DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 23

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 88

Thứ tám, là môn Đại, giải thích về sự nhận thức v.v… Bài tụng trước đã nêu bốn trường hợp, tức là bốn môn.

Trong giải thích của Văn xuôi:

1. Giải thích về môn sự trí. Hai trí tà, chánh đồng “duyên” một cảnh, để chấp “không”, chấp khác. Khi chánh trí khởi, chẳng phải là phá hoại cảnh của tà trí kia, mà chỉ bỏ chấp bất chính nơi cảnh này.

2. Giải thích về chuyển biến các hạnh như lạc v.v…

3. Giải thích về thỉnh, không thỉnh nói kinh, đều như văn rất dễ hiểu.

4. Giải thích về Niết-bàn có hai thứ: đầu tiên, là nói Niết-bàn viên mãn. Sau nói về phần Niết-bàn kia.

Trong phần trước: Luận sư Cảnh nói: “Tùy thuận truyền dạy, nghĩa là ghi nhận nói, tức ghi nhận luân tâm.

Răn dạy, nghĩa là tức luân dạy răn miệng nghiệp của lậu tận thông, thần biến tức luân thông của thân, “Đức Như lai tùy ý muốn ghi nhận nói tâm kia, cho đến “nếu lần lượt diệt tâm lâu xa”, nghĩa là ở đời quá khứ tâm đã diệt trong nhiều kiếp vô lượng.

Nếu tâm đã diệt trong thế gian, nghĩa là tất cả tâm trong đời trước.

Nếu tâm chuyển của sở duyên ở hiện tại, nghĩa là tâm đã khởi ở một đời hiện tại, từ định khởi xong, cho đến không y cứ ở sát-na, giải thích tâm diệt vô gián, tâm diệt lâu xa của duyên trước. Nếu tâm chuyển của sở duyên ở hiện tại, đều y cứ ở chủng loại, không y cứ vào sát-na, đã nói như trước.

Đức Như lai đều nói từ tâm định, từ định khởi xong, tùy niệm phân biệt, nghĩa là vì đồng với tướng Nhị thừa, nên nói thế này: “Đây là trí tha tâm, biết khắp ba đời, biết khắp nhiều tâm số, không đồng với trí tha tâm của Nhị thừa, chỉ “duyên” tâm như như ở hiện tại, không biết tâm số pháp v.v…

Luận sư Bị nói: “Trong văn này trí tha tâm đã biết việc quá khứ với trí túc mạng đâu có khác nhau?

Giải thích: “Nếu biết bên tâm pháp, gọi là trí tha tâm, biết các biên sự, gọi là trí túc mạng, tâm muốn biết lúc phương tiện của trí tha tâm. Phương tiện của túc mạng muốn biết các việc.”

Luận sư Đạt nói: “Lại dựa vào ba pháp trở xuống, là giải thích lại ba môn thuận với truyền dạy v.v… ở trước.”

Dưới đây, là nói về phần Niết-bàn kia. Luận sư Đạt nói “Vì tương tự Niết-bàn nên nói rằng phần Niết-bàn kia, như uống, ăn khi đói, khát gọi là tiểu Niết-bàn.

Thứ chín, môn Đại giải thích về sự tranh luận v.v… trước là bài tụng nêu bảy môn:

  1. Tranh cãi.
  2. Mầm.
  3. Nhiễm lớn của kiến.
  4. Một đường.
  5. Học.
  6. Bốn sự sợ hãi.

Nửa bài tụng dưới là môn thứ bảy. Trong giải thích của Văn xuôi, đầu tiên là giải thích môn tranh cãi, nói là A-tử-la, là tên riêng của người.

Ma-đăng-kỳ, nghĩa là Chiên-trà-la nữ, tên là Ma-đăng-kỳ. Chiêntrà-la nam, tên là Ma-đăng-già. Hai tên này là tên chung. Người nữ này chỉ dùng khăn lau làm kế sinh nhai. Người đời giả lập sự giàu to, nhiều của. Đức Như lai vì họ cũng nói đến của cải nhiều.

Thứ hai, là trong giải thích về môn Mầm, trước là nêu chung. Kế là, giải thích sơ lược. Sau phân biệt tính toán rộng.

Y cứ trong giải thích sơ lược, trước, nói về một nhân. Sau, nói về hai duyên. Luận sư Cảnh nói: “Năm phẩm Hạnh:

  1. Tự tánh các hạnh.
  2. Nhân duyên các hạnh.
  3. Nhân tạp nhiễm.
  4. Nhân thanh tịnh.
  5. Là thanh tịnh.

Nhân duyên tạp nhiễm trong năm thứ này, tức là hạt giống phiền não. Theo đuổi Lại-da làm nhân, dùng bốn thức trụ làm duyên. Lại, do hỷ tham nhuần thấm nghiệp, làm cho mầm nối tiếp nhau, gọi là “duyên”. Luận sư Đạt nói: “Tức năm uẩn, gọi là năm phẩm hạnh. Trong phần phân biệt, nói trong đây có một, cho đến không bao giờ được sinh. Người này hiện đang tạo nghiệp mới và tăng trưởng. Về sau, thành Lahán, khiến hạt giống sẽ hư mục, có mầm không mọc.

Nói “Lại nửa, nói có một, cho đến “La-hán kia về sau có mầm cũng không mọc được”, đây là y cứ giải thoát phần viên mãn. Hoặc y cứ ở một trăm kiếp, sáu mươi kiếp v.v… Tức ở hiện thân vì có khả năng nhập quả trên, nên làm cho có mầm bất sinh. Lại nửa, “Có một người trụ trong địa hữu Học, cho đến “bất sinh lại”, nghĩa là sinh cõi Dục hết, địa trên vẫn còn có, trái với cõi này, phải biết rằng, tất cả có mầm (mầm hữu) đều được tăng trưởng, nghĩa là trái với ba người trên, chính là ngoại đạo, phàm phu có mầm tăng trưởng.”

Thứ ba, là giải thích kiến nhiễm lớn. Luận sư Cảnh nói: “1- Kiến; 2- Phiền não khác. Kiến tạp nhiễm nghĩa là chấp ngã, ngã sở. Lại có kiến khác, đây là căn bản mà các ngoại đạo đều thú hướng. Bốn kiến còn lại thú hướng đến sáu mươi hai kiến v.v… lấy ngã kiến làm gốc. Ngoài ra, phiền não là tạp nhiễm thứ hai. Lại, khi thoát khỏi kiến nhiễm, với kiến khác cũng thoát khỏi cái khác, các kiến cũng thoát khỏi, chứ chẳng phải khi thoát khỏi cái khác, các kiến cũng thoát khỏi. Vì sao? Do sự sinh trong đây, dựa vào đạo thế gian, cho đến lìa tham dục của vô sở hữu xứ, giải thoát mà chưa thoát khỏi thân kiến, tức là hàng phục tu. Mà không hàng phục kiến, lại có thể dứt kiến hoặc tu hoặc cũng dứt. Do kiến này, nên ở địa trên, dưới đã có các hành hòa lẫn với tự thể, không quán khác nhau, chấp chung làm ngã, hoặc chấp ngã sở. Văn này là nói ngã kiến. Chấp chung các hành của cửu địa làm nguyên do của ngã. Đạo xuất thế, trước dứt trừ thân kiến. Sau, hẳn dứt dứt phiền não khác. Cho nên chỉ kiến tạp nhiễm là tạp nhiễm lớn. Luận sư Đạt nói: “Do kiến dứt trừ tất cả hoặc, gọi là kiến tạp nhiễm. Tu dứt trừ tất cả “hoặc”, gọi là phiền não khác, ngoại trừ thân kiến, bốn kiến khác gọi là kiến thủ ngoài. Văn này nói rằng, chưa thoát khỏi Tát-ca-da kiến, nên biết rằng, dựa vào đạo thế gian, chỉ hàng phục tu hoặc, không hàng phục kiến hoặc. Lai nói rằng: “Ở địa trên, dưới đã có tự thể hòa lẫn của các hành, không quán khác nhau, nên biết rằng, theo nghĩa của Đại thừa. Ngã kiến cũng duyên địa mình, người nhưng “duyên” chung, chứ chẳng phải “duyên” riêng. Vì chỉ thân ở địa cõi Dục dưới, mới “duyên” địa trên, nên văn trên nói rằng: “do sinh này”. Nhưng không thấy có văn thân sinh lên địa trên, ngã kiến “duyên” địa dưới. Tự xem xét thứ lớp văn dưới sinh lên địa trên, cũng “duyên” pháp của địa dưới làm ngã, nên nói chấp chung làm ngã hoặc chấp ngã sở do nhân duyên này, dù lên Hữu Đảnh, nhưng về sau lại lui sụt.”

Tam Tạng Pháp sư nói: “Thân sinh địa trên, thân cũng “duyên” pháp của địa dưới làm ngã. Như văn Quyết Trạch, tham của địa trên “duyên” địa dưới, ở đây cũng thế”.

Thứ tư, giải thích một đường, nên biết do đạo của ba thứ tướng, gọi là một đường nghĩa là dùng năm hành tướng của địa phàm phu để quán sát các hành, tức tu đối trị các hành này trong hai thời gian, sao cho thanh tịnh, rằng đối với hạnh hướng Địa hữu học và Địa Vô học, cộng với phàm phu ở trước kia làm ba tướng.

“Cho nên gọi là năm hành v.v… trở xuống, là nêu riêng năm hành”.

Luận sư Đạt nói: “Nói năm xứ, nghĩa là năm xứ uẩn.

Nói tự tánh, nghĩa là chỉ tự tánh của các hành hữu lậu thuộc về khổ đế.

Nói nhân duyên của các hành, nghĩa là thuộc về tập đế, có công năng chiêu cảm nhân duyên của khổ đế.

Nhân duyên tạp nhiễm, nghĩa là hỷ, ái. Nhân duyên thanh tịnh: tai họa lỗi lầm.

Thanh tịnh: đã chứng đắc diệt đế.

Thứ năm, là giải thích về Hữu Học. Luận sư Cảnh giải thích: “Những gì là năm hành? Nghĩa là quán sát các hành, nhân duyên các hành, nhân duyên tạp nhiễm, nhân duyên thanh tịnh, diệt, vì vắng lặng. Gom chung năm hành trước thành một. Thú hướng đạo thanh tịnh, vì xuất ly, tức nhân thanh tịnh ở trước. Vì các thứ các hành có rất nhiều tánh, tức là tự tánh của các hành thứ nhất, vì mỗi tự hạt giống đã sinh, nghĩa là giải thích riêng về nhân.

Mỗi nhân đều chờ duyên khác mới sinh khởi. Nghĩa là giải thích riêng về duyên của các hành. Từ đây về sau, hợp cả hai để giải thích nhân duyên của các hành”.

Luận sư Đạt cho rằng: “Nói năm xứ, nghĩa là như trước.

Về hành tướng khác nhau của năm thứ trong đây:

1. Nêu chung năm hành tướng trước để làm hành tướng khác nhau ban đầu.

2. Thú hướng đạo thanh tịnh, vì xuất ly, là hành tướng thứ hai, giúp đỡ thành hành tướng ban đầu. Hành tướng thứ nhất được xuất ly thanh tịnh.

3. Vì nhiều thứ tánh của các hành, nên là hành tướng thứ ba, giải thích lại hành tướng này trở thành tự tánh của các hành.

4. Vì mỗi tự hạt giống đã sinh khởi, nên là hành tướng thứ tư, giải thích lại trở thành nhân duyên các hành.

5. Đều đợi duyên khác mà sinh khởi, nên là hành tướng thứ năm, giải thích chung bốn hành tướng ở trước, đợi duyên mới sinh”.

Có chỗ giải thích: “Quyết định chung năm hành, lược tạo nên bốn Đế:

  1. Khổ đế, tức các hành ban đầu.
  2. Tập đế tức cảnh hạnh kế đó.
  3. Diệt đế, tức cảnh hạnh thứ tư.
  4. Diệt vắng lặng, vì được thanh tịnh.

Luận rằng: “Vì diệt vắng lặng, nên ý ở đây. Đạo đế tức hành thứ năm. Đạo đã tự thanh, vì hay làm cho tịnh diệt, ở dưới là giải thích lại ba câu. Một câu đầu, giải thích các hành trên. Hai câu sau, giải thích nhân duyên của hành.

Thứ sáu, là giải thích về bốn thứ sợ hãi. Luận sư Cảnh giải thích: “Do bốn nhân duyên phát sinh sợ hãi đối với hai nơi chốn, có thể gây ra chướng ngại:

  1. Đối với các hành hữu vi.
  2. Đối với Niết-bàn sinh sợ hãi.

Do sinh sợ hãi, nên đối với Thánh giáo kia, kể cả Niết-bàn, bất sinh lạc thọ, gọi là chướng ngại. Do bốn nhân duyên:

1/ Đối với địa vị, sinh sợ, nghĩa là ở trong địa vị phi Thánh, sinh ra sợ hãi.

2/ Nếu nương tựa pháp này sinh khởi, nghĩa là đối với các hành, chấp ngã, ngã sở làm nương tựa, nghe nói “vô ngã” mà sinh ra sợ hãi.

3/ Sinh khởi như thế, nghĩa là do các hành của hai thứ đổi thay, hư hoại, sinh ra sợ hãi.

1- Do duyên khác đã đổi thay, hư hoại, nghĩa là vì trái thuận với duyên khác nên, hoặc “duyên” già, bệnh mà sinh sợ hãi.

2- Do tâm mình khởi tà phân biệt, mà đổi thay hư hoại, đối với một cảnh, mà tà tâm phân biệt, hoặc có, hoặc không, hoặc thường, vô thường v.v… mà sinh sợ hãi.

4/ Hành tướng sinh khởi, nghĩa là đối với điều mình ưa thích, lo sợ, sẽ phải đổi thay, hư hoại, sinh ra hành tướng sợ hãi. Đối với cảnh đang thay đổi, hư hoại, sinh ra hành tướng phiền não v.v…

Trên đây, nói chung là thứ nhất, đối với hành hữu vi mà sinh sợ hãi. Lại, đối với Niết-bàn, biết tự thể, mãi mãi đổi thay, hư hoại, khởi lên hành tướng sợ hãi.

Hành tướng như thế, lúc chuyển khác nhau, đối với ưa Thánh giáo và ái lạc, gọi là che lấp hai xứ. Lại, do hai môn, tự chỗ “sở hành” đối với cảnh sở duyên, chấp ngã, ngã sở chuyển biến một cách khác nhau, nghĩa là tìm kiếm là kiến lãnh thọ là thọ”.

Có chỗ giải thích: “Trong đây, tức sở quán của năm hành nhân duyên, như hành của các hành, được gọi là năm nơi chốn”.

Thứ bảy, là giải thích về thuyết thiện, thuyết ác, túc trụ tùy niệm khác nhau. Luận sư Cảnh giải thích: “trong đây, trước, dựa vào thuyết ác, chấp thường, vô thường thuyết thiện thì không như thế. Kế là, dựa vào thuyết ác, biết không như thật khổ sinh vị ái. Đối với hành của ba đời, như thứ lớp, nẩy sinh đoái tưởng đến sự hớn hở và không thể tu nhàm lìa, lìa dục. Người khéo nói pháp trái với pháp xấu ác kia.”

Thứ ba là người nói ác, tà hạnh như thế, bị tiêm nhiễm bởi bốn nhiễm, có thể cảm hữu sau.

“Do sức tăng thượng của hai thứ này v.v…” trở xuống, là giải thích về sự phế lập thuyết thiện ác, kia. Nói riêng, kiến mạn và lý do tham, rất dễ hiểu. Trong các hành, không xem xét, so lường người khác, v.v… gọi là kiến. Xét tra, so lường, gọi là mạn. Tà chấp như thế, là phẩm vô minh, nghĩa là nói chung, kiến, mạn cho là vô minh. Do vô minh này là trước hết phát khởi tham, chấp mắc, gọi là phẩm ái. Do hai thứ phiền não căn bản này, nên trôi lăn trong sinh tử không dứt. Vô minh là đầu tiên của duyên khởi sau này, nên sinh tử không gián đoạn. Khéo nói pháp có công năng dứt trừ bốn thứ tạp nhiễm.

Luận sư Đạt nói: “Mặc dù có phiền não khác v.v…” trở xuống, là giải thích về hàng phục chung vấn nạn. Người ngoài nạn rằng: “Có vô lượng phiền não, sao chỉ nói có ba thứ kiến, mạn ái là phiền não tạp nhiễm ư?”

Nay, lược giải thích chung: “Dù có “hoặc” khác, mà chỉ lấy ba thứ này là vì chúng mạnh mẽ hơn hết, nên nói riêng.

“Ngần ấy phiền não v.v… là phân biệt rộng, hàng phục chung vấn nạn.

Lại, “Kiến ở trong đây và ngã mạn” v.v… trở xuống, là giải thích tản mạn về sự khác nhau của các danh trong kinh.

Thứ mười, môn Đại giải thích không có nhàm chán v.v… Tụng nêu tám môn:

  1. Không nhàm chán tai họa, không có dục.
  2. Hỏi, ghi nhận không có rối loạn.
  3. Tướng.
  4. Chướng.
  5. Hiếm lạ.
  6. Không có nhân.
  7. Hư hỏng.
  8. Ròng nhiễm đều cùng có về sau.

Trong giải thích của Văn xuôi, đầu tiên chính là nói không có nhàm chán dục.

Kế là, vặn lại, có nhàm chán dục.

Thứ hai, giải thích về hỏi, ghi nhận không có rối loạn. Trước là chung hai thứ. Sau, là giải thích riêng hai thứ. Trong phần trước, nói “Nếu có người niềm tin thanh tịnh, hỏi với tâm tốt, hoặc các ngoại đạo đến thưa hỏi, người hỏi với lòng dạ xấu ác.

Dưới đây, là giải thích riêng hai thứ: Trước, là hỏi riêng về sinh, diệt, nói không có rối loạn. Sau, y cứ hỏi phạm hạnh, nói về ghi nhận không có rối loạn.

Trong phần trước, nói dựa vào Trung đạo, dựa vào Trung đạo để đáp.

“Lúc hỏi về sinh diệt trong các hành, không thêm vào hữu tình, không bớt đi sự thật, không tăng ích có chúng sinh chân thật là chân sinh diệt, vì chúng sinh giả lập, không có pháp thể.

Dưới đây sẽ nói về pháp nhân duyên sinh diệt, huyễn hữu có sinh, có diệt, không được bác bỏ rằng, pháp nhân duyên không có sinh, không có diệt, vì sẽ trở thành tổn giảm! Chỉ đối với các hành, an lập sinh, diệt không rối loạn mà ghi nhận thôi.

Dưới đây, là nói lìa hai bên. Thứ hai, là trong phần hỏi về Phạm hạnh, nói ghi nhận không rối loạn. Luận sư Cảnh nói: “hoặc có người nói “Vì sao mà Sa-môn Kiều-Đáp-Ma đã tu tập phạm hạnh v.v… ? Chính Du-Bà-Ma-La Tử”.

“Nếu gặp phải câu hỏi này cho đến “gọi là ghi nhận không rối loạn”, nghĩa là hoặc có người hỏi “Vì sao chung trong đa số chúng Samôn, nói Du-Bà-Ma-La-Tử v.v… gọi là tu phạm hạnh, không dẫn dắt người khác? Nếu gặp câu hỏi này thì nên nói như trước, nếu trong tâm chúng hoàn toàn không nêu tên một người thì không biết nói chúng nào tu tập phạm hạnh lại trở nên tổn giảm. Nếu nói rộng tên Sa-môn khác, thì quá rườm rà, tức là trở thành tăng ích.

Nay, xưng hô một tên v.v… tất cả tên khác đều lìa tăng giảm. Nếu cho rằng hữu tình có thể tu nhiễm, tịnh, gọi là Tăng, nói đều không có tu tập, gọi là giảm. Nếu vì các hạnh nhàm chán lìa dục diệt, mà tu tập ấy, thì đó gọi là Trung đạo.”

Lại, có chỗ giải thích: “Nói Kiều Đáp Ma, tức xưa gọi là Cù-đàm, là dòng họ Phật”.

Có người hỏi: “Vì sao chính Đức Phật đã tu tập Phạm hạnh?” nếu gặp câu hỏi này, thì sẽ dựa vào Trung đạo, ghi nhận rằng không tăng ích có thật sự hữu tình tu tập nhiễm, tịnh, cũng không tổn giảm, đều không có tu tập.

Thứ ba, là giải thích tướng: hữu vi, vô vi, gọi là có ba tướng. Nói tánh khác, của tánh khác, nghĩa là khi chưa chết về sau, đồng loại sinh diệt, vì mỗi niệm riêng, nên gọi là tánh khác của tánh khác.

Chuyển biến tánh khác, nghĩa là như qua đời xong, từ có căn sinh ra vô căn.

Thứ tư, là giải thích chướng. Đầu tiên là nói về chướng, không có chướng. 2- Nói về tướng của bậc Thánh, trong đó nói về hai tướng:

  1. Các căn trừ chướng.
  2. được Phật thọ ký.

Kế là, nói về ba tướng. Luận sư Cảnh nói: “Do ba thứ tướng cho đến “Ta đã biết rõ”, nghĩa là do ba thứ tướng, nên nói là do hai thứ, tức là hướng về tướng của hai bực Bậc thánh ở trước:

  1. Chủng tánh mãn.
  2. Chỉ vật loại, nghĩa là ghi nhận xong, qua đời v.v…

Dưới đây là giải thích văn kinh:

Pháp, tùy pháp. Pháp là chánh kiến, trước hành Thánh đạo. Tùy pháp, nghĩa là nương tựa vào pháp ý v.v… văn, tư kia. Lại, “Ta không hề não loạn chỗ mà chánh pháp nương tựa”. Nghĩa là do đức Thế tôn là chỗ dựa của chánh pháp, lẽ ra nên nói: “Ta không hề não loạn đức Thế tôn”. Luận sư Đạt nói: “Chỉ ghi nhận vật loại, nghĩa là như kinh khác nói “Phật thọ ký cho Đáp-Bà-Ma-La Tử, mạng quá khứ, sau là chỗ sinh.

Nói Đáp-Bà-Ma-La Tử, Hán dịch là vật loại.

Có chỗ giải thích: “trong đây có Ba tướng:

  1. Pháp.
  2. Tùy pháp.
  3. Không xúc não chỗ nương tựa của chánh pháp.

Thứ năm, là giải thích pháp ít có, lược có hai thứ:

  1. Chưa tin, khiến tin, đã tin, khiến tăng trưởng.
  2. Nhanh chóng đối với thánh giáo, khiến được ngộ nhập.

Nói “Đầu, giữa, sau đều thiện”, môn nhiếp khác như trước, phần giữa đã nói môn thiện lúc đầu trong bảy thiện.

Nói “Hai đời hiện tại, quá khứ, vì khác nhau nên gọi là khác nhau thứ hai”, nghĩa là hiện tại, gọi là đời này, quá khứ gọi là đời khác. Đối với cõi Dục ở trước, là đời này, với cõi trên là đời khác, nên nói “khác nhau thứ hai”.

Thứ sáu giải thích về vô nhân:

Nói: “Do có hai tướng:

  1. Vì không biết rõ nhân duyên sinh, khởi.
  2. Vì không biết rõ nguyên nhân diệt tận.

Thứ bảy, trong giải thích về sự chê bai. Trước giải thích về sự chê bai. Sau, giải thích về diệt hai vô trí.

– Trong phần trước lược có hai thứ:

1/ Chỉ lời nói là tự khen, chê người khác.

2/ Chánh hạnh nói pháp, dù không có khen chê, mà là chân thật tự khen, chê người khác.

Thứ tám, là giải thích về thuần nhiễm đều có ở môn sau. Luận sư Cảnh nói: “Mười một tướng: Năm uẩn này tức là năm, lại do hoàn toàn phẩm hạ là thứ sáu. Lại, do nhiễm, tịnh trở xuống, còn có hai tướng, cộng với trước thành tám. Lại do ba tướng cộng với trước là mười một, cũng rất dễ hiểu năm môn, trong ngoài, thô tế, tốt xấu, xa gần của ba đời trước, có mười một thứ”. Luận sư Đạt v.v… chỉ nói giải thích sau.

Thứ mười một là Môn Đại, giải thích về Thiểu dục trụ v.v… bài tụng trước nêu mười tám môn:

  1. Thiểu dục.
  2. Trong tự tánh v.v… có ba môn ghi nhận ba, lại có ba môn, đây là câu đầu có tám môn.
  3. Giống với chánh pháp.
  4. Nơi chốn của nghi, si.
  5. Không ghi nhận.
  6. Đổi thay, hư hoại.
  7. Đại sư ghi nhận.
  8. Ba kiến mãn.

1. Tướng ngu bên ngoài. Chữ “Đẳng” sau cùng, lại có ba môn. Trong giải thích của Văn xuôi, đầu tiên, là giải thích ba tướng của Thiểu dục trụ. Tâm Như lai nhập lý hiện quán của sự xả trong Thiểu dục trụ, gọi là nhân thiểu dục:

1/ Do việc làm rốt ráo.

2/ Do hạnh nhàm chán của đệ tử đã thành.

3/ Vì nhiều sự nghiệp hóa đạo người, khiến họ thiểu dục. Lại, như thuyết kia nói: “Đức Như lai nhập vào vắng lặng, thiên trụ v.v… ”. Như quyển tám mươi sáu trước đã nói: “Do tám nhân duyên, đức Như lai nhập vắng lặng thiên trụ, cho đến nói rộng.

Thứ hai, là giải thích tự tánh. Luận sư Cảnh nói: “Các đối tượng giáo hóa lược có bốn hạng, là tánh được điều phục. Tổng số có bốn. Trong nêu chỉ có ba, phải biết rằng, nếu số lầm, bản thảo cũng lầm nên sửa lại là ba”.

Lại, có một cách giải thích: “Lìa ngu si, buông lung là hai”.

Thứ ba, giải thích về bốn thứ sinh cung kính, trụ nhanh chóng chứng vô thượng. Luận sư Cảnh nói: “Thể tánh của cung kính không có văn”.

Theo Tiểu thừa, nói về yêu kính. Yêu là kính, yêu là tín, kính là dục. Nay, xét giải thích trong đây, giống như lấy tín, dục làm thể của cung kính.

Luận sư Đạt nói: “Có thể sinh tướng cung kính đối với bốn chỗ, tức ở dưới nói: “Đối với chỗ nên được”.

Thứ tư, giải thích về ba vô thượng. Luận sư Cảnh nói: “Trong đây, nói chung, hiện pháp lạc trụ của trí đoạn: trí là trí Vô thượng, đoạn là giải thoát của tâm bất động. Hành của lạc Tốc thông, là hiện pháp lạc trụ.

Nói “Phải biết rằng tất cả hành của A-la-hán, đều được gọi là Lạc tốc thông v.v…” nghĩa là dựa vào đây sẽ giải thích sau, tức biết chánh hạnh ở trước không có chi trên, nghĩa là lạc tốc thông, tức y cứ tất cả hạnh của A-la-hán, gọi là Lạc tốc thông, chẳng phải y cứ ở địa để nói về môn bốn hạnh.

Luận sư Đạt nói: “Tất cả bốn hạnh tích của Thân bậc Vô học này, đều gọi là Lạc tốc thông hạnh, không gọi là Lạc trì khổ tốc, khổ trì v.v…”

Dưới đây là giải thích lý do, rằng vì tất cả thô nặng dứt diệt hẳn, nên tất cả việc đã làm xong.

Thứ năm, trong giải thích về hai thời gian là như thật biết về thân kiến. Luận sư Cảnh nói: Trong hai thời gian là môn thứ nhất. Do bốn thứ tướng v.v… là môn thứ hai, tức ở vào hai thời gian vô gián, chứng được các lậu đã dứt dứt hết, là môn thứ ba.

Dưới đây, sẽ theo thứ lớp giải thích: Thế nào là hai thời gian?

1/ Ở địa phàm phu, tức nội phàm phu trước Kiến đạo, thực hiện quán vô ngã, biết khắp thân kiến là chấp điên đảo.

2/ Ở thời gian kiến đạo, tức dứt trừ phân biệt ngã kiến trong kiến đạo.

