DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 21

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 78

Dưới đây là, đoạn thứ sáu, Bồ-tát Quán Tự Tại thưa hỏi nghĩa của các Địa, trong đó trước nêu tông chỉ của kinh. Kế chính là dẫn văn.

Trong đoạn trước nói: “Lại nữa, dựa vào thừa, giả lập, phân biệt giải thích Đại thừa như thật v.v…. Theo trong Đại thừa, y cứ giai vị tu hành, giả lập Thập địa v.v… Y cứ trong chính thức dẫn văn kinh, trước hỏi đáp, chính nói về nghĩa các địa. Sau thỉnh đặt tên kinh và chúng đương thời được lợi ích. Trong phần trước có hai:

1. Văn xuôi có trùng tụng. Văn xuôi có bốn:

  1. Nói về nghĩa của Địa.
  2. Nói về pháp nên học trong Địa.
  3. Nói về phiền não đã có trong Địa.
  4. Nói về y nói Nhất thừa.

Đầu tiên nói trong địa có sáu:

  1. Nói về nghĩa nhiếp.
  2. Giải thích tên của Địa.
  3. Nói về pháp được đối trừ trong Địa.
  4. Nói về đức chung thanh tịnh của các Địa.
  5. Vì nói bốn duyên, nên Bồ-tát sinh vượt hơn.
  6. Nói về các nguyện lớn của hạnh Bồ-tát.

Trong phần đầu, trước hỏi, sau đáp. Trong phần hỏi, Bồ-tát Quán Tự Tại. Xưa nói là Quán Thế Âm ở đây là người dịch sai lầm trong kinh Dược Sư, bản cựu dịch gọi là Quán Thế Âm Tự Tại chỉ thừa hai chữ “Thế Âm). Nay, y cứ tiếng Phạm dịch là “Quán Tự Tại”, câu hỏi kia có hai:

  1. Hỏi thanh tịnh.
  2. Hỏi về phần Nhiếp.

Trong phần đáp, trước đáp chung. Sau, gạn hỏi. Giải thích riêng, trong đó, đầu tiên, là giải thích về bốn thứ thanh tịnh rất dễ hiểu.

Kế là giải thích về mười một phần Nhiếp, nghĩa là mười một Địa, gọi là mười một phần. Trong mỗi một Địa: 1- Nói về về phần đã viên mãn. 2- nói về Thắng tiến phần chưa viên mãn. Trước đối với địa hạnh thắng giải, dựa vào mười pháp hạnh, tu tập rất tốt lành v.v…. Luận sư Cảnh nói: “Nói: “Mười pháp hạnh tức là biên chép, gìn giữ cúng dường, tự đọc tụng, ban cho người khác v.v… cũng có thể dù ở Địa tiền, vẫn mong học hạnh Thập địa, gọi là tu v.v… mười pháp hạnh cùng cực thiện.”

Pháp sư Thái nói: “Trước ở Địa tiền, dựa vào mười thứ hạnh sao chép, thọ trì v.v… vì tu nhẫn thắng giải, nên nhập phần Sơ Địa.”

Lại, giải thích: “Mười độ, gọi là mười pháp. Bồ-tát Tám địa, tâm chưa thể bỏ các đẳng chí ái và học pháp ái, nghĩa là chướng ngại Tứ địa, chưa được gọi là đã viên mãn. Địa luận gọi là chướng giải pháp, cho đến phần viên mãn này. Tứ địa viên mãn mà chưa thể quán sát như thật về lý các đế, nghĩa là chưa được quán đế của Ngũ địa. Lại, tâm chưa thể trái bỏ hướng về; chưa thể tu phương tiện v.v… Ngũ địa thông đạt khổ sinh tử, mà có thể thường nhập, thông đạt niềm vui Niết-bàn, mà không nhanh chóng mong cầu là hai phương tiện Tứ địa chưa được.

“Vì khiến cho v.v… ” trở xuống, là Ngũ địa viên mãn, mà chưa thể quán sát như thật về sinh, từ lưu chyển. Nghĩa là Lục địa có thể quán Duyên khởi lưu chuyển, còn ngũ địa không được. Lại, do phần nhiều sinh nhàm chán đối với sinh tử kia, nên chưa thể phần nhiều trụ nơi tác ý vô tướng. Thất địa nhập lâu dài tác ý vô tướng của chân như. Lục địa dù không nhập lâu dài. Mà có thể phần nhiều trụ tác ý vô tướng, Bồ tát Ngũ Địa đối với khổ sanh tử thường sanh nhàm chán không thể thường sống trong tác ý vô tướng mà không thể khiến cho tác ý vô tướng không thiếu,không gián đoạn, phần nhiều tu tập trụ, chưa được nhập lâu dài chân quán của Thất địa, mà chưa thể lìa bỏ công dụng trong trụ vô tướng. Thất địa chưa được vô công dụng vô tướng của Bát địa.

Lại, chưa thể được tự tại đối với tướng, nghĩa là Bồ-tát Bát địa dù có công dụng đối với tướng tục đế, nhưng vì về phần tự tại, Thất địa chưa được, chưa thể huấn từ khác nhau trở xuống đối với các tướng của tên khác, nói chưa được đức vô ngại giải của Cửu địa. Tên khác, là “Pháp Vô Ngại”. Các tướng, là “Nghĩa Vô Ngại”. Huấn từ khác nhau, nghĩa là từ vô ngại.

Tất cả phẩm loại giảng nói được tự tại hoàn toàn đối với pháp, nghĩa là “Nhạo thuyết Vô ngại”, Bát địa chưa được, gọi là chưa thể.

“Chưa thể được pháp thân viên mãn, chứng thọ hiện tiền. Bồ-tát

Thập địa đã lìa hết phiền não thô, pháp thân viên mãn, Cửu địa chưa được.

“Chứ có thể được diệu kiến, diệu trí vô ngại, vô trước đối với tất cả cảnh giới sở tri”, nghĩa là chưa được quả Phật. Vì quả Phật lìa chướng phiền não, nên gọi là Diệu trí vô trước. Lìa chướng sở tri, nên gọi là diệu kiến vô ngại, Thập địa chưa được.

“Vì khiến cho v.v… ”trở xuống, là nói được Phật địa viên mãn.”

Hỏi: “Theo kinh Bản Nghiệp, Địa thứ mười một, gọi là địa Đẳng Giác. Trong đây, vì sao nói Như lai Địa, gọi là địa thứ mười một ư?

Giải thích: “Tự có hai nghĩa:

1/ Nói luận riêng về nhân, quả, chỉ có Diệu Giác, gọi là Như lai Địa. Như kinh kia nói:

2/ Nhiếp nhân thuộc quả, Diệu giác, Đẳng giác đều gọi là Phật địa, như kinh ấy nói. “Vì đa có hai nghĩa, nên không trái nhau.

Thứ hai, giải thích danh nghĩa của Địa:

Thành tựu nghĩa Đại, tức là thành tựu lợi mình, lợi người, gọi là thành nghĩa Đại, được chưa từng được tâm xuất thế gian. Đầu tiên, được trí vô phân biệt sinh vui mừng. Bồ-tát Thế Thân lấy ý trong đây để giải thích về Sơ Địa, nói rằng: “Thành tựu vô thượng, lợi mình, lợi người. đầu tiên chứng quả Thánh phần nhiều sinh vui mừng, nên gọi là Hoan Hỷ địa, từ nghĩa được tên, xa lìa tất cả phạm giới vi tế, gọi là Ly cấu địa, nên phạm gọi là thô, lầm phạm, gọi là tế. Sơ Địa vì lìa, cho nên phạm. Nhị địa vì lìa lầm phạm, nên nói rằng xa lìa phạm giới vi tế. Địa Luận cũng lấy ý này, chỗ kia giải thích rằng: “Lìa tâm khởi ngộ nhận phạm giới phiền não nhơ. Vì giới thanh tịnh đầy đủ, nên gọi là Ly cấu (lìa nhơ), cũng từ nghĩa được tên. Do chỗ ấy, cho đến Phát Quang Địa, nghĩa là Tam địa được định và Văn trì, văn trì lại là khác nhau trong định. Dựa vào các định này, có thể phát trí sáng, gọi là Phát quang địa. Phát là nghĩa nhân, quang là nghĩa quả. Nhân quả là danh”. Địa Luận chép: “Tùy theo pháp chiếu Văn, Tư Tu v.v… hiện rõ, gọi là minh địa. Vì ba tuệ soi sáng nên gọi là minh địa. Đây là trực tiếp từ địc kia đã phát ra quả tuệ được tên. Do địa kia đã được pháp Bồ-đề. Phần đến gọi là Diệm Tuệ Địa. Nghĩa là phiền não như củi, trí như ánh lửa. Lửa đạo của Tứ địa đốt củi phiền não. Pháp dụ nêu cả hai, gọi là Diệm tuệ địa. Luận cũng lấy ý này, gọi là tắt là Diệm Địa. Do tức ở địa kia đến, gọi là cực Nan thắng địa. Nghĩa là thắng trí chân tục trong địa thứ năm trái nhau không thành công. Do nhiều gian nan mới được khởi chung, gọi là Nan Thắng địa, từ nghĩa mà được tên. Địa luận giải thích: “Được phương tiện khéo léo xuất thế gian có thể hóa độ người khó hóa độ, gọi là Nan thắng Địa.

Hiện tiền quán sát các hành lưu chuyển, nghĩa là Hậu trí hiện tiền, quán về duyên khởi. Lại, đối với Vô tướng, phần nhiều tu tác ý mới hiện ở trước, nghĩa là trí Vô phân biệt phần nhiều tu công dụng, mới hiện ở trước. Hai trí hiện tiền. Cho nên, thứ sáu, gọi là Hiện tiền địa, từ nghĩa được tên. Địa luận giải thích: “Hạnh Bát-Nhã Ba-la-mật có gián đoạn, đại trí hiện tiền, gọi là Hiện tiền Địa. Trí Vô Phân biệt không thường nối tiếp nhau, gọi là Bát-nhãhữu gián, tác ý mới khởi, nên gọi là Đại trí hiện tiền, có thể xa chứng nhập đến, gọi là Viễn Hành địa, nghĩa là bắt đầu từ Sơ Địa sau cùng đến địa thứ bảy, trải qua một tăng-kỳ tu hạnh vô tướng, mới được vô gián chứng nhập vô tướng. Gần gũi với địa thanh tịnh thứ tám kia, gọi là Viễn Hành địa. Bát địa lìa lỗi công dụng, gọi là Thanh Tịnh địa. Địa luận giải thích: “Khéo tu công dụng rốt ráo của hạnh vô tướng, có thể vượt qua đạo xuất thế gian của Nhị thừa thế gian, nên gọi là Viễn hành. Lục địa trước cũng tu hạnh vô tướng không thể nối tiếp nhau, không được gọi là thiện. Thất địa Vô gián, nên gọi là khéo tu. Bảy địa trước sinh khởi các hạnh đều có công dụng. Nay, địa thứ bảy đối với hạnh công dụng ở mé sau. Cho nên, gọi là công dụng rốt ráo. Tam địa trước tu thí, giới, định tương đồng với thế gian. Phẩm đạo của Tứ địa, quán đế của ngũ địa, duyên khởi của Lục địa, tương đồng với đạo xuất thế gian của Nhị thừa. Nay, được Thất địa có thể vượt qua Nhị địa trước, nên có thể nói rằng vượt qua đạo thế gian, xuất thế gian của Nhị thừa, nên gọi là Viễn hành địa. Đây cũng từ nghĩa đặt tên.

“Do đối với vô tướng cho đến “Gọi là Bất động địa nghĩa là chân trí được vô công dụng mà không bị động bởi phiền não hiện hành, gọi là bất động, cũng từ dụng nghĩa được tên. Địa luận giải thích: “Vì địa hạnh có thể thuần thục vô tướng vô gián, nên gọi là Bất động. Y cứ trực tiếp Chân trí để giải thích Bất động.

“Đối với Nhất thiết chủng cho đến “Gọi là Thiện Tuệ Địa”, nghĩa là đối với Nhất thiết chủng, nói pháp tự tại giải thiện, được Đại trí tuệ rộng lớn không có tội. Giải tuệ. Tuệ là thể, thiện là nghĩa, thể nghĩa mà được tên gọi.

Địa luận giải thích: “Về danh nghĩa là sức vô ngại nói pháp, thành tựu hạnh lợi tha, gọi là Thiện Tuệ địa. Giải thích thẳng nghĩa “Thiện”, không giải thích nghĩa “Tuệ”.

“Nghĩa” thô nặng cho đến “Gọi là Pháp Vân Địa”, nghĩa là Vô biên thể phiền não chướng sở tri, đã có tánh không điều hòa nhu thuận của tùy miên, gọi là thân thô nặng, ví như hư không kia, pháp thân mà Thập địa đã chứng được viên mãn. Ví như vầng mây lớn có thể che khắp, như hư không thô nặng, nên gọi là Pháp Vân. Pháp gọi là Pháp Thân. Pháp Thân ví như mây, Pháp và dụ đều nêu, nên gọi là Pháp Vân.

Xưa, Bồ-tát Thế Thân giải thích: “Pháp gọi là Trí, vì mây dụ cho trí, cũng là pháp, dụ nêu cả hai, nên gọi là pháp vân.”

Địa Luận giải thích: “Nghĩa là pháp thân lớn, đầy đủ tự tại, gọi là Pháp Vân Địa.

“Dứt trừ hẳn” trở xuống, là giải thích về Phật Địa rất dễ hiểu.

Thứ ba, là nói về pháp bị đối trừ trong địa. Cho nên hai mươi hai ngu si, mười một thô nặng, mười một thô nặng là hai mươi hai ngu si, tánh không điều hòa, nhu thuận, thô nặng của tùy miên. Nhiếp luận do Ngài Tam Tạng chân đế dịch chép: “Bốn thứ sinh tử, báo thô nặng của hai mươi hai vô minh. Nhiếp luận của Đại thừa không nói bốn thứ vô minh, chỉ từ phía Nam đã được nói về bốn sinh tử trong kinh Vô Thượng Y. Nay, Ngài Tam Tạng Pháp sư tra cứu bản Phạm thì không có chữ “báo” và bốn sinh tử, nên nói là hai mươi hai ngu si, mười một thô nặng”. Hai mươi hai ngu, ở quyển trước đã phân biệt đối nhau trong mười chướng. Nay, lược giải thích tướng. Văn có bốn đoạn: Đầu tiên là hỏi, kế là đáp, ba là kết, bốn là lãnh thọ.

Trong phần đáp, thì hai ngu của Sơ Địa:

1- Chấp Bổ-đặc-già-la và ngu pháp, tức là hai chấp Nhân, Pháp.

2- Ngu tạp nhiễm của đường ác, nghĩa là tức nghiệp phiền não của cõi ác, sinh ba thứ tạp nhiễm. Nhị địa có hai:

1/ Phạm vi tế là lầm phạm thất niệm (quên mất)

2/ Các thứ đường nghiệp, nghĩa là thấy ba hạnh khác nhau của ba nghiệp. Tam địa có hai ngu:

1- Chướng dục tham, thì chướng đẳng trì.

2- Ngu viên mãn văn trì Đà-La-ni, nghĩa là ba địa đã được đức nghe, nhớ giữ v.v… Nhị địa chưa được, từ đối tượng chướng mà được tên gọi. Tứ địa có hai:

1/ Ái đẳng trì tức là tâm thiền định khởi ái trong Tam địa, chướng ngại cho Tứ địa.

2/ Ái pháp.

2) Bồ-tát địa vì lấy pháp ái, nên cầu nhẫn pháp hạnh, như kinh nói rộng. Ngũ địa có hai:

1- Hoàn toàn tác ý, trái bỏ sinh tử.

2- Hoàn toàn tác ý hướng và Niết-bàn và khởi chướng ở năm trong Tứ địa. Lục địa có hai:

1/ Hiện tiền quán sát các hạnh lưu chuyển, nghĩa là Lục địa hiện tiền quán các hạnh lưu chuyển của mười hai duyên. Ngũ địa chưa được chướng ngại cho Lục địa, từ sở chướng mà được tên gọi.

2/ Tướng phần nhiều hiện hành, nghĩa là Bồ-tát ngũ địa dù đều nhàm chán niềm vui, nhưng về tướng nhàm chán sinh tử, phần nhiều hiện hành ở trước, chướng ngại cho Lục địa. Thất địa có hai:

1- Ngu hiện hành của tướng vi tế, nghĩa là Thất địa nhập chân quán vô tướng lâu dài. Lục địa dù quán vô tướng, nhưng chưa thể vô gián, nhưng lúc nào cũng trông thấy tướng hiện hành. Sinh này năng che lấp, gọi là ngu.

2- Hoàn toàn ngu phương tiện tác ý vô tướng, nghĩa là phướng tiện tác ý của Thất địa, hoàn toàn chân quán vô tướng nối tiếp nhau. Lục địa cũng thấy tướng tế hiện tiền, chướng ngại tác ý của Thất địa. Hoàn toàn vô tướng. Đây là y cứ vào công đức bị che lấp, lại lập một ngu. Bát địa có hai:

1/ Ngu công dụng của tác ý đối với vô tướng, nghĩa là ngay nơi thể mà được tên. Chân quán của Thất địa dù lại nối tiếp nhau, nhưng có công dụng, chướng ngại vô tướng không có công dụng của Bát địa.

2/ Ngu đối với tướng hạnh tự tại. Bồ-tát Bát địa lợi tha có công dụng trong hành nối tiếp, chưa được tự tại. Tự tại không có công dụng đã được tự tại. Thất địa chưa thể, từ đối tượng chướng mà được tên gọi. Gọi là tự tại đối với tướng hạnh. Cửu địa có hai:

1- Nói pháp vô lượng là nghĩa vô ngại. Câu, văn, chữ v.v… của vô lượng pháp là pháp vô ngại.

2- Ngu biện tài tự tại, nghĩa là từ Vô ngại và nhạo thuyết vô ngại, Cửu địa đã được, Bát địa chưa được đều từ sở chướng mà được tên gọi.

Thập địa có hai:

1/ Ngu đại thần thông.

2/ Ngu ngộ nhập bí mật vi tế, nghĩa là đại thần thông tức là năm phần pháp thân. Bí mật vi tế tức là chân như pháp thân. Cửu địa không được viên mãn hai pháp thân này. Như lai địa có hai:

1- Chấp mắc rất vi tế đối với cảnh Nhất thiết sở trí, tức là tùy miên phiền não của phẩm hạ, rất thấp của tưởng bi.

2- Ngăn ngại rất cùng cực vi tế, chính là thể sở tri chưóng phẩm hạ của tưởng bi rất thấp.

Thứ tư, là nói về đức thanh tịnh chung của các địa, đầu tiên là nói tám thứ thanh tịnh, xưa gọi là tám quả, rộng như phẩm trụ nói.

Trong đây, 1- Ý lạc thanh tịnh, tức là tác ý làm thể; 2- Tâm thanh tịnh, tức lấy định làm thể. Sáu thứ còn lại rất dễ hiểu. Quả báo của các nhiếp, gọi là sinh thanh tịnh, nên Phật địa không có.

Kế là, là nói hữu lượng, vô thượng.

Thứ năm, là nói nhờ bốn nhân duyên, nên Bồ-tát sinh vượt hơn.

Thứ sáu, là nói về các đại nguyện của hạnh Bồ-tát.

Nói thắng nguyện mầu nhiệm rộng lớn, ở đây có hai giải thích:

1- Giải thích: “Vì giáo hóa rộng các hữu tình, nên gọi là nguyện rộng lớn, vì tu tất cả điều thiện, nên gọi là nguyện mầu nhiệm, vì dứt trừ tất cả việc ác, nên gọi là nguyện vượt hơn.”

2- Giải thích: “Nguyện rộng lớn: Tức tâm rộng lớn. Nguyện mầu nhiệm tức tâm thứ nhất. Nguyện vượt hơn tức không có tâm điên đảo.

Vì bốn nhân duyên, nghĩa là có thể khéo biết rõ khéo trụ Niếtbàn, năng chứng nhanh chóng, chứng là thứ nhất, mà lại xả bỏ, chứng nhanh chóng lạc trụ là thứ hai. Không có duyên, không có chờ đợi, phát tâm đại nguyện là thứ ba. Vì muốn thời gian dài của chỗ lợi tha, nỗi khổ là thứ tư. Dù có sáu đoạn, nhưng đều là thứ nhất, nói về nghĩa của địa đã xong.

Dưới đây là, thứ hai, nói về pháp nên học trong địa ấy, có hai mươi ba câu. Nhân, quả của nhiếp luận thù thắng, từ đây khởi:

  1. Nêu sáu độ làm sự sở học.
  2. Dùng ba học nhiếp thu sáu độ, phải biết rằng, ba độ đều là hai học tăng thượng, nghĩa là thí, nhẫn là quyến thuộc của giới, cũng gọi là giới.
  3. Dùng ba thứ tư lương gồm nhiếp sáu độ.
  4. Nói về năm tướng, như tu thí v.v… Mười thứ pháp hạnh, tức là viết, chép, gìn giữ v.v…
  5. Giải thích thành sáu số.
  6. Nói về ý lập bốn độ sau. Đối với tạng Bồ-tát, không thể nghe, “duyên” khéo tu tập: Nghe, là lắng nghe, “duyên” là “duyên lự”.
  7. Nói về thứ lớp.
  8. Nói về phẩm loại.
  9. Giải thích nghĩa đến bờ bên kia.
  10. Nói về sáu tệ bị đối trị.
  11. Nói quả chứng đắc.
  12. Nói về pháp nhiễm xen lẫn như thí v.v…
  13. Nói về chẳng phải phương tiện.
  14. Giải thích năm tướng trên thanh tịnh chung, riêng, nghĩa là năm tướng không có nhiễm, chấp mắc, chung cả sáu độ. dựa vào sau độ này để nói về giới thanh tịnh có bảy: 1. Biết rõ chế lập. 2. Biết rõ xuất ly. 3. Thường đủ Thi-la, nghĩa là thường giữ gìn Thi-la. 4. Thi-la vững chắc, nghĩa là thủ hộ vững chắc Thi-la. 5. Thường trụ Thi-la: 1- Tác giới; 2- thọ giới. 6. Thường chuyển Thi-la: 1- không có tác giới; 2- tùy giới. 7. Thọ học tất cả. Nhẫn tịnh có bảy:
  1. Giải thích tin sâu nhân quả, cho đến không đùa.
  2. Không còn gia hại.
  3. Không có tâm kết oán.
  4. Khi can ngăn không giận dữ.
  5. Không đợi đến can ngăn.
  6. Không do sợ hãi tâm nhiễm mà thực hành nhẫn nhục.
  7. Không vì tác ý mà xả bỏ.

– Hai giải thích:

  1. Tin nghiệp quả.
  2. Đối với không lợi ích, bất sinh tâm giận dữ.
  3. Không báo đáp lại.
  4. Không kết oán.
  5. Lúc can ngăn, không giận dữ, cũng không đợi can ngăn.
  6. Không do tâm hạnh sợ nhiễm.
  7. Không vì làm ơn mới xả bỏ.

Tinh Tấn có bảy:

  1. Thông suốt bình đẳng, không tự xâm lấn người khác.
  2. Có thế lực lớn, tức là mặc giáp tinh tấn.
  3. Có tinh tấn lớn, tức là có thế.
  4. Có chỗ kham năng, là có sức.
  5. Bền chắc.
  6. Mạnh mẽ, hai thứ này tức là có động.
  7. Đối với các pháp thiện, không bao giờ buông bỏ, tức là không xả ách.

Giải thích:

  1. Giải thích thực hành trong chỗ thông đạt.
  2. Không tự đề cao.
  3. Xâm lấn người khác.
  4. Có thế lực lớn.
  5. Rất siêng năng.
  6. Có sức kham năng.
  7. Không bỏ ách.

– Nay, Giải thích:

  1. Thấu suốt tánh bình đẳng.
  2. Không tự đề cao. Xâm lấn người khác.
  3. Có thế lực lớn.
  4. Rất tinh tấn.
  5. Có chỗ kham năng.
  6. Mạnh mẽ vững chắc.
  7. Không xả bỏ ách.

Tĩnh lự có bảy: Có tướng khéo thông suốt:

  1. Thông suốt chân như; rằng thông suốt ba tướng.
  2. Viên mãn nghĩa là trụ phần định.
  3. Câu phần, là đạo song vận.
  4. Vận chuyển, nghĩa là thắng tấn phần sau sau.
  5. Không có sở y, nghĩa là không tuệ tương ưng với định.
  6. Khéo tu đối trị, nghĩa là dứt “hoặc”, chứng diệt.
  7. Đối với tạng Bồ-tát, nghe duyên tu tập vô lượng, nghĩa là dựa vào giáo Đại thừa, tu các Tam-ma-địa không thể so lường.

Lại giải thích: “Vì tu bốn vô lượng, nên tuệ tịnh có bảy:

  1. Giải thích: Xa lìa hai biê, biết ba giải thoát.
  2. Biết hai tự tánh.
  3. Biết ba vô tánh.
  4. Biết năm minh thế tục, Ngoại minh, Nội minh, Thinh minh, Nhân minh, Y phương minh.
  5. Biết Thắng nghĩa.
  6. Vô phân biệt nhiều sở trụ.
  7. Vô lượng pháp chung, cho đến tùy pháp hành.

Pháp sư Thái nói: “Lại vô phần”, trở xuống,có hai: trước là tuệ “chỉ”, sau là tuệ “quán”. Năm Tuệ gia hạnh, gọi là bảy thứ tuệ, tức đồng với phán quyết này.

Một giải thích khác: “Nếu các Bồ-tát cho đến “đó gọi là tuệ, là giải thích chung tên tuệ.”

Dưới đây là giải thích bảy tướng, phán quyết dưới đây cũng đồng.

Nay theo giải thích trước.

15) Giải thích năm duyên trước, có chung năm nghiệp.

16) Y cứ năm nghĩa để phân biệt thí v.v… Trong năm tướng trước, ba tướng gọi là “rất rộng lớn”, hai tướng gọi là không nhiễm ô. Lúc tu sáu độ, tư duy lựa chọn là trước hết, nên rất sáng suốt.

Bát địa trở lên, gọi là không thể lay động. Viên mãn và quả, gọi là rất thanh tịnh.

17) Nói về nhân quả vô tận.

18) Nói về rất ưa thích thí v.v… không ưa thích quả thí v.v… lắm.

19) Nói về oai đức của thí v.v… Sáu độ đều có bốn thứ oai đức:

Oai đức đầu tiên, trị sáu chướng, ba thứ sau như văn.

1- Nói về nghĩa lợi nhân quả,

2- Nói về Bồ-tát có tài sản, chúng sinh có ý tham.

20) Nói về Bát-nhã lấy các pháp vô tánh. Có hai hỏi đáp.

21) Hỏi, đáp để nói Bát-nhã khi lấy chân như không có tánh chấp ngang, gọi là lấy vô tánh của các pháp.

22) Ý hỏi: “Chân như lìa “có”, lìa “không”, khi lấy chân như, gọi là lấy vô tánh, có thể vì không có tánh, nên không thừa nhận lấy chân như, gọi là tánh sở hữu?”

Ý đáp: “Nói vô tánh là ngăn giải thích chẳng phải biểu, nghĩa là chân như kia không có thuyết chấp ngang trái, gọi là không có tánh. Ta cuối cùng không nói là Bát-nhã, hiểu là vô tánh, lấy vô tánh kia, dùng pháp nội chứng, không biết lấy tên gì, tức giả gọi là vô tánh.

23) Nói về ba danh khác nhau đã tu thí v.v… trong ba kỳ. Trong tăng-kỳ đầu, tu hành thí v.v… phiền não vẫn còn hiện hành, chưa thể hàng phục. Nhưng vì hàng phục phiền não kia, nghĩa là bị phiền não hàng phục, che lấp thí, v.v… nói là đối với thắng giải hạnh địa v.v… xuất địa vị kia, khi chuyển thắng giải trong Noãn, gọi là Ba-la-mật đa, nghĩa là Địa tiền đã tu chưa thành phẩm thượng, chỉ là phẩm trung của phẩm Noãn, chỉ gọi là Ba-la-mật-đa. Lại, “đối với vô lượng thời, cho đến nói là từ Sơ Địa trở lên”, nghĩa là ra khỏi địa vị kia là gọi là cận Ba-la-mậtđa, vì bỏ cận Bồ-đề nên gọi là như thế.

Lại, “đối với cho đến Bát địa trở lên” nghĩa là ra khỏi địa vị kia, là gọi là Đại Ba-la-mật đa, Bát địa trở lên, tu vô công dụng, trong mỗi hạnh khởi vô lượng hạnh, nên được gọi là “Đại”.

Tam Tang Chân Đế nói: “Ba danh này thuộc về Địa tiền.

1. Hắc, bạch lẫn lộn, gọi là Ba-la-mật-đa, vì phiền não xen lẫn trong Thập giải.

2. Hoàn toàn pháp bạch, gọi là Ba-la-mật gần, vì hoàn toàn pháp bạch trong Thập hạnh, phiền não không hiện hành.

3. Chẳng phải Hắc, bạch có báo, gọi là Đại Ba-la-mật đa, vì vượt qua ba vị trước trong mười hồi hướng. Dù có thuyết này mà trái với văn này.

Dưới đây là thứ ba là nói tất cả phiền não trong địa, trong đó có bốn: 1/ Nói về đầu số, lược có ba thứ tùy miên, v.v… Luận sư Cảnh nói: “ 1- Tùy miên hại bạn, nghĩa là kiến dứt trừ hiện hành “hoặc” không câu sinh, là tu dứt trừ câu sinh giúp, “hoặc” kia, do thấy giúp hoặc, “tu hoặc” hừng cháy, cho nên, chỉ nói “hoặc” không câu sinh là giúp đỡ câu sinh tất cả. Tu hoặc câu sinh trong năm địa trước, đã lìa không câu sinh của kiến hoặc, nên gọi là hại bạn. Nay nêu “tu hoặc” hại bạn trong ngũ địa trước cũng lấy hạt giống được huân tập, gọi là tùy miên hại bạn tùy miên này rất là thô.

4. Tùy miên yếu kém, nghĩa là hiện hành vi tế trong Lục, Thất địa, nếu tu đã hàng phục, vì không hiện hành, nghĩa là tu hoặc hại bạn ở trước. Nếu ở trong Nhị địa sáu, bảy, khởi, thì chỉ là hiện hành vi tế và hạt giống, gọi là chung là tùy miên yếu kém. Như Nhiếp Luận nói “Thất địa nhập Chân quán lâu dài, không khởi phiền não”, vì sao nay lại nói khởi “hoặc” tế.

Thất địa có ba: Nhập, trụ, xuất. Tâm xuất địa mãn, Chân quán tiếp nối nhau, không khởi phiền não, nên nhiếp luận nói không khởi “hoặc”. Trong tâm nhập, trụ có lúc khởi “hoặc”, nên trong đây nói là hiện hành vi tế. Vì cho luận Phật địa quyển hai chép: “Có thuyết nói “Câu sinh phiền não trong thức thứ bảy của Tứ địa, tất cả xa lìa.”

