướng A La Hán để chứng đắc quả A la Hán, tu tập tam muội Kim cang, tam muội Điện quang. Quán như thế xong, bình đẳng dâng cúng, bố thí như vậy được vô lượng phước, cho nên trong kinh Lộc Tử, Như Lai bảo mẹ Lộc Tử: “Mặc dù thỉnh Phật và năm trăm A La Hán, vẫn không được gọi là thỉnh Tăng phước điền. Nếu có thể ở trong Tăng chúng, bố thí cho vị Tỳ-kheo tương tợ ác, vẫn được công đức. Vì sao? Vì Tỳ-kheo như vậy, tuy là người ác không có trì giới, đa văn, không tu tập pháp thiện, nhưng có thể diễn bày ba thứ Bồ-đề, có nhân có quả, cũng không huỷ báng Phật, Pháp và Tăng, nắm giữ ngọn cờ chánh pháp thù thắng hơn hết của Như Lai, chánh kiến không sai lầm. Nếu cúng dường Tăng, tức là cúng dường Phật và Tăng. Nếu quán công đức vi diệu của Phật Pháp, tức là cúng dường đầy đủ Tam Bảo. Nếu có người, lúc bố thí, không cầu phước báo, tức là cúng dường Bồ-đề Vô thượng, là thành tựu Thí Ba-la-mật, tu đạo Bồ-đề, đời sau được vô lượng công đức, cũng có thể tự lợi và lợi tha. Hoặc có thể tu tập Từ bi, vì muốn phá trừ nỗi khổ của người khác, phải tự bỏ an vui của mình, dù chưa được tâm

Bồ-đề nhưng không u buồn, ăn năn, dù nghe Bồ-đề lâu xa khó được, mà nội tâm ban đầu vẫn không lay động, vì chúng sanh trong nhiều đời, nên có thọ chịu bao nhiêu khổ não, cũng không nhàm chán, thích làm như chánh pháp, không cầu cảnh vui thế tục, ưa ở nơi vắng lặng, xuất gia tu đạo, nếu chưa được xuất gia, tuy còn tại gia vẫn như người giải thoát, không làm việc ác, được ba loại giới: Giới Giới, giới Định, giới Vô lậu.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia, và Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia như pháp tu hành, không cho là khó. Bồ-tát tại gia, như pháp tu hành mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 23: GIỚI BA LA MẬT

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-tát làm thế nào để hướng đến Bồ-đề, tâm được vững chắc?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Bồ-tát muốn được vững chắc phải đủ bốn pháp: 1: Khi chịu nhiều khổ đau quyết không xa lìa hạnh nguyện đúng như pháp. 2: Được đại tự tại thường tu nhẫn nhục. 3: Thân ở nơi nghèo khổ vẫn thường ưa bố thí. : Tuổi còn mạnh khỏe thường ưa xuất gia. Nếu có Bồ-tát nào, đầy đủ bốn pháp như vậy, thì hướng đến quả vị Bồ-đề, tâm được vững chắc. Bồ-tát đã đầy đủ bốn pháp như vậy, lại suy nghĩ: “Nền tảng đầu tiên của đạo Bồ-đề là giới, giới như vậy cũng gọi là địa thứ nhất, cũng gọi là địa đạo, cũng gọi là đạo bình, cũng gọi là đạo đẳng, là đạo từ, là đạo bi, là Phật tích, cũng là cội gốc của tất cả công đức, phước điền”. Do nhân duyên ấy, người trí, nên thọ trì giới, không được huỷ phạm. Lại nữa, người trí nên khởi niệm, giới có hại phước báo: Cảnh vui cõi trời và cảnh vui Bồ-đề. Người trí nên cầu quả vui Bồ-đề, không cầu quả vui cõi trời. Nếu người đã thọ giới rồi, việc không nên làm mà làm, điều không đáng nhớ nghĩ mà nhớ nghĩ, mỏi mệt, biếng nhác, thường ưa ngủ nghỉ, tư tưởng xấu ác, sống theo tà mạng và thệ nguyện ác, ấy là làm nhơ Thánh giới. Nếu đã thọ giới rồi, tâm sanh hối hận, cầu vui cõi trời, lại nhiều buông lung, không có lòng thương xót, ấy là làm nhơ thánh giới. Nếu vì sợ nghèo khổ, hoặc vì khiếp sợ, hoặc vì mất tài vật, hoặc sợ làm người giúp việc, hoặc vì thân mạng, hoặc vì lợi dưỡng, hoặc vì tâm tham ái mà thọ giới cấm, đã thọ giới rồi tâm sanh nghi ngờ, ấy là làm nhơ Thánh giới.

Này thiện nam! Nếu người không muốn ở lâu trong sanh tử, thấy rõ mọi tội lỗi, quán sát cảnh vui cõi Trời, Người và cảnh khổ của địa ngục A tỳ đều bình đẳng không sai khác, thương xót chúng sanh, đầy đủ chánh niệm, vì muốn lợi ích cho vô lượng chúng sanh, khiến được thành đạo, vì muốn được đầy đủ đạo Bồ-đề Vô thượng, vì muốn thực hành đúng như chánh pháp, mà thọ trì giới, tâm không buông lung, thường siêng quán thân, khẩu, ý nghiệp ở đời quá khứ, hiện tại, vị lai, biết tội nhẹ, tội nặng, hễ làm việc gì trước thì rất chú tâm, tu hành không buông lung, việc đang làm hay đã làm cũng vậy, không được buông thả. Nếu trước không biết mà làm là phạm tội, nếu vô ý làm cũng phạm tội, nếu lúc phiền não sanh khởi mà làm cũng bị phạm tội, nếu có ít sự buông lung cũng phạm tội, người này thường quán tội nhẹ như tội nặng, quán rồi sanh tâm hối hận và hổ thẹn, lo sợ u buồn, tâm không được vui, phải chí tâm sám hối, sau khi sám hối tâm sanh vui mừng, gìn giữ cẩn thận, không cho tái phạm, ấy là thanh tịnh giới.

Này thiện nam! Người trí khi thọ giới rồi, nên quán ba việc để không tạo hạnh ác: Vì mình, vì đời, vì pháp. Thế nào là vì mình? Ta tự biết đây là việc ác, biết tạo nghiệp ác sẽ mắc quả báo, biết làm việc lành, sẽ được phước báo, nghiệp ác đã làm không có biến mất, chắc chắn chịu lấy quả báo đau khổ, nghiệp thiện đã làm cũng không biến mất, chắc chắn hưởng lấy phước báo an vui, Nếu hai nghiệp ấy, không có biến mất, ta nay thế nào mà lại dối trá, do nhân duyên đó, ta thọ giới rồi không nên huỷ phạm, mà nên chí tâm giữ gìn, ấy là vì mình. Thế nào là vì đời? Nếu người trí quán thấy mọi người ở đời, có được thanh tịnh thiên nhĩ, thiên nhãn và tha tâm thông, nếu ta làm ác, thì người đó sẽ thấy, nghe và biết ta, nếu thấy, nghe và biết việc làm của ta, tai sao ta không sanh tâm hổ thẹn, mà lại làm ác chứ? Lại quán chư thiên đầy đủ vô lượng phước đức, thần túc, thiên nhĩ, thiên nhãn và đủ tha tâm trí, có thể thấy và nghe xa, dù gần loài người mà người không nhìn thấy, nếu ta làm ác, các vị trời như vậy sẽ thấy, nghe và biết, các vị trời thấy biết rõ ràng về ta, tại sao ta không sanh tâm hổ thẹn, mà bị làm việc ác? Ấy gọi là vì đời. Thế nào là vì pháp? Nếu người có trí quán giáo pháp của Đức Như Lai Thanh tịnh không ô nhiễm, được lợi ích ở hiện tại, có thể làm vắng lặng phiền não, đến bờ giác ngộ và được giải thoát, không chọn vì thời tiết, ta vì pháp ấy nên thọ trì giới, nếu trước ta không thọ giới điều nhỏ, làm sao có thể được thọ giới điều lớn. Nếu phá giới, điều nhỏ sẽ tăng trưởng quả khổ trong năm đường ác, nếu chí tâm giữ gìn, sẽ tăng trưởng an vui vô thượng. Từ khi ta thọ thân từ xưa đến nay chưa chứng đắc giải thoát, thật sự là do không theo chư Phật trong quá khứ thọ trì giới cấm, ta nay thọ giới để về sau nhất định gặp được rất nhiều chư Phật. Quán rõ vậy rồi, lòng rất tha thiết chí tâm thọ giới, đã thọ giới rồi, giữ gìn vững chắc, sẽ được quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, để làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh.

Này thiện nam! Nếu người tại gia hay xuất gia, thọ Tam quy, Tám Trai giới hay năm giới, thọ đầy đủ hay không đầy đủ, thọ một ngày đêm hay một thời, một niệm. Thọ trọn cả đời chí tâm thọ trì, thì nên biết người này được phước đức rất lớn.

Này thiện nam! Nếu thọ giới rồi, tu tập ba nghiệp lành, học rộng nghe nhiều, bố thí, tu thiền định, tu pháp lành, cúng dường Tam Bảo, Như vậy, được gọi là trang nghiêm Bồ-đề. Nếu thọ giới rồi đọc tụng mười hai bộ kinh của Đức Như Lai, ấy là kho tàng đạo pháp trên hết, siêng năng tinh tấn, muốn được đầy đủ giới Ba-la-mật, giới như vậy, đời này đã thọ, dù đời sau không thọ, cũng thành giới vô tác.

Này thiện nam! Có giới mà chẳng phải Ba-la-mật, có Ba-la-mật mà chẳng phải giới, có giới lại vừa có Ba-la-mật; có chẳng phải giới cấm, chẳng phải Ba-la-mật. Có giới mà chẳng phải Ba-la-mật, nghĩa là giới của Thanh-văn, Duyên-giác. Có Ba-la-mật mà chẳng phải Giới, tức là Bố thí Ba-la-mật. Có Giới lại vừa có Ba-la-mật, như thuở xưa khi Bồ-tát thọ thân Cù Đà, bị các trùng thú và các loài kiến ăn, mà thân không lay động, không sanh tâm ác, cũng như tiên nhân vì chúng sanh, nên suốt mười hai năm chim sẻ làm tổ trên đầu mà không đứng dậy cũng không cử động. Chẳng phải Giới chẳng phải Ba-la-mật như việc bố thí của thế gian.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát, lúc an trụ vào giới Ba-la-mật, chịu mọi khổ cực, ai mà nói cho hết. Nếu chỉ thọ mỗi mỗi giới nhỏ, lại ít muốn biết cho đủ, thì không thể thương xót chúng sanh đau khổ, nên biết người này, không thể đầy đủ Giới Ba-la-mật. Nếu tu nhẫn nhục, tam muội, trí tuệ, siêng năng tinh tấn, thích học rộng nghe nhiều, nên biết người này, có thể tăng trưởng Giới Ba-la-mật, trang nghiêm Bồđề, chứng đắc quả vị Bồ-đề. Giới như thế mới làm cho vô lượng chúng sanh được vô lượng phước báo; vô lượng giới cấm như vậy sẽ làm nhân duyên trang nghiêm Bồ-đề.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát đã thọ giới rồi, miệng không nói ác, tai cũng không thích nghe chuyện ác, không thích nói chuyện ngoài đời và tai không thích nghe chuyện ngoài đời, quyết không phóng tâm theo tư tưởng ác và không gần bạn ác, vì thế, được gọi là tịnh giới vắng lặng. Bồ-tát, nếu thấy người nào phá giới, không nên sanh tâm ác, mà phải tìm nhiều phương tiện khôn khéo để điều phục, nếu không điều phục được, nên sanh tâm thương xót, không vì thân mạng phá giới, xả giới. Trong việc ăn uống trước nên hổ thẹn và không buông lung, vì để trị thân mạng như ghẻ lở. Nếu vào làng xóm xem như đi vào rừng đao, gai nhọn, thu nhiếp các căn, tu tập chánh niệm, quán sát việc gì nên làm việc gì không nên làm, không khởi tâm phóng túng. Nếu thấy người làm phước cũng cho là nguyên nhân nơi ta, nếu thấy người làm tội lỗi cũng cho là nguyên nhân nơi ta. Do vậy, lúc ta được cúng dường nhiều, không khởi tâm vui mừng, lúc bị khổ đau không nên buồn giận, được cúng dường ít, thì nên suy nghĩ: Ta nay tín tâm, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, sống như chánh pháp còn yếu kém quá, nên chỉ được cúng dường rất ít như vậy, vì thế không nên buồn khổ, ta phải vì hai việc, mà nhận sự bố thí của người khác: 1. Làm người ta tăng trưởng phước đức. 2. Vì muốn tăng trưởng nghiệp lành cho mình. Cho nên, nếu được ít phẩm vật hay phẩm vật xấu không nên u buồn, phẩm vật rất lâu mới được hay bị chậm trễ mới được, bấy giờ, tự trách thân mình, chính do tội lỗi đời trước của ta, chớ không phải lỗi của chúng sanh, ta nay không nên u buồn. Nếu thọ giới rồi, vì người khác làm tội lỗi, cũng nên nói: Việc làm như vậy, chẳng phải là đạo, vì trong mười hai bộ kinh không nói làm các ác, là vì đạo Bồ-đề! Vì thế, ta nay được phước báo hỗn tạp. Nếu quán sát được thâm sâu như vậy, nên biết, người ấy có đầy đủ Giới Ba-la-mật .

