KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH
_QUYỂN THỨ BẢY_
Hán dịch: Đại Đường Tam Tạng Sa Môn NGHĨA TỊNH phụng chế dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

VÔ NHIỄM TRƯỚC ĐÀ LA NI _PHẨM THỨ MƯỜI BA_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Cụ Thọ Xá Lợi Tử (Śāriputra): “Nay có Pháp Môn tên là Vô Nhiễm Trước Đà La Ni, là Pháp mà các Bồ Tát đã tu hành, nơi mà Bồ Tát quá khứ đã thọ trì, là mẹ của Bồ Tát”  

Nói lời này xong, Cụ Thọ Xá Lợi Tử bạc Phật rằng: “Thế Tôn! Đà La Ni (Dhāraṇī) là nghĩa của câu nào? Thế Tôn! Đà La Ni chẳng phải là phương xứ (địa phương, nơi chốn), chẳng phải chẳng phải là phương xứ”

Nói lời này xong. Đức Phật bảo Xá Lợi Tử: “Lành thay! Lành thay Xá Lợi Tử! Ông đối với Đại Thừa đã hay phát khởi, tin hiểu Đại Thừa, tôn trọng Đại Thừa. Như ông đã nói Đà La Ni chẳng phải là phương xứ, chẳng phải chẳng phải là phương xứ; chẳng phải là Pháp, chẳng phải chẳng phải là Pháp; chẳng phải là quá khứ, chẳng phải là vị lai, chẳng phải là hiện tại, chẳng phải là sự việc, chẳng phải chẳng phải là sự việc, chẳng phải là Duyên, chẳng phải chẳng phải là Duyên; chẳng phải là Hành, chẳng phải chẳng phải là Hành; không có Pháp sinh cũng không có Pháp diệt. Song, vì lợi ích các Bồ Tát cho nên nói như vậy. Nơi Đà La Ni này an lập công dụng, Chính Đạo, Lý Thú, thế lực tức là Công Đức của chư Phật, Cầm Giới của chư Phật, Sở Học của chư Phật, ý kín đáo của chư

Phật, nơi sinh của chư Phật. Cho nên  gọi là Vô Nhiễm Trước Đà La Ni, Pháp Môn tối diệu” 

Nói lời này xong. Xá Lợi Tử bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nguyện xin đấng Thiện Thệ (Sugata) vì con nói Pháp Đà La Ni này. Nếu các Bồ Tát hay an trụ, đối với Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi) chẳng thoái lùi nữa, thành tựu Chính Nguyện, được Vô Sở Y (chẳng nương dựa vào sự lợi dưỡng cung kính), Tự Tính biện tài, được việc hiếm có, an trụ Thánh Đạo (Ārya-mārga) đều do được Đà La Ni này”

Đức Phật bảo Xá Lợi Tử: “Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như ông đã nói, nếu có Bồ Tát được Đà La Ni này thì nên biết người này cùng với Đức Phật không có khác nhau. Nếu có cúng dường, tôn trọng, thừa sự, cung cấp cho Bồ Tát này tức là cúng dường Đức Phật.

Này Xá Lợi Tử! Nếu có người khác nghe Đà La Ni này, thọ trì, đọc tụng, sinh Tín Giải (Adhimukti: y theo lời nói mà được sự hiểu biết thù thắng) thì cũng nên như vậy: cung kính, cúng dường cùng với Phật không có khác. Do nhân duyên này được Quả vô thượng”

Lúc đó, Đức Thế Tôn liền diễn nói Đà La Ni là:

Đát điệt tha: san đà lạt nễ, ốt đa lạt nễ, tô tam bát la để sắt sỉ đá, tô na ma, tô bát lạt để sắt sỉ đá, tỳ thệ dã bạt la, tát để dã, bát lạt để thận nhược, tô a lô ha, thận nhược na, mạt để, ốt ba đạn nễ, a phạt na mạt để, a tỳ sư đạn nễ, a tỳ  tỳ da ha la, du bà phạt để, tô ni thất lợi đa, bạc hổ quận xã, a tì bà đà, toa ha

*)TADYATHĀ:      SANDHĀRAṆĪ  UT-DHĀRAṆĪ    U-SAṂPRATIṢṬHITA  SU-NĀMA  SU-PRATIṢṬHITA  VIJAYA-BALASATYA  PRATIJÑĀ  SU-ARUHA    JÑĀNA-MATI  UTPADĀNE  AVANAMATI  ABHISIṂCANI  ABHI-VYĀHARA  ŚUBHA-VATI  SU-NIŚRITA

BAHU-GUṆYA  ABHIPADA  SVĀHĀ

Đức Phật bảo Xá Lợi Tử: “Câu Vô Nhiễm Trước Đà La Ni này. Nếu có Bồ Tát hay khéo an trụ, hay thọ trì chính đúng thì nên biết người này hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp đã phát Chính Nguyện không có cùng tận. Thân cũng chẳng bị đao, gậy, thuốc độc, nước, lửa, mãnh thú gây tổn hại. Tại sao thế? Xá Lợi Tử! Vì Vô Nhiễm Trước Đà La Ni này là mẹ của chư Phật quá khứ, mẹ của chư Phật vị lai, mẹ của chư Phật hiện tại.

Này Xá Lợi Tử! Nếu lại có người đem bảy báu tràn đầy trong mười a tăng xí gia ba ngàn Đại Thiên Thế Giới phụng thí chư Phật, với đem quần áo, thức ăn uống thượng diệu, mọi loại cúng dường trải qua vô số kiếp. Nếu lại có người đối với Đà La Ni này cho đến một câu mà hay thọ trì thì Phước đã sinh, nhiều hơn người kia gấp bội. Tại sao thế? Xá Lợi Tử! Vì Vô Nhiễm Trước Đà La Ni này là Pháp Môn thâm sâu, là mẹ của chư Phật vậy”

Thời Cụ Thọ Xá Lợi Tử với các Đại Chúng nghe Pháp này xong, đều rất vui vẻ, đều nguyện thọ trì.