Có thuyết nói: “Tất cả xa lìa Câu sinh ngã kiến trong thức thứ sáu của Tứ địa, chứ chẳng phải thức thứ bảy, vì Thất địa trở xuống vẫn còn có phiền não vi tế. Nếu không có thức thứ bảy, thì lẽ ra không có y nhiễm, tịnh, lẽ ra không giống với năm. Hoặc của thức thứ bảy, nếu đã xa lìa, thì “hoặc” thô của sáu thức của Ngũ, Lục, Thất địa lẽ ra sẽ không hiện hành, tức là trái với thuyết Du-già và Giải Thâm Mật, tức trái vời Nhị địa Lục, Thất đã nói trong đây, có hiện hành vi tế của tùy miên yếu kém.

5. Tùy miên vi tế, Bát địa trở lên, từ địa này trở lên, tất cả phiền não không còn hiện hành nữa, chỉ có sơ tri chướng làm y chỉ, tức hai thứ tùy miên ở trước truyền đến Bát địa trở lên, dù là chưa dứt vì thánh đạo xem xét, hàng phục công năng vi tế, ý thức của Bát địa trở lên. Đôi khi chỉ quán pháp không, hoặc chứng cả “hai không” để làm rạng rỡ chân như. Trí bình đẳng trong thức Mạt-na khởi, ý thức hoặc chỉ nhập quán Nhân không, Mạt-na tức khởi pháp chấp, nên nói rằng “Tất cả phiền não không còn hiện hành, chỉ có chướng sở tri làm đối tượng nương tựa.”

Pháp sư Thái nói: “Tác ý phân biệt phiền não của Kiến đạo sinh, chứ chẳng phải sinh tức là nhậm vận khởi, gọi là hiện hành phiền não không Câu sinh. phiền não của tu đạo nhậm vận mà khởi, như sinh Đắc thiện, là phiền não Câu sinh. Đây là giải thích về Danh, nghĩa đồng với Luận sư Cảnh. Lục địa được quán vô tướng, vì Bát-nhã khởi, vì dần vi tế, nên chuyển, gọi là tùy miên yếu kém đã khởi. Nếu tu đạo đã hàng phục, mới không hiện hành. Bát địa trở lên, tất cả phiền não không còn hiện hành, tức có chướng sở tri chấp của thức thứ bảy làm chỗ nương tựa. Hiện hành sáu thức của pháp chấp đã khởi.”

Lại giải thích: “Kiến đạo dứt trừ phiền não, trong Sơ Địa, dứt hết kiến hoặc Câu sinh trong ý thức, địa thứ tư hàng phục “hoặc” Câu sinh còn lại. Kể cả ngã kiến câu sinh của Mạt-na. Vì trong Bát địa chỉ hàng phục, nên Bát địa trở lên dù có hiện hành của năm thức hữu lậu, nhưng ý thức chỉ là vô lậu. Nếu khi quán nhân không còn có Mạt-na chấp pháp thì lúc quán pháp không kia chỉ có Mạt-na hữu lậu. Nhưng tức kinh nói “Chỉ có sơ tri chướng”, nghĩa là y cứ chấp pháp của Mạt-na mà nói. Các Luận sư phương Tây phần nhiều theo giải thích này. Luận sư Khuy Cơ nói: “Hại bạn theo bạn, nghĩa là thuộc về thân kiến Câu sinh, của thức thứ sáu, gọi là câu sanh nên phiền não còn lại, gọi chẳng phải Câu sinh. Nhưng thể của chúng hơi thô, nhân Câu sinh kia mà khởi, do Câu sinh kia mà dứt trừ. Vì phiền não này cũng không theo, nên gọi là hại bạn.

Tùy miên yếu kém, nghĩa là hiện hành của vi tế Địa thứ sáu, thứ bảy. Nếu vì tu đã hàng phục, không hiện hành, nên chẳng phải thân kiến Câu sinh dứt trừ, thì đây cũng là tùy miên diệt, vì hơi khó dứt, không trái với kinh Lăng-già nói “Vì dứt trừ thân kiến Câu sinh, nên tham tức bất sinh.”

Kinh Lăng-già y cứ ở Nhị thừa phiền não mà nói. Không dựa vào chướng sở tri của Bồ-tát là không, nên phiền não bất sinh mà nói, hoặc dựa vào địa vị dứt trừ rốt ráo của hai tùy miên. Kinh kia, kinh này cũng không trái nhau.

Tùy miên vi tế, nghĩa là từ Bát địa trở lên, như Chương Duy thức kia giải thích: “Hai là nói về da, xương thô nặng”. Luận sư Cảnh nói: “Ý hỏi trong đây”, Với ba tùy miên trên, khi bậc Thánh dứt trừ, vì là bỏ da hay là bỏ cả da xương? Chỉ do hai thứ, nghĩa là do đoạn thô nặng ở da, nên làm rõ hai tùy miên đầu kia. Khi dứt trừ hai thứ tùy miên yếu kém, tùy miên hại bạn mà Thất địa trước đã có, đây gọi là dứt thô nặng ở da.

Nói “Lại do dứt thô nặng của da, cho nên làm rõ tùy miên thứ ba kia, nghĩa là ba thời gian sau, dứt tùy miên vi tế, đây gọi là dứt thô nặng ở da. Nếu dứt trừ thô nặng ở xương, thì ta sẽ nói lìa hẳn tất cả vị Tùy miên ở Phật Địa. Ba tùy miên trước vì tất cả tập tế, nên gọi là xương. Y cứ ở chứng ngoài loại đạo giải thoát, trừ trụ ở trong phiền não của Phật địa.

Nói về ba tùy miên có da, xương, phân biệt trong chướng sở tri giống như thế. Pháp sư Thái nói: “Y cứ dứt trừ ba phiền não da xương, để lập kiếp ba-tăng-kỳ: Tăng-kỳ đầu ở thô nặng của da. Từ Tăng-kỳ đầu đến Sơ Địa, vì dứt trừ hết thô nặng, mới lộ rõ giúp đỡ của Sơ, Nhị và tùy miên yếu kém có thể khởi hiện hành. Do từ Sơ Địa đến Thất địa, dứt trừ thô nặng ở da, nên từ Bát địa trở lên, làm rõ tùy miên pháp chấp vi tế của địa thứ ba kia, hay khởi hiện hành pháp chấp. Dứt trừ hết thô nặng ở xương, nghĩa là trụ ở Phật địa, nên lìa hẳn tất cả tùy miên.

Thứ ba, là nói về số kiếp có thể dứt trừ. Nếu y cứ ở Đại kiếp, thì chỉ trải qua ba số kiếp, không thể dứt trừ hết thô nặng. Nếu dựa vào tiểu kiếp, thì sẽ trải qua vô lượng.

Thứ tư, là nói về tướng phiền não sinh trong địa, trước nêu lên ba câu hỏi. Kế là, đáp bài tụng sau. Trong phần đáp. Luận sư Cảnh nói: “Ở Sơ Địa thông đạt pháp giới. Do nhân duyên này, Bồ-tát phải biết mới khởi phiền não, gọi là tướng vô nhiễm, dù khởi phiền não vẫn không thể sinh khổ ở trong tự thân, nên không có lỗi lầm. Khởi “hoặc” như thế, dứt trừ nhân khổ khác, có vô lượng đức. Pháp sư Thái nói: “Đã nói rằng ở trong Sơ Địa, phải biết mới khởi phiền não” nên biết trong Nhị địa nói: “Lìa hay khởi tâm ngô nhận phiền não. Phiền não phạm giới, là Địa tiền đã khởi, đến Nhị địa hàng phục hạt giống kia, chẳng phải hiện khởi trong Sơ Địa”.

Pháp sư Khuy Cơ lại nói: “Dùng văn này để chứng minh rằng, Sơ Địa trở lên không cố phạm tội.

Dưới đây, đoạn thứ tư, là nói về ý nhất thừa “Như Đức Phật đã nói, cho đến “Ta không nói tánh khác nhau của thừa”, nghĩa là trong Tiểu thừa, giảng nói các thứ pháp tánh của uẩn, giới, xứ, trong Đại thừa, nói các pháp này đồng một lý thú chân như giơi, vì y cứ đồng với chân như. Đức Phật không nói tánh khác nhau của thừa.

Nói “Trong đó, cho đến một loại tổn giảm”, nghĩa là nghe nói ba thừa đồng một tánh như, hoặc chấp Nhị thừa đồng với Đại thừa, gọi là tăng ích. Hoặc chấp Đại thừa đồng với Nhị thừa, gọi là tổn giảm.

Lại, nói là ba thừa đã có khác nhau, thì làm sao đồng một pháp giới chân như. Pháp giới đã đồng, lẽ ra thừa không có khác, mà không thể biết Thánh đạo của ba thừa. Sự, Pháp khác nhau có thưọng, trung, hạ, như lý thì đồng chung một pháp giới, mà không trái nhau, nghĩa là có trái nhau, mà khởi tranh luận.

Dưới đây là trùng tụng, gồm thu các địa. Nghĩa là Nghĩa nhiếp thu đầu tiên của tụng. Địa của bài tụng chung, gọi là hai mươi hai ngu si, mười một thô nặng bị đối trị, tám thanh tịnh của tụng thù thắng, đức chung các địa, sinh tụng Bồ-tát sinh vượt hơn, nguyện tụng rộng lớn và các người học tụng sáu độ.

“Do dựa vào lời Phật nói là Đại thừa đã khéo tu sáu độ này mà thành bậc Đại giác, nghĩa là bài tụng y chỉ Bồ-tát, Đức Phật nói Đại thừa, nếu tu sẽ thành Phật. Hoặc có thể là hai câu tụng này dựa vào ba kiếp tu thành của địa vị Đại thừa. Dưói đây có hai bài tụng, tụng Mật thuyết Nhất thừa sau cùng. Dưói đây là lúc thỉnh đặt tên kinh, chúng được lợi ích rất dễ hiểu.

Dưới đây là, đoạn lớn thứ bảy, Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi, thưa hỏi nghĩa ba thân. Trước tiêu biểu tông chỉ kinh. Kế là, chính thức dẫn văn kinh, trong đó, trước hỏi đáp, chính nói. Sau, được lợi ích khi đặt tên kinh.

Trong phần trước có mười bốn môn. Đầu tiên, là hỏi đáp, nói về tướng pháp thân.

Mạn-thù-thất-lợi, xưa nói Văn-thù-sư-lợi, xưa dịch là Diệu Đức. Nay dịch Diệu Cát Tường.

Ý trong đây nói là: “Tu xuất ly ở trong các địa để làm liễu nhân, làm rõ chuyển y tịnh chân như thành tựu viên mãn là tướng pháp thân.”

Thứ hai, là nói về chuyển y của Nhị thừa, không gọi là pháp thân, vì Nhị thừa chưa dứt trừ chướng sở tri. Do dứt trừ chướng “hoặc”, nên được làm sáng tỏ chân như, gọi là thân giải thoát. Do thân giải thoát ba thừa đều bình đẳng. Do pháp thân, nên có sự khác nhau ấy.

“Vô lượng công đức khác nhau, vượt hơn hết, tính, đếm, khó biết”, nghĩa là văn này chứng minh rằng, chân như bản hữu có công đức nhiều như số cát sông Hằng.

Thứ ba, là nói về hóa thân của các Như lai tạo nên sự nghiệp Luận sư Bị, Cảnh nói: “Hóa thân tạo nên sự nghiệp, như thế giới khởi, ý văn này nói về tướng Sinh khởi của thân “Tha thọ dụng” và thân biến hóa, lược qua không nói thân tự thọ dụng “như thế giới khởi”. Đồng với chúng sinh do các thế giới hóa hiện hình loại sanh khởi, cho nên nói như thế giới khởi. Pháp sư Thái nói: “Như lúc thế giới Tam Thiên khởi, tất cả chủng loại của chúng sinh đều cảm chung mà khởi, nghiệp hóa thân cũng giống như thế. Tất cả công đức của Như lai sanh khởi làm tướng.

Thứ tư, là nói về hoá thân, phương tiện khéo léo của thân, tức là tướng của tám tướng thành đạo. Nhưng nói trong văn này nói lược.

Thứ năm, là nói về ngôn âm khác nhau của Như lai, trước là hỏi đáp, nêu chung ngôn âm của Như lai không ngoài ba tạng.

1. Khế kinh.

2. Điều phục, xưa gọi là diệt.

3. Bản mẫu, xưa gọi là Ma-đức-lặc-già. Nay nói là Ma-đát-lý-ca. Hán dịch là Bản mẫu. do trong tạng này, nói rộng các nghĩa, xuất sinh mỗi thứ đạo lý, nên gọi là Bản mẫu, cũng có thể do nói về nhiều thứ đạo lý, đây là sinh ra các thứ nghĩa lý, nên gọi là Bản mẫu.

Dưới đây sẽ giải thích riêng ba tạng. Trước nêu riêng ba câu hỏi.

Sau, theo thứ lớp giải thích:

Đầu tiên là giải thích Khế Kinh:

“Nếu ở chỗ này cho đến gọi là Khế kinh, nghĩa là dựa vào TỳBà-Sa giải thích về sự khác nhau của ba tạng, hoặc giải thích về Định, gọi là Tu-Đa-La. Hoặc nói các thứ thuyết xen lẫn, gọi là Tu-đa-la v.v… Nay, thì thích hợp với các thứ thuyết xen tạp, gọi là Khế kinh, nghĩa là dựa vào bốn sự, chín sự, hai mươi chín sự, để chia ra hai môn.

Thế nào là bốn việc? Bốn việc là:

  1. Sự lắng nghe hai tuệ Văn, Tư.
  2. Sự quy thú, tức là ba quy y.
  3. Sự tu học, tức ba học.
  4. Sự Bồ-đề, tức là ba mươi bảy phẩm.

Bốn thứ hạnh tích: Xa-matha, Tỳ-Bát-Xá-Na v.v… có thể được sự Đại Bồ-đề. Trong luận Hiển Dương cũng nói bốn việc này, cho nên bài tụng kia chép: nghe nương tựa học Bồ-đề

Trong chín Sự:

  1. Sự thi thiết hữu tình, tức là năm uẩn.
  2. Cái mà hữu tình kia thọ dung, tức là mười hai xứ, sáu căn, sáu trần thọ dụng lẫn nhau.
  3. Sự sinh khởi của hữu tình kia, tức mười hai chi hữu.
  4. Hữu tình kia sinh rồi trụ, tức là bốn cách ăn.
  5. Sự nhiễm, tịnh, tức là bốn đế: Khổ và Tập là nhiễm, diệt và đạo là tịnh.
  6. Sự sai khác kia, tức năm thứ giới: Hữu tình giới, khí thế giới, pháp giới, Điều phục hữu tình giới và Điều phục phương tiện giới.
  7. Sự năng nói, tức là Chư Phật.
  8. Sự được nói, tức là các pháp.
  9. Sự chúng hội, có tám chúng. Trong người có bốn chúng: Sát-lợi;

Sa-môn; Bà-la-môn; Trưởng giả. Trời có bốn chúng

  1. Trời Tứ thiên vương.
  2. Ba mươi ba trời.
  3. Trời Diệm ma.
  4. Trời Phạm chúng.

Trong hai mươi chín sự, bốn sự trước là nhiễm, nghĩa là dựa vào phẩm tạp nhiễm, có sự nhiếp các hạnh, tức là năm uẩn. Tùy chuyển thứ lớp kia, tức là duyên sinh, ba là nhân chấp, bốn là pháp chấp. Do hai chấp này làm nhân của lưu chuyển ở đời vị lai.

Dưới đây, có hai mươi lăm sự là tịnh, bốn trong số đó là pháp thiện thế gian, nghĩa là dựa vào phẩm thanh tịnh, có người buộc niệm sở duyên, tức là văn tuệ của cõi Dục. Buộc tâm làm cảnh của bốn niệm xứ.

Sự siêng năng, tinh tấn, tức là Tư tuệ. Sự tâm an trụ, tức là được thiền Vị Chí. Sự quán pháp lạc, trụ, tức là được thiền căn bản. Dưới đây, có hai mươi mốt sự là tịnh xuất thế, một trong số đó là phần giải thoát. Bốn là thuận quyết trạch phần. Bốn là kiến đạo, sáu là tu đạo. Bốn là đạo Vô học. Hai sự sau, xét lường nói lên sự thù thắng, vượt qua tất cả khổ “duyên” sự phương tiện, là thuận với thiện giải thoát phần. Niết-bàn và chung sinh kia, là lìa duyên khổ, nên gọi là siêu việt tất cả “duyên” khổ. Thiện của giải thoát phần là phương tiện kia. Kế là, nói về thuận quyết trạch tức là biết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo. Biết khổ có ba:

  1. Y xứ điên đảo biết được khổ cõi Dục.
  2. Tà hạnh y xứ, biết khổ cõi Sắc.
  3. Bên trong lìa chỗ nương tựa của tăng thượng.

Sự tu y xứ, đây là dứt tập. Sự tác chứng tu tập, tức là chứng diệt, tu đạo. Dưới đây, trong phần nói kiến đạo, nay, sự bền chắc kia, nghĩa là hoàn toàn kiến đạo, không bao giờ lui sụt thành phàm phu, nên gọi là vững chắc.

Sự hành tướng kia, là tướng kiến đạo. Sự sở duyên kia, tức sự sở duyên kiến đạo.

Sự đã dứt, chưa dứt, quán sát khéo léo, nghĩa là quán sát kiến hoặc trong tướng kiến đạo đã dứt, tu hoặc chưa dứt.

Tu Vị có sáu, nghĩa là sự tán loạn kia: Đã xuất kiến đạo, chưa nhập tu đạo, trung gian dần khởi tâm tán loạn. Sự không tán loạn, sự y xứ không tán loạn, hai thứ này đều là sự định, là đạo phương tiện đạo tu hoặc cõi Dục. Sở y không tán loạn, nghĩa là trừ một số định, pháp đồng thời khác không xả bỏ.

Sự tu tập gia hạnh vất vã, tức là đạo vô ngại dứt tu hoặc cõi Dục.

Sự tu tập thắng lợi, nghĩa là được vô ngại lìa sắc, Vô Sắc. Sự bền chắc kia kia, tức tâm Kim cương.

Vô học có bốn:

  1. Sự Nhiếp hạnh Thánh, nghĩa là như lý trí tận vô sinh trí.
  2. Sự nhiếp quyến thuộc của hạnh Thánh, nghĩa là trí như lượng, trí tận vô sinh.

Sự thông đạt chân thật, nghĩa là muốn nhập Vô dư, nên quán sự chân thật.

Sự chứng đắc Niết-bàn, nghĩalà muốn nhập Vô dư, trước nhập diệt định, thì trong tâm Lại-da ở diệt định mà Bát Niết-bàn.

Sự khéo nói pháp đến sự Kiến Đảnh trong Tỳ-nại-da, là nói ý nói về tu thiện giải thoát phần của phẩm hại trước, vượt lên chính kiến đãnh phẩm thượng của ngoại đạo.

“Và tức ở nơi đây, cho đến “nên gọi là lui sụt”, nói về ngoại đạo kia không tu thiện giải thoát phần, thì gọi là lui mất, chư chẳng phải lỗi lầm hiện khởi tà kiến, gọi là lui sụt. Nếu khởi định Vị Chí, định căn bản của Văn tư về trước, phước thiện của thế gian cũng gọi là lui sụt. Đây là nên được, không được, là chưa được lui sụt.”

Kế là giải thích về điều phục. “Nếu ở chỗ này đến, gọi là điều phục”, nghĩa là nếu nói phương tiện trước, sau của giới biệt giải thoát. Ngôn giáo như thế đều gọi là điều phục. Nói bảy tướng. Luận sư Cảnh nói: “1/ Nói thọ già giới; 2/ Nói thọ tánh giới; 3/ Nói duyên phạm giới; 4/ Nói phạm tánh tội; / Nói sự trì giới; 6/ Nói sự vi phạm xong có khả năng xuất ly; / Nói sự xả luật nghi đối với người có thức.

Nay giải thích:

  1. Nói thọ nghi thức giới.
  2. Nói tội nặng căn bản.
  3. Nói duyên phạm giới.
  4. Nói phàm phu có phạm tự tánh.
  5. Nói Bực Thánh không có phạm tự tánh.
  6. Nói sự ăn năn lỗi lầm.
  7. Nói xả giới.

Dưới đây, là giải thích Bản mẫu: 1. Nêu chung, mười một tướng; 2. Giải thích theo thứ lớp.

Trước là nói về tướng tục có ba:

  1. Nói về sác thủ thú.
  2. Nói chấp có Biến kế sở chấp.
  3. Nói sự nghiệp tác dụng của y tha.

Thứ hai, là tướng Thắng nghĩa, nghĩa là nói bảy chân như. Thứ ba, tướng sở duyên của pháp Bồ-đề phần, tức là nói tất cả sự của sở tri.

Thứ tư, là nói về hành tướng, nghĩa là nói tám hành:

1. Đế thật, nghĩa là các pháp Như.

2. An trụ “cho đến hoặc lại an lập sự khác nhau của ẩn mật, hiển liễu”, thọ ký khác nhau.

Ẩn Mật thuyết, nghĩa là có người hỏi ta với thế gian là thường hay vô thường v.v…? Ta chỉ bảo họ rằng: “Ta nói điều này không thể nói”, gọi là ẩn mật thuyết.

Hiển liễu thuyết, nghĩa là có người hỏi đúng như pháp, lại thọ ký đúng v.v… như pháp.

3. Lỗi lầm.

4. Công đức như văn.

5. Lý thú phải biết có sáu thứ, lý thú của ý thú thứ sáu, tức là bốn ý, như thời ý v.v…

6. Lưu chuyển. Nói ba tướng hữu vi, nghĩa là lấy trụ, dị hợp nói. . Đạo lý, có bốn đạo lý.

7. Đạo lý quán đãi, nghĩa là hoặc nhân, hoặc duyên có khả năng sinh các hành v.v… : Các hành nếu muốn sinh, quán nhân duyên chờ đợi. Và muốn nói cũng đợi nói nhân.

8. Đạo lý tác dụng, nếu các nhân duyên thì có thể được các pháp: Như sáu căn chứng đắc sáu trần, đều có tác dụng. Hoặc có thể thành xong, như bốn đại chủng, mỗi đại chủng đều có thể hoàn thành tác dụng của mình. Hoặc lại sinh rồi, tạo nên các nghiệp dung, nghĩa là tùy theo là nhân của pháp nào sinh xong, tác động các nghiệp dung.

1- Chứng thành đạo lý, nghĩa là nếu nhân duyên có thể khiến cho nghĩa đã lập, đã nói, đã tiêu biểu, được thành lập, khiến cho giác ngộ đúng, nghĩa là do ba chi, khiến cho nghĩa giải thích được thành lập, sao cho kẻ chống đối luận, sinh giác ngộ đúng.”

Lại giải thích: Nêu Nhân, Dụ kia, để cho nghĩa của Tông đã lập được thành lập, đây là nói lược. Kế sẽ giải thích rộng.

Lại, chứng thành đạo lý, lược có hai thứ:

  1. Thanh tịnh.
  2. Không thanh tịnh.

Do năm tướng, gọi là thanh tịnh:

2- Hiện hành, thấy tướng sở đắc, nghĩa là tất cả hành đều là tánh vô thường v.v… đây là cái hiện lượng của thế gian được, gọi là tướng hiện đã được.

Y cứ vào khổ sinh tử vô thường ép ngặt v.v… của một thời kỳ thô, có hành vi đã tạo nên các tánh như vô ngã v.v… không được tự tại, gọi là hiện lượng của thế gian đã được.

3- Y chỉ hiện thấy tướng sở đắc, nghĩa là tất cả hành đều có tánh sát-na, là một môn. Tánh có của đời khác là thứ hai. Nghiệp tịnh bất tịnh, không có tánh mất mát hư hoại là thứ ba. Đây là nêu năng nương tựa vào pháp đã so sánh biết, do người kia hay dựa vào tánh vô thường thô, nặng, vì hiện có thể được. Tánh vô thường thô của một thời kỳ tử sinh, tất nhiên dựa vào vô thường của sát-na vi tế. Đã có chủ thể nương tựa tánh cô thường thô, phải biết rằng, ắt có vô thường tế sát-na. Do các thứ khác nhau của hữu tình, đều dựa vào các nghiệp thiện, ác mà được. Nay, các hữu tình lại làm ác việc thiện, ác, so sánh mà biết đời khác có tánh khổ, vui. Do nghiệp tịnh, bất tịnh, hoặc vui, hoặc khổ của các hữu tình, dùng làm y chỉ, vì hiện có thể được, nghĩa là hiện thấy nổi khổ, vui mà hữu tình phải chịu, dựa vào nghiệp thiện. ác. So sánh biết nghiệp tịnh, bất tịnh, tất nhiên sẽ dẫn đến quả, không có mất mát, hư hoại.

4- Thí dụ tự loại, đã dẫn phát tướng, nghĩa là dẫn chứng đời biết chung trong nhóm của các hành bên trong, ngoài, đã bị sinh tử để làm thí dụ, nghĩa là nặng, thành dùng vô thường thô để dụ cho vô thường tế, gọi là tự loại. Dẫn điều mà thế gian biết chung đã bị các tướng khổ dùng làm thí dụ, nghĩa là lại thành dùng khổ khổ thô để thí dụ cho hành khổ tế, gọi là tự loại.

Dẫn tướng không tự tại mà người đời đều biết để làm thí dụ, nghĩa là nặng trở thành tướng không tự tại mà người đời đều biết để dụ cho vô ngã tế.

Lại nữa, “ở ngoài đến dùng làm thí dụ “nghĩa là nêu lại tướng thô thịnh, suy, dụ cho vô thường tế.

5- Tướng Viên Thành Thật: “Tức “Như thế, cho đến gọi là tướng Viên thành thật, nghĩa là dựa vào ba lý ở trước để lập nghĩa quyết định, gọi là Viên thành thật.

6- Tướng ngôn giáo thanh tịnh thiện, như văn, rất dễ hiểu.

“Tướng Nhất Thiết Trí có bao nhiêu?” Trở xuống, nhân hỏi đap, nói về tướng của Nhất thiết trí, đại khái có năm thứ, trước nói sau kết.

Nói “Vì sinh như thế”, là kết đầu.

Nếu có đấng Nhất thiết trì xuất hiện thế gian, thì tiếng tăm đều vang khắp. Kết bốn câu còn lại rất dễ hiểu. Này người thiện nam! Đạo lý chứng thành như thế, do hiện lượng, là kết tướng đã được hiện thấy trên.

“Do tỉ lượng”, nghĩa là kết ba tướng kế đó, Y chỉ hiện thấy tướng sở đắc. Tự loại, là dụ cho tướng được dẫn.

“Tướng Viên thành thật, do Thánh giáo lượng”, nghĩa là kết tướng duyên ngôn giáo thanh tịnh thiện thứ năm kia: Ba thứ như thế, do năm thứ tướng, gọi là thanh tịnh.

Kế là, nói không thanh tịnh do bảy thứ tướng, phải biết Nhân minh, vì trong nhân nói không thành, không định. Và nêu trái nhau không thành. Trái nhau đều có bốn, Bất định có sáu, mỗi pháp đều giải thích riêng. Như vua Thương-Yết-La có soạn đã sáng tạo luận Tiểu Nhân Minh. Bảy tướng đã nói trong đây, tương đương với luận kia thì đâu có lỗi gì?

Luận sư Cảnh nói: “Nay, trong văn này tương đương với năm, trong sáu bất định kia, trừ quyết định trái nhau:

1.  Tướng có được của đồng loại khác này: tướng này tương đương với chuyển một phần của đồng phẩm, chuyển khắp các phẩm khác, như nói tiếng chẳng phải siêng năng, mạnh mẻ, không gián cách đã phát ra, vì nhân là nói tánh vô thường nên chẳng phải siêng năng, mạnh mẻ, không gián đoạn mà phát ra. Tông lấy điện, hư không làm đồng phẩm. Nhân tánh vô thường đối với điện thì “có”, với hư không thì “không”. Dùng bình v.v… làm phẩm khác. Nhân của tánh vô thường đối với có khắp của hư không kia.

Nay, trong văn này chỉ nói vì chuyển một phần của đồng phẩm, nên nói, đồng loại khác này có thể được. Trong đồng phẩm ngoài tông này, có nhân của tánh vô thường này có thể được, nên nói khác với đây.

2. Tướng có thể được của dị loại khác này, tức là chuyển một phần của phẩm “dị”, chuyển khắp của đồng phẩm. Như nói: “Tiếng là siêng năng, mạnh mẽ, không gián đoạn đã phát”. Nhân nói rằng: “Vì tánh vô thưòng”. Tông này lấy bình v.v… làm đồng phẩm. Nhân tánh vô thường, chuyển khắp hư không kia. Dùng điện, hư không làm phẩm dị. Tánh vô thường kia nhân đối với điện là “có”, đối với hư không thì “không”. Một phần của phẩm dị ngoài Tông này được có nghĩa của tánh vô thường, nên nói rằng, dị loại khác này có thể được. Lược qua không nói có khắp của đồng phẩm.

3. Tướng có thể được của tất cả đồng loại: Tức là cộng, bất định. Như nói: “Tiếng là thường, vì tánh bị so lường. Nhân này đối với đồng phẩm, phẩm khác đều có. Nay trong văn này, lại nói đồng phẩm, có thể được.

4. Tướng có thể được của tất cả loại khác, tức là bất cộng. Như nói: “Tiếng thường là vì bị nghe, không có đồng pháp dụ, chỉ có dụ khác, vì ngoài tiếng, đều chẳng phải bị nghe, nên nói rằng tất cả loại khác có thể được.

5. Sở đắc của thí dụ loại khác, tức là chuyển một phần của Câu phẩm. Như nói “Tiếng là thường, vì không có chất ngại v.v… vì chuyển một phần của đồng phẩm, phẩm khác cũng có chuyển một phần, nên nói là tướng sở đắc của thí dụ loại khác.

6. Chẳng phải tướng Viên thành thật, nghĩa là chi Nhân không đủ, gọi là chẳng phải Viên thành.

7. Chẳng phải là tướng ngôn giáo thanh tịnh, thiện, như lập tiếng là thường, vì tánh sở tác. Nhân này chỉ “có” ở trong phẩm khác, nên ó thể lập ngôn giáo chẳng phải thiện, thanh tịnh.

Trên đây, là nêu danh. Dưới đây trong giải thích, trước giải thích thứ ba, nói: “Nếu tánh được nhận thức của ý thức tất cả pháp gọi là tướng có thể được của tất cả đồng loại. Như lập: “Tiếng là thường, vì là nhận thức của ý thức.”

“Nếu vậy, thì ý thức nhận thức tất cả các pháp. Vì như hư không là ý thức nhận thức, nên tiếng là thường kia, hay vì như bình v.v… là ý thức nhận thức, nên tiếng là vô thường?

