DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 24

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 94

Thứ ba, là đại văn chính thức giải thích về Xúc làm Duyên v.v… Trước là hết, bài tụng nêu mười môn: 1- Xúc “duyên”; 2- Kiến viên mãn; 3- Thật; 4- Giải; 5- Không yêu thích; 6- Pháp trụ trí; 7- Tinh tấn; 8- Trong xứ sinh có hai lần “Lại nữa”.

Trong giải thích của văn xuôi:

1- Giải thích về đại ý của xúc “duyên”: Nhân xúc sinh thọ, đã hiện có thể được, cần gì phải chấp giả dối tự tạo nên khổ, vui và người khác làm v.v…

2- Giải thích Kiến viên mãn, dùng ba “duyên” sau để giải thích Kiến viên mãn: 1/ đối với chánh pháp và Tỳ-nại-da, không thể thay đổi. 2) cũng được gọi là thành kiến chánh trực, vì ý ưa tịnh đối với Niết-bàn. 3/ cũng gọi là thành tựu về chứng tịnh ở Phật, vì trí thanh tịnh đối với cảnh sở tri.

Do ba duyên này, như thứ lớp đó, được gọi là người thú hướng chánh pháp, người gần gũi đầu tiên. Thứ hai, và chánh chứng. Thứ ba, theo thứ lớp, phối hợp với ba duyên trước.

“Thế nào? v.v… trở xuống, là giải thích năm nhân:

1- Nhân đường ác, tức ba nghiệp ác và căn bất thiện, tức, tham, giận si.

Năm nhân thanh tịnh, nói là duyên khởi của đế, tức trí “năng duyên” là nhân thanh tịnh.

2- Giải thích môn thật. Luận sư Cảnh kết hợp hai lần “lại nữa” làm thành môn thật giải thứ ba, chỉ nay không dựa vào”.

Luận sư Đạt nói:

Hỏi: “Vì sao trong môn thật. Cảnh không nói đến thức và danh sắc ư?”

Đáp: “Nói nhàm chán, đoạn giới, lìa dục trong thuyết đã nói, nghĩa là cõi không có dục cõi diệt.

Danh, câu, văn, thân, được gọi là pháp giới.

  1. Lưu xuất từ pháp giới rất thanh tịnh, từ nhân cũng gọi là pháp giới.
  2. Y chỉ theo đây tu, có thể chứng pháp giới từ quả cũng được gọi là pháp giới.
  3. Giải thích pháp giới, cũng gọi là pháp giới.

Lại “Vì khác nhau như thế v.v…” trở xuống là giải thích danh, nghĩa khác nhau của hữu vi.

1. Giải thích môn giải. Luận sư Cảnh nói: “Môn có “khác” được ghi nhận riêng” cho đến “không có một nghi hoặc”, nghĩa là ý có hành vi, gọi là môn cò “khác”. Môn không có “khác” được ghi nhận, nghĩa là ghi nhận rằng: sanh tử của ta đã hết v.v… ”. Lại, không có nghĩa “khác”.

Trí ghi nhận riêng: thế nào là môn tri kiến?

Sự sinh kia đã hết v.v… trở xuống, là đáp: “Tức ghi nhận riêng rằng,”vì sinh “duyên” tận, nên sinh kia đã tận”.

“Lại tức v.v… trở xuống, là nhân giải thích về phân biệt ghi nhận riêng thứ sáu, nghĩa là ghi nhận riêng cái “có” của nhân duyên kia, tức “có” duyên sinh.

Lại nữa, ghi nhận riêng về nhân duyên của sự sinh kia, nhân duyên các thủ, nghĩa là thủ “duyên” hữu.

Lại nữa, ghi nhận riêng về tướng mạo của thủ này, vì biết như thật, vì thấy như thật, nên khiến cho thủ “không có” nghĩa là ghi nhận riêng dứt trừ thủ. Đã giải thích về ghi nhận chung thứ năm xong, sẽ giải thích về đoạn ghi nhận riêng thứ tư: “tất cả nhân duyên tham ái, đều cùng tận”, đây là đoạn ghi nhận riêng (ký biệt) tức phân biệt ghi nhận riêng. Vì phân biệt ghi nhận tham dứt trừ, nên đây là ký biệt chung. Phải biết rằng, đại khái do ba thứ hành tướng, nghĩa là các kiết mà Đức Phật đã nói, ta đều không có, gọi là ghi nhận chung ban đầu.

Thứ hai, là ghi nhận chung tất cả đều xấu ác, pháp bất thiện, đều không rò rỉ ở tâm.

Thứ ba, tự mình không có tất cả kiêu, mạn”.

Luận sư Đạt nói: “Môn có “khác” ghi nhận riêng: Chẳng phải chỉ lắng nghe, liền được không có nghi, nên nói “môn có khác”.

Lại “Tức đối với ghi nhận riêng v.v…” trở xuống, là nhân trí phân biệt ghi nhận, tức là vượt qua giải thích về ghi nhận riêng thứ sáu.

Cái “có” của nhân duyên kia, nghĩa là trong phân biệt ghi nhận của trí trước rằng, vì sinh “duyên” cùng tận nên nói sinh “duyên” là chi 08 hữu. Nay, ở đây, nói rằng nhân duyên của nhà chi sinh, vì cái gọi là chi “hữu” nên nói là nhân duyên.

Lại nữa, ghi nhận nhân duyên của sinh kia, nhân duyên các thủ: Lại nữa, tìm kiếm nhân duyên của nhà chi “hữu”, cái gọi là chi thủ. Đây là nhân duyên của nhà nhân duyên, nên nói “nhân duyên của nhân duyên”.

Trên đây, là nói về khởi quán phần tạo tác.

“Lại nữa, ghi nhận riêng về tướng của các thủ này v.v…” trở xuống. Là nói về quán Hoàn diệt. Phân biệt ghi nhận chung: bỏ cách giải thích phân biệt ghi nhận chung thứ năm, nhắc lại văn phân biệt ghi nhận của Trí.

Đoạn phân biệt ghi nhận, nghĩa là lại trừ bỏ cách giải thích đoạn phân biệt ghi nhận thú tư.

Thứ năm, là giải thích về không ái lạc, trước nêu chung, về ái lạc, không ái lạc. Sau là hỏi, đáp, giải thích.

Thứ sáu, là giải thích về trí pháp trụ và trí Niết-bàn. Trí pháp trụ của kiến đạo về trước này, là quán bốn đế, không đồng với luận Tiểu thừa nói là bốn viên mãn (như dưới đây sẽ nói).

Thứ bảy, là giải thích môn tinh tấn. Trước, nói về quán sáu viên mãn, công năng phát sanh tinh tấn.

Sáu nói do bốn thứ tướng, gọi là khéo nói pháp. Trong phần trước, đầu tiên, là nêu chung, gạn hỏi. Sau, là giải thích riêng. Trong đó có hai: trước, giải thích về tướng viên mãn của sáu thứ. Sau, là nói các thông minh. Nghĩa là trụ siêng năng, tinh tấn, trong đó lại có hai: 1/ Nói về tu hành tinh tấn. 2/ Biếng nhác và tinh tấn đối lập nhau, để nói về được, mất.

Y cứ trong phần nói về sự thắng lợi của tinh tấn. 1/ Nêu hai điều lợi đối với phần chung ở trước, đây là tinh tấn v.v… trở xuống. 2/ Tùy vấn nạn giải thích, tức chia ra làm ba chương. Dưới đây sẽ giải thích theo thứ lớp. Hai điều lợi trước rất dễ hiểu.

