KINH 108 TÊN CỦA TỲ CÂU CHI BỒ TÁT
Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_Triều Tán Đại Phu Thí Hồng Lô Thiếu Khanh_Truyền Giáo Đại Sư (Kẻ bầy tôi là) PHÁP THIÊN phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
[vc_separator color=”sky” style=”shadow” border_width=”6″ el_width=”60″]
Quy mệnh tất cả Như Lai Ứng Cúng Biến Tri Giác
Nay con nói Nhất Thiết Như Lai Tâm Chân Ngôn này. Nếu có Trời, Người , chúng Trì Minh Tiên quy mệnh cúng dường tất cả chư Phật, thọ trì đọc tụng với khen nói Chân Ngôn sẽ thông đạt Pháp Tướng.
Nếu xưng chữ Án (OṂ) là nghĩa viên mãn
Nếu xưng chữ Nẵng (NA) là nghĩa lìa sự sợ hãi. Cũng gọi là nghĩa phá ma Nếu xưng chữ Sa (SA) là nghĩa hàng phục oan gia chướng ngại Nếu xưng chữ Nễ (NI) là nghĩa phá hoại oán địch. Nếu người sợ hãi dùng sức Chân Ngôn xa lìa sợ hãi Liền nói Đà La Ni là:
Án, bột-lý câu chi, đát chi , phệ đát chi, phệ đát chi, phệ đát chi, thấp-phệ đa nhạ chi nễ, tát-phộc hạ, tát phộc hạ
Ca la du số, nghê-dã năng, bát nột-ma hạt tát-đổ nột-bà phộc, phộc la, ma la đát-la dã, vĩ nẵng xá dã, vĩ bà phộc đát-la vĩ mẫu tả nễ, hồng ca lý, tất đát-lý bà phộc nhạ-phộc lộ ma, ca lỗ ma la, già đa nễ, tát-phộc hạ.
Ca lý noa, bổ sắt-trí-dã tông nhạ ca lý , cữu ma, nẵng xá nam
Nẵng ma khư-dã, bế đa đát-phệ nẵng, bột-lý câu trá-dã sắt-tra thiết đa nễ phệ, vĩ nễ-dụ đa ma
Vĩ nễ-dã đà lý, vĩ nễ-diệm ma la, nễ phộc tất nễ
Vĩ nễ-dã nghê nỉ phộc-dã lỗ bế, thất-lý
Vĩ nễ-dã la nhạ, ba la nhạ đa, a nhạ đa, tăng đát-la, sa đát-la sa nễ, vĩ cậnnẵng, già đa nễ.
Bát nột-mãng nghĩ, bát nột-ma kinh nhạ lê-kế, bát nột-mẫu nột-bà phộc, vĩ xá lê nễ nga lý
Thấp-phệ đa, ma la tinh nga, lỗ bế, tả, tinh nga, kế xá nghĩ nễ, môn tả nhạ
Nhập-phộc la nễ, đát ba nễ lao nại-lý, câu ma lý, vĩ thấp-phộc lỗ bế, nê nga ma lý
Tô một-la đa, thiết đa tác khất-xoa đa, nại đa, nhạ đa, ma tha la
Địa-dã nẵng thức la ma để, bát-la nghê-dã, ngu noa nghê-dã, ngu noa sa nga la, đa la nê, đa la nê
Đát đát-phộc nghê-dã, đát đát-phộc tam bà phộc
Bát nột-ma hạt tát-đổ nột-bà phộc dã, la đà ca
Vĩ la phộc lỗ đa ma, phộc la na, phộc la , tam bố la noa
Na xá phổ di, bát-la để sắt-xỉ đa, nga lý-nhạ đa, minh già, tăng ca xá, vĩ nễdụ đế nhạ ca, tam bà phộc.
Mao nhạ nhạ trí, nhạ tra đà lý
Một-la hám ma, vĩ nễ-dã đà lý
Phộc la, đà la nê, đà la nê, đà đế
Na nẵng vĩ nễ-dã, ba la cật-la ma
Tát đổ lý-phổ nhạ, tạt đổ lý-năng sắt-tra-la, phổ nhạ , sa hạ tát-la , ba la nhạ đa
Tát đổ lý-phộc cật-đát-la nê ca, phộc cật-đát-la, tả
Phộc cật-đát-la, lạc khất-xoa, ba la nhạ đa, đát-lý nễ đát-la, vĩ phộc-dã nễ đát-la, tả
Tát bát-đa lạc khất-xoa, lý-ca lộ tả nẵng, bán tả lộ tả nẵng, tam bố la-noa
Sa tra-tỳ nghê-dã, nghê-dã nẵng, lộ tả nẵng, a bát-la ma noa, bát-la ma noa, tả
Tế-dụ ma ba đa la bố la nê, tốc khất-xoa-ma, la-tha, vĩ-dược cật-đa, nghiễm tỳ la vĩ nễ-dã, na nễ thấp-phộc lý.