Nói “Nếu tướng khác của nhân quả, của pháp nghiệp tướng tánh của tất cả pháp” v.v… đến “gọi là tướng có thể được của tất cả loại khác, đây là giải thích chuyển một phần của Câu phẩm thứ năm. Như Thinh Luận sư lập: “Tiếng là thường, vì không có tánh chất ngại. Tông thường lấy hư không cực vi làm đồng phẩm. Nhân không có chất ngại này đối với hư không thì có, với cực vi thì không. Lấy bình, lạc v.v… làm phẩm khác. Nhân không có chất ngại này đối với lạc thì có, với bình thì không, nên nói: “Do tùy ở tướng của đồng phẩm, khác xoay vần một phần như thế, là gọi là tướng có thể được của loại đồng, khác còn lại.

Nói “Nếu quyết định xoay vần đều là tướng khác, gọi là tướng có thể được của tất cả loại khác. Đây là giải thích tất cả loại khác thứ tư có thể được, đó là bất cộng, bất định, như nói tiếng thường, tánh bị nghe v.v…

“Này người thiện nam! Cho đến “là gọi là chẳng phải tướng Viên thành thật”, đây là giải thích thứ nhất, tướng có thể được của đồng loại khác này, tức là chuyển một phần của đồng phẩm, chuyển khắp của phẩm khác.

Nói “Lại, đối với tướng có thể được của dị loại khác cho đến “Cũng gọi là chẳng phải Vien thành thật”, đây là giải thích thứ hai.

Tướng có thể được của dị loại khác này và tướng của tất cả đồng loại trong thí dụ, tức là chuyển một phần của phẩm dị, chuyển khắp của đồng phẩm.

Nói “Chẳng phải Viên thành thật, nên chẳng phải khéo quán sát đạo lý thanh tịnh, vì không thanh tịnh, vì thế không nên tu tập”. Đây là giải thích thứ sáu, chẳng phải tướng Viên thành thật, lý không đủ của chi nhân, không thanh tịnh, không nên tu tập.

Nói “Nếu thí dụ loại khác, đã dẫn tướng cho đến “thể tánh đều không thanh tịnh”, đây là giải thích thứ bảy, chẳng phải tướng ngôn giáo thanh tịnh thiện. Như lập: “Tiếng là thường, vì là tánh sở tác (tánh làm ra), dùng hư không làm đồng phẩm, điện, bình làm phẩm “khác”. Nhân này chỉ “có” ở trong phẩm “khác”, nên nói “tướng mà thí dụ loại khác đã dẫn.

Pháp sư Thái nói: “Câu thứ nhất lập nhân không thành, như lập tông: “Uẩn chung là vô thường”. Nhân nói là vì ý thức đã nhận thức. Nhưng vô vi đồng là pháp mà ý thức đã nhận thức, vì chẳng phải vô thường.

Câu thứ hai, như lập Tông: “Tiếng là vô thường, nhân rằng: “Vì bị nhĩ thức nghe”. Nhưng pháp loại khác sắc, hương v.v… chẳng phải đối tượng nghe của nhĩ thức, nhưng vì là vô thường, nên lập nhân không thành. Nếu lập Tông rằng: “Tiếng là thường. Nhân: “Vì từ nhân sinh” nhưng lại không có loại khác, không lấy nhân sinh pháp, vì là vô thường, nên loại khác không thật có.” Luận sư Bị nói:

1. Giải thích tướng thứ ba.

2. Giải thích tướng thứ tư, tức bất định cộng.

3. Giải thích tướng thứ nhất, tức là chuyển một phần của đồng phẩm, chuyển khắp thí dụ của phẩm khác, vì đối với Tông đã lập chẳng phải quyết định, nên gọi là chẳng viên mãn.

4. Giải thích tướng thứ hai, tức là chuyển một phần của phẩm khác, vì chuyển khắp thí dụ của đồng phẩm, nên về tông đã lập cũng không quyết định.

5. Giải thích tướng thứ sáu.

6. Giải thích tướng thứ năm và tướng thứ bảy, như thứ lớp đó, vì loại khác đã dẫn, nên chẳng phải ngôn giáo thiện, thể tánh đều không thanh tịnh.

Luận sư Cảnh nói: “Bốn câu đầu trong bảy tướng này gồm thu năm bất định, nghĩa là câu thứ nhất, gồm thu chuyển một phần của phẩm đồng, chuyển khắp và chuyển một phần của câu phầm. Câu thứ hai là chuyển một phần của dị phẩm, chuyển khắp đồng phẩm.

Câu thứ ba, gồm thu cộng bất định.

Câu thứ tư, gồm thu bất cộng, bất định.

Thứ năm, “tướng sở đắc của thí dụ loại khác”, nghĩa là tự tướng của pháp gồm thu trái nhau.

Thứ sáu, chẳng phải tướng Viên thành thật, nghĩa là gồm thu bốn bất thành.

Thứ bảy, chẳng phải tướng ngôn giáo thanh tịnh thiện, tức gồm thu các lỗi khác.

Bốn đạo lý pháp nhĩ. Đức Như lai xuất thế, cho đến “gọi là đạo lý pháp nhĩ”, nghĩa là tánh thường cứng của đất, cho đến tánh thường động của gió. Vì thiện chiêu cảm báo vui, ác mắc phải quả khổ, nên nói “có Phật, không Phật, Pháp tánh, vẫn an trụ, pháp trụ, pháp giới.”

Y cứ trong hành tướng, đã nói thứ bảy. Kế là, giải thích chung, riêng thứ tám, nghĩa là nêu chung một câu, các câu sau sau, giải thích rộng, sáng suốt rõ ràng nghĩa rất dễ hiểu.

Y cứ trong giải thích về mười một tướng của Bản mẫu. Giải thích chung về môn hành tướng thứ tư đã xong. Kế là giải thích về tướng tự tánh thứ năm, nghĩa là “ta đã nói cho đến “gọi là tướng tự tánh”, nghĩa là nói có hành, có duyên v.v… trong Bản mẫu, tức là nói tướng của tự tánh Niệm trụ v.v…

Giải thích thứ sáu, về tướng của quả kia, nghĩa là dứt trừ các phiền não của thế gian, xuất thế gian, nghĩa là được thế tục hàng phục, dứt trừ phiền não. Đạo xuất thế dứt trừ hẳn phiền não. Đây là nói về đoạn đức và đã dẫn phát công đức của các quả xuât thế: Đây là nói về Trí Đức.

Thứ bảy, lãnh thọ kia khai thị. Tướng, nói là ở nơi kia, đến “giảng nói mở bày, nghĩa là dùng trí giải thoát lãnh thọ công đức mà trí đoạn đã được, vì người khác giảng nói.

Thứ tám, là nói về tướng của pháp chướng ngại kia, rất dễ hiểu.

Thứ chín, tướng của pháp thuận theo kia, nghĩa là đối với kia phần nhiều có pháp sở tác, nghĩa là đối với Niết-bàn, tu pháp thuận theo, phần nhiều có sở tác, gọi là thuận theo kia.

Thứ mười, tướng lỗi lầm kia, tức là pháp chướng ở trước có thể làm tai hại lỗi lầm.

Thứ mười một, tướng thắng lợi kia, là tất cả công đức của pháp năng thuận theo ở trước đã có.

Đoạn thứ sáu, nói về nghĩa Đà-la-ni không chung, trong đó, trước thưa hỏi, sau đáp. Trong phần đáp gồm có văn xuôi và tụng.

Trong văn xuôi, trước chỉ này thừa nhận thuyết. 2- Chính là giải thích. 3- Lược kết.

Trong chính giải thích, có ba câu:

1/ Nói pháp nhiễm, tịnh đều không có tác dụng v.v… tức phá Phệ Thế Sư lập tác dụng thật và phá thật tánh, chấp thật có ngã, chẳng phải không có tác dụng giả và giả thiết thường thú hướng, nghĩa là ở lại trong pháp Phật, người mới tu học, chấp tạp nhiễm của khổ, tập, ở trước nhất định có. Chấp pháp diệt, đạo, về sau được. Như bức họa lờ mờ kia là Biến kế sở chấp rốt ráo không có tự “thể”, đâu có trước, sau? Nếu y cứ nhân duyên nhiễm, tịnh của y tha thì chẳng phải không có trước, sau.

Kế là, nói “Phàm phu Di sinh v.v… cho đến chuyển tà gia hạnh, nghĩa là năm uẩn của phàm phu kèm theo phiền não không điều hòa, nhu thuận, gọi là thân thô nặng. Đối với thân thô nặng, chấp mắc tự tánh khác nhau của Nhân, Pháp. Do hạt giống của tùy miên túc tập kia và chấp giả dối làm duyên, nên chấp ngã, ngã sở, năng thấy nghe v.v…

“Nếu có như thật” trở xuống, kế là, nói, nếu biết chấp giả dối, thì có thể dứt trừ hẳn Thân thô nặng, đạt được tất cả phiền não bất trụ v.v… nghĩa là Niết-bàn gọi là phiền não bất trụ.

Trong phần tụng có ba bài tụng, như thứ lớp tụng, văn xuôi ở trước, chính là giải thích ba câu.

Thứ bảy, là nói về thân thọ dụng, tướng sinh khởi của tâm, có hai hỏi đáp:

  1. Hỏi, đáp, nói chung về tâm Phật sinh khởi.
  2. Hỏi đáp nói Chư Phật dù không có gia hạnh, nhưng Xa do phương tiện địa bên trong, vì năng lực gia hạnh của Bát-nhã, nên có tâm sinh khởi, có pháp, dụ, hợp.

Thứ tám, là nói về nghĩa có tâm. Có tâm, không có tâm biến hóa. Vì tâm không thể biến hóa, nên hóa thân Phật không tự nương tựa tâm, nhưng dựa vào tâm Phật thọ dụng, vì đối với “duyên” lợi vật, nên nói rằng có tâm Y tha.

Thứ chín, nói về hai tướng khác nhau: Cảnh giới của Như lai, sở hành của Như lai. Trong đây y cứ “duyên” tịnh độ của Chư Phật, gọi là sở hành của Như lai. Y cứ “duyên” sự lợi ích hữu tình của năm cảnh vô lượng, gọi là cảnh giới của Như lai.

Thứ mười, là nói về ba thứ thành Chánh giác, chuyển pháp luân và Đại Niết-bàn trong tám tướng, đều không có hai tướng. Ý nói là pháp thân của đức Như lai không có ba tướng này, đối với “duyên” biến động, gọi là rốt ráo tịnh. Hóa thân của Như lai đối với “duyên” biến động, vì thường thị hiện, nên có ba tướng này.

Thứ mười một nói về Đức biến hóa của Phật xa sinh ra phước cho người. Ý hỏi “Pháp thân Như lai và Thân tự thọ dụng, chúng sinh không thể thấy, nghe, thờ phụng, có nhân duyên gì đối với các hữu tình?”

Trong phần đáp, Luận sư Cảnh nói: “Như lai là nhân duyên của sở duyên tăng thượng kia, nên Xa sinh phước người người. Xa, do pháp thân trụ trì Hóa thân, nên hai thân kia cũng sinh ra phước cho người. Pháp sư Thái nói: “Đức Như lai là Trí tuệ của thân thọ dụng, do trí tuệ, nên hóa thành sắc, thinh. Dùng sắc thinh của Như lai làm duyên tăng thượng. Tâm thức của chúng sinh có tướng giống với sắc thinh của Như lai khởi, chính là sở duyên sắc, thinh của Như lai, chỉ là sở duyên tăng thượng, chẳng phải thân sở duyên. Trí tuệ của Như lai là nhân duyên của sở duyên tăng thượng kia, do thân có khả năng biến hiện thành sắc, thinh.”

Thứ mười hai, nói pháp thân của Như lai đối với thân giải thoát của Nhị thừa, để nói về sự khác nhau của thân đó.

Luận sư Cảnh, Bị đồng nói: “Pháp thân Như lai vì các hữu tình, phát ra ánh sáng trí tuệ rộng lớn và vô lượng ảnh tượng của hóa thân, nghĩa là đều y cứ vào duyên xa Tăng thượng để nói. Từ thân thọ dụng phát ra hóa thân v.v… tức là Thân duyên khởi (duyên khởi gần).

Nói “Vì rằng, hữu tình đại oai đức đã trụ trì của Thiên, tử, mặt trời, mặt trăng, nên phát ra ánh sáng rực rỡ. Đây là so sánh oai đức lớn của Chư Phật, vì đã chứng pháp thân, nên có thể hiện ra ảnh tượng của hóa thân kia.

Vì sức tăng thượng của nghiệp các hữu tình là duyên thứ hai. Do các hữu tình bị đen tối, tu nghiệp ánh sáng, vì năng lực tăng thượng, nên cảm báu Phả chi ca của mặt trời, mặt trăng kia, nên phát ra ánh sáng rực rỡ, chứ chẳng phải báu Phả chi ca, nước, lửa khác có thể phát ra ánh sáng dụ cho Nhị thừa chứng thân giải thoát, vì không có hai dụng ở trước.

Thứ mười ba, là nói oai đầy đủ của Phật, Bồ-tát trụ trì hoặc đạo, hoặc hạnh, nay các hữu tình đối với thân mạng, tài sản trong ba cõi được viên mãn.

Đạo, nghĩa là mười nghiệp thiện hành, là diệu hạnh của thân, ngữ, ý v.v… Đức Như lai biết rõ đạo này, hạnh này là nhân của thân mạng, tài sản vì hữu tình kia nói về đạo, hạnh này. Người thuận theo giáo tu, ở tất cả chỗ, được thân mạng, tài sản đều viên mãn.

Y cứ nghĩa như thế, gọi là oai đức trụ trì.

Hỏi: “Cõi Dục, cõi Sắc có thể như thế, cõi Vô Sắc đâu có của báu?”

Giải thích: “Chánh báo trong cõi Vô Sắc, gọi là thân sức định biến ra, gọi là tài.” Lại giải thích: “Thân có ở cả ba cõi, tài chỉ ở cõi Dục, cõi Sắc, gọi là chung là thân, tài của ba cõi. Thứ mười bốn, là nói về cõi nước ô uế, có tám sự dể được, hai sự khó được. Tịnh độ thì trái lại, hai sự này dễ được, tám sự khó được, như văn rất dễ hiểu. Dưới đây, là đặt tên, thời gian, ích lợi rất dễ hiểu.

BẢN LUẬN QUYỂN 79

Trên đây, đã lựa chọn trì Du-già đầu tiên xong. Dưới đây là, thứ hai, lựa chọn trì tùy theo pháp của Du-già. Xứ này có bốn phẩm, trong đó chỉ có phẩm quyết trụ. Vì ba phẩm trước dễ, nên không lựa chọn.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Một chương đầu này lại lựa chọn năm nghĩa vô lượng trong phẩm Công Đức.

Dựa vào bốn thứ trụ trở xuống, chính là quyết định tùy pháp Dugià. Dù có thuyết này,nhưng nay, theo Luận sư Cảnh phán quyết như trước, trong đó, đầu tiên, nhắc lại trước đã xong. Kế chính là lựa chọn. Văn chia làm chín. Trước là nói về sự khác nhau của thế giới. Luận sư Cảnh nói: “Trong thế giới thanh tịnh không có Na-Lạc-Ca, bàng sinh, quỷ cũng không có ba cõi, cũng không có khổ thọ, chẳng nói không có người, trời. Đây là tịnh độ thừa nhận có Bồ-tát làm thân người, trời, mà chẳng hệ thuộc ba cõi.

Đã nhập Tam địa, Bồ-tát do sức nguyện, nên thọ sinh ở tịnh độ. Có văn nói: “Sơ Địa trở lên, đều được vãng sinh, vì sao trong đây nói là địa thứ ba?”

“Vì y cứ ở tướng, Tam địa được định, dựa vào định tu quán, mới được vãng sinh, nên nói như thế. Không có phàm phu và chẳng phải phàm phu, Bồ-tát được sinh về cõi tịnh kia, đây là y cứ ở Tịnh độ thật báo để luận. Dưới đây, chung cho kinh khác.”

Hỏi: “Nếu không có phàm phu, Bồ-tát và chẳng phải phàm phu, Nhị thừa đều được sinh về cõi kia, thì vì sao trong giáo Bồ-tát nói ý nguyện của Bồ-tát đều sẽ vãng sinh về tịnh độ kia?

Đáp: “Vì hóa độ chúng sinh lười biếng, vì muốn cho họ chứa nhóm thiện căn, nên mật ý nói.”

Pháp sư Thái nói: “Về lý, thật mà nói, Bồ-tát Sơ Địa, Nhị địa cũng được sinh về tịnh độ kia. Nay, y cứ tịnh độ, Bồ tát Tam địa trở lên không có dục, dục, được sinh về tịnh độ kia. Chỉ nói Tam địa sanh về Tịnh độ, không có phàm phu và. Bậc Thánh Nhị thừa, Bồ-tát phàm phu, đều được sinh về tịnh độ. Nếu Nhị thừa trụ vắng lặng, thì nhập vô dư. Nếu Nhị thừa phát tâm Bồ đề thì thuộc về Bồ tát, cho nên bậc Thánh Nhị thừa trụ vắng lặng hoàn toàn bất sinh. Bồ-tát Địa tiền phàm phu, hoàn toàn bất sinh. Dưới đây, là chung với ý kinh, chỗ khác nói: “Nếu Bồ-tát v.v… và ý nguyện của Nhị thừa, đều sẽ vãng sinh về cõi kia, Như lai vì biệt thời ý, nên nói như thế.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Văn này chính là Kinh Thâm Mật Giải thoát nói không có phàm phu, Nhị thừa v.v… ở tịnh độ. Về văn, xưa nay, mười giải như chân đế v.v… trở lên, dứt trừ nhân chấp, gọi là bậc Thánh. Nghĩa này không đúng. Theo luận này v.v…, gọi là phàm phu, cũng chưa dứt “hoặc”.

“Nếu không có phàm phu” v.v… trở xuống, là hỏi đáp, phân biệt dẫn kinh để hỏi. Kinh nói “Mười niệm, niệm Phật A-Di-Đà được sinh về nước kia”, vì sao nay nói rằng, địa thứ ba mới sinh ư?”

Đáp: “Vì ý văn phân biệt rõ về thời gian, ý, nên nói sinh Tịnh độ phàm phu không thể sinh ngay. Cho nên Nhiếp Luận và luận Hiển Dương, luận Đối Pháp v.v… đều cho rằng các kinh nói phàm phu sinh tịnh độ, đều y cứ vào thời gian, khác để nói, chứ chẳng phải thật sinh ngay.

Biện luận về tịnh độ kia có ba thứ:

1. Cõi nước tự thọ dụng.

2. Hóa độ, nghĩa là Vô Lượng Thọ v.v…

3. Tạm hóa tịnh độ, nghĩa là tướng tịnh tạm hóa trong cõi uế như kinh Duy-ma nói: “Ấn ngón chân xuống đất bày tướng tịnh độ”, vì các đức phần nhiều khởi tranh luận: Có thuyết nói: “Giáo hóa tịnh độ lâu có nơi chốn riêng. Như chín phẩm vãng sinh của nước Cực Lạc”.

Có thuyết nói không có nơi chốn riêng, mặt tình lấy, bỏ.

Thứ hai, nói Bồ-tát dựa vào bốn trụ, có thể thành bốn sự. Luận sư Cảnh nói: “Hoan hỷ trụ, giới trụ, tâm trụ trong bốn trụ, phối hợp với Tam địa trước. Tuệ trụ, tức ở Tứ, Ngũ, Lục địa, được pháp Bồ-đề phần ở địa thứ tư. Các đế ở ngũ địa, duyên khởi ở Lục địa. Trí an lập khéo léo của pháp không chung vượt qua trí mà Nhị thừa cùng chứng chung, nghĩa là Tứ, Ngũ, Lục địa tương đồng với Nhị thừa. Thất địa trở lên vượt qua Nhị thừa, nên nói vượt qua trí mà Nhị thừa đã chứng chung, tức trí an lập của pháp không chung trong đây, nghĩa là đến “Và trí an lập đế: Thất địa trở lên, quán khắp an lập và trí của hai đế phi an lập.

Trí đã được chung trong đây, nghĩa là dựa duyên khởi đã được trí chứng, nghĩa là y cứ vào chỗ sau cùng kia, chỉ nói là đạo lý duyên khởi. Trí của phẩm đạo của địa thứ tư, trí của bốn đế địa thứ năm, đều là trí chung. Đây là nói về trí chứng chung đã siêu việt, dựa vào Sơ Địa để thực hành bố thí. Nhị địa trì giới. Giới được thân mình, thí được của báu, nên nói “Vận vận tăng thượng, vì lợi ích hữu tình, chuyển các tĩnh lự, dùng sức nguyện lớn, sinh trở lại cõi Dục”, nghĩa là trở lại dùng nghiệp cũ của cõi Dục làm nhân nguyện và tĩnh lữ làm “duyên”, sinh trở lại cõi Dục.”

Pháp sư Thái nói: “Trong trụ thứ hai, lìa tất cả phạm giới, vì có tánh Thi-la, nên gọi là viên mãn. Lìa tất cả sự keo kiệt, nên gọi là xả viên mãn.”

Lại giải thích: “Tức là giới vì hay lìa phạm giới keo kiệt, nên gọi là giới xả.

Thứ ba, nói về tác ý, khổ vui của Bồ-tát và trụ. Trí Như lượng, gọi là tác ý. Trí như lý, gọi là Trụ. Thứ tư là nói chướng của bốn phẩm trên và cách dứt trừ chướng này. Chướng của bốn phẩm trên khởi ở Địa tiền. Nếu bất tịnh thì trừ không được nhập địa, không nhập địa căn bản. Và địa thứ lớp: là đạo phương tiện địa.

Lại giải thích: Sơ địa gọi là địa Bồ tát, Nhị địa trở lên gọi là Địa thứ lớp: một là khởi nhiễm ô phạm: là phạm giới khinh; Hai là hủy pháp Đại thừa, là một trong bốn lớp; Ba là chứa nhóm họp gốc lành: Địa tiền công hạnh chưa viên mãn, Bốn là có tâm nhiễm ái; Địa tiền tu thiện tham cầu quả nhiễm. Dưới đây là nói về cách trừ sạch bốn chướng, như thứ lớp trừ bốn chướng ở trước.

Thứ năm là nói Bồ tát Đại địa dứt trừ bốn thứ tùy hoặc nhỏ nhiệm: một là pháp ái, tức là ái trong pháp chấp, chấp giáo pháp có khởi ái trong đó. Ái thô tuy đã dứt nhưng ái tế vẫn hiện hành, tức là chướng Tứ địa, Hai là Nhị thừa tác ý, nghĩa là nhàm chán sanh tử, ưa thích nhập Niết bàn, tức là chướng ngũ địa; Ba là mê đắm Đẳng chí, là khởi ở Tam địa, chướng ngăn Tứ địa; bốn là sự nghiệp ma của chúng: Duyên theo việc đời, tâm thường rong ruổi, v.v…; chướng ngại tu quán hạnh đều là việc ma.

Hỏi: Ở trên nói tất cả phiền não của Bồ tát đại địa phải biết mới khởi tự tăng trưởng công đức, lợi ích cho người, v.v… vì sao lời này khó có thể biết khắp?

Giải thích: Trước y cứ hoặc thô phải biết mới khởi, nay y cứ hoặc để khó có thể biết khắp. Lại ở trước y cứ chướng phiền não, nay y cứ sở tri, cho nên không trái nhau.

Thứ sáu là giải thích tướng mười một địa, Bồ tát Sơ Địa vượt qua sợ hãi, được pháp vô thượng, là vượt qua năm sợ hãi, đạt được Thánh pháp. Bồ tát Nhị Địa đã được pháp nhĩ trong sự điều phục, điều phục pháp nhĩ của giới này được không có lầm phạm, v.v… ngừng dứt tất cả sở học của Nhị thừa: Thể của giới sở trì vượt hơn giới hạnh sở học của Nhị thừa, do đây mà chứng được ánh sáng của nhĩ-diệm, nhĩ diệm Hán dịch là sở tri, nhờ định lực này mà đối với cảnh sở tri phát sanh ánh sáng trí tuệ, do đây mà có khả năng như mình đã chứng tất cả Bồ đề phần pháp an lập khéo léo: Tự thành đạo phẩm, lập giáo để dạy bảo người. Ngũ địa vượt qua trí thế gian của ba địa trước. Lại vượt qua trí đạo phẩm của Tứ địa. Nhị địa. Lục địa đối với duyên khởi có ý nghĩ nhàm chán đi đứng, đối với cõi vô tướng phần nhiều trụ ở thú hướng tác ý Bồ tát Lục địa tuy duyên cả chân tục nhưng đối với vô tướng thường riêng thú nhập. Bát địa đối với tất cả tướng được tự tại: Nhiếp luận chép: Như tướng đã mong cầu tùy ý tự tại, gọi là tướng tự tại. Lại buộc mở lẫn nhau, Bát địa biết được, trong thân khí ngoài, như đối với vi trần thành đều được tùy ý, gọi là tướng tự tại. Tướng tự tại: Vì các chúng sinh hiện các cõi nước. Định tự tại: tức là bao gồm hai thứ trước. Lại trong phần nương định, khởi các công đức đều được tự tại, gọi là Định tự tại. Lại luận Thập Địa chép: Bồ tát Bát địa trừ sắc, trần vô trí, v.v… gọi là tướng tự tại. Cửu địa đối với danh, cú văn được Tự tại: là pháp vô ngại. Lại được vô tội: nghĩa là vô ngại, nghĩa trí không mê đắm, nên gọi là vô tội. Rộng lớn vô lượng; là từ vô ngại, biết tất cả mười phương gọi là Trí, cho nên nói rộng lớn. Lại được vô ngại giải rộng lớn, cho nên có khả năng làm cho tâm của tất cả chúng sinh được vui; là lạc thuyết vô ngại Thập địa đã được tất cả Như Lai đồng sái: Sái xưa gọi là quán đảnh, như Thái tử của Luân Vương khi thọ chức của cha, lấy nước bốn biển dùng làm nước thơm rưới lên đỉnh đầu Thái tử, gọi là Đại vương Sát-lợi quán đảnh. Thập địa cũng thế, học hạnh đã tròn đầy, chư Phật mười phương phát ra ánh sáng từ đảnh đầu, đều nhập vào đảnh của vị Bồ tát Thập địa này, để thọ chức của trí Phật, cho đến Chư Phật phát ra ánh sáng dưới chân, đều nhập vào chân của vị Bồ tát này, nên nói là đã được Như lai đồng sái. Đã được như mây đại pháp thân: Chân như pháp thân và năm phần pháp thân, vì có công năng che phủ như hư không thân sanh tử thô năng. Đã được tất cả đại thần thông nên cũng gọi là Như Lai: Bồ tát Thập địa tuy chưa phải là Phật nhưng đã được thần thông rộng lớn, trụ địa vị Đẳng giác, hơi đồng với Phật, cũng hiệu là Như Lai Nhập địa thứ mười một, gọi là Diệu giác.

Thứ bảy là nói các địa tu đắc đẳng lưu thành mãn, nói trụ thắng giải hạnh địa, y theo Thập địa tu mười hạnh; Trụ ở địa tiền, mong học mười pháp hạnh của Thập địa, tức là thứ trì, v.v… gọi là tu tạo, cũng có thể mong học pháp hạnh mười độ sở tu của Bồ tát Thập Địa. Lại giải thích: mong học mười hạnh như tín, v.v… Nói lại chứng được ý lạc thanh tịnh, bấy giờ liền được tất cả các địa: luận sư Cảnh, Luận sư Bị đồng nói: hạt giống các địa đều vốn có, lúc chứng được Sơ địa, cùng lúc huân phát hạt giống các địa, đều khiến cho tăng trưởng, gọi là liền được Sơ Địa.

Lại giải thích: Sơ Địa mong tu hạnh của Thập Địa, tuy chưa viên mãn nhưng phần được Thập địa, gọi là đốn được. Các sư ở các nước phương tây chấp theo sự hiểu biết khác nhau, giải thích rằng y theo văn này, công đức của Thập địa và Phật địa đều khác nhau, cho nên có khả năng sanh ra hạt giống, cũng lại khác nhau. Trong đây, Sơ địa liền được tất cả địa: là y cứ vào hạt giống pháp nhĩ mà nói. Hạt giống của đạo lý pháp nhĩ từ vô thỉ đãi có, chẳng phải nay mới được. Mà nói là được: là dụng dẫn phát sanh quả, nên gọi là được. Được có ba thứ, nay y cứ hạt giống và tự tại nên gọi là được. Lại giải thích khác: Vì được hạt giống các địa, nên gọi là liền được chẳng phải cho rằng hạt giống công đức của các địa gọi là khác nhau, nên gọi là được. Đẳng lưu: chứng được rồi, sau trong tất cả địa có tất cả oai đức: Luận sư Cảnh, Luận sư Bị nói: Các địa mãn tâm là dòng nhập trụ gia hạnh, v.v… lại mãn tâm ở các địa trước mong học đạo gia hạnh của các địa sau, tức là dòng mãn tâm của đương địa, v.v… Pháp sư Thái nói: Hai phần nhập trụ trong tất cả mười địa gọi là chứng đắc, mãn tâm của quả địa gọi là chứng đắc về sau, như Địa luận nói: Các đạo gia hạnh như tất cả thần thông, quả oai đức phát thú, v.v… là quả hai phần nhập trụ chứng đắc đẳng lưu; các địa thành mãn, trong mỗi địa trãi qua nhiều đại kiếp. Tùy theo tất cả công đức khen ngợi các địa trong các kinh có thể nhậm vận chứng đắc là tướng thành mãn.

Thứ tám là nói Thanh văn, Bồ tát chứng pháp giới khác nhau. Pháp sư Cảnh nói: Nói năm thứ nhập chánh tánh ly sanh: Thanh văn có ba: Một là cụ phược, được nhập kiến đạo; hai là bội lìa dục hết, được nhập kiến đạo, ba là lìa cõi Dục cho đến lìa tất cả xứ dục, được nhập kiến đạo, và Duyên giác, Bồ tát gọi là năm người.

Hỏi: Như Thanh văn có ba người nhập thánh, nghĩa là cụ phược v.v… chẳng hay Độc giác cũng có ba người như Cụ phược, v.v… chứng quả Thánh đồng với Thanh văn hay không?

Ngài Tam tạng nói: Như dụ sừng lên, tất cả đều hàng phục tu hoặc từ Vô sở hữu xứ trở xuống nương tĩnh lự thứ tư, nhập chánh quyết định, chứng hai quả sau; là Bộ hành, đồng với Thanh văn kia.

Pháp sư Khuy Cơ lại nói: “Năm thứ: Quả Dư Lưu, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, Độc Giác và Bồ-tát, trong số, một người Dự Lưu là người thứ lớp, số người còn lại đều siêu việt.

Trong đây nói chung năm người chia làm hai hạng: Bốn người trước là Thanh văn, Bồ-tát là Bồ-tát, nên có hai hạng.

Nói “tướng thường trú”, nghĩa là xưa nay vô sinh, pháp tánh vô tận, nghĩa là tức do Nhân không làm sáng tỏ chân như. Như thể là thường, không có sinh không có tận.