 


Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh

NHƯ Ý BẢO CHÂU _PHẨM THỨ MƯỜI BỐN_

 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trong Đại Chúng bảo A Nan Đà (Ānanda) rằng: “Các ngươi nên biết có Đà La Ni tên là Như Ý Bảo Châu (Cintā-maṇi) xa lìa tất cả tai ách, cũng hay chận đứng các sấm sét ác, là điều mà Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác quá khứ đã cùng nhau tuyên nói. Ta ở thời này, ở trong Kinh này cũng vì Đại Chúng các ngươi tuyên nói, làm lợi ích lớn cho người, Trời, thương xót Thế Gian, ủng hộ tất cả khiến được an vui”

Thời các Đại Chúng với A Nan Đà nghe Đức Phật nói xong, mỗi mỗi đều chí thành chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, nghe nhận Thần Chú.

Đức Phật nói: “Các ngươi hãy nghe cho kỹ! Ở phương Đông này có Quang Minh Điện Vương tên là A Yết Đa (Agate), phương Nam có Quang Minh Điện Vương tên là Thiết Đê Lỗ (Satadru), phương Tây có Quang Minh Điện Vương tên là Chủ Đa Quang (Cyutaprabha), phương Bắc có Quang Minh Điện Vương tên là Tô Đa Mạt Ni (Sutamaṇi). Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện được nghe tên gọi của Điện Vương như vậy với biết phương xứ thì người này tức liền xa lìa tất cả sự sợ hãi với các tai vạ thảy đều tiêu hết. Nếu ở nơi cư ngụ, viết tên của Điện Vương ở bốn phương này thì ở chỗ cư trú không có sợ sấm sét, cũng không có tai ách với các chướng não, thảy đều xa lìa cái chết oan uổng chẳng đúng thời”

Lúc đó, Đức Thế Tôn liền nói Chú là:

Đát điệt tha: nễ nhĩ nễ nhĩ nễ nhĩ, ni dân đạt lý, trất lý lô ca, lô yết nễ, trất lý du la ba nễ, hạt lạc xoa, hạt lạc xoa. Tôi (tên là….) với nơi cư trú này: Tất cả điều đáng sợ, hết thảy khổ não, sấm chớp, sét đánh cho đến cái chết oan uổng… thảy đều xa lìa_ toa ha

*)TADYATHĀ: NIMI  NIMI NIMI   NIMINDRE   TRAILOKALOKANI    TRI-ŚŪLA-PĀṆI   RAKṢA   RAKṢA   MĀṂ _ SARVA  VIDYUDBHAYEBHYAḤ   SVĀHĀ

Bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (Avalokiteśvara) ở trong Đại Chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, chắp tay cung kính, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay con cũng ở trước mặt Đức Phật lược nói Như Ý Bảo Châu Thần Chú làm lợi ích lớn cho các người, Trời, thương xót Thế Gian, ủng hộ tất cả khiến được an vui, có uy lực lớn, điều mong cầu được như ý”  Liền nói Chú là:

Đát điệt tha: hát đế, tỳ hát đế, nễ hát đế, bát lạt thất thể kê, bát lạt để mật trất lệ, thú đề, mục đê, tỳ mạt lệ, bát lạt bà bà lệ, an trà lệ, bát trà lệ, thuế đế, bát trà la bà tử nễ, hát lệ, yết trà lệ, kiếp tất lệ, băng yết la, ác ỷ, đạt địa mục xí, hạt lạc xoa, hạt lạc xoa. Tôi (tên là….) với nơi cư trú này: Tất cả điều đáng sợ, hết thảy khổ não, cho đến cái chết oan uổng… thảy đều xa lìa. Nguyện cho tôi đừng thấy việc của tội ác, thường nương theo nơi mà đại uy quang của Đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát đã hộ niệm_toa ha

*)TADYATHĀ: KAṬE  VIKAṬE  NIKAṬE  PRATYARṬHIKE   PRATYA-MITRE   ŚUDDHE  MUKTE  VIMALE  PRABHĀSVARE

AṆḌARI  PAṆḌARI  ŚVETE  PĀṆḌARAVĀSINI   KARE  KAṆḌALE , KAPILA  PIṄGALĀKṢI    DADHI-MOKṢI, RAKṢA  RAKṢA  MĀṂ _

SARVA  AKĀLA-MṚTYU-BHAYEBHYAḤ   MĀ  ME  PAŚYAṂTU   SARVA  AKĀLA-MṚTYA   VA  _  ĀRYA  AVALOKITEŚVARA  TEJA   SVĀHĀ

Khi ấy, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát (Vajra-dhāra-guhyādhipati) liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay con cũng nói Đà La Ni Chú tên là Vô Thắng làm lợi ích lớn cho các người, Trời, thương xót Thế Gian, ủng hộ tất cả khiến được an vui, có uy lực lớn, điều mong cầu được như ý”  Liền nói Chú là:

Đát điệt tha: mẫu nễ mẫu nễ, mẫu ni lệ, mạt để, mạt để, tô mạt để, mạc ha mạt để, ha ha ha ma bà dĩ na tất để đế, ba bả bạt chiết la ba nễ, ác điềm, điệt lật trà, toa ha”…

*)TADYATHĀ: MUṆI  MUṆI MUṆINDHĀRE, MATI  MATI,

SUMATI  MAHĀ-MATI, HĀ  HĀ  HĀ, MAITRA  INAṢṬHITE  PĀPAṂ

VAJRA-PĀṆI AHAṂ DṚḌHA    SVĀHĀ

Thế Tôn! Thần Chú này của con tên là Vô Thắng Ủng Hộ. Nếu có nam nữ một lòng thọ trì, viết chép, đọc tụng, nghĩ nhớ chẳng quên thì con ở ngày đêm thường hộ giúp người này, thảy đều xa lìa tất cả sự đáng sợ cho đến cái chết oan uổng”

Lúc đó, Sách Ha Thế Giới Chủ Đại Phạm Thiên Vương (Sāhaṃpati) liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay con cũng có Đà La Ni Vi Diệu Pháp Môn làm lợi ích lớn cho các người, Trời, thương xót Thế Gian, ủng hộ tất cả khiến được an vui, có uy lực lớn, điều mong cầu được như ý”

Liền nói Chú là:

Đát điệt tha: hề lý, nhĩ lý, địa lý, toa ha. Bạt la điềm ma bố lệ, bạt la điềm ma mạt nê, bạt la điềm ma yết tỳ, bổ sáp bả, tăng tất đát lệ, toa ha

*)TADYATHĀ: HILI  MILI  KILI   SVĀHĀ _ BRAHMA-PURE,

MAHĀ-BRAHMAṆI, BRAHMA-GARBHE  PUṢPA    SAṂSTHIRE  SVĀHĀ

Thế Tôn! Thần Chú này của con tên là Phạm Trị, đều hay ủng hộ người trì Chú này khiến lìa lo lắng bực bội với các nghiệp tội cho đến cái chết oan uổng thảy đều xa lìa”

Bấy giờ, Đế Thích Thiên Chủ (Indra) liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con cũng có Đà La Ni tên là Bạt Chiết La Phiến Nễ (Vajrāsāni). Đại Minh Chú này hay trừ tất cả sự khủng bố, ách nạn cho đến cái chết oan uổng thảy đều xa lìa, nhổ bứt nỗi khổ, ban cho niềm vui, lợi ích cho người Trời”

Liền nói Chú là:

Đát điệt tha: Tỳ nễ bà lạt nễ, bạn đà, ma đạn trệ, ma nị nễ trí nhĩ, cồ lý, kiện đà lý, chiên trà lý, ma đăng kỳ, bốc yết tử, tát la bạt hiệt tỳ, hứ na mạt đê đáp ma, ố đa lạt nễ, mạc hô lạt nễ, đạt lạt nễ kế, chước yết la bà chỉ, xả phạt lý, xa phạt lý, toa ha 

*)TADYATHĀ:  VI-NIVĀRAṆI   VANDHAM-ADAṆḌE

MAṆINEṬINI   GAURI  GANDHARI _ CAṆḌALI  MATAṄGI  PUKKASI

SARA-PRABHE  HĪNA MADHYA  TAMA  UTTARANI   MAHARAṆI   DHĀRAṆIKE  CAKRA-VĀKE   ŚAVARI   ŚAVARI   SVĀHĀ

Khi ấy, Đa Văn Thiên Vương, Trì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay con cũng có Thần Chú tên là Thí Nhất Thiết Chúng Sinh Vô Úy đối với các khổ não thường làm ủng hộ, khiến được an vui, tăng ích thọ mạng, không có các tai vạ khổ, cho đến cái chết oan uổng thảy đều xa lìa”

Liền nói Chú là:

Đát điệt tha: bổ sáp bế, tô bổ sáp bế, độ ma, bát lạt ha lệ, a ly gia bát lạt thiết, tất đế, phiến đế, miết mục đế, mang yết lệ, tốt đổ đế, tất đá tỳ đế, toa ha 

*)TADYATHĀ: PUṢPE  SUPUṢPE  DHŪPA  PARIHĀRE  ĀRYA

PRĀŚA-SIDDHE   ŚĀNTI  NIRMUKTE  MAṂGALYE  STUTE  SĀDHAVĪTI  SVĀHĀ

Lúc đó, lại có các vị Đại Long Vương (Mahā-nāgarāja) là: Mạt Na Tư Long Vương, Điện Quang Long Vương, vô Nhiệt Trì Long Vương, Điện Thiệt Long Vương, Diệu Quang Long Vương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con cũng có Như Ý Bảo Châu Đà La Ni hay che chận Điện ác, trừ các sự sợ hãi,  làm lợi ích lớn cho người, Trời, thương xót Thế Gian, ủng hộ tất cả, có uy lực lớn, việc mong cầu được như nguyện, cho đến cái chết oan uổng thảy đều xa lìa, đều khiến ngưng dứt tất cả thuốc độc. Tất cả nơi tạo làm Cổ Độc, Chú Thuật, việc chẳng tốt lành đều khiến trừ diệt. Nay con đem Thần Chú này phụng hiến Thế Tôn, nguyện xin thương xót Từ Bi nhận lấy, khiến cho chúng con lìa nẻo Rồng này, buông bỏ hết sự tham lam. Tại sao thế? Do sự tham lam này mà ở trong sinh tử chịu các khổ não. Chúng con nguyện chặt đứt mầm giống tham lam”   Liền nói Chú là:

Đát điệt tha: A chiết lệ, a mạt lệ, a mật lật đế, ác xoa duệ, a tệ duệ, bôn ni, bát lợi gia lật đế, tát bà ba bả, bát lợi thiêm ma ni duệ, toa ha. A ly duệ, bát đậu, tô ba ni duệ, toa ha

*)TADYATHĀ: ACALE  AMALE  AMṚTE  AKṢAYE  ABHAYE

PUṆYA   PARYA-PATE _ SARVA  PĀPAṂ  PRAŚAMANIYE  SVĀHĀ_ ĀRYA-PUṆYA  ŚUBHANIYE   SVĀHĀ

Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện trong miệng nói Đà La Ni Minh Chú này, hoặc viết kinh quyển, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường thì cuối cùng không có sấm chớp, sét đánh với các sự sợ hãi, khổ não, lo lắng bực bội cho đến cái chết oan uổng thảy đều xa lìa. Hết thảy chât độc, Cổ Mỵ, Yểm Đảo, người gây hại, loài cọp, sói, sư tử, rắn độc cho đến muỗi mòng đều chặng thể gây hại”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo khắp Đại Chúng: “Lành thay! Lành thay! Nhóm Thần Chú này đều có đại lực hay tùy theo việc mà Tâm chúng sinh mong cầu đều khiến cho viên mãn, làm lợi ích lớn. Trừ chẳng chí Tâm, các ngươi đừng nghi”

Thời các Đại Chúng nghe Đức Phật nói xong, đều vui vẻ tin nhận


Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh

ĐẠI BIỆN TÀI THIÊN NỮ _PHẨM THỨ MƯỜI LĂM_ CHI MỘT_

Bấy giờ, Đại Biện Tài Thiên Nữ (Sarasvatī) ở trong Đại Chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn!