Này thiện nam! Nếu có người, thâu giữ được các căn, bốn oai nghi và không làm ác, có thể chịu được mọi sự khổ cực, không làm tà mạng, nên biết người nầy đầy đủ Giới Ba-la-mật. Đối với giới, dù trọng hay nhẹ, đều phải lo sợ, khi gặp phải chuyện ác, quyết không phạm giới dù rất nhỏ, không để phiền não làm tâm mình nhơ, tu tập nhẫn nhục, nên biết, người này đầy đủ Giới Ba-la-mật. Xa lìa bạn ác, khiến cho chúng sanh lánh xa tà kiến xấu ác, biết ân, báo ân, nên biết, người này đầy đủ Giới Ba-la-mật. Nếu vì việc lành không tham thân mạng, tạm gác việc mình, để thành tựu việc người khác, thấy người khác mắng chửi không sanh tâm ác, nên biết người này đầy đủ Giới Ba-la-mật. Nếu thấy Đức Như Lai có chỗ mở bày, cứ như cũ mà thọ trì, cứu hộ mạng sống chúng sanh, không tham tiếc tài sản, cho đến lúc mạng chung, cũng không phạm một giới nhỏ, dù được tài vật là bảy báu quí giá, tâm cũng không tham lam, không vì sự báo ân, đem pháp thiện đưa đến cho người, vì thương xót chúng sanh nên thọ trì giới cấm. Đã thọ giới rồi, phát nguyện rộng lớn, nguyện cho chúng sanh được giới thanh tịnh, nên biết người này, đã đầy đủ Giới Ba-la-mật .

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia,và Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia, đầy đủ Giới Ba-la-mật không khó. Bồ-tát tại gia, đầy đủ Giới Ba-la-mật mới thật là khó! Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 24: NGHIỆP QUẢ (phần 1)

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Chư Phật Như Lai lúc chưa xuất thế, các vị Bồ-tát lấy gì làm giới?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Lúc Phật chưa xuất thế, khi ấy chưa có giới Tam quy, chỉ có người trí, cầu đạo Bồ-đề, tu mười pháp lành, mười pháp lành ấy, ngoài Phật ra không ai có thể diễn giải hết được. Chư Phật quá khứ đã nói ra và lưu truyền đến ngày hôm nay, người trí thọ trì không bị tổn thất.

Này thiện nam! Chúng sanh không có khả năng thọ trì, tu tập mười pháp lành được, đều là do quá khứ, đã không gần gũi, học hỏi, tôn thờ các Đức Phật.

Này thiện nam! Tất cả chúng sanh đều có tâm tạp loạn, do nhân duyên có tâm tạp loạn, nên có phiền não lẫn lộn, phiền não lẫn lộn nên nghiệp tạo ra cũng xen tạp, do tạo nghiệp xen tạp nên thọ sanh các cõi lẫn lộn, vì nhân duyên các cõi lẫn lộn, nên thọ thân cũng sai khác.

Này thiện nam! Tất cả chúng sanh thọ thân khác nhau, lại thấy hình sắc xen tạp, do thấy các hình sắc xen tạp, mà suy nghĩ điều ác, những suy nghĩ ác này gọi là vô minh, vì nhân duyên vô minh tâm sanh ra sự mong cầu, gọi là ái, do ái mới tạo tác, gọi là nghiệp, do nhân duyên của nghiệp mà chịu quả báo. Người có trí phải biết phá trừ phiền não. Do bên trong có phiền não, bên ngoài có các duyên ràng buộc, nên phải tu tập mười pháp lành rồi, thì mới có thể giải thoát được. Vì thế, Đức Như Lai lúc mới chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, liền thuyết giảng rộng khắp về mười pháp lành, nhờ mười pháp lành, mà thế gian có việc lành việc ác, bạn lành bạn ác, cho đến giải thoát. Do vậy, chúng sanh nên chí tâm phân biệt hiểu rõ đạo mười pháp lành. Ví như phải có gió, mây để duy trì nước. Từ cung điện A-tu-la, trái đất, núi rừng, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, Tứ Thiên vương, cho đến cõi trời Tha hoá tự tại đều nhờ thập thiện nghiệp đạo của chúng sanh, Chuyển luân thánh vương có bốn loại xe: Vàng, bạc, đồng, thiết. Bảy chúng thọ giới cầu mong Tam Bồ-đề cũng nhờ nhân duyên mười nghiệp đạo thiện, nhờ nhân duyên mười nghiệp đạo thiện mà tất cả chúng sanh, sự vật trong ngoài, sắc lực và thân mạng đều có tăng có giảm. Cho nên, người trí phải nên tu tập đầy đủ mười nghiệp đạo thiện.

Nếu chúng sanh, trong khi còn trẻ hay già, qua Xuân, Hạ, Thu, Đông việc sinh khởi phiền não, mỗi mỗi đều khác nhau. Tiểu, Trung, Đại kiếp sinh khởi phiền não cũng như vậy. Chúng sanh lúc mới tu tập mười nghiệp đạo thiện, thọ mạng được đầy đủ vô lượng sắc, hương, vị, nhưng vì tham, sân, si mà tất cả đều mất. Vì nhân duyên của mười nghiệp ác đạo, mà thời tiết, năm, tháng, mặt trăng, mặt trời, sao, đất, nước, gió, lửa đều biến đổi. Nếu người nào quán được như vậy, nên biết người ấy, có khả năng được giải thoát. Chúng sanh do nhân duyên khổ, mà khởi tín tâm, đã được tín tâm rồi, soi xét thiện ác. Quán như vậy rồi, tu mười pháp lành, vì ý phải hành khắp mười cõi, nên gọi là mười đạo. Nơi thân có ba: Sát, Đạo, Dâm. Nơi miệng có bốn: Nói lời hung dữ, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời không có ý nghĩa. Nơi ý có ba: Ganh ghét, giận dữ, nhận biết sai lầm. Đó là mười ác nghiệp, nó là cội gốc của tất cả tội lỗi. Vì chúng sanh thường khác cõi, khác địa phương, khác sự sinh sống, khác màu sắc, khác thọ mạng, do nhân duyên ấy gọi là vô lượng, chứ không chỉ có mười. Mười việc như vậy, có ba, gọi là nghiệp, không gọi là đạo, nơi thân, khẩu có bảy, vừa gọi là nghiệp cũng vừa gọi là đạo, cho nên, gọi chung là mười. Mười nghiệp đạo ấy, tự mình làm, người khác làm, mình và người cùng làm, tùy theo sự tạo nghiệp, mà được hai quả báo lành hay ác, cũng là nhân duyên lành hay ác của chúng sanh. Vì thế, người trí không nên tưởng nhớ, huống gì cố ý làm. Nếu người nào bị các phiền não và các kiết sử tự do sai khiến, tức biết người ấy thực hành mười nghiệp đạo ác. Nếu có người phá trừ phiền não và các kiết sử không cho chúng tự do sai khiến, nên biết người ấy thực hành mười nghiệp đạo lành. Nếu người vừa chuẩn bị làm ác, hoặc trước khi làm ác mà không có suy nghĩ, hay khi bất ngờ làm không có lưu ý, thì người ấy không mắc nghiệp tội báo, chỉ phạm lỗi. Do vậy, người trí nên siêng năng tu tập mười nghiệp đạo lành. Để chứng Tứ thánh đế cũng lại như vậy. Hẹn làm việc ác, nếu lỡ mất kỳ hẹn, cũng không bị tội. Do vậy người trí nên tu tập mười pháp lành. Nhân mười pháp lành ấy, chúng sanh tu tập để được tăng trưởng tuổi thọ và tài vật trong ngoài. Phiền não là nhân duyên cho mười nghiệp ác tăng trưởng, không có phiền não làm nhân duyên nên mười nghiệp thiện sẽ tăng trưởng.

Này thiện nam! Trong mười nghiệp đạo mỗi mỗi nghiệp đều có ba: Căn bản, Phương tiện, Hoàn thành. Căn bản là có ý niệm về người khác hay ý niệm về chúng sanh hoặc tâm nghi ngờ việc giết chết mạng sống, hoặc tự thân hành động hay miệng sai bảo giết, đó là căn bản. Tìm dao mài bén, dùng thuốc độc, đem dây trói, đó là phương tiện. Sau khi thực hiện rồi, tay cầm cân đo lường, hoặc tự mình chiếm giữ, hoặc cho người khác chiếm giữ, được tài vật thì tùy ý đem cho, vui mừng thọ hưởng, không biết hổ thẹn, tâm không hối hận, tự khen mình, sanh lòng kiêu mạn, đó là nghiệp đã thành. Tài vật của người khác phải có ý niệm của người khác. Nếu tự mình đến lấy, hoặc bảo người khác lấy, hoặc tâm nghĩ cách chuyển đi nơi khác, đó là căn bản. Nếu tím cách phá tường vách, thăm dò tính toán, bắt thang leo tường, vào nhà tìm kiếm, cho đến tay chạm vào tài vật, ấy gọi là phương tiện. Nếu được tài vật rồi gánh, vác, tìm cách dấu kín, tùy ý đem cho, tiêu dùng, bán buôn, đổi chác, vui mừng hưởng thọ, không biết hổ thẹn, tâm không hối hận, tự khen mình, sanh lòng kiêu mạn, đó là nghiệp đã thành. Nếu người phụ nữ kia đã thuộc người khác, cũng có ý niệm là của người khác, mà tâm lại nghĩ đến việc không phạm hạnh, đó là căn bản. Nếu bảo người đến, hoặc tự mình thấy, hoặc cho vật làm tin, hoặc đã xúc chạm, hoặc nói lời dịu ngọt, êm tai, đó là phương tiện. Hoặc sự quan hệ đã xong, đem cho chuỗi ngọc, cùng ngồi ăn uống, vui mừng thọ hưởng, không biết hổ thẹn, tâm không hối hận, tự khen mình, sanh lòng kiêu mạn, đó là nghiệp đã thành. Nếu ở giữa đại chúng không đúng với mắt thấy tai nghe, hoặc trong ba thời hay trong hai thời nói lời không đúng sự thật, đó là căn bản. Nếu trước khi nói sắp đặt có căn cứ để dễ tin hoặc nhận lời người này đến nói với người khác, đó là phương tiện. Nếu đã hoàn thành, thọ nhận tài vật, tùy ý đem cho, vui mừng thọ hưởng, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, lại tự khen mình, khởi sanh kiêu mạn, đó là nghiệp đã thành. Trong lời nói dối có xen nói lời hai lưỡi, để phá sự hoà hợp, đó là căn bản. Nếu nói tội người khác và bàn chuyện tốt xấu, cùng nhau nói: “ Hoà hợp là điều không hay, chia rẽ được nhiều việc tốt”, đó là phương tiện. Đã hoà hợp làm cho chia rẽ, nhận tài vật của người khác, tùy ý đem cho, vui mừng thọ hưởng, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, lại tự khen mình, sanh lòng kiêu mạn, đó là nghiệp đã thành. Nếu đổi sắc mặt dùng lời thô ác mắng chửi, đó là căn bản. Hoặc nghe tội người khác trau chuốt thêm bớt, đi đến người này nói xấu chuyện người kia, đó là phương tiện. Hoặc khi chửi mắng rồi, trở về nhận tài vật của người thuê, tùy ý đem cho, vui mừng thọ hưởng, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, lại tự khen mình, sanh lòng kiêu mạn, đó là nghiệp đã thành. Nếu nói chuyện dâm dục không đúng lúc, đó là căn bản. Hoặc ca hát xướng tụng những bài vở không có ý nghĩa, tùy ý theo sở thích của người, làm ra hàng trăm bài văn khêu gợi, đó là phương tiện. Hoặc dạy người khác làm việc phi pháp rồi nhận tài vật của người, tùy ý đem cho, vui mừng thọ hưởng, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, lại tự khen mình, sanh lòng kiêu mạn, đó là nghiệp đã thành. Đối với tài vật của người khác sanh tâm tham muốn, chiếm đoạt, đó là căn bản. Phát khởi ý tưởng không tốt, đó là phương tiện. Được tài vật rồi tùy ý đem cho, vui mừng thọ hưởng, lại đi đến nói với người khác việc mình đã làm, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, tự khen chính mình, sanh lòng kiêu mạn, đó là nghiệp đã thành. Hoặc đánh mắng người, đó là căn bản. Nếu lấy gậy, đá tra khảo tội của người, đó là phương tiện. Đánh xong vui mừng, nhận tài vật của người, tùy ý đem cho, vui mừng thọ hưởng, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, lại tự khen mình, sanh lòng kiêu mạn, đó là nghiệp đã thành. Hoặc chê bai nghiệp nhân quả, giáo lý chân thật và các bậc Thánh Hiền, đó là căn bản. Đọc tụng ghi chép, tin tưởng, lãnh thọ, kinh sách tà kiến, ca ngợi khen hay, đó là phương tiện. Sau khi lãnh thọ rồi đi đến người khác, phân tích diễn giải, tạo thêm sự tà kiến, nhận tài vật của đám tà kiến, tùy ý đem cho, không biết hổ thẹn, không biết hối hận, lại tự khen mình, sanh lòng kiêu mạn, đó là việc đã thành.

Hoặc lại có người đối với mười nghiệp đạo, trong một lúc làm hai việc, nói dối, nói hai lời, trong một lúc làm ba việc: Nói dối, nói hai lời, nói lời thô ác. Hoặc lại có ba việc: Nói tà kiến, nói lời thô ác, nói dối. Những lời nói như vậy, là không có ý nghĩa, tất cả cộng lại thì miệng có bốn nghiệp. Sân hận và tham lam không khởi lên trong một lần, còn tám điều khác có thể khởi lên trong một lúc. Thế nào là trong một lúc? Đó là sáu xứ cùng có sự sai khiến. Nếu tự mình làm thì có hai việc: Dâm vợ người khác. Nói đó là không có nghiệp quả. Trước hứa hẹn sau một thời gian, thành nghiệp quả. Đối với mười ác nghiệp, hoặc chỉ có hành vi biểu lộ mà không có công năng đắc lực trong tâm. Hoặc có hành vi biểu lộ và có công năng đắc lực trong. Nếu không phương tiện và thành nghiệp, chỉ có hành vi biểu lộ mà không có công năng đắc lực bên trong. Nếu có chuẩn bị và đã thành nghiệp, thì có hành vi biểu lộ mà lại có công năng đắc lực trong tâm. Cho nên, mười nghiệp đạo có nặng, có nhẹ, nếu giết cha mẹ và Duyên-giác, hoặc ăn trộm vật Tam Bảo, hoặc đối với cha mẹ đẻ, ni cô đắc quả A la hán mà làm những việc chẳng phạm hạnh; hoặc nói dối, tìm cách phá hoại Tăng chúng, thì đó là nặng.