Tướng vắng lặng, nghĩa là pháp tánh lìa trói buộc của khổ phiền não, tức trạch diệt lìa trói buộc, dứt trừ khổ v.v… của “hoặc” chướng phiền não. Nhị thừa ở trong phương tiện, cầu vô vi vắng lặng, thường trú kia. Tạo nên tướng Niết-bàn, vì mong cầu chứng chân như sau, nên nhanh chóng hướng đến diệt độ. Tự tướng tức là tướng, gọi là phân biệt chân như.

Trong chánh pháp, do tự tánh của Biến kế sở chấp, tánh vô ngã của pháp bất thành thật, nghĩa là Bồ-tát ở trong phương tiện, chỉ tâm tìm kiếm năm pháp tướng v.v… tùy theo nói tự tánh “không” vô sở hữu. Do đây, ngộ nhập tự tướng chân như, đều không có cầu chứng ý lạc của Niết-bàn vắng lặng, thường trú, nên không nhanh chóng cầu tự thân diệt độ. Cho nên nói Thanh văn trong đây, do tướng khác nhau, thông suốt chánh tánh ly sinh của pháp giới.

Do không có tưởng mất, nghĩa là do đối với Niết-bàn, khởi tưởng thường trú và tưởng yên ổn, tức khởi tướng vắng lặng đối với Niết-bàn, nên khởi tưởng nhàm trái với các hành. Hoặc lại nhờ người khác. Vì họ tuyên giảng tự tướng của pháp giới, nghe xong một phần hồi hướng Bồ-đề. Thanh văn v.v… nghĩa là người chủng tánh bất định. Một phần hoàn toàn thú hướng vắng lặng, Thanh văn cùng cực gian khổ, ít hay ngộ nhập mà không tinh tấn, siêng năng. Pháp sư Thái nói: “Thanh văn chứng Nhân vô ngã đã làm rạng rở chân như, chưa chứng đắc tự thể chân như, chỉ chứng đắc tướng vô ngã khác nhau trên chân như, nên nói là tướng khác nhau. Bồ-tát chứng được pháp vô ngã làm rõ tướng tự thể của chân như, nên gọi là tự tướng.

Bất định Thanh văn, hoặc lại nhờ Chư Phật khác, vì họ giảng nói. Nghe xong, họ hồi hướng Bồ-đề, sau đó mới ngộ nhập. Vì người tin vô ngã đã lâu, nhập pháp vô ngã rất là gian khổ. Thanh văn thú tịch cũng có hai người, một phần tuy nghe nói pháp vô ngã, nhưng hoàn toàn không tin, không thể ngộ nhập. Một phần ít tin, ít tỏ ngộ, cùng cực gian khổ mà không được nhập xong, tinh tấn, siêng năng tu tập Vô thượng Bồ-đề.”

Luận sư Bị nói: “Thanh văn có hai hạng:

1/ Thanh văn không ngu pháp: Nghe nói tự tướng xong, bỏ Tiểu, về Đại, tinh tấn siêng năng tu tập.

2/ Thanh văn ngu pháp: Dù tỏ ngộ tự tướng, nhưng không tinh tấn siêng năng.

Thứ chín, nói về luận thanh tịnh ba đời, nghĩa là không có lưu luyến quá khứ. Với vị lai, không có hy vọng. Trong hiện tại không có đắm nhiễm, tức nói “không có lưu luyến ba đời v.v…, gọi là ba luận thanh tịnh.”

Trên đây, theo thứ lớp trong lựa chọn ba Trì, hai đoạn trước đã nói xong. Dưới đây là đoạn thứ ba, lựa chọn xứ Du-già cứu cách trì. Xứ này có năm phẩm, trong số đó, chỉ quyết định phẩm kiến lập, vì bốn xứ trước đã rõ ràng, nên không quyết định lựa chọn, trong đó, trước, đặt ra hai hỏi đáp. Hai hỏi hai đáp là:

  1. Hỏi về an lập.
  2. Hỏi về thuộc nhau.

Trong phần đáp, trước nói về an lập, để đáp bốn câu hỏi trước.

Trong phần trước, trước giải thích, sau kết.

Trong giải thích, dù có mười tám bất cộng, mà gồm có chín đoạn:

  1. Nói thân không có lỗi.
  2. Nói về ngữ không có lỗi.
  3. Nói về ý không có lỗi.
  4. Nói không có tưởng khác lạ.
  5. Nói đều là tâm định.
  6. Nói đều chọn xả.
  7. Nói không giảm: 1- Dục; 2- Tấn; 3- Niệm; 4- Định; 5- Tuệ; 6- Giải thoát; 7- Giải thoát Tri kiến, mà nói rằng bảy thứ.

Trong giải thoát thứ sáu. Chia làm hai thứ nên có bảy.

1. Nói về ba nghiệp, tùy hạnh trí tuệ ba nghiệp trí của Như lai, làm tiền đạo, là nhân đẳng khởi. Tùy chuyển trí, nghĩa là vì sát-na khởi, nên không có vô ký.

2. Nói về ba trí vô ngại. Dưới đây, nói thuộc nhau để đáp câu hỏi sau, rằng, trong đây, bốn thứ đầu là pháp không có quên mất, nghĩa là ba nghiệp không có lỗi và không có tưởng khác lạ, đều là pháp không quên mất và là nhổ bỏ tập khí. Kế một là thuộc về đại bi nhiếp, nghĩa là tâm đại bi đều ở trong định. Mười ba thứ còn lại, phải biết là thuộc về Nhất thiết chủng diệu trí.

Kế là, nói kinh khác đã nói: “Tùy hảo vì muốn cho đối tượng được giáo hóa, sẽ sinh niềm tin thanh tịnh, nên chỉ bày rõ ràng cho họ, nhưng không lập tướng, nghĩa la vì tướng, tốt rõ ràng,nên tốt không lập tướng. Về an lập các tướng, như phẩm kiến lập đã chỉ bày rõ, rộng, rất dễ hiểu.

Nói: “Từ tùy hảo này, phải biết phân ra các tùy hảo kia. Luận sư Cảnh, Bị nói: “Từ trong môn tướng của kinh Giải Thâm Mật, chia ra cac nghĩa tốt đẹp của kinh khác. Pháp sư Thái nói: “Từ trong phẩm kiến lập đã nói về tùy hảo, phải biết rằng chia ra tùy hảo khác nhau đã nói trong các kinh kia.

Trên đây, theo thứ lớp, quyết định lựa chọn ba trì xong. Dưới đây văn của một quyển kinh là giải thích văn kinh Bảo Tích. Kinh Bảo Tích này, xưa ở trong đây đã dịch có ba, bốn quyển. Nay, không thấy được. Bảo Tích, kinh, luận bốn quyển giải thích mười sáu thứ tướng. Học giả nên y cứ. Trong đó, đầu tiên là nêu mười sáu pháp môn. Thứ hai là dựa vào môn để giải thích.

Trong giải thích tà hạnh thứ nhất.

3. Nêu lên tám thứ, vì trước có thể dẫn dắt sau, nên nói rằng dẫn phát sau sau.

4. Giải thích riêng tám thứ, tức là tán đoạn, đầu tiên giải thích về tư lương của trí lui sụt, trong đó, trước chung, sau riêng, trong riêng có ba:

5. Nói về bốn thứ pháp thối.

6. Nhân pháp là lui sụt lại sinh pháp trái nhau của bốn thứ trí.

7. Phát ra thể tướng của bốn thứ pháp lui sụt.

Trong phần đầu, không để cho người khác nghe, nghĩa là y cứ ở người khác có sức được tự tại mà nói. Vì lắng nghe chướng pháp, nghĩa là y cứ ở người không có sức, lúc bấy giờ không thể khiến cho người khác không nghe. Thời gian sau, vì làm chướng ngại cho nghe pháp. Tiếp theo nói do pháp thối, về sau sinh ra bốn pháp trái nhau, trong đó trước nêu chung, gạn hỏi. Sau sẽ thuộc về bốn pháp trước, như văn rất dễ hiểu. Dưới đây trong phát ra bốn thứ thể tưởng của pháp thối, trước, giải thích riêng thể tướng của bốn pháp. Sau, thuộc về tương đương ba Tuệ để nói về sự lui mất.

Phần trước, Luận sư Cảnh nói: “Dựa vào tự thông đạt xấu ác, mà nhận hiểu, giảng nói, chấp mắc, thông đạt tốt lành, nhận hiểu, giảng nói v.v… Câu đầu, dựa vào ác tuệ thông đạt lầm lẫn, bất chính của mình, đã lắng nghe ngôn pháp, lãnh thọ, nhận hiểu, giảng nói. Câu sau, dựa vào thiện tuệ khác, thông đạt, lãnh thọ, hiểu biết, giảng nói pháp. Chấp mắc, nghĩa là thông đạt xấu ác khác, lãnh thọ, nhận hiểu, giảng nói.

Lãnh thọ, nhận hiểu, giảng nói, nghĩa là khi lắng nghe, nhận hiểu pháp đã giảng nói. Kế là, trong giải thích thứ hai, quên mất, chánh niệm, Cảnh, Luận sư Bị nói: “Ở chỗ bốn người, khởi lên mê loạn:

1. Đối với người cử tội, cho đến thư tư: Đối với người có đức, đối với người đồng phạm hạnh, đã mê loạn, tự lỗi lầm, nghĩa là người khác nêu tội người kia, nói lên lời nói khác, mê loạn lỗi lầm của mình. Đối với học hiện tiền, mê loạn học xứ, nghĩa là ở chỗ thầy giáo hóa, dẫn dắt, vì không chính thức lãnh thọ, nên bị mê loạn, trở ngại tu ba học.

“Đối với Đại thừa kia, cho đến “Phát khởi mê loạn thắng giải chánh hạnh”, nghĩa là có người muốn học hạnh Đại thừa, hướng về Đại thừa, bàn luận về ba thừa không khác.

Nói “Nếu phân biệt ba thừa khác nhau” thì đó là lỗi lầm tai hại lớn lao. Đối với người nói pháp, mê loạn, làm rõ chỗ bí mật đã có kia. Nghĩa là đối với người nói pháp có đức, chính mình không nghe nói. Người kia có phạm, không để cho người khác nghe. Pháp sư Thái giải thích hai người sau rằng: “Đối với người có hạnh Đại thừa, lại là người của Dục lợi, Thắng lợi, nghĩa là người muốn ưa chánh hạnh, là nói chung điều xấu ác của người kia, nên phát khởi mê loạn, thắng giải và chánh hạnh của người khác.

Đối với người nói pháp, vì họ đã tự mê loạn nên phát hiện rõ người kia đã có che giấu lỗi lầm ở chỗ khuất.

Thứ ba, trong giải thích làm hư hoại pháp bạch, Luận sư Cảnh nói: “Nói rằng, vì sức tăng thưọng của sự cạnh tranh với người khác, nên khởi các pháp bạch, gia hạnh phi xứ, nghĩa là khởi sự đấu tranh, làm hư hoại pháp trong sạch.”

Nói “Dù khởi gia hạnh của nơi chốn pháp bạch, nhưng có ba lỗi lầm của tà hạnh”, đều là thứ hai, tướng khác tức là ba, cộng với trước thành bốn.

Dưới đây, là chia ra ba câu, mỗi câu giải thích hai duyên. Hai duyên đắm nhiễm: 1- Tà thọ dụng. 2- Chỗ lẫn lộn nhiều thứ.

Như khi được bố thí, nhân dùng của vật, làm ơn, ban bố đức, gọi là tà thọ dụng (thọ dụng bất chính). Nêu tội ở giữa đại chúng mà dỗ dành nhau, chỗ lẫn lộn nhiều thứ. Do nhân duyên này, dù khởi gia hạnh của nơi chốn pháp bạch, nhưng do tà hạnh nên có lỗi đắm nhiễm. Hai duyên, nên biết lỗi lầm của ác kiến:

1- Người bài bác chánh pháp.

2- Đối với chánh pháp, chấp là chánh pháp, tức là người bài pháp. Dù là thực hành bố thí, nhưng do có ác kiến. Hai lỗi duyên khởi, do hai duyên nên lỗi lầm của thọ trì (nhớ chắc), như văn, rất dễ hiểu.

Pháp sư Thái nói: “Như hai người tranh nhau tạo ra bồn Phật, khởi các pháp bạch, thiện, vì là không hợp lý, nên gọi là gia hạnh phi xứ, chẳng phải pháp thọ dụng. Ở chỗ ồn ào náo nhiệt, gọi là chỗ nhiều tạp nhạp.

Thứ tư trong giải thích về ý ác, nói do ba tướng, nên biết rằng, đối với Đại sư, mà sinh không tin, thuận. Nghĩa là đối với người có tự thể, tôn thắng, được trí, tôn thắng là đức, được trí là công năng, nghĩa là đối với người có thể, có đức, có công năng, sinh ra không tin thuận.

“Do hai thứ tướng cho đến” và ưa thích kia”, nghĩa là 1) Hữu tình thọ đại trí, đại phước lợi dưỡng, cung kính. Do yêu thích, nên lui mất pháp lành, siêng năng, tinh tấn v.v… 2) Do ưa thích đại trí phước, vì con người thường hay theo đuổi, lui sụt phát ra pháp lành, lược qua không giải thích thứ tư.

Thứ năm, là giả thích khó điều phục, như văn.

Thứ sáu, là giải hạnh đối với phi đạo. Phi đạo là lỗi.

2. Đối với người thành lập tín, không vì nói pháp, để phát khởi lòng tin của họ.

3. Có người bỏ Tiều, về Đại, không thuận với tâm họ, khen việc đã làm là tốt lành.

4. Thấy hữu tình với tánh bất định, bỏ Đại, cầu Tiểu, không thể quở trách, can ngăn, mà khen ngợi đức của Đại thừa, chê trách sai lầm của Tiểu thừa.

5. Người thể tốt, trụ cấm giới, thì khen, kẻ bất trụ cấm giới thì quơ, mà do thân ái tâm của bè bạn, thành thử đáng khen, đáng chê, không chê, gọi là thuyết bất bình đẳng.

Thứ bảy, là giải thích gần gũi không hiền lương, như văn.

Thứ tám, là giải thích không đúng như nghĩa kia. Nói “không như nghĩa, chẳng phải như nghĩa kia”, nghĩa là chỉ nói lại, không có nghĩa khác. Cũng có thể không như Tục đế, chẳng phải là sự Chân như.

Trên đây, giải thích môn tà hạnh thứ nhất xong. Dưới đây là, thứ hai, nói về môn chánh hạnh, trong đó, trước là nêu chung, trái với tám tà trước, dẫn tám thứ hạnh, gọi là tướng chánh hạnh.

Nói dẫn lìa, nghĩa là xa lìa lỗi lầm ở trước, ý nói chủ thể đối trị. Trái với lỗi lầm trước, tướng sau sau, nhân dẫn phát nói tám đối trị. Cũng tướng sau sau nhân tám thứ đối trị với tám chánh.

Kế là, nói riêng tám chánh hạnh. Theo thứ lớp trong văn, nói lại về támthứ tà hạnh. Đây là nêu tà, làm sáng tỏ chánh hạnh. Đầu tiên, là giải thích về sự lui mất, có bốn trường hợp.

1. Do tự không nghe, để cho trí lui mất, nghĩa là nếu người đối với chánh pháp, nếu không cung kính, không tự đến nghe, thì người này dù không có phạm, nhưng do không nghe, vì không có thắng giải, nên gọi là có lui mất.

2. Do không khiến người khác nghe, nên trí lui mất, nghĩa là người đến chỗ khác nghe, không tin hàng phục mình, do đây hủy phạm. Nếu không có tâm này, ngay đó không khuyên người khác nghe, quay lại người nghe kia hướng về tà pháp của mình, cho nên, lui mất.

3. Do vì nghe chướng khiến trí lui mất, nghĩa là do tự mình không muốn, không nghe, không gìn giữ, nên hóa độ người khác lắng nghe chướng ngại, do đây, hủy phạm, lầm không có ý này. Ngay đó do tự thân biếng nhác, chướng ngại người khác nghe pháp, cho nên lui mất.

4. Do chấp mắc tà, mà có lắng nghe. Do đối với tu không thấy đức, chỉ nghe ngôn thuyết (nói năng) cho là rốt ráo, do đây hủy phạm. Nếu không chấp nghe cho là rốt ráo, mà chỉ nghe, không tu, trí không thành thật, đây gọi là lui mất.

Thứ hai, là giải thích về quên mất, chánh niệm cũng có bốn trường hợp :

1. Trong trường hợp đầu, nói “Do nghiệp chướng v.v… ”, nghĩa là do ngay nghiệp chướng, đối với nêu tội, có chỗ quên mất. Lại không quên ngữ hủy phạm. Nhưng có phạm tội căn bản, quên mất, mê loạn.

2. Nói “Do mê loạn học xứ, khiến cho niệm quên mất v.v… nghĩa là đối với thầy giáo hóa, dìu dắt vì lãnh thọ bất chánh, nên bị mê loạn, trở ngại tu ba học, nên nói rằng: “Do chẳng phải tự tánh, tùy chuyển kiến chấp giả dối, quanh co, vì đã rõ ràng”.

Nói “Vì nghiệp chướng v.v… nghĩa là kế lại giải thích: “Cũng do nghiệp chướng, lảnh thọ bất chánh, nên dù không có kiến chấp cong vạy, nhưng vì mê loạn, nên có trở ngại quên mất tu ba học.

3. Nói “ Do mê loạn thắng giải, chánh hạnh khiến cho niệm quên mất v.v… nghĩa lá có người phát tâm Bồ-đề, học pháp Đại thừa, thực hành hạnh Đại thừa, hoặc nhắm vào người đó nói, hoặc nhắm vào người khác nói rằng: “ Ba thừa không có khác v.v… Do đối với Bồ-tát, bất sinh cung kính, vì che giấu thật đức của Bồ-tát kia, do đó hủy phạm.

Nói “Do nghiệp chướng v.v… ” nghĩa là dù đều cung kính, che giấu đức Bồ-tát mà có hủy phạm, nhưng do nghiệp chướng, tâm quên mất, nói ba thừa không khác, do khởi chướng này mà bị quên mất.

4. Nói “Do mê loạn, chỗ hiển, ẩn, mật, khiến niệm quên mất v.v… ” Ở trước nói: “Đối với pháp năng nói, Bổ-đặc-già-la mê loạn, chứng tỏ pháp kia có chỗ ẩn mật. Đây là do không muốn cho người khác đối với thầy nói pháp, học Đại thừa v.v… nên nói lỗi của người kia do hủy phạm này.

Nói “Do nghiệp chướng v.v… ” nghĩa là dù không có cố tâm nói lỗi của người khác đã có hủy phạm trực tiếp do nghiệp chướng quên mất về người nói pháp trong tâm, nói có lỗi lầm mà có quên mất hủy phạm trong tâm.

Thứ ba, là giải thích về bốn câu khiến hủy hoại pháp bạch. Đầu tiên, là nói “Do ưa lợi mình, hẹp, ít, không chuyển trở xuống, nhân lắng nghe v.v… do hủy phạm này, tức là lời nói trên, nói là sức tăng thượng với sự cạnh tranh khác, nên khởi các pháp bạch, chứ chẳng phải gia hạnh.

Nói “Do không thật có v.v…” đây là giải thích lý do hủy phạm. Do chưa được pháp bạch, thiện vượt hơn, nên ưa chấp mắc lợi mình, cạnh tranh với người. Đối với chỗ nghe, thọ sinh, ở xa thong thả, ở trước đã được pháp bạch Trung hạ. Nay, đều lui mất, gọi là đã bị thối lui.

  1. Do lỗi nhiễm ái, làm hư hoại pháp trong sạch, rất dễ hiểu.
  2. Do lỗi ác kiến cho đến” do hủy phạm này: Ở đây gồm hai thứ: 1. Chê bai chánh. 2. Chấp tà.

Trong luận nói: “Ác kiến có hai:

  1. Chê bai người hộ trì chánh pháp.
  2. Chấp tà là chánh.

Nói “Do hạnh bất chánh nên bị được hư tổn, đây là do chấp tà làm chánh, bị quả suy tổn.

5.  “Do lỗi thọ trì, làm hư hoại pháp trong sạch v.v…. Nghĩa là trước nói: “1) Thọ trì kinh bất liễu nghĩa. 2) chê bai, bác bỏ các kinh liễu nghĩa, chưa hiểu. Nay, nói rằng” Do lỗi thọ trì, làm hư hoại pháp trong sạch là nói chung hai nghĩa, gọi là thọ trì lỗi.

Do khởi mạn, của Đẳng giác trong ý thú của trí Như lai, nghĩa là chấp đối với kính không liễu nghĩa là khởi mạn.

Nói “Do chê bai chánh pháp thì bị suy tổn, nghĩa là chấp kinh không liễu nghĩa, vì là không tin liễu nghĩa, se mắc phải suy tổn.

Thứ tư, là giải thích về hiện hành của ý ác, có bốn trường hợp :

1. “Do hiện hành v.v… của ý ác, không rất cung kính đối với sở học”, nghĩa là ở trên nói rằng: “Đối với Đại sư, sinh tâm không tin, thuận ý trái với Học.

2. “Do không như thật nói rõ lỗi của mình, nên ý xấu ác hiện hành v.v… ”, nghĩa là trên nói rằng: “Người nêu tội đối với đồng phạm hạnh, nghĩa là như thật phát lộ trái nhau.

3. “Hiện hành v.v… của ý ác đối với tinh tấn, biếng nhác”, nghĩa là ở trên nói: “Ý trái với tinh tấn trong pháp phước thiện của đại trí”.

4. “Do hiện hành của ý ác, chướng ngại nhân duyên tịnh”, nghĩa là trên nói: “Trong thắng giải rất sâu rộng lớn, có thể khiếntự che lấp trái với thanh tịnh.

Thứ năm, là giải thích bốn trường hợp khó điều phục:

1. Do chỉ lắng nghe rốt ráo, tu chướng v.v… Nghĩa là chấp lắng nghe làm rốt ráo, che lấp đối với tu hành, gọi là tu chướng.

“Do chỉ quán thấy thoát khỏi thắng lợi v.v… khó biện luận”, nghĩa là giải thích về chấp lắng nghe là ý rốt ráo. Giả vở lừa dối, chỉ bày rõ bạn lành giữ gìn pháp.

2. “Đối với giáo thọ, tu giải tả v.v… ”, nghĩa là nhậnhiểu lầm, nên gọi là giải tả, không chịu nghe pháp, cho đến lừa dối người khác: “Ta là bạn lành trụ A-luyện-nhã.”

3. Do đối với Thi-la an trụ không vững chắc, tu ác tác, v.v… ” nghĩa là do phá giới, nên sự hối tiếc che lấp tu, cho đến lừa dối người khác: “Ta là bạn lành siêng tu nghiệp phước.

4. “Đối với tự thấy an trụ kiến thủ, tu chướng v.v… ”, nghĩa là do kiến thủ của mình, thậm chí giả vờ lừa dối biểu thị rõ tự chế ngự các bạn lành.

Thứ sáu, là giải thích thực hành bốn trường hợp phi đạo:

1/ Đối với người chưa tin, mà không nói giúp họ sinh tin.

2/ Đối với thừa dưới, mong cầu Đại thừa, không tùy đối tượng thích nghi mà nói pháp, khen ngợi điều lành đã làm.

3/ Đối với Đại thừa, mong cầu thừa dưới, không thuận với cơ nghi kia mà có nói năng. Nếu là người với tánh bất định, thì nên quở lỗi lui sụt Đại thừa, cầu Tiểu thừa. Nếu là người Nhị thừa định tánh, thì dù tạm thời phát tâm Đại thừa, nhưng về sau, lại cầu Tiểu thừa, lẽ ra nên thuận với tánh đó, khen tu Tiểu thừa, cho nên luận ở trên nói: “Người không có chủng tánh, dù phát tâm siêng tu hành tinh tấn nhưng cuối cùng không được Vô thượng Bồ-đề, không thể thuận với cơ nghi như thế, gọi là hành phi đạo.

4/ Đối với người trụ cấm giới, không thể khen người kẻ trụ bất cấm giới, không thể quở trách, gọi là thuyết không bình đẳng. Dưới đây nói: “Do thiện căn không viên mãn, nên đồng có bốn trường hợp”, như kế kết thúc bốn trường hợp trên.

Thứ bảy, giải thích bốn trường hợp gần kẻ không hiền lương:

1/ Do keo kiệt, tức ở trên nói: “Lui mất Đại thừa”.

2/ Ít học, tức trên nói: “Lui mất gia hạnh lợi ích hữu tình.”

3/ Không khéo nhập Thánh giáo: “Ở trên nói: “Lui mất Thánh giáo.”

4/ Không lắng nghe lời Phật nói: Ở trên nói “Lui mất vô gián tu các pháp lành. Cũng có thể bốn việc lui sụt đều do tính keo kiệt v.v… đã làm rõ. Ở dưới đây nói: “Vì không tu căn lành, nên đồng với năm trường hợp ”, nghĩa là “không tu căn lành” là câu chung, dưới đây có bốn câu, như thứ lớp phối hợp với bốn câu trên mà kết, cũng có thể năm câu kết chung bốn câu trên.

Thứ tám, giải thích không như nghĩa kia, có bốn câu:

1/ Giữ gìn chánh pháp.

2/ Trụ luyện nhã.

3/ Siêng tu nghiệp phước.

4/ Quản lý, chế ngự đại chúng.

Dựa vào việc của bốn câu này, khởi lên bốn điều mong cầu, cầu tín, hàng phục v.v… như thứ lớp đó. Ở dưới nói: “Do cùng với ngã ái đều có tội vi tế không thấy sợ hãi”, nghĩa là giải thích: giữ gìn chánh pháp, muốn cầu niềm tin, hàng phục.

“Đều có với vô ngã phi thắng giải kia” trở xuống, là giải thích Trụ-luyện-nhã, cầu được tiếng khen, tu riêng nhân vô ngã, gọi là phi thắng giải. “Ưa trụ lẫn lộn nhau trong hiện pháp”, là giải thích: chế ngự đại chúng, cầu cúng dường v.v…

“Ở đời đương lai v.v…” trở xuống, là giải thích siêng tu nghiệp phước, cầu nhiễm, bạch v.v… cũng có thể do cùng có với ngã ái v.v… là giải thích trụ trì chánh pháp, cầu niềm tin, hàng phục, với vô ngã phi thắng giải kia đều không nghĩ đến làm lợi cho người khác, giải thích trụ luyện nhã, mong cầu tiếng khen. Đối với sinh tử Niết-bàn hoàn toàn quán thấy lỗi lầm, công đức, là giải thích về siêng tu nghiệp phước, cầu quả nhiễm.

“Đối với hiện pháp” v.v… trở xuống, là giải thích về quản lý, chế ngự, cầu phước cúng dường v.v…

Giả vờ biểu hiện bản thân mình có thể hộ trì chính pháp cho đến “chế ngự chúng”, là nhắc lại để kết.

Hai môn trước trong mười sáu môn. Đã giải thích xong. Dưới đây là môn thứ ba, là giải thích về thắng lợi của chánh hạnh. Đầu tiên nêu bốn trường hợp , trước sau sinh nhau, vì làm lợi cho hữu tình, nên sanh nhiều phước, cho nên kết hợp làm bốn. Cũng có thể chánh hạnh làm thành tựu bốn thứ thắng lợi, và sinh trưởng vô lượng phước.

Thứ hai, là giải thích theo thứ lớp: Trong bốn pháp của câu đầu, một câu trước, có thể khiến nhóm hợp tư lương phước. Ba câu sau, là khiến cho nhóm hợp tư lương trí.

Thứ ba, có bốn pháp:

1. Tu tu sở thành, nghĩa là nhân tu tuệ, nên thành pháp bạch khác.

2. Thành tựu hữu tình, tức pháp bạch kia đã thành, nhờ thành tựu người khác mà thành pháp bạch của mình.

3. Có thể nhẫn việc khó, tức pháp bạch kia đã thành, nghĩa là nhờ thành tựu người khác, mà thành pháp bạch của mình.

4. Nghe, tư duy không có nhàm chán, tức đã thành tựu pháp bạch kia, nghĩa là nhờ nghe, tư duy không chán đủ, nên thành pháp bạch khác.

Lại, giải thích:

  1. Tu tu tuệ.
  2. Tức tu tuệ mà thành kia, thành tựu hữu tình.
  3. Tức tu tuệ mà thành kia kham nhẫn việc khó, nghĩa là vào cõi ác, hữu tình v.v… khác.
  4. Tức tu tuệ sở thành kia. Nghe, tư duy không nhàm chán.

Thứ tư, là môn đại, là giải thích đủ pháp hạnh v.v… Đầu tiên là nêu chung, bốn trường hợp:

  1. Đủ pháp hạnh.
  2. Đủ hạnh bình đẳng.
  3. Đủ hạnh lành.
  4. Đủ hạnh pháp trụ, bao gồm bốn hạnh này, gọi là chánh pháp hạnh.

Một chữ “Đủ” ở trên, là chung cho ba hạnh dưới, nên dưới đây, là nhắc lại trong, giải thích, đều có chữ “đủ”.

Thứ hai, theo thứ lớp giải thích riêng.

“Thế nào là Bồ-tát đủ cả pháp hạnh?” Là hỏi về danh.

“Đây là hành tướng gì?”, hỏi số đầu.

Trong đủ hạnh bình đẳng có tám hành tướng. Luận sư Cảnh nói: “Hai danh đối với hữu tình, dùng thân không khác nhau, không nhiễm ô, nghĩa là gồm thu người khác làm đồng thể với mình. Không có đời khác, nghĩa là không thành khác nhau giữa hiện đời và đời sau. Không có mong cầu khác nhau, nghĩa là không thành thân mạng, tài sản khác nhau, với tâm thân ái bình đẳng, an ủi, khuyến dụ.

Pháp sư Thái nói: “Trong bốn thứ của thứ hai kia, việc thiện đã làm và việc lợi ích hữu tình, gọi là ách thiện. Bồ-tát đối với việc đảm trách nặng lợi sinh v.v… mà mình đã làm, có thể vận dụng bình đẳng. Người chưa làm, thì bình đẳng có thể lấy.

Nói “không có chỗ y chỉ trong đủ hạnh lành, nghĩa là vì tâm không có chấp mắc, nên không cầu quả người trời.

Trong đủ hạnh, pháp, trụ. Luận sư Cảnh nói: “Tám hạnh trước trong mười hai hạnh là lợi mình, bốn hạnh sau là lợi người. Văn còn lại rất dễ hiểu.’

Pháp sư Thái cho rằng: “Nói và còn lại cùng ở chung khác, nghĩa là ở chung với tiền của dụng cụ v.v… khác.

Thứ năm, là Môn Đại: Giải thích về thí dụ sinh tịnh tín, thí dụ có mười chín.