Nói “Vì tự tánh cho đến “hoặc làm ngã sở, nghĩa là chỉ đối với tự tánh của hành năm uẩn, chấp ngã, ngã sở. Nơi chốn, nghĩa là cảnh sở duyên: Chấp ngang trong vô ngã, có ngã là cảnh sở duyên.

Đẳng khởi, nghĩa là vô minh thuộc về kiến thủ. Xúc sinh thọ là duyên ái, nói từ thân kiến làm gốc. Kế là, khởi thuộc về kiến, nói về thân kiến ở trước chẳng phải hơn, chấp là hơn. Tương ưng của kiến thủ, tức có vô minh làm duyên sinh lại, thọ “duyên” sinh ái. Pháp như thế v.v… đều do từ đẳng khởi của thân kiến, cũng có thể từ thân kiến đẳng khởi kia, nghĩa là do kiến thủ “duyên” “ngã” chẳng phải hơn mà chấp là hơn, đồng với vô minh và xúc làm “duyên” sinh thọ. Lãnh thọ ở ngã, khởi ái ở ngã. Do ngã ái này, nên khởi thân kiến, quyết định chấp nhã. Ở đây lại có năm thứ lớp duyên khởi, nghĩa là chủng tánh của hạt giống giới làm duyên sinh các thứ tánh v.v… của hạt giống xúc: Giới tức sáu giới, giống như sáu nhập “duyên” “xúc”, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái “duyên” thủ v.v…

“Do quả cho đến:

“1- Lúc dựa vào vô ngã, quán sát kỹ pháp nhẫn”, nghĩa là tức quán sát pháp không có nhân trước kiến đạo.

1/ Lúc hiện quán, tức ở kiến đạo.

2/ Lúc chứng đắc La-hán, đây là nêu ba thời gian. Một thời gian trong đây, do sức Tát-ca-da kiến của tùy miên kia, nên có “hoặc” có “nghi” cho đến “nói là nga sẽ dứt trừ, không ưa thu nhập”, là chướng ngại “nhân” trước kiến đạo. La-hán kia ở vào thời gian khác, dù từ đây qua tịnh, tu tâm mình, lại, đối với thánh đế đã được hiện đế v.v…” là bốn thiện căn, đã được hiện quán tương tự đế, chưa được chân kiến đạo, ở trong đó, vẫn còn khởi phân biệt ngã kiến, mạn v.v… che lấp kiến đạo, đó là chướng ngại trong địa vị thứ hai.

Trong hai địa vị trước “do sức tùy miên làm chướng ngại cho địa vị thứ ba, do sức tập khí làm chướng ngại”, có một giải thích: “Lý thuận theo này đồng với Tiểu thừa: Không nói tu đạo có Câu sinh ngã kiến và mạn, chỉ có kiến dứt trừ phân biệt ngã kiến và tập khí ngã mạn. Trong hai địa vị trước có hạt giống của chánh sử và khởi làm chướng, gọi là tùy miên.

Thứ hai, lại giải thích dựa vào môn thật lý, hai địa vị trước có hiện

khởi phân biệt ngã kiến, mạn v.v… kia là chướng ngại, gọi làm tùy miên là nghĩa sử. Câu sinh kiến mạn trong địa vị thứ ba hiện khởi, gọi là tập khí. Vì chẳng phải dựa vào phân biệt kiến, mạn ở trước mà khởi, nên gọi là tập khí.

Lại, do ba duyên, nên các hành sinh trưởng, là giải thích do ba duyên mà sinh hành Dị thục, hoặc sinh hành phiền não.

Nói “Ở địa vị phàm phu có thể biết khắp, nghĩa là biết được lỗi lầm giả dối của phân biệt kiến mạn, trong kiến địa, có thể được kiến đạo, đã dứt trừ hẳn các lậu.

Kế là dứt trừ kiết khác, chứng được La-hán v.v… Đây là giải thích chương thứ ba, tức ở vào hai thời gian vô gián, chứng được các lậu dứt hết”.

Thái Pháp sư nói: “Có người giải thích: “Địa vị tu đạo cũng chưa chứng đoạn phân biệt, khởi ngã mạn, chứng”, Tam Tạng Pháp sư không thừa nhận.

Luận sư Đạt nói: “Một thời gian trong đây cho đến” không thích thu nhập” là giải thích thời gian hiện quán thứ hai.

Lại, đối với Thánh đế v.v…” trở xuống, là giải thích thứ ba, thời gian chứng đắc A-la-hán.

Lại có một giải thích: “Cho đến “không thích thú nhập” là giải thích về thời gian thứ nhất.

“La-hán kia ở vào thời gian khác v.v…” trở xuống, là giải thích về thứ ba, do sức tập khí hay gây nên chướng ngại, chỉ cho địa vị thứ ba chỉ có tập khí chướng ngại.

Thứ sáu, là giải thích về năm vấn ký. Đây chính là môn đầu tiên của ba môn ghi nhận trong bài tụng.

“Vì tự tánh”, nghĩa là phải biết rằng, tự tánh của năm thứ sắc v.v… tức năm uẩn.

Nói “Vì hoàn diệt” nghĩa là vì chỉ được đoạn diệt thủ dục tham ở trong các hành, nói dứt trừ dục thủ, dưới đây là giải thích hàng phục vấn nạn:

Nói “La-hán kia vì không thể dẫn ở hiện tại”, nghĩa là trên thân hiện tại của vị A-la-hán kia, vì không thể dẫn hành nghiệp, nên lập bày các hành chỉ có hai thứ:

  1. Tạo tác nghiệp Hữu sau trong sinh báo.
  2. Tạo tác nghiệp của Hữu sau trong hậu báo, nên nói là “hai thứ”.

Phẩm loại khác nhau, nghĩa là mười một thứ v.v… là năm môn như môn ba đời v.v…

Lại, phương tiện trôi lăn, nghĩa là phẩm vô minh, ái, tùy theo pháp thích ứng v.v… là giải thích lại trôi lăn. Vì vô minh phát sinh ái thấm nhuần, nên nói tùy là thích ứng v.v…

Lại. “Do hai duyên” v.v… trở xuống, là giải thích lại trôi lăn.

Thứ bảy, là giải thích về ghi nhận ba xứ thật, ở đây tức ghi nhận câu hỏi thứ hai trong ghi nhận ba môn. Đối với ba xứ, chỉ có bậc Thánh ghi nhận thật, chẳng phải các phàm phu, trừ nghe từ người khác, nghĩa là kiến chấp ngã, ngã sở trong các hành, “ngã” chẳng phải như thật, đây là nghe từ người khác, ngã chẳng phải như thật, dù là phàm phu, nhưng cũng có thể ghi nhận.

“Nếu ngã kiến kia vì dựa vào có chuyển ngã mạn”, là một môn chương, tức là phân biệt ngã kiến làm y chỉ cho ngã mạn, ngã mạn mới được khởi, là y cứ ở phàm phu. Ngã kiến kia dù đã dứt trừ, nhưng ngã mạn này, tất cả đều chưa dứt, nghĩa là phân biệt ngã kiến dù thôi dứt, nhưng ngã kiến này đã sinh ngã mạn ở tu đạo, tất cả chưa dứt, là môn thứ hai. Nếu không có khởi dựa vào ngã mạn, vì không dứt như cũ, nên hiện hành, nghĩa là mạn do Câu sinh thân kiến sinh, ra không vào phân biệt thân kiến mà bậc Thánh vẫn khởi, cho nên nếu không khởi nương dựa vào ngã mạn, vì không dứt trừ như cũ, cho nên hiện hành. Phải biết rằng, hai thứ ngã mạn trong đây:

1/ Đối với các hành, chấp mắc hiện hành, Bậc thánh đã dứt trừ, không còn hiện hành nữa, nghĩa là phân biệt ngã mạn.

2/ Do thất niệm, suất nhĩ hiện hành, do tùy miên, cho đến vì đối với các Thánh đạo, chưa khéo tu, nên vẫn khởi hiện hành, là Câu sinh ngã mạn. Dù dứt trừ phân biệt ngã kiến, nhưng do tùy miên của mình và vì chưa tu Thánh đạo, cho nên hiện hành Tát-ca-da Kiến, chỉ có tập khí thường xuyên đã theo đuổi, vào thời gian thất niệm (quên mất), làm chỗ dựa cho ngã mạn, khiến cho hiện hành tạm thời v.v….

Tập khí có hai giải thích:

1/ Môn tùy chuyển, vì Bậc thánh vẫn còn có tập khí (thói quen) của phân biệt ngã kiến, nên làm y chỉ cho tu dứt trừ mạn, ngã mạn được khởi.

2/ Nói Câu sinh ngã kiến là Tập khí, vì nương tựa phân biệt ngã kiến sinh, nên gọi là Tập khí. Lại, “Các Thánh cho đến “huống chi quán cộng tướng”, nghĩa là nếu Bậc thánh tư duy tự tướng của các hành: Đất là tánh cứng chắc, gió là tánh xao động v.v… thì còn không để cho ngã mạn hiện hành, huống chi là quán cộng tướng của khổ, vô ngã v.v… mà được ngã mạn hiện hành.

Nói “Nếu đối với pháp giả cho đến “Tạm thời được hiện hành”, lại, nếu suy nghĩ pháp giả bình, chậu v.v… Trụ trong chánh niệm, cũng khiến cho ngã mạn không hiện hành. Nếu đối với pháp giả, không trụ ở chánh niệm, chấp có thật ngã v.v… thì ngã mạn sẽ được hiện hành.

Lại “Tát-ca-da Kiến, trong sự nối tiếp nhau của bậc Thánh thì tùy miên và triền, đều chưa dứt hẳn, đó là Câu, sinh, kiến, mạn đã dứt.

Nói “tập khí theo đuổi trong địa vị học chưa thể dứt trừ dứt”, nếu các tùy miên của ngã mạn và triền, đều chưa dứt hẳn thì đó là Câu, sinh, kiến, mạn.

Lại, “chấp dục của ngã v.v… trở xuống, là giải thích rộng văn kinh. Luận sư Bị nói: “Tát-ca-da Kiến chỉ có tập khí v.v… ”, Tam Tạng Pháp sư đưa ra hai giải thích:

1/ “Đây là tùy miên của câu sinh ngã kiến”. Hỏi: “Nếu vậy, thì vì sao hạt giống của phân biệt ngã kiến ở trước, gọi là tùy miên, còn hạt giống của Câu sinh ngã kiến ở đây, gọi là tập khí ư?”

Đáp: “Vì hạt giống của phân biệt ngã kiến mạnh, nên gọi là tùy miên, còn hạt giống Câu sinh này yếu, nên gọi là Tập khí”.

2/ Giải thích: “Trước kia nói do tùy miên, nghĩa là hạt giống của phân biệt ngã kiến, ở đây nói rằng tập khí, lại là tập khí tàn dư của phân biệt ngã kiến, vì tập khí của phân biệt ngã kiến, nên có thể làm y chỉ cho Câu sinh ngã mạn”.

Luận sư Đạt nói: “Nói ba xứ:

1/ Xứ của kiến chấp ngã, ngã sở.

2/ Xứ của phân biệt ngã mạn.

3/ Xứ của Câu sinh ngã mạn.

Thứ tám, là giải thích hai thứ an ủi, hỏi han, tức là ghi nhận câu hỏi thứ ba trong ba sự ghi nhận.

Nói “Phải biết rằng câu hỏi này bằng nhau trong bốn địa vị”, nghĩa là có bốn câu hỏi trong hỏi yên vui. Như thứ lớp phối hợp với bốn địa vị, rất dễ hiểu.

Thứ chín, là giải thích chánh pháp tương tự, trong đó:

1. Dẫn kinh, nói sơ lược về kiến chấp pháp tương tự.

Trong phần trước, Luận sư Cảnh nói: “Đại ý, hai nhà tà, chánh cùng giải thích chung thuyết trong kinh. Nói “A-la-hán không thuận, cũng có “Vô tri” trong sự v.v… ”, nên gọi là “không thuận”m là đối với uẩn, giới, xứ v.v… là việc vật ăn trong hiện pháp, hoặc thuận, không thuận, không biết như thật”.

Kế là nêu nghĩa tà, vấn nạn về nghĩa chánh:

Nói “A-la-hán không thuận, không thuận là phân biệt giả dối không như lý, chẳng phải A-la-hán không thuận với hiện pháp. Họ tự giải thích: “Vì sao? Vì La-hán kia hiện có thể nhìn thấy việc vật ăn v.v… không thể nói rằng, không thuận với hiện pháp, nhưng trong kinh lại nói “không thuận”, là vì có mật ý riêng. Do nhân duyên này, các A-la-hán, sau khi diệt độ đã không thuận với các hành, không hiểu rõ chấp mắc, tự nói: “Sanh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ thân hậu hữu. Đối với những sự việc ở vị lai, không khéo thấu rõ kinh, nói là không thuận”. Dưới đây, nhà chánh nghĩa phân biệt là quấy, nên nói: “Phải biết rằng, đây là tương tự chánh pháp”. Kiến do thế lực của hai thứ nghĩa làm duyên. Các đồng phạm hạnh hoặc Đại Thanh văn, vì muốn đoạn diệt kiến cùng cực chánh pháp tương tự, nên tạo tác công dụng. Chớ khiến cho người kia, hoặc chỉ bảo cho người khác v.v… biết”.

Luận sư Đạt nói:

“1/ Chính dẫn văn kinh, để giải thích câu không thuận của A-lahán.

2/ Nói: “A-la-hán v.v… ” trở xuống, là Luận sư giải thích về nghĩa không thuận. “Không thuận” trong kinh cho đến La-hán vì có “vô tri” trong sự, nên không phân tích rõ uẩn giới của vật thực, nên nói là “không thuận”. Vô tri, hoặc gọi là “không thuận”.

Y cứ cách giải thích của Luận sư, nghĩa bất chính đầu tiên trong “không thuận”, nghĩa “không thuận” của nhà giải thích.

2/ “Phải biết rằng, đây là chánh pháp tương tự” trở xuống, là nhà chánh nghĩa giải thích về nghĩa “không thuận”.

Y cứ trong nhà giải thích của nghĩa bất chính: 1- Hội giải thích về văn kinh. 2- “Do nhân duyên này v.v… ” trở xuống, nói biết rõ về Pháp sự không chấp mắc. 3- “Cho nên, đức Thế tôn v.v… ” trở xuống, dẫn kinh để chứng thành nghĩa bất chính.

Luận sư cho rằng: “Bậc A-la-hán chẳng phải không biết rõ Pháp sự, vì hiện có thể trông thấy, đây là thức ăn, đây là y phục, đây là uẩn giới v.v… nên không chấp mắc.”

Nhà chánh nghĩa phá rằng: “Người A-la-hán bỏ thân này, tức là nhập Niết-bàn vô dư y. vậy ở chỗ nào nói rằng, sau La-hán diệt độ, không chấp trước và chấp trước.” Văn giải thích của Nhà chính nghĩa rất dễ hiểu.

Do hai thứ nghĩa:

1/ Chớ khiến cho người kia, hoặc tự bày tỏ nói, cho đến địa cùng cực cõi dưới.

2/ Hoặc do kính yêu giáo pháp của Phật, chớ nhân kiến chánh pháp tương tự như thế, khiến cho giáo ẩn diệt. Do hai nghĩa này, nên muốn đoạn chánh pháp tương tự.

Thứ hai, tùy nghĩa nói rộng, có thể sinh ra nhân kiến chấp chánh pháp tương tự, trong đó chia làm ba:

1- Nêu hai nhân có thể sinh kiến chánh pháp tương tự.

2- Nói về dứt trừ hai nhân, nên nói hai chánh pháp.

3- Nói chưa dứt trừ thân kiến có hai lỗi. Y cứ trong giả thứ, nói vì dứt trừ hai nhân, nên nói hai chánh pháp:

1/ Chánh pháp vô thường.

2/ Chánh pháp vô ngã, gọi là đối trị một nhân, hoặc trị chung hai nhân.

Đối với nội dung trong bốn chuyển, Luận sư Cảnh nói: “Sau Như lai diệt độ, với bốn trường hợp hữu vi, vô vi, cũng có cũng không, chẳng phải có. Chẳng phải không, gọi là bốn chuyển.”

Thái Pháp sư nói: “ Y cứ chuyển bốn trường hợp như hữu vi v.v… để nói, nên nói rằng bốn chuyển.”

Nói “Ngã của Thanh văn, Độc giác, Phật, Thế tôn, gọi là Như lai. Phải biết rằng hai thứ giả lập ngã này: Hữu vi giả lập trong hữu dư y. là Vô học của Ba thừa, y cứ chung, đều gọi là Như lai. Nương đạo như thật lai thành Chánh giác, chỉ “ngã” của hữu vi giả lập trong hữu dư y, “ngã” của vô vi được giả lập trong vô dư y.

Dưới đây sẽ y cứ thắng nghĩa để dứt trừ.

Nói “Nếu dựa vào thắng nghĩa thì chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, tức là thích hợp với chân tánh; hữu vi trống không như huyễn, vì là “duyên” sinh.

Nói “cũng chẳng phải vô vi, cũng chẳng phải hữu vi: cho nên tương đương với vô vi không có thật không khởi giống như hoa đốm trong hư không. Hữu vi, vô vi đều không thật có thì đâu được y cứ vào chúng để lập ngã giả. Do nói giáo chánh pháp như thế, nên đối với sáu thứ tướng, lúc giác ngộ sinh phải biết dứt hẳn kiến tương tự chánh pháp.

  1. Giác ngộ vô thường thuộc về y chỉ.
  2. Giác ngộ khổ này ở trong hiện pháp.
  3. Giác ngộ của nhậm vận diệt là diệt, đây là dư báo của la-hán nhậm vận diệt.
  4. Gíác ngộ ở đoạn giới là vắng lặng.
  5. Giác ngộ ở lìa giới là mát mẻ.
  6. Giác ngộ ở diệt giới là mất hẳn.

“Nếu đủ như thế cho đến chấp hý luận”, là quở lối chấp kia, chấp La-hán sau diệt độ, không hiểu rõ về vị lai: “sanh tử của ta đã hết v.v…”

Thứ mười, là giải thích về nơi chốn của nghi. Luận sư Cảnh nói: “Đối với luật pháp nội, cho đến ghi nhận một lần không có sinh, Đức Phật thường quở khởi chấp “có”, “không”, mà đối với qua đời, đệ tử chấp sinh bất sinh.”

Lại, nói “Ngã thường trú của thắng nghĩa cho đến cũng như thuyết trước nói”, nghĩa là trước rằng: “Hai nhân của hữu sau có thể sinh kiến chấp chánh pháp tương tự như thế:

1- Đối với Tát-ca-da Kiến nội tại, chưa thể dứt trừ hẳn.

2- Dựa vào Tát-ca-da Kiến (thân kiến) này, chấp giả dối sĩ phu của trôi lăn, hoàn diệt.

Vì dứt trừ hai thứ nhân như thế, nên nói hai chánh pháp để làm đối trị, nghĩa là đối với thứ lớp các hành, nói rộng về vô thường, vô ngã. Trong bốn chuyển tìm kiếm sĩ phu của Trôi lăn, Hoàn diệt, đều không thể được, nghĩa là nương tựa hữu vi, hoặc dựa vào vô vi v.v…

Nói “Do hai nhân duyên cho đến “Vì không giống nhau, nghĩa là ngoại đạo chấp ngã tự tại, vì hiện thấy không thể tự tại, nên tánh vô ngã rất dễ hiểu rõ dễ dàng. Nhưng các hạnh vô ngã này, về sau, sẽ có thấy, nghe, hay, biết, tạo nghiệp thọ báo, mỗi thứ đều không đồng. Lại khó thấu rõ về vô ngã này, với thể là rất sâu, tướng nó vi tế, giống với hiện hạnh rất sâu.

Luận sư Đạt cho rằng: “Nói hai thứ nơi chốn:

1/ Nói “Là thật v.v…” trở xuống, nói sinh nghi đối với đức Phật.

2/ “Lại nói thắng nghĩa v.v…” trở xuống, là nói sinh nghi đối với thắng nghĩa.

Thứ nhất, đối với Phật sinh nghi: “Vì sao Phật, Thế tôn bài báng, chê bai có kiến và không có kiến, mà tự ghi nhận đệ tử chết mất. Sau khi mất, hoặc ghi nhận một người có sinh, hoặc ghi nhận một người vô sinh ư?”

Thứ hai, trong sinh nghi đối với thắng nghĩa,. Ngoại đạo vấn nạn: “Nếu khiến cho thắng nghĩa không thể được ở trong hiện tại, vị lai, thì vì sao cả ba Luận sư đều nói thắng nghĩa này có ư?”

Nói “Dù tướng mạo này có biết rõ dể dàng”, nghĩa là đệ tử của Phật pháp dể hiểu về tướng mạo của vô thường, vô ngã, nên nói “rất dễ hiểu dể dàng”. Nhưng tướng mạo ấy không giống nhau, nghĩa là ngoại đạo vì không hiểu vô thường, vô ngã, nên không giống với pháp.

“Phải biết rằng, trong đây v.v…” trở xuống, giải thích rải rác tên khác trong kinh.

Thứ mười một, giải thích không ghi nhận.

Thứ mười hai, giải thích về sự đổi thay, hư hoại, đều như văn rất dễ hiểu.

Thứ mười ba, giải thích về sự ghi nhận của Đại sư.

Nói “Phải biết rằng, luận Đoạn biến tri đối với tất cả hành trong đây, đã nói là Như lai, tức là một luận ở trước là luận đoạn biến tri của các chấp này. Lại, các chấp này nếu chưa đoạn diệt, thì tùy theo quán chúng, sẽ có ba thứ tai hại lỗi lầm. Nếu đã đoạn diệt, sẽ được ba công đức v.v… tức là thứ hai, vì các chấp này dứt trừ luận Biến tri.

Thứ mười bốn, giải thích ba kiến mãn.

Thứ mười lăm, giải thích tướng ngu ngoại, đều như văn, rất dễ hiểu.

Thứ mười sáu, giải thích thành sáu phần. Đây là chữ v.v… sau cuối trong bài tụng, gồm thu môn đầu trong ba môn. Văn xuôi là môn thứ mười sáu. Sáu phần nghĩa là dùng chữ “Lại” xen vào.

Thứ mười bảy, là giải thích hai thứ luận, là môn thứ hai trong Đẳng thủ.

Thứ mười tám, là giải thích hai thứ khác nhau của Học, Vô học, là môn thứ ba trong chữ “Đẳng”.

Nói năm tướng: Tức ba Vô thượng là ba. Quán pháp thân Phật là thứ tư, thờ phụng Như lai là thứ năm.

BẢN LUẬN QUYỂN 89

Trên đây, Khế kinh có lựa chọn hành trong bốn lựa chọn, đã giải thích xong.

Dưới đây, là thứ hai, nói về lựa chọn xứ, có văn của bốn quyển, dùng quyết định rộng mười hai xứ, nên nói “Lựa chọn xứ”.

Trong y cứ: 1- Kết trước, sinh sau; 2- Nêu giải thích trong bài tụng. Bài tụng có hai:

Trước là nửa bài tụng chung, nêu ra bốn môn, tức dùng ba bài tụng riêng để giải thích, sau là có nửa bài tụng chung để nêu bốn môn, tức dùng bốn bài tụng riêng để giải thích. Bốn môn trong nửa bài tụng trước là:

  1. An lập đẳng.
  2. Trí đẳng.
  3. Đồng đẳng.
  4. Ly dục đẳng.

Riêng Ốt-Đà-Nam, giải thích về an lập. Trong bài tụng có tám môn:

  1. An lập.
  2. Sai khác.
  3. Ngu.
  4. Không ngu.
  5. Giáo thọ.
  6. Giải thoát.
  7. Phiền não.
  8. Nghiệp.

Đều nói rộng nghĩa là trong ba môn: Giải thoát, Nghiệp, Phiền não đều phân biệt rộng.

Đầu tiên là giải thích về an lập, như văn rất dễ hiểu.

Thứ hai, là giải thích về sai khác:

Nói: “Do ba hòa hợp, lập nên ba thứ trước riêng: Ba thứ căn, trần, thức hòa hợp sinh thọ.

Nói “Gom quả xúc của ba hòa hợp, lập nghĩa khác nhau thứ năm. Luận sư Cảnh nói: “Xúc là quả của ba hòa hợp. Thọ là quả của xúc, nên nói chung: do quả của ba xúc hòa hợp.

Nay, giải thích trực tiếp do quả của xúc hòa hợp, nên lập thọ thứ năm riêng.

Nói “Do hai nghĩa tạp nhiễm: Nghiệp, Phiền não, lập hai thứ khác nhau: thứ bảy, và thứ tám. Do nghĩa nghiệp, tạp nhiễm, lập tư thứ bảy riêng. Do nghĩa phiền não tạp nhiễm, lập ái thứ tám riêng. Do tư với ái đều tương ưng với ba thọ.

Thứ ba, là giải thích về sự ngu muội trước, giải thích về hai thứ tất cả, tức là pháp của cái ngu. Sau, nói về ba tướng ngu.

Tự tánh ngu: Do triền, nên tức là quên mất ở đời hiện tại, nghĩa là hiện khởi vô minh, gọi là triền, tự thể tối tăm, gọi là quên mất, vì do tùy miên, nên tức là pháp quên mất ở đương lai: Do có tùy miên, nên sinh pháp quên mất của vô minh trong tương lai.

Nói “Năm tướng thọ an lập”, nghĩa là tự tánh v.v… như trên đã nói.

Thứ tư, là giải thích về không ngu, như văn.

Thứ năm, là giải thích về giáo thọ (truyền dạy):

1/ Dẫn đạo, truyền dạy, tức là “thần thông luân”.

2/ Tùy đối tượng thích ứng, đối với cảnh sở duyên, ở yên, truyền dạy, tức là “ký tâm luân”.

3/ Khiến đối tượng hóa độ được truyền dạy nghĩa mình tức là giáo giới luân lậu tận thông.

Thứ sáu, là phân biệt rộng giải thoát, trong đó có bốn: 1) Nói về cầu trí giải thoát. 2) Nêu địa vị giải thóat. 3) Nói về Tỳ-kheo tịnh hạnh có năm thứ pháp, phần nhiều có việc làm. 4) Vấn đáp để nói về thể của giái thoát

Trong phần đầu,

1) Văn, tư, v.v… như lý. Ở trước kiến đạo, có thể thành tựu giái thoát của Hữu học kiến tu.

2) Tuệ hữu học có thể thành tựu giải thoát của Vô học.

Kế là ở địa vị giải thoát có hai:

1- Hữu học, nghĩa là Kim cương dụ: y cứ vào ngữ của thời gian cuối cùng.

3) “lại nửa, hạnh thanh tịnh của tâm, Tỳ-kheo có năm thứ pháp, phần nhiều có việc làm, tức Kiến đạo trở xuống. Một chánh giáo thọ có ba hạng bạn chánh, nghĩa là Đại sư v.v…

2. Chi Xa-ma-tha: Thi-la v.v… Vì giữ giới, nên tam muội hiện ở trước, vì thế nói là chi.

1/ Chi Tỳ-bà-xá-na, nghĩa là được ba thứ tùy theo ý muốn ngôn giáo phát sinh tuệ nghe, tư duy v.v… sinh ra trí chứng làm chi:

2/ Ngôn giáo nhàm lìa, nghĩa là nói bốn thánh: nương vào ba hạng, để cho gia tăng thiểu dục, hỷ túc, tức ba nhánh chủng trước. Và, ưa đoạn, ưa tu, v.v… nghĩa là thánh chủng thứ tư.

3/ Ngôn giáo lìa cái, hướng đến ái, nghĩa là xa lìa các cái, cũng rời các kiến thú và ái.

Ngôn giáo có ba thứ:

  1. Tất cả phiền não gọi là cái.
  2. Chỉ có năm cái, gọi là cái.
  3. Vô minh, nặng nề trong chướng che lấp, cũng gọi là cái.

Nay, nói về thể ba thứ ngôn giáo lìa cái này hướng đến ái. Trong hai lượt giải thích về cái ở trước đã có, cũng đều có cái vô minh. Cho nên, trong ba lượt giải thích về cái đều có ngôn giáo hướng đến ái. Phải biết rằng, sự nương tựu trong đây là chứng đắc, đoạn, lìa diệt giới tất cả ngôn thuyết, là ngôn giáo đầu tiên, nghĩa là như nói năm phần pháp thân, chứng tỏ chướng dứt hết, được đoạn giới v.v… là ngôn giáo ban đầu. Nương tựa tức công đức vượt hơn đối với kiến kia. Và, đối với xứ cái bị đối trị, thấy sâu sắc tai họa lỗi lầm v.v… của các hành. Tức là bậc thánh đã gieo trồng công đức, thiểu dục, tri túc. Và, nhận thấy sâu sắc tai hại lỗi lầm của cái v.v… bị dứt trừ, là ngôn giáo thứ hai.