Ba la a nghĩ-nễ, kế thi nỉ xá nhạ phộc lê, sa hạ tát-la lý tức lý
Nhạ-phộc lê đa nẵng để phộc hạ-nễ, nhập-phộc lạc gia tán đa bế
Nhạ-phộc lê đăng nghĩ sa ca, mạn noa lộ khư lăng-nga, thước cật-để đà la, bá xá.
Cật-lý sắt-noa nhạ nẵng, nễ phộc tỷ nễ, ác khất-xoa tố đát-la đà la
Vĩ nễ-dã nan noa, bát nột-mãng câu thi, sa la tát-pha-la, ngật-lý hứ đa
Sa-đát-la mục ca nhạ-phộc la, bát-la nỉ ba nễ na hạ nẵng
Ma la vĩ cận-nẵng đa, bát-la nhạ-phộc la đế, đát-lý du lê nễ, la nhạ đăng nhạ dã, nhạ dã để
Phộc thấp-phệ đa, bát nột-mãng nga ma lê nễ ca di nễ ca di
Nễ ca ma lỗ bế tả, tất địa tất địa, phộc la bát-la na
Vĩ bố sử đa, lăng cật-lý đăng nghĩ tả
Nễ lý-phổ sái noa, tô phổ sái noa, bộ đa ma đa vĩ xá, lạc khất-sử
Bát nột-ma kế sa la, ma lê nễ, phổ di nễ
Phộc nhật-la tam tỳ nỉ, tác cật-la, nhạ-phộc lộ lạc ca, bá đa nễ
Tát đạt lý ma đà la nê, mỗi đát-la, sa vĩ-dựng đát-lý
Một đà, ma đa tả hiến đà lý, nại la di nê, tán nê
Xá phộc lý, xá phộc lý, mẫu nễ, sa hạ tát-la yết lý-ma, ma hạ du nghệ yết lýma, tất đà đát-lý
Vĩ cật-la ma, bát-la san nẵng, mẫu già bá xá tả, ca lỗ noa tát đát-phộc, phộc tha la nhạ, nga để
Đà đát-lý tam bán nẵng nễ lý-phộc nê, tô bát-la để sắt-đá đa, tát-phộc hạ.
Nhất Bách Bát Danh Bí Mật Chân Ngôn này. Nếu có người một lòng thọ trì, đọc tụng. Hoặc tự viết chép hoặc vì người giải nói sẽ tăng Thọ, tốt lành, Phước tướng đoan chính, mọi người yêu kính, xa lìa cảnh Ma, ra khỏi nạn sinh tử, được Trời, Người, A Tu La cung kính cúng dường. Lại được hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Nga Lỗ Noa…chúng Trì Minh Tiên tôn trọng khen ngợi. Hết thảy gông cùm , xiềng xích, cấm trói..tự nhiên giải thoát.Sư Tử, cọp, sói, các Quỷ đói ác, oan gia, trộm cướp…chẳng thể bức hại. Gió bạo ác, lửa mạnh, sấm sét, mưa đá, sông, biển, thuyền trôi nổi, thuốc độc, bệnh nặng… chẳng thể xâm lấn gây tổn hại
Nếu có người niệm tên của Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭi) thời Bồ Tát luôn luôn cứu giúp. Hết thảy các Ma ác, oan gia đến gây bức não..lúc ấy Bồ Tát ngầm phóng ánh sáng của thân chiếu khắp hư không như trăm ngàn mặt trời. Ánh sáng ấy đẹp rực rỡ dứt hết Ma oan cho đến trời đất thảy đều thanh tịnh. Lại khiến người ấy tăng trưởng Trí Tuệ, ở trong bảy đời được Túc Mệnh Thông, sinh trong giòng Sát Đế Lợi, làm thân quốc vương. Từ đây, khi mệnh chung sinh về Thế Giới Cực Lạc ở phương Tây.
KINH 108 TÊN CỦA TỲ CÂU CHI BỒ TÁT
_Hết_
Hiệu chỉnh xong vào ngày 16/03/2013