Trong phần nói về nghĩa “câu”, trước hỏi, sau đáp. Trong đáp có hai: 1/ nghĩa của mình, 2/ nghĩa của người trong đó có bốn câu: Câu thứ tư, tức ở ba câu trước nói theo đuổi không có đoạn, nên nói “Rất tu rộng”.

Thứ tám là giải thích về chỗ sinh, như văn, rất dễ hiểu.

Thứ chín, là giải thích môn do dự, tức là chữ Đẳng trong bài tụng, lần “Lại nữa” đầu tiên đã lấy (sở thủ).

Luận sư Đạt v.v… nói: “Đệ tử các bậc Thánh học rộng, là phàm phu. Dù là phàm phu nhưng học Thánh pháp, nên nói là đệ tử bậc Thánh. Nếu bỏ hai chữ Đa Văn (học rộng), tức là Bậc thánh chân thật, văn này chứng biết.

Thứ mười, là giải thích môn khổ não, là “Lại nữa” sau đã lấy chữ “đẳng”.

Nói “Lại như có một cho đến “gọi là người thứ ba”, nghĩa là văn này nói về người học cũng tạo nghiệp tư lương, chỉ tạo “mãn nghiệp”.

Thứ tư, là môn Đại giải thích có diệt v.v… Trước bài tụng nêu sáu môn:

  1. Có diệt.
  2. Hoặc Samôn, Bà-la-môn.
  3. Thọ trí.
  4. Lưu chuyển.
  5. Qua lại.
  6. Thuận nghịch với Phật.

Trong giải thích của Văn xuôi, trước là giải thích môn “hữu diệt”. Luận sư Cảnh nói: “Các học kiến tích xong, đối với chỗ kiến hoặc diệt, tuệ thân đều chứng, mà chỗ tu hoặc chưa diệt, thân của Trạch diệt kiến, chưa thể chứng, vì chưa dứt, như người khát nước kia, nhìn xuống giếng thấy nước. Thùng múc nước dụ như cõi diệt. Phương pháp gọi là thùng múc nước”, Luận sư Đạt nói: “Bậc thánh kiến đạo dù đã dùng Tuệ nhãn chứng thấy đạo, đã dứt trừ hết phiền não, ở vô vi, cũng được đạo phương tiện năng tu, nhưng vì chưa dứt trừ “hoặc” do tu đoạn, cho nên cũng chưa chứng đắc vô vi, nên nói cũng chưa thể.”

Văn dụ rằng: “Nhục nhãn dụ cho kiến đạo, nước tốt dụ cho vô vi đã chứng. Chậu nước dụ cho đạo phương tiện năng tu”.

Có chỗ giải thích: “Cái “có” trong đây, nghĩa là ba cõi, nếu ba hữu diệt, thì tức chứng Niết-bàn. Cho nên Niết-bàn gọi là hữu diệt. Muốn chứng tỏ người của ba quả, không cần “duyên” người khác, mà tự quán Niết-bàn, nhưng chưa tác chứng, như người khát nước, thấy nước không uống”.

Thứ hai, là giải thích về Sa-môn, Bà-la-môn. Luận sư Cảnh nói: “Lại có hai thứ: 1- Ái sở tác; 2- Nghiệp sở tác, cho đến giới vô minh đã theo sáu xứ”, như Tam Tạng Pháp sư nói: “Như tám chi này là sở tác của ái. Vì sao? Vì ái, thủ đồng là tham ái, nên gọi là Ái sở tác, rất dễ hiểu. Từ ái, thủ thấm nhuần nghiệp, gọi là “hữu”, cũng là cái mà ái đã làm. Từ ba chi này sinh ra hai quả. Xa từ ái, gọi là ái sở tác. Lại quán ngược ái và ái làm nương tựa. Y cứ làm nương tựa của thọ, sáu xứ làm nương tựa cho xúc. Thế nên, sáu xứ, xúc, thọ, lại từ quả ái đã sinh làm ái, gọi là “sở tác”. Hạt giống vô minh nương tựa vào sáu xứ, nên nói “Như vô minh xúc sinh ra các thọ, nếu xúc vô minh và giới vô minh đã theo sáu xứ”.

“Nghiệp Sở tác cho đến “không biết như thật”, nghĩa là biết không như thật là vô minh. “Hành” trong bốn chi trước này là thể của nghiệp. Từ nghiệp ý tứ, khởi nghiệp thân, ngữ, vì thức và danh, sắc là quả của nghiệp, nên gọi là nghiệp sở tác.

“Như pháp trụ trí” v.v… trở xuống, gọi là trước không chứng đạo như thị ở sau. Pháp trụ trí ở trước, đối với pháp duyên sinh, còn không thể rõ, huống chi như kiến đạo chứng hiện quán đế mà rất dễ hiểu rõ khắp ư? Kiến đạo dù dứt trừ kiến hoặc, nhưng không bằng tu đạo, cho nên chưa biết rõ khắp. Tu được dù tâm diệt tu hoặc, nhưng vì không bằng vô học, nên nói “chưa thể siêu việt”.

Luận sư Đạt lại nói: “Trong đây, vì sinh cái khác, vì từ cái khác sinh, nên đều nói sở tác của ái. Chi thủ, hữu, ái vì là chủ thể sinh cái khác, nên nói là “sở tác”.

“Nếu vô minh v.v… trở xuống, là nói từ cái khác sinh, nên nói “sở tác”.

Hỏi: “Vì sao trong chủ thể sinh cái khác, không nói sinh, già chết ư?”

Đáp: “Vì trong đây nói nhân sở tác. Đã có sở tác tức có quả sở sinh, nên chỉ nói nhân, không nói quả. Trong sở tác của nghiệp (nghiệp ái tạo), chỉ có chủ thể sinh cái khác, nên nói là “sở tác”.

Thứ ba, là giải thích về trí, thọ. Luận sư Cảnh v.v… cho rằng: “Bốn mươi bốn nói về Thọ và Bốn mươi bốn nói về Trí, không đồng với luận Tiểu thừa chỉ nói bôn mươi bốn Trí. Phải biết rằng, ở mười một chi trong đây, an lập bốn đế. Dựa vào mỗi chi đế này, lập bốn mươi bốn sự, tức bốn mươi bốn sự đế. Trong già, chết của mé sau chỉ có quả, vô minh của mé trước chỉ có nhân, nghĩa là ở đây y cứ một lần, một đoạn nhân, quả: Vô minh không có nhân, già chết không có quả. Nếu dựa theo mười hai luân chuyển, tức vô minh có nhân, cái gọi là già chết. Già chết có quả, tức là vô minh, gọi là vô thỉ có luân. Vô minh chỉ có ba đế, không có tập, cho nên không có quán, chỉ có bốn mươi bốn trí. Vì biết khắp khác nhau của ba thời, nên tìm kiếm quán nhân. Quá khứ đã sinh “duyên” già chết. Vị lai sẽ sinh “duyên” già chết. Hiện tại hôm nay sinh “duyên” già chết.

Nói “Như trước đã nói, vì quyết định biết khắp có khác nhau, nên ở đây xét nhân để quán. Quá khứ chẳng phải không “duyên” sinh có già chết v.v… Lại, có ba trí, thêm vào ba trí trước thành sáu. Do trí “năng thủ” thuộc về pháp trụ trí, vì có sự khác nhau của tánh vô thường, nên quán chung ba đời. Già chết từ sinh sở sinh đều là vô thường, nên thành bảy trí. Như thế, cho đến quán hạnh cũng có bảy trí, nên có bảy mươi bảy trí. Như thế, trải quán các đế, tất cả hành tướng đều từ vô gián này nhập hiện quán đế, nghĩa là nói biết Kiến đạo trở xuống đã tạo nên hành này.