“Thuận theo tất cả ngôn thuyết duyên khởi của tánh duyên như thế, là ngôn giáo thứ ba” là nói lìa vô minh cái kia, thú hướng ái, tức là sở hữu ngôn thuyết duyên khởi minh là giáo thứ ba, cũng nói là môn ba giáo, tức đầu tiên, ba thứ trong giáo thứ ba, là nói về cái để nói ba giáo:

1. Sự nương tựa là chứng đắc, đoạn, ly, diệt giới tức tất cả phiền não này là cái v.v… là giáo đầu tiên.

2. Nói năm cái là cái. Là ngôn giáo thứ hai.

3. Nói vô minh là cái v.v… là giáo thứ ba,

Lại, ngôn giáo này lược nói cách tóm tắt. Lại có ba giáo v.v… tức chỉ rỏ ba giáo năm phần pháp thân v.v… của ba tuyên thuyết trước.

Giải thích lại ba giáo trước, rất dễ hiểu.

4. Nói bảy tùy miên, tức hạt giống của bảy sử.

5. Nói về phiền não. Luận sư Cảnh nói: “ Đây là y cứ chung. Hoặc căn bản, hoặc tùy, gọi là chung là “tùy hoặc”, vì lần lượt theo đuổi nhau mà khởi, luận Đối Pháp nói có hai thuyết:

1) Rằng: “Trừ sử căn bản, sử khác được gọi là tùy phiền não. Lại nửa, tất cả phiền não đều gọi là tùy phiền não,vì chúng lần lượt theo nhau khởi, do văn chỗ này.

Mình thấp kém đối với người khác, mà cho mình là hơn. Hoặc bằng nhau, cho mình bằng nhau, gọi là mạn. Đối với bằng nhau, cho là vượt hơn, đối với người hơn, cho là bằng nhau, gọi là quá mạn. Văn này nói đủ. Bà-sa, Câu-xá, chỉ nói rằng: “Đối với bằng nhau, cho là hơn, không nói đối với vượt hơn, cho là bằng:” vì sao văn lại nói như thế ư?

Lại, nhiều cách giải thích rằng: “Đối với bằng cho là hơn, đối với hơn cho là bằng. So với cảnh cũng là quá mạn. Nhưng tâm cho là bằng không thuận với nghĩa vượt quá, cho nên không biện luận. Vì văn này đầy đủ, nên gồm thu quá mạn”.

Thái Pháp sư nói: “ Tâm pháp chỉ có năm mươi một, nên phẫn phát v.v… nhiếp nhập số.”

Luận sư Đạt nói: “Luận Tiểu thừa không nói đối với hơn cho là bằng, gọi là quá mạn, nên Luận sư nêu lên trở ngại: “Vì sao không nói là thầy của chỗ kia bằng nhau?

Giải thích: “Đối với bằng cho là hơn, nghĩa là tâm, cảnh đều hơn, nên nói là quá mạn. Đối với hơn cho là bằng, nghĩa là tâm quá cảnh không vượt qua. Cho nên không nói, thật sự cũng có, vì chấp không quá trong cảnh bị so sánh, nên nói “cảnh không quá”.

6. Nói tám Triền. Trong đây nói về hiện khởi, gọi là triền. Tuy nhiên có tám thứ “hoặc” tùy, thường thường hiện hành trong bốn thời gian, nên lập làm Triền. Vì phẫn, phú không thuận với bốn nghĩa,nên không lập làm triền.

7. Nói về bốn bộc lưu. Luận sư Cảnh nói: “Ở đây giải thích bốn lưu, khác với xưa: Chỉ lấy độc thêm hành, nghĩa là lập bốn lưu (dòng) phiền não trong thân. Hai lưu trước ở người chẳng phải ngoại đạo, hai lưu sau ở ngoại đạo:.

Thái Pháp sư nói: “Ở đây nói về lậu ách chấp kinh, rất khác với luận khác.”

8. Nói về bốn ách, nghĩa là người tu hành đẳng phần trong cõi Dục, trừ dục, trừ kiến, vô minh ách khác bị ách dục. Phiền não của hai cõi trên, trừ kiến, vô minh, phiền não khác gọi là ách hữu. Vô minh của ba cõi gọi là Ách vô minh. Phiền não của hành nhân Bạc trần, chẳng phải Ách bộc lưu.

9. Nói về bốn thủ. “Hỏi: “Cái gì là “sở thủ”? Đáp: “Dục, kiến, giới cấm, ngã, ngữ là “thủ”: Dục là bốn kiến, giới là hai nghiệp thân, ngữ của giới gà, chó v.v… Ngã ngữ tức là ngã kiến và sở ngã chấp (Cái ngã chấp). “Sở thủ) này vì theo nhau, nên cũng gọi là Thủ. Năng Thủ tức là bốn thứ dục tham. Thủ làm, nghĩa là vì được các dục và vì thọ dụng, nên khởi thủ đầu tiên: Khởi “năng thủ” trong Thủ ban đầu.

“Do tham lợi dưỡng cho đến “Thoát khỏi điều gạn hỏi, vấn nạn của người khác, khởi thủ thứ hai”, nghĩa là vì tham lợi dưỡng cho nên tham cầu các kiến. “Xa-ma-tha làm chỗ nương tựa cho đến “Khởi thủ thứ ba”, nghĩa là vì được tám định, thọ trì tà giới.

Vì muốn tùy theo thể để phân biệt về nghiệp đã tạo, thọ quả v.v…

khởi lên ngã ngữ thủ. Văn trong đây cụ thể không đồng, luận Đối Pháp chỉ nêu “sở thủ”, gọi là thủ. Văn trên Du-già, nói thô là “năng thủ”, gọi là thủ, nói bốn thứ như dục tham.

Nói Bốn thủ như thế dựa vào hai phẩm, nghĩa là phẩm các tại gia thọ dụng dục và các người xuất gia nói các pháp ác.

Hỏi: “Vì sao chỉ nói rằng, các phẩm xuất gia trong nói pháp ác, mà khởi các chấp? Mà không nói các phẩm xuất gia của chánh pháp, cũng khởi các chấp ư? Dưới đây, sẽ giải thích về nghi:

Do Phật, Thế tôn thường tự xưng rằng: “Ta vì dứt trừ hẳn các chấp biết khắp, nên đối với pháp này, thề tu hành, dù phiền não đeo đẳng, đến thân hoại, qua đời, nhưng quyết không kiến lập các chấp đối với pháp kia.”

Vì Đức Phật kia không chút lưu luyến đối với các dục mà xuất gia, nên không có dục thủ đối với kiến giới cấm, kể cả ngã ngữ. Vì không có chấp thọ, nên không có ba thủ còn lại.

Người nói pháp ác có hai:

  1. Người đối với kiến ác, ái, khởi tranh luận.
  2. Người năng chứng nhập định của thế gian.

Dựa vào kiến, ái tranh luận để kiến lập kiến thủ. Dựa vào hay chứng nhập định thế gian, để lập giới cấm thủ. Hai phẩm, vì dựa vào chấp mắc ngã ngữ, nên nương tựa phẩm “câu”, để lập “ngã ngữ thủ”.

Kiến trong đây, nghĩa là sáu mươi hai kiến trở xuống, phát ra thể “sở thủ”. Đã gìn giữ kiến tà phân biệt, gọi là giới. Hành tướng oai nghi gọi là cấm. Vì đế, vì trụ, nên luận nói có ngã, gọi là “ngã ngữ”. Văn này tức lấy chung ngã kiến và ngã chấp làm cảnh của ngã ngữ thủ.

Lại, “Dục ái ở trong đây làm duyên lập dục thủ v.v… trở xuống, là phát ra thể ái của “năng thủ”. Có ai không có ái làm duyên lập ngã ngữ thủ, nghĩa là đối với ngã đã chấp, hoặc có, hoặc không, qua đó khởi ái, gọi là “ngã ngữ thủ”.

10. Nói về bốn trói buộc. Chỉ theo ngoại đạo lập, cũng là bốn ràng buộc: Sử tham của ba cõi là ràng buộc (phược) thứ nhất, giận dữ của cõi Dục là thứ hai. kiến thủ của ba cõi là thứ ba. Giới thủ của ba cõi là ràng buộc thứ tư.

Dưới đây, sáu môn, xem văn sẽ hiểu.

Thứ tám, là phân biệt rộng về môn nghiệp. Văn chia làm ba:

  1. Nói về nghiệp của ba hành động ác.
  2. Nêu luận tà, chánh, nói về nghiệp không đồng.
  3. Giải thích rộng mười sáu nghiệp.

Hai đoạn văn trước ở quyển này, một đoạn sau ở đầu quyển chín mươi.

Y cứ trong ba hành nghiệp ác ban đầu, nói là tất cả thân nghiệp bất thiện, gọi là hành động ác. Ngữ, ý cũng thế, nghĩa là chỉ nêu tánh nghiệp, không đồng với Tiểu thừa lấy chung ý có ba tham, sân, tà kiến cũng gọi là hạnh ác. Đối với các đường ác hoặc đã tùy được, hoặc đương lai hoặc hiện tại v.v… nói ba hạnh ác cảm báo đường ác, hoặc đã được v.v…

Kế là nói về hai luận tà, chánh, để an lập nghiệp nhiễm, trong đó chia làm hai:

  1. Lược nói hai luận, an lập nghiệp nhiễm.
  2. Lại phân biệt rộng về hai luận tà, chánh.

Trong phần trước, nói “tà luận cho đến “Phải biết rằng, đây là tà luận”: tà luận, nghĩa là nói lúc tạo nghiệp ác, vì thường khởi trong phương tiện trước, nên ý muốn hành động sát v.v… gọi là cố ý tạo, nghiệp như thế, nhất định đọa đường ác.

Chánh luận cho rằng chẳng phải như thế, theo điều mà ông phán quyết, tức là chê bai người tu hành phạm hạnh, có thể chứng Niết-bàn?! Vì sao? Vì các loại hữu tình lúc tạo nghiệp ác ở đời hiện tại, chẳng không khởi cố lo nghĩ tạo nghiệp, huống chi ở vào đời khác, là tức cố lo nghĩ tạo nghiệp, quyết định sẽ vào đường ác, là tức lẽ ra lúc không có được giải thoát. Như chánh luận chép: “Chi cố lo nghĩ tạo phần nhiều là bất định. Vì thế kinh Niết-bàn chép: “Nghiệp Bất định của tất thảy chúng sinh thì nhiều, nghiệp quyết định ít. Do nghĩa này, nên có đạo tu tập. Nghiệp nặng quyết định có thể khiến thọ nhẹ. Nghiệp bất định chẳng thể sinh thọ sau.

Nói “Nếu nói như thế v.v…” trở xuống, là nói về chánh luận kia rằng. “Nếu nói vì các hữu, nen lo nghĩ tạo nghiệp bất thiện, thì nghiệp này vừa tạo tác, vừa tăng trưởng”, nghĩa là nhất định thọ quả đường ác. Như có người dù tạo nghiệp không tăng trưởng, thì người ấy thọ pháp kia làm y chỉ. Những người đã tạo tác, nếu không có hối cãi, không tu đối trị, hoặc lại tăng trưởng, hoặc không tăng trưởng, thì nghiệp này dù quyết định thuận với thọ hiện báo, cũng đổi thay để trở thành thuận với thọ đường ác. Hoặc sinh thọ, hoặc hậu thọ, có thể giải thoát trong hiện tại. Nếu vì sinh tâm ăn năn v.v… nên chuyển nghiệp đường ác, khiến thọ nhẹ hiện tại, thì gọi là không chê bai tu tập tham hạnh”.

Hỏi: “Ở trên, đã nói về nghiệp tạp nhiễm, sao lại nói trở thành thuận với lạc thọ?”

Giải thích: “Là điều thiện của phần phước, cũng gọi là nhiễm.” Dưới đây thứ hai, lại phân biệt rộng về luận tà, chánh, có sáu lần “lại nửa”. Lược có năm cặp:

  1. Nói về đôi hội, không hội của đối trị.
  2. Nói về đôi hộ, không hộ của ba nghiệp.
  3. Nói về đôi nhiễm, không nhiễm của năm tướng.
  4. Nói về đôi hành lập bày nghiệp tà, chánh.
  5. Đôi chưa nhập, đã nhập ở trong Thánh giáo.

Y cứ trong đôi thứ hai, nói ngăn giữ nghiệp thân, ngữ, ý bất thiện trong hiện pháp mà trụ, người kia, trước đó đã tạo tác nghiệp ác, cũng khiến tăng trưởng, cho đến khiến tạp nhiễm kia, nghĩa là giới Biệt giải thoát, nghiệp thân, ngữ thiện, là sự ngăn ngừa.

Dưới đây hỏi, đáp để nói về nghĩa ngăn ngừa. Nói là “Như có một cho đến “vẫn cố phát khởi”, nghĩa là trước, hỏi về thọ giới trong tạo nghiệp ác, thề có thể xa lìa, lại khởi tác ý bất chính, trở lại nhiễm thiện ở trước, gọi là không thể ngăn ngừa.

Lại, “Đối với các nghiệp thân, ngữ, ý thiện v.v…” trở xuống, là nói về nghiệp vô tác của điều thiện, đều hiện hành với việc ác không có khác nhau, cho đến không chứng Niết-bàn ở trong hiện pháp.

“Người kia dù ngăn ngừa gìn giữ như thế v.v…” trở xuống, là nói trong hiện tại, tạm thời không làm ác, vì không dứt trừ hạt giống, nên bị tùy miên ràng buộc, trở lại khởi tạp nhiễm trong thân sau. Nếu ngăn ngừa, giữ gìn nghiệp thân, ngữ, ý mà trụ thì sẽ có sự khác nhau này, nghĩa là tướng riêng ở dưới, tìm văn, sẽ hiểu.

Đôi thứ ba, là nói về hai luận tà chánh. Mỗi luân đều do năm tướng thành nhiễm, không thành nhiễm. Năm tướng trở thành tạp nhiễm. Luận sư Đạt nói: “1- Luận vô nhân; 2- Luận ác nhân; 3- Nghiệp ác của thân; 4- Nghiệp ác của ngữ; – Nghiệp ác của Ý. Đây là năm thứ.

Nay, cho rằng, luận đó không đúng, tức ba lỗi của hai luận, gọi là năm.

Nói “Trong hiện pháp cho đến “tức là có một nương tựa vào các pháp lạc bất thiện, thọ mà ưa bất thiện thọ sinh kia, v.v…”, nghĩa là lại nói Lạc thọ, đáp lại nghiệp thiện. Lạc thọ bất thiện trong hiện tại này, là vì bất thiện, nên không được nói là đáp lại nghiệp thiện đời trước sinh. Nếu đáp lại nghiệp bất thiện sinh, thì lẽ ra là pháp Dị thục vô ký, chớ sao lại được là tánh bất thiện ư?”

“Vì sao v.v…?” Trở xuống, là giải thích về nghiệp bất thiện của đời trước, hay cảm quả vui trong hiện pháp.

Nếu nói nghiệp ác trong hiện pháp thọ dụng này làm nhân, thì sẽ trái với tông tạo tác đời trước v.v… mà ông đã lập, gọi là lỗi ban đầu.

Lại, nói các pháp bất thiện đều dùng nghiệp ác của đời trước làm nhân, tức là quyết định pháp lành đã có, cũng dùng pháp lành đời trước làm nhân tương đương so với đời mình tu các đối trị, đều thành vô dụng, gọi là lỗi thứ hai.

Lại, “Nếu hiện tại cho đến “nên làm hay không làm”, nghĩa là nếu đều do tác nhân đời trước, thì sẽ không nhờ vả hiện duyên, lẽ ra sẽ không có lo nghĩ cân nhắc hiện tại: Điều thiện nên làm, việc bất thiện, không nên làm v.v…

Lại, “Trí như thật lẽ ra thành vô dụng”, nghĩa là biết rõ rồi thì ngã ác này nên thay đổi, ngã thiện này nên thành tựu.

Duyên hiện tại của thuyết kia, vì chẳng phải có, cho nên cái ngã này nên chuyển v.v… Cũng vì chẳng phải có, nên trí như thật, về lý không thành tựu. Vì trí không thành, nên dưới đây, sẽ lần lượt phát ra lỗi, nói chung là lỗi thứ ba.

Giải thích về năm tướng thành trong bất nhiễm. Luận sư Cảnh nói: “Người giả vì lãnh thọ, nghĩa là tức người giả do sáu xúc xứ nên có thể lãnh thọ: Vì do nương tựa sáu căn, nên hay lãnh thọ.

“Bốn thứ khác nhau ở trong thai mẹ”, đây là nói về phương tiện nhập thai, chưa nói bốn thứ khác nhau trong thai.

“Bốn thứ khác nhau trở xuống, là tự phô bày, nghĩa là danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ. Theo thứ lớp như thế mà có lãnh thọ, không đồng với luận Tiểu thừa: Xúc thọ ở ngoài thai.

Nay, nói xúc, thọ cũng ở trong thai, tức là có hai đế thuộc về tạp nhiễm: Tức Khổ, Tập.

“Trái với hai đế này v.v… trở xuống cho đến thanh tịnh, tức là diệt đạo.

Nói thọ do xúc, sinh ra: là nói chung về hữu lậu, vô lậu.

Luận rằng: “Nói về địa vị gồm có ba:

  1. Ở địa vị phàm phu, tức bảy phương tiện của Kiến đạo trở xuống.
  2. Hữu học.
  3. Vô học.

Nay, nói về xúc, ý nói vô lậu, dưới đây kết rằng: “Tức là có ba đế thanh tịnh, diệt, đạo.

Luận sư Đạt nói: “Nếu chủ thể lãnh thọ từ năm ấm là tướng thứ nhất. Nếu do lãnh thọ này, nghĩa là vì do sáu xúc xứ, nên làm tướng thứ hai.

“Nếu lãnh thọ như thế, nghĩa là đầy đủ sắc, sáu nhập, xúc, thọ, thứ lớp như thế là tướng thứ ba. Nếu khi lãnh thọ, nghĩa là lúc thọ hai nghiệp hiện tại, đời trước là tướng thứ tư.

Tập nhiễm như thế, thanh tịnh như thế, nói về hai người mê, ngộ là tướng thứ năm. “Phải biết rằng, nương tựa năm thủ uẩn v.v… trong đây: là giải thích câu thứ nhất.

“Tức người giả này do sáu xúc v.v… ”, nghĩa là giải thích câu thứ hai.

“Bốn thứ khác v.v… ở trong thai mẹ”, là giải thích câu thứ ba.

Lại,:tức thọ này cũng dùng hiện tại v.v… ”, là giải thích câu thứ tư.

“Nếu ngoại đạo kia lắng nghe các pháp v.v… không chính đáng”, là giải thích câu thứ năm”.

Lại, có một giải thích: “1/ Người hay lãnh thọ; 2/ Do sự lãnh thọ này; 3/ Lãnh thọ như thế; 4/ Tạp nhiễm như thế; / Thanh tịnh như thế; đây là năm tướng.

Đối thứ tư, là nói về thắng lợi, tai hại lỗi lầm của hành nghiệp chánh, tà. Trước nói về tà luận, sau nói chánh luận.

“Lại nửa” trong phần trước, phải biết rằng, đặt ra tà nghiệp, thanh tịnh, nghĩa là ngoại đạo chấp khổ hạnh có thể thanh tịnh các nghiệp bất thiện trong quá khứ.

Nói “Ngoại đạo kia nhận thầy các nghiệp bất thiện của đời trước làm hai thứ nhân”, nghĩa là nghiệp ác hiện tại đều là tập quán của nghiệp đời trước đã dẫn khởi v.v… Pháp Phật cũng có hiện pháp bất thiện, do tập quán xưa. Về sau do hiện duyên, mới được dẫn khởi. Vì ngoại đạo kia chỉ chấp lấy một nhân, nên thành tà luận. Đại sư từ bỏ thế gian, nghĩa là Đức Phật từ bỏ thế gian .

“Vì duyên cớ gì nên biết đặt ra như thế, để cho nghiệp thanh tịnh, không thích ứng với đạo lý cho đến “Do ba phẩm đã gây bức thiết, vì khổ thọ không được sinh v.v… Vả như ông dùng lửa để đốt cháy thân. Lửa nung đốt khổ trên, lửa kế tiếp, nung đốt khổ giữa, lửa yếu nhỏ, nung đốt nổi khổ dưới. Đây là ba khổ do hiện duyên nẫy sinh, ông nói do quá khứ, không hợp với lý, trừ ba khổ của ba thứ lửa kia. Vì tự mình đã nói do khổ hạnh, nên có thể dứt trừ khổ, là không hợp lý.

Nghĩa yếu lược, cái gọi là tự tánh của các nghiệp quyết định, thời gian quyết định, phẩm loại quyết định. Luận sư Cảnh nói: “Vả lại, khắc ngang vì nói, gọi là quyết định”. Luận sư Đạt nói: “Đây là văn cứ vào một tướng của môn lý tùy chuyển mà nói. Nếu y cứ môn lý chân thật, thì chưa hẳn như thế đều được chuyển”.

Dưới đây, sẽ nói về chánh luận:

Nói “Phân tích sáu việc”, nghĩa là bốn Đại, không, thức. Dùng quán sáu giới này, nhằm phân tích việc của hữu tình.

Nói “Và người khác đã khen ngợi năm thứ sai khác trái nhau kia”, nghĩa là ba thứ lớp hành hạ khổ não của hai thứ tà luận đã nói ở trước, trái với điều mà họ đã khen ngợi”.

Đôi thứ năm, là nói về ba người chưa vào, đã vào Thánh giáo:

1/ Phàm phu chưa nhập Thánh giáo. Do ba thứ tướng, biết được hễ diệt thì bất, người này đã được chánh kiến.

2/ Nghe tà giáo, tà kiến sắp sinh, chánh kiến sắp diệt.

3/ Nghe chánh pháp, tà kiến sắp sinh, bất sinh gọi là đoạn. Chánh kiến đã thành trước, không gọi là sinh.

Kế là, có sinh mà không diệt, người tầm thường trong đây, trước chẳng phải tà, chánh, sau, nghe chánh pháp phát sinh chánh kiến, gọi là sinh lỗi tà kiến, vì không thực hành nên không gọi là đoạn.

Kế là, có vừa sinh, vừa diệt, người này ở trước đã hành động tà kiến, do nghe chánh pháp hàng phục, diệt trừ tà kiến rồi sinh ra chánh kiến. Người thứ hai đã nhập hữu học Thánh giáo, có ba tướng:

1. Sinh mà bất diệt, nghĩa là ở địa vị tu, đối với bốn tịnh không hư hoại hiện ở trước, gọi là sinh. Đối với Phật, không nói là đồng loại khi nhập Kiến đạo, đoạn trước thời nay không gọi là Diệt.

2. Kế là, có diệt mà không có sinh, nghĩa là đoạn tu dứt trừ vô minh của phẩm khác, gọi là diệt, nói về thể, không gọi là sinh khởi, vì thành chủng loại kia.

3. Kế là, cũng có sinh, có diệt, nghĩa là đạo học vô sinh. Tu dứt trừ vô minh, thảy đều Diệt.

Thứ ba, phàm phu đã nhập Thánh giáo, cũng có ba tướng:

1/ Diệt mà bất sinh, nghĩa là nghe nói vô ngã tiêu diệt ngã kiến, chưa trực tiếp ngô nhập chánh kiến vô ngã, không gọi là sinh.

2/ Sinh mà không diệt, người này sau khi đã nghe như trước, đối với lý vô ngã, dần dần có thể ngộ nhập chánh kiến vô ngã, được gọi là sinh. Tùy miên chưa dứt trừ, không gọi là diệt.

Từ đây về sau, do sức tu đạo, chứng hiện quán đế, mới dứt trừ tùy miên, phát sinh vô lậu, tức gọi là “vừa sinh”, “vừa diệt”.

BẢN LUẬN QUYỂN 90

Trên đây, trong phần nói rộng về môn nghiệp, có ba đoạn. Hai đoạn trước đã nói xong.

Dưới đây, là đoạn thứ ba, sẽ giải thích rộng mười sáu thứ nghiệp, trong đó trước nêu mười sáu môn nghiệp. Sau theo thứ lớp mà nói:

Trong phần trước lại có hai:

1/ Dùng nửa bài tụng nêu mười sáu môn. Năm hai, tức là năm thứ hai môn. Với mười ba, tức là mười thứ ba môn, hợp với trước, thành mười lăm.

Bốn nghiệp sau cùng, nghĩa là bốn nghiệp như hắc v.v… là môn thứ mười sáu.

2/ Văn xuôi y theo bài tụng thứ lớp thuộc tương đương có thể biết. Dưới đây, trong phần nói theo thứ lớp: a- Giải thích năm thứ hai môn, nói “Do ba nhân duyên, khiến cho nghiệp thành nặng:

1- Do ý nghiệp: Tức triền cực mạnh sẽ tạo ác, tâm thuần tịnh làm điều thiện.

2- Do gia hạnh: Thường nghiệp tạo vô gián kia.

3- Vì do ruộng: Đối với người có ơn, như cha, mẹ v.v… Nếu người trụ chánh hạnh, tức bốn hướng và quả của chánh hạnh, nghĩa là tức bốn quả và Phật v.v… Đây là tạo nghiệp thiện, ác đối với người có ơn, kể cả ruộng kỉnh.

Nói: “Đối với tất cả nối tiếp nhau thanh tịnh, đã có các nghiệp, gọi là không tăng tiến”, nghĩa là trong thân người hữu Học, có nghiệp thiện, bất thiện, không tăng tiến, đã tư duy trong tạo nghiệp, có sự lẫn lộn. Kỳ hạn người giết vua, giết lầm người giương cung, dù chẳng phải nghiệp đạo sát. Cho nên, tư duy tạo nghiệp không lầm lẫn, thì sẽ được thừa nhận vì trái với tướng này, gọi là “phi” nên tư duy.

Thọ nghiệp quyết định: Cố tư duy tạo nghiệp nhẹ, là tạo tác không tăng trưởng. Vì “phi” cho nên tư duy tạo nghiệp là nghiệp bất định kia vì dể hiểu, nên không nói.

Dị thục đã thục nghiệp, nghĩa là đã được nghiệp báo. Chưa thành thục ngược lại.

“Nếu khi muốn chứng quả A-la-hán”, trở xuống, là phân biệt Nhị thừa, có thể làm trở ngại hay không? Luận sư Cảnh nói: “Khi muốn chứng La-hán, trước hết, nghiệp thọ quyết định đã tạo tác, do quả Dị thục hiện ở trước, nên có thể gây chướng ngại v.v… nghĩa là như nghiệp là nghiệp chướng trong thân người học phàm phu, như biển, như núi: nghĩa là cảm nghiệp thân nữ, nghiệp Uất-đơn-việt, trời Vô Tưởng, huỳnh môn v.v… Nghiệp này chủ yếu sinh quả hiện ở trước, mới có thể làm trở ngại, không chứng đắc La-hán, tức gọi là nghiệp chướng, báo chướng. Nếu chưa dẫn sinh quả thì không thể làm chướng ngại, nên nói “không do theo đuổi thân, vì nối tiếp nhau.” Vì sao? cho đến “không thể làm chướng ngại”, nghĩa là nếu ở thân ở trước tạo nghiệp sinh thọ, thì thân này sẽ thọ quả sẽ không được La-hán. Nếu đối với thân trước chỉ tạo Hậu thọ, tất nhiên sẽ không làm chướng ngại cho thân này, liền được La-hán. Dù không gây trở ngại, nhưng hậu thọ kia chẳng phải không thọ nghiệp quyết định. Vì sao? Vì tức nương tựa sự giúp sức của phiền não kia. Thái Pháp sư nói: “Nghiệp bất thiện quyết định, gọi là nghiệp chướng, có thể cảm thân bệnh bốn đại bất bình đẳng, vì quả báo hiện tiền, nên bệnh. Thân do hạt giống nghiệp theo đuổi thân bản thức, cho nên gọi là nghiệp chướng. Nếu thân này không thọ nghiệp báo chướng đạo thì chỉ trong thân người, trời, có hạt giống nghiệp bất thiện, định nghiệp của hậu báo, mà không thể chướng ngại được cực quả Vô học, do đó sắp chứng Vô học, trong thân vẫn còn có nghiệp ác, chẳng phải không thể chướng ngại được quả Vô học. Khi được quả Vô học, sẽ không được Phi trạch diệt, nhưng người kia thọ nghiệp ác, gọi là định nghiệp, vì sao? Do dựa vào phiền não hữu làm giúp đỡ cho nghiệp. Và dựa vào nghiệp kia, vì thân nối tiếp nhau của phiền não hữu kia, nên lập thọ nghiệp quyết định, vì trong thân Vô học, không có phiền não, nên đã có thọ nghiệp báo nhất định, thuận với báo sau v.v… đều chuyển biến, khiến không thọ. Theo thuyết của tông luận này thì nghiệp năm nghịch sẽ có thể dứt trừ phiền não, cũng có thể thay đổi, không đồng với thuyết thí dụ nói: “Tất cả nghiệp đều có thể chuyển”.