Nếu có vị Pháp Sư (Dharma-bhānaka) nói Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này thì con sẽ tăng thêm Trí Tuệ cho vị ấy, đầy đủ ngôn thuyết biện bác trang nghiêm. Nếu vị Pháp Sư kia đối với văn tự, nghĩa câu trong Kinh này có chỗ quên mất thì đều khiến cho nhớ giữ, hay khéo khai ngộ. Lại ban cho Đà La Ni Tổng Trì không có ngăn ngại. Lại Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này là điều mà hữu tình kia đã ở chỗ của trăm ngàn Đức Phật gieo trồng các căn lành, thường thọ trì, ở Thiệm Bộ Châu rộng hành lưu bày, chẳng mau ẩn mất. Lại khiến cho vô lượng hữu tình nghe Kinh Điển này đều được biện tài lanh lợi chẳng thể nghĩ bàn, Đại Tuệ không cùng tận, khéo hiểu mọi Luận với các kỹ thuật, hay ra khỏi sinh tử, mau hướng đến Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề. Ở trong đời này, tăng ích thọ mạng, thảy đều đầy đủ vật dụng cho thân này.

Thế Tôn! Con sẽ vì vị Pháp Sư trì Kinh kia với hữu tình khác đối với Kinh Điển này ưa thích lắng nghe, nói Pháp Chú Dược tắm rửa ấy để cho hết thảy sao ác (ác tinh) tai biến trái ngược với ngôi sao sở thuộc (Tinh Thuộc) của người ấy, nỗi khổ vì bệnh dịch, chiến trận đấu tranh, giấc mộng ác, Quỷ Thần, Cổ Độc, Yểm Mỵ, Chú Thuật, Khởi Thi (Vetala)… các ác như vậy gây chướng nạn đều khiến trừ diệt.

Các người có Trí nên làm Pháp tắm gội như vầy: Nên lấy 32 vị thuốc là: Xương Bồ (bạt giả: Vaca), Ngưu Hoàng  (cồ lô chiết na: Gorocana), Mục Túc Hương (tắc tất lực ca: Spṛka), Xạ Hương (mạc ca bà già: Mahābhāga), Hùng Hoàng (mạt nại si la: Manaḥśila), Hợp Hôn Thụ (thi lợi sái: Śirīṣa), Bạch Cập (nhân đạt la hát tất đá: Indra-hasta), Khung Cùng (xà mạc ca: Śyābhyaka), Cẩu Kỷ Căn (thiêm nhĩ: Śami), Tùng Chi (thất lợi bệ sắt đắc ca: Śrīveṣṭaka), Quế Bì (đốt giả: Tvaca), Hương Phụ Tử (mục tốt đá: Musta), Trầm Hương (ác yết lỗ: Agaru), Chiên Đàn (chiên đàn na: Candana), Linh Lăng Hương (đa yết la: Tagara), Đinh Tử  (sách cồ giả: Samocaka), Uất kim (trà củ ma: Kuṅkuma), Bà Luật Cao (yết la sa: Gālava), Vi  Hương (nại lạt đả: Narada), Trúc Hoàng  (cốt lộ chiến na ?Gorocanā: Ngưu Hoàng), Tế đậu khấu (tô khấp  mê la: Sūkṣmela), Cam Tùng (khổ nhĩ đá:  ), Hoắc Hương (bát đát la: Patra), Mao Căn Hương (ốt thi la: Uśīra), Sất Chi (tát lạc kế: Śalāka), Ngải nạp (thế lê dã: Śaileya), An

Tức Hương (cũ cụ la: Gulgula), Giới Tử  (tát lợi sát bả: Sarṣapa), Mã Cần (diệp bà nễ: ), Long Hoa Tu (na già kê tát la: Nāgakeśara), Bạch Giao (tát chiết la bà: Sarjarasa), Thanh  Mộc (củ sắt sá: Kuṣṭha) đều phân chia bằng nhau

Dùng ngày có sao Bố Sái (Puṣya: Quỷ Tú), ở một chỗ đâm giã rây sàng, lấy bột hương ấy, nên dùng Chú này chú vào 108 biến. Chú là:

Đát điệt tha: tô cật lật đế, cật lật đế, cật lật đế, kiếp ma đát lý, thiện nộ yết la trệ, hát yết lạt trệ, nhân đạt la xà lợi nị, thước yết lan trệ, bát thiết điệp lệ, a phạt để yết tế kế na, củ đổ củ đổ, cước ca tỳ lệ, kiếp tỳ lệ kiếp tỳ lệ, kiếp tỳ la mạt để, thi la mạt để, na để độ la mạt để, lý ba, phạt trĩ, bạn trĩ lệ, thất lệ thất lệ, tát để tất thể đê, toa ba

*)TADYATHĀ: SUKṚTE  KṚTE  KṚTE, KĀMA-TALE, SINDHUKALAŚĪ, AB-KALAŚĪ,  INDRA-JĀLINĪ,  SA-KRANTI  PĀṢI-TALE,

AVĀTI-KĀŚIKĀNĀṂ, KŪD  KŪD, KU-KAVILE,  KAPILE  KAPILE, KAPILA-MATI,          ŚĪLA-MATI,        SAṂDHI-DŪRA-MATI,         REPA-VADHE

PAṆḌALE,  ŚIRI  ŚIRI, SATYA-STHITE  SVĀHĀ

“Nếu thích như Pháp tắm gội thời

Nên làm Đàn Trường vuông tám khuỷu

Ở nơi an ổn thật tĩnh lặng

Niệm việc đã cầu, chẳng lìa Tâm

_Xoa tô phân bò, làm Đàn ấy

Bên trên rải khắp các hoa màu

Nên dùng vật khí vàng bạc sạch

Chứa đầy vị ngon với sữa, mật

_Ở bốn cửa của Đàn Trường ấy

Bốn người thủ hộ Pháp như thường

Khiến bốn Đồng Tử, thân đoan nghiêm

Đều ở một góc, cầm bình nước

_Ở đây thường đốt An Tức Hương

Tấu nhạc năm âm, tiếng chẳng dứt

Phan, lọng trang nghiêm, treo lụa màu

An ở bốn bên của Đàn Trường

_Bên trong Đàn Trường để gương sáng

Đao bén, mũi tên đều bốn cái

Ở chính giữa Đàn chôn chậu lớn (đại bồn)