Thứ tư, là giải thích lưu chuyển. Luận sư Cảnh nói: “1/ Nhân tăng ích, nghĩa là bảy nhân dẫn ở trước; 2/ Quả sinh khởi; 3/ Nhân sinh. Ba quả tăng tập, nghĩa là hai nhân dẫn sinh, nếu nhóm hợp quả đương lai thì gọi là quả.

Như thế, lược nhiếp thu thành một, gọi chung là các pháp, hoặc tăng, hoặc sinh, hoặc nhóm hợp, kết hợp với ba tướng trước, là lưu chuyển kia.

“Dựa vào nhân quả diệt cho đến “hoặc mất”, đây là Hoàn diệt. Trái với bảy tăng trước, gọi là giảm. Trái với ba nhân sinh trước nên gọi là diệt. Vì trái với hai quả tập trước, nên gọi là mất. Đạo lý của hai thứ lưu chuyển, hoàn diệt vì không trái với pháp tướng, nên nói “đạo lý khác nhau của ý thú như thế, không trái với pháp tánh”.

Lại, có nghĩa khác, thời gian khác nhau của mé đầu, giữa và sau, nghĩa là nhân lưu chuyển quá khứ, gọi là tăng ích. Diệt trở lại, gọi là diệt (Hoàn diệt gọi là diệt). Lưu chuyển ở vị lai, gọi là quả sinh khởi. Trong phần Hoàn diệt gọi là giảm. Hiện tại, gọi là quả. Thêm tập trái với quả kia, gọi là mất.

Vì sự khác nhau v.v… của cõi Dục, Sắc, Vô Sắc: Lưu chuyển, Hoàn diệt của cõi Dục, hoặc tăng hoặc giảm. Cõi Sắc gọi là hoặc sinh hoặc diệt. Cõi Vô Sắc, gọi là hoặc tập hoặc mất.”

Pháp sư Thái nói: “1/ Nhân Tăng ích, nghĩa là chi vô minh; 2/ Quả tăng ích, nghĩa là chi sinh già chết; 3/ Nhân, quả tăng ích, nghĩa là bảy chi còn lại.”

Luận sư Đạt nói: “Hoặc tăng, hoặc sinh, hoặc tập, nghĩa là y cứ chung một xứ của mười hai chi mà nói, nên rằng: “hoặc tăng v.v… ”. Hoặc giảm, nghĩa là vô minh diệt trong phần hoàn diệt, nên nói là giảm, hoặc diệt, nghĩa là vì do hành diệt, nên nói rằng diệt. Hoặc mất, nghĩa là vì sinh, già chết tận, nên nói là mất.

Thứ năm, là giải thích về qua lại. Luận sư Cảnh nói:

“1/ Tạp nhiễm của nghiệp ái, nghĩa là vì ái tương ưng với tư mà tạo tác, nên gọi là nghiệp ái tạp nhiễm, 2/ Kiến giả dối tạp nhiễm, tức là các kiến.

“Nên biết rằng, trong đây v.v… trở xuống, là nói về tên khác của kiến đó:

“Nói hữu học kiến tích cho đến “không ưa thích hậu hữu”: 1/ Giải thích: “Kiến phân biệt đã dứt mất. Có kiến giả dối “Câu sinh”, vì theo phần nhiều đã dứt trừ, nên nói chỉ có tập khí”.

2/ Giải thích: “Kiến “phân biệt” gọi là triền, tất cả đã dứt trừ. Kiến “câu sinh” nhân kiến “phân biệt” sinh, gọi chung là tạp khí, nên nói chỉ có tập khí ngã mạn v.v…

“Nghiệp ái tạp nhiễm cho đến “Chiêu tập hậu hữu”, Tức là ngã ái phân biệt. Ở tu dứt trừ, nghĩa là do dứt trừ ngã kiến “phân biệt”. Ái này rốt ráo không hiện hành. Nhưng có hạt giống chưa dứt, theo đuổi làm tiêm nhiễm, Vô học rất dễ hiểu”.

Luận sư Đạt nói: “Không có các Triền, cả ba thuyết đều giải thích khác nhau.

1/ “Không có phân biệt mà khởi, nên nói rằng không có các triền”.

Hỏi: “Nếu vậy, “Câu sinh” nhậm vận khởi nhập, thuộc về môn nào ư?”

Đáp: “Xếp vào Tùy miên”.

2/ “Vì “câu sinh” cũng phần nhiều không khởi, nên nói không có các Triền”.

3/ “Không có phân biệt, vì đã khởi triền ngã mạn. Vì sao? Vì đối tượng mà ngã kiến nương tựa đã dứt trừ, nên ngãa mạn này rốt ráo không hiện ở trước. Nhưng Tam Tạng Pháp sư giải thích: “Tu đạo đã dứt trừ các triền. Trong văn luận rốt ráo, không có phân biệt mà khởi ngã mạn, tùy miên triền cũng không có, vì trong kiến đạo trước đã dứt trừ.

Tạp nhiễm tâm kia: 1/ “Tùy miên ngã mạn”; 2/ “Phiền não v.v… “Câu sinh v.v… 3/ “Các ái v.v… hiện hành”.

Có Luận sư giải thích: “Hỏi: “Đã làm người Hữu học, chưa dứt trừ kiến “Câu sinh”, Luận chủ không thể nói chỉ có tập khí, chỗ dựa của ngã mạn, bởi vì trong nghĩa quyết định đã nói “Chỉ”. Nếu nói tập khí mà có hiện hành ấy, thì cũng có thể nói có hiện hành mà “chỉ” có tập khí chăng?”

Đáp: “Nay, phần thứ năm, muốn nói ba tạng của Đại thừa, Tiểu thừa đồng không có khác nhau, chỉ có Thánh Tiểu thừa của thời đại sau, như nói chấp ngã. Nếu chấp kiến của mình để phân tích chân ngôn thì sẽ trở thành nhiều chướng ngại, nên nay Luận chủ vì muốn làm sáng tỏ ý Phật hội quy một đường, nên nói phần nhiếp sự, nhưng tức không thể do có hai kiến trong phần trước, đã khiến cho đồng với phần sau cũng có hai kiến. Vì sao ? Vì ý văn này, chính là giải thích ngôn giáo tùy tướng của Đức Như lai, nên kiến “câu sinh” không thể nói là Triền của kiến giả dối, “chỉ” nói là tập khí, vì vi tế, nên không có phần này gồm thu hai kiến kia, thuộc về ngã mạn.”

Pháp sư Thái nói: “Ba địa vị hữu học, vì không khởi kiến phân biệt, nên vọng thấy dối đã dứt trừ”.

Thứ sáu, là giải thích về thuận, nghịch của Phật, trong đó có ba:

1/ Chính thức giải thích về thuận, nghịch nơi Đức Phật.

2/ Giải thích chung về chi duyên khởi.

3/ Nói dựa vào bảy thanh tịnh để tu tập dần.

Đầu tiên, là nói về Đức Phật quá khứ v.v… do duyên khởi tư, nên được Bồ-đề, khi được Bồ-đề rồi, quán hiện pháp lạc trụ của đạo lý thuận nghịch duyên khởi. Nay, đức Bạc-già-phạm cũng giống như thế. Đây là nói từ đức Thích-ca Như lai, hướng về bảy Đức Phật trước, đồng quán duyên khởi, đều được Bồ-đề v.v… ”.