Nói “Chẳng phải như mặt trời vì sợ La-hỗ nắm lấy, nên liền quay quanh”. Nghĩa là mặt trời phi tình, không thể sinh sợ hãi, mà do thiên tử mặt trời sợ La-Hỗ nắm trong tay, nên mặt trời vận chuyển xoay vần. La-Hỗ tức là xưa nói La-Hỗ, A-Tu-La. Chẳng phải như sư tử sợ gánh vác lớn. Luận sư Bị, Cảnh nói: “Trong núi sâu của các nước phương Tây có nhiều sư tử. Chỗ sư tử đi qua, tức có chồn theo đuổi, để tìm kiếm máu, thịt thừa. Sau khi sư tử giết một con nai lớn, nó bảo chồn vác, chồn thầm nghĩ: Nai chết đã to lớn, ta không thể hơn. Nếu không nhận gành vác, thì nó sẽ giết chết mình. Tức thì nó nghĩ ra một ké, rồi bảo sư tử rằng: “Tôi lãnh nhiệm vụ vác con nai này, ông hãy theo sau tôi, ăn xong rồi đi, ông phải giúp sức với tôi!” Sư tử thầm nghĩ: “Ta thà tự gánh vác lấy, chứ không thể ăn sau theo mi”. Bấy giờ con chồn khỏi gánh vác. Sư tử cảm thấy mệt mỏi, thiếu thốn, vì sợ gánh vác to lớn”.

Pháp sư Thái chỉ nói: “Sư tử khiếp sợ vật lớn đã trấn giữ.”

Nói “Chẳng phải như rồng, voi”. Tam Tạng Pháp sư nói: “Nói voi gọi là Long tượng, chẳng phải như Luân vương không có chúng chúng Đại trượng phu thứ hai, nghĩa là lại không có Luân vương thứ hai đồng với thế giới.”

Nói “Ca-lý-sa Ban Noa”, Pháp sư Thái v.v… nói: “Ban-Noa là tên sò ngọc. Ca-lý-sa giống như Nhị thừa.

Lại, giải thích: “Đây là pháp số! tám mươi gọi là Ca-lý, mười sáu Ca Lý, gọi là Sa Ban Noa. Thân của Bồ-tát có giá trị vô lượng.”

 

 

(Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 80

Trên đây, đã giải thích năm môn trước trong mười sáu môn của kinh Bảo Tích, dưới đây là, môn thứ sáu, giải thích an lập sở học trong chánh hạnh, trong đó có hai: Trước là hỏi, đáp chung, nêu mười ba hạnh Trung đạo. Sau, gạn hỏi, giải thích riêng.

Trong môn trước, Bồ-tát trước, đối với đạo lý thế tục của kinh Thanh văn thừa, đã nói xong về Bất liễu nghĩa, làm y trì xong, khéo léo thông đạt, nghĩa là chỉ dựa vào nhân không, chưa thấy pháp Không, biết chẳng rốt ráo mà vượt qua kia. Lại nữa tu học chánh cần kinh điển liễu nghĩa của đạo lý hai đế, tương ưng với “hai không” của Đại thừa, gọi là hạnh Trung đạo. Vì sao? Vì kinh điển của Tiểu thừa là không liễu nghĩa, kinh điển của Đại thừa là liễu nghĩa, đây là nêu câu hỏi xong. Dưới đây sẽ nói về ý đáp:

Vì quán suốt mười ba hạnh trung đạo trong Đại thừa, nên là liễu nghĩa, tức nêu mười ba danh.

Y cứ trong giải thích riêng: Đầu tiên là giải thích nhân không. Luận sư Cảnh, Bị nói: “là do một thứ tướng không thật có, nghĩa là chấp ngang thật ngã, quyết không thật có. Dưới đây sẽ nói về mong cầu trong ba sự của sáu thức đối với căn trong, trần ngoài, trung gian, nên không được sự hữu tình, tức sáu tình căn.

Sự khác nhau: Tức sự khác nhau giữa sáu trần bên ngoài, sự thọ dụng kia, tức là sáu thức thọ dụng khổ, vui trong căn, trần”

Pháp sư Thái nói: “Đây là y cứ vào thể của thật ngã, không có lý nhân vô ngã của Bồ-tát:

1/ Việc chúng sinh.

2/ Sự khác nhau về uẩn, xứ, giới trong chúng sinh .

3/ Sáu căn, sáu thức thọ dụng sự sáu trần.

Nếu sáu căn trong, hoặc sáu trần ngoài, trung gian, phàm phu chấp ngang trái thật ngã, thì ngoài ba việc đều không thật có.

Hai- Giải thích: “Nhân vô ngã, nói là do chỉ một tướng có thể được”. Tức là nhân ngã đã làm sáng tỏ đạo lý chân như là “có”, nên nói rằng có thể được. Nghĩa là đối với ba sự căn, trần, thức, người ngu chấp khắp thật ngã thường trú không thật có, đạo lý tánh tướng khác với ngã có thể được, nghĩa là tánh của chân như vô ngã khác với đạo lý của ngã giả dối có thể được.”

Hỏi: “Không” và “vô ngã” khác nhau thế nào?”

Giải thích: “Vô ngã” trong uẩn, gọi là “không”, thể của uẩn chẳng phải ngã, gọi là vô ngã.

Ba Giải thích: “Trong “pháp không” Luận sư Bị, Cảnh nói: “Tức là không có Biến kế thường, vô thường v.v… trong pháp y tha, Viên thành kia, tùy theo lời nói pháp tánh, nên gọi là pháp không.”

Pháp sư Thái nói: “Biến kế chấp lấy tánh sinh diệt vô thường. Vì không thuộc năm sự, nên đều không được.

Ở đây muốn nói về thể tánh không của ngã, pháp Biến kế sở chấp là “không”, đều không thật có. Nhưng không nói về pháp vô ngã chân như là “thật có” không thật có.”

Bốn Giải thích: Pháp vô ngã: nói là do một tướng cho đến điều mà thánh trí thực hành là cái do nhân và pháp vô ngã hiển bày, do chân như thánh trí thực hành, cho nên có thể được. Hỏi: Pháp không và pháp vô ngã có gì khác nhau? Giải thích: “Y tha Viên thành không có chấp ngang trái kia, pháp của tánh quyết định, gọi là pháp không, tức hai tánh kia, chẳng phải tình chấp có, gọi là pháp vô ngã.”

Lại, giải thích: “Pháp của nhân duyên Y tha, giống như huyễn hóa, không có tánh quyết định, gọi là pháp không. Tánh Viên thành thật lìa “có”, “không” mầu nhiệm, lìa hữu vô gọi là pháp không. Hai tánh này chẳng phai là tánh chấp có thể, có dụng, gọi là pháp vô ngã. Vì cho nên Nhiếp Luận chép: “Nếu chấp các pháp có tự thể, có công dụng thì gọi là Pháp ngã. Nói pháp không có thể, dụng của định tánh kia, gọi là pháp vô ngã.”

Dưới đây, là nói có sáu tướng nên vô ngã đã làm sáng tỏ chân như, chứng bên trong lìa lời nói, khác với người ngu theo tánh ngôn thuyết, cho nên có thể được. Sáu tướng như văn.

Năm Giải thích: trong “Tăng ích”, Luận sư Cảnh nói: “Sai khác có tám:

  1. Chấp thường.
  2. Chấp có tánh cố định, vô thường cũng là tăng ích.
  3. Nhân chấp thường, chấp ngã tăng ích.
  4. Nhân chấp có vô thường, chấp có vô ngã.
  5. Nhân chấp vô ngã, chấp thật tâm tăng ích.
  6. Nhân chấp “ngã chấp”, tâm không chân thật tăng ích.

“Đây, lai là hai thứ” trở xuống v.v…, là giải thích lại thứ năm, thứ sáu:

1- Quyết định: Chấp trước định ở cảnh.

2- Tìm kiếm: Tìm kiếm hướng tới trước, lấy tâm của hai cảnh thật, không thật, trong đó, trước, là biến kế chung đối tượng nương tựa, nghĩa là đối tượng tìm kiếm và tương ưng với Biến kế, nghĩa là nói chủ thể tìm kiếm. Dưới đây là, nói riêng. Trước, là nói về lấy tâm không thật tìm kiếm, mong cầu. Tạp nhiễm, đối trị, che lấp pháp có năm lỗi. Điên đảo: vô ngã, chấp ngã, hí luận, nghĩa là dạo đi giả dối ngoài lý, phát khởi hạnh ác: do đây phát nghiệp thô nặng, nghĩa là do “hoặc” nghiệp khởi, thô nặng thên nhiều.

Tánh vô thường nghĩa là “hoặc”, nghiệp chiêu cảm sinh thêm khổ vô thường. Dưới đây nói chấp tâm thật có, chấp đạo thật có, có thể trừ thanh tịnh, cũng thành Biến kế sở chấp, nên nói rằng “Và ở trong pháp thanh tịnh, chủ thể đối trị kia”.

7. Chấp tâm chân thật tăng ích, làm nương tựa, lại chấp thiện v.v… cho đến chấp tăng ích thanh tịnh.

8. Chấp tâm không chân thật tăng ích, làm nương tựa, lại chấp bất thiện v.v… cho đến chấp tạp nhiễm tăng ích. Đối với tăng ích, Bồ-tát đều không chấp mắc. Đã nói về sai khác. Kế là, nói về tăng ích của tự tánh, tức là chấp có thể tánh của các pháp.”

Pháp sư Thái nói: “Nhị thừa đã chứng lý nhân vô ngã, chỉ là tướng chân như, chứ chẳng phải là chân như chân thật. Dựa vào Địa tiền trong ba tánh trước, và Nhị thừa đã chứng lý Nhân vô ngã, chỉ là tướng chân như, thì cũng là biên tăng ích. Cho nên, chấp thứ tư kia là tăng ích. Thứ năm, chấp hai lý vô ngã tăng ích làm đối tượng nương tựa. Chấp tâm quán vô lậu của hai vô ngã cho là chân thật, tâm quán vô lậu là nhân duyên giả có, chấp pháp là thật tánh quyết định, nên gọi là tăng ích, tức tăng ích của chấp cảnh thứ tư. Thứ năm, chấp tăng ích. Thứ sáu chấp hai ngã tăng ích làm đối tượng nương tựa. Chấp có tâm không chân thật của nga kiến và tánh quyết định, nên gọi là biên tăng ích. Nhưng tức biết tâm chấp ngã, chấp giả dối, gọi là không chân thật. Nhưng có chấp giả dối tự tánh, gọi là tăng ích, chấp này có hai:

1. Quyết định chấp có tâm không chân thật.

2. Tìm kiếm phương tiện. Tìm kiếm, nghĩa là quyết định đã nương tựa không chánh tư duy và quyết định tương ưng với tác ý v.v… Dưới đây, nêu ra đạo lý tìm kiếm. Đối với tâm không chân thật bị đối trị, tìm kiếm năm lổi trong pháp tạp nhiễm, vì có tự tánh để trị, nên có pháp thanh tịnh, chủ thể đối trị có thể được. Đây là nêu đối trị, để nói chưóng có tự tánh, đều là tăng ích của tâm không chân thật.

Thứ bảy là do chấp thứ năm ở trước: Tâm chân thật của quán vô lậu làm đối tượng nương tựa, nên khởi chấp thứ bảy tâm vô lậu chân thật đã sinh ra các pháp thiện vô lậu v.v… có thể tánh, cho đến chấp Niết-bàn thanh tịnh có thể tánh.

Thứ tám do chấp thứ sáu ở trước: Ngã kiến có tánh quyết định làm y chỉ, khởi chấp thứ tám: ngã kiến đã sinh các pháp bất thiện v.v… có thể tánh, cho đến chấp ngã kiến đã thấm nhuần pháp tạp nhiễm sinh tử có thể tánh.

Hỏi: “Trước kia, trong phần nói về nhân vô ngã, một tướng có thể được rõ ràng, vì sao chấp thứ năm vô ngã chính là biên tăng ích ư?”

Đáp: “Môn trước y cứ vô ngã để làm sáng tỏ chân như là thật có, nên nói rằng có thể được. Nếu nghĩa vô ngã chỉ là pháp không, nên ở trước quyết định lựa chọn trong quyển hai, nói về ngã kiến “duyên” tâm vô sinh. Nếu chấp “không” là “có”, thì thành tăng ích.

Pháp sư Đạt nói: “Nói là sở y của Biến kế, nghĩa là căn sở y của chủ thể tính toán so lường và tương ưng với Biến kế: Tâm sở hữu pháp tương ưng với tâm hay tính toán so lường.

“Chấp điều thiện v.v… ”: đều chấp vô phú, vô ký, chấp bất thiện v.v… nghĩa là đẳng thủ hữu phú vô ký.

6/ Giải thích ngôn ngữ tổn giảm: tức khởi thắng giải v.v… đối với tánh vô ngã của tà pháp kia, nghĩa là nghe nói tự tánh của biến kế sở chấp vốn là không, tức là chấp y tha, viên thành đều là không. Ác thủ, không này gọi là vô ngã của tà pháp.

7/ Trong giải thích pháp hiện quán, Luận sư Cảnh nói: “ Do ba thứ tướng”.

  1. an lập tự tánh của các pháp không thật có. Nói “Tức là đối với sự kia” tức sự thứ nhất trong tăng ích. Và sự sinh thứ tư, nghĩa là chấp tăng ích vô ngã thứ tư trong tăng ích ở trước.
  2. Sự sai khác kia không thật có.
  3. Tức vì tập quán kia, nên thông đạt như thật.

Nói “Tự tánh trong đây không thật có”tức là tự tánh chấp có hai phần sinh, diệt không thật có. Do quán tập hai thứ này không thật có, 04 nên đối với vô tướng đã hiển lộ chân như nhậm vận thông đạt.

Nói là tức tướng tự tánh kia không tác ý, không tư duy, lựa chôn, tự trí đã chứng bên trong thông đạt”.

Pháp sư Thái nói: “Tức an lập chấp pháp kia và tự tánh của sự sinh thân thứ tư trong hiện quán thứ tám không thật có, làm tướng thứ nhất.

Dưới đây, trong hiện quán hồi hướng, nói về bốn thứ trị.

  1. Năng trị.
  2. Sở trị.
  3. Sau, có nghiệp trị.
  4. Sinh thân trị.

8/ Trong giải thích về hồi hướng tánh Đại Bồ-đề: Luận sư Cảnh nói: “ Trước, nói chung hiện quán pháp, năng trị, (chủ thể trị) sở trị, (đối tượng trị) nghĩa là do một thứ tướng tư duy, lựa chọn mà được chủ thể trị, vì không dứt. Dưới đây, giải thích riêng về năng trị, sở trị. Có ba lần “lại nữa”.

1- “Năng trị, sở trị trong đây: “không” là đối trị phiền não, nghĩa là nếu dứt trừ phiền não, thì phải từ môn không giải thoát, nhập chứng Chân như, mới có thể dứt “hoặc”. Vô nguyện là đối trị có nguyện. Vô nguyện là sinh tử, đối trị với tà nguyện. Môn giải thoát vô tướng là những mười tướng đối trị.

“Tất cả như thế gọi là không có tạo tác. Môn ba giải thoát đối trị sinh tử, ở nơi phần sinh tử, gọi là không có tạo tác.

“Lần lại nữa” thứ hai đây là đối trị nghiệp hữu sau, là “không”. Cũng là sinh thân lưu chuyển là “vô nguyện”.

Sát-na, Đối trị v.v… sinh tử lưu chuyển: là “vô tướng”. Dưới đây là, “là lần lại nữa” thứ ba. Do “không” ở trước làm rõ diệt Niết-bàn, trái với sinh tử ở trước, vì làm đối trị, nên nói là diệt hành Niết-bàn không có tự tánh. Đây lại dùng sinh tử lưu chuyển làm bị đối trị v.v… Nghĩa là vì thương xót chúng sinh, nên lưu lại phiền não, thọ sinh giáo hóa muôn vật, với công hạnh vị tha được tăng trưởng, hướng về Bồ-đề.”

Luận sư Bị nói: “Môn “không” giải thoát ở trước chẳng phải trực tiếp có thể dứt trừ phiền não, mà cũng có thể dứt trừ nghiệp, kể cả Dị thục.”

Luận rằng: “Đây lại v.v… trở xuống: ý văn là ở đây. Tất cả thân sinh, đều gọi là thân sinh lưu chuyển, vì mỗi niệm kia sinh, rằng, sát-na sinh lưu chuyển, tổng kết môn ba giải thoát, nên gọi là hành Niết-bàn không có tự tánh, tức dùng sinh tử lưu chuyển làm đối tượng trị.”

9/ Giải thích: “Hành như thế, mà các mọi khổ phiền não không ràng buộc tâm, dù rằng không dứt hẳn đối tượng trị. Do quan pháp vô ngã, nên tự tánh của pháp đó không nhiễm, không khổ.

10/ Giải thích về thắng giải khác nhau của hai vô ngã: nghĩa là do bốn tướng:

1- Kiến khác nhau, nghĩa là trụ nhân vô ngã và Niết-bàn. Ở thân đương lai, khởi tăng thượng mạn đoạn diệt, nghĩa là người này ở kiến đạo về trước, thực hiện quán “nhân vô ngã”, “duyên” trí quán này sinh ngã mạn, nói là được Niết-bàn, thân sau không khởi.

Nói “Lai, đối với sở thủ, cho đến “gọi là không khéo quán sát cảnh giới sở tri, nghĩa là phàm phu đối với cảnh giới, chấp ngã và tâm năng chấp ngã là “có”. Người Nhị thừa chỉ đối với sở thủ, chấp ngang “thần ngã”, quán sát là “không”, không quán tâm, chủ thể chấp ngã tùy theo tánh ngôn thuyết, cũng là tánh “không”, nên gọi là không khéo quán cảnh giới sở tri”. Do chấp mắc các pháp, cầu dứt trừ phiền não. Chấp có các pháp, cầu dứt trừ phiền não, không tỏ ngộ pháp không, gọi là kiến khác nhau, mà các Bồ-tát thì không như thế.

2- Tức sự khác nhau tổn giảm rất xa này, nghĩa là trụ Bổ-đặc-giàla vô ngã, cho đến hai thứ chấp mắc trước, sau vì mất mát, hư hoại v.v… Luận sư Cảnh nói: “Có một hạng người nghe nói Biến kế sở chấp “ngã không”, thì chấp thể uẩn, sở duyên của ngã kiến “không”. Đối với ngã kiến, phàm phu trong hạ lại hạ, ngã kiến gọi là phẩm hạ. Không kiến gọi là phẩm hạ trong hạ. Do hai nhân duyên giải thích nghĩa hạ kia:

3- Khổ không giải thoát, vì chấp mắc “không kiến”, không tu nhân khổ.

4- An trụ nơi khổ, hai thư chấp mắc trước, sau, hư hoại, mất mát, nghĩa là ở trước dựa vào giáo chấp khởi kiến vô ngã, cùng với ngã kiến, đồng chấp pháp nhân duyên là “không”, gọi là hai thứ chấp mắc trước, sau, mất mát hư hoại.

5- Đối với dứt trừ mê lầm khác nhau, nói là trụ nhân vô ngã, cho đến theo đuổi tìm kiếm đoạn diệt v.v… nghĩa là Nhị thừa đã trụ Nhân vô ngã, nghe theo lời nói tự tánh của pháp đều không, bèn sinh sợ hãi, nói là pháp đoạn diệt Niết-bàn, không thể biết rõ Biến kế theo pháp ngôn thuyết, rốt ráo đều không. Hai tánh còn lại vẫn còn.

6- Khác nhau mê lầm nơi tâm, nghĩa là “đối với dứt mê lầm như thế, cho đến bị điên đảo v.v… bởi tưởng điên đảo v.v… Dù không nhân chấp, vẫn bị điên đảo bởi ba thứ điên đảo: Tâm, tưởng, kiến của pháp chấp.

11/ Giải thích về tánh nhân. “Nói quán sát người năng chấp trong đây, là vì đến sát-na, nghĩa là tức quán sát pháp nhân duyên sinh của Y tha, có sát-na sinh, diệt, lìa Biến kế sở chấp, tùy theo tự tánh ngôn thuyết.

Trong đây, như thật kia thông đạt, cho đến trí quyết định sinh, nghĩa là thông suốt tánh quyết định chấp ngang trái, vì “năng”, “sở” không thật có, nên trí quyết định sinh, chứng Viên thành bên trong.

12/ Giải thích tánh “không” của bờ mé. Nói “Như thật hiện rõ trong đây, cho đến “Vì có sát-na”, nghĩa là do trí vô ngã không nhân lấy Biến kế sở chấp. Thời gian sau, “duyên” thì nghiệp phiền não, theo tướng phần của tâm, giống với cảnh tương tự nghiệp phiền não, mà biết, lại không có vẻ lờ mờ, đối với tướng phần kia và bản chất nghiệp, “hoặc” lìa tự tánh ngôn thuyết, đều không chấp mắc. Ảnh tượng như thế và với bản chất đều là pháp sát-na sinh, diệt, không đồng với Biến kế sở chấp chẳng phải tánh sát-na không có sinh, không có diệt.

13/ Giải thích về oai đức của tánh “không”. Nói “Đoạn trong đây cho đến “Các nghiệp phiền não”, nghĩa là như kinh ấy nói “Như ngôi nhà kia chìm trong bóng tối ngàn năm, dùng đèn, đuốc v.v… với một niệm sáng suốt, đều có thể quét sạch, dụ cho “hoặc”, nghiệp vô thỉ, nếu khởi trí sáng, một niệm liền dứt trừ.

Thứ bảy, là môn Đại, giải thích về sự khác nhau thù thắng của sở học Bồ-tát, Thanh văn kia. Đầu tiên, là lược nêu số, có bốn thứ sở học của Thanh văn, Bồ-tát Thanh văn, khác nhau có mười ba thứ.

2. Chính giải thích: Trước, giải thích bốn hạng Thanh văn. Kế là, giải thích về sự khác nhau.

Trong giải thích bốn hạng Thanh văn, 1- Gạn hỏi, nêu lên bốn tên gọi; 2- Nhắc lại danh, giải thích.

“Thanh văn Tăng thượng mạn cho đến “Chấp cho là thanh tịnh”, nghĩa là nếu dựa vào giáo Tiểu thừa, thì Thanh văn là rốt ráo. Nay theo giáo Đại thừa, Thanh văn cũng chẳng phải rốt ráo. Ở địa vị Thanh văn thừa, được trí nhân vô ngã đầy đủ, kính mến học pháp vô ngã chưa thành, nên gọi là trí vô ngã, chấp mắc pháp tà kiến. Nhưng thật sự chưa thanh tịnh, chấp có thanh tịnh, tức là Tăng thượng mạn chưa được, cho là được.

Rằng, như hai vương tử, nghĩa là Thanh văn và Bồ-tát, chỗ sinh tương tự, nghĩa là đồng dứt trừ phiền não, chứng đắc giải thoát.

Thọ sự vui sướng của Vua: là Niết-bàn. Một, đối với Vua, về mặt chính trị, thi phú, biện luận, xứ công xảo v.v… thảy đều giỏi: Đức Phật, hiệu là pháp vương. Ba tạng giáo pháp, gọi là chính trị, thi thơ, biện luận. Sự nghiệp lợi tha, gọi là xứ công xảo. Bồ-tát khéo biết việc này. Thanh văn thì không như thế.

Y cứ trong giải thích khác nhau, trước nêu sự khác nhau, Nêu có mười ba. Kế là giải thích riêng. Dù nêu mười ba, nhưng mười hai trong giải thích, dùng hai môn: chủng tánh, trì chủng kết hợp giải thích, nên nói: “Lại, Thanh văn kia, cho đến “mà là Phật tử”, nghĩa là Thanh văn dù “duyên” Niết-bàn, tác ý tập hợp thành, mà chẳng phải Phật tử. Lại, “Thanh văn kia, dù siêng năng tinh tấn v.v… cho đến “trái với kia”, nghĩa là Thanh văn dù siêng năng tinh tấn, với tâm quán bốn đế, được trụ định, nhưng không thành tựu tướng chủng tánh Phật, nên gọi là không có chủng tánh. Chư Phật không thể nhiếp thọ, nên gọi là không trì chủng”.

Lại, đối với Thanh văn cho đến “Vì Niết-bàn kia do tác ý này nhóm hợp thành”, về nghĩa đồng với pháp thế gian thứ nhất của Bà-sa, đều là vượt hơn. Đức Như lai bất cứ lúc nào, cũng vượt hơn Thanh văn. Bồ-tát đối với Phật, lại càng vượt hơn Phật. Đức Phật kia do Bồ-tát này nhóm hợp thành, nên như pháp thế đệ nhất vì khai sinh Thánh đạo, nên đều vượt hơn. Lại “Do hai duyên cho đến “có thể khiến cho giải thoát”, đây là giải thích lý do Bồ-tát hơn Phật:

1/ Do nhân duyên Bồ-tát này tu sáu độ, cảm quả Bồ-đề.

2/ Vì được Bồ-đề rồi, thành thục hữu tình.

Cũng có thể: 1/ Thành thục hữu tình; 2/ Thành thục Phật pháp. Do hai duyên này, nên chiêu cảm Bồ-đề, thành thục hữu tình, cho nên vượt hơn Như lai.”

Lại giải thích: “Trên, đối với quả Phật, để nói về sự vượt hơn. Bồtát kia, do hai duyên nên vượt hơn Thanh văn. “Thí như có người” trở xuống v.v…, là dụ so sánh:

Năng biện: Dụ cho tu nhân năng thành thục: dụ cho đắc quả. Vì tu hành khéo léo, nên gọi là giác tuệ ít có, diệu kỳ! Tự tu hành đã mãn, làm lợi lạc chúng sinh, không đồng với Thanh văn, sau khi chứng quả rồi, vắng lặng thọ dụng, nên nói: “Thanh văn kia an nhiên mà ăn dùng”.

Thứ tám, môn Đại. Giải thích Bồ-tát khéo học trí thế gian, xuất thế gian, lợi ích sự nghiệp lợi tha, trong đó, trước chung sau riêng. Trong riêng, trước nói về trí thế gian. Sau, nói về trí xuất thế gian.

Trong phần trước, trí thế gian thôi dứt, hàng phục tạp nhiễm phẩm trung thượng, tức là Kiến đạo trở xuống.

Nói “Các vị xuất gia cho đến “đối với chẳng phải giải thoát, chấp làm tánh y chỉ của giải thoát”, ở đây có bốn trường hợp:

  1. Tánh y chỉ của ác kiến.
  2. Và ác kiến kia đã dựa vào định học. Tác ý bất chính, dựa vào tánh chỉ.
  3. Nguyện tánh y chỉ của hữu sau.
  4. Hoặc chung do bốn điên đảo, hoặc riêng do một hai điên đảo, nên chấp giả dối tánh y chỉ của Niết-bàn.

Nói “Trong chứa nhóm cho đến “đều được quyết định”, nghĩa là đối với các nhóm như sắc v.v… do một niệm chấp “hoặc” phẩm trung khởi thì có thể hàng phục. Từ đây vì dứt trừ “hoặc” mà trí xuất thế đã dứt, nên y chỉ đối trị, tức khiến cho trụ vững chắc. Do đối trị này có thể hàng phục ngu mười hai duyên khởi.

Ngu tánh vô ngã của Nhân, Pháp, đối với nội, ngoại đạo, tà, chanh này đều được quyết định.

Kế là nói về trí xuất thế gian, đầu tiên, nói chủ thể trị tùy miên vi tế, gọi là trí xuất thế. Đây là nói về kiến đạo đoạn, ở ba cõi, tùy miên do kiến dứt trừ. Ở đây lại nói vì sao? Cho rằng dựa vào hàng phục tùy miên kia, mà đối trị ba cõi.

Thiện xảo v.v… Đây là nhắc lại kiến đạo trở xuống. Do thực hành ba thứ thiện xảo làm gia hạnh, nên được nhập kiến đạo. Kế là, nói về tu đạo. “ Vì muốn vượt qua cho đến” tinh tấn, siêng năng bên trong, quán sát tự tâm”: đây là nêu chung. Bốn thứ vô tri tức là vô minh do tu dứt trừ, không thể biết rõ bốn tướng khởi.”

Dưới đây là giải thích riêng. Đầu là nêu bốn danh. 2- Theo thứ lớp giải thích:

Thứ nhất do ba thứ tướng mạo, nên biết được cộng tướng của tâm:

  1. Đối với bốn duyên sinh: Vì chưa sinh đã diệt, nên không có tác dụng.
  2. Vì hiện tại, sát-na diệt nhanh chóng, nên không có tác dụng.
  3. Vì tâm tham v.v… đã từ duyên, khiến sinh tác động của phi tâm.

Thứ hai do ba thứ tướng mạo, nên biết được tự tướng:

1. Như trước đã nói, tự tánh của ngôn thuyết không thật có, nghĩa là Biến kế sở chấp tùy theo tánh ngôn thuyết không thật có.

2. Như trước nói: “Do sáu thứ tướng như thật có thể được”. Nghĩa là như trước nói “do sáu tướng trong tánh vô ngã của pháp quán xuyến như trước) Đối với các người ngu, Biến kế sở chấp tướng của tướng khác của tự tánh ngôn thuyết có thể được.

3. Vì sở đắc của trí vô sai khác, tức là sở chứng của trí chánh thể.

Do ba thứ tướng nên biết được tướng tạp nhiễm của tâm:

1. Tức ở trong năm cõi, vì tự thể của mỗi thứ thức sinh, nên gọi là sinh.

2. Tức trong năm cõi này, vì tự nhiên sinh, diệt có lưu chuyển. Vì khó điều phục tâm, đối với các cảnh giới và vì sức tham đã khởi, nên gọi là chuyển.

3. “Nếu đối với hành kia, nếu hành động như thế, gọi là hành tạp nhiễm”, đây là nêu hai chương. Dưới đây là giải thích riêng hai chương. Đầu tiên là giải thích hành kia, tức có năm câu. Kế là, giải thích về hành như thế, có sáu câu.

Ở trên, nói về pháp thuyết. Dưới là nêu dụ thuyết. Trong nghĩa này, thị hiện giả hợp, mà đặt ra thí dụ. Sự ấy nên biết, nghĩa là như nhà, như xe, rừng v.v… là thí dụ.

1. Do ba thứ tướng, nên biết tướng thanh tịnh của tâm:

2. Tướng bất đắc (không chứng đắc), nghĩa là nếu do khác nhau, như lý siêng tu, cầu tâm thanh tịnh, không thể chứng đắc.

3. Tướng vô vi, nghĩa là không quán thấy tự tánh của ngôn thuyết, thấy tướng chân như, đây là do chín tướng tương đương với quán vô vi:

1/ Không hành ba đời.

2/ Chẳng phải như tâm, tâm sở diệt, trong định Diệt tận, nhưng là vô vi, vì tự tánh ngôn thuyết không thật có, vì tướng chân như là thật có, chẳng phải “có” “không”, là bình đẳng không hai tướng.

3/ Chẳng phải tướng quả báo của sinh thân.

4/ Vượt qua tướng nhân của nghiệp “hoặc”.

5/ Vượt qua sinh cũa hữu sau.

6/ Vượt qua già chết.

7/ Vượt qua sát-na, vì xoay vần nối tiếp nhau không xa lìa.

8/ Vượt qua năm đường chuyển dời.