Dùng ván thấm rỉ (lậu bản) để bên trên

_Dùng bột hương trước hòa nước nóng

Cũng lại đặt ngay bên trong Đàn”

 

Kết Giới Chú là:

Đát điệt tha: Át lạt kế na dã nê, hứ lệ, nhĩ lệ, kỳ lệ, xí xí lệ, toa ha

*)TADYATHĀ: ARAKE  NAYANE, HILI  MILI  GILI  KHIKHILE SVĀHĀ

“Như vậy, kết Giới xong

Mới vào bên trong Đàn

Chú nước hăm mốt biến (21 lần)

Rưới vảy ở bốn phương

_Tiếp, Chú vào nước nóng

Đủ một trăm tám biến (108 lần)

Bốn bên an màn che

Sau đó tắm rửa thân”

Chú Thủy Chú Thang Chú là:

Đát điệt tha (1) sách yết trí (2) tỳ yết trí (3) tỳ yết trà phạt để (4) toa ha (5)

*)TADYATHĀ: SUGATE  VIGATE  VIGATA-VATI  SVĀHĀ 

Nếu tắm rửa xong. Đem nước nóng tắm rửa ấy với thức ăn uống cúng dường trong Đàn Trường vứt bỏ bên trong ao, sông. Còn lại thì thu dọn sạch sẽ.

Như vậy tắm xong mới mặc áo sạch.

Khi ra khỏi Đàn Trường với vào bên trong Tịnh Thất thời Chú Sư dạy bảo người ấy phát Hoằng Thệ Nguyện, chặt đứt hẳn mọi ác, thường tu các Thiện, đối với các hữu tình dấy lên Tâm Đại Bi. Do nhân duyên này sẽ được vô lượng Phước Báo tùy theo Tâm.

Lại nói Tụng là:

“Nếu có các chúng sinh bệnh khổ

Mọi loại phương dược trị chẳng khỏi

Nếu y Pháp tắm gội như vậy

Lại kèm đọc tụng Kinh Điển này

Thường ở ngày đêm niệm chẳng tan

Chuyên tưởng, ân cần sinh Tâm tin

Hết thảy nạn khổ tiêu trừ hết

Giải thoát nghèo túng, đủ tài bảo

Bốn phương Tinh Thần (các ngôi sao) Nhật (mặt trời) Nguyệt (mặt trăng)

Uy Thần ủng hộ được sống lâu

Cát tường an ổn, tăng Phước Đức

Tai biến, ách nạn đều trừ hết”

_Tiếp theo, tụng Hộ Thân Chú 21 biến. Chú là:

“Đát điệt tha: tam mê, tỳ tam mê toa ha. Sách yết trệ, tỳ yết trệ, toa ha. Tỳ yết trà phạt để, toa ha. Sa yết la, tam bộ đa dã, toa ha. Tắc kiến đà, ma đa dã, toa ha. Ni la kiến đà dã, toa ha. A bát la thị đá, tỳ lê gia dã, toa ha. Hứ ma bàn đá, tam bộ đa dã, toa ha. A nễ mật la, bạc đát la dã, toa ha. Nam mô bạc già phạt đô bạt la điềm ma tả, toa ha. Nam mô tát la toan để, mạc ha đề tỳ duệ, toa ha. Tất điện đổ mạn (Đây nói là tôi (họ tên…) thành tựu) mạn đát la bát tha, toa ha. Đát lạt đổ tỷ điệt đá, bạt la điềm ma nô mạt đổ, toa ha

*)TADYATHĀ: SAME  VISAME  SVĀHĀ_ SUGATE  VIGATE

SVĀHĀ_  VIGATA-VATI  SVĀHĀ_ SĀGARA  SAṂBHŪTĀYA  SVĀHĀ_

SKANDHA-MĀTĀYA  SVĀHĀ_ NĪLAKAṆṬHĀYA  SVĀHĀ_ APARĀJITA

VĪRYĀYA  SVĀHĀ_ HIMAVANTĀYA  SVĀHĀ_ ANIMIṢA-CAKRĀYA  SVĀHĀ

NAMO  BHAGAVATE  BRAHMAṢYA  SVĀHĀ

NAMO  SARAVATĪ-MAHĀ-DEVYE  SVĀHĀ

SIDDHYANTU  MAṂ (…) MANTRA-PĀDA  SVĀHĀ

DHARATĀ  UVĀSATĀ,  BRAHMA  ANU-MADHU  SVĀHĀ

Lúc đó, Đại Biện Tài Thiên Nữ nói Pháp tắm gội, Chú của Đàn Trường xong thì tiến lên phía trước lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch Phật rằng: “Thế Tốn Nếu có Bật Sô (Bhikṣu: Tỳ Kheo), Bật Sô Ni (Bhikṣuṇī: Tỳ Kheo Ni), Ô Ba Sách Ca (Upāsaka: nam cư sĩ), Ô Ba Tư Ca (Upāsika: nữ cư sĩ) thọ trì, đọc tụng, viết chép, lưu bày Kinh Vương màu nhiệm này, như Thuyết tu hành. Hoặc ở tại thành ấp, thôn xóm, nơi hoang vắng, núi, rừng, trú xứ của Tăng Ni… thì con vì người này đem các quyến thuộc, tấu kỹ nhạc của cõi Trời đi đến chỗ ấy để làm ủng hộ, trừ các bệnh khổ, Lưu Tinh biến quái, bệnh dịch, đấu tranh, phép vua câu thúc, mộng ác, Thần ác, loài gây chướng ngại, Cổ Đạo, Yểm thuật… thảy đều trừ hết, nhiêu ích cho nhóm người trì Kinh này. Chúng của nhóm Bật Sô với các người lắng nghe đều khiến mau chóng vượt qua biển lớn sinh tử, chẳng thoái lùi nơi Bồ Đề (Bodhi)”

Bấy giờ Đức Thế Tôn nghe Thuyết này xong thì khen Biện Tài Thiên Nữ rằng: “Lành thay! Lành thay Thiên Nữ! Ngươi hay đem lại an vui, lợi ích cho vô lượng vô biên hữu tình. Nói Thần Chú này cùng với Pháp Thức của Hương Thủy, Đàn Trường, quả báo khó nghĩ bàn. Ngươi nên ủng hộ Tối Thắng Vương Kinh đừng khiến cho ẩn mất, thường được lưu thông”