Hỏi: “Trong quá khứ từng có vô lượng Chư Phật đồng quán duyên khởi, đều được Bồ-đề. Vì sao chỉ nói bảy Đức Phật v.v… ư? Nay, luận y cứ làm giải thích.

Chư Phật kia dù vô lượng, giống như nói bảy kiếp của thế gian, nghĩa là qua thứ lớp bảy hỏa tai, sau đó là một thỉ tai v.v… nên dựa vào bảy kiếp này để so sánh. Vã lại, biện luận về bảy vị Phật, huống chi tất cả Bồ-đề thấp kém khác. Khi Đức Phật chứng đắc Bồ-đề, vì còn như duyên khởi, nên chưa chứng được năng chứng v.v… huống chi Bồ-đề của Nhị thửa ư?

Dưới đây, là giải thích chung về Chi duyên khởi. “Lại, vì như thật cho đến “Như trước nên biết”, nghĩa là quán tự tánh duyên khởi, nhân duyên của duyên khởi, nhân duyên của tạp nhiễm, nhân duyên của thanh tịnh, đây là năm chi. Lại, đây là nghĩa chung của duyên khởi, nghĩa là dựa vào các khổ có nhân của phẩm chuyển, tức là nhân duyên của lưu chuyển.

Lại, dựa vào tất cả các pháp vô lậu có nhân của phẩm Hoàn, nghĩa là tức các pháp trí đoạn trong phần vắng lặng của quán duyên khởi.

Lại, tánh sở y chỉ của các lậu kia, từ vô minh xúc mà sinh các thọ, là y chỉ của ái, thủ.

Lại, Pháp có nhân cho đến “Chỉ có y duyên”, nghĩa là bậc A-lahán do dứt trừ phiền não, mà có pháp nhân duyên, chỉ có sáu y, sáu duyên.

Thứ ba, là nói về bảy tịnh. Nương tựa bảy thanh tịnh, tu tập dần để được Niết-bàn Vô tạo, nghĩa là tu bảy tịnh ý. Pháp sinh tử đợi nhân duyên mới thành, gọi là tạo tác. Niết-bàn không thế, gọi là vô tạo. Trong bảy tịnh, đầu tiên là giới tịnh, tâm tịnh ở trước kiến đạo. 3/ Kiến tịnh; 4/ Độ nghi tịnh, ở kiến đạo; /; 6/ ở Tu đạo; / Ở đạo vô học.

Giới tịnh ban đầu là giới Biệt giải thoát. Tâm tịnh là được bốn thiền. 3/ Kiến thanh tịnh, tức chánh kiến Hữu học quy hiện quán. 4/ Độ nghi tịnh, hoài nghi đối với Tam Bảo rốt ráo dứt trừ, tức bốn bất hoại tịnh. / Đạo, phi đạo tri kiến tịnh, tức chánh kiến biết rõ đạo hạnh ở trước là chánh đạo. Do đây, có thể đoạn tu dứt “hoặc”. 6/ Hành tri kiến tịnh. Được, khéo léo đối với đạo, phi đạo, xa lìa phi đạo, dạo nơi chánh đạo. / Thực hành dứt trừ tri kiến tịnh, tức xa đối với bốn thứ hạnh của tu đạo, biết rõ như thật về khổ trì thông, tất cả nên dứt trừ.”

Hỏi: “Đạo vô lậu này sao gọi là Đoạn? Sẽ giải thích dưói đây:

“Vì nghĩa siêu việt, nên gọi là đoạn, chẳng phải do; lìa trói buộc của phiền não gọi là đoạn.

Thứ hai, Khổ tốc, thứ ba, một phần Lạc trì nên đoạn, nghĩa là thứ hai có thể khổ, thứ ba có nghĩa trì (chậm), nên một phần phải đoạn. Về nghĩa tốc, nghĩa lạc, không nên nói đoạn.

“Chẳng phải chỉ do đây”, nghĩa là chẳng phải chỉ một thanh tịnh mà có thể được Niết-bàn, cũng chẳng phải lìa đây, có nghĩa là “Nhưng không rời một thanh tịnh này.”

Trên đây, là bốn tụng giải thích về duyên khởi xong. Dưới đây là một bài tụng thứ năm. Sẽ giải thích về ăn v.v…

Bài tụng ở trước nêu sáu môn:

1. An lập; 2. Nhân duyên; 3. Quán sát nghĩa ăn; 4. Rất nhiều tai hại lỗi lầm; 5. Tạp nhiễm; 6. Giải thích chữ “Đẳng”.

Trong Văn xuôi đầu tiên là giải thích an lập, có bốn pháp làm tăng trưởng căn đại: 1- Lục Khí, có nghĩa là đoạn thực (ăn vốc), có thể cho lực khí làm thức ăn; 2- Mừng, vui: Xúc tương ưng với mừng, vui, thường với mừng, vui làm thức ăn, không lấy xúc tương ưng với lo khổ.

2. Chuyên chú hy vọng đối với việc đáng yêu, tức ý tứ hữu lậu, có thể cho tất cả hy vọng đối với cảnh đáng ưa thích làm thức ăn.

3. Chỗ nương tựa của ba cách ăn trước.

Nói, ba môn, tức ba cách ăn trước.

Thứ hai, là giải thích nhân duyên. Nói giới vô minh, nghĩa là hạt giống vô minh.

Thứ ba, là giải thích quán sát về nghĩa ăn.

Nói “Đối với hiện pháp, vì có cái ăn này cho đến “Lại, vào thời gian nay làm kiết sinh duyên”. Nghĩa là sáu xứ hiện tại đối với vị lai kia, gọi là mé trước. Đến khi qua đời, dừng lại, vừa vô thường, diệt. Vị lai sinh có đủ sáu xứ, tầm lại nối tiếp sinh. Hạt giống của tri thức trong sáu xứ của mé trước này làm duyên năng dẫn. Lại, vào thời gian này, về sau, sẽ khởi thức của mé ban đầu làm duyên nối tiếp sinh. “Cho nên, nhân quả rơi ở các hành cho đến “luân hồi không dứt”, đây là y cứ theo xứ để nói. Vã lại, thân Diêm-phù Đề của mé trước tạo nghiệp hữu, đi qua sinh hữu của Tây Cồ-đà-ni. Lại, do hướng, nghĩa là thân Cồ-đàni của sinh hữu mé sau. Tạo tác nghiệp “hữu” lại thú hướng sinh hữu Diêm-phù Đề của xứ sinh mé trước.

Thứ tư, là giải thích về rất nhiều tai hại lỗi lầm.

Thứ năm, là thích tạp nhiễm, đều như văn rất dễ hiểu.

Thứ sáu, là giải thích về môn “sở thủ” của chữ “Đẳng”.

Nói “hoặc trụ địa trên, hoặc ở địa dưới, nghĩa là phiền não của tham mừng này, hoặc “duyên” địa trên, hoặc “duyên” địa dưới. Ma La, nghĩa là Thiên ma thứ sáu.

BẢN LUẬN QUYỂN 95

Dưới đây là thứ sáu. 1/ bài tụng giải thích về như lý v.v…, tức nói về bốn đế. Trước bài tụng nêu mười hai môn: 1/ Như lý; 2/ Nhiếp; 3/ tập đế; 4/ Đắc; 5/ Tướng; 6/ Xứ; 7/ nghiệp; 8/ Chướng; 9/ Lỗi; 10/ Đẳng Dị thục hắc; 11/ Nghĩa Đại; 12/ Khó được.

Trong giải thích của Văn xuôi, đầu tiên, là giải thích môn như lý, trước lược, sau rộng. Trong lược có hai:

1. Nói nếu biết không như thật về trí đế, vì như lý, không như lý, nên không thể hết lậu. Nếu biết như thật, thì có thể dứt hết lậu.