Kế là giải thích mười thứ ba môn. Nói “Như thật biết khắp”, tức là phương tiện khéo, nên gọi là thiện, thuận với nghiệp lạc thọ, nghĩa là ba tịnh lự trước và nghiệp thiện cõi Dục, thuận với nghiệp khổ thọ, nghĩa là chiêu cảm sinh nghiệp của đường ác. Dưới đây nghĩa nghiệp không hết, luận tự rõ ràng: Đối với quỷ, bàng sinh, cũng có cảm nghiệp lạc thọ, lược qua không nói trời, người cõi Dục cũng có cảm nghiệp khổ thọ.

Thuận với nghiệp không khổ không vui, nghĩa là tịnh lự thứ tư và Địa trên v.v… đều có nghiệp”.

Hỏi: “Ba thiền dưới có báo xã thọ hay không?”

Giải thích: “Xã thọ của A-lại-da, cả năm đường đều có. Sáu thức không nhất định.

Thuyết của hai Luận sư ở các nước phương tây không đồng:

1- Nói ba thiền trở xuống, ý thức không có báo xã thọ. Thọ sinh này qua đời, chỉ ở xã thọ của A-lại-da, qua đời, thọ sinh. Bấy giờ ý thức không được có. Nếu theo giải thích này, thì sẽ thuận với văn chỗ này chỉ có bốn thiền trở lên, mới có Báo xã thọ của ý thức.

2- Luận sư thứ hai nói: “Các luận đều tranh cãi về ba thiền trở xuống “có”, hay “không”, là tranh luận xã báo “có”, “không”, chứ không tranh cãi về Lại-da.

Nếu vì nghĩa này, nên ý thức của địa dưới, cũng có xã báo, qua đời, thọ sinh, trái với văn này. Nay, dung hòa hội ý để giải thích: Chỉ y cứ ở ba thọ, địa riêng vì lời nói, nên nói là địa dưới có xã thọ kia. Về mặt lý thật ra thiện, bất thiện đều được xã báo, cho đến địa ngục qua đời, thọ sinh, cũng có cảm nghiệp bất thiện của xã thọ.

“Thuận với hiện pháp thọ nghiệp cho đến “Các nghiệp đã tạo”. Nghĩa là nghiệp báo của ba thời gian, trừ nghiệp năm nghịch, nghiệp Luận vương, nghiệp khác không thể chỉ định hành tướng của nghiệp đó. Nghiệp như thế sẽ được hiện báo, sinh báo, chỉ có thể dựa vào hy vọng nói chung.

Nói việc gia hạnh, nghĩa là đặt để thí cho v.v… Nếu tướng như thế, vì đã tạo các nghiệp Dị thục, thành thục ở trong hiện pháp. Như nói từ diệt không có tranh cãi. Kiến đạo và Vô học ghi nhận từ chánh thọ ký kia: Tức được quả. Sau sinh rất dễ hiểu.

“Nghiệp” Hữu học cho đến “Và sau này sẽ được nghiệp thiện hữu lậu v.v… ” Văn này chỉ y cứ ở ba nghiệp vô lậu trong thân Bậc thánh Hữu học và nghiệp hữu lậu thiện, gọi là học. Ở đây y cứ vào chân thật học mà nói. Văn chỗ khác nói là phần giải thoát, phần thông đạt thiện, kể cả nghiệp vô lậu của kiến tu, đều gọi là Học. Ở đây y cứ tương tự nói chung là học.

“Nghiệp Vô học cho đến “Tùy thích ứng với các nghiệp”, nghĩa là ba nghiệp vô lậu trong thân Vô học và ba nghiệp thiện hữu lậu, đều là nghiệp Vô học. Các nghiệp khác với nghiệp này, được gọi là nghiệp Phi học, phi Vô học, nghĩa là nghiệp của ba tánh trong thân phàm phu. Nghiệp ẩn mất bất thiện trong thân Vô học, đều là “Câu phi”.

“Nếu kiến dứt trừ phiền não tương ưng cho đến “gọi là kiến dứt trừ nghiệp”, nghĩa là nếu cụ thể, cũng nên nói rằng, kể cả nghiệp hữu thứ tám, nghiệp thân người nữ, nghiệp Uất-đơn-việt, nghiệp trời Vô tưởng, nghiệp Huỳnh môn v.v… đều là kiến dứt trừ. Nghiệp không dứt trừ, cái gọi là tất cả nghiệp xuất thế gian Hữu học, Vô học: chỗ khác có văn nói mười cõi, gọi là không dứt trừ, nghĩa là cõi bảy tâm, cõi pháp sắc, thanh. Trong đây chỉ lấy nghiệp vô lậu học xuất thế, gọi là vô đoạn. Nghĩa là trong đây, y cứ ở tánh chân thật không có dứt trừ. Luận kia y cứ ở giới pháp đã có trong thân Vô học, vì đã dứt trừ hết ràng buộc, nên gọi là vô đoạn.

Hỏi: “Nếu vậy trong thân Vô Học, nếu đã dứt trừ ràng buộc thì gọi là vô đoạn, đây là mười tám giới trong thân Vô học, đều đã dứt trừ hết, gọi là vô đoạn?”

Giải thích: “Về mặt lý thật sự ngang nhau, chỉ vì mười giới là tánh thiện kia được gọi là vô đoạn. Tánh của năm căn, ba trần là vô ký, không được gọi là vô đoạn.”

Nói “Hiện pháp đoạn cho đến “Đây là phàm phu chưa lìa dục, trụ nơi đây, chết đi: nghĩa là phàm phu chưa lìa dục, trước vì cố ý tạo nghiệp mà khởi chán lìa, hàng phục không hiện hành.

“Đã chưa lìa dục, chết đi lại sinh ở đương địa, mà chưa có thể khiến ở phần vị sinh kế tiếp, không tạo ra nghiệp kia, không thọ Dị thục v.v…”, nghĩa là dù nhàm chán nghiệp đã tạo ở hiện pháp, nhưng không thể khiến cho nghiệp bị nhàm chán này không dẫn đến sinh báo, cũng không thể làm cho không còn tạo nghiệp trong sinh thân kế tiếp, cũng không thể khiến cho ở phần vị sau kia không có sự tạo nghiệp.

Nói “ở trong hiện pháp, cũng chưa hoàn toàn có thể khiến cho không tạo nghiệp”, nghĩa là dù hiện thân tạm nhàm chán, hàng phục nghiệp đã tạo, nhưng cũng chưa chắc có thể khiến cho trong một thân không còn tạo nghiệp lại.

“Vì sinh đoạn cho đến “nhưng chưa giải thoát được tác nghiệp của phầnvị sau và thọ Dị thục, nghĩa là phàm phu lìa dục, nhàm chán tạo nghiệp hiện tại, chết đi sinh lên cõi trên, thì sẽ không có sinh kế tiếp thân cõi Dục, trong đó tạo nghiệp. Nhưng phàm phu này, về sau, thối lui sự sinh, nhân nghiệp nhàm chán ở trước, thọ báo sau của cõi Dục, lại tạo nghiệp trong thân báo sau, nên nói “Nhưng vẫn chưa giải thoát nghiệp đã tạo của phần vị sau và thọ Dị thục.

“Vì về sau, đoạn”, nghĩa là lại có một, dù là Hữu học, nhưng đối với cõi Dục, chưa được lìa dục, thọ nhàm lìa xong, được chứng đắc quả đầu tiên, hoặc chứng quả Sa-môn thứ hai, người kia nghĩ rằng: “Thông thường, cái ngã do nhiều thô nặng, do nhiều nóng bức mà tạo nên nghiệp ác. Hoặc lại nghiệp thiện, nguyện cùng lúc thọ dụng với người kia. Đừng để cho ta sẽ phải thọ báo kia của phần vị sau. Phát thệ nguyện xong, lại tu bốn vô lượng, dùng phẩm định Xa-ma-tha, chính thức khởi gia hạnh, nghĩa là hàng phục “hoặc”, được thiền vị lai và vì tiến đến lìa dục ái.

Phải biết rằng, hoặc ý ưa giận, từ dứt trừ. Hại bị bi dứt trừ. Ganh ghét, đố kỵ, bị hỷ dứt trừ. Sự việc đáng yêu, là xã dứt trừ. Các nghiệp đã tạo đều là thể của tâm, nối dõi cho đến được quả Bất hoàn.

“Nếu chỉ ở đây tạm thời sinh hy, kiến cho đến “hoặc ở địa vị sau”. Nghĩa là chỉ đối với quả A-Na-Hàm này tạm sinh hỷ, túc, không cầu quả trên. Đối với hiện pháp còn không tạo nghiệp, vì không còn thọ sinh nới cõi Dục, huống chi sinh ở địa vị sau, mà được tạo nghiệp. Lại, “Ngoài chánh pháp rơi vào tà kiến cho đến “đếu gọi là nghiệp tà vạy”, nghĩa là nghiệp thiện ác ở trong thân ngoại đạo, đã khởi, từ tà kiến mà sinh, đều gọi là ba nghiệp cong vạy. Tham sân mạnh mẽ, nhạy bén, đã khởi các nghiệp, đều gọi là nghiệp nhơ bẩn. Theo văn Quyết Trạch, tức là nghiệp tà vạy, thêm nghiệp tham, sân kia đã khởi, gọi là chung là nghiệp nhơ bẩn.

Si mạnh mẽ, nhạy bén, nghĩa là nêu lên người tạo nghiệp vẩn đục. Căn chậm lụt (độn căn) phẩm trên, với niệm quên mất, là nhắc lại nghiệp tà vạy ở trước. Người chậm lụt rất tối tăm, nêu nghiệp nhơ bẩn ở trước. Nghiệp si đã khởi, nói về nghiệp từ ngu si tạo ra, đều là nghiệp vẩn đục, nghĩa là hai nghiệp tà vạy, nhơ bẩn và si đã tạo, đều là nghiệp vẩn đục.

Ghi nhận văn trong Quyết trạch, đối với nói ở đây nói khác với luận Tiểu thừa, tất cả có thể đi qua diệu hạnh của cõi thiện, đều gọi là tịnh nghiệp.

Nếu theo luận Tiểu thừa, thì tất cả diệu hạnh thanh tịnh, có cả nghiệp hữu lậu, vô lậu và hạnh vô tham v.v… đều gọi là hạnh ba diệu, ba tịnh. Nay trong văn này chỉ ba nghiệp hữu lậu, thọ sinh ở cõi thiện người, trời, gọi là tịnh nghiệp. Lại, chỉ là tánh nghiệp, không có phi nghiệp, tất cả có thể đi đến diệu hạnh Niết-bàn, gọi là nghiệp mặc nhiên, tức ba nghiệp mãn.”

Luận Tiểu thừa nói: “Thân, miệng Vô học mãn, kể cả tâm Vô học. Nay, thế văn này đã nói: “Tất cả có thể đi qua diệu hạnh Niết-bàn, đều gọi là nghiệp yên lặng, tức biết chung cho nghiệp hữu học, Vô học, đều thuộc về một mặc nhiên.”

Dưới đây, là giải thích bốn nghiệp như hắc v.v… có thể chiêu cảm các nghiệp ác nơi Na-Lạc-Ca của nơi chốn riêng, gọi là nghiệp hắc hắc. Văn chỗ khác nói: “Tất cả nghiệp bất thiện, gọi là nghiệp hắc hắc, có thể chiêu cảm các nghiệp thiện cõi trời của nơi chốn riêng, gọi là nghiệp bạch bạch.

Văn dưới đây nói trên Tha Hóa, có cung điện ma. Cung điện trở lên và nghiệp thiện của hai cõi trên, gọi là nghiệp bạch bạch. Chỗ khác nói nghiệp thiện của ba cõi đều gọi là bạch bạch, chiêu cảm nơi chốn khác có các nghiệp, gọi là hắc bạch, nghĩa là nói sáu tầng trời cõi dục, người bốn thiên hạ, kể cả quỷ, súc đã có nghiệp thiện, gọi là hắc bạch, hắc bạch. Văn còn lại nói: “nghiệp thiện ác cõi Dục, gọi là nghiệp hắc bạch, hắc bạch.”

Hỏi: “Vì sao trên dưới không đồng?”

Giải thích: “Danh từ một nghĩa, chỗ khác y cứ vào tánh nghiệp kia để chế lập bốn nghiệp, nên nói: “Thiện của ba cõi gọi là Bạch bạch. Tất cả nghiệp bất thiện, gọi là hắc hắc. Nếu tạo ra tướng thiện, ác xen lẫn, thì gọi là hắc bạch, hắc bạch. Hoặc có khi cố ý hắc phương tiện bạch, hoặc có khi phương tiện hắc nên ý bạch nghệip lẫn lộn như thế gọi là Hắc bạch, nên ý bạch. Nếu thuần thiện không lẫn lộn với ác, gọi là bạch bạch. Ác ròng không xen lẫn thiện, gọi là hắc hắc.

Nay, trong văn này y cứ ở báo nói địa ngục, chỉ thọ quả của nghiệp ác. Cung ma trở lên, chỉ thọ trong báo thiện xen lẫn thọ, khổ, vui, nên dựa vào nghĩa này để phán quyết ba nghiệp riêng.”

Hỏi: “Cung Ma thuộc cõi Dục, có thể không có khổ, thọ ư?”

Giải thích: “Giả thiết có khổ thọ là vì hóa, chẳng phải báo, nên nói rằng, do nơi chốn kia, mắt thấy sắc, cho đến ý biết pháp, hoàn toàn đáng yêu nối tiếp nhau. Vì nghĩa tăng thượng thù thắng, nên môn ý dẫn phát, vì ý thành nghĩa, đều thọ khổ riêng, thọ vui riêng, nên gọi là “đều riêng”.

Nói “Môn sáu xúc xứ, thường lãnh thọ”, nghĩa là sáu căn môn thường lãnh thọ.

Y cứ trong lựa chọn xứ, nửa bài tụng đầu nêu bốn môn, đầu tiên, là an lập đẳng trí, đồng đẳng. Sau cùng phải biết lìa dục đẳng.

Đã giải thích an lập đẳng xong. Kế là, giải thích trí đẳng, có một bài tụng, chia ramười môn: 1- Vô trí; 2- Trí; 3- Định; 4- Thù thắng; 5- Chướng; 6- Học đẳng; 7- Chấp mắc; 8- Vô ngã; 9- Thánh đạo; 10- Biển không đồng phần.

Trong giải thích của Văn xuôi, đầu tiên giải thích vô trí:

Nói “Theo trước đã nói có ba chúng hữu tình, vô trí là căn bản:

1. Nghĩa là tà kiến khởi nghiệp tà vạy.

2. Nghiệp nhơ tham, sân.

3. Nghiệp vẩn đục do Si khởi, đều lấy vô trí làm căn bản, mà được sinh khởi. Nếu có thể dứt trừ vô trí căn bản này trong tất cả chúng, thì sẽ khởi một pháp của tất cả tạp nhiễm: giải thích nghĩa căn bản, là một pháp vô minh.

Thứ nhất trong đây đã khởi sự thật tạp nhiễm tổn giảm, là tà kiến đầu tiên.

Thứ hai, sự giả dối tăng ích, nghĩa là tham sân.

Thứ ba, là hiển rõ về như thật kia, có thể tạo nên ngu si, nghĩa là người khởi nghiệp vẩn đục. Vì có ngu si đối với hai nhân ấy, nên bằng nhau. Nghĩa là vì ngu làm nhân cho hai thứ tham, sân ở trước, nên có thêm bớt.

Thứ hai, là giải thích môn trí có hai thứ trí như thật:

1/ Tác ý như lý đã phát, nghĩa là hai Tuệ Văn, Tư.

2/ Tam-ma-địa đã phát, tức Tu Tuệ. Phải biết rằng, hạnh này khác với hạnh trước, nghĩa là hành tướng của tu tuệ khác với Tư.

Thứ ba, là giải thích định, nói năm chuyển là:

  1. Quán tự tánh của các hành.
  2. Nhân duyên của các hành.
  3. Nhân tạp nhiễm.
  4. Nhân thanh tịnh.
  5. Thanh tịnh.

Thứ tư, là giải thích về thù thắng. Nói “Đối với hai nơi chốn, Đức Như lai đã chứng đắc trí an lập thù thắng, hoặc sinh tử Niết-bàn, hoặc hai đế là hai nơi chốn”, văn giải thích chỗ tà nạn, chỗ chánh nói.

Nói “Do ba thứ tương ưng biết rõ về chánh v.v…”. Nghĩa là quá khứ, vị lai đều có một, trong ngoài hiện tại hợp làm một.

Thứ năm, là giải thích chướng. Luận sư Cảnh nói: “Một, là hai môn; Hai, là Hai thời; Ba, là Hai Địa. Triển khai ba môn này, lại theo thứ lớp giải thích về “đẳng”, đã dẫn phát ba thứ đẳng trì, có thể làm chướng ngại:

  1. Đối với địa vị phàm phu, đã tu vô lượng, đều thực hành Đẳng trì.
  2. Đẳng trì hữu học.
  3. Đẳng trì Vô học.

Năm thứ đối trị: Hoặc là tự tánh các hành, nhân của các hành, đều có năm, cũng có năm pháp quán dừng tâm, gọi là đối trị. Phải biết rằng, trong năm môn này, trước thọ dụng các dục v.v… trong quá khứ là môn thứ nhất. Lại có hiện tại ở nhà tất cả lợi dưỡng v.v… là môn thứ hai. Kế là, nói khi đi khi đứng, là giải thích về hai thời, kế là nói, Địa phàm phu, Địa hữu học.

Giải thích hai địa, thứ nhất trong đây, môn ý lạc đem lại lợi ích, yên vui cho các hữu tình, đều cùng thực hành, nghĩa là kết kế là trước rằng: “Lại, đối với phàm phu đã tu vô lượng v.v…

Thứ hai, là lãnh thọ giải thoát đẳng của hữu học, kết văn kế là trước, cũng ở Hữu học có thể khéo thông suốt.

Thứ ba, là lãnh thọ đẳng giải thoát của Vô học, kết trước, cũng với phương tiện của Vô học, siêng tu bốn không buông lung, nghĩa là vào ban ngày, hoặc đi, hoặc ngồi v.v… vì ban đêm cũng có hai, nên có bốn”.

Luận sư Đạt nói: “Trong đó, sơ lược chia ra năm môn để lập tông:

  1. Hai môn.
  2. Hai thời.
  3. Hai địa.
  4. Đã dẫn phát ba thứ Đẳng trì có thể làm chướng ngại.

– Vì muốn dứt trừ chướng ngại, nên siêng tu năm trị: Bốn thứ trước là sở trị, một thứ sau là đạo Năng trị.”

“Phải biết rằng, trong đây, trở xuống thứ hai, giải thích riêng về năm môn, tức là năm đoạn:

Đoạn đầu giải thích hai môn:

1/ Môn các dục quá khứ.

2/ Môn các dục của cư sĩ tại gia hiện tại.

“Lợi dưỡng, cung kỉnh trong đây” trở xuống, là đoạn thứ hai, giải thích về môn hai thời – Lúc đi, Lúc đứng.

“Tức là các dục này” trở xuống là đoạn thứ ba, giải thích môn hai Địa.

Lại, “Đối với phàm phu đã tu vô lượng” trở xuống, là đoạn thứ tư, giải thích ba thứ đẳng trì đã dẫn phát, có thể làm chướng ngại.

“Nếu muốn nhanh chóng chứng quả Sa-môn v.v… là đoạn thứ năm, giải thích về đạo “năng trị”. Đây là hai môn đối trị thứ nhất. Do đây biết tu chánh niệm, vì chánh niệm, chánh trí là chỗ nương tựa.

Dưới đây, là nói về môn đối trị ba thời thứ hai: nói bốn không buông lung:

  1. Thời gian ban ngày.
  2. Hoặc đi.
  3. Hoặc ngồi.
  4. Trong ba thời gian này, tịnh tu tâm mình.

“Như thế phát khởi v.v… ” trở xuống, là nói đối trị thứ ba. Môn trị hai địa tất cả các dục, trong đây tu Xa-ma-tha là “chủ thể trị” (năng trụ).

“Hoàn toàn niện trụ v.v… ” trở xuống, là nói về đối trị thứ tư, trị ba thứ đẳng trì đã dẫn phát, có thể làm chướng ngại. Tu Tỳ-Bát-Xá-Na trong đây là chủ thể trị.

“Đã nhập chỉ, quán v.v…” trở xuống, là nói về đối trị thứ năm.

Trong đây, song tu hai phần chỉ, quán là đối trị thứ năm.” Dù có giải thích này, nhưng nay, lại theo giải thích trước.

Thứ sáu, là giải thích về học v.v… Nói “Nếu các Vô học, hoặc vì thất niện (quên) nên lùi lại hiện pháp lạc, nhưng không thể lui mất. Giải thoát, nghĩa là vì đã dứt trừ hạt giống “hoặc”, nên không lui sụt giải thoát.

Dưới đây, là nói về vấn nạn của người ngoài:

“Nếu có người tu hành không buông lung cho đến “đâu còn cần dùng. Đã được giải thoát. Giải thoát không lùi, lại tu không buông lung nửa thì đâu cần dùng nửa. Dưới đây sẽ giải thích:

“Nếu vì chứng đắc hiện pháp lạc trụ cho đến “chẳng phải không buông lung”, Luận sư Cảnh nói: “Nếu vì chứng đắc lạc trụ, siêng tạo nên công dụng như công nghiệp, chẳng phải không phón dật, không do đâu mà được, ở đây cũng như thế.”

Luận sư Đạt nói: “Văn này lẽ ra nói rằng: “Chẳng phải không buông lung ư?. Do hai nhân duyên, nên biết rằng, phàm phu kia đối với sáu chỗ vắng lặng, có ngã mạn, không có ngã mạn, nghĩa là chưa diệt cho là diệt, chưa chứng đắc, cho là chứng đắc.”

Thứ bảy, giải thích môn chấp mắc. “Nói “Duyên theo thức. Luận sư Cảnh nói: “Tức là hai”. Luận sư Đạt nói: “Về hai duyên này, có ba giải thích”.

1/ “Danh, sắc và thức, nên nói hai duyên”. 2/ Lại, nói: “Hai duyên căn, cảnh, nên nói hai duyên”.

Lại, giải thích: “1, Duyên lợi dưỡng, cung kính. 2, Duyên lìa dục, như văn, mà hiểu.

Thứ tám, là giải thích vô ngã. Nói “Trừ tự tánh thức nhân duyên giúp đỡ, ngoài ra vì tất cả không thật có”, nghĩa là ngoài ra, thể của “ngã” không thật có.

Thứ chín, là giải thích Thánh đạo. Do năm thứ tướng, phải biết rằng, tám thánh đạo vượt hơn hết, không có tội.

“Văn dưới đây có sáu câu, vì sao gọi là năm?” Tam tạng Pháp sư nói: “Hai câu sau hợp thành một, nên có năm tướng”.

Vì sao phải hợp? Vì đều phân biệt ngoại đạo, nên quả có năm tướng.”

Như môn Nhiếp Dị: nghĩa là vì Bà-la-môn không có do dự v.v… v.v… là có năm câu, như quyển tám mươi bốn nói.

Thứ mười, là giải thích về phần không đồng của hai biển.

Nói “Do phàm phu kia vì chưa vượt qua biển này, nên cũng chưa lội qua biển cả của hai cảnh giới trước”, nghĩa là phàm phu lìa dục kia, ở bên trong đều có biển cả của sáu xứ khác, chưa thể biết rỏ là khổ, gọi là chưa lội qua, nên nhắm vào thuyết trước nói là năm cảnh đáng yêu. Và, do ý đã nhận thức các cảnh đáng yêu, cũng chưa lội qua”.

Trên đây, nửa bài tụng đầu, hai môn trước trong nêu bốn môn đã giải thích xong.

Dưới đây, thứ ba giải thich một bài tụng đồng đẳng có mười môn:

1- Đạo không đồng phần 2- Thầy không đồng phần 3- Nước có vua. 4- Hai thế gian. 5- Hữu vi. 6- Ngăn ngừa hành động của thân. 7- Chấp chặt tánh của ba không là ba, cộng với bảy môn trước thành mười.

Trong giải thích của văn xuôi, đầu tiên, là giải thích phần không đồng của đạo.

Nói “nếu hướng đến hành của khổ, tập” nghĩa là nghiệp và phiền não, hoặc thú hướng hành của khổ, diệt, là thánh đạo vô lậu, gọi là tánh không đồng, tức tánh này hướng đến hành chuyển diệt. Hoặc có chuyển cộng tướng của hữu vi, nghĩa là quán vô thường, hoặc có chuyển hành của cộng tướng hữu vi, vô vi, nghĩa là quán chung các pháp là “không” vô ngã. Phải biết rằng, nếu hành tướng của các cộng tướng hữu vi đối với đạo quả kia, thì gọi là không đồng phần, nghĩa là vì quán quả vô vi, nên nếu hành tướng của cộng tướng hữu vi, vô vi, thì hành tướng đó so với quả đạo, cũng gọi đồng phần: lý vô ngã chung, cho Niết-bàn, cũng thường vô ngã”.

Thứ hai, là giải thích về không đồng phần của các Luận sư. Đại khái có năm hạng Luận sư giả lập câu:

1. Hướng về hành của các chấp, hành của trôi lăn.

2. Thú hướng hành tận của các chấp, nghĩa là hành của hoàn diệt.

3. Hoặc tất cả pháp biết khắp.

4. Dứt hẳn.

5. Tạo nên bờ mé khổ, hoặc đối với năm tướng kiến lập ở trong mỗi tướng. Luận sư Cảnh nói: “Năm thọ, cũng có thể là năm thủ uẩn”.

Luận sư Đạt nói: “Trước nói năm Luận sư”,

Không dựa vào tác dụng Tát-ca-da, kiến của bốn tướng, phàm phu kia vì nương tựa vào bốn thứ hành tướng kiêu, mạn, nghĩa là ngoại đạo chấp sắc trong một uẩn là sắc ngã, sắc anh lạc của ngã, là sắc ngã của nô bộc, nhà thấm dần. Dựa vào bốn nghĩa này khởi bốn ngã mạn. Đã đối với mỗi một tướng, không khởi bốn thứ ngã kiến, tức là dứt bốn thứ ngã mạn.

Nói “Nếu tùy duyên khởi vì sưc tăng thượng, nên hạt giống của hữu sau ở trong hiện pháp, hoặc tăng hoặc giảm v.v… nghia là quán thuận mười hai duyên khởi là tăng, quán nghịch là giảm. Do quán thuận, nghịch này, hữu sau đương lai, hoặc sinh, bất sinh, tức là quán hai duyên nhiễm tịnh”.

Thứ ba, là giải thích nước có vua.

Thứ tư, là giải thích hai thế gian, đều như văn, rất dễ hiểu.

Thứ năm, là giải thích hữu vi, trong đó có hai:

  1. “Không” hữu vi.
  2. “Không” vô vi.

Không hữu vi, nghĩa là không, không có thường hằng và không có ngã, ngã sở. Trong vô vi “không”, chỉ vô tánh ngã sở. Lại, “Tánh không này. Đến làm cõi sở y, tức tánh “không” vô vi này y cứ chung tánh biến kế nhân, pháp là không, nhân duyên y tha y cứ pháp “có” nhưng không quyết định, đạo lý pháp, nhĩ là cõi sở y.