Khi ấy, Biện Tài Thiên Nữ lễ bàn chân của Đức Phật xong thì quay lại chỗ ngồi của mình

Lúc đó, vị Bà La Môn Pháp Sư Thọ Ký Kiều Trần Như (Ācāryavyākaraṇa-prāptaḥ  kauṇḍinya) nương theo uy thần của Đức Phật, ở trước mặt Đại Chúng, khen thỉnh Biện Tài Thiên Nữ là:

Biện Tài Thiên thông minh dũng tiến

Người, Trời cúng dường đều nên nhận

Danh tiếng vang lừng khắp Thế Gian

Hay ban cho Nguyện của chúng sinh

Y đỉnh núi cao, Trú Xứ tốt

Làm nhà cỏ tranh, ở bên trong

Luôn kết cỏ mềm dùng làm áo

Mọi nơi thường nhấc một chân đứng

Chư Thiên, Đại Chúng đều tập hội

Đều đồng một lòng khen ngợi thỉnh

Nguyện xin Trí Tuệ Biện Tài Thiên

Dùng Diệu Ngôn Từ cho tất cả”

_Khi ấy, Biện Tài Thiên Nữ liền nhận lời thỉnh cầu, nói Chú là:

“Đát điệt tha: mộ lệ, chỉ lệ, a phạt đế lệ, a phạt trá phạt để, hinh ngộ lệ, danh cụ lệ, danh cụ la phạt để, ương cụ sư, mạt lợi chỉ, tam mạt để, tì tam mạt để, ác cận lợi mạc cận lợi đát la chỉ đát la, giả phạt để chất chất lý, thất lý, mật lý, mạt nan địa đàm, mạt lợi chỉ, bát la noa tất lợi duệ, lô ca thệ sắt thế, lô ca thất lệ sắt sỉ, lô ca tất lợi duệ, tất đà bạt lợi đế, tì ma mục xí du chỉ chiết lợi, a  bát lợi để hát đế, a bát lạt để hát đá, bột địa, nam mẫu chỉ nam mẫu chỉ, mạc ha đề tỳ, bát lạt để cận lợi hôn noa, nam ma tắc ca la (ngã  mỗ giáp) bột địa, đạt lý xa,  hứ bột địa, a bát lạt để hát đá, bà bạt đổ, táp bà

mê, tì du điệt, đổ xá tất đát la, du lộ ca, mạn đát la, tất đắc ca, ca tì da địa số

*) TADYATHĀ: SURE  VIRE  AVATĪRṆE  AVAṬA-VATI, HIṄGULE  PIṄGALE  PIṄGALE-VATI  AṄKUŚE  MARĪCI-SAṂMATI  VISAṂMATI

AGRĀMAGRĪTALAVITALE     CA        VAḌIVICARĪ,       SIRI        MIRI,

MĀNANDHĪDĀṂ  MARĪCI-PRĀṆA-PĀRYE, LOKA-JYEṢṬHE   LOKASṚṢṬI, LOKA-PĀRYE  SIDDHI-VRATE  BHĪMA-MUHKHIŚACIVARĪ

APRATIHATE  APRATIHATA-BUDDHI,  NAMUCI  NAMUCI, MAHĀDEVĪ  PRATI-GṚHṆA  NAMASKĀRA (….) BUDDHI  DĀRŚA  HI BUDDHI-APRATIHATA  BHAVATU  SVAME  VIŚUDDHI  DAŚA-ŚĀSRA-

LOKA-MANTRA-PIṬAKA-KĀVYĀDIṢU

Đát điệt tha: mạc ha bát lạt bà tỳ, hứ lý, mật lý, hứ lý, mật lý, tì chiết lạt đổ, mê, bột địa (ngã   mỗ giáp) bột địa, du đề, bạc-già phạt điểm đề tì diệm, tát la toan điểm, yết la (lỗ gia) trệ,  kê do lệ kê do la, mạt để, hứ lý, mật lý, hứ lý, mật lý, a bà ha da nhị, mạc ha đề tỳ, bột đà tát đế na, đạt-ma tát đế na, tăng già tát đế na, nhân đạt la tát đế na, bạt lâu noa tát đế na, duệ, lô kê, tát để bà địa na, đê sam tát đế na, tát để phạt giả nê na, a bà ha da nhị, mạc ha đề tỳ, hứ lý, mật lý, hứ lý, mật lý, tì chiết lạt đổ (ngã mỗ giáp) bột địa. Nam mô bạc già phạt để, mạc ha đề tỳ, tát la toan để, tất điện đổ, mạn đát la bát đà, di, tóa ha”  

*)TADYATHĀ: MAHĀ-PRABHĀVE,  HILI  MILI  HILI  MILI,

VICARATU  ME,  BUDDHI (….) BUDDHI  ŚUDDHI  BHAGAVATYĀ  DEVYĀḤ  SARASVATĪṂ  KARATI  KEYŪRE  KEYŪRA-MATI, HILI  MILI  HILI  MILI, ĀVĀHA  YĀMI  MAHĀ-DEVĪ,  BUDDHA-SATYENA

DHARMA-SATYENA           SAṂGHA-SATYENA,     INDRA-SATYENA,

VARUṆA-SATYENA,  YE  LOKE-SATYA  VĀDINAḤ, TEṢĀṂ  SATYENA

SATYA-VACANIYA, ĀVĀHA  YĀMI  MAHĀ-DEVĪ,  HILI  MILI  HILI  MILI, VICARANTU (…) BUDDHI

NAMO  BHAGAVATE  MAHĀ-DEVĪ  SARASVATĪ  SIDDHYANTU  MANTRA-PĀDA  ME  SVĀHĀ

Bấy giờ, Biện Tài Thiên Nữ nói Chú này xong thời bảo Bà La Môn rằng: “Lành thay! Đại Sĩ hay vì chúng sinh cầu biện tại màu nhiệm với các châu báu Thần Thông, Trí Tuệ, rộng lợi cho tất cả, mau chứng Bồ Đề. Như vậy nên biết Pháp Thức thọ trì.