9/ Vượt qua sự tạo tác nghiệp phiền não.

3/ Tướng của chủng tánh, văn chia làm hai: Đầu tiên, y cứ một vị để nói về chủng tánh, hiện tại, mai sau, vượt qua, gồm có mười một tướng. Sau, y cứ vào bốn thứ chín tướng, để nói về tướng của chủng tánh.

Trong phần trước nói về tướng của chủng tánh trong đây, phải biết là tướng của giới vô học: Giới nghĩa là nhân, tức là tướng nhân sanh quả Vô học.

“Vượt qua năm việc trong hiện pháp, nghĩa là pháp thiện gọi là sở tác, ác, vô ký, gọi là phi sở tác. Tinh tấn gọi là gia hạnh của sở tác. Biếng nhác gọi là sở tác, chẳng phải gia hạnh, gia hạnh trong vô ký ác, gọi là chẳng phải gia hạnh sở tác. Vượt qua năm sự như thế trong hiện pháp, gọi là tướng của chủng tánh.

Vượt qua sáu sự trong pháp sau v.v… 1- Giải thích nghiệp của hữu (thân) sau do hiện tại chiêu cảm, gọi là hành của hữu sau. Nghiệp đã tạo trong thân sau, gọi là hành của hữu kia. Nghiệp đã cảm sinh quả gọi là sinh của quả kia. Dựa vào quả kia. Dựa vào quả kia, phát ra nghiệp của hữu sau. Vì suy, thịnh, nên gọi là dựa vào thịnh suy kia. Với nghiệp đó đã cảm quả của năm đường, tu học cầu nguyện, thô dụng khổ vui v.v… trong pháp giáo động, gọi là đối với sở y kia, cho đến kỳ nguyện thọ dụng. Sự khác nhau của thân năm đường kia, gọi là tự thế khác nhau của sở y kia.

1/ Giải thích phát nghiệp của hữu sau, vô minh gọi là chủ thể phát khởi hành của hữu sau, đã phát ba nghiệp, gọi là hành của hữu kia. Pháp khác, đồng với giải thích trước.

Vượt qua sáu sự như thế ở trong pháp sau, cũng gọi là tướng của chủng tánh. Kế là y cứ vào bốn vị, chín tướng để nói về tướng của chủng tánh:

1/ Vị không thanh tịnh, nghĩa là chủng tánh của tánh.

2/ Vị thanh tịnh, là hạnh thắng giải.

3/ Vị thông đạt là kiến tu.

4/ Vị rốt ráo là quả Vô học.

Dưới đây, là giải thích chín tướng.

Ở vị không thanh tịnh có một tướng, nghĩa là tướng đẳng tùy hành, khắp đối với tất cả đẳng tùy hành của tướng sắc v.v…, cũng như hư không không có chi không tồn tại. Nơi vị thanh tịnh có hai tướng:

1/. Tướng bình đẳng một vị.

2/. Tướng thân, tâm xa lìa.

Ở Vị thông đạt có hai tướng:

1/ Thuận theo thú hướng rốt ráo.

2/ Siêu việt qua các đường ác kiến.

Ở Vị rốt ráo có bốn tướng: Một là vị thành, mãn, yên vui. Ba vị sau, tức là vượt qua ba sắc biến đổi hư hoại.

Nói xứ điên đảo biến đổi, hư hoại:

1/ bốn xứ điên đảo biến hoại.

2/ Tâm cuối cùng của trung hữu.

Thứ chín, là môn Đại, sở học của Thanh văn trong giải thích về giáo thọ của Bồ-tát.

Nói “Bổ-đặc-già-la vì không có tánh ngã, hoặc vì pháp là tánh vô ngã, nghĩa là trong đây, đã nói về sở học của Thanh văn, vì sao lại nói pháp vô ngã ư?”

Giải thích: “Vì Thanh văn, lợi căn cũng tu quán pháp không.”

Lại, giải thích “Ngã không” trong đây, gọi là nhân vô ngã. Vì ngã đã không, nên gọi là pháp vô ngã”. Lại, như chính là không trừ bỏ, nghĩa là dù rằng còn do cảnh và sức người khác mà khởi chấp giả dối, nhưng chưa bị người khác dẫn dắt mà khởi tham, sân v.v… gọi là chính không trừ bỏ. Nếu đã bị người khác dẫn đoạt rồi, khởi tham, sân v.v… gọi là đã không trừ bỏ. Nếu do tùy theo một tham v.v… không trừ bỏ, phải biết rằng, tùy một sân v.v… cũng gọi là không trừ bỏ. Đang bỏ, đã bỏ, trái với đây rất dễ hiểu.

Tám học pháp trái nghịch:

1/ Mê đắm, năm dục, luống uổng công phu.

2/ Mê đắm cảnh, nên không được tự tại.

3/ Vì đã không tự tại, nên che lấp tu ba học.

4/ Vì đã làm chướng ngại, nên khiến trở thành chấm nhơ, không tránh khỏi chê bai hiềm khích.

5/ Vì đều có chấm nhơ, nên tổn thất ba học.

6/ Vì đã gây tổn thất cho học, nên hay khởi vết thương của ba nghiệp bất tịnh.

7/ Vì đã có vết thương, nên tâm sinh ăn năn, phiền não, không được yên ổn tu ba học.

8/ Vì đã nóng nảy, bực dọc, nên các bệnh phiền não với sắc thái vững chắc, khó dứt trừ.

Dưới đây là, môn Đại thứ mười và môn thứ mười một, trong đó đầu tiên giải thích học bất thiện. Kế là, giải thích học thiện. Sau, đối nhau nói khác.

Đầu tiên, trong giải thích Sa-môn học bất thiện, trước gạn nêu ba thứ.

Nói “Đồng phần của hình tướng”, nghĩa là bề ngoài giống như Samôn, bên trong không có chánh hạnh.

Kế là, giải thích riêng về tướng của đồng phần, không đồng phần, trong đó có hai:

1/ Y cứ vào tiền của, dụng cụ, để nói về đồng phần, không đồng

phần, nghĩa là nếu mong cầu tiền của, dụng cụ để tu ba học, vì dáng dấp bề ngoài giống như tu, nên gọi là đồng phần của ba học, do không chính cầu giải thoát, nên gọi là không đồng phần của ý lạc.

2/ Y cứ ở tiếng khen, để nói về đồng phần, không đồng, nghĩa là nếu đối với tiếng khen, mà học chỉ quán. Vì thân mang tướng ngoài, dường như tu nên gọi là chỉ quán. Nếu tướng riêng, hoặc song tu và đồng phần của tư lương chỉ, quán, do không thuận với ba tướng, nên gọi là không đồng phần của ý lạc.

Kế là, Sa-môn học thiện do bốn thứ tướng, nghĩa là do gia hạnh nhàm chán gia hạnh thành thục nối tiếp nhau trong đời trước, nên gia hạnh viên mãn, nghĩa là như chỗ khác nói: “Do dục vượt hơn hiện tại và thiện căn quá khứ mới có thể tu đạo”. Điều này cũng so sánh mà biết. Hai là do ý lạc thắng giải của pháp vô nga, nên nếu đối tượng nên được, nghĩa là đạo sở chứng. Nếu có thể trở nên được, nghĩa là đạo sở chứng, đối với hai pháp tùy tự tánh ngôn thuyết, vì không có chấp mắc, nên chính vì tìm cầu trong nghĩa của bốn y thú, nên không chỉ tùy ngôn thuyết, mà còn tùy nghĩa, nên ý lạc viên mãn.

3/ Về chân như “pháp không” Vì không do giáo của người khác, nên trí thông đạt tự tánh không có tạp nhiễm. Lại, trong Tam Bảo thế tục, sinh tử thế tục ràng buộc Niết-bàn, giải thoát, vì thông đạt tự tánh không có sở đắc, nên thông đạt viên mãn.

4/ Vì đã giỏi tu tập đối trị hai chướng và vì ở chân như không có kiến đoạn hoại, nên hướng đến rốt ráo viên mãn. Dưới đây là đối nhau để nói về sự khác nhau:

Lại nữa, Sa-môn học bất thiện, do ba tướng gọi là nghĩa bất như.

“Nói gia hạnh đầy đủ ý lạc suy tổn”, nghĩa là hay nghe nói chứng, gọi là gia hạnh đầy đủ. Vì không có Thắng tấn (tiến bộ), nên gọi là ý lạc suy tổn, văn còn lại rất dễ hiểu.

Thứ mười hai, là Môn Đại. Giải thích trụ giới thế tục có bốn tướng:

1/ Dù có sáu chi Thi-la, mà vì hai thứ suy tổn, làm tổn hại Thi-la: a. Do hiện hành của ngã kiến. b. Vì đối với trái phạm, sám hối, không nhận biết (vì không biết rõ về vi phạm, sám hối).

Sáu chi Thi-la như Bản địa nói.

2/ Dù xa lìa hai lỗi hao hụt này, nhưng vì chưa được định cộng giới của thế gian, nên không thể hàng phục thân kiến.

Hỏi: “Đã lìa hai lỗi, vì sao lại nói rằng không hàng phục thân kiến ư?”

Giải thích: “Dù tạm thời không khởi thân kiến, nhưng chưa dưa vào định để hàng phục”.

3/ Dù được Định giới của thế gian đã hàng phục thân kiến, nhưng vì tà giải pháp không là chưa được cho là được, nên làm tổn hại Thi-la, đây đều là ở vị Địa tiền.

Thứ mười ba, Môn Đại, giải thích trụ giới Thắng nghĩa, trong đó, đầu tiên nêu chung tướng của giới vô lậu. Kế là, đối với thế tục để nói về thắng nghĩa, sau là phán quyết, giải thích về nghĩa Già tha.

Trong phần đầu, là Thánh đã thành tựu luật nghi vô lậu, đều có với đạo đối trị, nhiếp thu giả từ thật, cũng gọi là đối trị.

Kế là, trong phần đối với tục nói về chân trước nêu chung về hý luận của thế tục. Nếu có thể vắng lặng thì thế tục kia sẽ được gọi là giới vô lậu.

Trong nói riêng, nói “Tùy hành thô nặng của phẩm thân kiến trong vị thứ hai, nếu gọi là có thể được, hoặc sắc có thể được, nghĩa là do thô nặng đã theo năm uẩn hiện có thể được, hoặc sinh nhau ở đương lai.

Vô tướng thời nay v.v… Do có thô nặng nên dù thích hợp có thể sinh thân, mà nay chưa sinh. Y cứ triền ràng buộc không khởi, gọi là vắng lặng, cũng có tùy miên, gọi là không vắng lặng. Nếu Bổ-đặc-giàla chấp vô ngã, nếu Bổ-đặc-già-la chấp xả bỏ, nghĩa là dù đã bỏ ngã chấp mà vẫn chấp vô ngã.

“Nếu tức đối với nhân vô ngã kia cho đến “Nếu chẳng phải tánh bị chấp”, nghĩa là chấp là vô ngã trong chấp “nhân vô ngã” kia, gọi là tánh bị chấp. Không chấp làm ngã, gọi là chẳng phải tánh bị chấp.

“ Nếu do đây, cho đến “Có thể giả thiết tâm, ngữ, giả đặc ra chấp khen điều thiện, vấn đề này có hai giải thích:

1/ “Do chấp này, vì chẳng phải tánh chấp, nên hữu tình chấp chuyển trong năm uẩn như sắc v.v… Nếu hữu tình kia dù khen ngợi việc thiện, hoặc có thể pháp giả khen tâm, ngữ thì pháp này chính là người khen và pháp khen.”

2/ “Nếu do thô nặng tùy hành thân kiến này, nên trong cõi hữu tình như sắc v.v… đối với hữu tình kia trụ Thi-la”, nghĩa là dù khen việc thiện thì tâm, ngữ lại chấp khen việc thiện.”

Nói “Nếu sinh ở cõi trên, nên là thế gian, nếu bỏ cõi dưới nên chẳng phải thế gian”, nghĩa là dù bỏ cõi Dục, gọi là phi thế gian, nhưng vì sinh cõi trên, nên cũng gọi là thế gian.

Dưới đây giải thích nghĩa Già tha:

Nói “Lại, tức tương ưng với nghĩa này v.v… đến “Già tha”, đây là nêu chung, tức tương ưng với nghĩa vắng lặng của hí luận này.

Dựa vào giới, định, tuệ vô lậu, nên biết rằng, trong kinh đã nói về nghĩa Già tha.

Kế là, giải thích đúng về nghĩa Già tha kia. Đại ý có hai:

1/ Nói về tư lương phước, tức là giới, định, trần nhơ yếu mỏng, vì nhiếp thọ Thiện sĩ không có mất mát, hư hoại.

2/ Nói về tư lượng trí, tức là tuệ học, vì khởi thắng giải đối với chỗ nghĩa văn thật sâu sắc, đây là do hai duyên nhập giáo của Như lai:

  1. Do pháp trụ trí phân biệt rõ, tức là trì duyên, nhân quả ba cõi.
  2. Do trí chân thật khéo quyết định, tức là trí vô lậu.

Thứ mười bốn, Môn Đại, là giải thích về phương tiện điều phục của Như lai. Đầu tiên, là nói về hai đồng phần. 2- Nói về bốn giáo đạo.

Trong phần đầu, nói phương tiện này có hai thứ, nói là vì đồng phần của tự thể, nghĩa là vì đồng tự thể của đối tượng đã hóa độ kia.

Và, vì đồng phần của thắng giải, nghĩa là sao cho đối tượng hóa độ kia đồng với thắng giải của mình. Lại, thể hiện đồng phần, vì để tâm an trụ thọ giáo, nghĩa là vì để tâm an trụ thọ lãnh giáo pháp, nên thể hiện đồng phần của tự thể. Và vì dựa vào sự truyền dạy mà xuất ly, nên khiến cho đối tượng giáo hóa kia đồng với thắng giải của mình, mà tu đạo.

Thứ hai, trong giải thích về giáo hóa, dẫn dắt, trước nêu chung, về danh. Sau, tùy chỗ khó khăn giải thích lại.

Trong giải thích có hai: 1. Giải thích. 2. Giáo hóa, dẫn dắt. Giáo hóa dẫn dắt này có hai:

  1. Do tự tánh phân biệt.
  2. Phân biệt khác nhau bên trong.

1/ Kế là giải thích phần giáo đạo thứ ba, cũng có hai:

a/ Y cứ vào đạo mà nói b/ Y cứ vàp Niết bàn.

Y cứ vào đạo có hai:

  1. Do phân biệt tạp nhiễm của đạo trước, sau.
  2. Do phân biệt xa lìa tạp nhiễm.

Y cứ ở Niết-bàn có hai:

1- Do tùy theo tự tánh của ngôn thuyết, mà chấp.

2- Vì tác động tưởng sở hữu của tâm trong danh, tưởng Niết-bàn.

Thứ ba, giải thích giáo hóa, dẫn dắt thứ tư, cũng có hai trường hợp:

1/ Tất cả tưởng trong tâm vắng lặng, và tưởng tăng ngữ vì biết rõ khắp.

2/ Đối với nhân duyên của hai tưởng kia, đều xa lìa.”

Lại, giải thích: “Đối với nhân duyên sợ hãi của dẫn đạo thanh tịnh kia và nhân duyên sợ hãi của Niết-bàn thanh tịnh, đều xa lìa, phải biết là phương tiện giáo hóa dẫn dắt của hiện pháp lạc trụ thứ nhất.

Thứ mười lăm, Môn Đại, là giải thích về ngôn ngữ mật ý, trước giải thích ngôn ngữ mật ý. Sau là nói về ba viên mãn.

Trong phần trước, nói “rằng, sự của chỗ yên ổn đủ của các danh ngôn cho đến “gọi là thanh tịnh”: Đây là y cứ y tha, để nói không có hai tướng.

Nói “Lại, chẳng phải sự của chỗ yên ổn đủ của tất cả danh ngôn v.v… đến “gọi là thanh tịnh”: Đây là y cứ ở Viên thành để nói không có hai tướng.

Đối với một việc kia, vừa có, vừa không, chẳng phải có, chẳng phải không, nên gọi là không hai. Dưới đây, nói về ba viên mãn: nói “Do năm tướng gọi là luận Viên mãn v.v… ”:

  1. Nhân duyên của thuyết.
  2. Ngôn của tuyên.
  3. Pháp sở thuyết.
  4. Nghi thức của thuyết.
  5. Người năng thuyết.

Nói “Nếu oán trong vượt hơn” nghĩa là oán phiền não vượt hơn.

Nếu oán ngoài vượt hơn, nghĩa là hàng phục thiên ma vượt hơn.

Nói “Do năm tướng, gọi là quả thắng lợi viên mãn v.v… ”.

  1. Cúng dường Như lai.
  2. Trả ơn thí chủ.
  3. Vượt qua khổ sinh tử.
  4. Đối với tánh của ruộng phước điền, không có lui sụt.
  5. Từ giáo pháp của Phật hóa sinh, gọi là Phật tử Y chỉ nhà Phật.

Thứ mười sáu là Môn Đại, giải thích vế thắng lợi của thắng giải trong giáo thọ của tạng Bồ-tát, trong đó, đầu tiên, là nêu chương bày danh. Kế là giải thích riêng. Sau kết thành vô lượng.

Y cứ trong giải thích riêng, tức có năm đoạn, trước là giải thích tướng thứ nhất, nghĩa là do năm tướng che ánh sáng, cảm nhận tăng thượng của sự giàu sang:

1/ Khả năng dẫn đến quả của đường lành hữu lượng và vì dẫn đến vô lượng quả của thế gian, xuất thế gian, cung có thể là nhân giàu sang, vì dẫn đến quả hữu lượng. Thắng giải có dẫn đến quả vô lượng, nên cách giải thích sau là hơn.

2/ Nhân giàu sang, vì pháp có cùng tận. Nhân thắng giải vì pháp vô tận.

3/ Nhân giàu sang vì cảm chẳng phải niềm vui rộng lớn. Nhân thắng giải cảm niềm vui rộng lớn.

4/ Vì nhân giàu sang là quyến thuộc của trí nhân thắng giải là tự tánh của trí.

5/ Do thắng giải này có thể dẫn phát trí kia, kế là, giải thích tướng thứ hai:

Y cứ vào hành động của thân lìa sáu lỗi, do giải thích thân chuyển y, là vì sở y.

Nói Ba”, nghĩa là do lỗi lầm oai nghi của hai thứ tướng, đây có hai giải thích:

1/ “Oai nghi có bốn, hợp lại thành hai: a. Đi.

b. Đứng tọa, ngồi, nằm, nên nói là hai tướng:

2/ “Rất nhanh rất chậm là lỗi lầm của hai tướng oai nghi.

3/ Do lỗi của tướng sợ hãi của ba thứ tướng: già, Bệnh, chết.

4/ Do lỗi của hai thứ tướng Át-lý-sắc-tra. Át-lý-sắc-tra, nghĩa là tạp nhiễm, nghiệp phiền não gọi là hai tướng.”

Lại, giải thích: “Hai cảnh nhiễm, tịnh của trái, thuận được gọi là hai tướng.

Kế là, giải thích tướng thứ ba. Về tướng, khi chúc mừng, an ủi xa lìa năm lỗi. Vì tạo nên chỗ nói pháp, nên nói làm đồ đựng thuyết.

Kế là, giải thích tướng thứ tư. Lại, ở vào lúc thọ ký, phân biệt điều mình hiểu rõ, xa lìa năm lỗi. Vì đào tạo người nói pháp, nên làm khí cụ của người nói”. Dưới đây, là giải thích tướng thứ năm, nghĩa là xa lìa năm lỗi khi sắp qua đời.

Được thấy nghiệp thanh tịnh, ba thứ đầu trong năm lổi lấm, gọi là nghiệp không thanh tịnh. Thứ tư gọi là kiến không thanh tịnh, một thứ sáu, chung lổi cho kiến, nghiệp.

Hữu dư y và Nhị địa Vô dư y. Dưới đây là thứ mười hai, hợp quyết định lựa chọn Nhị địa hữu dư, Vô dư. Có nửa quyển được chia làm hai: Đầu tiên, chánh quyết định lựa chọn Nhị địa. Sau, kết chung các địa, quyết định lựa chọn, khuyên các địa nên tư duy.

Trong phần trước, đầu tiên là trước, sinh sau, 2, hai là chia ra chương, giải thích, trong đó lại có hai: Trước là lập môn chương, tức có mười bốn, trong bài tụng v.v… nói: nhiếp thu ba môn, kế là y môn giải thích.

1- Giải thích. Môn lìa trói buộc, có hai phen hỏi đáp, như văn, rất dễ hiểu.

2- Giải thích môn Thọ hành.

Nói rộng về La hán, có hai hạng: a) lợi căn, 2) Độn căn. Trong lợi căn có hai: 1) Câu giải thoát, 2) Tuệ giải thoát. Trong độn căn cũng thế.

Trong đây, người nào có thể bỏ tuổi thọ, tăng tuổi thọ? Ở đây có năm cách giải thích:

1/ “Chỉ có lợi căn (căn nhạy bén) câu giải thoát là người xả tuổi thọ, tăng tuổi thọ. Ba người còn lại thì không thể, nên nói: “Công năng khác nhau”.

2/ “Nếu người căn cơ nhạy bén, tuệ giải thoát, đều được thêm tuổi thọ xả tuổi thọ, chỉ trừ độn căn (căn chậm lụt) không thể thêm, xả.”

3/ “Hai quả đầu không được mạng sống lâu, người chứng quả bất Hoàn cũng được sống lâu, tức dẫn kinh Niết-bàn ba mươi ba để chứng minh cho nghĩa này. Lại, xét văn kia”.

4/ “Người chứng hai quả đầu cũng được mạng sống lâu. Người Bất hoàn cũng được mạng sống lâu, đều do sức phước, không do sức định, vì chưa được định tự tại bờ mé”.

5/ “Hai quả ban đầu cũng được định tự tại mà mạng sống lâu, do hàng phục “hoặc”, được định căn bản”.

Thứ ba, là giải thích chuyển y, trước hỏi, sau đáp. Trong đáp có ba: Đầu tiên, là chính đáp câu hỏi trước. Kế là, dẫn thuyết chứng thành. Sau, nêu dụ để nói chẳng phải lìa, chẳng phải hợp.

Trong phần đầu, ý nói chuyển y là xuất ly ràng buộc, do chân như hiển bày, nên đối với sáu xứ kia chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Chủng tánh của Chân như, nghĩa là lấy chân như làm thể hạt giống của chân như, nghĩa là “duyên” chân như làm cảnh rồi huân tập thành hạt giống.

Chân như nhóm họp thành, nghĩa là nương tựa chân như mà nhóm họp thành muôn đức. Vì “như” là thể, nên chẳng thể nói “khác”. Vì y cứ nghĩa bất nhất, nên chẳng thể nói “không khác”, cho nên nói: “tánh khác, chẳng khác, đều không thể nói. Nhưng về nghĩa “không thể nói” này, như trước đã nói.

“ Đức Thế tôn dựa vào chân như này v.v… ” trở xuống, là thứ hai, dẫn thuyết để chứng thành, tìm văn, rất dễ hiểu.

“Như người giết mổ bò v.v… trở xuống, thứ ba, nên thí dụ để nói, trong đó, trước nêu dụ để so sánh với pháp kia. Sau, nhân tánh ngôn ngữ để nói đã chuyển y, nghĩa là lấy tướng khác nhau, nói là các tướng bị lấy kia. Đã lìa tánh ngôn thuyết, như cảnh chân như không thể nói năng.

Thứ tư, trong giải thích môn Trụ, nói nhập diệt định dần, nghĩa là nếu người tuệ giải thoát, khi muốn nhập Vô dư, chưa hẳn là nhập diệt định, nay y cứ vào giải thoát nên nói trước tiên là nhập Diệt định cũng có thể La hán khi sắp nhập Vô dư, thì phải nhập diệt định, không cần xuất định, mới nhập Vô dư. Việc này tức trụ ở thức thứ tám nhập Niếtbàn, không đồng với luận Tiểu thừa nói trụ tâm v.v… Dị thục thứ sáu, mà nhập Niết-bàn.

Nói “tất cả sinh, tất cả loại sinh”, ở đây có hai giải thích:

  1. “Tất cả sinh, nghĩa là bốn sinh. Loại sinh nghĩa là báo của biến dịch.
  2. “Tất cả sinh nghĩa là bốn sinh. Loại sinh, nghĩa là mỗi loại trong bốn sinh, đều có chủng loại khác nhau.

Nói “chỉ thành xong”, nghĩa là vì tự chứng bên trong.”

Có Luận sư giải thích: “Đã nói tự chứng nên biết rằng, dù chẳng phải sáu đường mà có người kia. Nhưng văn dưới đây nói rằng: “Không thể đặt ra đây là Như lai, Thanh văn v.v… ”: Đây là chĩ rõ nghĩa không có sai khác, chứ chẳng phải không có người kia. Nhưng nay người của môn ba tạng, giải thích rằng: “Đối với tu đạo nói là nói, nói nghĩa là nội tại chứng pháp giới, chân thật, lại không có người chứng.

Thứ năm, là giải thích môn sai khác có hai hỏi đáp. Trong hỏi đáp thứ hai, giới này chẳng phải khổ, nên chẳng phải đối tượng biết khắp. Vì chẳng phải Tập, nên chẳng phải cái nên dứt, thành thử chẳng thể diệt, cũng gọi là Trụ.

Thứ sáu, là giải thích môn Hữu, có ba lượt hỏi đáp: Đầu tiên, là nói về “có”. Kế là nói về tướn, sau nói lý do của “có”, với hai lượt giải thích.

Thứ bảy, là giải thích môn Thường. Hỏi, đáp, gạn hỏi giải thích.

Thứ tám, là giải thích môn Lạc, cũng hỏi, đáp, gạn hỏi, giải thích.

Thứ chín, là giải thích môn khác lạ, có ba lượt hỏi đáp.

Thứ mưới, là giải thích môn tánh khác. Về các hành văn rất dễ hiểu.

Thứ mười một, là giải thích môn tự tại, có ba lượt hỏi đáp.

Hỏi: “Hàng Nhị thừa nhập Vô dư, đã không có thân trí, vì sao lại nói là được tự tại ư?”

Giải thích: “Dù không có thân trí mà chân pháp giới xa lìa ràng buộc, nên nói là tự tại.

Thứ mười hai, giải thích môn Phát thú, có hai hỏi đáp: trong hỏi đáp đầu, nói “Chỉ trụ hữu dư, có thể có việc này”.

Hỏi: “Nếu vậy, vì sao Kinh Lăng-già nói: “Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Sao đức Thế tôn nói Thanh văn được thành A-nậu Bồ-đề?”

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ! “Ta vì người nhập Niết-bàn Vô dư mà nói.”

Đáp: “Có Luận sư nói: “Không có Nhị thừa tu không thành Phật, nên trụ Vô dư cũng được hồi tâm, trong kinh, y cứ vào thuyết này, vì người nhập Niết-bàn Vô dư mà nói. Luận y cứ vào thời gian lâu, xa, vì khó biết được, nên nói “Chỉ trụ hữu dư, có thể có việc này, chứ chẳng phải trụ Vô dư”. Tức là dẫn ba văn để chứng thành nghĩa này:

1. Kinh Niết-bàn quyển hai mươi mốt nói: “Tám muôn, sáu muôn, bốn trăm hai mươi mốt muôn kiếp trú xứ của Thanh văn, Độc Giác, gọi là Niết-bàn. Nếu lúc trụ hữu dư y, vì không có Nhị thừa trụ tám muôn kiếp v.v… ”.

2. Kinh Lăng-già nói: “Vị chấp mắc niềm vui tam-muội, an trụ giới vô lậu, không có cõi rốt ráo, cũng không lui sụt lại, được các thân tam-muội, cho đến kiếp bất giác. Ví như người người say hôn mê, khi rượu tan hết, sau đó mới tỉnh. Pháp giác ngô kia cũng thế, được thân vô thượng của Phật.

3. Luận Đại Trí Độ chép: “Dứt trừ nghiệp phiền não của ba cõi, vào Niết-bàn Vô dư, mà sinh Tịnh độ, nghe kinh Pháp Hoa.

Học trò của Tam Tạng nói: “Có Nhị thừa quyết định tu không thành Phật. Ý kinh ấy nói: “Người muốn vào Niết-bàn Vô dư, vì hồi thú Đại thừa, nên nói là Thanh văn được thành Đại giác, chứ chẳng phải nói người đã nhập Vô dư, lại hướng về Đại giác, cho nên chẳng trái.”

Lại, giải thích: “Luận như thế v.v… ” trở xuống, là nói phương tiện thị hiện nhập cõi Vô dư y v.v… Dù nói người này, vì nhập Niết-bàn Vô dư là thật sự hồi hướng Bồ-đề, còn Thanh văn trụ Niết-bàn hữu dư. Say rượu Tam-muội là người tánh bất định, trụ trong định vắng lặng. Về sau xuất định rồi, thú hướng Đại thừa, làm thân biến dịch.”

Kinh Niết-bàn chép: “Trụ tám muôn kiếp, nghĩa là Thanh văn kia y cứ ở chỗ tiêu luyện, trụ tám muôn kiếp v.v… sau đó, mới đến sơ tâm Thập Tín, nên nói lời này.

Văn của Trí luận kia, xưa nay có hai giải thích:

1/ “Y cứ vào Tịnh độ pháp tánh, tức là thể Vô dư, nên nói rằng: “Sinh Tịnh độ, nhập cõi Vô dư.”

2/ “Thọ báo biến dịch, qua lại cõi nước biến hóa, nghe kinh Pháp Hoa, vì đã qua là sinh, chứ chẳng phải thọ sinh.

Thứ hai, trong hỏi, đáp, nói “Thêm các thọ hành, mới có thể thành xong”, ở đây có hai giải thích:

1/ “Dù sinh Vô dư mà vẫn được vào định tự tại, đốt luyện phần đoạn, tăng tuổi thọ biến dịch, nên thành tựu Đại giác.”

2/ “Mạng phần đoạn sống lâu, được trụ nhiều kiếp, tu hạnh Đại thừa. Kinh chép: “Tu-đà-hoàn đến tám muôn kiếp v.v… đều là mạng sống lâu mà trụ”. Dù có hai giải thích, nhưng giải thích trước là hơn.

Nói: “Loại vật, người thiện nam v.v… ”, nghĩa là thông thường, một loại vật chỉ hồi hướng Bồ-đề Thanh văn.”

Lại, giải thích: “Chẳng phải như Nhị thừa định tánh nhập hẳn Vô dư, không ở số hữu tính, nên nói vật loại”.

Nói: “Pháp đồng”, nghĩa là thị hiện tiền phương tiện v.v…

Hỏi: “Vì sao người đồng pháp trước nhập Vô dư ư?”

Pháp sư Thái v.v… giải thích: “Sợ e pháp đồng kia vì phát vô kiến, nên làm hoá thân ưa nhâp Vô dư.