“Ở đây, hoặc như thế cho đến” đạo lý pháp nhĩ”. Luận sư Cảnh nói: “ Ở đây,hoặc đạo lý Đại thừa như thế, tức pháp nói “không”. Hoặc “khác”nghĩa là các bộ chấp pháp khác với “không”, hoặc “phi” nghĩa là hoặc có ngoại đạo chấp “không” chẳng “khác” với pháp, chẳng phải không khác. Dưới đây, là kết luận, nói về pháp, không pháp mà nói khắp tất cả xứ đều đồng quy đạo lý pháp nhĩ”.

Luận sư Đạt nói: “Hữu vi, vô vi ở trước cũng vì là vô ngã, nên nói “ở đây hoặc sắc tướng như thế cho đến”pháp tướng đều khác, cho nên ‘hoặc”khác, vì sắc đối với tự hoại sắc sinh nhau, nên nói “không” phải khác.

Thứ sáu, là giải thích ngăn ngừa hành động của thân, chỉ ngăn ngừa hành động của thân được bờ mé thế gian. Hoặc dùng trí cũng chấp được bờ mé thế gian kia.

Trong đây, phải dựa vào đạo lý thắng. Nghĩa v.v…, nghĩa là nói chung hai đế, gọi là dựa vào thắng nghĩa: 1) Nên biết thế gian. 2) Hoặc được phương tiện bờ mé thế gian. 3) Và bờ mé thế gian. Dưới đây, theo thứ lớp, sẽ giải thích về ba môn này, nghĩa là “Ở sáu xứ có tưởng thế gian”trở xuống là giải thích “Nên biết thế gian”.

“Ở chỗ sáu xúc, do năm chuyển kia”, là giải thích môn thứ hai. Năm chuyển, nghĩa là quán nhân duyên tự tánh của sáu xúc xứ, nhân duyên tạp nhiễm, nhân duyên thanh tịnh, kể cả thanh tịnh.

Nhân của các hành vị lai vì dứt hết hẳn, nên gọi là hay đến bờ mé thế gian, nghĩa là giải thích thứ ba và bờ mé thế gian .

“Đối với nhân của quả thế gian trở xuống, là giải thích rải rác văn kinh”.

Thứ bảy, là giải thích chấp chặt đầu tiên, là nói về người xuất gia ngoại đạo khởi ác không bỏ.

Trong đây, không làm trở xuống, điều mà người tu theo Phật pháp không nên làm, dù có làm cũng không nên chấp chặt, vì tạp nhiễm nối tiếp nhau, có thể giao động phạm hạnh.

Thứ tám, là giải thích hai thứ không trụ, tức là đầu tiên của ba không tánh trong bài tụng, có hai thứ không trụ:

1- Không trụ tôn thắng có hai nghĩa: a) Dùng “không” mà bậc tôn thắng La-hán đã trụ, gọi là không “tôn thắng”.

2- Tức “không” đã trụ vượt hơn trong các trụ, gọi là trụ tôn thắng.

Hai dẫn trụ “không” kia, nghĩa là tinh tấn, siêng năng tu đạo, trừ “hoặc”chứng “không”gọi là dẫn tánh “không”. Đối với phiền não bên trong, có biết là có “không biết”, vì không có tu hành để dứt trừ, gọi là khéo biết tánh “không”.

Thứ chín, giải thích hai, “không” tà, chánh, đó là tánh không thứ hai trong ba tánh không, lại nửa chánh kiến viên mãn cho đến tu tập tánh “không”có thuyết nói: “Phân biệt y tha, tánh viên thành thật, tất cả đều “không”, không hợp với chánh lý gọi là “tà không”. Nay, quán biến kế sở chấp nhân, pháp đều là không. Nhân duyên y tha và viên thành thật lìa pháp “có” “không”, thật có, bất không gọi là vượt qua, “tà không”. Về nghĩa ấy thế nào? Nghĩa là vì đối với chỗ này, chỗ khác chẳng phải có, nên chánh quán là “không”, biến kế chấp là không. Nếu vì ở nơi này, nơi khác “có”, nên biết như thật có, là “có” của y tha v.v…

Kế là, nêu trong dụ có hai: Du đầu, trước sau, “có” “không”, bất không, sau dụ đồng thời “có” “không”, bất không. Trong hợp dụ lại có hai, rất dễ hiểu.

Nói “Nếu quán các pháp do tự tướng, nên một loại là “có”, một loại chẳng thật có, nghĩa là y tha chân thật là “có”, Biến kế chấp “chẳng thậtcó”. “Có”, “chẳng thật có” này rốt ráo xa lìa. Nghe nói Y tha v.v… có, biến kế chấp là không , rồi quyết định chấp nhất định có, nhất định không. Quyết định có, không có này lại là Biến kế, nên Có, Chẳng thật có này rốt ráo xa lìa, cũng có thể cái “có” của y tha v.v… “chẳng phải có” của Biến kế, đều chẳng phải là tâm phân biệt chấp lấy, nên nói rốt ráo xa lìa.”

“Vì đạo thế gian tu tánh “không”: dưới đây là nói các bậc thánh ban đầu dùng đạo thế gian tu về tánh không, dưới đây là nói về đạo vô lậu quán “không”.

Thứ mười, giải thích về chứng tu “hai không”, tức là tánh không thứ ba trong ba tánh “không”, trong đó, trước phân biệt rộng, sau nói nghĩa lược.

Trong phần trước có bốn:

1/ Nói về tánh “không”.

2/ Y cứ ở hành, nói về “sở y” của “không”.

3/ Nói về tu địa vị “không”, tức là địa vị phàm, địa vị Hữu học.

4/ Lại nói về phương tiện tu “không”.

Đầu tiên, là nói có hai thứ “không”: a. “Không”nên chứng là lý. b. “Không” nên tu là trí.

Nếu vì đối với hai “không” này không thành xong, nên lui sụt bốn niềm vui mầu nhiệm, nghĩa là:

  1. Đối với tất cả nhiếp thọ việc xấu ác v.v… có niềm vui khéo ra khỏi
  2. Giải thoát tham v.v… được niềm vui xa lìa mầu nhiệm trong Sơ thiền.
  3. Tầm, Từ niềm vui vắng lặng nhiệm mầu của chỉ tức, tức Nhị thiền trở lên.
  4. Hai giải thoát gồm thu không có tạo tác, không có sợ hãi thuộc về niềm vui của Diệu đẳng giác.

Dưới đây, không giải thích ba thứ vui trước, chỉ giải thích niềm vui thứ tư.

Hai giải thoát gồm thu không có tạo tác, không có sợ hãi v.v… nên “không” đã chứng, đại khái có hai thứ: 1- Ngoài, 2- trong.

“Không bên ngoài cho đến “chính là năng tác chứng”, nghĩa là năm thứ dục mầu nhiệm dẫn phát năm thứ tưởng sắc.nay, chứng năm dục bên ngoài là “không”, vì không có tánh quyết định, nên tưởng năng, sở thủ cũng đều vượt qua, đối với lìa dục tham, chính là năng tác chứng.

“Không” bên trong, nghĩa là các hành bên trong: là Năm căn. Vì ở trước nói trong cái “không” bên ngoài chỉ nói là năm sắc nay giải thích không bên trong cũng chỉ nói năm căn, lẽ ra “không” đã tu cũng có hai thứ cho đến “Tu kiến vô thường” nghĩa là vì do kiến chấp vô thường, mỗi niệm sinh diệt không tự tại, nên nói biết vô ngã, vì vô ngã, nên “không”. Cho nên, nay, nêu kiến chấp vô thường, cũng gọi là tu “không”.

Dưới đây, thứ hai là nói về bốn thứ sở y “không”. Phải biết, bốn hành làm chỗ nương tựa “không” bên ngoài thứ nhất, dùng thứ hai trụ ở tâm “không” bên trong, vì sức tăng thượng, nên được định Sơ thiền, ly sinh hỷ lạc, thấm nhuần thân kia làm chỗ nương tựa. Và vì biết khắp ngã mạn ỷ lại, lấn át vào không, nên trụ “không” bên ngoài.

Thứ hai, là không bên trong, tức là dùng thứ ba, đối với pháp trong, ngoài, tu kiến “không”, vô ngã làm chỗ nương tựa.

Thứ ba, là kiến vô ngã, tức dùng tu kiến vô thường kia làm chỗ nương tựa. Kiến vô thường dùng nghe chánh pháp, tác ý như lý làm chỗ nương tựa. Lại, ở trong đây, nếu các Bí-sô vì lìa dục tham v.v…” trở xuống, là thứ ba, nói về tu địa vị “không” có ba:

  1. Kiến đạo trở xuống.
  2. Ở hữu học.
  3. Ở Vô học.

Kiến đạo trở xuống mới tu “không” bên ngoài, do môn ngã mạn, tâm không rong ruổi v.v… tùy quán sát, nghĩa là vì do ngã, nên gắng sức tu “không”, tâm không rong ruổi. “Do tướng vắng lặng” trở xuống, kế là quán không bên trong, “tức ở trong, ngoài”, trở xuống, là thứ ba, tu kiến vô ngã cho đến đối với v.v… trở xuống, là thứ tư tu kiến vô thường. Kiến vô thường, kiến vô ngã làm nhân, gọi là giới bất động. Giới là nghĩa nhân. Do ở chỗ này, không có tâm thắng giải” v.v… trở xuống, là nói về địa vị hữu học tu “không”. Hoặc duyên nhiều thứ quát sát như bất tịnh v.v… cho đến “Đối với tất cả chỗ đều có thể chứng nhập.

“Do nhân duyên này, đối với “không” sở chứng, chủ thể chứng viên mãn, trở xuống là nói về địa vị Vô học, chứng “không” viên mãn,

trừ kiết phần trên, phần dưới dứt hết.

“Vì khiến cho v.v…” trở xuống, là thứ tư, trừ nói về phương tiện tu “không”.

Nói “bốn thứ tạp nhiễm”, nghĩa là về sau, vì có tánh nhân nên bằng nhau: tức bốn chữ “cố” (vì) là bốn nhiễm.

Ngôn thuyết có hai:

  1. Theo đuổi âm thanh, hiểu lời nói.
  2. Theo đuổi pháp, thực hành ngôn thuyết.

Nghĩa là kế là ngôn lời nói, chấp thực hành. Ngôn thuyết trước. Lại, khéo biết lương, lìa các nhiễm mà khởi lời nói. Do thế văn kia, nên nói rằng lời nói có hai bình đẳng, nên biết trong đây. “Với nghĩa lược chung trở xuống, là nói về nghĩa lược kia, tìm văn, sẽ hiểu”.

 

 

(Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 91

Trong phần chọn xứ trước có ba bài tụng, nêu chung bốn môn. Đã có ba tụng giải thích ba môn trước. Nay, có một tụng giải thích môn lìa dục v.v… thứ tư, trong đó, lại có bảy môn:

  1. Lìa dục, chưa lìa dục.
  2. Hỏi.
  3. Nhân duyên.
  4. Đường nhiễm.
  5. Bảo vệ mạng.
  6. Chấp mắc chữ xứ v.v…
  7. Trong giải thích của văn xuôi, đầu tiên, là giải thích lìa dục, chưa lìa dục.

Nói “Nếu có Bí-sô cho đến Niết-bàn rốt ráo”, nghĩa là ở cõi Dục này hoặc đã lìa dục, ở ba đời của địa định, do ba thứ triền và đối tượng tạp nhiễm của ba tùy miên. Nếu chưa lìa dục, tức ý đã biết pháp ở trong năm dục mầu nhiệm, cũng do triền và bị tạp nhiễm bởi ba tùy miên, không nhậm vận thu nhập Niết-bàn rốt ráo. Trong đây, do quá khứ, dựa vào chấp lấy thức kia, nghĩa là các thức hữu kậu của đời quá khứ, khởi các triền ràng buộc. Do đời vị lai thuộc về chấp lấy thức kia. Triền của đới vi lai, thuộc về giúp đỡ tương ưng kia chấp lấy thức hiện tại đắm mê thức, có thể biết.

Tùy miên ở nối tiếp nhau, vì thường theo đuổi nên chấp lấy thức kia, nghĩa là tùy miên không thể “duyên”, chỉ có nghĩa ràng buộc, gọi là thức kia.

Thứ hai, là hỏi đáp. Dù có bốn ý nói về Đại sư Phật thư tư. Hỏi có hai nhân duyên, biết mà cố ý hỏi.

Thứ ba, là giải thích nhân duyên. Sáu xứ bên trong làm nhân, làm chỗ nương tựa cho hạt giống kia:

1/ Giải thích: Dù ý sáu xứ trong chấp lấy thứ sáu, ý căn có thức Lại-da gìn giữ hạt giống.

2/ Giải thích: “Đây là y cứ ở môn lý tùy chuyển cho đến “Cũng thọ lãnh tập bẩm sinh trong năm sắc căn”, nghĩa là đối với các hạt giống, vì sao không nói sáu xứ bên ngoài gìn giữ hạt giống, mà chỉ nói sáu xứ trong ư?” nên dưới đây giải thích rằng: “Lại, một loại nối tiếp nhau của sáu xứ, như “Cái mà ở trước đã được cho đến “Mang chung, vì rốt ráo chuyển. Cảnh giới thì không như thế, vì không có hai nghĩa trước.

Thứ tư, giải thích về con đường cấu nhiễm, cái gọi là căn, trần là con đường của tạp nhiễm hiện hành. Dục tham với tạp nhiễm là căn bản, nên nói tự tánh.

Thứ năm, là giải thích về bảo vệ mạng ở hai nơi chốn:

  1. Tự bảo vệ mạng, bỗng nhiên chết yểu.
  2. Chết với tâm bất thiện, đọa vào các đường ác.

Thế nào gọi là tác ý như lý làm đối tượng nương tựa? Lại nửa, đối với hai thứ tạp nhiễm nào, nên giải thoát tâm kia?” tức hai câu hỏi.

Đáp: “Đầu tiên, là nói tác ý như lý, như văn rất dễ hiểu”. Đáp thứ hai, tạp nhiễm, hoặc trải qua khi đi đồng là một, xa lìa lúc đứng đều là hai.

“Phải biết rằng, trong đây cho đến quả giống nhau”, tạp nhiễm thứ hai khởi từ nhiễm thứ nhất, nên nói là nhân quả, nhưng vì chẳng phải chánh nhân quả, nên nói quả giống nhau.” Thứ sáu, là giải thích xứ chấp mắc.

Thứ bảy, là giải thích chữ “đẳng”, “sở thủ” có hai lần “Lại nửa”, như văn rất dễ hiểu.

Trên đây, ở trong lựa chọn xứ, có một bài tụng rưỡi, tụng chung. Nửa bài tụng chung đầu có bốn môn, một bài tụng chung sau cũng có bốn môn, một câu là một môn, mỗi câu đều trích ra một môn nhập vào bài tụng chung này. Trong bài tụng riêng ban đầu có chín môn:

  1. Nhân đồng phần (Đồng phần của nhân).
  2. Tứ.
  3. Ràng buộc, giải thích.
  4. Tướng.
  5. Xúc khắp.
  6. Thắng giải.
  7. Giữ gìn căn môn.
  8. Giáo.
  9. Tướng truyền trao.

Trong giải thích của văn xuôi, đầu tiên, là giải thích về đồng phần của nhân. Luận sư Cảnh nói: “Thức của đồng phần vẫn có phần”.

Nói các đệ tử bậc Thánh, thức đồng phần của nhân tùy nhập vô ngã làm một môn.

Do ba thứ tướng ở trong các thức, chánh quán mà trụ là môn thứ hai. Dưới đây sẽ theo thứ lớp, giải thích môn đầu:

“Rằng, do hiện năm xứ có sắc: tức là năm trần. Thân bốn đại chủng, tức năm sắc căn. Hoặc thêm hoặc bớt, nghĩa là năm trần sanh khởi, gọi là thêm, dứt, diệt, gọi là bớt. Hoặc lấy, hoặc bỏ: Năm căn có thức đến gá lấy cảnh, gọi là thủ, không có thức không lấy, gọi là xã.

“Vì tánh vô thường, cho nên “duyên” thức kia nhập theo vô thường v.v… ”, nghĩa là căn, trần vô thường, sinh ra thức cũng thế. Vì vô thường nên khổ, vì khổ nên vô ngã là thuyết của môn đầu.

“Thế nào là tùy nhập tánh vô ngã xong? cho đến “Trụ chánh quán”, nêu, dưới đây, giải thích về ba tướng:

  1. Vì ngã kiến là gốc của tà kiến, nên phải dứt trừ trước.
  2. Quán thức kia tùy một căn trần khác nhau vô lượng.
  3. Quán thức này không dừng trong Sát-na, huống chi là rốt ráo.

Luận sư Đạt nói: “Đồng phần nghĩa là căn và cảnh đều có công năng, nên có thể phát thức. Vì căn và thức đồng chấp một cảnh, nên nói là đồng phần”.

Hỏi: “Nếu vậy thì vì sao năm xứ có sắc cũng gọi là đồng phần ư?”

Đáp: “Với nhà căn thức vì đã khởi đồng phần, nên nói rằng đồng phần của nhân.”

Nói “Hoặc tăng, hoặc giảm, hoặc thủ, hoặc xã”, mỗi thứ đều giải thích chung. Vì năm trần, năm căn thêm hơn, nên nói “hoặc tăng”. Đôi khi có hao hụt bớt, nên nói “hoặc giảm’. Vì căn cảnh gia tăng, cho nên “năng lấy’, vì căn cảnh giảm sút, cho nên “năng bỏ”, thành thử nói “hoặc thủ, hoặc xã”.

Lại giải thích: “Hoặc tăng, giảm, là nói riêng năm trần bên ngoài, hiện đang chấp mắc, nên nói hoặc tăng. Vì trần ngoài vi tế, yếu kém, nên nói “hoặc giảm”, hoặc thủ, hoặc xã, nghĩa là y cứ riêng căn bên trong. Vì cảnh bên ngoài tăng, nên “năng lấy”, vì cảnh bên ngoài giảm, nên “năng xả”.

Thứ hai, giải thích về Tư, ý Nói “Đối với sáu xứ giảm cho đến “không nên tư duy v.v… ” là nói về sáu xứ dứt Trạch diệt vô vi, không nên tư duy, phân biệt, hỏi vặn, chỉ nương tựa giác tuệ quán sát v.v…

Thế nào là bốn? Nghĩa là “hoặc có” “không”, “hoặc khác” “không khác”. Dưới đây sẽ nêu ngược lại, sự sinh, diệt của sáu xứ có bốn hành tướng, làm rõ bốn hành tướng vô vi trước: Vì sáu xứ kia có sinh, nên gọi là “có”, vì có diệt, nên gọi là “không”. Chờ đợi cái “khác”, có “khác”. Vì chờ đợi chủng loại riêng mình, trước sau không khác, nên gọi là “không khác”.

“Sáu xứ diệt hẳn v.v… trở xuống, là kết thuận với bốn hành của vô vi.

“Quán sát không hợp với đạo lý v.v… trở xuống, là nói về hý luận, hay dẫn đến vô nghĩa mà phát ngôn luận, gọi là hí luận. Đối với việc hí luận, nếu siêng năng thực hành, thì chỉ hao tổn vô ích!”

Thứ ba, là giải thích về ràng buộc, giải thoát. Về nghĩa giải thoát trong bài tụng, chung cho môn trên, dưới.

Trong đây nói ràng buộc, giải thoát, trong môn dưới nói tướng giải thoát.

Thứ tư, là giải thích tướng. Luận sư Cảnh nói: “Người khéo tu phạm hạnh, dứt trừ ngã kiến, nếu bị tổn hại thân, cướp đoạt mạng, sắc, tâm không có thay đổi. Do khéo giữ gìn căn, giải thoát bốn khổ, được bốn thứ vui mừng:

  1. Do đương lai, “duyên” bên ngoài sinh khổ, được thoát khỏi.
  2. Do đương lai, “duyên” bên trong sinh khổ, được giải thoát.
  3. Vào lúc hiện pháp Niết-bàn, cả hai trong ngoài đều dựa vào các khổ được giải thoát.
  4. Khi chết rồi giống như cây cỏ. Có hai thứ:
  5. Sáu xứ vô ngã, giống như cây cỏ.
  6. Sáu xứ là ba độc, giống như lửa đốt cỏ, cây.

Nổi khổ sau của đệ tử bậc Thánh bất sinh, phần ít giống với minh lực của Phật, nghĩa là đẳng giải thoát. Chẳng phải vì hiện pháp “duyên” khổ hiện pháp của Đức Như lai, tất cả đều bất sinh. Nổi khổ của Phật sinh tạm thời xong, nhanh chóng dứt trừ. Tuy nhiên, hai thứ minh, lực của Như lai tất cả đều thành tựu, hai minh trí, đoạn đều thành tựu.

Thái Pháp sư nói: Bậc “Vô học qua đời, nổi khổ sau không nối tiếp, giống như cỏ cây, chết rồi không nối tiếp”.

Luận sư Đạt nói: “Do hai thứ y: 1- Nương vào phiền não; 2- Nương vào quả báo. Hai thứ minh lực: Đạo vô lậu gọi là Minh. Lại, là vì sức vô lậu, nên gọi là Lực.

Thứ năm, giải thích về Xúc cùng khắp. Luận sư Cảnh nói: “Rằng có một Sa-môn vượt qua hiện lượng vượt hơn. Người ngu thế gian hãy còn không mê lầm, huống chi các bực trí. Như hiện lượng của năm thứ kia nói về năm trần, người ngu vẫn còn hiện hành, huống chi các bậc có trí, nhưng các ngoại đạo luống dối tìm kiếm, hoặc dựa vào mé trước, khởi bốn tà luận, hoặc nương tựa hiện pháp, để lập ra bốn tà luận. Ở đây triển khai hai môn. Dưới đây dựa vào hai môn, giải thích theo thứ lớp. Đại ý nói về các ngoại đạo không rõ các khổ, vui sinh ra từ xúc, mà dối chấp luống dối là do mình, người tạo ra.

Nay, nói về chính nghĩa, ba hòa hợp xúc, mới sinh ra thọ nên nói “Trong đây chỉ có căn, cảnh, thức hợp sinh khô, vui thật có .

Có chỗ giải thích: “Văn này nói “Cảnh hiện lượng chứng biết chẳng phải tạo tác của đời trước. Người ngu ở đời còn không mê hoặc, nhưng Sa-môn kia đã vượt trái với hiện lượng, lập ra sự tạo tác v.v… của đời trước, “nên nói vượt qua hiện lượng vượt hơn”.

Thứ sáu, là giải thích thắng giải, trong đó: 1- Nói do bốn tướng, nhanh chóng dứt hết các lậu. 2- Giải thích riêng, nghĩa là nương vào ba Học và năm hạng người, trong đó, trước nêu tên gọi sáu Xứ, ba Học. Kế là nêu năm hạng Bổ-đắc-già-la thực hành sáu thắng giải dựa vào ba Học:

  1. Phàm phu tại gia ràng buộc ở cảnh, ưa thích xuất ly.
  2. Phàm phu đã xuất ly xong, dù đã nương tựa vào giới tu hành ba nghiệp, nhưng vẫn thực hành thắng giải không có phiền não.
  3. Phàm phu lìa dục của cõi Dục, tức là xa lìa thắng giải.
  4. Hữu học thắng giải, ái dứt hết.
  5. Vô học dựa vào thủ thứ năm dứt hết.
  6. Tâm không quên mất hai thắng giải.

Phải biết Thắng giải thứ nhất, thứ hai là chỗ dựa của người mới học. Thắng giải thứ ba làm chỗ nương tựa cho tâm Học. Ba thắng giải sau làm y chỉ cho Tuệ học. Nếu do trí này năng dứt trừ phiền não và phiền não dứt trừ, gọi là không có quên mất, là giải thích thắng giải thứ sáu. Lại, nhân của hữu sau dứt hết, gọi là ái hết, giải thích thắng giải thứ tư. Tạp nhiễm của hiện cảnh dứt trừ, gọi là thủ hết, giải thích thắng giải thứ năm.

Lại, “Người thứ nhất kia cho đến “Và với người đổi thay khác, chưa có khả năng xả bỏ cảnh ràng buộc. Người thứ hai chưa thể bỏ hiện hành não loạn, đổi thay hiện hành phiền não. người thứ ba chưa thể xả bỏ dục “hoặc”, đổi thay dục khác.

Dưới đây là giải thích lại năm người.

Thứ bảy là giải thích môn giữ gìn căn.

Thứ tám là giải thích giáo pháp.

Thứ chín là giải thích tướng ái, đều tìm đọc văn, sẽ hiểu.

Kế là có hai bài tụng, gồm mười hai môn:

  1. Chỉ có duyên.
  2. Tầm, Tư.
  3. Nguyện.
  4. Tất cả thứ luật nghi.
  5. Nhập Thánh giáo, không giữ gìn.
  6. Tư lương vượt hơn, khéo đầy đủ.
  7. Bỏ sở học.
  8. Chấp mắc xứ.
  9. Nghĩa bất thiện.
  10. Tùy lưu.
  11. Bồ-tát vượt hơn thừa khác.
  12. Luận thi thiết.

Trong Văn xuôi đầu tiên, là giải thích chỉ có “duyên”. Luận sư Cảnh nói: “Rằng nghiệp phiền não và tự hạt giống là nhân duyên dẫn sinh thọ. Xứ sáu xúc đối với thọ, chỉ làm duyên tăng thượng của sở y. Dưới đây, sẽ nêu dụ để làm rõ. Như công dụng mà tâm đã khởi, dẫn sinh các chấp. Tay thọ nghiệp, chỉ có thể làm hỗ trợ cho thủ thọ duyên, nghĩa là như muốn cầm lấy cỏ, cây, tâm là nhân của thủ, tay là “duyên” giúp đỡ thủ”.

Luận sư Đạt nói: “Nay, pháp Đại thừa nói, do tâm phát sinh tạo tác chánh nhân của sinh hoạt, trong đó, tay có thể làm duyên hỗ trợ, cũng tạo nên sinh hoạt. Trong đây, nghiệp do tâm phát động, dụ cho nhân duyên của hạt giống trong bản thức”.

Nói tay, nghĩa là dụ xúc làm “duyên khởi” của thọ, tức là hiện duyên.

Thứ hai là giải thích Tầm, Tư như văn.

Thứ ba là giải thích về nguyện, Luận sư Cảnh nói: “Nếu có Bísô cho đến “Càng tăng trưởng gấp bội”. Nghĩa là nếu Tỳ-kheo không nguyện cầu Hữu sau rất nhiều thì chỉ nên thọ bảy hữu. Do cầu sinh hữu, nên đối với nhân khổ của bảy hữu tăng gấp bội quá bảy, đến tám. Chưa khởi tâm chạy trốn là đã thấy thân mình bị ràng buộc. Vì lúc ràng buộc, giải thoát, gọi là vi tế, chẳng phải ràng buộc bởi sắt, gỗ khó biết mà nói vi tế. Thời gian phát nguyện của hữu sau khó biết cả hai đều vi tế.”

Luận sư Đạt nói: “Trời hoặc chẳng phải Trời, nghĩa là người tù ngục. Nói chẳng phải trời, nghĩa là quỷ thần v.v…”

Nói “ở đây nếu khởi cho đến “bị phược ràng buộc, hữu bị cấm đi, nghĩa là nếu khi phát khởi tâm chạy trốn, thì tự nhiên bị buộc ràng, không do người khác ràng buộc thành. Nếu ở trước không phát khởi tâm trốn chạy thì sẽ tự nhiên yên vui, thọ vui năm dục.

Vì thời phần nên nói là vi tế, nghĩa là có khi phát tâm ác, nên bị ràng buộc, không người nào có thể buộc ràng, nhưng tự nhiên bị ràng buộc, nên nói là vi tế.

Thứ tư, giải thích tất cả thứ luật nghi, trong đó, trước triển khai bảy chương. Sau, theo thứ lớp giải thích luật nghi, phi luật nghi, như văn, rất dễ hiểu. Kế là, giải thích về luật nghi thế gian phẩm trung, thượng nhuyến. Luận sư Cảnh nói: “Trong thế gian phẩm thượng, đạt được bốn thứ tác ý, nghĩa là gồm thu bảy tác ý làm bốn, nghĩa là tác ý v.v… của công dụng. Đây là được định Vị chí và tác ý trong tám định căn bản.