Này thiện nam! Mười nghiệp đạo đều có ba loại: Từ tham mà sinh khởi. Từ sân hận mà sinh khởi. Từ ngu si mà sinh khởi. Nếu vì tham lợi, mà giết hại sinh mạng, gọi là do tham mà sinh khởi. Nếu vì kẻ thù mà giết, gọi là giận dữ mà sinh khởi. Nếu giết cha mẹ, gọi là do ngu si sinh khởi. Trộm tài vật của người khác cũng có ba loại: Vì mình. Vì vợ con.

Vì quyến thuộc. Tham tài sản của người khác, mà đến cướp đoạt, gọi là do tham mà sinh khởi. Trộm tài vật của kẻ thù, gọi là do giận dữ mà sinh khởi. Cướp đoạt của kẻ hèn hạ, gọi là do si mê mà sinh khởi. Tà dâm cũng có ba loại: 1. Nếu tự mình thích dâm, gọi là do tham mà sinh khởi, 2. Dâm với quyến thuộc của kẻ thù, gọi là do giận hờn mà sinh khởi, 3. Đối với chỗ trực hệ mà hành dâm dục, gọi là do ngu si mà sinh khởi. Nói dối cũng có ba loại: 1. Nếu vì tài lợi, tự hưởng vui sướng, gọi là do tham mà sinh khởi, 2. Vì muốn phá hoại kẻ thù, gọi là do giận dữ mà sinh khởi, 3. Nếu sợ kẻ thù chết, gọi là do ngu si mà sinh khởi. Nói hai lời cũng có ba loại: 1. Vì được tài lợi, gọi là do tham mà sinh khởi, 2. Vì muốn phá oán thù, gọi là do giận dữ mà sinh khởi, 3. Phá hoại sự hoà hợp của kẻ tà kiến, gọi là do ngu si mà sinh khởi. Nói lời thô ác cũng có ba loại: 1. Vì tài lợi mà mắng chửi vợ con, gọi là do tham mà sinh khởi, 2. Đến chỗ kẻ thù nói lời hung ác, gọi là do sân hận mà sinh khởi, 3. Nói tội lỗi tổ tiên của người khác, gọi là ngu si mà sinh khởi. Nói lời không ý nghĩa cũng có ba loại: 1. Vì tiệc tùng vui mừng, ca hát âm điệu du dương, gọi là từ tham mà sinh khởi, 2. Vì muốn hơn người khác nên ca hát du dương, đó gọi là do giận dữ mà sinh khởi, 3. Vì muốn tăng thêm sự nhận thức sai lầm mà ca hát du dương, đó gọi là do ngu si mà sinh khởi. Từ tham mà sinh khởi gọi là ganh ghét, từ giận dữ mà sanh khởi gọi là hung dữ, từ ngu si mà sanh khởi, gọi là tà kiến.

Đã tu mười nghiệp thiện rồi, thì trong mỗi nghiệp, đều có ba sự giải thoát. Trong mười nghiệp ác, chắc chắn sẽ bị quả báo địa ngục, hoặc có người đọa làm ngạ quỷ, hoặc có người đọa làm súc sanh, còn những quả báo khác có thể làm người, nhưng mạng sống rất ngắn, nghèo khổ, vợ không trinh tiết, có nói điều gì mọi người không tin, không có người thân cận, thường bị chê bai, tai không nghe lời tốt đẹp, làm cho ngoại vật đất, nước, gió, lửa suy giảm, không có chân thật, gió bão mưa nhiều, tan rã hư hoại, đất đai gò đống, không có bảy vật quý, có nhiều cát đá, chông gai ghê gớm, thời tiết biến chuyển không có nhất định, hoa quả thiếu kém, mùi vị không ngon. Muốn diệt trừ những điều xấu ấy, phải nên chí tâm tu mười nghiệp lành. Mười nghiệp lành ấy, trong ba châu trên dưới có đủ, hoặc có giới thâu gồm hoặc không có giới thâu gồm. Ở châu Bắc cu lô chỉ có bốn điều, ở địa ngục có năm, ở ngạ quỷ, súc sanh và cõi trời có mười, chẳng thuộc về giới. Dục giới và sáu cõi trời không có phương tiện, chỉ có căn bản và nghiệp đã thành.

Hễ là nghiệp đạo, chỉ trong một niệm đã thành nghiệp quả, như người giết và người bị giết cùng chết một lần, thì không mắc quả báo về căn bản, nếu tính toán, sắp đặt những việc nhưng cuối cùng không thành, thì chỉ mắc quả báo về phương tiện, chớ không mắc quả báo về căn bản, sau khi tính toán xong, liền giết người, thì mắc tội căn bản, nếu như người ấy giết xong không lưu tâm đến, thì nghiệp đã thành, không phải là không có tội. Nếu người giết hại chỉ trong một niệm liền chết, còn người bị giết niệm sau mới chết, thì người giết không mắc tội căn bản. Nếu sai người giết, người được sai mắc tội tạo tác, còn người sai bảo giết, mắc tội vô tác. Nếu dùng lời thô ác ra sắc lệnh cũng mắc tội tạo tác và tội vô tác. Nếu sau khi giết rồi, người có khởi tâm lương thiện và vô ký, cũng mắc tội tạo tác và mắc tội vô tác. Nếu có thuyết nói: “ Quá khứ đã qua, vị lại chưa đến, hiện tại thì không trụ, thế nào gọi là giết? Một niệm không giết hại, hạt bụi không bị hư hoại, hoặc một sinh mạng không giết, thì nhiều cũng không thể giết, thế nào gọi là giết?” Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì mặc dù ở hiện tại một niệm không giết, nhưng có thể ngăn được ở vị lai để không sinh khởi, cho nên gọi là giết. Do nghĩa đó, không thể vì chỉ thấy một chỗ không giết, mà nói tất cả các nơi đều không giết. Có người đâm cánh tay tức thì mạng chung, hoặc có người chặt chân mà vẫn sống, còn cái đầu thì không như vậy, đâm hay chặt đều chết cả. Có người làm rồi bị nhiều tội lớn, đó là nghiệp đạo. Ba nghiệp của ý do chính mình làm mà thành, còn bảy nghiệp của thân và miệng do ta làm và người khác làm thì mới thành. Nếu không tạo tác, thì cũng không vô tác. Hoặc có thuyết nói: “ Ba nghiệp của thân, có tác và vô tác, còn nghiệp của miệng không phải như vậy”. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì miệng có tác và không vô tác, miệng bảo người khác giết rồi chỉ lẽ không có mắc tội, Cho nên, nghiệp của miệng cũng có cả hai, tác và vô tác. Tâm thì không như vậy. Vì Hiền Thánh không mắc tội. Do nhân duyên gì mà gọi là tác và vô tác? Vì nghiệp ấy, đọa trong ba đường ác, nếu sanh trong loài người mạng sống rất ngắn, sáu căn tiếp xúc sáu trần, thường chịu khổ não, quả báo dư thừa dư thừa thì tương tợ, còn quả báo đúng căn bản thì hoặc có tương tợ, hoặc không tương tợ. Khi thọ quả báo ở địa ngục Hoặt, địa ngục Hắc Thằng, ngạ quỷ, súc sanh, hay trong loài người, thì ở ba xứ chịu quả báo thừa. Nếu có chú ý tính toán để giết hại một người, chuẩn bị vừa xong, thì có tới hai người chết, nên biết chỉ căn cứ nơi người, mà người giết chú ý muốn giết, thì mắc hai tội, tác và vô tác. Nếu có thuyết nói: “Sắc là vô ký, mạng sống cũng Vô ký. Vô ký như vậy, tại sao giết rồi, bị mắc tội sát sanh? Nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì thân mạng như vậy, là khí cụ để chứa tâm niệm thiện ác, nếu phá khí cụ này, tức ngăn ngừa căn thiện ác ở đời sau, do vậy mắc tội. Nếu vua bảo giết, kẻ cận thần cho là phải, thì vua và cận thần tội không sai khác. Đi săn bắn cũng thế. Nếu có người gần chết, mạng sống thoi thóp chỉ trong chốc lát, mà lấy dao giết chết cũng mắc tội sát sanh. Nếu đã chết rồi, dùng dao đâm chém, không mắc tội sát sanh. Nếu vì khuôn phép, ý muốn đánh để dạy, mới dơ tay lên, kẻ kia đã chết, thì không mắc tội. Nếu dùng thuốc độc đem cho người có thai uống, nếu thai bị hư, người ấy mắc tội tác và vô tác.Nếu tự mình chết, thì không mắc tội sát sanh. Vì sao? Vì không có ý tưởng người khác, không có tâm giận dữ, không có nhân duyên mình và người khác. Hoặc có thuyết nói: “Nếu tâm trụ nơi thiện, ác hay Vô ký thì đều mắc tội sát sanh”, cũng như lửa và thuốc độc, dù tâm thiện, ác hoặc vô ký, nếu người chạm vào hay uống nhằm, đều chết cả”. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì có người trong thế gian, cầm lửa mà không cháy, uống thuốc độc mà không chết. Giết mà không có tâm ác, cũng như vậy, không mắc tội sát sanh, như các y sĩ. Hoặc có thuyết nói: “ Ông tiên Bà Tẩu đọc chú giết người, giết dê để cúng tế trời, không mắc tội sát sanh. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì cắt đứt mạng sống của kẻ khác, là nhân duyên ngu si, nếu thấy người chết, mà tâm sanh vui mừng, thì nên biết người này mắc tội đã thành. Thấy người khác giết, rồi tâm sanh vui mừng, đem tài vật ra thưởng, tội cũng như vậy. Nếu sai bảo người khác giết, người được sai đi giết, đến nơi dùng mọi hình phạt độc ác mà giết, thì người sai bảo chỉ mắc tội tác, còn người được sai đi giết mắc cả hai tội, tác và vô tác. Nếu tâm ác sinh khởi, cướp đoạt tài vật của người khác, thì người này, cũng mắc tội tác và vô tác. Hoặc thừa lúc tính toán mà lấy, hoặc thừa lúc người ta gởi mà lấy, hoặc thừa cơ hội buôn bán mà lấy, đều bị mắc tội trộm cướp. Nếu tự mình không lấy, không tham, không tiêu dùng, nhưng lại dạy người khác lấy, thì người này cũng mắc tội tác và vô tác. Nếu muốn trộm vàng, mà lấy được bạc, đem ra ngoài phát giác, đem vào trả lại, thì người này không mắc tội trộm cắp. Nếu muốn ăn trộm vàng, lấy được vàng rồi liền suy nghĩ mọi vật đều vô thường, sanh tâm hối hận, muốn đem trả lại, nhưng không dám, bèn lập phương tiện để trả lại chỗ cũ, dù có lấy đi chỗ khác nhưng không mắc tội trộm cắp. Tài vật của chủ và tôi tớ đồng ý để chung, sau vì lòng tham lấy tài sản của chủ, lấy rồi liền sanh nghi, tìm cách chôn dấu, hoặc lại suy nghĩ, vật này là của chung, dù đem đi chỗ khác, không mắc tội trộm cắp. Nếu đi trên đường, bị giặc cướp đoạt, khi về xóm làng, vị thôn trưởng hỏi: “Ngươi mất vật gì ta sẽ bồi thường lại cho”. Nếu nói nhiều hơn vật mà mình đã mất, để lấy vật bồi thường, thì mắc tội trộm cắp. Nếu có người phát tâm bố thí, cho người khác hai áo, người nhận dùm lấy một cái, nói đau cần dùng đến hai cái, rồi đem về cất, thì mắc tội trộm cắp. Nếu có người phát tâm muốn đem nhà cửa, ngoạ cụ, thuốc men, vật cần dùng cúng dường cho một Tỳ-kheo, sau đó nghe có một vị đại đức ở nơi khác đến, rồi giữ lại để cúng dường cho vị đại đức mới đến, thì người ấy mắc tội rộm cắp. Nếu lấy tài vật của một vị Tỳ-kheo đã chết, thì ai mắc tội? Nếu bạch yết ma rồi, thì căn cứ nơi chúng Tăng đã yết ma mà mắc tội. Nếu chưa làm yết ma, thì căn cứ vào chúng Tăng mười phương mà mắc tội, nếu lúc mạng chung, căn cứ vào người nào mà trước khi chết đã hứa cho, nhân đó mà mắc tội. Nếu ăn trộm tài vật của Phật, từ nơi người giữ tháp và nơi nhà vua, thì mắc tội. Nếu những vật bị nước trôi như lúa gạo, dưa quả, y phục và những vật riêng tư khác, có người lượm được, thì không mắc tội. Hoặc không đúng thời, không đúng chỗ, không phải nữ xứ, là vợ của người khác, mà cho là thuộc về mình, đó là tà dâm. Chỉ có ba châu có tội tà dâm, riêng châu Bắc Cu Lô không có. Với súc sanh hay với người phá hoại, người thuộc hàng Tăng chúng, hoặc người bị cầm tù, hoặc người trốn chết, mà vợ của thầy, hoặc người xuất gia, gần gũi những người như vậy, gọi là tà dâm. Người xuất gia không có sự lệ thuộc, thì từ nơi người nào mà mắc tội? Tùy nơi những người thân thuộc hay nhà vua mà mắc tội. Tùy thời xấu ác, loạn lạc mà người tàn bạo cầm quyền. Đó là thời khủng khiếp họ ra lịnh vợ, người hầu xuống tóc xuất gia, rồi trở lại gần gũi, vậy là mắc tội tà dâm. Nếu đụng đến ở ba chỗ của người nữ, thì mắc tội tà dâm. Hoặc mình, người ở bên đường, bên tháp, bên miếu hay bên chỗ đại hội mà làm chuyện dâm dục, bị mắc tội tà dâm. Nếu vì cha mẹ, anh em, nhà vua mà bảo vệ, hoặc trước cùng người hẹn hò, hoặc trước đã hứa với người ta, hoặc trước đã nhận tài vật, hoặc trước được mời mà có hành động chẳng phạm hành thì không sao. Tượng gỗ, tượng đất, tượng vẽ hay thây chết mà hành dâm bên những vật ấy, thì mắc tội tà dâm. Nếu người đã thuộc về chính mình mà tưởng của người khác, đã thuộc của người khác, mà tưởng của mình, cũng gọi là tà dâm. Như vậy tà dâm cũng có tội nặng, nhẹ, từ nơi phiền não sâu nặng thì mắc tội nặng, từ nơi phiền não nhẹ, tức mắc tội nhẹ. Nếu tâm có nghi ngờ hay không nghi ngờ, hoặc có thấy, nghe, hiểu, biết, hoặc có hỏi hay không hỏi, mà nói khác với lời nói gốc, đó là lời nói dối. Hoặc nói khác những điều đã thấy, nghe, hiểu, biết cũng là nói dối, nhưng không gọi là đầy đủ. Nếu phá tướng mà nói, không có che giấu tướng, mà nói đó không phải là nói dối. Nếu nói âm thanh lạ, làm cho người nghe không hiểu cũng gọi là nói dối, nhưng không gọi là đầy đủ. Nếu vì giận dữ, hoặc nói tiếng to không rõ ràng, hoặc những điều mình nói người nghe không hiểu cũng là nói dối, nhưng không gọi là đầy đủ. Nói hai lời hay nói thô ác, có hại hay không hại cho người trước mặt mà hễ nói rồi, thì đều mắc tội. Nói lời không có ý nghĩa cũng đều như vậy. Bảy việc như vậy cũng là đạo cũng là nghiệp, chỉ trừ ba việc là nghiệp mà không phải đạo. Tại sao? Vì tự mình không làm, ngăn ngừa mình và người khỏi mắc tội lớn.