2. “Nếu biết v.v… trở xuống, là giải thích thể của như lý, không như lý; trong giải thích rộng, 1/ giải thích không như lý, 2/ “Trái với đây v.v… trở xuống, giải thích như lý.

Trong không như lý ở trước, có bốn lần “Lại nữa”. Trong lần “Lại nữa” thứ tư nói: “Dựa vào ba sự đẳng ngôn v.v… nghĩa là pháp ba đời có thể phát ra ngôn thuyết, gọi là xứ thuyết, nên nói dựa vào ba sự ngôn.

Nói “hoặc” duyên sự “sở thủ” cho đến “hoặc lìa các hành phân biệt có ngã”, đây là chia ra bốn chương. Dưới đây là theo thứ lớp giải thích:

Nếu sự “sở thủ” phân biệt làm ngã thì: 1/ Hoặc thành thường kiến, rất dễ hiểu. 2/ hoặc thành đoạn kiến cho đến “là thật, là thường”, nghĩa là vì chấp ngã đoạn, nên nói ngã là không. “Ngã” kia là thật là thường, đây là khởi hai kiến trong “sở duyên”. “Nếu “duyên” sự “năng thủ” cho đến “Nay, ta dùng ngã để quán sát về ngã, đây là chấp tâm “năng duyên” làm “ngã” là thường. Dùng tâm niệm sau khi “duyên” tâm “năng thủ” làm đoạn, nghĩa là khi trước, “ngã” là có, quán sát nay không có. Đây là kiến thứ hai.

“Hoặc lại tức “duyên” sự “năng thủ” cho đến “ngã” xứ đã từng có”, nghĩa là “duyên” tâm “năng thủ”. Nay, lìa vô “ngã”, cái ngã từng có xưa kia, đây tức là chấp năng thủ kia, khởi lên ba kiến. Trước kia đã chấp “sở thủ” khởi lên hai kiến, hợp khởi năm kiến, nên nói “Như thế, lại nói năm tướng khác nhau của “sở thủ”, “năng thủ” cho đến “Nói tức là các hành của ba đời, phân biệt có “ngã”, đây là kiến thứ ba “Tức hành chấp ngã”.

“Lại nữa cho đến “phân biệt có ngã”, đây là giải thích chương thứ tư, “lìa hành chấp ngã”.

Nhân kế chấp thứ tư này, kế là, giải thích tên khác của chấp ngã:

1. Hoặc tự tác nghiệp, gọi là “năng tác”, nghĩa là hoặc trời Tự Tại v.v… khác, khiến tác, gọi là “đẳng tác”.

2. “Năng khởi”, nghĩa là “đẳng khởi”.

3. “Năng sinh”, nghĩa là “đẳng sinh”.

4. “Do mình, người thấy, nghe, hay, biết, tùy khởi ngôn thuyết, gọi là “năng thuyết”, nghĩa là hoặc dạy bảo vợ con v.v… để cho họ trụ chỗ kia, cũng gọi là người “năng thuyết”.

5. Người “năng thọ”, nghĩa là người đẳng thọ.

6. Hoặc ở quá khứ đã gây ra các thứ nghiệp, lãnh thọ các thứ Dị thục, gọi là người lãnh thọ. Hoặc nói “hay bỏ uẩn này, hay nối tiếp uẩn khác”.

Trên đây, tên khác của sáu thứ đều lìa hành chấp “ngã” làm tác giả thọ giả.

Nếu “khác” với hành này, nghĩa là đã không có ngã thì làm sao được thành đạt sự nghiệp đã tạo ở trên. Đây là lý do khởi kiến thứ hai, gọi là tác ý tư duy v.v… không như chánh lý thứ sáu.

Luận sư Cảnh nói: “ từ quyển đầu đến quyển chín mươi lăm này, nói về lý do khởi kiến. Thông thường có sáu thứ tác ý tư duy không đúng lý”.

Luận sư Đạt nói: “trong “tức” uẩn chấp ngã ở trước có năm tướng, lại thêm “ly” uẩn chấp ngã là thứ sáu”.

“Như thế trở xuống, là kết các kiến trước đều là thân kiến. “Do chướng ngại v.v… trở xuống, là nói về lỗi khởi kiến.

“Trái với đây v.v… trở xuống, là trái với lỗi này là nói được lợi ích.

Thứ hai, là giải thích về môn nhiếp, 1) ngăn ngưa chấp ngoài. 2) phải biết rằng v.v… trở xuống, khuyên biết chánh nghĩa.

Trong phần trước, người ngoài nói: “Bốn Thánh đế chỉ là sinh cảnh giới thiện. Không gồm thu pháp thiện. Nay, ngăn ngừa chung rằng; “Chớ nói lời này.” Vì sao? Vì vô lượng pháp thiện đều quy về bốn đế.

Trong khuyên biết chánh nghĩa, 1/ lược nêu tông. 2/ Chia chương, giải thích rộng thứ ba trong tổng kết chia chương, giải thích người kia lại tu tập, vì tu thân niệm, nên là môn chương thứ nhất.

“Phẩm quán” là chương thứ hai, phẩm “Chỉ” là chương thứ ba. Dưới đây, theo thứ lớp giải thích:

Như địa tu giới, tức là điều thiện của phần giải thoát. Địa đã làm xong, tức ở Vô học, gọi là công việc mà địa đã làm xong. Dưới đây, là y cứ ở địa để nói về tu thân niệm. Tùy quán bốn thứ Niệm trụ của năm uẩn, đều gọi là thân niệm. Do quán sắc thân, danh thân, vì đều là danh thân. Đầu tiên, là “duyên” sắc thân, hoặc còn do ái khác với phi ái, tăng ngữ có đối, khi xúc hiện hành. Dưới đây là nói về hai duyên trái, thuận. Chỉ sinh như lý, thọ, tưởng, hành, thức, tức “duyên” danh thân. Kế là, nói về quán. Xem văn rất dễ hiểu. Chỉ có các quán như tưởng sáu giới, quán sở “duyên” của tâm, lại “duyên” cảnh bốn niệm trụ của năm uẩn, lại không có pháp khác. Kế là, nói về “chỉ”:

Nói dụ chiếc cưa: Ở đây có hai giải thích:

1. “Người tu hành, giả sử dùng cưa để cưa thân mình, cũng phải nghĩ không trả oán.”

2. “Cưa có tác dụng cắt đứt gỗ, đều bẻ gẫy răng, không đồng với dao, gươm. Lúc tu nhẫn, cũng giống như thế, không thể lấy oán để bẻ gảy răng nhẫn nhục được, nên nói dụ chiếc cưa. Tu, như thuyết trước đã nói.

Thực hành không buông lung thuộc về bốn chi:

  1. Khéo giữ gìn thân.
  2. Khéo giữ gìn căn.
  3. Khéo giữ gìn niệm.
  4. Được đạo xuất thế gian.

Thứ ba, là giải thích Tập đế v.v… Nói “Do bốn nhân duyên cho đến “một trăm lẻ tám hành ái”, nghĩa là do ái kia, khởi rãi rác các phiền não, phát nghiệp, chiêu cảm sinh, nêu ái.

Những gì gọi là năm thứ ngã mạn v.v… ? Luận sư Cảnh nói: “Rằng, vì đối với ngã kiến, chưa dứt trừ hẳn cho đến “đối với sáu xứ kia”, câu này là chung, tức là thứ nhất. Cho đến chưa bị hao tổn bởi già suy cho đến “là ta như xưa”, là thứ hai.