Tâm trụ chín tướng, nghĩa là khiến trụ yên vui, lại quán Đẳng chí, vì “sở y” khác nhau, nên có mười thứ khác nhau, là môn thứ hai. Mười thứ khác nhau của môn đầu.

1/ Có ba thứ như Tầm v.v… gồm thu hết pháp Địa, thứ hai, ba, thọ Câu hành, cũng gồm thu địa cùng tận.

2/ Bốn phần như lùi lại v.v… cũng gồm thu tận định, vì môn khác nhau . Lại, không có pháp khác, phải biết rằng, trong đây hai luật nghi trước, do sức tư duy lựa chọn gồm thu hai phẩm hạ, trung. Một luật nghi sau, do sức tu tập gồm thu là phẩm thượng.”

Luận sư Đạt nói: “Thế gian nhuyến trung, thượng, giới căn, giới Biệt giải thoát, giới định cộng v.v… có trung, thượng là hữu lậu, nên nói là thế gian. Trong đây, y cứ ở giới căn trong địa văn tuệ, tư tuệ và giới Biệt giải thoát, để nói về hai giới phẩm trung nhuyến đầu. Y cứ ở địa tư tuệ, để nói về giới phẩm thượng, tức là luật nghi thiền.

“Đã thành thục sau v.v…” trở xuống, nói giới vô lậu của hữu học.

“Vô học kia tức tu tập” v.v… trở xuống, là nói về giới vô lậu, Vô học.

Thứ năm, giải thích nhập Thánh giáo không giữ gìn. Đầu tiên, nêu chung, kế là, giải thích riêng thứ ba.

Trong đây “Thế nào gọi là phi luật nghi” trở xuống, là lại phân biệt lại.

Văn Tuệ tương ưng với sứ thần, tức nói cảnh soi rọi của văn tuệ, tức là sức thần.

Thứ sáu, là giải thích chuẩn bị tốt lành của tư lương vượt hơn. Nói “Tham hỷ là nương tựa dẫn sinh hiện pháp, hậu pháp già, chết v.v… ”, nghĩa là do hành tham trong hiện pháp, chẳng phải phạm hạnh, thúc giục khiến già chết, tức dẫn đến già chết hiện pháp, tham dẫn đến đường ác, gọi là già chết của pháp sau.

Nói “Như cỏ, cây v.v… ”, nghĩa là văn tuệ chánh pháp như cỏ, cây. Pháp tùy pháp hạnh như chiếc bè. Dùng tuệ chánh pháp khởi pháp tùy pháp hạnh, như dùng cỏ, cây v.v… có thể đan thành chiếc bè.

Thứ bảy, là giải thích xả sở học, do bảy nhân duyên v.v…

1. “Nói là các phàm phu”, cho đến năm chuyển”, tức như trước đã nói năm chuyển như tự tánh của các hành v.v….

2. “Hoặc là phàm phu”, trở xuống, đúng vậy. Năm nhân duyên sau, đều có chữ Lại rất dễ hiểu.

Thứ tám, giải thích chấp mắc về xứ, như văn.

Thứ chín, giải thích nghĩa bất thiện, Luận sư Cảnh nói: “Lại có bốn thứ hay sinh môn không có điên đảo của trí kiến mầu nhiệm”, nghĩa là nay, giải thích một nghĩa thọ, vì từ bốn môn chuyển, nên thoát bốn thứ trí mầu nhiệm.

Quán sát khổ, nghĩa là đối với nhân của sinh thọ: 1- Giải thích năm uẩn làm nhân, năng sinh ba thọ. 2- Giải thích ba xúc làm nhân, năng sinh ba thọ. Lại, đối với y, trì, nghĩa là sáu xứ bên trong và nhân sở y: sáu xứ bên ngoài, môn mười hai xứ này. Lại, đối với nhân trụ, nghĩa là bốn cách ăn là nhân trụ của năm thọ. Lại, đối với tự tánh của y, duyên, sự giúp đỡ thuận theo hành, khổ, vui v.v… ”, nghĩa là môn mười tám giới. Y, nghĩa là sáu căn. Duyên, nghĩa là sáu trần. Tự tánh tức sáu thức. Sự giúp đỡ, tức các tâm sở đồng thời, tùy xúc, thọ khổ v.v… dựa vào mười tám giới sinh. Lại, vì hai duyên, nên đức Như lai đã trừ diệt nơi nghĩa, người bất thiện có sự do dự:

3. Danh, cũng là các thứ câu văn tiêu biểu ở một nghĩa.

4. Triển khai, chỉ rõ nghĩa rộng của Thánh giáo. Trong phần giải thích dưới đây sẽ không giải thích môn đầu, chỉ nói về nghĩa rộng. Từ địa tư lương, tức giải thoát phần. Hai là Địa phương tiện tức bốn điều thiện. Địa của ba kiến văn. Bốn là tu địa, năm là địa Vô học. Trong đây, căn biến tế thành tựu trụ, nghĩa là tức phần giải thoát mãn, gọi là bờ mé. Căn đã thành thục trụ nơi đối tượng giáo hóa của Như lai cho đến “Chánh kiến thành tựu”, tức phần giải thoát trước mãn là văn tuệ thành tựu, được Phật giáo hóa.

“Đây là y chỉ cho đến “chỉ quán song hành”, nghĩa là địa phương tiện của Bồ-tát này ở trong bốn thức trụ, trước quán thức, sắc là thức tham bất tịnh kia bất sinh là thân niệm xứ. Từ vô gián này, có thể nhập hiện quán trong Thánh đế, nghĩa là nói về địa kiến. Lại nửa, tu tập đạo như sở đắc để tiến dần thú hướng, là địa tu kia, có thể được dứt hết hẳn tất cả các lậu, là địa Vô học. Dưới đây, là “duyên” ba thức trụ còn lại là ba niệm xứ.

Nói “Như năng, như thật cho đến “cũng thế”, nghĩa là “duyên” thọ thức trụ là khổ, “duyên” tưởng thức trụ là tâm niện trụ, là vô thường. “Duyên” hành thức trụ, là pháp niệm trụ, là vô ngã, cũng có quán bốn niệm xứ đều tạo nên hành khổ, vô thường v.v… ”.

Luận sư Đạt nói: “Trong đây, Bí-sô không hiểu đức Như lai nói rộng các thứ môn khác ở trong một nghĩa, nên nói đối với nghĩa bất thiện. Diệu trí như thật đối với nhân sinh thọ.

1/ “Vì mừng vui, nên năm uẩn nhóm họp. Vì mừng này, tức là ái, nên có thể phát nghiệp thấm nhuần, để có thể sinh số thọ trong năm uẩn, nên nói là nhân của sinh thọ. Lại, nói rằng, vì xúc nhóm hơp, nên thọ nhóm hơp. Nếu theo nghĩa này, thì xúc là nhân của thọ chuyển, đây là y cứ hiện duyên. Lại, đối với Y, trì, nghĩa là sáu trần bên ngoài. Nhân của sở y là năm căn bên trong.

Thứ mười, là giải thích tùy lưu. Nói “An lập sở duyên đối với nối tiếp nhau kia. Nghĩa là ma vương v.v… vì muốn mê hoặc ủy mị hữu tình, nên biến hóa thành các thứ cảnh giới mầu nhiệm.

Thứ mười một, giải thích Bồ-tát vượt vượt hơn thừa khác, trước, là nêu chung, gạn bày tám tướng, sau là giải thích theo thứ lớp. Nghĩa là thực hành hữu sau, Bồ-tát trụ địa thứ mười. Ở trên cõi trời tự tại sẽ thành Chánh Giác. Vì khó biết, nên chỉ nói tám tướng thành đạo của Hóa thân. Từ “Đổ-Sử-Da v.v… hạ sinh trong cõi người, gọi là Bồ-tát Hậu hữu. Các đạo chánh hạnh và quả đạo v.v… Luận sư Cảnh nói: “Chánh đạo là quả trí và dùng quả đạo là quả đoạn, nghĩa là dứt trừ hai chướng. Quả đã được dứt trừ, cũng hơn Thanh văn, không có ai trên.

Lại, có một giải thích: “Đạo chánh hạnh là Thánh đạo. Quả đạo là Niết-bàn.”

Trong giải thích, nói “Lửa ba độc khó dừng lại ở hai bờ”. Tam Tạng Pháp sư nói: “Trên hai bờ sông sinh tử có ba độc, gà lửa ở đó. Có chúng sinh vừa ló đầu ra tức thì bị đốt cháy, nên gà này dụ cho ba độc. Luận sư Cảnh nói: “Pháp mười hai xứ, sáu xứ trong là bờ bên này, sáu xứ bên ngoài là bờ bên kia. Lửa ba độc như chim lủa dừng lại bờ căn trần, ngăn ngừa các hữu tình không được bờ xuất ly”.

Có chỗ giải thích: “Chim này hót vào lúc tờ mờ sáng. Ba độc cũng thế, đoạn hữu sau, thành Chánh giác”.

“Đã chấp như thế, sẽ rơi xuống sông tham ái cho đến “Nếu xúc”, là nhắc lại khổ thứ nhất. “Nếu là bờ thứ hai. Nếu ba thứ sau: là hạ, trung, thượng thì trụ ba cõi”.

Lại, người kia tức ở địa vị chưa xuất gia, ở Thiệm-Bộ, ngồi một mình dưới bóng cây tư duy v.v… Luận sư Cảnh nói: “Ở nước phương Tây có nhiều cây Thiệm Bộ, gốc có bóng râm. Các Tỳ-kheo thường đứng ngồi dưới bóng cây kia, chẳng phải cây Diêm-phù Đề ở gần núi Tu-di, gọi là cây Thiệm-Bộ. Pháp sư nước Tân-La-Quốc nói: “Do văn này, biết được rằng, Bồ-tát xuất gia, chưa xuất gia về trước, đã được Sơ tĩnh lự. Xuất gia về sau, tự nhiên được giới, cho đến chứng định Phi tưởng, tức trước được định, sau được giới.

Nói “Do được giới nên thành quả Bất Hoàn:

1/ “Do văn này chứng Bồ-tát, chứng hai quả sau. Bồ-tát đã thế, Độc giác cũng đồng”. Lại, giải thích: “Y theo văn luận Thập địa, Độc giác là một hạnh, một quả. Độc giác đã thế, Bồ-tát cũng đồng, nhưng văn luận này, dựa theo môn tùy chuyển lý mà nói. Lại, văn luận này y cứ vào sự lìa dục kia, giả gọi là bất Hoàn, chứ chẳng phải thật sự chứng quả. Cho nên, nói là đạt được tịnh, kết tướng thứ bảy”.

2/ Rằng: “Lìa hừng cháy, rời nhiệt não”, nghĩa là giải thích rải rác văn kinh”, vì muốn dứt, hẳn không còn sót, hữu đảnh” trở xuống, giải thích sáu pháp tu trong địa Vô học của tướng thứ tám, rốt ráo viên mãn, ở trong đó, sáu thứ đầu, tu viên mãn. Kế là, giải thích riêng thứ hai, tịnh tu năm y rốt ráo viên mãn.

Địa Vô học kia do có thể qua đến sáu xứ như thế, tu nhân viên mãn, được làm đại vương trở xuống, giải thích do sáu xứ tu mãn, đạt được sáu xứ tối thắng vô thượng viên đức.

Thứ mười hai, là giải thích về sự nêu bày của luận, lược có bốn thứ tìm kiếm luận về ngã:

1/ Cầu thể của “ngã”.

2/ “Tìm kiếm “ngã” là thường, vô thường, trở xuống gọi là chuyển.

3/ Tìm kiếm thế nào là ngã thường, vô thường,nghĩa là ở đây, tìm kiếm lý do ngã thường, vô thường trở xuống, gọi là tìm kiếm nguyên nhân.

4/ Tìm kiếm ngôi nhà mà “ngã” đã đi qua.

Dưới đây là nói dựa vào lý của Phật pháp, dựa vào ba trong bốn luận trước, có thể được nương tựa trên các hành, để thi thiết gia lập, như đặt ra ngã giả ở năm uẩn. Ngã giả như thế không lìa thể của các uẩn, là vô thường. Sở dĩ được biết ngã này là vô thường, là do từ duyên sinh. rằng lập bày này có thể chẳng phải một chủng thứ tư của điên đảo, cuối cùng không thể được, nghĩa là rốt ráo sẽ không có thần ngã chân thật trụ ở trong uẩn. “Phải biết rằng, đặt ra tự tánh của “ngã” cho đến “qua đây, “ngã” khác không thật có”, nghĩa là trong pháp Phật, chỉ ở trong mười hai xứ, sinh khởi sáu thức, sáu thọ, sáu tưởng, sáu tư, giả đặt ra “ngã”, ngoài các pháp này. “Ngã” khác không thật có. Lại, tức thể của “ngã” này là vô thường, vì có sanh, già, chết v.v…

Lại, “Các hành vì đối với mỗi thứ lớp thể của các thứ sinh khởi khác nhau, vì không thành thật” trở xuống, là giải thích về lý do ngã giả, vô thường.

Như thế, do tác ý như lý của tâm, vì nghe, hiểu rõ, nên văn tuệ. Vì đẳng liễu nên Tư tuệ, vì tu hiểu rõ đế, nên Tu tuệ, tức hoan hỷ của văn tuệ, đẳng hỷ của Tư tuệ và biến hỷ của Tu tuệ.

BẢN LUẬN QUYỂN 92

Lại có một bài tụng, nói về tham v.v… phẩm thượng thứ ba kia, có mười hai môn:

  1. Tham phẩm thượng.
  2. Truyền dạy.
  3. Trụ khổ.
  4. Quán sát.
  5. Dẫn phát.
  6. Không ứng cúng.
  7. Nói về giải thoát.
  8. Tu.
  9. Luận về Vô ngã.
  10. Định.
  11. Kiến pháp.
  12. Khổ.

Trong Văn xuôi, đầu tiên, trong phần nói về tham của người phẩm thưọng, trước, nói về ba nhân khởi tham. Sau, nói về ba nhân đối trị tham:

  1. Giữ gìn căn môn.
  2. Ăn biết vừa đủ.
  3. Chánh niệm, chánh tri hơn hết, trong đó có hai địa vị: Đầu tiên, nói từ phàm nội trở lên, đến quả Nhất lai, là địa vị thứ nhất. Kế là từ quả Bất Hoàn cho đến A-la-hán, là địa vị thứ hai.

Trong phần, biết thọ tưởng sinh, diệt với tầm, tư, cũng còn sinh, diệt nửa, là địa vị ban đầu kia.

“ Lại có chánh niệm, chánh tri v.v… ” trở xuống, là địa vị sau kia. Nghĩa là người đã chứng được định Diệt tận, hoặc là đạt được định vô tướng của ba môn giải thoát. Hoặc đã được Nhị thiền trở lên, không có tầm, từ, nghĩa là nương tựa Thánh trụ, thiên trụ: Định vô tướng của diệt định, đều gọi là Thánh trụ. Không có tầm, từ v.v… là Thiên trụ kia.

Hoặc “Từ diệt định khởi xong, mà trụ cho đến “Là gọi là chánh niệm, chánh tri hơn hết”, nghĩa là vì nhập diệt định, không có tâm “năng quán”, nên nói hai thời nhập, xuất trước sau, quán thọ sinh, chỉ có pháp, không có nhân gọi là niệm hơn hết.

“Như dựa vào Diệt định cho đến “Phải biết cũng thế”, hình thức ở trong định Vô Tướng. hoặc quán chân như, hoặc “không” vô ngã, vì nghĩa này nên nói nhất định “Hai thời trước sau, quan tưởng sinh, diệt.

Từ địa Tầm, Từ, nhập tâm có tầm, từ. Quán tầm từ kia sinh khởi mà khởi nhàm trái. Chính thức ở tâm không có tầm, từ, không quán sự sinh diệt của Tầm, Từ, nên nêu hai thời trước, sau để quán.

Người ngu không biết chỉ thọ lãnh nạp, chỉ tưởng lấy hình tượng. Ta có thể giác biết, quán sát v.v… Trong đây thuyết sau nói cho đến quả Nhất lai”. Luận tự phán quyết địa vị.

Thứ hai, là giải thích về sự giáo thọ (truyền dạy).

Nói “Phân biệt các xứ trong ngoài, phân tích sắc uẩn, xúc, trở xuống, phân tích các thứ bốn uẩn không đồng. Ba tánh, ba đời, hữu lậu, vô lậu khác nhau, chỉ pháp không có nhân, chỉ bày rõ vô ngã.

Thứ ba, là giải thích khổ trụ.

Thứ tư, là giải thích quán sát, đều như có văn, rất dễ hiểu.

Thứ năm, là giải thích dẫn phát: nói “Năm tướng vắng lặng đã nói như trước. Luận sư Cảnh nói: “Như tự tánh của nhãn căn, nhân duyên của nhãn căn, nhân duyên tạp nhễim của nhãn căn cho đến nhãn căn thanh tịnh.”

Có chỗ giải thích: “1- Khéo Điều phục; 2- Khéo Che giấu; 3- Khéo Giữ gìn; 4- Khéo Giữ gìn; – Khéo Tu. Là gọi là năm tướng vắng lặng.”

Nói ba khổ: tức dưới đây có ba câu.

Thứ sáu, là giải thích không ứng cúng như văn.

Thứ bảy, là giải thích về giải thoát, trước nói ngoại đạo nói pháp không có lợi. Sau, nói Đức Như lai nói pháp có quả lợi kia, trong đó lại có hai: trước lược nêu nói pháp là được minh và giải thoát. Sau, nói rộng về bốn thứ tu đạo.

Nói “Trong đây trước hết là tu căn đã dẫn”, trước hết, giới học là tu căn đã dẫn.

Nói “Thứ hai là sở dẫn của thứ hai, nghĩa là tâm học thứ hai, là giới học thứ hai đã dẫn, vì trong bốn tu. Giới là thứ hai trong ba học giới là thứ nhất.

Thứ ba, là giới thứ ba đã dẫn, nghĩa là tuệ học thứ ba là tu tâm thứ ba đã dẫn. Tu giới, tu tâm, tu tuệ, đối với nhau đều có ba thứ đã dẫn:

1. Giải thích tu giới. Ba đã dẫn: Giới là tâm đã dẫn. Tâm là tuệ xứ dẫn, tuệ là tu căn đã dẫn.

Ba dẫn của tuệ: Tuệ là giới dẫn, giới là tâm đã dẫn, tâm là tu căn dẫn, nên nói “Ba thứ đối với nhau đều có ba thứ”.

Lại, giải thích: “Lượt đầu, tu căn là tu giới đã dẫn, tu tâm là căn đã dẫn. Tu tuệ là tu tâm dẫn.

Lượt thứ hai, là tu căn là tu tâm dẫn, tu giới là tu căn dẫn. Tu tuệ là tu giới dẫn.

Lượt thứ ba, tu căn là cái mà tu tuệ dẫn. Tu giới là tu căn dẫn. Tu tâm là tu giới đã dẫn, nên nói đối với nhau, đều có ba thứ sở dẫn.

Nói “Lại các Bí-sô giữ gìn các căn”, tức tu căn tu tập hạnh mầu nhiệm v.v…, nghĩa là tu giới. Tâm được chánh định là tu tâm. Thấy như thật nghĩa là tu tuệ.

Thứ tám, là giải thích về tu, trước nói tu bất thiện. Sau, nói khéo tu căn.

Nói “Quán chúng sinh thứ nhất, khởi ý vui vẻ, nghĩa là người thực hành chánh hạnh trước, sau.

Quán chúng sinh thứ hai không khởi ý vui vẻ; là người làm tà hạnh trước, sau.

Quán chúng sinh thứ ba, khởi ý vui vẻ, sinh ý không vui, nghĩa là người đó trước thiện, sau ác. Quán chúng sinh thứ tư, với ý không vui vẻ, đầy đủ khởi ý vui vẻ, là người kia, trước ác, sau thiện.

Quán chúng sinh thứ năm, khởi ý vui vẻ, nghĩa là một hành chánh hạnh. Sinh ý không vui vẻ, nghĩa là một thực hành buông lung, cũng lại sinh khởi ý vui vẻ, không vui vẻ, nghĩa là một thực hành một phần, đôi khi buông lung, hoặc không buông lung.

Lại, đối với năm tùy chuyển, nên tư duy ba thứ đối, nghĩa là năm chuyển dù khác, nhưng lược có ba loại:

1. Vừa ý, tức hoàn toàn thứ nhất và phần ít của ba thứ sau.

2. Không vừa ý, tức hoàn toàn thứ hai và phần ít của ba thứ sau.

3. Vừa ý, tức phần ít của ba thứ sau, vì tưởng vô thường, đối với người thứ nhất không khởi tham ái, vì do tâm từ, nên đối với người thứ hai, không khởi giận dữ. Vì định Vô tướng, nên đối với người thứ ba, không khởi yêu, giận.

Nói “Cảnh ba chuyển”: Chúng năm phẩm, tóm lược làm ba.

Thứ chín, là giải thích vô ngã luận.

Thứ mười, là giải thích định.

Thứ mười một, giải thích kiến chấp pháp. Đều tìm văn, sẽ hiểu.

Thứ mười hai, giải thích môn khổ. Nói “Đối với năm thứ thọ, phát khởi năm chuyển, diệu trí như thật”, nghĩa là tức khởi năm thứ trí nơi năm thọ, nên gọi là năm chuyển.

Trên đây, là lựa chọn xứ. Trong bài tụng chung ở sau, có bốn môn, ba môn trước đã giải thích xong.

Dưới đây, thứ tư giải thích nhiều trụ đẳng, có một bài tụng rưỡi, nêu mười bốn môn:

  1. Một trụ.
  2. Xa Niết-bàn.
  3. Nói sơ lược.
  4. Sở chứng bên trong.
  5. Nói tất cả.
  6. Biết tướng.
  7. Bỏ sở học.
  8. Nghiệp.
  9. Đẳng.
  10. Không.
  11. Tùy hành.
  12. Hằng trụ.

Trong câu sau cùng, là thầy, trò viên mãn, có hai lần “Lại nửa”. Kế là, chia làm hai môn, như mười hai thứ trước làm mười bốn môn.

Trong Văn xuôi đầu tiên, là giải thích một trụ, trước, bài tụng chung rằng. Sau, nhiều trụ đẳng. Nay, nói một trụ là sao? Luận sư Cảnh nói: “Dường như có trái nhau mà chấp lấy nghĩa đều khác. Nếu khởi tham ái, phát nghiệp, cảm vời sinh, thì sẽ có nhiều trụ. Nếu dứt trừ các ái thì sinh ở đương lai sẽ không khởi. Chỉ một đời hiện tại, thì gọi là một trụ.”

Luận sư Đạt nói: “Danh từ một nghĩa để đặt tên chương là trái với nhiều trụ, là một trụ.

Trong đây, nói một trụ, ở trước nói nhiều trụ: Trong đây đã đổi thay nhiều trụ để đặt tên.

Thứ hai, là giải thích Niết-bàn.

Thứ ba, là giải thích nói lược, đều như văn, rất dễ hiểu.

Thứ tư, là sở chứng bên trong, như trước nên biết: Có thể dẫn chín mươi văn, nghĩa là trong hiện pháp cho đến “Có và chẳng có”, nói là hiện pháp mười hai xứ tăng thượng sinh ra tạp nhiễm. như thật biết rõ chưa dứt trừ hẳn “có” đã dứt trừ “chẳng có”.

Thứ năm là giải thích nói tất cả.

Thứ sáu là giải thích biết tướng, đều như văn, rất dễ hiểu.

Thứ bảy là giải thích xả sở học, như văn.

Thứ tám là giải thích về Nghiệp.

Nói: “Lại, ở trong đây cho đến “cũng thế”, ái hiện tại, thấm nhuần nghiệp trước. Vị lai thấm nhuần nghiệp hiện tại v.v…. Về mặt lý, thật ra nghiệp đối với sáu xứ, đều là duyên tăng thượng. Luận chủ muốn phân biệt nhân của ba thời, nên nói nhân và nhờ vào duyên.

Thứ chín, giải thích về môn đã chấp lấy của chữ “đẳng” Luận sư Cảnh nói: “Ý hỏi “Hữu sau sinh, khởi do hai thứ duyên: 1- nghiệp, 2- ái; mà chỉ nói tùy nghiệp mà làm, không nói tùy ái là vì sao? Dưới đây sẽ giải thích.

Đầu tiên, là nói về dục ái vì phát nghiệp ác, nên mới đọa vào đường ác. Kế là, nói vì ái phát nghiệp thiện, nên mới sinh cõi thiện. Chẳng phải trực tiếp do ái, được sinh các đường, nên chỉ nói nghiệp, vì nghiệp là nhân gần. Xúc, tương ưng với văn, tư, gọi là chung là nói về xúc. Luận sư Đạt nói: “Nói về xúc: “Rằng vô lậu tương ưng với số xúc. Lại, rằng xúc hữu lậu này chẳng phải vô minh, nên nói là xúc minh.

Thứ mười, là giải thích “không”. Luận sư Cảnh nói: “Trong ngoại cảnh, giả gọi là cũng nói là có quả và có thọ, nghĩa là quả thọ đó đôi khi là không, hiện đời có thể được, như đất không có chủ, gọi là thọ, giả không. Như thế, gọi là Thế đế “không”.

Nói “Phải biết trong đây cho đến “Vì đã thật có”, nghĩa là pháp chưa có, nhân sinh nay có. Vị lai đã có, không nên sinh lại. Đây là chính phá Tát-Bà-Da. Nếu hành, hữu ở quá khứ, không nên gọi là diệt. Lại, trong hành sinh diệt ở sát-na, chỉ có các hành tạm thời có thể được cho đến “Gọi là mé giữa là không”, cũng là thường “không”, vì tạm không có ngừng lại, cũng là ngã “không’, vì chỉ hành không có nhân. Lại, tất cả pháp đều không có tác dụng. Có một ít pháp có thể sinh một ít pháp, nghĩa là trong thể của pháp, tìm kiếm tướng dụng của nó, hoàn toàn không thật có, nên gọi là không có tác dụng. Dựa vào thế tục đế, giả lập tác dụng, nói là pháp này sinh ra pháp kia.

Luận sư Đạt nói: “Trong đó có ba: 1- Nói về nghĩa “không”. 2- “Phải biết trở xuống là phá nghĩa Tát-bà-đa nhất định có pháp thể ba đời trong đó có hai: ban đầu là phá chấp ba đời thật có, hai là nên biết cũng là ngã thường không trở xuống, so sánh phá thường “không”, “ngã không” v.v…

Trong phá ba đời có ba đoạn văn: Đầu tiên là phá mé sau, trong đó, trước dùng đạo lý để phá:

“Nếu có việc này v.v… trở xuống, là lập lượng phá:

Nếu nói các pháp vị lai thật cóthể tánh, thì các pháp đó không nên sinh, (lập tông). Vì đã thật có, là nhân như vô vi, là dụ.”

Nói “Lại, không nên có vô thường có thể được, (lập tông). Vì thường trụ, (nhân). Cũng như hư không, dụ.

Đã “có” có thể được v.v… trở xuống, là kết thuận, thành chánh nghĩa. Trong phá bờ mé trước, tướng văn bờ mé, có thể biết.

Thứ mười một, giải thích tùy hành. Luận sư Cảnh nói:

  1. Đối với cảnh giới sở duyên của “chủ thể thuận với Hỷ”.
  2. Thuận theo mà thực hành tâm sâu sắc mừng vui.
  3. Không đúng chánh lý chấp lấy tướng kia. Phát sinh tham dục.
  4. Thường khởi tìm kiếm.
  5. Nhân đây, thực hành rộng phước, phi phước v.v…

Pháp sư Thái nói: “ Muốn nói về mười tám ý hạnh, không so sánh danh số, chỉ có nghĩa kia.”