Hoặc có thuyết nói: “Tất cả bụi trần tuần tự an trú và cũng mỗi niệm mỗi niệm hoại diệt rồi thì không còn trụ, nếu như không có trụ, thì làm gì có tác, huống gì có Vô tác.” Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì pháp của thế gian có nhân có quả, không nhân không quả. Ví như đối diện với mặt nước, với tấm kính tức có ảnh tượng xuất hiện, lìa mặt nước, tấm kính không còn ảnh tượng. Tác cũng như vậy, từ thân có tác, do pháp tác tức sinh ra vô tác, như mặt nước, tấm kính có ảnh tượng xuất hiện. Ví như có người khởi tâm xấu ác, tức thì hiện lên sắc mặt xấu ác, khởi tâm tốt, tức thời hiện lên sắc mặt xinh đẹp, tác và vô tác cũng đều như vậy. Hoặc do nghiệp làn, mà được sắc đẹp, hiền hoà, hoặc do nghiệp ác mà bị sắc mặt xấu ác, hung dữ. Tác và vô tác cũng đều như vậy. Nếu cho, mỗi niệm luôn hoại diệt, không có tác và vô tác, như trước đã nói, thì ví như ngọn đèn và dòng sông v.v… tuy mỗi niệm diệt, lấy hai đế lý mà nói tác và Vô tác? Hạt bụi tuy tuần tự không an trú, lại cũng không phá pháp Thế đế, chính do các hạt bụi thứ lớp mà được tên gọi. Cha mẹ, A-la-hán nếu ai cố ý giết thì mắc tội vô lượng. Năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập của cha mẹ, A-la-hán và các người khác đều không khác nhau, sở dĩ mắc tội nặng, vì đó là phước điền và báo ân điền. Như nói hai chữ, thì không nói cùng một lúc, và tất nhiên hai chữ ở đây, quyết cũng không có nghĩa hoà hợp và không thể nói được, mặc dù mỗi niệm tiêu diệt, cũng gọi là nói dối, không phá trừ đạo thế gian, cũng như tên bắn, dù mỗi niệm diệt, nhờ thế lực bụi trần, và nghiệp thân thể tác động, mà mũi tên đến nơi hay không đến nơi, tác và vô tác cũng đều là như vậy. Như xoay vòng tròn lửa, tuy niệm niệm đều diệt, nhưng nơi sức của vi trần đối với thân nghiệp, mà lửa vẫn quay tròn. Khi mới phát sinh tâm khác, lúc chuẩn bị tâm khác, lúc làm tâm khác, lúc nói tâm khác, nhờ các duyên hoà hợp mà gọi là tác, do nhân duyên tác, mà sanh vô tác, như oai nghi khác, tâm cũng khác, không thể hoại diệt được, nên gọi là vô tác. Từ nơi pháp tác đó mà được vô tác, được rồi thì tâm dù duyên vào thiện, vào ác hay vô ký, nhưng những việc đã làm, đều không mất, nên gọi là vô tác. Nếu thân làm thiện, miệng nói không thiện, thì nên biết người này được quả xen tạp. Nếu thân làm thiện, có tác và vô tác, miệng nói ác, chỉ có tác không có vô tác, thì nên biết, người này chỉ được quả lành, không mắc quả báo xấu. Do vậy, trong Kinh có nói bảy loại nghiệp có Tác và Vô tác, ví như người bệnh nặng, phải dùng nhiều loại thuốc hoà hợp lại, để điều trị, nếu chỉ một loại, không thể điều trị được, vì bệnh quá nặng. Tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, có đủ các điều hung ác, nên phải dùng nhiều giới, sau đó mới chế ngự được; nếu chỉ một giới, không thể chuyển hoá được.

KINH ƯU-BÀ-TẮC GIỚI

QUYỂN 7

Phẩm 24: NGHIỆP QUẢ (Phần 2)

Này thiện nam! Chúng sanh tạo tội, gồm có hai loại: Tác giới và Vô giới. Người có giới làm ác, dù có giết một con dê hay không giết, luôn bị mắc tội sát sanh, vì trước có thệ nguyện. Người không có giới, dù miệng nói giết cả ngàn người, nhưng khi giết thì mắc tội, không giết thì không mắc tội; vì trước không phát thệ nguyện. Do vậy, tất cả điều thiện hay ác, tâm là cội gốc, vì nhân nơi cội gốc ấy mà nói. Các Tỳkheo phạm giới, có hai cách: Thân phạm, Miệng phạm. Không có tâm phạm. Giới như vậy, thời gian không đầy đủ, các chi phần không đầy đủ, thì không đắc giới. Thí như lấy dây cọ vào cây lấy lửa, có đồ lấy lửa, có sức, có cỏ mịn khô, thì sau một thời gian có lửa, nếu thiếu một trong những vật trên thì không có lửa. Giới pháp cũng vậy, đắc giới, xả giới, giữ giới, phá giới đều do nơi tâm. Như Lai biết rõ tánh của các pháp cho nên mới chế ra, giới nếu có người suy nghĩ việc lành, không làm điều ác, gọi là như giới pháp. Nếu từ một vị đại đức mà được giới, gọi là thọ giới, nếu xa lìa sự thọ giới, mà vẫn có công đức, thì tất cả cầm thú, sư tử, hổ sói đều được công đức sao? Sự thật thì không bao giờ được. Vì nhân duyên ấy, người thọ giới lành được vô lượng phước đức, người thọ giới ác, bị vô lượng tội lỗi, nên trong kinh nói đến các luật nghi ác là: Nuôi dê. Nuôi gà. Nuôi heo. Câu cá. Chài lưới bắc cá. Giết bò. Ngục tốt. Nuôi chó săn. Làm cung. Làm thợ săn. Chú thuật độc hại rồng. Giết người. Làm giặc cướp. Nói hai lưỡi. Dùng khổ hình: Roi, gậy, xiềng xích, buộc ràng, đinh sắt, đốt lửa để vào da người, quốc vương, đại thần dựa vào nhau lừa gạt, không biết ơn người; người thôn trưởng độc ác, kẻ thu thuế tàn bạo, Tỳ-kheo phá giới tâm không hổ thẹn… Những người như vậy, đều không có giới, dù không gọi là ác nghiệp đạo, nhưng mắc tội lớn, vì trọn đời làm những việc như vậy, không lập nguyện, không thọ giới từ người khác, tức không thành tựu. Giới tà ác như vậy, trong bốn thời phải được xả: Lúc được hai căn. Lúc xả bỏ thân mạng. Lúc thọ giới lành. Lúc đoạn trừ phiền não tham dục.

Hoặc có thuyết nói: “ Giới lành cần phải đầy đủ điều kiện, thì giới tà ác cũng phải như vậy”. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì giới tà ác dễ được, chỉ cần một nhân duyên là được, tức chỉ lập lời thệ nguyện, giới lành thì không phải như vậy, phải có năm phương tiện, nghĩa là có năm căn ( tín, tấn, niệm, định và tuệ), do vậy rất khó, vì khó được, nên phải đầy đủ điều kiện. Hoặc có thuyết nói: “ Giới Ưu-bà-tắc không có nói thêu dệt, hai lưỡi, thô ác. Vì thế giới Ưu-bà-tắc, pháp tám trai giới, Sadi, Tỳ-kheo không được đầy đủ giới thể”. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì ta nay thọ trì khẩu nghiệp thanh tịnh, nếu có người nói: Ta thọ năm giới thân, khẩu, ý trong sạch, mà tâm không trong sạch, thì biết người ấy không được đầy đủ giới thể. Như có người đã thọ giới tà ác rồi, dù không giết hại, người ấy vẫn thường thành tựu giới tà ác. Tỳ-kheo phá giới cũng như vậy, vì thọ giới rồi, mỗi mỗi giới có nhiều hành động, có nhiều kết quả. Chúng sanh thì vô lượng, giới cũng vô lượng. Đã là mọi vật vô lượng, giới cũng vô lượng, giới thiện, ác đều có ba bậc: Thượng, Trung và Hạ. Nếu không thọ giới ác, dù làm nhiều tội lỗi, không gọi là ác giới. Nếu có người chất vấn: “Vì nhân duyên gì mà thọ năm giới thì trọn đời, còn pháp tám trai giới, chỉ một ngày một đêm?” Nên nói Đức Như Lai đã khéo biết tướng của các pháp, thông suốt chẳng bị chướng ngại, nên nói như vậy.

Này thiện nam! Phước điền thế gian, gồm có hai thứ: Công đức phước điền. Báo ân phước điền. Phá hoại hai thứ phước điền này, gọi là tạo tội ngũ nghịch. Tội ngũ nghịch này, có ba nhân duyên: 1: Có tâm hung ác. 2: Không hiểu biết phước đức. 3: Không thấy quả chơn chánh. Nếu người có ý nghĩ khác lạ đi, là giết A-la-hán không mắc tội nghịch, giết cha mẹ cũng vậy! Không biết hổ thẹn, không quán sát sự trả ân, tâm không cung kính, chỉ toan tính sắp đặt, không tạo căn bản; dù không phải tội nghịch, cũng mắc quả báo lớn. Còn như khéo dạy bảo, sanh tâm thương mến, có thể nhẫn chịu, việc khó làm mà cũng làm được, chịu nhận mọi khổ sở; vì thế cha mẹ được gọi là báo ân điền. Nếu lại có người, giết cha mẹ rồi, dù có tu thiện pháp, thì thiện pháp ấy cũng không có phước báo. Cho nên Như Lai nói, các người vào nghỉ trong bóng mát, chỉ trong một thời gian ngắn, phải cẩn thận chớ chặt, bẻ cành lá.