Thứ mười ba, là giải thích về môn chủng tánh. Văn có bốn lượt:

1. Nói về chủng tánh La-hán có khác nhau: Có người phát tâm Đại thừa, có người nhập Vô dư.

2. Nói về căn duyên có khác nhau, nên địa vị lúc hồi tâm khác nhau, trong đó, đầu tiên, là nói về phần vị thời gian hồi tâm của Thanh văn khác nhau. Sau là nói riêng Bồ-tát chấp nhận hướng xuống thừa dưới, vì định mà Đức Phật đã giữ gìn không thu nhập thừa dưới.

3. Nói về Thanh văn hối hướng Bồ-đề, quy đồng Như lai, nhập vào Vô dư.

4. Nói Thanh văn hồi hướng Bồ-đề, trên đây, phải nói là chủng tánh bất định.

Thứ mười bốn, là giải thích môn bí mật. Đầu tiên y cứ môn Vô dư y để nói về bí mật của Như lai, sau y cứ chung Vô dư và các sai khác, để nói về bí mật của Phật.

Trong phần trước có ba: Trước là nói về tánh bất định và các đức Như lai lúc trụ Vô dư, không có ba thứ sợ v.v…

Kế là, nói về người có tánh bất định và người có tánh Bồ-tát lúc trụ Vô dư, vẫn làm lợi ích cho chúng sinh, trong đó, trước, chính là nói về lợi tha, sau, dẫn, kinh để thí dụ so sánh:

Dụ cho nhà ảo thuật: Nói về biến hóa kia. Dụ cho chủ lái buôn, chỉ rõ nhiều lợi ích. Dụ thuyến sư, nói rõ năng tế độ.

Thứ ba, là giải thích xong, tổng kết dưới.

Trong y cứ chung, nói về mật ý của Phật, ý nói là sự nghiệp lợi tha của Vô dư này và phước đức trí tuệ v.v… của các thứ lợi mình, lợi người. Các vị Bồ-tát trong các bí mật lẽ ra chính là tùy chuyển. Về lý, thật ra Địa tiền có đủ ba nhẫn. Nay chỉ nói Nhẫn phẩm hạ, là vì y cứ ở phần đầu để nói, rộng như Bản Địa phần.”

Hỏi: “Về nghĩa chung của pháp quyết định lựa chọn thế nào trở xuống, thứ hai, là kết chung quyết định lựa chọn của các địa, khuyên các địa nên tư duy?”

Đáp: “Do phẩm loại sai khác v.v… nghĩa là do phẩm loại sai khác của cảnh, hạnh, quả. Lập các pháp của mười Thất địa, tức giải thích khó phân biệt các câu như một hạnh v.v… của các môn trong mười bảy địa. Rộng như các chỗ thường nói.

“Như thế, nên biết nghĩa chung trong đây”: Tức là nhắc lại để kết.

Văn quyết định lựa chọn trong địa này, không còn hiện tiền: Ở đây có văn quyết trạch khác lại không còn hiện trong các địa hữu dư, vô dư khác. Lại, giải thích: “Văn quyết định lựa chọn khác trong mười Thất địa này, không còn hiện tiền ở trước là hơn.

“Phải biết cho đến “loại khác nên tư duy”, nghĩa là chứng tỏ lời nói khó tường tận, khuyên người nên tư duy”.

LUẬN BẢN QUYỂN 81

Nhiếp thu giải thích phần trên. Trên đây, đã ở chỗ bất tận trong nghĩa của Bản Địa, quyết định lựa chọn rộng đã xong. Về công dụng của phương pháp soạn luận cũng chưa rõ ràng. Nay lược giải thích về tác dụn của pháp kinh, luận, để làm một phần, gọi là phần nhiếp ích. Trong phần này luận có hai quyển. Vì quyển này ở trước,nên nói là trên.

Trong văn có ba:

  1. Trước kết, sau chia ra.
  2. Chính giải thích.
  3. Giải thích xong, tổng kết.

Phần chính giải thích, lại chia làm hai:

  1. Nói rộng bảy nghĩa.
  2. Nói lược sáu nghĩa.

Trước có một bài tụng, lược nêu bảy môn. Tùy giải thích riêng. Theo nghĩa trong bài tụng này, có ba thế. Nếu theo nghĩa, nêu số thì có mười bốn. Nếu nghĩa so sánh theo nhau, thì chỉ có bảy môn. Nếu vì y cứ đủ năm đức, nên mới có thể nói pháp, khiến sinh ra nghĩa thắng lợi, thì chỉ có năm phần, văn chia làm sáu, vì lấy thắng lợi làm thứ sáu.

Nói: “Tùy nghĩa nêu số có mười bốn”:

1. Là thể, nghĩa là “năng thuyên”, “sở thuyên” của mười hai bộ kinh, đều là thể nên gọi là thể.

2. Là giải thích, vì dựa vào năm pháp môn để giải thích kinh, luận, nên gọi là “Thích”.

3. Là văn, cái gọi là danh, câu, chữ, thân, là văn kia.

4. Nghĩa: Tức là giáo “sở thuyên”, các nghĩa dưới có mười thứ, cái gọi là nghĩa của địa, cho đến nghĩa rộng.

5.  Là pháp: Tức là giáo pháp của mười hai bộ kinh, nên gọi là Pháp.

6. Là khởi, nghĩa là Đẳng khởi. Vì nói về nhân duyên khởi của mười hai bộ kinh, nên gọi là “khởi”.

7. Là Nghĩa: Tức là nghĩa khác nhau trên pháp thể, cái gọi là nghĩa của tự tướng, cộng tướng v.v… chung, riêng, không đồng với nghĩa của “nghĩa văn” thứ tư.

8. Là nạn: Tức là giả đặt ra hỏi đáp.

Kế là, thứ chín, nói về thứ lớp của pháp. Sư là thứ mười, nói thành tựu mười pháp, gọi là Sư nói pháp. Nói chúng là thứ mười một; nói về chỗ ở tại năm chúng nói pháp, nên gọi là “thuyết chúng”. Nghe là mười hai, nói về người nói kia khi nói chánh pháp, nên an lập người khác, bảo họ trụ trong cung kính, không có lắng nghe trái ngược. Lược, rộng khen ngợi Đức Phật là thứ mười ba.

Theo pháp của các nước phương Tây, thông thường muốn nói pháp, hoặc muốn soạn luận, đều phải khen ngợi Tam Bảo, gọi là khen Phật rộng, lược.

Học thắng lợi là thứ mười bốn, nếu tu học đủ năm phần nói pháp, cũng như năm phần âm nhạc, thì sẽ làm cho mình, người sinh mừng vui. Lại, có thể dẫn phát lợi ích của mình, người gọi là học thắng lợi. Lại, đủ năm nghĩa nói pháp, có thể khiến cho mình, người đều có thắng lợi của ba học. Tướng thứ hai là từ bảy nghĩa: chín môn trước trong mười bốn môn trước được thu nhiếp làm hai, cái gọi là thể. Trong giải thích về thể có ba: Thể và văn, nghĩa. Hai thứ văn nghĩa nêu lại thể ở trước. Vì là ba thứ khác nhau nên làm một.

Trong giải thích có sáu: Giải thích một là nạn nghĩa của pháp chung khởi, theo thứ lớp, năm thứ này giải thích lại giải thích trước, nên thuộc về giải thích, năm pháp còn lại như trước, cho nên chỉ có bảy. Thứ ba thành bảy để làm năm. Giải thích thể ban đầu, chung làm môn thứ nhất. Sư là thứ hai, thuyết chúng là thứ ba, nghe là thứ tư. Khen ngợi Phật lược rộng, là thứ năm. Do học đủ năm môn trước, vì người khác nói pháp, có thể giúp cho mình, người sinh các thắng lợi. Dựa theo văn dưới đây có đủ ba lý này, y cứ vào lý đó để giải thích bài tụng, phải ba lượt mới tường tận. Nay giải thích Văn xuôi, văn có bảy đoạn:

  1. Giải thích bốn nghĩa.
  2. Giải thích năm nghĩa.
  3. Sư.
  4. Thuyết chúng.
  5. Nghe.
  6. Khen Phật lược, rộng.
  7. Học thắng lợi.

Y cứ trong giải thích về bốn nghĩa đầu, giải thích về thể thứ nhất, nói thể của kinh có hai: 1- Văn, 2- Nghĩa: Nêu nghĩa văn sau, để giải thích về thể trước. Nói văn là “sở y”, nghĩa là “năng y”, nghĩa là do văn làm rõ nghĩa, để nói “năng” (chủ thể), sở (đối tượng). Hoặc do nghĩa khởi thuyết, tức nghĩa là đối tượng nương tựa, văn là chủ thể nương tựa.

Nay, dựa theo nghĩa trước để nói về Năng, Sở (Chủ thể, đối tượng”. Hoặc văn, hoặc nghĩa đều là sở tri, nên nói: “hai thứ đều gọi là cảnh giới sở tri”.

Văn trong đây, chung với pháp gốc để làm rõ, vì đều là nghĩa giải thích, nên giải thích vốn hiển bày và giải thích nghĩa là sở y của nghĩa. Nghĩa chỉ lấy sự làm rõ. Nghĩa rõ ràng, có thể làm rõ mười nghĩa của pháp căn bản. Vì khiến cho chúng sinh hiểu được, nên y văn mà nói rõ, nên là chủ thể nương tựa. “Năng y” hòa hợp với “sở y”, khiến cho chúng sinh hiểu biết. Cho nên văn, nghĩa làm nên tự tánh của giáo”.

Lại, giải thích: “Về mặt lý, thật ra chỉ lấy văn làm thể. Tuy nhiên, văn không có nghĩa, sẽ không được sinh hiểu biết, nên gồm nghĩa mà thôi.

Thứ hai, giải thích về cách giải thích. Nêu thứ như pháp v.v… có năm để giải thích thể ở trước, rộng như giải thích dưới đây.

Thứ ba, là giải thích văn, trong đó: 1- Nêu chung sáu thứ. 2- Giải thích riêng; 3- Giải thích xong tổng kết.

Trong giải thích riêng, văn chia làm hai: Trước giải thích sáu nghĩa.

Sau phân biệt tướng chung.

Trong phần trước có bốn:

  1. Giải thích danh, câu, chữ.
  2. Giải thích ngữ.
  3. Giải thích hạnh.
  4. Giải thích căn cơ thưa hỏi.

Trong phần đầu có hai: Trước, là giải thích riêng. Sau, là giải thích chung.

Muốn giải thích văn, trước chia ra sáu môn phân biệt danh, câu, chữ, thân:

  1. Nói thể và giải thích danh.
  2. Nói về tùy thân, tùy ngữ, hệ thuộc địa dài, ngăn.
  3. Y cứ phân biệt ba tánh.
  4. Nói về danh v.v… giải thích pháp tường tận, không tường tận.
  5. Nói về tám thức “duyên” danh, không “duyên” danh khác nhau.
  6. Nói về chuyển y tưởng dục, tầm từ, để giải thích trở ngại, sai trái.

Đầu tiên, nói về thể tánh: Nếu y cứ vào năm pháp phát ra thể, thì ba danh, câu, chữ, nói là trên tiếng, sẽ có tác dụng giải thích, mời gọi là, giả đặt tên v.v… Nếu tìm giả nhập thật, chỉ lấy tiếng làm thể. Nếu về đường lối đặc biệt của giả thật kia kết hợp dùng gốc khác, tức dùng pháp bất tưong ưng trong năm pháp, làm thể của danh, câu, chữ, nghĩa là dựa vào chữ có danh, dựa vào danh có câu. câu tất nhiên có danh, anh tất nhiên có chữ. Tuy nhiên dựa vào tiếng để lập chữ là giả riêng. Dựa vào chữ đặt tên, dựa vào danh lập câu là giả trùng lập. Nhưng có chữ riêng không có “thuyên biểu”, nghĩa là có thể của chữ riêng.

Nếu dựa vào chữ thành danh, trong danh lại không có thể của chữ. Dựa vào danh thành câu, trong câu lại không có thể của danh. Nếu giải thích danh, thì vì sao gọi là danh?

Vì có thể khiến cho các thứ đều cùng được biết rõ, nên gọi là danh. Lại, có thể làm cho ý thức tạo nên các tướng, nên gọi là danh. Lại, do lời nói để kêu gọi là, nên gọi là danh.

Câu, nghĩa là nhiếp thọ các danh, ý xong, làm sáng rõ nghĩa không hiện thấy, nên gọi là câu.

Văn: làm rõ nghĩa. Do văn, làm cho các pháp như danh, câu mời gọi là kia được rõ ràng hiển bày, đó chỗ nương tựa của danh, câu, cũng gọi là chữ, không thể chuyển đổi, nghĩa gọi là chữ, có thể chuyển đổi gọi là danh, vì tùy đối tượng giải thích (sở duyên) các thứ chuyển biến.

Thứ hai, là nói tùy hệ thuộc thân, ngữ, dựa vào ba danh, câu, văn của Tiểu thừa văn có ba: ngũ địa tùy thân, Nhị địa tùy ngữ. Theo giải thích của tông Đại thừa, thì hữu lậu nghĩa là Bồ-tát Địa tiền. Nhị thừa, phàm phu đã khởi danh v.v… hoàn toàn tùy ngữ, hệ thuộc Nhị địa, vì dựa vào trên tiếng, để giả kiến lập, không đồng với nhận định của Tiểu thừa: “Ngoài âm thanh, có thật thể của danh riêng v.v… nên không được nói là tùy thân hệ thuộc ngũ địa. Nếu là Đại thừa thì Bồ-tát, chư Phật, Như lai, đã khởi danh v.v… chỉ là không hệ thuộc.

Thứ ba, y cứ ba tánh để phân biệt: Nếu theo luận Đối Pháp, thì ba pháp danh, câu, văn chỉ là vô ký, giải thích có ba nghĩa:

  1. Y cứ ở môn tùy chuyển lý.
  2. Y cứ môn từ nhiều luận.
  3. Y cứ ở thể hiện rõ, giống với tướng kia đã nói.

Đầu tiên, tùy chuyển đạo lý, giáo pháp, danh, câu, văn v.v… đều có chung cả ba tánh phát ra ngữ nghiệp. Ngữ nghiệp đã có cả ba tánh, dựa vào Thinh, có ba tánh, để kiến đặt tên v.v… phải biết rằng, các lý như danh v.v… có cả ba tánh. Nay dựa vào môn tùy chuyển lý, đồng với tướng Tiểu thừa, nói là Vô ký.

2/ Từ phần nhiều để luận, nghĩa là chúng sinh đã khởi danh v.v…

phần ít là thiện, ác, phần nhiều là vô ký, nên Đối Pháp theo phần nhiều xếp vào Vô ký. Vì thế, nên luận kia nói: “Tướng thuộc vô ký, nghĩa là danh, câu, văn. Trong phần nói về thiện, ác, mà là danh, câu v.v… nên biết được theo phần nhiều để xếp vào vô ký.

3/ Giống với danh kia, vì thể hiện rõ, nên gọi là vô ký. Nghĩa là Đại Bồ-tát và thể Hậu trí của Phật là thế gian, dường như thế gian khởi, gọi là thế gian. Vô ký cũng thế. Chư Phật, Bồ-tát đã khởi thật thể của danh v.v… là thiện, vì giống như vô ký, nên gọi là vô ký.

Thứ tư, là nói danh v.v… giải thích pháp hết, không hết, nghĩa là danh, câu trong năm pháp, chỉ giải thích bốn tướng trước, gọi là phân biệt, cùng với chánh trí. Quyết trạch trước: “Bốn tướng trước là chỗ yên đủ của các danh ngôn kia. Một thứ chân như, vì danh không giải thích. Lại, quyết trạch rằng: “Một thứ chân như, danh ngôn không bằng, vì chẳng phải chỗ yên ổn đủ. Lại, tự tướng (tướng riêng) của năm pháp này, danh ngôn không bằng, vì chỉ sở tri hiện lượng (nhận biết rằng hiện lượng). cộng tướng (tướng chung) của năm pháp tùy tâm khởi, vì là cảnh của tỷ lượng, nên danh ngôn sánh bằng.”

Thứ năm, là nói về thức “duyên” không duyên: Trong tám nhiễm, chỉ có ý thức được “duyên” danh v.v… bảy thức còn lại, không “duyên” tư duy sẽ hiểu. Ở tịnh, tám thức chuyển gọi là bốn trí. Nếu cứ tướng riêng mà nói, thì chỉ có trí diệu quán sát trong ý thức, gọi là trí dứt nghi là được “ duyên” danh, ba trí còn lại không “duyên”. Nếu y cứ tướng chung mà luận, thì cả bốn trí đều có trí thế gian, xuất thế gian, đều được “duyên” danh, vì trí thành sở tác, thành tướng, tác thân, nói pháp, độ người, nên biết bốn trí y cứ chung, đều “duyên” danh.

Thứ sáu, là y cứ chuyển y tướng, dục, Tầm từ kia, để nói về việc sai trái, ngăn ngại. Y luận rằng: “tất cả các pháp do tưởng nên đặt tên cho nên gọi là danh này là Tưởng”. Lại, luận này nói: “Trong đây,dục là đứng đầu danh, danh là đứng hàng đầu câu v.v… Đây là dựa vào dục khởi danh”.

Lại, Luận Thập Địa nói: “Vì sao người tịnh giác, với công đức của niệm trí đầy đủ, nói là các địa thượng diệu có năng lực không giải thích? Dưới đây sẽ giải thích về người Trung giác, vì là từ nhân, nên nêu thỉnh nói.

Dựa vào ba văn này, tức là tưởng dục với Tầm, từ đều khởi danh v.v… Nhiếp Luận chỉ nói: “Do chuyển y tưởng uẩn, được ngôn thuyết tự tại”. Dục và Tầm đều ở hành uẩn. Vì sao không nói là do chuyển y hành uẩn được ngôn thuyết tự tại ư?”

Đáp: “Dù đều là nhân, nhưng gần, xa có khác. Dục là duyên xa, do có hy vọng ở dục, khởi ngôn thuyết. Kế là, nẩy sinh nghĩa của pháp tưởng, thủ, cần an đặt tên tự. Sau, khởi lên Tầm, phát ra các ngôn thuyết. Công sức của tưởng trong khởi ngôn thuyết là việc rất mạnh mẽ đối với ngôn thuyết. Luận y cứ vào duyên này nên nói: “Do chuyển y tưởng uẩn được ngôn thuyết tự tại”.

Đã nói về nghĩa chuyển y tưởng uẩn. Kế là giải thích văn.

Y cứ trong giải thích riêng, đâù tiên, là giải thích danh thân, trước nêu chung về tướng.

Nói danh thân, nghĩa là biết chung tăng ngữ, nghĩa là danh từ tăng ngữ mà sinh, cũng có thể thêm cho ngôn ngữ, nên nói dùng danh này làm tăng ngữ. Do danh hiểu rõ pháp, mà mọi người đều biết, nên nói “tăng ngữ biết chung”.

“Đây có mười hai” trở xuống, là nêu số, bày danh. Theo thứ lớp, giải thích có sáu cặp:

1- Giả, thật từ sở thuyên (đối tượng giải thích) mà được tên gọi, giải thích pháp giả, gọi là giả. Giải thích việc thật, gọi là thật, tìm văn sẽ thấy.

Đồng loại, dị loại, tức là một cặp chung, riêng. Đồng loại, nghĩa là nói tên của hữu tình, tức là nói tất cả hữu tình đều cùng tận. Nếu nói đại chủng sắc, thọ, thì nghĩa ấy cũng thế.

Dị loại, nghĩa là nói Phật truyền trao cho bạn đức tên xanh, vàng v.v… Đây là giải thích riêng tên người, tên pháp như xanh v.v… nên thuộc về tên riêng.

Tùy danh đức, nghĩa là vì đổi thay, ngăn ngại, nên gọi là sắc, vì lãnh thọ, nên gọi là thọ v.v… là tùy theo danh nghĩa. Giả nói là danh, nghĩa là gọi là tham danh, giàu v.v… Danh này không dựa vào nghĩa, chỉ giả đặt ra, không đồng với cặp ban đầu, giải thích giả, gọi là giả. Cho nên, cặp thứ ba khác với cặp đầu. Cặp thứ tư rằng: “Đồng với đối tượng hiểu rõ là danh, nghĩa là đã hiểu chung về tưởng, tưởng cũng là danh, trái với danh này là chẳng phải đối tượng đồng hiểu rõ danh. Như tên đương quốc. Người đồng nước, đều được hiểu biết chung. Nếu nghe tên của nước khác, chẳng phải tên mà mọi người đều hiểu biết.”

Hỏi: “Đôi này với hai cặp thứ hai ở trước; đồng loại, dị loại, có gì khác chăng?”

Giải thích: “Đồng loại dị loại ở trước, y cứ vào biện xét cong vạy, đồng, khác trong đồng tên nước, nói chung, hữu tình là người đồng tên. Nói riêng, Đức Phật trao cho bạn đức, là tên riêng của người. Nói chung sắc, thọ và kể cả đại chủng là pháp đồng tên. Nói riêng, xanh, vàng, khổ, vui, xả, thọ, đất nước, gió v.v… là tên riêng của pháp. Nay, nói đồng được hiểu rõ, nghĩa là đối với đồng tên nước, chẳng đồng được hiểu rõ, đối với tên nước khác, chẳng phải đồng chính đáng hiểu rõ danh, thê nên, không lẫn lộn.

Cặp thứ năm: “Hiển rõ danh nghĩa dễ rõ. Không biết rõ danh, thì nghĩa khó hiểu”. Nhu minh chú v.v… của Đạt-la-nhị-trà, tức là chỗ sống lâu năm.

“Xưa, có vị tiên tên là Đạt-la-nhị-trà. Nước từ tên ấy, gọi là nước Đạt-la-nhị-trà.”

Nay, nói minh chú mà vị tiên đó đã nói, nghĩa của chú ấy khó hiểu. Thông thường văn chú đều khó hiểu, vã nêu ra đây một thí dụ, nên nói rằng: “Minh chú của Đạt-la-nhị-trà”.

Ở đây, nói về chú của đồng một nước, gọi là khó hiểu rõ, không so với nước khác, nên khác với cặp thứ tư.

Cặp thứ sáu rằng: “Danh lược, rộng: Thể của danh kia vin lấy chữ nhiều, ít, gọi là lược, rộng. Lược, nghĩa là danh lược, là một chữ danh, danh rộng, nghĩa là nhiều chữ danh, không đồng với đồng loại, khác loại của cặp thứ hai, so với “sợ thuyên” kia chung, riêng khác nhau.

Thứ hai, trong giải thích câu thân, nêu chung, bày danh, giải thích theo thứ lớp:

Câu không viên mãn: Cùng cực mới được viên mãn.

Kế là dẫn bài tụng để chứng minh: Như nói:

“Các việc ác chớ làm”

Theo Tỳ-Bà-Sa: “Đây là tám chữ không dài, không ngắn, làm một câu”.

Trong đây xưa dịch chỉ có bốn chữ. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Theo bản Phạm, thật ra có tám chữ. Ngữ Hán chỉ có bốn chử. Nay, đồng với Tam Tạng Pháp sư, cũng nói rằng, bản Phạm vốn lấy tám chữ làm một câu.

Dựa vào bản Phạm, lại có chữ “giả”, nên dựa theo ngữ trong đây, gồm có năm chữ. Vì phải thêm vào đó chữ “giả”, cho nên phải đặt chữ giả.

Nếu thế của nghĩa là đồng, thì không cần cách biệt. Trái lại, nếu thế của nghĩa khác nhau, thì phải cách biệt. Như nói: “Các điều ác”. Là nêu thẳng pháp ác. Nay, nêu các việc ác, là muốn làm điều gì? Muốn cho đừng làm. Do có hai nghĩa như thế, nên cần đặt chữ “giả” để cách biệt ra: “Các thiện giả” vâng làm”.

Dù dẫn một bài tụng, nhưng ý chỉ lấy nửa bài tụng trên để làm chứng. Nửa bài tụng dưới theo nhau mà đến.

Dưới đây, chỉ sự để giải thích: Nếu chỉ nói các việc ác thì văn sẽ không rốt ráo. Nếu nói “các ác giả”, thì văn dù rốt ráo, nhưng nghĩa không rốt ráo. Vì thế, lại phải thêm hai chữ “đừng làm”, mới được viên mãn, tức là câu viên mãn (đầy đủ).

Câu sở thành, nghĩa là cho đến như nói “các hành vô thường”.

“Pháp có khởi tận” v.v… rất dễ hiểu.

Câu nêu: “Như nói “tánh thiện”, phát ra điều thiện đã tu.

Câu giải thích: “nghĩa là thiện sĩ chính thú hướng, nêu người năng tu hành, giải thích về pháp lành đã dẫn, không đồng với “sở thành”, “năng thành”, đối với đồng một pháp, tùy theo nghĩa thành nhau.

Thứ ba, trong giải thích về thân chữ, Luận sư Cảnh nói: “Nói thân chữ, cho đến “bốn mươi chín chữ”, nghĩa là như lúc nhiều chữ danh nói là chưa đầy đủ, gọi là không rốt ráo.

Nếu nói khi đầy đủ thì gọi là rốt ráo. Trong câu cũng thế, đều lấy chữ “bỉ” (kia) làm nương tựa. Lấy chữ “lãm” (Vin lấy) để thành đặt tên, lấy danh thành câu, nên tất cả thể của chữ tự chúng không có rốt ráo, không cưú cánh. Khác nhau, vì không có “thuyên biểu”.

Ba mươi chín chữ, Tam tạng Pháp sư nói: “Phương Tây tự có ba giải thích:

1. Âm có mười bốn, theo các nước phương Tây, mười bốn âm theo thứ lớp là “tất đàm”. Ai, a, một y, ổ, ô, hột, lữ, hột, lữ, lữ, đằng, yên, ái. (Bốn chữ này chính là lầu lưu hư nước Lỗ). Ô, áo, ám, ác. Hai âm ám, ác, phần nhiều là lời trợ câu. Nhà sau lấy dùng, thêm vào thành mười sáu chữ, với lấy tiếng có tám, vượt qua tiếng có tám. Tiếng Tỳ có hai mươi lăm, thêm hai chữ Tất, Đàm kia, thành bốn mươi chín.

2. Nhà thứ hai nêu: “Hai chữ Tất-Đàm, chỉ là nêu chung, chẳng phải số chữ, thêm riêng ý lẫn lộn. Tiếng siêu, tiếng Tỳ là số đầu nhiều ít, như trước.

3. Nhà thứ ba cho rằng: “Âm có mười sáu, thêm ám, ác (khứ thinh), tiếng Siêu có tám. Tiếng Tỳ có hai mươi lăm. Nay y cứ ba mươi lăm chữ phẩm Văn tự của kinh Niết-bàn, gọi là thể của chữ, gọi là âm chữ “hô” (gọi là).

Nay, trong văn này vì nêu chung các chữ kia, nên nói là bốn mươi chín.

Trên đây, giải thích riêng ba danh, câu, chữ. Kế là phân biệt chung có năm lần “lại nữa”:

1/ Gốc, ngọn sinh nhau. Trong đây, cho đến danh, tất cả chữ, nghĩa là văn này không đủ. Nếu đủ thì nên nói rằng: “Dục” là đứng đầu “chữ”, “chữ” làm hàng đầu danh, danh làm hàng đầu câu. Câu phải có danh, danh phải có chữ, chữ phải có dục. Dục, tưởng với Tầm, đều phát khởi danh. Nay, vả nêu dục, lại, nếu có chữ, đã không thuộc danh, chỉ có chữ không có danh, nghĩa là chỉ có danh, tất nhiên kèm theo chữ, tự có chữ, danh mà không thuộc về đâu, nghĩa là không có “thuyên biểu”

2/ Ý lập ba. Hỏi: “Vì sao lập ba?”

Ý đáp: “Lập ba danh, câu, văn, là vì muốn cho chúng sinh dựa vào danh lãnh thọ. Gọi là pháp đã gọi là, nghĩa là các tăng ngữ như sắc, thinh v.v… là Danh. Danh có thể sinh thêm ngôn ngữ, hoặc danh từ “tăng ngữ xúc”, kia mà sanh, cho nên nói danh này là tăng ngữ xúc.

Thứ ba, là nói về nghĩa của danh v.v… danh có ba nghĩa:

  1. Vì để cho người khác đều được biết rõ, nên gọi là Danh.
  2. Có thể khiến cho ý dựa vào danh, lấy tướng.
  3. Phát ra ngữ ngôn, kêu gọi là, xứng danh.

Nói nhiếp thọ các danh rốt ráo, rõ ràng, vì nghĩa không hiện nhìn thấy, nên gọi là Câu. Nhiếp thọ danh thành câu, hay làm rõ nghĩa không hiện thấy, là nghĩa câu kia. Vì tùy theo làm rõ danh, câu, nên gọi là Văn: văn là chữ của chưong, có thể làm rõ thành tác dụng của danh, Câu. Thế nen gọi là Văn. Hoặc danh là chữ, không thể thay đổi. Thứ tư, là giải thích văn kinh. Như Đức Thế tôn nói: “Tăng ngữ, Tăng ngữ lộ, cho đến “nói rộng”: Dưới đây sẽ nói về Từ và việc lập bày, danh là nói rộng.

Tăng ngữ, nghĩa là tất cả chúng đồng loại, tương ưng với danh: Như có một danh, mọi người đồng hiểu, thêm vào đó ngôn thuyết của danh.

Tăng ngữ lộ: đều là chúng đồng loại vì dục có thể khởi danh kia, tức là dùng tâm dục hy vọng, cần đặt tên, phát ra lời nói sinh ra danh v.v… gọi là Tăng ngữ lộ.

Từ, nghĩa là ngữ tương ưng kia, tức là thể của luận Thinh Minh, gọi là Từ. Do tu tập luận kia dẫn sinh ra danh v.v… gọi là lộ.

Nói là ngữ tương ưng kia, lại “tức ngữ này cho đến “gọi là lộ kia”, nghĩa là lấy chung “năng thuyên” của luận kia, đều có thể sinh danh, gọi là lộ.

“Lập bày cho đến “gọi là lộ kia”, nghĩa là do tâm tưởng v.v… đối với thể của các pháp, nhất nhất phân biệt, thi thiết, kiến đặt tên, câu, văn v.v…

Nói tâm thi thiết v.v…, làm con đường như danh v.v… “Dục”, tức là Từ cho đến con đường thi thiết”, nghĩa là ở trước, nói “Dục”. Là tâm pháp. Nay, nói “dục’ là âm thanh. Dựa vào tiếng đặt tên, tức nói tiếng là con đường của danh.

Thứ năm, là y cứ vào sáu xứ nương tựa, phân biệt danh v.v… Danh v.v… dựa vào sáu xứ kia mà được kiến lập, chỉ cho Địa Văn Tuệ.

Trên đây, đầu tiên, giải thích về danh, câu, chữ đã xong, dưới đây là thứ hai, giải thích về ngữ, trong đó trước là nêu chung tám ngữ, mỗi ngữ đều có đủ bảy đức, nên có thể nói chánh pháp.

Kế là, giải thích riêng, trong đó trước giải thích tám ngữ. Sau giải thích bảy đức, trong phần trước, đầu tiên, là nói về tám ngữ. Kế là nói tám ngữ có đủ ba đức.