Luận sư Đạt: “Năm thứ tướng:

1. Thuận theo cảnh vui mừng mà thực hành.

2. Chấp tướng không đúng lý, mà phát tham.

3. Thường khởi Tầm, Tư.

4. Tìm kiếm phương tiện.

5. Nhân phương tiện này, thực hành rộng hạnh phước, phi phước, trong đây y cứ ở môn mười tám ý hạnh để nói. Ba nghĩa là hạnh sáu hỷ, hạnh sáu ái và hạnh sáu xã. Đã nói hạnh sáu hỷ. “Như có thể v.v… trở xuống. Là So sánh nói về sáu ưu, sáu xã.”

Thứ mười hai, là giải thích thường trụ, tức sáu thường trụ.

Hỏi: “Mừng và hớn hở, buồn và lo có gì khác nhau?”

Giải thích: “Mừng, và lo gọi là hẹp, vì chỉ ở thọ. Hớn hở, và buồn gọi là rộng, vì tham giận khắp và xã thọ”.

Thái Pháp sư lại cho rằng: “Vì đối trị với mười tám ý hạnh ở trước, nên nói mười tám thanh tịnh. Điều này cũng có nghĩa không nêu danh số.

Thứ mười ba, là giải thích thứ lớp viên mãn lượt trước. Luận sư Cảnh nói: “Muốn cho ngộ nhập các thọ sở hữu vì đều là khổ, nên nói chỗ nương tựa của thọ, ấy là sáu căn. Nói “Nhân duyên kia” là xúc. Nói “hay tạp nhiễm”, nghĩa là các pháp phiền não đồng thời với thọ. Cái có tùy hành, được nói là “bị đối trị” và “năng đối trị”.

Kế là câu an lập, nghĩa là mười tám ý hạnh, hạnh nhiễm: sáu ưu, sáu hỷ, sáu xã. Đại sư nói là Câu bị đối trị. Sáu lìa ưu, sáu lìa hỷ, xuất ly xã. Đại sư nói là hạnh của chủ thể đối trị, tức gọi là Câu của sư. Lại, dựa vào hạnh lợi mình, giảng nói ba thứ niệm trụ v.v… không chung.”

Hỏi: “Ba niệm, tức là Phật. Không tham với hạnh siêng năng tu đạo, không giận đối với các đế, trong đó tiếp nhận không si. Đối với ba niệm, cảnh ba niệm v.v… tâm thương xót lẽ ra là lợi người, sao gọi là tự?”

Giải thích: “Về mặt lý, cũng có cả hai. Chính mình lìa lỗi của ba nghiệp, gọi là lợi mình. Dùng ba niệm trụ khiến người khác làm, tức là lợi người.”

Luận sư Đạt nói: “Câu Đại sư đã nói các sư trong đây, nên nói là Câu của sư. Lại, nói “Vì đại sư của ngoại đạo đã nói, nên nói là Câu sư, nhưng như thuyết trước là tốt.

Thứ mười bốn, giải thích lượt sau, giải thích lại thứ lớp hai viên mãn. Như văn, rất dễ hiểu.

BẢN LUẬN QUYỂN 93

Trên đây, có hai lựa chọn trước trong bốn lựa chọn của Khế kinh, đã nói xong. Dưới đây, thứ ba, nói về duyên khởi thực, lựa chọn giới đế, có văn bốn quyển, nói về bốn pháp này mà quyết định lựa chọn. Tựu trung: 1- Kết trước, sinh sau. 2- Nêu tụng, trong giải thích bài tụng có hai: một bài tụng đầu, là tụng chung, nêu sáu môn để nói đế thực của duyên khởi. Sáu bài tụng rưỡi sau, tụng chung, dẫn ba môn kia, nêu, nói về lựa chọn giới. Sáu môn trước là:

1- Lập đẳng; 2- Hai đế đẳng; 3- Xúc là duyên đẳng; 4- Hữu diệt đẳng. Bốn môn này giải thích duyên khởi; 5- Nói về thực v.v… ; 6- Như lý; sau cùng v.v…, tức nói về bốn đế. Lại, dùng sáu bài tụng riêng để phân biệt. Trong bài tụng riêng đầu tiên, có mười môn: 1- Lập; 2- Nhóm khổ. Giải thích lại quán đế, tức là thứ ba, thứ tư; 5- Nhiếp Thánh giáo; 6- Trí vi; 7- Mé lo nghĩ, so lường; 8- Quán sát; 9- Mạn phẩm thượng; 10- Rất sâu xa.

Trong Văn xuôi, đầu tiên, giải thích, lập môn, trong đó, trước chia ra ba chương. Kế là, dựa vào chương để giải thích. Sau, là giải thích xong, tổng kết.

1/ Từ mé trước, mé giữa được sinh, nghĩa là từ mười nhân quá khứ sinh hai quả hiện tại.

2/ Từ mé giữa mé sau được sinh, nghĩa là từ mười nhân hiện tại sinh hai quả vị lai.

3/ Ở mé giữa sinh xong, chuyển biến theo và hướng đến thanh tịnh, nghĩa là ở hiện báo đó, hoặc cón tạo nghiệp trôi lăn trong vị lai, dứt trừ “hoặc” nghiệp, thú hướng thanh tịnh. Đây là chia môn đã xong.

Căn cứ trong giải thích ở dưới, chỉ lập hai môn để giải thích:

1/ Giải thích từ mé trước, mé giữa được sinh và ở mé giữa sinh xong, trôi lăn nối tiếp nhau.

2/ Giải thích từ mé giữa sinh mé sau, hoặc hướng đến thanh tịnh.

Trong phần trước có bốn: 1- Hỏi; 2- Đáp; 3- Kết; 4- Nói sự khác nhau.

Hỏi: “Văn rất dễ hiểu, giải thích từ mười nhân của mé trước sinh hai quả ngày nay?” Luận sư Cảnh nói: “Nói là như có một đời trước chẳng phải thông minh cho đến “nghiệp, thân, ngữ, ý”, nghĩa là vô minh quá khứ tạo nên hành quá khứ. Do đây làm duyên, tùy nghiệp, Hành, thức: Do hành làm duyên huân tập phát ra hạt giống danh ngôn của chi thức cho đến qua đời cho đến “nối tiếp sinh nhân thức”, nghĩa là thức ở đời trước đã bị hành huân phát, cho đến thân ở trước qua đời đến nay, chuyển biến theo mãi không dứt, có thể làm duyên cho thức nối tiếp nhau lần đầu tiên trong đời nay. Đây là thức của sinh báo ở trước, gìn giữ hạt giống danh ngôn ở chi thức, làm báo đầu tiên nối tiếp sinh, sinh nhân của thức.

“Xoay vần như thế”, nghĩa là hạt giống của thân thức ở trước có công năng dẫn sinh hạt giống của danh sắc. Hạt giống danh sắc dẫn sanh sáu xứ. Hạt giống sáu xứ hay dẫn sinh xúc. Hạt giống xúc dẫn sinh thọ, nên nói “lần lượt”, từ thọ sinh ái, ái lại sinh thủ. Ái thủ đã sinh, thấm nhuần hạt giống của hành trước và hạt giống thức v.v… để trở thành “hữu” cho nên ái trong, ngoài khi thức sinh quả, có thể làm giúp đỡ khởi hiện trước.

Trên đây là nói chung mười nhân của mé trước đã xong. Kế là, nói mé giữa được sinh, trong đó có ba:

  1. Nêu chung thuật lại,
  2. Thức và danh sắc lần lượt nương tựa nhau.
  3. Giải thích xong,tổng kết.

“Đã chết đi, cho đến tùy chuyển không dứt”, nghĩa là chính nói về mạng của mé trước dứt, do mười nhân của mé tước, hai quả của mé giữa sinh già, chết, sinh. Đây là thuật lại.

Kế là, nói về nượng tựa nhau: Gánh vác tất cả cho đến yếu đuối, già nua, đây là nói thức “duyên” danh sắc. Lại, tức lúc thức này sẽ nối tiếp sinh, cho đến vì chuyển sáu y, đây là nói thức từ nghiệp sinh. Lại dựa vào danh tiếng tức là danh sắc “duyên” thức. Do đây, nói là danh sắc”duyên”thức. Dưới đây, là nói về danh sắc, nghĩa là năm căn đều sinh (câu sinh) nói danh là sắc. Vô gián diệt v.v… nói danh là danh”, nghĩa là trong hiện tại, chủ thể dựa vào pháp tâm, tâm sở gọi là chung là thức. Đồng thời, năm căn là sắc. Niệm trước diệt, ý là danh ngôn, có thể làm chỗ nương cho sáu thức, nghĩa là Lại-da thuộc về ý thức. Cho nên, chỉ gọi là sáu thức, cũng có thể vì ở đây y cứ môn tùy chuyển lý, nên nói là Thức. Lại, căn của năm sắc căn dựa vào xứ căn đại chủng, đại chủng sinh các sắc, đây là lượt thứ hai, phát ra thể của danh sắc. Lượt giải thích ở trước chỉ lấy năm căn làm sắc. Nay, nếu chung cho năm sắc căn, bốn đại căn tạo, đại phù căn trần, thì gọi là chung là sắc. Và các danh khác, nghĩa là chỉ hiện tại chỉ tâm vương là thức. Thọ, tưởng, hành uẩn, và tâm trước diệt, bốn uẩn đồng thời, nói chung là danh, nên nói “và các danh khác”. Do thức kia giữ gìn mà có căn v.v… tùy ở trôi lăn nối tiếp nhau không dứt, đây là nói về danh sắc được giữ gìn làm lưu chuyển y cho thức, không dứt mất. Hai thứ này được gọi là chung là “tùy chuyển y chỉ”, nghĩa là hai danh, sắc này gọi là chung, làm, y chỉ tùy chuyển cho thức”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “ Trong đây, giải thích về thể của danh, sắc có hai “lại nửa, trong đó, trước là, Đại, Tiểu thừa đồng thừa nhận chung. Sau, chỉ ở Đại thừa. Luận sư Đạt cho rằng hành thức tùy nghiệp, nghĩa là hạt giống, chi thức. Nếu y cứ ở văn này thì chi thức, cũng gồm thu trong nghiệp tạp nhiễm, nhưng là hạt giống. Chi thức là danh ngôn huân tập hạt giống, chẳng có phần vị.

Chi thức hạt giống này, ba Luận sư các nước phương Tây giải thích không đồng; Ngài Hộ pháp nói bản, Thủy đủ. Ngài Hộ Nguyệt: nói chỉ có bản. Cả hai Luận sư đều nói: “Từ lúc vô thỉ đến nay, danh ngôn đã được huân tập, huân tập hạt giống”.

Nói “Căn dựa vào đại chủng” Nghĩa là bốn đại căn tạo, đại chủng xứ căn: đại chủng tạo phụ căn, mà sinh ra các sắc, nghĩa là phụ căn trần v.v… Do đây nên nói “Đẳng tùy cận kiết” (kiết gần đẳng tùy). Như thế, gọi là duyên khởi đẳng của mé giữa, mé trước.

Thứ ba, nghĩa môn trước của kết xa. Dưới đây, là thứ tư, nói cụ thể về sự khác nhau, có bốn:

  1. Đối với Noãn, thấp để nói về sự khác nhau.
  2. Đối với hóa sinh, theo thứ lớp, nói sự khác nhau.
  3. Đối với Vô Sắc, theo thứ lớp, nói về sự khác nhau.
  4. Y cứ ba nghiệp, để nói về sự khác nhau tìm văn sẽ hiểu.

Trong môn thứ hai, trước hỏi, kế là, giải thích:

“Sao gọi là các hành được sinh từ duyên khởi của bờ mé giữa?” Đây là một câu hỏi.

“Thế nào là bất sinh do bất sinh, nên chứng được thanh tịnh?” Đây là câu hỏi thứ hai:

Dưới đây, đáp theo thứ lớp:

Trong đáp câu hỏi đầu tiên, Luận sư Cảnh nói: “Rằng người kia sinh ở bờ mé giữa như thế, nghĩa là lãnh thọ nghiệp trước đã được hai quả:

1. Lãnh thọ quả Dị thục bên trong, nghĩa là sáu căn bên trong.

2. Lãnh thọ cảnh giới đã sinh ra quả tăng thượng của thọ, nghĩa là cảnh ngoài đã sinh quả của ba thọ. Đây là nhắc lại hai quả của mé giữa từ nghiệp của mé trước sinh.

“Người kia, do nghe pháp bất chính, nên cho đến “hữu” sau sinh khổ, đây là vì mê quả hiện tại, quả đương lai, nên khởi ngu si, “do mé trước này cho đến tăng trưởng các hành”, nhắc lại mê trước, ngu Dị thục nội hiện tại, gọi là vô minh mé giữa. Nhắc lại mé trước không thể biết rỏ như thật, sinh khổ của Hữu sau ở đương lai gọi là vô minh mé sau. Do hai ngu này phát nghiệp gọi là hành tăng trưởng.

Nói “Do nghiệp mới này vì huân tập thức biến nên tùy nghiệp trong hiện pháp mà hiện hành. “Hành khởi” huân tập thức, dẫn sinh hạt giống của chi thức cho đến “phải biết rằng, thức này ở trong hiện pháp, chỉ là nhiếp thọ tánh nhân, sẽ sinh ra quả của các thức”, nghĩa là chi hành, đã dẫn sinh hạt giống thức, chỉ là nhân, chẳng phải quả.

Y cứ ở tất cả nối tiếp nhau làm danh, nói là sáu thức thân, nghĩa là nếu lần đầu tiên thọ sinh, vì chỉ là ý thức, nên y cứ nối tiếp nhau có sáu thức thân.

Lại” tức thức này cho đến ” lại vì theo đuổi hạt giống các thọ của hữu sau ở đương lai”, nghĩa là hạt giống của năm chi. Trước có thể dẫn sinh sau, sau theo. Ở trước.

“Phải biết rằng danh này cho đến ”vì các tự thể, kết lại chỗ nói như thế do quả dị thục ở trước ngu dẫn hậu hữu rồi”, kết bảy chi trước do vô minh dẫn dắt,

“Lại nửa, do thứ hai cho đến ” phát sinh tham ái v.v… ” nói ái, thủ có ba thứ nhân sinh ra, do thọ cảnh giới bên ngoài, phát sinh tham ái, ái tăng, gọi là thủ ái, thủ thấm nhuần chi hành ở trước. Và, hạt giống thức chuyển gọi là “hữu” là thuộc về nhân của sinh ở đương lai.

Trên đây, đã nói về mười nhân của mé giữa này. Dưới đây, sẽ nói do mười nhân của mé giữa này. lôi kéo đến hai quả của mé sau. Nghĩa là hữu vô gián này đã chết đi rồi, cho đến thọ là sau rốt, hiện tại chết đi, thức đương lai mới khởi, gọi là sinh bốn thứ như danh sắc v.v… Kế là già, chết.

“Năm quả như thế, hoặc dần dần, hoặc tức khắc” nghĩa là ba sinh thọ sinh, các căn khởi dần, hóa sinh thọ báo, các căn đủ ngay tức khắc.

“Như cho nên biết cho đến ” theo thứ lớp hiện ở trước”, kết do ba nhân, nối tiếp khởi báo sau.

“Phải biết rằng, trong đây, hoặc có nơi chốn, chỗ sinh hiện ở trước. Hoặc có hạt giống của nơi chốn theo đuổi, với thân của mé giữa khởi khắp vô minh, hành v.v… của chín địa. Bảy thứ nhân trước đối với chín địa kia, đã tạo ra bảy nhân, không thể thọ ngay, vì rơi vào báo của một địa, nên nói “hoặc có nơi chốn sinh khởi hiện ở trước. Bảy nhân của Bát địa còn lại chưa thành thục. Hoặc có hạt giống của nơi chốn theo đuổi, ba nhân của ái sau không được ở các địa đều khởi. Cần phải y cứ ở chỗ bảy nhân thành thục ở trước, mới khởi ba nhân này.

“Như thế, mé giữa cho đến” các hành duyên khởi”, kết trong mé giữa, đầu tiên, do mê chấp vô minh, phát nghiệp. Kế là, do ngu thọ cảnh giới, nên sinh ái thấm nhuần nghiệp. Vì nhân duyên đủ, nên các hành của quả báo vị lai sẽ được sinh”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Đối với ba nghiệp nối tiếp nhau, để nói về chi thức, tức sáu thức thân. Nếu lấy bản thức, thì chẳng phải giáo Nhị thừa, nên luận rằng: “Tất cả nối tiếp nhau”, là ý ở đây. Lại, có thể ở trên vì y cứ ở chỗ vượt hơn, nên hạt giống trên bản thức, gọi là chi thức. Nếu trong xứ nối tiếp nhau, đã có các thức, cũng nói sáu thức gọi là chi thức. “Nếu trong hiện pháp, từ người khác nghe pháp” trở xuống, trong đáp câu hỏi thứ hai, Luận sư Cảnh nói: “Dưới đây, là nói về mé giữa vì thân khởi nhàm chán, trái ngược, nên ra hạnh thanh tịnh, nên nói: “Nếu ở hiện pháp, từ người khác nghe pháp, v.v…” Do vô minh, ái kia làm nhân, có thể tư duy đúng lý về hai thứ căn tánh.

1- Giải thích: “Là tánh của hai quả mé giữa, mé sau”. 2- Giải thích: “Sinh ở vị lai và già chết, chỉ tánh của hai quả.” 3- Giải thích: “chỉ là quả của một sinh. 1) Do nhân dẫn. 2) Do nhân sinh. Hai nhân đã khắc định, gọi là tánh của hai quả, đây tức quán khổ. Kế là, quán ba đế như Tập v.v… như văn.

Luận sư Đạt nói: “Có thể vô dư dứt trừ vô minh và ái”. Hỏi: “Vì sao nói riêng vô minh và ái ư?” Đáp: Có ba giải thích sau:

  1. “Hai duyên khởi trước, sau”.
  2. “Vì nhân dẫn ban đầu, vì nhân sinh ban đầu”.
  3. “Vì vô minh diệt, nên được tuệ giải thoát.

Vì do ái hết, nên được tâm giải thoát.

Thứ hai, là giải thích nhóm khổ. Luận sư Cảnh nói: “An lập chín tướng, nghĩa là nhà giải thích rằng, ba phiền não mé giữa của mười hai chi. Hai nghiệp của chín chi còn lại là rể của cây khổ. Bảy nghiệp khác là thể của cây. Ba phiền não chỉ là nước thấm nhuần, trong đó, đầu tiên nói về hiện thân tạo nghiệp, như cây khổ nhỏ, như cây mới trồng gọi là nhỏ, nghiệp hậu hữu do đời trước tạo ra gọi là cây lớn vì thời gian gieo trồng rất lâu.

Trong phần trước, trước, nói về phàm phu gây tạo, sau, nói về bậc Thánh trừ diệt. Trong phần Thánh trừ diệt trước là đối với các pháp hữu vị sinh diệt, khởi nhàm chán về dứt trừ, không có dục và “tiếp theo, giới diệt v.v… trở xuống. Ở vô vi khởi dục.

“Lại còn có một v.v… trở xuống, là nói về cây to khổ.

Đã sinh tự thể, nghĩa là được hiện báo.

“Các cái có trước cho đến “bị nổi khổ kia ràng buộc”, nghĩa là các nghiệp đã tạo trước, thuận với nghiệp đã tạo sau. Hạt giống theo đuổi ở trong thức, gọi là trói buộc.

“Cho nên tự thể kia cho đến “Như cây khổ to”, nghĩa là dục giống như nghiệp trước cảm hiện thân, đồng làm một rễ cây. Nếu nói nghiệp chưa thành thục và báo thân hiện tại chung là một cây thì báo riêng, cây riêng, không thích hợp nhau.

Nói “Tạo nghiệp ở trước, như rễ châm thẳng xuống, ái hiện khởi v.v…, như tưới nước bên vệ đường, khiến cho cây được thấm nhuần, nghĩa là hai thứ “hoặc”, nghiệp so với rễ cây ở vị lai, là tức tương đương.

“Phẩm Bạch trong đây, như trước nên biết”, nghĩa là Bậc thánh trừ đoạn, như trước đã nói.

Thái Pháp sư nói: “ chín tướng gồm những gì? 1/ Vị ái hiện tại. 2/ Lưu luyến quá khứ; 3/ chấp mắc, trói buộc vị lai; 4/ Trụ như thế trở xuống; / Thông minh này trở xuống; 6/ Khiến hậu hữu như thế, trở xuống; / Nếu có học rộng trở xuống; 8/ Đối với dứt trừ, không có dục trở xuống; 9/ Làm hao hụt bớt nghiệp kia trở xuống.”

Dưới đây, hai lượt giải thích về quán đế, tức là hai môn. Lượt trước giống như y cứ ở bảy mươi bảy trí để giải thích. Lượt sau, giống như y cứ ở bốn mươi bốn trí.

Số dài của lượt trước là môn thứ ba.

Nói “Phải biết rằng, trong đây cho đến “Vì chẳng phải bất định”: 1/ Quán nhân tế; 2/ Quán nhân thô. Hai quán tìm kiếm văn này, vì ba quán chẳng phải bất định, đây là xét về quán nhân. Cảm nhân duyên sinh, cũng gọi là sinh nghĩa là ái, thủ có khả năng sinh, gọi là sinh, tức tự thể của sinh cũng gọi là cố là sinh, tức chi sinh. Sinh trước là tế, là nghiệp phiền não. Sinh sau là thô, nghĩa là quả báo thô. Già chết đương lai, sinh tế làm nhân, già chết hiện pháp, sinh thô làm nhân, nghĩa là một tướng này nói riêng.

“Thế nào gọi là chẳng phải không quyết định cho đến quyết định khác không có khả năng cho quả già chết”, đây là quán nhân của già chết.

Kế là so sánh, như quán già chết, phải biết cũng thế, nghĩa là so sánh sơ lược bốn chi như sinh v.v… Từ sinh đến ái, đều có hai thứ thô, về tế. Như thế, gọi là đến đạo lý duyên khởi. Nghĩa là luận tiểu thừa chỉ quán ở Tập. Nay, cũng quán khổ, nên biết rằng trong đây, thuận với pháp Tập đế, cũng như tim đèn, nghiệp là thuận với tập, ái là chính tập, tức tập đế này, ái như cao dầu v.v… Loại đèn khổ đế, nghĩa là lấy đèn tỏa ánh sáng, từ dầu, tim sinh. So với khổ đế từ nghiệp, “hoặc” sinh.

1. Chỉ làm cho mình, chẳng phải thực hành bình đẳng lợi ích, nói thẳng là người ngu chẳng phải ngoại đạo.

2. Lại có v.v… trở xuống, là ngoại đạo kia tự làm, bảo người đốt cháy ngọn lửa khổ lớn. Lượt sau, giải thích lại quán đế, tức thích hợp với số dài của bốn mươi bốn số, là môn thứ tư, Luận sư Cảnh nói: “Nói trước “duyên” mé sau cho đến “ái kia”, nghĩa là sinh vị lai với già, chết, gọi là chung là khổ đế. Ái, thủ, hữu là tập.

Nói “Quán sát như thế cho đến “Danh sắc và thức”, nghĩa là quán tập vị lai: ái, hữu, thủ. Ái, thủ có ba. Lại dựa vào các khổ của năm chi hiện tại. Thế văn trong đây chỉ làm ba tiết thô, nghịch để quán, không đồng với luận Tiểu thừa quán tế mười chi. Trong mỗi, chi, tạo nên bốn quán đế. Câu hỏi trở xuống, là kết.

Nói “Phải biết rằng, quán khổ vị lai trong đây, là thích hợp với khổ đế”, tức hai chi vị lai quán nhân Tập kia, là tương đương với Tập đế, tức quán ái, thủ, hữu. Quán tập khổ của đời vị lai, do đâu mà có? Nghĩa là tìm kiếm ái, hữu, thủ do đâu mà có? Biết do từ nghiệp tập trước đã sinh khởi thức làm bờ mé có khổ hiện pháp. Quán thọ đến thức, làm biên sau là đã sinh Tập của mé trước. Ba ái, thủ, hữu đều dựa vào Tập đó mà có. Đã biết từ tập trước mà sinh khởi, thì không nên quán lại ái, thủ, hữu này làm sao có? Đây là giải thích quán nghịch đến thức, không quán lý do của hành, vô minh v.v… trong quá khứ. Do ở trước đã tìm kiếm ba chi như ái v.v… biết do tập trước đã sinh ra khổ. Có tập trước tức là hành quá khứ với vô minh. Nay, không nên quán lại năm chi như thức v.v… làm sao mà có? Cho nên, quán ngược chỉ đến thức. Nếu y chỉ văn nói thức và danh, Sắc, xoay vần “duyên” nhau, các chi còn lại không như thế, trước có xoay vần duyên nhau cho nên, quán ngược ngang với thức mà thôi.

Luận Tiểu thừa, lại nói “Quán “hữu” tức đã quán “hành”, khi quán Ái, thủ, tức đã quán vô minh, nên không cần quán nửa.”

“Cho nên, Thế tôn v.v… ” trở xuống, là dẫn thuyết để chứng thành. Lại, vì lần lượt quán chỗ nương tựa của Tập đế mé sau kia, tức quán năm thức v.v… chỗ nương tựa của khổ đế phía sau. “Phải biết rằng, tức là Tập đế của mé sau”, quán chỗ sở y của khổ mé sau tức là ái v.v… cho đến sau thức lại thuận với trên, nghĩa là quán thọ đến thức, là chỗ nương của tập mé sau. Lại, thuận với quán ái, thủ ở trên, có ba là chỗ nương tựa mé sau, nên không qua thức mà quán hạnh v.v…

“Thuận, nghịch như thế v.v…” trở xuống, là quán thuận với diệt đế. Bắt đầu, từ già, chết, vào ngược, sau cùng cho đến vô minh.

“Vì sao v.v… ? trở xuống, là giải thích về đạo nhập lý, do quán hiện tại, làm sao được diệt? Nghĩa là không tạo tác vô minh, phát khởi hành mới, nên với khổ hiện tại, thức v.v… liền diệt.

“Như thế, trải quán ba Thánh đế v.v… trở xuống, kế là quán đạo đế, tìm kiếm diệt này, đạo nào có thể chứng?

Do như trước đã nói: “Túc trụ tùy niệm v.v… cho đến “Khiến hiện ở trước”, nghĩa là dựa vào niệm trụ đời trước” nhớ lại thời gian xưa. Vì cầu dứt hết lậu, nay ta trước dùng chánh kiến thế gian, như Thánh giáo mà tu, tất nhiên, sẽ chứng được đạo mà các tiên ngày xưa đã qua.

Như thế, chỉ dùng tác ý thế gian trải quán bốn đế. Kế là nhập hiện quán, thọ đạo Vô học”.

Luận sư Đạt nói: “Phải biết rằng, trong đây v.v… trở xuống, là giải thích về hàng phục chung vấn nạn, ý nạn: “Vì sao Bồ-tát cho đến chi thức, không chung với chi hành và chi vô minh ư? Trong chung có hai “Lần lại nửa”: “Lại nửa” đầu ý Bồ-tát khi mới tu hành, trước là quán các khổ già, bệnh v.v… Kế là tìm kiếm nhân của tập tức là nói “từ ái, thủ, hữu quá khứ mà sinh. Ba thứ này lại từ đâu sinh?, vì từng đã quán tập, chỉ đến chi thức, mà trở lại trên.