Này thiện nam! Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, có đệ tử nói như thế này: “Nếu do khởi tưởng khác lạ, tên khác lạ mà giết cha mẹ, thì không mắc tội nghịch”, đó là Đàm Vô Đức. Hoặc có thuyết nói: “ Dù do có tưởng khác lạ, giết cha mẹ thì đều mắc tội nghịch”, tức là phái Disa-tắc. Lại có thuyết nói: Tưởng khác lạ, tên gọi khác lạ; giết cha mẹ đều mắc tội nghịch; là phái Tát Bà Đa. Vì sao? Vì thế gian chơn thật, lời đúng nên tin, cha mẹ chân thật, tư tưởng cũng không chuyển đổi; do tâm ác mà giết, tức mắc nghịch tội. Thật là cha mẹ, không có ý tưởng là cha mẹ, không hề khởi tâm ác, cha mẹ dù chết không mắc tội nghịch. Vì sao? Vì phải đầy đủ cả bốn điều kiện, mới mắc tội nghịch: Thật là cha mẹ, tạo tưởng đó là cha mẹ. Tâm ác. Tâm Xả. Khởi tưởng đó là chúng sanh. Đủ bốn điều kiện ấy, nghịch tội mới thành, nếu không đầy đủ, tức không thành. Nếu vì thương xót, nếu vì cung kính, nếu vì thọ pháp, nếu vì sợ hãi, nếu vì tiếng khen, mà trao dụng cụ để giết, dù không tự tay giết, cũng bị tội nghịch. Nếu bị người khác ra lệnh giết cha mẹ, khóc la, buồn rầu mà giết, tội như vậy, khởi đầu, chính giữa và sau khi giết, đều mắc tội nhẹ. Muốn giết cha mẹ, giết lầm người khác, không mắc tội nghịch. Muốn giết người khác, giết lầm cha mẹ, cũng không mắc tội nghịch. Muốn giết mẹ, mà giết lầm người giống mẹ, giết rồi giấu dao, lại trúng thân mẹ, không mắc tội nghịch. Mẹ có cách nhìn khác, con có sự giết khác, chỉ mắc tội sát, không mắc tội nghịch. Tội ngũ nghịch, giết cha là tội nhẹ, giết mẹ tội nặng, giết A-la-hán mắc tội nặng hơn giết mẹ; làm thân Phật chảy máu, mắc tội nặng hơn giết A-la-hán; phá hoà hợp Tăng, mắc tội nặng hơn làm thân Phật chảy máu. Có sự vật nặng, ý tưởng nhẹ; có sự vật nhẹ, ý tưởng nặng; có sự vật nặng, ý tưởng nặng; có sự vật nhẹ, ý tưởng nhẹ. Có sự vật nặng, ý tưởng nhẹ, ví như không có tâm xấu ác, giết cha mẹ. Sự vật nhẹ, ý tưởng nặng, như dùng tâm xấu ác giết loài súc sanh; có sự vật nặng, ý tưởng nặng, như tâm xấu ác giết mẹ đẻ; có sự vật nhẹ, ý tưởng nhẹ, như không chú tâm giết súc sanh. Nghiệp ác như vậy, có sự chuẩn bị, thì năng căn bản và thành nghiệp thì nhẹ; có sự chuẩn bị và căn bản thì nhẹ, đã thành nghiệp thì nặng. Có khi sự chuẩn bị và căn bản thì nặng, đã thành nghiệp thì nhẹ, có khi căn bản thì nhẹ; sự chuẩn bị và đã thành nghiệp thì nặng. Sự vật thì chỉ có một, do tâm lực, nên có quả báo nặng nhẹ.

Này thiện nam! Nếu có người, đem thức ăn cúng dường cho Như Lai; trong khi chưa cúng dường cho Như Lai, lại đem cho chó đói, Như Lai cũng khen ngợi người như vậy cũng là đại thí chủ. Nếu là bậc phước điền, hay không phước điền, tâm không lựa chọn vẫn bố thí như nhau, thì người ấy phước đức vô lượng. Vì sao? Vì tâm người ấy trong sạch. Nghiệp có bốn quả báo: 1: Quả báo ngay trước mặt. 2: Quả báo đời này. 3: Quả báo ở đời sau. 4: Không có quả báo. Nghiệp có bốn hạng: 1: Thời gian nhất định, quả báo không nhất định. 2: Quả báo nhất định, thời gian không nhất định. 3: Thời gian nhất định, quả báo cũng nhất định. 4: Thời gian và quả báo cả hai đều không nhất định. Thời gian nhất định là hiện tai, đời này hay đời sau nữa. Nếu thời gian không nhất định, quả báo không nhất định, thì nghiệp có thể thay đổi. Nếu quả báo nhất định, lẽ ra đời sau thọ nghiệp. Nghiệp này có thể thay đổi, nên có thể thọ báo trong hiện tại. Vì sao? Vì sức nhân duyên của trí tuệ tâm lành. Quả báo xấu ác đã định, nhưng có thể thay đổi thành nhẹ. Do nhân duyên gì mà gọi là quả báo đã định? Thường làm mà không hối hận, chuyên tâm làm, vui mừng làm và lập thệ nguyện, làm rồi vui mừng, vì thế nghiệp đó bị quả báo quyết định, trừ ngoài nghiệp ấy ra đều gọi là không quyết định. Chúng sanh tạo nghiệp có nặng, có nhẹ, có xa, có gần, tùy vào nhân duyên trước, sau phải lãnh thọ. Nếu có người tu Thân, Giới, Tâm, Trí tuệ nhất định biết thiện, ác có quả báo, người này có thể chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ và nghiệp nhẹ thì không bị quả báo. Nếu gặp được bậc phước điền hay thiện tri thức, tu tập đạo lý, pháp lành, thì người này có thể chuyển tội nặng cho đời sau, hiện tại chịu quả báo nhẹ.Nếu người có đủ các nghiệp trong dục giới, khi được quả A na hàm, có thể chuyển nghiệp cho đời sau, chỉ chịu quả báo nhẹ trong đời hiện tại. Quả A-la-hán cũng như vậy.

Này thiện nam! Người trí nếu có thể tu Thân, tu Giới, tu Tâm, tu Tuệ, thì người này có thể phá trừ được nghiệp nặng. Ví như chú A-gìađà và ngọc báu trừ độc có thể phá trừ được chất độc. Nếu tạo tội nhỏ, đầu tiên chuẩn bị nhẹ, về sau đã thành nghiệp lại nặng. Vì người này không tu Thân, tu Giới, tu Tâm, tu Trí tuệ, khiến nhẹ thành nặng. Chúng sanh nếu tạo một nghiệp, hai nghiệp cho đến nhiều nghiệp, có khi tạo mà không đầy đủ, có khi tạo đầy đủ, trước suy nhĩ sau làm, gọi là đầy đủ, trước không suy nghĩ bất ngờ mà làm, gọi là không đầy đủ. Lại có người, làm rồi mà không đầy đủ, nghĩa là tạo nghiệp rồi mà quả báo chưa quyết định. Lại có người làm rồi mà đầy đủ, nghĩa là tạo nghiệp rồi nhất định, được quả báo. Lại có người đã làm rồi, mà không đầy đủ, quả báo tuy đã định, nhưng thời tiết chưa quyết định. Lại có người làm rồi, và đầy đủ, thời quả báo cũng đã quyết định. Lại có người làm rồi, không đầy đủ, do trì giới và chánh kiến. Lại có người làm rồi, cũng đầy đủ, do phá giới, tà kiến. Lại có người làm rồi, mà không đầy đủ là do tin nhân, tin quả. Lại có người làm rồi, đầy đủ, là do không tin nhân quả. Lại có người làm rồi, không đầy đủ vì khi làm ác có những người thiện vây quanh khuyên bảo. Lại có người làm rồi cũng đầy đủ, là do lúc làm ác có người ác vây quanh giúp đỡ. Lại có người làm rồi, mà không đầy đủ, dù làm nhiều điều ác, chỉ thọ báo trong loài người. Lại có người làm rồi, cũng đầy đủ, là do trong khi làm người tạo ác, đến địa ngục thọ báo. Lại có người làm rồi không đầy đủ, do có tâm chánh niệm. Lại có người làm rồi, và đầy đủ là do không có tâm niệm. Lại có người làm rồi không đầy đủ, do trong ba thời, sanh hối hận. Lại có người làm rồi, cũng đầy đủ, do ba thời không hối hận. Những điều ác như thế, thì các điều thiện cũng vậy. Do đã làm rồi, cũng đầy đủ, nên mới có trường hợp làm việc nhỏ mà được phước báo lớn, làm việc lớn mà được phước báo nhỏ.

Từ một ý ban đầu, tạo thành thân, khi thân đã thành tựu, có rất nhiều ý, ý đầu tiên tạo thành thân tức là thiện, thân đã thành tựu, được hai quả, thiện và ác xen nhau. Như trời và ngươì, cũng vậy chúng sanh trong Điạ ngục cũng vậy do ý ác đúc thành thân, thân đã thành rồi, chỉ có một mặt hung ác. Ngạ quỷ, súc sanh cũng do ý ác đúc thành thân, thân đã thành rồi lẫn lộn giữa thiện và ác. Thân trung ấm của thiện và ác do thiện ác thì đúc thành thân đã thành rồi đều được quả báo lẫn lộn giữa ác và thiện. Từ khi mới tượng hình cho đến tuổi già, cũng được quả báo lẫn lộn giữa ác và thiện. Do vậy, trong kinh nói có bốn loại nghiệp: Nghiệp thiện quả báo tốt đẹp, nghiệp xấu quả báo xấu, nghiệp xen tạp quả báo tốt xấu lẫn lộn, nghiệp không thiện không ác, không có quả báo. Nghiệp ác quả báo xấu, tức là địa ngục. Nghiệp thiện quả báo tốt đẹp, tức là cõi trời sắc. Nghiệp xen tạp, quả báo tốt xấu lẫn lộn, tức là trời, người và các loài súc sanh, ngạ quỷ trong cõi dục; nghiệp không thiện không ác, không có quả báo, tức là Vô lậu.

Này thiện nam! Nếu ai không hiểu nhân duyên nghiệp báo như vậy, thì nhiều đời trôi lăn mãi trong biển khổ sanh tử. Vì sao? Vì không hiểu nhân duyên nghiệp báo, thì dù được sinh lên cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, sống tám vạn kiếp, phước đức hết, cũng đọa trở lại trong ba đường khổ.

Này thiện nam! Tất cả những khuôn đúc, đều không ngoài ý nghiệp, ý vẽ ra phiền não, phiền não vẽ ra nghiệp, nghiệp lại vẽ ra thân rồi. Do nhân duyên tham, nên xinh đẹp, tiếng hay, cử chỉ, được chỉnh tề, vì nhân duyên giận dữ mà xấu xí, tiếng nói hung dữ, cử chỉ thô bạo, ngu si cũng như vậy. Vô lượng thế giới, một trăm ba mươi sáu cõi địa ngục, vô lượng ngạ quỷ, súc sanh cũng đều do nghiệp. Hoạt động ở cõi trời, cũng vậy. Vô lượng chúng sanh đạt được giải thoát cũng do nơi nghiệp.

Này thiện nam! Mười nghiệp đạo thiện giúp cho ba việc: Ngăn được phiền não. Làm tâm chơn thiện. Tăng trưởng giới pháp. Ví như thuốc độc cũng có ba loại: Thuốc A già đa. Thần chú. Ngọc quý. Nếu người tu chơn thiện, không có buông lung, đầy đủ chánh niệm, phân biệt thiện ác, nên biết người ấy, nhất định tu được mười thiện nghiệp đạo. Nếu người có nhiều sự buông lung, không biết hổ thẹn, không có tín tâm, nên biết người này, nhất định sẽ làm mười nghiệp ác đạo. Mười nghiệp đạo lại có ba yếu tố: Phương tiện. Căn bản. Đã hoàn thành. Nếu có người siêng năng lễ bái, cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng, người có giới đức, tỏ ý thưa hỏi trước, nói lời dịu dàng, đó gọi là phương tiện. Nếu làm xong lại càng tu niệm, tâm vui mừng, không có hối hận, đó gọi là đã thành. Trong khi làm chuyên chú, đó gọi là căn bản.

Này thiện nam! Mười nghiệp đạo lại có ba bậc Thượng, Trung và Hạ. Phương tiện là bậc thượng, căn bản là bậc trung, đã thành là bậc hạ. Hoặc phương tiện là bậc trung, căn bản là bậc thượng, đã thành là bậc ha. Hoặc phương tiện là bậc hạ, căn bản là bậc thượng, đã thành là bậc trung. Mười nghiệp đạo có ba pháp bao quanh, đó là không tham, sân, si và có tham sân si. Mười nghiệp đạo có cộng giới hạnh và bất cộng giới hạnh. Trong khi xả giới có sáu trường hợp: Lúc đoạn trừ thiện căn. Lúc được hai căn. Lúc chết. Lúc thọ giới tà ác. Lúc xả giới. Lúc bỏ thân nơi dục giới. Hoặc có thuyết nói: Lúc Phật pháp diệt, liền bị mất giới. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì đã thọ giới rồi không mất, chưa thọ giới thì không đắc giới. Đoạn trừ những điều ác của thân khẩu ý, gọi là Giới của giới. Bốn thứ thiền căn bản và bốn thứ thiền chưa đến gọi là Định giới. Bốn thứ thiền căn bản, sơ thiền chưa đến, gọi là Vô lậu giới. Bỏ thân mạng này và nhiều đời sau, không làm ác, gọi là giới Vô tác. Giữ gìn các căn, tâm tu chánh niệm, thấy, nghe, hiểu, biết sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, không có buông lung, gọi là Nhiếp căn giới. Vì nhân duyên gì mà gọi là giới? Giới nghĩa là ngăn ngừa tất cả pháp ác, nên gọi là chế ngự; giới còn gọi là cửa chật hẹp, vì dù có pháp ác, nhưng tánh không dung chứa, nên gọi là chật hẹp. Giới còn gọi thanh lương, vì ngăn được sự nóng bức của phiền não không cho thâm nhập, nên gọi là thanh lương. Giới còn gọi là đi lên, vì nhờ giới mà đi lên các cõi trời, đến đạo vô thượng, nên gọi là đi lên. Giới còn gọi là học, học tập để điều phục tâm, các căn, và trí tuệ nên gọi là học.

Này thiện nam! Có người chỉ đầy đủ một giới, đó là giới Ba-lađề-mộc-xoa. Có người đầy đủ hai giới, là thêm Định cộng giới; hoặc đủ ba giới, là thêm giới Vô lậu, hoặc đủ bốn giới, là thêm giới Nhiếp căn, 662 hoặc đủ năm giới, là thêm giới Vô tác.

Này thiện nam! Giới Ba-la-đề-mộc-xoa hiện tại thực hành được. Định cộng giới trong ba đời đều được.