  1. Đức thú hướng, thú hướng Niết-bàn.
  2. Đức tự thể, nghĩa là tốt đẹp sáng tỏ.
  3. Đức gia hạnh, nghĩa là dể hiểu, ưa nghe, không có nương tựa, không trái với năm thứ như vô biên v.v… là công năng nghe, hiểu kia gọi là gia hạnh.

Dưới đây, sẽ nói về tám ngữ, mỗi ngữ có đủ bảy đức:

  1. Tương ưng: ngữ và danh v.v… tương ưng với thứ lớp v.v… Lại, dựa vào tương ưng của bốn thứ đạo lý.
  2. Giúp đỡ có thể thành tựu thứ lớp.
  3. Thuận theo, nghĩa là giải thích theo thứ lớp.
  4. Trong suốt.
  5. Thanh tịnh giúp đỡ.
  6. Tương xứng.

.

Thường ủy thác phần tư lương. Dựa vào văn này, nêu chung một xứ tương tự là thứ bảy. Kế là tương tự trong văn giải thích, được chia làm hai, tức thành tám.

“Xem xét đều là việc đã làm”: là Giải thích nghĩa ủy thác.

“Vì thường tạo tác: Giải thích nghĩa thường, ở đây là giải thích riêng thường ủy thác.

“Phần kia”, nghĩa là chánh kiến v.v… là ba mươi bảy đạo phần.

Đây là tư lương của ba mươi bảy đạo phần kia, nghĩa là nói về tám thứ ngữ là tư lương của đạo phần kia.

Thứ ba, là giải thích về hành tướng, nói về danh, câu, văn, giải thích về uẩn, giới, xứ v.v… khác nhau không đồng, gọi là hành tướng. Cũng có thể danh, câu, văn v.v… là thuyết của Phật, Bồ-tát v.v… nói. Nghĩa là sở duyên (đối tượng duyên) của kiến phần, gọi là hành tướng, tức là tướng phần.

Thứ tư, giải thích về căn cơ thưa hỏi. Có hai mươi bảy thứ. Y cứ vào bảy vị kia có hai mươi bảy:

1- Do căn cơ nhạy bén thuần túy là hai nhiếp thu người cũng tận.

2- Do hạnh phân biệt có bảy: Ba độc, tức là ba, bốn chấp mắc ngã.

3 . Tư giác;

4- Các phần như ba độc v.v… ;

5- Bạc trần hành. Văn còn lại rất dễ hiểu.

Trên đây, giải thích sáu nghĩa xong. Dưới đây là, phân biệt tướng chung:

Sáu văn như thế, gồm có bốn tướng, gọi là văn, nghĩa là dù Nêu sáu môn, nhưng chẳng ngoài bốn tướng:

1/ Tướng sở thuyết: Hành tướng của danh thân v.v… là sau, nghĩa là dùng ngữ nói danh v.v… nên bốn thứ như danh v.v… là đối tượng thuyết, nghĩa là danh, câu, văn chính là thể văn. Hành tướng là danh, câu, văn, tương đương với tâm kiến phần của người nói kia khởi. Vì sinh ra kiến phần, nên gọi là hành tướng, cũng thuộc về thể của văn.

2/ Tướng sở vi. Nghĩa là căn cơ thưa hỏi v.v… gồm thu hai mươi bảy thứ Bổ-đặc-già-la, tức là giáo đã phổ cập căn cơ, do căn cơ nên nói. Nay, nhân duyên của thuyết giáo cũng là văn.

3/ Tướng chủ thể nói (năng thuyết): ngữ, nghĩa là do dựa vào tiếng uẩn khúc, phô bày ra ngoài, giải thích, mời gọi là các pháp, vì giả đặt tên v.v… nên ngữ là đối tượng nương tựa (sở y).

4/ Tướng người nói: Thanh văn, Bồ-tát, và Như lai. Luận nói Thông thường, người nói pháp cũng có cả các vị trời. Kể cả người biến hóa. Nay, giản lược, nên nói có ba người.

“Sáu thứ như thế v.v… đến “Cho nên gọi là văn”, là tổng kết. Danh v.v… chính là thể văn, ngữ là nương tựa văn, cũng gọi là văn. Do căn cơ khởi thuyết, căn cơ cũng gọi là văn. Dưới đây kế là, thứ tư, giải thích nghĩa, trong đó trước nói mười nghĩa, sau kết khuyên y giáo, tìm nghĩa nói pháp.

Trong phần trước có ba:

  1. Chia ra mười thứ.
  2. Theo thứ lớp giải thích riêng.
  3. Dùng tụng gồm chung.

Theo trong giải thích riêng, văn có chín đoạn:

Đầu tiên là giải thích về nghĩa của địa, có hai lượt:

1/ Nói ngũ địa.

2/ Nói mười Thất địa, các hành văn rất dễ hiểu.

Có chỗ giải thích: “Y cứ một pháp thể, tùy nghĩa giải thích rộng, nên gọi là tướng của môn khác. Bốn pháp như Tín v.v… gọi là tướng Du-già. Tùy duyên tăng khác, chuyển khác, gọi là tướng chuyển khác, nhiễm, tịnh rất dễ hiểu.

Nay, giải thích chung một nêu danh, chia riêng nhiều môn, như nói môn khác của Bổ-đặc-già-la có sáu v.v… gọi là tướng của môn khác, ở mỗi môn, lại chia ra nhiều thứ, gọi là tướng khác chuyển. Các môn pháp này, như Thanh văn Địa v.v…

Dưới đây là nói năm thứ như tướng v.v… sở thuyên, trong đó, hai tướng trước thuộc về ba tánh. Ba tướng sau, cũng thuộc về ba tánh.

Đầu tiên, là tướng “sở thuyên”, nghĩa là năm pháp như tướng v.v… như trong ngũ sự đã nói. Như văn trong ngũ sự của quyết trạch phần đã nói.

Năm pháp chỉ nhiếp thu hai tánh, bốn pháp trước là y tha, như như là Viên thành thật. Chấp mắc năm thứ này, là Biến kế sở chấp. Ở đây đồng với văn trong Quyết Trạch và luận Phật tánh, ba luận vô tánh v.v… đều nói về năm pháp, không gồm thu tánh Biến kế sở chấp.

Thứ hai là tướng “năng thuyên”: Nói là tức ở chỗ kia cho đến, là tướng tự tánh của Biến kế sở chấp, nghĩa là chấp có danh tánh nhất định “năng thuyên”, là tánh Biến kế sở chấp, giải thích này đồng với luận Trung biên Phân biệt, gọi là tánh phân biệt. Nếu dựa vào trong luận Hiển Dương thì tướng “sở thuyên” (chủ thể giải thích) cũng có đủ ba tánh, danh của nhân duyên là y tha.

Mười hai bộ kinh từ Pháp giới lưu xuất, là cảnh giới thanh tịnh, chân thật của đạo sinh, trong đó chấp quyết định, là Biến kế sở chấp. Kế là nói các tên khác nhau của Biến kế sở chấp.

Ở trên, nói hai tướng trước, thuộc về ba tánh. Dưới đây, nói về ba tướng sau, cũng thuộc về ba tánh.

Nói tương ưng với hai tướng này, cho đến “chấp đối tượng y chỉ”, nghĩa là chấp có tướng quyết định “năng thuyên”, “sở thuyên”, thuộc về chấp mắc, là tánh Biến kế sở chấp.

Nói “Tứ là chấp tánh Biến kế sở chấp”: là tâm hay chấp, tức là đối tượng nương tựa cho sáu, bảy, hai thức, nghĩa là chính thức phát ra Biến kế sở chấp tánh. Dù không có tự thể, nhưng có thể sinh ra tâm “năng chấp” kia, gọi là “sở y chỉ”. Dựa vào luận Hiển Dương, chỉ khiến làm giải thích, tức tương đương với Kinh Lăng-già gọi là “Tướng là tự tánh vọng tưởng”.

Nói “Tướng chấp mắc, nói là cac người ngu cho đến chấp tự tánh Biến kế sở chấp”, nghĩa là tâm năng chấp hiện hành là tánh y tha. Nói rêng chỉ có hai thức sáu, bảy,, gọi là chấp. Nay tâm hữu lậu của ba cõi, đều gọi là tướng chấp mắc, nghĩa là từ tướng được tên gọi. Và tùy miên kiea là do chấp Biến kế huân tập thành hạt giống của tám thứ, cũng là thuộc về tánh y tha, tức tương đương với kinh Lăng-già nói “Phân biệt là tự tánh của duyên khởi”.

Nói “tướng không chấp mắc, nghĩa là người đã thấy đế lý, như thật biết rõ tướng Biến kế sở chấp, nghĩa là chân như vô tướng và giải thoát tập khí kia: Trạch diệt vô vi rất dễ hiểu rõ tâm là Chánh trí. Hai pháp này là Viên thành, tức tương đương với Chánh trí Lăng-già: Như Như không hư hoại là thành tự tánh.

Thứ ba, giải thích nghĩa tác ý v.v… trong đó có năm môn. Nay, nêu tác ý. Bốn pháp còn lại như đẳng thủ v.v.., nên nói “đẳng”. Phải biết rằng kinh luận mới phiên dịch, chỉ chấp mắc chữ Đẳng, tức là hướng ngoại v.v…, không đồng với kinh luận xưa dịch, hoặc hướng ngoại v.v…, hoặc hướng nội v.v… 1. Nói bảy tác ý.

  1. Nói mười trí.
  2. Nói sáu thức.
  3. Nói về chín Biến tri.
  4. Nói ba môn giải thoát.

Nói “Trong đây v.v… đến “Nên quán các pháp”, nghĩa là tương đương với thức trí và các sử của Tỳ Đàm, phải dùng ba môn để giải thích. Nếu hỏi thức, thức giả, thì sẽ phải dùng tánh môn để giải thích.

Thứ tư, là giải thích nghĩa y xứ, chính là nói dựa vào ba sự này, Phật giáo mới khởi, cho nên nói: “y xứ”:

  1. Nêu ba môn.
  2. Dựa vào môn để nói.
  3. Giải thích xong, tổng kết.

Trong dựa vào môn để nói, giải thích về y xứ.

Sự, lại chia làm ba: 1. Chia ra các môn.

  1. Dựa vào môn để giải thích.
  2. Kết thành thứ lớp.

Trong chia ra các môn, đầu tiên chia chung ba môn:

  1. Sự y xứ căn bản, tức là thể của quả sinh tử, Niết-bàn.
  2. Được y xứ của sự phương tiện, tức là nhân của quả trước. Hai pháp này là lợi mình.
  3. Y xứ của sự thương xót người khác, là hạnh lợi người.

Kế là chia làm hai mươi ba môn. Trong dựa vào môn để giải thích, đầu tiên theo thứ lớp, giải thích riêng. Sau, là phân biệt lại.

Trong phần trước, nói lui sụt có hai:

  1. Không vừa người khác, nghĩa là tự nhiên mạng sống lâu, sức khỏe v.v… lùi giảm, sau kém hơn trước.
  2. Vừa người khác, nghĩa là như một thời kỳ thọ mạng của ta ngắn ngủi, sức khỏe v.v… yếu kém không bằng người, gọi là lui sụt. Trái lại gọi là tiến lên.

Mười thứ thọ dục, như Bản Địa quyển hai ghi nhận, giải thích.

Thí, giới, tu hạnh hữu lậu thiện: Phần nhiều là nói Bốn vô lượng là tu.

Ba thứ hạnh ác: Ở đây có hai cách giải thích:

  1. “Tức không bố thí, không giữ giới và tu bốn vô lượng.
  2. “Là hành vi ác của thân, ngữ, ý”.

Lưu chuyển tạp nhiễm có hai câu, nghĩa là vô minh và ái hữu: Các kiến không hiểu rõ, gọi là vô minh. Người xuất gia phần nhiều do kiến chấp, nên trôi lăn trong sinh tử. Kẻ tại gia vì phần nhiều do ái, nên trôi lăn trong dòng sinh tử. Vì hai thứ này là căn bản của sinh tử, nên nói riêng rằng, Vô minh là gốc duyên khởi của mé trước. Ái hữu là gốc duyên khởi của mé sau.

Hạnh thanh tịnh: Đại khái có ba Học, ngũ địa v.v… nghĩa là Địa tư lương, tức giải thoát phần.địa gia hạnh, thông đạt phần. Kiến, tu rốt ráo, tức là ngũ địa. Phải biết rằng, học v.v… có chín trường hợp căn bản là “giới học tăng thượng v.v… ” và Địa gia hạnh, nghĩa là giới, định có ba thứ như vô tham v.v… ở Nhị địa. Hai lần ba là sáu. Tuệ học tăng thượng, cho đến “và rốt ráo địa”, nghĩa là tuệ học ở kiến đạo, gọi là bốn không điên đảo, ở tu đạo gọi là minh, ở Vô học, gọi là giải thoát.

Lại làm ba trường hợp cộng với trước thành chín. Nói “khiến lìa dục, nghĩa là các hạnh quở trách v.v… của sáu thứ phẩm hắc. Như quyển ba mươi nói: “Thế nào gọi là Tầm, tư phẩm kia? Nghĩa là nghĩ rằng: “Nếu ta đối với các tướng sắc tịnh, tánh của pháp bất tịnh kia, không biết như thật, phát khởi tham dục các tướng sắc tịnh trong ngoài, tức là điên đảo, thuộc về phẩm hắc, là pháp có tranh cãi, có khổ, hại, có các tai họa, có phiền não nung đốt khắp. Do nhân duyên này, mà phát khởi các thứ nhiễm não sinh, già, bệnh, chết. Sầu than, lo khổ ở đương lai. Nếu đối với các tướng sắc tịnh, tánh của pháp bất tịnh kia, ta như thật tùy quán, tức là không điên đảo, thuộc về phẩm bạch, là pháp không có tranh cãi, không có khổ đau, không có não hại. (Nói rộng cho đến do nhân duyên này, có thể tiêu diệt sinh, già, bệnh, chết trong đương lai. Cho đến nhiễu loạn, phiền não).

Giải thích: 1/ Pháp có tranh cãi. 2/ Có khổ. 3/ Có hại. 4/ Có các tai họa. / Có phiền não thiêu đốt khắp. 6/ Do nhân duyên này phát khởi các thứ phiền nhiễu ở mai sau, đó là sáu thứ phẩm hắc.

Dưới đây, trong phần phân biệt lại. Trước trong phân biệt riêng về thương xót có năm. Kế là, trong kết hợp phân biệt xứ sự căn bản có sáu mười hai trong sự phương tiện.

Phần trước, trước là đem sự lìa dục để thị hiện công hạnh, đối với biện luận có ba trường hợp, trong trường hợp đều cũng có ba lượt:

1/ Hoặc khiến lìa dục mà không thị hiện như giáo hóa, dẫn dắt người, sao cho họ lìa dục, mà bảo với họ rằng: “Như điều đã nói kia, tôi không nên làm. Nay, ơng cũng không nên làm. Đây là khuyên đồng với người khác không nên làm các việc xấu ác, mà không thị hiện, phân biệt nhân thiện được vui, nhân ác sẽ phải chịu khổ v.v…

2/ Hoặc làm cho người kia sợ hãi mà nói: “Ông không bỏ việc xấu ác, ta sẽ đánh ông v.v… ”

3/ Hoặc yêu cầu rằng: “Nếu ông là người thân của tôi, tất nhiên không nên làm.

Với ba lần khuyên bảo như thế, không khởi phiền não, chỉ mong sao họ được lìa dục.

Trường hợp thứ hai, hoặc có thị hiện, không khiến lìa dục. Như trong xứ, nghĩa là chỉ thị hiện, công đức thực hành điều thiện và lỗi lầm của hành vi xấu ác, nhưng vẩn chưa có khả năng ngăn ngừa, để cho họ lìa xa lỗi lầm. Về trường hợp đều có, rất dễ hiểu. Không nói về trường hợp “câu phi”.

Kế là, hợp nêu hai trường hợp giáo hóa, dẫn dắt, khen cố gắng.

Sau, giải thích về sự chúc mừng có năm thắng lợi.

Dưới đây, sẽ khiến phân biệt sáu “đắc” trong xứ căn bản, nhân quản của mười hai sự trong phương tiện đắc sinh nhau. Đối với luận rất dễ hiểu.

Nói “thuận với hạnh của phần thối, thuận với hạnh của phần tiến, tùy theo sự thích ứng với hạnh đó, nghĩa là đều chung cho cả nhiễm, tịnh, hoặc cảm đường thiện, hoặc cảm đường ác.

“Ba sự như thế v.v…” trở xuống, là kết thành thứ lớp, rất dễ hiểu.

Trên đây đã giải thích về “sự y xứ” xong. Dưới đây là, thứ hai, giải thích về “thời y xứ” có ba.

Nói sự v.v… “Vì pháp ba đời có thể làm nơi chốn yên ổn đầy đủ cho ngôn thuyết. Quyết trạch ngũ pháp cũng nói: “Bốn pháp trước, có thể gọi là đã bằng. Một thứ như như, gọi là cái không bằng.

Thứ ba, giải thích về y xứ của Bổ-đặc-già-la, như trước đã nói.

“Tức y là xứ v.v… trở xuống, là tổng kết nói rõ về nghĩa y xứ kia.

Kế là, có bốn nghĩa, như văn rất dễ hiểu.

Thứ chín, giải thích về nghĩa lược và nghĩa rộng. Văn có ba lượt: Lượt đầu nói: “Nghĩa lược là giảng nói các pháp đồng loại tương ưng: Như nói sắc v.v… lại không nói pháp khác”.

Nghĩa rộng: giảng nói các pháp khác loại tương ưng, lại như nói: “Nhân, sắc tức nói tâm v.v… ”

Lượt thứ hai: Kinh không liễu nghĩa, gọi là lược, kinh liễu nghĩa gọi là rộngTrong lượt thứ ba, đầu tiên, nói danh nghĩa lược, rộng, kế là, dẫn thuyết chứng thành.

Dưới đây, là giải thích về ý kinh đã dẫn. Văn rộng, nghĩa lược v.v… trong Khế kinh, nghĩa là văn xuôi nói tản mát, văn rộng, nghĩa lược. Trong bài tụng, văn lược gồm thu nhiều nghĩa. Sau đây sẽ dùng một bài tụng gồm thu mười môn trước.

“Đức là Thắng lợi Phi đức, lỗi lầm”

Bài tụng và văn xuôi theo thứ lớp không đồng, vì nhân lời nói dễ dàng.

“Lại nữa” ở dưới, kết khuyến.

Trong Văn xuôi có bảy đoạn: Đầu tiên, là giải thích bốn nghĩa xong. Từ đây trở xuống là đoạn thứ hai, giải thích năm nghĩa, trong đó, đầu tiên kết trước, sinh sau, sau theo thứ lớp giải thích riêng.

Trong phần trước, nói “như thế kiến lập thể của nghĩa văn các kinh”, kết nghĩa văn đã nói ở trước. Giải thích về môn thể ở trước, gọi là chung là thể, tức gồm thu ba nghĩa văn thành một môn.

“Các người nói pháp cho đến “Về sau nên nói thứ lớp”. Đây là dùng nghĩa đẳng khởi của pháp để giải thích vấn nạn, giải thích theo thứ lớp Thích môn kia, gọi là chung là “thích”. Gồm thu mười bốn môn kia trong giải thích kệ ở trước, làm bảy môn, vì dựa vào văn của xứ này để giải thích kệ trước. Nếu không giải thích như thế, thì đối với văn xứ này, se không thể tiêu thích.

Y cứ trong giải thích riêng, văn có năm đoạn, trong giải thích pháp ở đầu tiên, trước, là nêu chung

Hỏi: “Vì sao nói mười hai phần không thêm, không bớt ư?

Đáp: “Vì muốn trị mười hai chi”.

Kế là, theo thứ lớp, giải thích riêng:

Nói “Khế kinh nghĩa là xuyên suốt, nghĩa là ngôn giáo của bậc Thánh xuyên suốt các tướng, như sở chỉ xỏ hoa. Đây là giải thích nghĩa Khế kinh, tức là nghĩa Tô-đắt-lãm.

Văn xuôi nói thẳng: Đây là nói về tướng của khế kinh, phân biệt với Già tha, nên nói rằng Văn xuôi nói thẳng.

Phần nhiều nhiếp thọ thể tánh của ý thú, nghĩa là nói về nghĩa của “sở thuyên” của giáo ban đầu này. Phần nhiều nói về ý thú của “sở thuyên” và thể tánh “sở thuyên”.

Ứng Tụng, nghĩa là sau Văn xuôi, nên nói Già-đà: là nói lại nghĩa trước.

Lại, nêu sơ lược các kinh không liễu nghĩa đã nói. Dù Văn xuôi đã nói nghĩa, nhưng vẫn chưa rõ. Nên nay, tụng lại, để cho nghĩa được sáng suốt, rõ ràng.

Thọ ký riêng: Phân biệt rộng lược về nghĩa đã nêu. Thông thường, trước nêu lược, sau, lại nói rộng, phân biệt, chỉ bày, đều gọi là thọ Ký. Lại, ghi nhận mạng qua nơi sinh của đệ tử, đây là thọ ký về nhân, quả gọi là thọ ký riêng.

Duyên khởi: cho đến giảng nói pháp yếu, như kinh kia ban đầu nói: “Có một con nai đen đến chỗ ta v.v… ” Văn kinh như thế gọi là kinh duyên khởi.

Lại, dựa vào đạo nhân khởi của Biệt giải thoát, Tỳ-nại-da, gồm thu ngôn thuyết đã có, như trong văn luật có đoạn nói: “Bấy giờ, BạtĐà-Ma Tử phạm tội ấy. Đức Phật nhân việc này mà nói”, cũng là Kinh Duyên khởi.

Bản sự: Trừ bản sinhnói mọi sự đã có của đời trước, nghĩa là trừ nói Bản sinh của Bồ-tát, nói về việc ngoài thân quá khứ của Bồ-tát và nói Bản sự ngoài bản sinh của người khác.

Nói “bốn hạnh Bồ-tát của Thất địa (Như quyển bốn mươi chín trước đã nói).

Thất địa là:

  1. Địa chủng tánh.
  2. Địa thắng giải hạnh.
  3. Địa tịnh thắng ý lạc.
  4. Địa Hành chánh hạnh.
  5. Địa quyết định.
  6. Địa quyết định hạnh.
  7. Địa đáo rốt ráo.

Lại nói “Có bốn hạnh Bồ-tát trong tất cả địa Bồ-tát:

  1. Hạnh Ba-la-mật-đa.
  2. Hạnh Bồ-đề Phần pháp.
  3. Hạnh thần thông.
  4. Hạnh thành tựu hữu tình, giải thích rộng như văn kinh kia.

Lại, như các chữ, nếu không có Ma-đát-lý-ca, thì sẽ không sáng rõ: Theo ghi nhận của các nước phương Tây nói: “Vào thời kỳ kiếp sơ. Phạm Vương soạn luận Thinh Minh, gồm một trăm muôn bài kệ. Thời kỳ sau, Thiện Đế Thích nói tóm tắt mười muôn bài kệ. Lại, vào thời kỳ sau nữa, có vị tiên Ca-đơn-thiết-la soạn một muôn hai ngàn bài kệ. Kế có vị tiên Ba-Nị-Ni lại soạn tám ngàn bài kệ. Luận sư Hộ Pháp lại soạn ba ngàn bài kệ, gọi là “Tạp bảo Thinh minh”, hiện nay đang thịnh hành”.

Lại, tức ở đây, cho đến “cũng gọi là nghĩa luận”, chẳng phải phân biệt thẳng thể, tướng của các pháp, gọi là luận nghị. Nếu giải thích dụng của nghĩa, hoặc giải thích danh tướng, thì chỉ khiến cho nghiên cứu theo thứ lớp xoay vần, đều gọi là luận nghị.

Thứ hai, là giải thích Đẳng khởi, tức dựa vào ba thứ mà khởi ngôn giáo.

Thứ ba, là giải nghĩa; 1- Kết trước, sinh sau; 2- Chia chương, giải thích, lược có hai thứ:

  1. Nghĩa chung.
  2. Nghĩa riêng, là chia ra môn chương.

Trong giải thích, trước giải thích nghĩa chung, sau giải thích nghĩa riêng.

Phần trước, trước nói về bốn tướng, sau giải thích lại hai tướng sau.

Trong giải thích nghĩa riêng, trước nói bốn tướng, sau nói lại hai tướng sau.

Lời lẽ dạy bảo, giải thích, lại có năm thứ:

  1. Do tướng nên đặt tên.
  2. Do tự tánh, nên đặt tên.
  3. Do pháp nhĩ nên đặt tên.
  4. Do pháp nhĩ nên đặt tên.
  5. Do nhân quả nên đặt tên.

Sự khác nhau của môn nghĩa, do năm tướng. Nói tự tánh của hành có ba hành khác nhau. Luận sư Cảnh nói: “Hành v.v… trên thân, miệng, ý sanh hành riêng trong hành uẩn, cũng có thể ba thiện căn là ba hạnh, cũng có thể ba bất thiện căn là ba hạnh. Hoặc ba học là ba hạnh.

Nay, giải thích tức ba nghiệp: Thân, miệng, ý. Ba môn của năm thứ trong vị khác nhau, xét văn rất dễ hiểu.

Thứ tư, là giải thích về vấn nạn. 1- Nêu chung; 2- Giải thích riêng. Trong giải thích riêng, trước thiết lập vấn nạn. Sau, giải thích, trong đó, trước chính là giải thích về năm nạn. Sau, biên minh bốn thọ ký.

Trong phần trước, nói là đối với vấn nạn bất liễn nghĩa, phương tiện rõ ràng giúp cho người kia được hiểu. Về vấn nạn trái nhau ngữ, bảo cho họ ý thú thuận theo hội thông.

Kế là, so sánh, giải thích về vấn nạn thứ tư, thứ năm. Kế là giải thích vấn nạn trái nhau của đạo lý thứ ba. Hoặc dùng giáo khác mà phán quyết. Nếu trái với bốn đạo lý, mà tìm thuyết khác của ngoại đạo, thì chẳng phải là pháp của ta. Nếu là nghĩa của Phật pháp, hoặc là thị hiện bốn thứ đạo lý, hoặc tương ưng với nhân quả, cái gọi là lời nói này hoặc là thêm quả, hoặc là thêm nhân, nên Đức Phật đưa ra thuyết này.

Dưói đây, là nói về bốn thọ ký để giải thích:

1. Hoàn toàn thọ ký, nghĩa là như lý thưa hỏi.

2. Phân biệt thọ ký: hoặc như lý, hoặc không như lý mà đến thưa hỏi, nghĩa là như Tiểu thừa nói: “Nếu có người hỏi rằng: “Vì nga nói ấm chăng?” Nên bảo với người đó rằng: “Ấm có năm thứ, vì nói thứ nào?”

3. Hỏi ngược lại rằng. Vì khiến người kia hỏi chơi mà, tự nêu lên lỗi mình, cũng như Tiểu thừa nói: “Như có người hỏi rằng: “Pháp có rất nhiều, vì nói những pháp nào?” không vì phân biệt sắc, thọ v.v… riêng lẻ.

4. Ghi nhận đặt để, do bốn nhân duyên chỉ cho địa tư tuệ. Lại biết có người hỏi:

“Đức Như lai sau diệt độ, là “có” hay “không”? v.v… Chín mươi sáu phái ngoại đạo đều nói thầy mà mình thờ là Như lai. Như hỏi: “Thân Như lai sau diệt độ là “có” hay “không”?

Câu hỏi này đối với hai đế đã có đạo lý, đều không nên ghi nhận. Đức Như lai y cứ thắng nghĩa đế, vì chẳng phải có tánh, nên không thể thọ ký là “có”, vì thắng nghĩa đế rốt ráo không có người . Y cứ “sở y”, “năng y” của thế tục đế vì trái với đạo. Y cứ trong thế tục đế, chẳng phải không có người giả, vì dựa vào Đạo đế, giả kiến lập, nên đạo là sở y, nhân là năng y, không đồng với y cứ trong thắng nghĩa đế, hoàn toàn là “không”, nên lời nói trái nhau. Ở trong thế đế, vì có dứt trừ hết hoặc, không thành thật, vì kiến lập Như lai nên chẳng phải là không. Lại, y cứ thể của pháp Diệt đạo, cũng không thật có nói là có, không . Đạo là có, vì mỗi niệm sinh diệt. “Sở y” của niệm trước đã diệt, thì chẳng thể nói “có”. Đạo “năng y” của niệm sau “có”, thì không thể gọi là “không”. Cho nên trái nhau.

Kế là, y cứ ở quả diệt, cũng chẳng phải “có” “không”, dứt hoặc, được Trạch diệt, chẳng thể nói là không, mà trạch diệt chỉ giả do kiến lập đối với Chân như, không có thật thể, nên chẳng thể nói là “có”.

Thứ năm, là giải thích về thứ lớp. Nói “Như lời Đức Thế tôn nói, lời nói này biểu thị rõ thứ lớp của sự thịnh vượng tốt đẹp viên mãn. Nghĩa là đầu tiên, xuất gia tốt đẹp, sau xoay bánh pháp tốt đẹp, nên nói: “Ba thứ lớp trong thịnh vượng, tốt đẹp viên mãn.”

Lại nữa, nói: “Vì sao cho đến “Có thể thành trình tự”, nghĩa là vì thành tựu trước khi xuất gia, nên thành chủ thể thành thịnh vượng, tốt đẹp.

Lại nữa, trong kinh, lược nói các pháp, như nói: “Ba thọ”. Lại nói: “Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ, bất lạc thọ v.v… Nói “chỉ vì nói thọ này, nên gọi là thứ lớp viên mãn. như nói bốn đế, lại nói: “Lời nói khổ, tập, diệt, đạo v.v… chỉ thứ lớp viên mãn.

Đoạn thứ ba trong bảy đoạn, giải thích về sư. Nói mười nghĩa của pháp, nghĩa là sáu pháp như danh thân v.v… mười nghĩa của nghĩa địa v.v…. Như trên đã nói. Bốn, nghĩa là ngôn từ, thiện xảo, nghĩa là công đức viên mãn.

Tám chi thành tựu v.v… nghĩa là bảy thanh như tương ưng v.v…, tám ngữ như đứng đầu v.v… đều như trước đã nói.

Hai mươi thứ phương tiện thiện xảo: như văn của Nhân Minh.

Thứ tư, là giải thích về thuyết chúng. Trước, là nêu chung, nêu tám ngôn, năm chúng. Sau, là nhắc lại danh, giải thích riêng:

Nói “Lìa năm thứ nạn”: Như trong giải thích về vấn nạn ở trước đã nói.

Ba pháp: uẩn, giới, xứ, hoặc ba học.

Nói “ở chúng tịnh tín cho đến “Vì khiến cho sinh tịnh tín”: nghĩa là ở chúng tịnh tín, để cho niềm tin được tăng trưởng. Ở chúng oán tà khiến nhập niềm tin trong xứ. Chúng trong các xứ, vì khiến sinh niềm tin thanh tịnh.