“Nếu người kia lại vì cho đến” nếu thành tựu sắc đẹp, sức khỏe nay ta được tốt đẹp, là thứ ba. Nếu trái với “ngã” này, thì chẳng phải tốt đẹp, là thứ tư.”nếu bị già yếu làm hao hụt cho đến” nay, ta thay đổi khác, là thứ năm”.

Luận sư Đạt nói: “Nói khởi năm thứ mạn: 1) “Đối với ngã kiến cho đến như xưa”, nghĩa là chấp ngã trong sáu xứ không đổi.

1. “Nếu người kia lại bị v.v… ” đến không có nói”, nghĩa chấp ngã trong hoặc thay đổi, hoặc không thay đổi.

2. “Nếu người kia thành tựu cho đến” tốt đẹp, nghĩa là chấp ngã ở trong sáu xứ tốt đẹp.

3. “Nếu trái cho đến chẳng phải tốt đẹp”, nghĩa là chấp ngã trong sáu xứ chẳng tốt đẹp.

4. “Nếu vì già yếu v.v… trở xuống, là xả chấp ngã trong già yếu.

Vì năm ngã kiến này khởi mạn, nên có năm”.

Lại có một giải thích: “1) Một thời sáu xứ, vì dựa vào sáu xứ để giả lập mạng căn, thì chẳng phải mạng căn. 2) Cậy vào sắc đẹp. 3) Cậy vào sức mạnh. 4) Cậy yên vui. 5) Cậy biện tài. Nhưng tức dựa vào quả của năm chi mà khởi mạn, gọi là năm thứ ngã mạn.

Thế nào là tự tánh sai khác? Nghĩa là năm thứ ngã mạn này vì nương tựa, phát khởi có ái và không có ái, nghĩa là phần thô có hai. lại ngã mạn có ái kia khác nhau của phẩm nhuyến Trung, thượng, mà chuyển v.v… phần tế.

“Trong đó không có cho đến” không có ba phẩm Luận sư Cảnh nói: “ Về lý, không có ái, do tư duy lựa chọn mà khởi, nên cũng có ba phẩm như ngã “phân biệt” có thể không có ba phẩm. Nay, vì tư duy một tượng, nên nói chỉ có phẩm thượng”.

Luận sư Đạt nói: “Do văn này chứng biết không có ái: “Hoàn toàn “phân biệt” khởi, chẳng phải “câu sinh”. Vì văn ở đây đối với “câu sinh”, nên không có ba phẩm. Nếu y cứ ở tự loại, cũng chẳng phải không có ba phẩm khác nhau. Nhuyến có ái, nghĩa là ở đương lai, nguyện “ta” sẽ có, nghĩa là: 1) Nguyện, “ngã” có, “tức” nguyện “ngã” sẽ có ở sáu xứ. 2) Nguyện “ngã sở” (cái ngã có) “tức” loại như thế, nguyện “ngã” sẽ có v.v…. 3) Nói hiện được chủng loại thân tốt, lại nguyện đương lai lại được loại này. “Khác với loại như thế, nguyện “ta” sẽ có bằng nhau. 4) Nói về thân xấu ác hiện tại, nguyện ở vị lai sẽ được thân vượt hơn của loại khác.

“Ái Trung Hữu cho đến nguyện” “ngã” được có, là nguyện thứ nhất “ngã có”, tức ở sáu xứ, nghĩa là nguyện cái ngã có, “tức” loại như thế, “khác” với loại như thế, nói trong hữu ái của phẩm hạ như trước.

“Hữu ái phẩm thượng cho đến” bốn thứ tướng ái, gọi là hữu ái phẩm thượng”, nghĩa là hữu ái của phẩm thượng cũng có bốn thứ:

  1. Nguyện “ta” sẽ có.
  2. Sáu xứ sẽ có.
  3. “Tức” là loại như thế.
  4. “Khác”loại như thế. Hai phẩm ái trung và hạ như trước.

Nói “Tự tánh khác nhau của năm thứ ái này cho đến mười tám ái hành v.v…” nghĩa là sáu ưu, sáu Hỷ, sáu xả. Theo thuyết của luận Tiểu thừa, nhân của ái, sáu ưu sinh sau, không tương ưng với ưu. Ái tương ưng đồng thời với Hỷ, xả, cũng từ Hỷ, xả sinh sau. Nay theo môn lý chân thật của Đại thừa, thì ái tương ưng với ưu “duyên” mười tám hành ái của sáu trần bên ngoài, như nương vào sáu căn.

Sự khác nhau này, nghĩa là chấp ngã ở trong, chấp “ngã sở” ở ngoài mà khởi lên mạn, cho đến đối với pháp, cũng chấp “ngã sở”. Pháp khác tùy đối tượng thích hợp như trước nên biết, nghĩa là như chấp sáu xứ trong khởi có ái, không có ái.

Hữu ái có ba phẩm: Không có ái chỉ phẩm thượng có ái, ba phẩm trung, mỗi phẩm đều khởi bốn thứ ái. Nguyện đối với sáu xứ ngoài, chấp đạo lý, khác nhau của ngã sở. Vì y cứ ở sáu giới bên trong ở trước, để nói “như trước nên biết.

Mười tám thứ như thế, nghĩa là trong sáu giới bên ngoài, khởi mười tám. Đều là hành ái ở trước, nghĩa là trong sáu xứ trong cũng có mười tám ái. Hợp nói có ba mươi sáu hành ái”.

Pháp sư Thái nói: “Tự thân gọi là xứ trong. Duyên mười tám giới, vì khởi mười tám ái, nên có mười tám ái. Thân người khác gọi là xứ bên ngoài. “Duyên” mười tám giới ngoài, cũng khởi mười tám ái. Vì hợp mười tám xứ bên ngoài với mười tám xứ trong, nên có ba mươi ái.

Thời gian khác nhau: Tức ở ba đời, mỗi đời đều có ba mươi sáu ái, nên có một trăm lẽ tám thứ.

Lại “Ở trong đây. Không có tướng khác nhau cho đến “Đều là ái”, nghĩa là tất cả cảnh phiền não. Đều là mong cầu, gọi là chung là ái.

Dưới đây, có các tên đều là tên khác của ái trong giải thích kinh.

Thứ tư, là giải thích về “đắc” có ba lần “lại nữa”:

  1. Nói do năm tướng, nên chứng đắc.
  2. Nói bốn thứ Du-già.
  3. Nói về tướng đế.

Trong ban đầu: 1) Vì được cảnh sở duyên, nghĩa là bốn Thánh đế. 2) Phương tiện đắc, nghĩa là tức ba nhân trong bốn đế chính là chuyển trí mười hai hành tướng. “Chuyển tối sơ cho đến “gọi là trí, minh, giác”, nghĩa là quá khứ, gọi là trí, vị lai, gọi là minh, hiện tại gọi là giác, nên nói rằng, như thứ lớp, đây là trình bày chuyển tướng. Chuyển thứ hai, đây là khuyến chuyển đối với tu đạo. Chuyển thứ ba, nói là vô học đã được tân trí. Đây là chỉnh đốn, không đồng với luận Tiểu thừa, mỗi đế đều có ba chuyển, nghĩa là trước ở kiến đạo, đối với khổ đế, cho đến vô học ba lần chuyển khổ xong, lại thành kiến đạo, đối với tập đế lại còn ba chuyển v.v… cho đến đạo đế cũng thế.