Này thiện nam! Nếu có người, lúc muốn thọ giới, chí tâm quan sát tội lỗi sanh tử, công đức giải thoát, tín tâm vui mừng, thì người này được cả Tác giới và Vô tác giới. Giới như vậy, sẽ tùy theo mạng sống lâu hay mau, sống lâu thì giới cũng lâu, sống chỉ một thời gian ngắn, thì giới cũng ngắn. Giới Vô tác có ba nhân duyên xả: Ít trau dồi. Tâm buông lung. Giữ không kiên trì. Không xả giới cũng có ba nhân duyên: 1. Có bản nguyện. 2. Tạo sự nghiệp vững chắc. 3. Chí tâm không buông lung.

Này thiện nam! Trừ mười nghiệp thiện, mười nghiệp ác, giới thiện, giới ác, đã có nghiệp rồi mà giới không thâu giữ, nghĩa là pháp thiện và ác. Thiện và ác như vậy có tác và vô tác, có người đủ cả tác và vô tác. Nếu hiện tại làm thiện trong một chốc lác, nhưng chưa xả cũng đủ tác và vô tác. Trong niệm thứ hai thành tựu tác và vô tác ở quá khứ, quá khứ đã tác rồi thì chỉ có vô tác mà không có tác. Nếu có người đắc giới, mặc dù làm ác, thì người này, ở đời hiện tại thành tựu hai pháp: Pháp ác thì có tác; pháp thiện thì Vô tác; Tác và vô tác có hai nhân duyên xả: Tài vật bố thí đã hết. Tâm xả bỏ việc làm thiện. Thành tựu trong hai đời quá khứ và hiện tại, là Vô tác. Định cộng trong ba đời, có hai nhân duyên xả: Lúc thối tâm. Lúc đoạn căn lành. Lại có ba thời: Lúc xả bỏ báo thân. Lúc thối tâm. Lúc sanh lên các cõi trên. Vô lậu giới cũng có ba thời để xả: Lúc thối tâm. Lúc chuyển căn tánh ngu độn thành căn tánh lanh lợi. Lúc được phước báo các cõi trên. Hành động tâm thiện nhất thời đánh mất, là do lúc sanh lên các cõi trên bị thối thất việc lành của thân khẩu ý, khi đoạn trừ căn thiện, nhất thời đều mất tất cả.

Này thiện nam! Nếu người nào đầy đủ Giới, Định cộng giới, giới Vô lậu, giới Nhiếp căn, thì người này thật sự hiểu rõ mười nghiệp đạo.

Này thiện nam! Do mười nghiệp đạo, mà tuổi thọ của chúng sanh có tăng có giảm, khi giảm thì mạng sống chỉ có mười năm, khi tăng thì đến vô lượng. Châu Bắc Cu Lô chỉ định ngàn năm; cõi Ta bà là trăm năm, hai phương Đông và Tây hai trăm năm mươi năm; Ở đay tuổi thọ vô lượng, thì ở các cõi kia tuổi thọ cũng vô lượng. Cõi Tứ Thiên Vương tuổi thọ tính theo cõi người là chín trăm vạn năm, nhưng thọ mạng cũng không nhất định. Như ba thiên hạ, như cõi trời Ba mươi ba, tuổi thọ là một ngàn tám trăm vạn năm, nhưng thọ mạng cũng không nhất định. Tuổi thọ của cõi trời Diệm ma là ba ngàn sáu trăm vạn năm, thọ mạng như vậy cũng không nhất định. Tuổi thọ ở cõi trời Đâu suất là bảy ngàn hai trăm vạn năm, trừ thân sau của Bồ-tát, ngoài ra thọ mạng của tất cả cũng đều không nhất định. Tuổi thọ ở cõi trời Tha hoá là một vạn bốn ngàn bốn trăm vạn năm, thọ mạng vậy, nhưng cũng không nhất định; tuổi thọ ở cõi trời Tha hoá tự tại hai vạn tám ngàn tám trăm vạn năm, thọ mạng vậy, nhưng cũng không nhất định. Một năm trên cõi trời Tha hoá tự tại, tức là một ngày một đêm ở chốn địa ngục nóng, như vậy ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm; tuổi thọ trong địa ngục nóng, với hai vạn tám ngàn tám trăm vạn năm, thọ mạng như vậy cũng không nhất định. Một năm trên cõi trời Tha hoá, tức là một ngày một đêm ở chốn địa ngục Đại thanh, ba mươi ngày như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm, tuổi thọ ở địa ngục Đại thanh, với một vạn bốn ngàn bốn trăm vạn năm, thọ mạng như vậy cũng không nhất định. Một năm ở cõi trời Đâu suất, tức là một ngày một đêm ở chốn địa ngục Tiểu thanh, ba mươi ngày như vậy là một tháng và mười hai tháng là một năm, tuổi thọ ở địa ngục Tiểu thanh với bảy ngàn hai trăm vạn năm, thọ mạng như vậy cũng không nhất định. Một năm ở cõi trời Diệm ma, tức là một ngày một đêm ở địa ngục Chúng hợp, với ba mươi ngày như vậy là một tháng và mười hai tháng là một năm, tuổi thọ ở địa ngục chúng hợp ba ngàn sáu trăm vạn năm, thọ mạng như vậy cũng không nhất định. Một năm ở cõi trời Đao lợi, tức là một ngày một đêm ở chốn địa ngục Hắc thằng, ba mươi ngày như vậy là một tháng và mười hai tháng là một năm, tuổi thọ ở địa ngục Hắc thằng với một ngàn tám trăm vạn năm, thọ mạng như vậy cũng không nhất định. Một năm ở cõi trời Tứ thiên vương, tức là một ngày một đêm ở địa ngục Đẳng hoạt, ba mươi ngày như vậy là một tháng và mười hai tháng là một năm, tuổi thọ ở địa ngục Đẳng hoạt với chín trăm vạn năm, thọ mạng như vậy cũng không nhất định. Tuổi thọ ở địa ngục A tỳ trong một kiếp, tức bằng tuổi thọ trong địa ngục Đại nhiệt nửa kiếp, chỉ có tuổi thọ trong hai địa ngục mới nhất định. Năm mươi năm trong cõingười là một ngày một đêm trong cõi ngạ quỷ, ba mươi ngày như vậy là một tháng và mười hai tháng là một năm, tuổi thọ của ngạ quỷ với một vạn năm ngàn năm, thọ mạng như vậy cũng không nhất định. Trong loài súc sanh, trừ loài rồng Nan Đà và Bà Nan Đà, còn tất cả thọ mạng cũng không nhất định. Một năm trong địa ngục A tỳ, tức là một ngày một đêm ở cõi Phi tưởng phi phi tưởng, ba mươi ngày như vậy là một tháng và mười hai tháng là một năm, tuổi thọ cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng là tám vạn Đại kiếp, cõi

Vô sở hữu là sáu vạn kiếp, cõi thức Vô biên là bốn vạn kiếp, cõi Không 66 vô biên là hai vạn kiếp.

Nếu có người nào, chỉ khởi phiền não nhỏ, ưa thích không định, nên biết người này, sanh lên bốn cõi vô sắc từ mười năm tăng đến tám vạn năm, từ tám vạn năm giảm xuống mười năm, tăng giảm như vậy, đủ mười tám lần, gọi là trung kiếp. Ba tai nạn đói kém, ba tai nạn tật bệnh, một tai nạn đao binh, gọi là một tiểu kiếp. Hỏa tai và thủy tai, mỗi lần qua năm giai đoạn, lại có một phong tai; qua năm phong tai, gọi là một đại kiếp. Trong châu Diêm phù đề lúc phát khởi đao binh, người ở hai phương Đông và Tây tạm thời hết giận dữ; khi châu Diêm phù đề khởi nạn tật bệnh, thì hai châu kia nhức đầu và sức khoẻ suy kém; khi châu Diêm phù đề mất mùa, thì hai châu kia nghĩ đến ăn uống; những điều xấu ác như vậy ở châu Bắc cu lô không có; do không sát sanh, nên tuổi thọ tăng trưởng. Vì nhân duyên trộm cắp nên tuổi thọ suy giảm. Có hai loại kiếp: Thuỷ kiếp. Hoả kiếp. Lúc kiếp lửa sinh khởi, chúng sanh trong địa ngục nếu quả báo đã hết tức được ra khỏi, nếu quả báo chưa hết sẽ chuyển đến địa ngục lớn nơi khác, nếu tám địa ngục lớn trong thế gian này không có chúng sanh, đó là chúng sanh đã thoát khỏi địa ngục. Trong bốn biển lớn có chúng sanh nghiệp đã hết, tức được giải thoát. Nếu nghiệp chưa hết, tức chuyển đến sinh sống ở trong biển khác. Nếu trong biển khác không có chúng sanh, tức được giải thoát. Từ đất Diêm phù đề, thẳng xuống hơn năm trăm do diên, có thành của vua Diêm la, chu vi rộng bảy vạn năm ngàn do diên, chúng sanh, ngạ quỷ trong thành nếu nghiệp đã hết, tức sẽ được ra khỏi, nếu nghiệp chưa hết, sẽ chuyển đến chỗ của vua Diêm la khác, nếu trong thành này chẳng còn một chúng sanh, đó được gọi là giải thoát. Bấy giờ, có một người nhờ nhân duyên ở nội tâm, chứng đắc sơ thiền, được sơ thiền rồi, liền phát khỏi âm thanh lớn xướng: “ Sơ thiền vắng lặng! Sơ thiền vắng lặng!” Các người nghe được đều tự suy nghĩ và tất cả đều được sơ thiền, tức thì xả bỏ thân người sinh lên cõi trời Sơ thiền; lúc ấy trong sơ thiền, lại có một người nhờ nhân duyên nội tâm tu, tập chứng đắc nhị thiền, sau khi chứng đắc liền hô to: “ Nhị thiền vắng lặng! Nhị thiền vắng lặng!”. Chúng sanh nghe được, mỗi người tự suy nghĩ, lại được nhị thiền, xả bỏ sơ thiền sanh lên nhị thiền, chính khi ấy từ địa ngục A tỳ lên đến sơ thiền không còn một chúng sanh ở đó.

Này thiện nam! Ngoài bốn châu thiên hạ có núi Do Càn Đà, trong núi đó có bảy mặt trời, chúng sanh nhờ lực nhân duyên phước đức, nên chỉ hiện ra một mặt trời, nhờ đó thành thục được trăm giống cỏ cây. Lúc kiếp lửa khởi lên, bảy mặt trời này đều xuất hiện, đốt cháy tất cả trăm thứ cỏ cây, sông núi, đại địa, núi chúa tu di cho đến Sơ thiền, Nhị thiền, chúng sanh thấy tai hoạ lửa tâm sanh khiếp sợ. Trong nhị thiền có các vị trời sanh đến trước, nói với các vị trời sanh đến sau: “ Các ông chớ có lo, ta đến đây đã từng thấy hỏa hoạn như vậy, chỉ cháy đến sơ thiền, không đến đây đâu”. Có những chúng sanh tăng tuổi thọ từ mười tuổi đến tám vạn tuổi, hoặc giảm từ tám vạn kiếp còn lại mười năm, trải qua những lúc hoả tai như vậy, sức nóng vẫn còn, lúc ấy từ cõi trời Trung gian thiền mưa lớn trút nước xuống, lại trải qua tuổi thọ một lần tăng một lần giảm nữa, chúng sanh nhờ sức nhân duyên tạo phước đức nên giữ được nước này, sau khi nước dần dần hạ xuống, lại xuất hiện bảy lớp gió mây, khi ấy mưa tạnh, trên mặt nước sanh ra một lớp màng giống như váng sữa, trong bốn châu thiên hạ, núi Tu Di vương bỗng dần dần hiện ra trong nước, có đủ tất cả các loại hạt giống, khi ấy ở cõi nhị thiền lại có một người mạng sống rất ngắn, phước đức đã hết, vì nghiệp lực nên đoạ vào thế gian, thọ vô lượng tuổi, quang minh tự chiếu, ở một mình trải qua rất lâu, tâm sanh sầu não, nên tự nghĩ: “ Ta đã ở đây một mình, nếu ta có phước nguyện có người đến làm bạn với ta”. Nghĩ như vậy xong, khi đó ở cõi nhị thiền có những chúng sanh, do nghiệp duyên mà sanh đến đây, nhưng phước mỏng, thọ mạng đã hết người ấy thấy rồi tâm sanh vui mừng, liền tự suy nghĩ: “ Những người thế này, ta sẽ hoá sanh, tức ta là người sáng tạo, ta đối với người kia có lực tự tại”. Người kia cũng nghĩ: “ Ta từ người kia mà sanh ra, người kia hoá sanh ta, người kia đối với ta có sức tự tại”. Do nhân duyên này, mà tất cả chúng sanh, sanh khởi ngã tưởng, kiến tưởng.

Này thiện nam! Ấm, Giới, Nhập v.v…, ở thế giới chúng sanh, thế giới quốc độ, đều do nhân duyên mười nghiệp này mà có.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia. Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia quán sát mười nghiệp đạo như vậy không khó, Bồ-tát tại gia quán sát mười nghiệp đạo như vậy, mới thật là khó! Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 25: NHẪN NHỤC BA LA MẬT

Thiện Sanh bạch Phật:

Bạch đức thế Tôn! Ở trước Phật đã dạy: Bố thí Ba-la-mật, trì Giới Ba-la-mật, vậy Bồ-tát làm thế nào để tu tập được nhẫn nhục Ba-lamật?

Phật dạy:

Này thiện nam! Nhẫn nhục có hai loại: Nhẫn Thế gian, Nhẫn Xuất thế gian. Có thể chịu được đói khát, nóng lạnh, khổ vui, đó gọi là nhẫn nhục thế gian. Có thể chịu được Tín, Giới, Bố thí, Đa văn, Trí tuệ, Chánh kiến, không lỗi lầm, chịu được Phật pháp, Tăng mọi chỉ trích, đánh đập, nói lời thô ác, làm việc ác, tham, sân, si v.v… đều nhẫn nhịn hết. Nhẫn nhục được cả sự khó nhẫn, làm được những việc khó làm, đó gọi là Nhẫn nhục xuất thế gian.