Liền nói Tụng là:

“Trước tiên, tụng Đà La Ni này

Khiến cho thuần thục không lầm lẫn

Quy kính Tam Bảo, các Thiên Chúng

Thỉnh cầu gia hộ, nguyện tùy Tâm

_Kính lễ chư Phật với Pháp Bảo

Bồ Tát, Độc Giác, chúng Thanh Văn

Tiếp, lễ Phạm Vương và Đế Thích

Với bậc Hộ Thế (Loka-pāla) bốn Thiên Vương

_Tất cả người thường tu Phạm Hạnh (Brahma-caryā)

Đều nên chí thành, ân trọng kính

Ở chốn Lan Nhã (Araṇya) nơi vắng lặng

Lớn tiếng tụng Chú trước, khen Pháp

_Ở trước tượng Phật với Trời, Rồng

Tùy thứ có được, tu cúng dường

Đối với tất cả loài chúng sinh

Phát khởi Tâm Từ Bi thương xót

_Thế Tôn: tướng đẹp, thân vàng tía

Cột tưởng, chính niệm, Tâm không loạn

Thế Tôn hộ niệm, nói Giáo Pháp

Tùy căn cơ ấy, khiến tập Định

_Nơi nghĩa câu ấy, khéo suy nghĩ

Lại y Không Tính (Śūnyatā) mà tu tập

Nên ở trước hình tượng Thế Tôn

Một lòng chính niệm mà ngồi yên

_Liền được Diệu Trí Tam Ma Địa

Kèm được Tối Thắng Đà La Ni

Miệng vàng (kim khẩu) Như Lai diễn nói Pháp

Âm hưởng điều phục các Người, Trời

_Tướng lưỡi tùy duyên, hiện hiếm có

Rộng dài hay che ba ngàn cõi

Âm thanh màu nhiệm của chư Phật

Chí thành nghĩ nhớ, Tâm không sợ

_Chư Phật đều do phát Hoằng Nguyện

Được tướng lưỡi này, khó nghĩ bàn

Tuyên nói các Pháp đều chẳng có (phi hữu)

Ví như hư không, không chỗ dính

_Âm thanh với tướng lưỡi của Phật

Cột niệm nghĩ lường, nguyện viên mãn

Nếu thấy cúng dường BIện Tài Thiên

Hoặc thấy Đệ Tử tùy Thầy dạy

Trao Bí Pháp này khiến tu tập

Tôn trọng, tùy Tâm đều được thành

Nếu người muốn được Trí tối thượng

Cần phải một lòng trì Pháp này

Tăng trưởng Phước Trí, các Công Đức

Quyết định thành tựu, đừng sinh nghi

_Nếu người cầu tiền, được nhiều tiền

Người cầu danh tiếng. được danh tiếng

Người cầu xuất ly được giải thoát

Quyết định thành tựu, đừng sinh nghi

_Vô lượng vô biên các Công Đức

Tùy trong Tâm ấy đã ước nguyện

Nếu hay thực hành y như vậy

Đều được thành tựu, đừng sinh nghi

_Ở chỗ yên tịnh, mặc áo sạch

Nên làm Đàn Trường tùy lớn nhỏ

Dùng bốn bình sạch chứa vị ngon

Hương, hoa cúng dường tùy theo thời

Treo các lụa màu và phan, lọng

Hương xoa, bột hương nghiêm sức khắp

Cúng dường Phật với Biện Tài Thiên

Cầu thấy thân Trời đều toại nguyện

_Nên hăm mốt ngày (21 ngày) tụng Chú trước

Đối trước mặt Đại Biện Thiên Thần

Nếu chẳng nhìn thấy Thiên Thần này

Nên dụng Tâm thêm chín ngày nữa

Ở trong đêm sau, do chẳng thấy

Lại tìm nơi thắng diệu thanh tịnh

Như Pháp nên vẽ Biện Tài Thiên

Cúng dường, tụng trì, Tâm không bỏ

Ngày đêm chẳng sinh chút lười biếng

Lợi mình, lợi người không cùng tận

Quả báo đạt được, cho quần sinh

Điều đã cầu nguyện đều thành tựu

_Nếu chẳng vừa ý, thêm ba tháng

Sáu tháng, chín tháng hoặc một năm

Ần cần cầu thỉnh, Tâm chẳng dời

Thiên Nhãn, Tha Tâm (Tha Tâm Thông) thảy đều được”

Khi ấy, Bà La Môn Kiều Trần Như nghe Thuyết này xong thì vui mừng hớn hở, khen chưa từng có rồi bảo các Đại Chúng, nói lời như vầy: “Các ngươi! Người, Trời, tất cả Đại Chúng nên biết như vậy, đều một lòng lắng nghe. Nay tôi muốn y theo Pháp Thế Đế (Saṃvṛti-satya) khen ngợi Thắng Diệu Biện Tài

Thiên Nữ ấy”

Liền nói Tụng là:

“Kính lễ Thiên Nữ Na La Diên

Ở trong Thế Giới được tự tại

Nay tôi khen ngợi Tôn Giả (Ayuṣmat) ấy

Đều như Tiên nhân xưa kia nói

Cát tường thành tựu, Tâm an ổn

Thông minh, tàm quý có danh tiếng

Làm mẹ, hay sinh nơi Thế Gian

Dũng mãnh thường hành đại tinh tiến

_Ở chốn quân trận luôn chiến thắng

Tăng trưởng, điều phục Tâm, Từ Nhẫn

Hiện làm chị cả của Diêm La (Yama)

Thường mặc áo Tằm hoang màu xanh

Dung nghi xấu đẹp đều có đủ

Con mắt hay khiến người thấy, sợ

Vô lượng Thắng Hạnh vượt Thế Gian

Người hay tin phục đều nhiếp nhận

_Hoặc nơi sâu hiểm bên sườn núi

Hoặc ở hang hốc với bên sông

Hoặc dưới cây lớn, các rừng rậm

Phần nhiều Thiên Nữ trú trong đây

_Giả sử người ở rừng núi vắng

Cũng thường cúng dường nơi Thiên Nữ

Dùng lông chim công làm cờ phan

Ở tất cả thời thường giúp đời (hộ thế)