Tôn giả Đạt-ma-Đa-la nói: “Nay, ta không thể chấp nhận câu văn như thế, vì cho dù là bậc Thánh nói, nhưng câu văn trái ngược, không nên kiến khổ đế rồi, khởi dĩ tri căn, bởi khi kiến Tập đế, tức là đã khởi vị trí, dục tri căn v.v… Trong đây, lại phải đối với mỗi căn quán khắp bốn đế.

1. Được chứng đắc nghĩa là Bồ-đề.

2. Chứng đắc Bồ-đề rồi, còn giúp người khác tự chứng, nẫy sinh tin, hiểu sâu sắc.

Năm điều chứng đắc: Năm người đều được quả Vô học.

3. Giúp người khác đối với người khác sở chứng của họ sinh tin, hiểu rất dễ hiểu.

Thứ hai, là trong phần nói về được phương tiện, lược có bốn thứ Du-già: “Phương tiện thiện cho đến “thuộc về hai thứ này, gọi là không buông lung”. Pháp sư cảnh nói: Văn này cho hai pháp niệm, tuệ là không buông ling, bản địa trước và Đối Pháp cho ba thiện căn và tinh tấn là không buông lung.

Pháp sư Thái nói: “Phương tiện khéo là không buông lung. Không buông lung tức dùng hai pháp niệm, và chánh trí làm thể, không đồng với bốn thứ Du-già của văn khác nói”.

Luận sư Đạt hỏi: “Hai văn nói không đồng là vì sao?”

Đáp: “Chỉ là tất cả pháp thiện, đều là không buông lung, vì mỗi căn đều chấp nghĩa không đồng, cho nên như thế”.

Hỏi: “Tất cả pháp thiện đều là không buông lung. Vậy, vì sao chỉ nói riêng các pháp này ư?”

Đáp: “Vì tác dụng của các pháp này mạnh, nên nói riêng”.

Thứ ba, là nói về tướng đế. Về khổ đế, như các bệnh tật v.v… như văn rất dễ hiểu.

Thứ năm, giải thích về tướng, có mười tướng lỗi lầm. Luận sư Cảnh và Đạt đồng nói:

“1. Sa-môn thắng nghĩa, đồng ý không thừa nhận người kia làm Sa-môn v.v…

2. Nói cũng không thường làm Sa-môn v.v…

3. Các khổ đều chưa thoát khỏi.

4. Đường ác cũng chưa thoát.

5. Có khả năng xả bỏ học xứ.

6. Không khả năng chứng pháp thù thắng.

7. Tìm kiếm ruộng phước khác.

8. Vượt qua khổ, quả Bất hoàn không có khả năng.

9.- 10. Đồng làm một câu: Từ “Trong pháp hiện tại v.v… trở xuống.

Lại, có Luận sư giải thích: “Năm pháp trước đồng với Luận sư trước chế. Thứ sáu không chứng Thánh đạo. Thứ bảy, không chứng đạo quả. 8, Vì hướng đến đường thiện, nên tìm ruộng phước khác, cái gọi là tiên bên ngoài. Thứ chín, về quả thứ ba, không thể chứng đắc. Thứ mười, ở vô dư y, không có khả năng”.

Thứ sáu, là giải thích về xứ. Trí quán, hiện kiến v.v… nghĩa là kiến đạo, gọi là trí, tu đạo gọi là kiến. Vô học gọi là hiện quán.

Thư bảy, là giải thích về Nghiệp. Nói “Diêm-Di-Diệm và Ta-la Chi Diệp”. Luận sư Cảnh, Đạt nói: “Ở các nước phương Tây có cây tên là Diêm-Di, với cành lá sum suê, không cây nào bằng, hoặc mộ, hai cho đến sáu, bảy lá, dụ cho bốn đế theo nhau, thiếu một, thiếu hai, thiếu ba. Cành, lá cây Ta-la có bốn, cả bốn đều tương đương, dụ cho bốn đế trí nhóm hợp thành viên mãn. Lại nói: “Là Diêm-Di thiếu kém, không ngay ngắn, cành lá cây Ta-la đầy đặn, viên mãn”.

Thứ tám, giải thích chướng, trước, nói về bốn chướng. Sau, nói về đối trị. Trong phần trước có hai:

1. Nêu chung, gạn hỏi, nêu.

2. Giải thích riêng theo thứ lớp bốn chướng đều có hai văn: Trước, nói về chướng, sau nói về đối trị:

“Ngôn giáo Thăng-nhiếp-ba-diệp: “xưa nói” Thân nộ lâm ký. Phương Tây có loại cây tên là Thăng-nhiếp-ba, hình dáng giống như hồ tiêu của xứ này. Đây là đức thí dụ vô tận mà Như lai nguyện biết trong dịp chúc mừng.

Rùa đui, có thể dẫn Quảng luận. Dưới đây, trong phần nói về đối trị, “Lại do tu tuệ cho đến “Tất nhiên có thứ hai”, nghĩa là do tu tuệ trong các đế: 1- Đạt được trí đế; 2- Cũng được bốn bất hoại tịnh. Do nhân duyên này, nên thật sự đã xa lìa nghi “hoặc” đối với các đế. Nếu không có hoài nghi đối và bốn đế, Tam Bảo, thì đối với bốn bất hoại tịnh, cũng không có nghi. Trì đế với bốn đế lại nương tựa lẫn nhau. Nếu còn có một, tất nhiên có thứ nhất.

Thứ chín, là giải thích lỗi lầm. Luận sư Cảnh nói: “Đọa vào chỗ sinh tối tăm, nghĩa là sinh lên hai cõi trên với năm chi vô minh tăm tối, lại là quán nhân duyên tự tánh các hành, nhân duyên tạp nhiễm, thanh tịnh, kể cả thanh tịnh.”

Luận sư Đạt nói: “Ba thứ thế giới, tức là ba cõi.”

Thứ mười, là giải thích về Dị thục hắc v.v… Luận sư Cảnh nói: “Nói thí dụ như quăng cây gậy, gốc gậy rơi trong Na-Lạc-Ca, cõi Bàng sinh, đầu gậy rơi vào cõi Ngạ quỷ, tức tương đương với một nghiệp, trải qua các đường, tạo nên nghiệp hắc, bạch xong.

Ví như quăng cây gậy, hoặc rơi vào đường ác, chỗ không thanh tịnh, tức cảm thọ khổ, vui lẫn lộn trong quỷ, súc. Hoặc rơi vào cõi thiện, nơi có một ít thanh tịnh, nghĩa là cảm thọ khổ, vui lẫn lộn trong người, trời, trừ trời, cõi ma.

Tạo nghiệp bạch bạch, sinh năm đường v.v… nghĩa là nghiệp trời bạch bạch, tự thọ báo cõi Sắc, Vô Sắc, chỉ do người tạo nghiệp này, từ cõi trên mất, lại rơi xuống năm đường nên nói đọa năm đường”.

Luận sư Đạt nói: “Biện luận về ba phẩm trong căn: Vì tạo nghiệp ba phẩm, nên gọi là sinh vào ba đường ác”.

Lại, giải thích: “Một nghiệp trải qua thọ báo ba đường dữ. Nay, Đại thừa như thế, cách giải thích nấy đồng với Luận sư Cảnh”.

Thứ mười một giải thích về nghĩa Đại. Luận sư Cảnh nói: “Trí quán khổ đầy đủ như xưa, vì mới được. Trí tập, dứt tập, như bức tường thành ngăn giặc. Trí diệt cao dần, như từng cấp dưới. Trí đạo như bước lên.