Này thiện nam! Bồ-tát nếu gặp người đánh đập, khi dể, mạ nhục, dùng lời thô ác mắng chửi, khi ấy, trong tâm Bồ-tát không khởi ý niệm trả thù, Bồ-tát thực hành nhẫn nhục, như vậy, nhưng không vì hiện tại, chỉ muốn lợi ích đời sau, chỉ lấy điều lành báo đáp điều ác, không chống trả điều ác.

Này thiện nam! Cũng có nhẫn chẳng phải Ba-la-mật; có Ba-lamật chẳng phải Nhẫn; có Nhẫn cũng phải Ba-la-mật; chẳng phải Nhẫn cũng chẳng phải Ba-la-mật. Nhẫn nhục mà chẳng phải Ba-la-mật, đó Nhẫn thế gian, là sự thực hành nhẫn nhục của hàng Thanh-văn, Duyêngiác. Có Ba-la-mật chẳng phải Nhẫn nhục, là thiền định Ba-la-mật. Cũng là Nhẫn nhục cũng là Ba-la-mật, nghĩa là bị cắt đầu, mắt, tay, chân mà một niệm sân hận, cũng không có đó là bố thí Ba-la-mật, là Giới Ba-la-mật và bát nhã Ba-la-mật . Chẳng phải Nhẫn nhục, chẳng phải Ba-la-mật, nghĩa là hàng Thanh-văn, Duyên-giác trì giới, bố thí.

Này thiện nam! Nếu ai muốn tu hạnh Nhẫn nhục, trước tiên phải phá trừ tâm kiêu mạn, giận dữ, si mê, không quán sát tướng ta tướng của ta và tướng thường của chủng tánh. Nếu người nào làm được như vậy, thì phải biết người này có thể tu hạnh Nhẫn nhục. Sau khi tu tập được như vậy rồi thì tâm được vui mừng. Người trí, nếu gặp kẻ hung dữ mắng chửi, thì nên suy nghĩ: Những chữ mắng chửi đó không sinh ra cùng một lúc, lúc chữ đầu phát ra, thì chữ sau chưa có, lúc chữ sau có rồi, thì chữ đầu đã mất, nên không cùng một lúc, tại sao gọi là mắng chửi! Chỉ có tiếng của gió, tại sao ta sân hận? Thân ta hiện nay do năm ấm hoà hợp, bốn ấm không hiển hiện, thì không thể mắng chửi. Sắc ấm do mười phần hoà hợp mà có, hoà hợp như vậy, nên niệm niệm không ngừng, nếu không ngừng lại, sẽ phải nên nhận lời mắng chửi? Những lời mắng chửi của người kia, tức là hơi gió, mà gió cũng có hai loại trong và ngoài, ta đối với gió ngoài, đều đã không sân hận, tại sao đối với gió trong thân mà khởi sanh sân hận? Người đời chửi mắng cũng có hai loại: Thật và Không thật. Nếu mắng chửi đúng sự thật, thì nóng giận làm gì, nếu chửi mắng không đúng sự thật, thì họ chửi họ gánh chịu không liên can gì đến ta, vì duyên gì mà ta phải giận. Nếu ta nóng giận là ta tự làm ác, vì sân hận sẽ sanh vào ba đường dữ, nếu ta ở trong ba đường ác ấy chịu khổ cực, tức là tự ta làm tự ta chịu quả báo khổ, do vậy mà nói:“ Tất cả thiện ác đều có nguyên nhân từ thân ta”.

Này thiện nam! Điều kiện sinh ra Nhẫn nhục có năm yếu tố: 1. Người ác gây tai họa đến ta, mà ta không trả thù. 2. Quán tưởng mọi vật đều là vô thường. 3. Tu tập tâm Từ bi. 4. Tâm không buông lung. 5. Đoạn trừ nóng giận.

Này thiện nam! Nếu có người hoàn thành năm yếu tố như vậy, thì nên biết, người này có thể tu hạnh Nhẫn nhục. Nếu có người lời nói dịu dàng, thanh tịnh khẩu nghiệp, thân nghiệp, dáng điệu hoà nhã, sắc mặt vui vẻ, tỏ ý thăm hỏi, quán sát nhân duyên của tất cả khổ vui, nên biết người này có thể tu hạnh Nhẫn nhục. Nếu ai tu được Tam muội Không, quán các chúng sanh đều là vô thường, thọ khổ v.v… Lúc bị mắng chửi, quán người này như kẻ điên cuồng, ngu si, trẻ nhỏ không có trí tuệ, thì nên biết người này có thể tu hạnh Nhẫn nhục. Người trí nên quán. Nếu người hơn ta mắng chửi ta, thì không nên gận, vì ta giận dữ, thì họ sẽ giết ta. Nếu người mắng chửi ta, chẳng bằng ta, ta cũng không nên trả thù, vì chẳng ngang hàng ta, mà ta trả thù tức làm nhục thân khẩu của ta. Ví như người trao thuốc độc cho người khác, mà người đó không trách mắng, người trao thuốc tự uống lấy, thì mọi người chê cười. Ta cũng vậy. Nếu giận dữ họ, vị lai ta sẽ chịu nhiều đau khổ, tất cả Thánh Hiền quở trách ta, do nhân duyên này, thân ta nếu bị chém chặt chia lìa, ta cũng không nóng giận, phải quán sâu nhân duyên của nghiệp đời trước, nên tu Từ bi, thương yêu tất cả, việc nhỏ như thế mà không nhẫn được, thì làm thế nào ta điều phục chúng sanh? Nhẫn nhục là nhân chính của tâm Bồ-đề, và quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, là quả của hạnh Nhẫn nhục. Nếu ta không gieo hạt giống như vậy, làm sao mà thu hoạch quả chơn chánh như vậy.

Này thiện nam! Nếu có người trí, thích tu nhẫn nhục, thì người này thường được dung mạo hiền hoà, sắc mặt vui vẻ, ưa cười đùa, người nào thấy cũng vui mừng, thích nhìn không nhàm chán, đối với người thọ nhận thích giáo hoá, tâm không tham đắm. Người trí, thấy kẻ thù đem điều ác đến, nên phát nguyện lành, nguyện cho kẻ oán thù kia, đời sau làm cha mẹ, anh em thân thích của ta, đừng đối với ta khởi tưởng oán thù. Lại quán sát: Nếu có người thân hình tàn tật, dung mạo xấu xí, các căn không đủ, tài vật thiếu thốn, nên biết, người này đều do nhân duyên sân hận, mà bị quả báo như vậy, ta nay tại sao không tu Nhẫn nhục? Do nhân duyên ấy, người trí phải siêng năng tu tập đức hạnh nhẫn nhục.

Này thiện nam! Bậc đại Bồ-tát, lúc tu Nhẫn nhục, thường thích quán sát tội lỗi sanh tử, thích tu pháp hạnh chuyên cần tinh tấn, đọc tụng, biên chép kinh điển Như Lai, cúng dường sư trưởng và người có đức độ, chăm sóc người bệnh, tu tập Từ bi, thương yêu tất cả, thấy người khổ đau ra tay giúp đỡ, thường thích xuất gia, cho đến trọn đời, giữ gìn giới luật một cách tinh tấn, thâu nhiếp các căn không cho sinh khởi nhân duyên phiền não, thà bỏ thân mạng không có huỷ giới, nếu người có công việc ưa đến giúp đỡ, thường biết hổ thẹn, ưa khen đức nhẫn, điều phục chúng sanh, chịu mọi khổ cực, đối với kẻ oán còn nhẫn được các điều ác của họ, huống là người thân thuộc, có thể chịu được hai loại giận dữ: Chúng sanh giận dữ. Giận dữ không phải của chúng sanh. Xả bỏ niềm vui của mình, để cho mọi người an vui, không nhớ nghĩ điều ác, không quên một điều thiện, xa lìa nói hai lưỡi, trước sau im lặng không nói lỗi của người khác, chỉ nói tội lỗi của phiền não, khiến mọi người được xa lìa; điều mà người khác không vui, thì không nói ra, thanh tịnh thân, khẩu, ý, hiểu rõ các nghiệp, nếu do nhân duyên phiền não tạo tội, lỡ làm rồi phải biết hổ thẹn, sanh tâm hối hận.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia. Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia tu nhẫn nhục thanh tịnh không lấy làm khó, Bồ-tát tại gia, tu nhẫn nhục thanh tịnh, mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 26: TINH TẤN BA LA MẬT

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Bậc đại Bồ-tát tu tập sáu Ba-la-mật, cái gì làm nhân duyên chính?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Nếu có thiện nam, tín nữ nào pháp ác đã sanh thì làm cho nó diệt; pháp ác chưa sanh không cho nó sinh khởi; pháp lành chưa sanh, làm cho nó sanh khởi; pháp lành sanh rồi, làm cho nó tăng trưởng. Siêng năng tu hành tinh tấn, đó gọi là tinh tấn. Tinh tấn như vậy, tức là cái nhân để tu hành đúng đắn sáu Ba-la-mật, siêng năng tinh tấn có thể giải thoát được tất cả phiền não.

Này thiện nam! Nếu chịu được nỗi khổ trong ba đường ác, thì nên biết, người này chân thật tu thiền định Ba-la-mật, tu tập bình đẳng, không vội vàng và không trì hoãn. Tinh tấn có hai thứ: Chánh và Tà. Bồ-tát xa lìa tà tinh tấn rồi, thì tu tập chánh tinh tấn. Tu tín, bố thí, trì giới, đa văn, trí tuệ, Từ bi, gọi là tu chánh tinh tấn. Chí tâm thực hành trong ba thời, không hối hận; đối với pháp lành không bao giờ biết đủ, học cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, tất cả đều gọi là chánh tinh tấn. Bồ-tát dù không tham tiếc thân mạng, nhưng vì hộ trì chánh pháp, nên phải biết thương mến tự thân, bốn oai nghi thường tu như pháp, khi tu pháp lành, tâm không biếng nhác; trong lúc mạng chung giữ đúng chánh pháp, nếu đạt được sáu Ba-la-mật, thì tinh tấn là nhân duyên chính. Nếu tự đọc tụng, ghi chép, suy nghĩ mười hai bộ kinh, ấy là đã vì pháp tự mình siêng năng thực hành hạnh tinh tấn. Nếu đem sự thực hành của mình để giáo hoá chúng sanh, làm cho họ được điều phục, gọi là người khéo thực hành hạnh tinh tấn. Nếu vì Bồ-đề, tu đạo Bồ-đề, Bố thí, Trì giới, Đa văn, Trí tuệ, tu học pháp thế gian, cúng dường cha mẹ, sư trưởng, người có giới đức, tu tập thiền định, giữ gìn giới luật, đọc tụng, ghi chép mười hai bộ kinh, xa lìa tham lam, sân hận, si mê v.v… thì gọi là Bồ-tát siêng năng thực hành hạnh tinh tấn. Thực hành được tất cả như vậy, đều gọi là chánh tinh tấn, đó gọi là nguyên nhân chính của sáu Ba-la-mật.

Này thiện nam! Người biếng nhác không thể một lúc bố thí tất cả, không thể giữ giới, không thể chuyên cần thực hành hạnh tinh tấn, thâu giữ tâm chánh niệm, chịu được điều ác, phân biệt lành dữ, vì vậy, Như Lai nói với sáu Ba-la-mật, tinh tấn là nhân chính.

Này thiện nam! Có người siêng năng tinh tấn mà không phải Bala-mật; có Ba-la-mật không phải tinh tấn; cũng Ba-la-mật cũng tinh tấn; chẳng phải Ba-la-mật chẳng phải tinh tấn. Trường hợp Tinh tấn không phải Ba-la-mật: Như tà tinh tấn, hay tinh tấn cho việc lành, đó là tinh tấn của hàng Thanh-văn, Duyên-giác. Có Ba-la-mật không phải tinh tấn, nghĩa là Bát Nhã Ba-la-mật . Cũng tinh tấn cũng Ba-la-mật, đó là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn thiền định (năm Ba-la-mật). Chẳng phải tinh tấn cũng chẳng phải Ba-la-mật, nghĩa là tất cả phàm phu, Thanh-văn, Duyên-giác tu tập Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định, Trí tuệ và các pháp lành.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia. Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia, siêng năng tu tập tinh tấn không khó, Bồ-tát tại gia, siêng năng tu tập tinh tấn mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 27: THIỀN ĐỊNH BA LA MẬT

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Vị đại Bồ-tát tu thiền Ba-la-mật. Vậy thế nào là Thiền định?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Thiền định tức là Giới, Từ, bi, Hỷ, xả, xa lìa các phiền não, tu tập pháp lành, đó gọi là thiền định.

Này thiện nam! Nếu xa lìa Thiền định, thì các việc thế gian cũng không làm được, huống gì là việc xuất thế gian. Vì vậy phải hết lòng tu tập. Bồ-tát muốn được thiền Ba-la-mật, trước gần gũi các vị thiện tri thức, tu tập Tam muội, các pháp phương tiện. Nghĩa là giữ giới, vì giới thâu giữ được các căn, giới đoạn trừ được tà mạng, giúp ta sống như chánh pháp, vâng theo lời của thầy, đối với các pháp lành không cho là đủ, lúc tu pháp lành, tâm không ngừng nghỉ, thường thích thanh vắng, xa lìa năm Triền Cái, tâm thích tư duy, quán tội lỗi của sanh tử, thường tu pháp lành, chí tâm không bỏ, đầy đủ chánh niệm, diệt trừ buông lung, suy xét lời nói, giảm sự ăn ngủ, thân tâm trong sạch, không gần bạn ác, không giao thiệp với người ác, không thích việc thế gian, biết thời, biết pháp, hiểu rõ bản thân, quán sát kỹ tâm sở pháp, để biết rõ nếu có ý tưởng an vui, sầu não, giận dữ, mềm yếu hay cứng rắn, sau khi biết rõ thì tìm cách diệt trừ, giống như thợ vàng khéo biết nóng lạnh, không để tổn thất, ưa vị cam lồ, tuy ở trong pháp thế gian, nhưng thân tâm không xao động, giống như ngọn núi Tu di không bị gió bốn phương lay động, chánh niệm vững chắc, cũng thấy, biết các pháp Hữu vi có nhiều tội lỗi. Nếu có người thích tu Tam muội như vậy, không ngừng nghỉ, thì nên biết, người này có thể đầy đủ Thiền Ba-la-mật . Ví như kéo dây để lấy lửa, nhờ không ngừng nghỉ, nên mới được lửa.