_Sư tử, cọp, sói luôn vây quanh

Nhóm bò, dê, gà cũng nương tựa

Rung lắc chuông lớn, phát âm thanh

Chúng núi Tần Đà đều nghe tiếng

_Hoặc cầm Tam kích (Tri-śūla: cây kích có ba chia), tóc búi tròn

Hai bên luôn giữ cờ Nhật Nguyệt

Ngày chín, ngày mười kỳ Hắc Nguyệt

Ở trong thời này nên cúng dường

_Hoặc hiện Bà Tô Đại Thiên Nữ

Thấy có chiến đấu, Tâm thường thương

Quán sát tất cả trong hữu tình

Thiên Nữ tối thắng không ai hơn

_Quyền hiện Mục Ngưu Hoan Hỷ Nữ

Cùng Trời chiến đấu, thường được thắng

Hay an trụ lâu ở Thế Gian

Cũng làm hòa nhẫn với bạo ác

_Bốn Minh Pháp Đại Bà La Môn

Nhóm Chú huyễn hóa thảy đều thông

Ở trong Thiên Tiên được tự tại

Hay làm hạt giống với đại địa

_Khi các Thiên Nữ tập hội thời

Như thủy triều biển lớn đều đến

Ở các Long Thần, chúng Dược Xoa

Đều làm Thượng Thủ (Pramukha) hay điều phục

_Tối Phạm Hạnh ở trong các nữ

Lời nói giống như chủ Thế Gian

Ở chỗ của vua, như hoa sen

Hoặc tại bên sông như cầu, thuyền

_Diện mạo giống như trăng tròn đầy

Đầy đủ Đa Văn (Bahu-śrūta) làm chỗ dựa

Biện tài nổi bật như núi cao

Người nhớ, đều cùng làm cồn, bãi

_Hàng A Tô La, các Thiên Chúng

Đều cùng khen ngợi Công Đức ấy

Cho đến Thiên Nhãn Đế Thích Chủ

Dùng Tâm ân trọng mà quán sát

_Chúng sinh nếu có việc mong cầu

Đều hay khiến họ mau được thành

Cũng khiến thông biện, đủ Văn Trì 

Ở trong Đại Địa là bậc nhất

_Ở trong mười phương Thế Giới này

Như đèn sáng lớn thường chiếu khắp

Cho đến Quỷ Thần, các cầm thú

Thảy đều thỏa thích Tâm mong cầu

_Ở trong các nữ như đỉnh núi

Đồng Tiên Nhân xưa, trụ đời lâu

Như Thiếu Nữ Thiên thường lìa Dục

Nói thật, giống như Đại Thế Chủ

_Nhìn khắp Thế Gian: loài sai biệt

Cho đến các cung Trời cõi Dục (Kāma-dhātu)

Chỉ có Thiên Nữ riêng xưng Tôn

Chẳng thấy hữu tình nào hơn được

_Nếu cớ chiến trận, nơi đáng sợ

Hoặc thấy rơi vào hầm lửa lớn

Bến sông, hiệm nạn, trộm cướp thời

Đều hay khiến cho trừ sợ hãi

_Hoặc bị cùm, trói bởi phép vua

Hoặc bị oán thù đến giết hại

Nếu hay chuyên chú, Tâm chẳng dời

Quyết định giải thoát các lo khổ

_Nơi người thiện ác đều ủng hộ

Từ Bi thương xót thường hiện tiền

Thế nên, tôi dùng Tâm chí thành

Cúi lạy quy y Đại Thiên Nữ”

_Lúc đó, Bà La Môn lại dùng

Chú khen Thiên Nữ là:

“Kính lễ, kính lễ Thế Gian Tôn

Ở trong các Mẫu (Mātṛ) rất thù thắng

Ba loại Thế Gian đều cúng dường

Diện mạo, dung nghi, người thích quán

_Mọi loại Diệu Đức dùng nghiêm thân

Mắt như cánh sen xanh dài rộng

Đủ Phướng Trí, ánh sáng, danh tiếng

Ví như ngọc Ma Ni vô giá

_Nay tôi khen ngợi đấng Tối Thắng

Đều hay thành biện Tâm mong cầu

Công Đức chân thật, diệu cát tường

Ví như hoa sen rất thanh tịnh

_Thân sắc đoan nghiêm đều thích thấy

Mọi tướng hiếm có, khó nghĩ bàn

Hay phóng ánh sáng Trí không dơ (vô cấu Trí)

Ở trong các niệm là tối thắng

_Giống như Sư Tử trên các thú

Thường dùng tám tay tự trang nghiêm

Đều cầm cung, tên, đao, sáo (cây giáo dài), búa

Chày dài, Thiết Luân (bánh xe sắt) với sợi dây

_Đoan chính, thích nhìn như trăng đầy

Ngôn từ thông suốt, âm hòa nhã

Nếu có chúng sinh, Tâm nguyện cầu

Việc thiện tùy niệm khiến viên mãn

_Đế Thích, chư Thiên đều cúng dường

Đều cùng khen ngợi, nên quy y

Mọi Đức hay sinh, khó nghĩ bàn

Trong tất cả thời khởi cung kính

Toa ha (SVĀHĀ)

(Chú Tụng bên trên này là Chú cũng là Tán. Nếu khi trì Chú thời đều tụng trước tiên)

_Nếu muốn cầu thỉnh Biện Tài Thiên

Y câu, ngôn từ của Chú Tán này

Sáng sớm, thanh tịnh chí thành tụng

Nơi việc mong cầu, đều tùy Tâm”

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bà La Môn: “Lành thay! Lành thay! Ông hay như vậy làm lợi ích cho chúng sinh, ban cho an vui, khen Thiên Nữ ấy, thỉnh cầu gia hộ, được Phước vô biên

(Chú Pháp trong Phẩm này  có lược có rộng, hoặc mở hoặc hợp, trước sau chẳng giống nhau. Bản Phạn ghi rất nhiều, chỉ y theo một bản dịch, mang người đời sau xem xét để biết)

KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH

_QUYỂN THỨ BẢY (Hết)_

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10