“Lần lại nửa” thứ hai, lại vì lần lượt v.v… trở xuống, là trước quán khổ đế của mé sau. Sau đó, tìm kiếm nhân của khổ đó, tức là thủ, hữu, ái trong mé giữa, Tập đế của nhà khổ mé sau. Tập đế kia lại từ đâu sinh? Lại từ năm quả hiện tại sinh. Trong đây đã quán khổ đế và nhân của khổ đó. Lại nửa, đã quán tập đế và nhân của Tập. Vì nghĩa nhân quả cùng khắp, nên không còn quán chi hành và chi vô minh. Bản địa trước và Tiểu thừa nói đồng với Luận sư Cảnh trích dẫn. Thuận nghịch như thế trở xuống, nói Diệt, Đạo quán mười hai chi. Hỏi: Vì sao trong quán khổ tập ở trước chỉ đến chi thức, trong quán diệt đạo này lại quán cả mười hai chi? Đáp: Ở trước nói phần khởi tác chỉ quán mười chi, ở đây nói phần tịch diệt quán cả mười một chi, vì muốn diệt trừ nghiệp báo phiền não sanh tử, trong đó, vô minh hành là gốc lớn nhất của sanh tử, trong phần vắng lặng là quán chung mười hai chi, lại trong phần khởi tác quán ngược mười hai chi, trong phần vắng lặng quán thuận mười hai chi, do vô minh diệt nên hành diệt, cho đến vì sanh diệt cho nên già chết diệt, vì thế nói là quán thuận nghịch. Trong đây có hai: Một là y cứ hữu lậu chánh kiến để nói về quán Bốn đế, hai là dùng chánh kiến trở xuống, y cứ chánh kiến vô lậu để nói về quán Bốn đế, vì nghĩa này nên trở xuống là giải thích rộng cú nghĩa trong kinh. Thứ năm là giải thích nhiếp Thánh giáo, đầu tiên là chia làm ba chương môn, kế là giải thích riêng. Thứ ba lại trước chứa nhóm trở xuống: là giải thích rộng các câu trong kinh, nói từ khổ mé sau cho đến thức duyên gọi là sắc, v.v… bảy chi trước là khổ tập mé trước, thức và danh sắc xoay vần nương nhau, thí như bó lau, nói y cứ nghĩa bậc nhất, đều là vô sở hữu: là y cứ lý biến kế sở chấp thật có tác dụng rốt ráo vô sở hữu. thứ sáu là giải thích trí vi tế, cho rằng đối với ngoại đạo giải thích xoay vần đệ tử của bậc Thánh có khả năng biết rõ vi tế, gọi là vi trí. Ngoại đạo quán thân tuy trụ lập đã lâu mà có sanh tử, có lấy bỏ, biết là vô thường, tánh nhàm lìa dục, không biết niệm niệm sanh diệt vi tế, chấp nhất định khởi ngã, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu mà vẫn có ngã kiến đeo đuổi, vẫn gọi là chưa được giải thoát, vì đối với duyên sanh không khéo léo. Các đệ tử của bậc Thánh đã được khéo léo đối với duyên khởi, chỉ quán tánh vô thường nhỏ nhiệm của bốn đại nếu chưa thì quán thức là tánh vô thường, dưới đây là giải thích lý do của sắc thân bốn đại, vì thân bốn đại trụ qua thời gian lâu, như ngọn núi lớn, v.v… niệm niệm vô thường của thức được hiển bày thô, rất dễ biết, sát-na dễ thoát, tánh vô thường của thức tuy là hiển bày thô nhưng lại gọi là rất đổi vi tế, tánh nó khó biết, chỉ có tuệ nhãn mới thấy được, các đệ từ của bậc thánh lại muốn ngộ nhập tánh vô thường của thức. Trước quán năm thọ, vị trước sau chia ra, kế lại ngộ nhập tánh vô thường của thức. Thứ bảy là giải thích mé tư lương, trong đó trước nêu hai thứ ba tên: một là ba tướng, hai là ba đời. Lại thứ lớp giải thích, luận sư cảnh nói: Khổ y của nội thân là các chỗ khổ y như lạnh, nóng, v.v… bên ngoài là chỗ thọ khổ y thuộc về cha mẹ, thân thuộc, bạn bè, v.v…, là các khổ cung kính đứng hầu, cầm dao gậy, v.v… để phòng vệ, v.v… vì sao? Vì như trước trong khổ y của nội thân ở trước, vì sao? Vì có lý do này nên đối với thân sở y kia được sanh, các văn như thế nên nói trong đây, hai thứ y dụng nhiếp thọ ái để làm nhân của các khổ kia. Ở đây là giải thích về nhân duyên của khổ thứ hai. Lại tức ái này dựa vào cảnh sắc mầu nhiệm để làm nơi nương tựa v.v… Tức là nổi khổ thứ ba. Gọi là thú hướng cái chết, nghĩa là hướng đến sống chết, bờ mé giữa này.

Hoặc thấy, hoặc biết hai thứ ngôn thuyết, là dựa vào hiện lượng, nghĩa là nhãn thức hiện thấy, gọi là hiện lượng. Năm thức đồng thời với ý thức, ý thức ở định, tỉ thiệt thân thức lấy cảnh, gọi là biết hiện lượng. Do hiện lượng này thấy, biết cảnh giới. Về sau, khởi ngôn thuyết, cho đến khi nói, trở lại cộng tướng, cảnh giới của tỉ lượng.

Nếu giáo biết ngôn thuyết là dựa vào tỉ lượng, nghĩa là ý địa phát họa lờ mờ, khởi ra ngôn thuyết, dựa vào Chí giáo lượng, thì về mặt đạo lý, nhĩ thức nghe tiếng cung là hiện lượng, vì khác nhau nên gọi là nương tựa Chí giáo lượng.”

Thái Pháp sư nói: “Vì văn trong kinh rườm rà nên chỉ nêu văn sau. “Nổi khổ phòng vệ, cầm dao, gậy, cung phụng, hầu hạ cha, mẹ v.v… để làm văn của biên sau.”

Luận sư Đạt nói: “Nói kia được sinh, nghĩa là nỗi khổ được sinh. Nói nhiếp thọ y, nghĩa là cha mẹ này vì nhiếp thọ thân ta, nên nói nhiếp thọ khổ y”, nhưng ta đã có chỗ nương tựa của nổi buồn rầu, than thở v.v… tức cha, mẹ v.v…

Nói “Hai thứ nương tựa này”, nghĩa là: 1- Thân mình; 2- Cha mẹ v.v… chẳng phải chỗ nương tựa của khởi ái.

Nói “Các sở hữu v.v…” trở xuống, giải thích môn ba đời.

Nói “Do nghĩa thứ nhất gọi là hướng đến cái chết”. Nghĩa là ái này là gốc hướng đến cái chết bậc nhất, nên nói “nghĩa thứ nhất”.

Lại, “Tức y chỉ v.v…” trở xuống, là nói rộng về các câu nghĩa trong kinh.

Thứ tám, là giải thích về quán sát duyên khởi. Do năm thứ tướng:

  1. Sinh khởi: Tức quán phần sinh khởi.
  2. Quán diệt: Quán phần diệt.
  3. Biết rõ hành tướng đến diệt.
  4. Hành như pháp.
  5. Chứng lìa tăng thượng mạn.

Dưới đây, là trong giải thích, hợp giải thích bốn tướng trước, giải thích riêng tướng thứ năm.

Trong giải thích bốn tướng trước có hai lần “Lại nửa”.

Nói “bắt đầu từ vị lai cho đến “Tu tập chánh hạnh”: đây là dầu tiên giải thích chung. Dưới đây là giải thích riêng. “Nói là do hai tướng, quán sát vì nhân đương lai “có”, nên quả “có” đây là giải thích tướng ban đầu.

Vì nhân là không, nên quả không: là giải thích tướng thứ hai.

“Đã quán sát xong, thông suốt nhân là không do tu chánh hạnh”: là giải thích tướng thứ ba.

“Đã thông suốt rồi, tùy tu hành nhân chính, pháp tùy pháp hạnh”: Giải thích tướng thứ tư.

“Lần lại nửa” thứ hai, là giải thích: “Lại, chánh quán sát ở trong hiện pháp cho đến “quả thức v.v… là có”: là Giải thích tướng thứ nhất.

“Vì kia chẳng thật có, nên đây cũng chẳng thật có”: là giải thích tướng thứ hai.

“Đã quát sát xong, thông suốt như trước và tu hành chân chính”: là giải thích tướng thứ ba.

“Lúc tu hành chân chính, không tạo vô minh trở xuống, là giải thích tướng thứ tư.

Pháp thuyết, dụ thuyết. Có hai thứ dụ, xem văn, y cứ pháp, nói về dụ. Pháp dụ hợp nói. Như có một cái hũ, trước đó đã bị nung nóng, rồi vào chỗ mát. Thân người tu hành này, trước đây đã bị phiền não đun nóng. Về sau lìa phiền não (mát mẻ), cái gọi là Niết-bàn, chỗ thường, hằng trụ, nghĩa là sáu hằng trụ.

“Thế nào là ở chứng đắc lìa tăng thượng mạn”, trở xuống, vừa giải thích tướng thứ năm. Đối với thắng nghĩa đế, không có người trôi lăn và không có người chứng đắc Niết-bàn, chỉ có nhân sinh quả, sinh diệt, quả diệt.

Thứ chín, là giải thích về tăng thượng mạn. Đầu tiên, là nêu hai mạn. Kế là giải thích riêng, sau là phân biệt chung.

“Hai thứ như thế trở xuống, Luận sư Cảnh nói: “Lại, khi dựa vào thuyết của bậc Thánh nói mà khởi nói cho đến “Giác biết như thật, phát khởi hoài nghi”, nghĩa là đã nói đủ duyên khởi của tánh “không”, không thể biết rõ, không tùy ngộ nhập là hai nhân duyên. Nhân duyên ngữ thông suốt, như nói “Từ nghe âm thanh người khác và chánh tư duy”. Do hai nhân này, mà chánh kiến được sinh. Trong đây cũng thế. Lại, đối với Vô học, người tăng thượng mạn, phải biết quyết định, trước khởi tăng thượng mạn đối với hữu học, cho đến nhanh chóng được xa lìa, không đồng với luận Tiểu thừa nói “Người học kia đối với bậc Vô học ở trên, cũng khởi tăng thượng mạn thô.

“Nói ba tướng tương ưng với thể tánh khác nhau của hữu vi”: Ba tướng hữu vi: là sinh trụ, diệt khác nhau. Không có sinh không có diệt không có trụ, dị là ba tướng vô vi”.

Luận sư Đạt nói: “Nói hai thứ như thế”: 1- Khởi mạn đối với trên học. 2- Khởi mạn đối với Vô học.”

Nói “Dựa vào duyên khởi”, nghĩa là ta đã thông suốt tướng duyên khởi.

Nói “hoặc nương tựa Niết-bàn” nghĩa là ta đã chứng được quả Niết-bàn.”

Nói “Do hai thứ nhân này”, tức hai mạn ở trước. Ngôn và duyên:

Lại là hai mạn trước.

Thứ mười, là giải thích môn rất sâu. Nếu theo Luận sư Cảnh lấy phần văn giới hạn, thì một lượt hỏi, đáp ở trước, là nói về môn rất sâu, nghĩa là từ câu “Thế nào là như trước, bậc Thánh nói rất sâu v.v… ” trở xuống.

Lại nửa, “Bản tánh duyên khởi v.v…” trở xuống, là giải thích lại “rất sâu”. Luận sư khác, phần nhiều phán quyết văn trước thuộc về môn thứ chín.

“Bản tánh duyên khởi v.v… trở xuống, là môn thứ mười. Nay, theo phán quyết đa số. Trong văn, trước lược, sau rộng. Trong rộng: 1-Nêu, bốn tướng; 2- Giải thích; 3- Kết.

Trong giải thích tức có bốn đoạn. Trong giải thích về tướng đầu, nghĩa là “dựa vào quán sát đạo lý của Thánh đế cho đến “Có thể tánh của duyên. Nghĩa là như quán Bốn đế, trước khổ, sau tập, giống như quán duyên khởi: Bắt đầu từ già chết, quán nghịch đến thể tánh của mười chi thức “duyên” danh, sắc.

Nói “Rằng có nhân duyên ở trong đây, vì sinh chưa dứt mà có sinh sinh”: 1- giải thích: “Chi hữu, gọi là nhân duyên sinh, vì chưa dứt hẳn, mà có chi sinh ở vị lai được sinh.

2- Giải thích: “Ái, thủ có ba chủ thể sinh, chi sinh, gọi chung là sinh trước, chi sinh vị lai, gọi là sinh sau.

“Như nói chi sinh, như thế, chi hữu, chi thủ, an lập v.v…”, nghĩa là so sánh giải thích chi hữu, chi thủ, chi trước làm nhân, chi sau làm quả.

“Không có dục tham khác nhau, gọi là thủ v.v…”: Thể của tham không có bốn, vì tùy theo cảnh, được chia làm bốn.

“Chi ái như thế v.v… trở xuống, là giải thích về chi ái “hoặc cầu cửa dục, phát nghiệp cho đến “Phải biết quy thú, phi ái”, nghĩa là vì cầu năm dục bên ngoài, cho nên phát nghiệp. Vì cầu căn hữu bên trong, nên phát nghiệp. Nêu ái, ý lấy đồng thời với vô minh phát nghiệp, cũng có thể nói thấm nhuần, gọi là phát. Như hai nghiệp này đã có các ái. Phải biết rằng quy thú, thọ ái, phi ái, nghĩa là nhân ba thọ mà khởi ái. Luận sư Cảnh nói: “ v.v… đều giải thích như thế.

Lại, có một giải thích: “Hoặc cầu cửa dục, nghĩa là cõi Dục. Hữu môn nghĩa là Sắc, Vô Sắc”.

Lại, ái này do cổng sáu xứ mà khởi vô minh xúc sinh thọ. Thọ này làm duyên sinh ái. Nếu, ở đây nói xúc chẳng phải minh, vô minh, thì thọ do xúc sinh ra, không thể sinh ái.

1. Lại thọ này đều dùng xúc tương tự làm duyên cho nó, nghĩa là xúc khổ, sinh khổ thọ v.v… xúc hữu lậu, sinh thọ hữu lậu v.v…

2. “Lại thế nào? cho đến Xúc có đối”, Luận sư Cảnh nói: “Nói xúc chỉ ở ý địa. Nhân ý địa này có thể thêm ngôn thuyết, gọi là tăng ngữ. Rất dễ hiểu xúc vô minh và xúc trong xứ đều có cả sáu thức, mà vì theo phần nhiều, nên nói xúc vô minh là tăng ngữ, xúc trong xứ gọi là “hữu đối”. Về lý, thật sự xúc ở trong xứ ở ý địa, cũng gọi là tăng ngữ. Xúc vô minh ở năm thức, cũng gọi là đối”.

Luận sư Đạt nói lại lời Tam Tạng Pháp sư rằng: “Vô minh này vì hoàn toàn phân biệt khởi, nên nói là Tăng ngữ xúc. Tăng ngữ xúc, vì xúc hoàn toàn tương ưng với ý thức. Vì sao? Vì ý thức có công năng duyên danh, vị câu, chẳng phải năm sắc “duyên” tăng ngữ, là danh, vị, câu. Vì sinh thêm ngôn ngữ, nên nói trái với đây là xúc có đối. Xúc có đối hoàn toàn ở năm thức”.

Hỏi: “Nói vô minh trái với trước, vì trong chẳng phải minh, cũng có pháp hữu lậu thiện v.v… đã khởi không có xúc trong ý thức, vì sao hoàn toàn nói rằng xúc có đối ư?”

Tam tạng Pháp sư giải thích: “Vì đối với minh, vô minh ở trước, nên hoàn toàn nói là xúc có đối. Nếu y cứ nhất định thật, thì cũng có tăng ngữ xúc”. Đại ý đồng với giải thích của các luận trước.

“Trí văn, tư, tu hoặc chánh, hoặc tà, tương ưng với các danh, dùng làm duyên kia”, nghĩa là “duyên” giáo pháp khởi. Xúc có đối thuộc trong xứ, dùng căn trong, trần ngoài làm “duyên”. Như thế gọi là chung là danh, sắc “duyên” xúc. Lại, danh sắc này đối với hiện pháp cho đến “không tan rã”, nghĩa là thức “duyên” danh sắc.

Lại, “Tức thức này nối tiếp sinh v.v… ” trở xuống, là nói về danh sắc “duyên” thức.

“Nên biết rằng, nghiệp trước đã dẫn v.v… ” trở xuống, kết danh sắc và thức lần lượt nương tựa nhau.

Phải biết rằng, thức “duyên” danh sắc để làm biên sau cho đến “Có thể tánh của duyên”, nghĩa là năm chi hiện tại là mé trước, quán nghịch thọ sau già chết, cho đến thức duyên danh sắc, để làm biên sau. Như ở trước quán già, chết vị lai kia làm nhân của chúng. Quán nhân v.v… sinh của hữu vi, già, chết, hiện tại cũng thế.

Xúc làm nhân cho thọ, sáu xứ làm nhân cho xúc. Danh sắc làm nhân cho sáu xứ. Thức làm nhân cho danh sắc. Hoặc xoay vần làm duyên, nên nói “Như trước đã nói, tùy theo pháp thích ứng với chúng, có thể tánh của “duyên”.

Giải thích môn thứ hai, trong vô ngã đối với biết vấn nạn, rằng, nên biết là con đường: Ngữ ngôn là con đường sở y của Câu, vị. Học rộng là vua trời của phương Bắc. Giữ nước là phương Đông. Tăng trưởng là phương Nam. Mắt xấu là phương Tây. Tiếng Phạn nói Tô-Lộ-Đà-La. Đời Đường gọi là “Cực Hiền Thiện”, rằng Tất-Đạt-Đa, đời Đường rằng “Tất cả nghĩa thành”, là tên của Thái tử.

Trong giải thích tướng thứ ba, rằng “Nói là như ngoại đạo cho đến “Làm thọ giả tánh giả, chấp “thọ” là “ngã” làm người hay “thọ”, nghĩa là phân biệt có ngã, khởi kiến, lập bày.

1. “Ở cõi Dục đã được ly dục cho đến ” rằng, tức là pháp có thọ”, nghĩa là ngã có thể lãnh thọ v.v…

2. Ở tịnh lự thứ ba trở lên, không khổ, không vui, các thọ vi tế, không thể thông suốt, phân biệt có ngã.

Như thế, tất cả sanh khởi ngã kiến, đều không hợp lý, đều chẳng phải ba môn trước.

“Vì sao? v.v… trở xuống, là phá riêng ba chấp.

“Vì ba thứ thọ v.v… trở xuống, làphá môn đầu.

Lại, ở tịnh lự thứ tư trở lên, đều không có lạc thọ, cũng không có người hay cảm thọ vui. Đối với niềm vui chấp ngã, ngã cảm thọ về niềm vui, là không hợp lý, là phá môn thứ hai.

Lại, “Đối với tịnh lự thứ tư trở lên, định, Vô sắc, ngã chấp kia lẽ ra không có giác thọ”, là phá môn thứ ba.

Kế là ở bốn thiền trở lên, xã thọ tế dần, vì không thể biết, tức chấp ngã, chẳng phải thọ giả.

Nay, phá rằng: “Bốn thiền trở lên. “Ngã” chẳng phải thọ giả. Nếu vậy thì ngã chấp kia lẽ ra không có giác thọ. Nếu không có giác thọ thì đối với văng lặng, do các duyên khởi rất sâu, cho nên sinh chấp giả dối như thế.

“Học rộng pháp nội” v.v… trở xuống, là nói dựa vào chánh pháp, đệ tử lìa ngã kiến trước. Nếu có người hỏi rằng: “Sau diệt độ, đức Như lai “hoặc” “không”, đều không thọ ký.”

Hoặc có người cho rằng, nói là không biết, hay là người không biết? Nếu cho rằng không ghi nhận là vô ký, là người không có biết, là rất không có trí, là bình đẳng. Dù do tục, đạo, lìa dần ràng buộc, cho đến Hữu Đảnh, tùy miên chưa dứt trừ. Lại, đối với các kiến, chưa dứt trừ, chưa hàng phục, gọi là lìa trói buộc hữu tình mà có ràng buộc.

Trong giải thích tướng thứ tư, Luận sư Cảnh nói: “Sao gọi là trói buộc có hữu tình mà lìa ràng buộc cho đến “Lại, ở cõi dưới kia, nối tiếp sinh Thức xứ” nghĩa là người ngoại đạo do chấp có ngã trụ nơi bảy xứ, đoạ lạc vào bảy thức trụ, sinh ba đường ác dưới. Nay, đệ tử bậc Thánh không chấp ngã trong bảy thức trụ, không nối tiếp bảy thức xứ, thọ sinh ở đường ác dưới.

“Lại nửa, sinh khởi thức xứ kia cho đến “Thành A-la-hán v.v…”: Nay, nói thức xứ, tức là bảy thức trụ. Hai xứ tức là Phi tưởng, kể cả đường ác. La-hán hiện thân dù có già, chết, nhưng vẫn gọi là đối với già, chết kia được lìa trói buộc”.

Luận sư Đạt nói: “Về sau, ở cõi dưới kia, nối tiếp sinh lên thức xứ, nghĩa là ở bảy thức trụ dưói, cái gọi là ba ác đạo. Lại nửa ở cõi đó, sinh khởi thức, nghĩa là Đệ tử thiền và Phi tưởng. Hai xứ này chẳng phải chỗ mà thức ưa trụ. Xứ kia ở thức trụ, nghĩa là xứ của bảy thức trụ. Và, ở hai xứ: 1/ đường dữ; 2/ Định thứ tư và trời Phi tưởng. Có trói buộc hữu tình mà lìa ràng buộc: Các đệ tử bậc Thánh trong địa vị của đạo tư lương, đạo Phương tiện, đã hàng phục ngã kiến, nên nói là “Lìa trói buộc”. Nhưng chưa lìa sự trói buộc của tùy miên, nên nói có trói buộc, không thể biết rõ, nên nói là khó biết rõ”.

Thứ hai, môn Đại. Giải thích hai đế bằng nhau, bài tụng nêu bảy môn:

  1. Dị (khác).
  2. Thế tục, thắng nghĩa.
  3. Pháp nhĩ.
  4. Tác đẳng này.
  5. Đại thông.
  6. Phân biệt.
  7. Tự làm ác.

Trong giải thích của văn xuôi:

1. Giải thích môn “khác”: Nói “Hai thứ phiền não căn bản: Vô minh và Ái.

2. Giải thích hai đế, đầu tiên là nói chung Bậc thánh vì hiểu rõ hai đế, nên không khởi chấp ngã. Kế là, nói riêng về sự khéo léo của hai đế.

Nói “Cũng đều tạo tác có nghĩa tôt đẹp”, nghĩa là đều tạo nên nhân thiện mà có nghĩa quả.

1. Lại, đối với Thức, xúc, thọ v.v…” trở xuống, là giải thích rộng các câu trong kinh. Luận sư Cảnh giải thích: “Lại, đối với thức, xúc, thọ, tưởng, tư, thân trải quán là khổ, nghĩa là sơ lược, không nêu danh sắc, sáu xứ. Vì do tập nhân, nên như nhân kia nhóm hơp, nghĩa là khổ cũng tập khởi. Do nhân diệt nên như diệt kia đã diệt. Vì do tận sở hữu, nên theo thứ lớp đó: Ở trước nói: “Do địa định, thế gian tác ý tu tập. Nhân duyên v.v… tác ý như thế, tức là do tận sở hữu. Nay khi nhập hiện quán của Thánh đế, tức là tánh như sở hữu. Lại, Tuệ hữu học, gọi là tuệ mầu nhiệm xuất một nhập thế gian. Nghĩa là ra đời và mất đi trong sinh tử. Thái Pháp sư nói: “ các đệ tử bậc Thánh Đối với các duyên khởi, khéo học rộng, biết rõ đạo lý của hai đế thế tục, thắng nghĩa nói là tên khác của Trí. Nghĩa là một kiến thiện, cho đến tuệ của mười Quyết trạch.”

Thứ ba, là giải thích pháp nhĩ. Luận sư Cảnh giải thích: “Do hai nhân duyên cho đến “Vì các đối tượng trôi lăn”, nghĩa là thể của duyên sinh, chỉ cho thể tánh của một vật có thể khởi, vì đợi duyên mới khởi, nên gọi là duyên khởi. Vì nhờ duyên mà sinh, nên gọi là duyên sinh”, lại, giải thích “Nhân là duyên khởi, quả là duyên sinh, rằng, vô minh là duyên khởi, hành là duyên sinh v.v… đối với pháp duyên sinh, duyên khởi, kiến lập hai phần, nghĩa là vì như đối tượng trôi lăn, vì các đối tượng trôi lăn. Dưới đây là giải thích về hai phần:

Trong đây có mười hai chi, như sự thích ứng, xứng lý với mười hai chi đó, trôi lăn theo thứ lớp của nhân quả, tức giải thích “Như sở trôi lăn”. (Như đối tượng trôi lăn). Lại, thứ lớp nhân quả hợp lý này, từ lúc vô thỉ đến nay, lần lượt an lập, gọi là pháp tánh. Hiện tại, gọi là pháp trụ, quá khứ gọi là pháp định, đương lai gọi là pháp như tánh v.v… Đây là giải thích các sở trôi lăn.”

Luận sư Đạt nói: “Đạo lý duyên khởi trong đây, “có” “không” tánh, tướng của Phật tánh, vì thường trụ nên nói là pháp nhĩ. Có hai nhân duyên:

  1. Như sở trôi lăn. Nghĩa là duyên khởi.
  2. Các sở trôi lăn, nghĩa là duyên sinh.Hai thứ khác nhau:
  3. Nhân “năng sinh”, nghĩa là duyên khởi.
  4. Quả “sở sinh”, nghĩa là duyên sinh.

Trên đây, là giải thích chung về duyên khởi.

“Phải biết rằng v.v…” trở xuống, giải thích riêng về sai khác. Lại, “Hợp lý này v.v… trở xuống, là giải thích tên riêng của pháp nhĩ trong kinh.

Lại, hai thứ, khéo léo: 1- Hai thứ nhân, quả; 2- Hai đế, khéo léo Chân, tục.

Thứ tư, là giải thích tác v.v… ở đây: 1- Do nhân, quả hệ thuộc nhau, vì một, nghĩa là giải thích chẳng phải tạo tác khác, chẳng phải thọ khác. 2- Vì tác giả, thọ giả khác, không thật có, người chủ làm và thọ không thật có”.

Thứ năm, giải thích Đại “không”. Luận sư Cảnh nói: “Bổ-đặcgià-la vô ngã v.v… ” đến “Vì không thật có, nghĩa là lìa hành của duyên sinh không có thật ngã.

“Pháp vô ngã cho đến “Vì vô thường”, nghĩa là môn này là hành chẳng phải ngã, gọi là vô ngã hành. Ở trước y cứ ngoài hành không có nhân, gọi là “không hành”. Nhưng trong văn nói pháp vô ngã, nghĩa là tức tất cả các hành duyên sinh, chẳng phải chân thật có, trừ nghĩa của pháp đó, gọi là pháp vô ngã, cũng có thể sau không, thì pháp không có nhân, gọi là pháp vô ngã. Trước, nói ngoài hành không có nhân, gọi là Bổ-đặc-già-la vô ngã. Sau, giải thích văn thuận mà biết chân như, gọi là tánh không có trái ngược: tức trí vô phân biệt.

Thứ sáu, là giải thích phân biệt. Do hai nhân duyên, phải biết rằng, lập bày tất cả duyên khởi, nêu chung giải thích riêng:

1. Tánh như sở hữu.

2. Tánh tận sở hữu, nghĩa là như hai môn này, hoặc chỉ y cứ vào nghĩa chân như để nói, ở đây chỉ y cứ ở hành. Kế là, nói về hai môn này. Hoặc về lý, là sự như sở hữu, hay tận sở hữu?

Nay, trong văn này, chỉ y cứ ở sự để nói: Nhân, quả tương xứng của vô minh, hành v.v… gọi là như sở hữu. Lại, vô minh này “Duyên” các thứ khác nhau như hành v.v… đều tận cùng phân biệt, gọi là tận sở hữu.

Thứ bảy, là giải thích tự tác. Luận sư Cảnh nói: “Thọ thuộc về thọ mà ái sở đắc nhiếp. Thọ, cũng không hợp lý”, nghĩa là khát ái cũng là sự mong cầu. Nói thọ không tự mong cầu, tự sanh thể của thọ, cũng là thần ngã nhiếp thọ lãnh người khác”. Luận sư Đạt nói lại lời Tam tạng Pháp sư, dựa theo Thích Luận để giải thích: “Vì do tập hỷ, nên tập thọ như trước. Như trước, nghĩa là các pháp ở trước, vì không có tác dụng thật, nên chúng không tự tạo tác, nhiếp thọ người khác, nghĩa là không có “ngã”, “thần ngã”, nhiếp thọ của người khác thọ thì không hợp lý, vì không có thần ngã, cho nên Thích Luận chỉ rõ rằng: “Cũng như trước đã nói. “Như trước, nghĩa là vì không có thần ngã, nên không có người khác tạo tác. Ba thứ trước là Ác nhân luận biên.

  1. Tự mình làm.
  2. Người khác làm.
  3. Cả hai đều tạo tác, vì đều không hợp lý, nên có luận nhân ác. Một thứ sau là Vô nhân luận biên, thành bốn trường hợp sinh vô nhân.