Này thiện nam! Nếu xa lìa Thiền định, mà muốn được các pháp thế gian và trí tuệ xuất thế gian, thì không thể được. Vì tất cả thiền định là căn bản của tất cả pháp lành, do nhân duyên ấy, nên phải thâu giữ tâm. Như người cầm gương, thấy được tất cả việc thiện ác. Vì vậy, Thiền định gọi là trang nghiêm đạo Bồ-đề, thân tâm thọ nhận sự an lạc, gọi là thiền định, không tăng không giảm, gọi là bình đẳng định. Từ khi bắt đầu quán sát đống xương, cho đến đạt được Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đều gọi là thiền định. Thiền định có bốn yếu tố: Từ sự mong muốn. Từ hạnh tinh tấn. Từ tâm niệm. Từ trí tuệ. Nhờ bốn yếu tố ấy, mà được vô lượng phước đức, tăng trưởng tất cả pháp lành. Hoặc cũng có ba yếu tố: Từ nghe. Từ suy nghĩ. Từ sự tu tập. Từ nơi ba pháp ấy, mà dần dần có sự phát sinh. Hoặc có ba thời: Lúc sinh khởi. Lúc an trú. Lúc tăng trưởng.

Này thiện nam! Trong cõi dục có chủng tử thiền, nhờ chủng tử thiền, mà được ba thứ Bồ-đề. Thiền định như vậy là có thối chuyển, an trú và tăng trưởng. Nếu ở tứ thiền tánh sẽ kiên cố, còn ở sơ thiền cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì cõi trên thù thắng hơn cõi dưới và cứ tuần tự như vậy. Trong căn bản thiền có hỷ lạc, chẳng phải trung gian thiền, sáu thần thông cũng như vậy. Ở nơi căn bản thiền, chứ không phải nơi nào khác. Thiền gọi là Trang nghiêm Bồ-đề. Nhờ có thiền định, mà có thể được Đạo Học và Đạo Vô học, bốn tâm vô lượng, ba môn giải thoát, lợi mình, lợi người, vô lượng thần túc, trí biết tâm kẻ khác, khả năng điều phục chúng sanh, vô lượng trí tuệ, năm trí, thiền định, chuyển tâm trí ngu muội thành tâm trí lanh lợi, đoạn trừ tất cả sanh, già, bệnh và chết thành tựu tất cả các loại trí, thấy tự tánh các pháp như tấm lụa mỏng.

Này thiện nam! Người Trí nên quán sát như thế này: “ Tất cả phiền não là kẻ oán thù lớn của ta”. Vì phiền não, có thể phá hoại ta và người khác, do nhân duyên ấy, ta nên tu tập tâm Từ bi, vì muốn lợi ích các chúng sanh, vì được vô lượng pháp lành. Nếu có thuyết nói: “ Lìa tâm Từ bi mà vẫn được pháp lành”. Điều ấy không đúng. Vì sao? Vì Từ bi có thể đoạn trừ pháp bất thiện, làm cho chúng sanh xa lià khổ đau, hưởng được an vui và có thể phá bỏ được nhân duyên cõi dục. Tâm từ nếu duyên vào cõi dục giới, gọi là từ cõi dục.

Này thiện nam! Chúng sanh nếu có thể tu tập tâm Từ, thì người ấy, sẽ được vô lượng công đức. Nếu muốn tu tập tâm từ, thì trước tiên đối với kẻ thù ban cho họ an vui, đó gọi là tu tâm từ.

Này thiện nam! Tất cả chúng sanh tựu trung gồm có ba hạng: Thù oán. Thân thuộc. Không thù oán, không thân thuộc. Ba hạng như vậy, đều là nhân duyên của tâm từ. Người tu tâm từ, trước đối với người thân, muốn họ được an lạc, quán được thành tựu như vậy rồi, sau mới kẻ oán thù.

Này thiện nam! Lúc khởi tâm từ, có khi nhờ Giới mà sinh khởi, có khi nhờ Bố thí mà sinh khởi, nếu có thể nên xem kẻ oán thù như con của mình, ấy là được tâm Từ.

Này thiện nam! Từ chỉ có che chở mà không thể cứu khổ, còn Bi thì không như vậy, vừa che chở vừa cứu khổ.

Này thiện nam! Nếu xem kẻ thù như đầu một sợi lông, thì không thấy điều ác của họ, nên biết người này tu tập tâm Từ. Nếu có kẻ oán thù, mắc bệnh, tự mình đến thăm hỏi, chăm sóc, chữa trị, giúp đỡ các vật cần dùng, thì nên biết người này tu tâm Từ.

Này thiện nam! Nếu tu Nhẫn nhục, nên biết đó là nhân duyên của sự tu tập tâm tư. Tu tập tâm từ như vậy, tức là tạo nhân duyên cho mọi sự an lạc. Nếu ai có khả năng tu tâm từ, thì biết người ấy có thể phá trừ tất cả nhân duyên kiêu mạn, có thể như pháp thực hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Nếu có người tu thiền định, thì biết người này tu phước đức Phạm thiên. Được thân Phạm thiên, nên gọi là phước đức Phạm thiên. Nếu có người quán tội lỗi sanh tử, công đức Niết Bàn, người ấy, dù dưới chân đạp nhầm phẩn, bụi, ta vẫn nên cung kính đội họ trên đầu. Người đó nhẫn được là điều khó nhẫn, thí điều khó thí, làm điều khó làm. Người đó có thể tu tập Tứ thiền, Tứ không và Tám giải thoát. Hoặc lại cho: “Tất cả chúng sanh do thân, khẩu, ý tạo ra điều ác, đời sau, nếu có chịu quả báo khổ đau, ta đều chịu thế, nếu ta có được phước lành, tất cả chúng sanh sẽ cùng ta thọ hưởng, Từ bi như vậy, nếu cảnh duyên rộng, thì được rộng khắp, nếu cảnh duyên ít, thì được nhỏ hẹp. Từ bi cũng có ba hạng Thượng, Trung và Hạ. Hoặc cũng có ba điều: 1. Do nơi kẻ oán thù. 2. Do nơi người thân. 3. Do nơi người không oán thù cũng không thân thuộc. Hoặc cũng có ba điều: 1. Do nơi tham. 2. Do nơi chúng sanh. 3. Do nơi không phải chúng sanh. Những nhân dyên như vậy đều gọi là Thiền. Tâm Bi, Hỷ, Xả cũng đều như vậy.

Này thiện nam! Có Thiền mà chẳng phải Ba-la-mật; có Ba-lamật mà chẳng phải thiền, cũng vừa thiền cũng vừa Ba-la-mật; chẳng có thiền chẳng có Ba-la-mật. Thiền mà chẳng phải Ba-la-mật là thiền thế tục và các thiền định của Thanh-văn, Duyên-giác. Có Ba-la-mật mà chẳng phải thiền, tức là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn. Cũng là thiền cũng là Ba-la-mật, nghĩa là Kim cang Tam muội. Chẳng phải thiền chẳng phải Ba-la-mật, nghĩa là tất cả chúng sanh, Thanh-văn, Duyên-giác; do nghe và suy nghĩ, mà sanh ra pháp lành.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia. Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia, tu tập thiền đinh thanh tịnh không khó, Bồ-tát tại gia, tu tập thiền định thanh tịnh, mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

 

Phẩm 28: BÁT NHÃ BA LA MẬT

Thiện Sanh bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-tát làm thế nào để tu tập thanh tịnh Bát Nhã Ba-la-mật?

Phật dạy:

– Này thiện nam! Nếu có Bồ-tát trì giới, tinh tấn, đa văn, chánh niệm, tu hạnh nhẫn nhục, thương xót chúng sanh, tâm luôn hổ thẹn, xa lìa sự ganh tỵ, chơn thật, biết rõ các phương tiện tốt, vì chúng sanh mà chịu khổ, tâm không hối hận, ưa làm bố thí, điều phục chúng sanh, khéo biết các tội lỗi nặng nhẹ phạm phải thường khuyên chúng sanh bố thí, làm phước, biết chữ, biết nghĩa, tâm không kiêu mạn, gần gũi bạn lành, vì lợi ích mình và lợi ích người khác, cung kính Tam Bảo, Sư trưởng, Hoà thượng, các vị Trưởng lão và người có đức, đối với tự thân, đối với Bồ-đề không nên khinh thường, quán sát Bồ-tát công đức vi diệu, biết tướng thiện ác, biết tất cả Thanh luận thế gian và xuất thế gian, biết nhân, biết quả, biết rõ phương tiện và cả căn bản. Nên biết người này có thể đạt được trí tuệ. Trí tuệ như vậy, có ba điều kiên: 1. Nhờ Văn mà sanh. 2. Nhờ Tư mà sanh. 3. Nhờ Tu mà sanh. Nhờ chữ mà diễn tả được nghĩa, đó là nhờ Văn mà sinh. Nhờ suy nghĩ mà được nghĩa đó là Tư mà sanh. Nhờ Tu tập mà được nghĩa, đó là Tu mà sanh. Nếu siêng năng đọc tụng mười hai bộ kinh của Như Lai. Đoạn trừ lưới nghi, đọc được tất cả luận của thế gian và việc thế gian, khéo phân biệt được đạo tà hay chánh, đó gọi là trí tuệ; khéo phân biệt mười hai bộ kinh, năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới v.v… nhân quả, chữ nghĩa, tướng trạng của Giới và Thiền định, tướng thượng, trung, hạ, thiện, ác và vô ký, bốn thứ điên đảo, kiến đạo, tu đạo, khéo léo phân biệt các việc như vậy, gọi là trí tuệ.

Này thiện nam! Người trí mong cầu mười lực, bốn vô sở uý, ba niệm đại bi, thường gần gũi chư Phật và đệ tử Phật. Gặp thời không có Phật pháp, vui theo ngoại đạo, xuất gia tu học, tuy ở trong tà đạo, vẫn thích cầu chánh pháp, thường tu tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả và năm phép thần thông, được năm phép thần thông rồi, quán tưởng bất tịnh và tưởng vô thường, có thể thuyết giảng các pháp Hữu vi có nhiều tội lỗi, dùng lời chân chánh dạy bảo chúng sanh, khiến họ học Thanh luận, làm cho thân tâm chúng sanh xa lìa tật bệnh, ưa đem việc đời dạy bảo người khác, xây dựng sự nghiệp không ai hơn mình, nghĩa là chú thuật nhiều thứ thuốc, khéo làm ra tiền của, để sau khi được rồi, có thể sử dụng đúng như đạo lý, bố thí đúng như pháp, dù cho biết tất cả cũng không sanh kiêu mạn, được công đức lớn, không cho là đủ, dạy bảo chúng sanh tín tâm, bố thí, trì giới, đa văn, trí tuệ, khéo biết rõ thiện, ác, vô ký, biết được phương tiện, khéo biết nhân duyên thứ tự của Học hạnh, biết đạo Bồ-đề và sự trang nghiêm của đạo, biết các chúng sanh căn cơ có thượng. Trung, hạ, biết Thanh luận ngoại đạo nhưng tâm không tham đắm, biết chúng sanh để tùy lúc tùy nghi mà điều phục, biết thế giới chúng sanh và thế giới quốc độ, biết đầy đủ sáu Ba-la-mật .

Này thiện nam! Có Trí Tuệ chẳng phải Ba-la-mật; có Ba-la-mật chẳng phải Trí tuệ; cũng có Trí tuệ cũng là Ba-la-mật; chẳng phải Trí tuệ chẳng phải Ba-la-mật. Có Trí tuệ chẳng phải Ba-la-mật, nghĩa là Trí tuệ của tất cả thế gian và Trí tuệ tu hành của hàng Thanh-văn, Duyên-giác. Có Ba-la-mật chẳng phải Trí tuệ, không có nghĩa như vậy. Cũng Trí tuệ cũng Ba-la-mật, nghĩa là có tất cả sáu Ba-la-mật. Chẳng phải Trí tuệ chẳng phải Ba-la-mật, nghĩa là tất cả Thanh-văn, Duyêngiác, Bố thí, Trì giới, Tinh tấn.

Này thiện nam! Nếu người nào có thể siêng năng tu tập sáu Bala-mật như vậy, thì người ấy được gọi là người cúng dường sáu phương, có thể làm tăng trưởng tài sản và tuổi thọ.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Bồ-tát tại gia. Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia, tu tập trí tuệ thanh tịnh không khó. Bồ-tát tại gia, tu tập trí tuệ thanh tịnh mới thật là khó. Vì sao? Vì Bồ-tát tại gia, có nhiều nhân duyên xấu ác ràng buộc.

Lúc Thế Tôn thuyết giảng pháp như vậy rồi, Thiện sanh, con ông trưởng giả, cùng một ngàn Ưu-bà-tắc liền phát tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Sau khi phát tâm rồi, tất cả đứng dậy đảnh lễ Đức Phật và bái tạ ra về.