Nói: “Bổ-đặc-già-la đã thấy Thánh đế, cho đến “Ví như sỏi đá và núi Tuyết”, nghĩa là một ít khổ như sỏi đá. Phần nhiều đã dứt trừ như núi Tuyết. Dưới đây, là dụ dứt trừ ái của ba cõi.Ái mà cõi Vô Sắc dứt trừ, như cái ao lớn. Ái chưa dứt trừ, như hai, ba giọt, ái cõi Sắc đã dứt trừ, như cái hồ nghiêng lớn, ái chưa dứt trừ, như hai, ba giọt. Ái cõi Dục dứt trừ như nước biển cả, chưa dứt trừ mạn mà sinh khổ. Dụ như núi vàng, ái cõi Vô Sắc sinh khổ. Núi Tô-Mê-Lô, dụ cho ái cõi Sắc sinh khổ và đại địa, dụ cho ái của cõi Dục sinh khổ (khổ do ái của cõi Dục sinh).

Pháp sư Thái nói: “Khổ trí, như người đi, giở chân muốn đi qua. Tập trí, như đã đến vách thành của lâu đài báu. Diệt trí như đi đến tầng cấp dưới của lâu đài. Đạo trí, như đã trèo lên đến chỗ rốt ráo của tòa lâu đài báu.”

Luận sư Đạt nói: ‘Nghĩa đại, nghĩa là đạo vô lậu có thể được nghĩa đại của bốn đế, và vì đã chứng đắc nghĩa đại của Bồ-đề vô thượng. Trong đây, mạn và ái chung cho thân, ngữ, ý của ba cõi cũng thế. Tham, sân, si v.v… chỉ là cõi Dục. Có một íty khổ trong thân các bậc Thánh, như sỏi, đá. Bậc thánh đã dưt trừ các khổ, như núi Tuyết lớn.

Nói “Hai giọt v.v… ”, dụ cho khổ mà Bậc thánh chưa dứt trừ, chỉ có bảy lần sinh, thậm chí một thân khổ, nên nói “hai, ba giọt”.

Thí dụ sáu thứ sỏi đá, nghĩa là các khổ do ba độc của nghiệp sinh ra, là sáu, dụ cho sáu thứ này.

Viên đất sét, dụ cho thân bậc Thánh, cái chưa dứt trừ, như một ít viên đất sét, đã dứt trừ, như đại địa v.v…

Thứ mười hai, giải thích về khó được. Nói “hiểu rõ, là văn tuệ. Hiểu rõ hơn là tư tuệ, hiểu rõ một cách quyết định, nghĩa là tu tuệ.

Mười thứ chánh pháp: Tám Thánh đạo và pháp lành tương ưng với chánh trí giải thoát.

Mười nghiệp đạo: Hai, ba v.v… Hai nghĩa là hai thứ tác, vô tác; ba nghiệp là ba.

Lại, giải thích: “Hai thứ Ba nghiệp: 1- Ba nghiệp như thân v.v…

Ba nghiệp như phước v.v…”

 

BẢN LUẬN QUYỂN 96

Trên đây một bài tụng chung ở trước trong lựa chọn cõi của duyên khởi đế thực, nêu sáu môn để nói về duyên khởi thực đế xong.

Dưới đây, bài tụng thứ hai, có nửa bài tụng chung, nêu ba môn, nói riêng về lựa chọn giới:

  1. Nghĩa chung v.v…
  2. Ánh sáng v.v…
  3. Nói về thọ v.v…

Dưới đây có bốn bài tụng riêng, giải thích nửa bài tụng đầu. Bài tụng riêng, giải thích về đẳng của nghĩa chung ban đầu, có bốn môn:

  1. Nghĩa chung.
  2. Tự loại riêng.
  3. Dường như chuyển.
  4. Ba mong cầu.

Trong Văn xuôi, trước giải thích nghĩa chung. Luận sư Cảnh nói: “Trong đây, hiện khởi mười tám giới và hạt giống của mười tám giới, đều gọi là trụ tự tánh.”

Luận sư Đạt nói: “Trụ giới tự tánh: Hoàn toàn y cứ vào hiện hành của vô ký và tùy miên mười tám giới. Tập giới tăng trưởng, nghĩa là tánh thiện ác”.

2. Giải thích tự loại riêng. Nhóm Đại ác Xoa. Tam Tạng Pháp sư nói: “Về tướng Ác-Xoa, như trong đây, không có ăn con mà quấy: 1- Có thể nhiễm. 2- Ép lấy dầu. Mỗi nhà đều có một nhóm nhiều nhóm.

Thứ ba, là giải thích dường như chuyển, như văn.

Thứ tư, trong giải thích về ba cầu mong. Trước, giải thích phạm hạnh:

Nói “Là hai môn nương tựa” 1- việc đã làm từ lâu, nhớ nghĩ không quên mất; 2- Thuyết đã nói từ lâu, nhớ nghĩ không quên mất.

Nói “Như thế, lại, nói là do sức tăng thượng của niềm tin, tu dần ba học”, nghĩa là kết giới vô minh mà trước đây đã nói.

“Đã tùy theo sáu xứ v.v… ” trở xuống, là nói về giới có cầu là hạt giống.

Lại, giới vô minh v.v… trở xuống, là nói về muốn cầu. Kế là, có một tụng giải thích về “đẳng” trước của thứ hai ở trước, có bảy môn:

  1. Giới ba, bảy nhiếp nhau.
  2. Tưởng kiến.
  3. Ít có.
  4. Tánh sai khác.
  5. An lập.
  6. Vắng lặng.
  7. Người ngu.

Trong giải thích của Văn xuôi, trước là giải thích về giới ba, bảy nhiếp nhau. Trước chia ra ba giới, bảy giới.

Người phần nhiều giải thích: “Trong cõi Sắc cũng gồm cả cõi Dục. Xem văn không giống với nhiếp sắc.

“Phải biết rằng v.v… trở xuống, là thứ hai, nói về gồm thu nhau của sắc kia.

Lại, “Các sắc tham v.v… ” trở xuống, giải thích riêng hai cõi trước trong bảy cõi. Vì vấn nạn về kiến, nên nói “Do kiến, do thọ cho đến “Và giới thanh tịnh”. Luận sư Cảnh nói: “Ở địa cõi Sắc, do kiến khởi tham, do thọ khởi tham, gọi là đen tối. Vì đối trị với quán bất tịnh của địa cõi Sắc kia, nên lập giới ánh sáng. Vì bỏ hạnh bất tịnh, nên lập giới thanh tịnh, tức tịnh giải thoát.”

Luận sư Đạt nói: “Vì kiến, nên làm rõ giới ánh sáng, nghĩa là ba thiền trở lên. Vì thọ, nên làm sáng tỏ giới thanh tịnh, nghĩa là sắc v.v… của thiền thứ tư.

Lại, đối với bảy giới như thế trở xuống v.v…, là khuyên biết bảy giới, biết khắp của bảy giới, nên biết rõ, là môn đầu. “Về phương tiện đắc, cần phải biết rõ”, là môn thứ hai, tức phải biết rõ về phương tiện chứng đắc kia, là môn thứ hai, tức phương tiện đắc kia, cần phải biết rõ, là môn thứ ba. Đối với công việc đã làm, cần phải biết rõ, là môn thứ tư.

“Dựa vào bốn môn này v.v… trở xuống, là theo thứ lớp, giải thích môn đầu. Các giới như thế, đã có biết khắp do bốn nhân duyên cần phải biết rõ, nghĩa là có “sở trị” trái nhau, mà vì đối đãi với nhau, là một nhân. Duyên hẹp, nhỏ, vô lượng, mà vì chờ đợi nhau, là nhân thứ hai. “Có”, và “Chẳng phải có” là nhân thứ ba. Có tên, không có trên, mà đối đãi với nhau, là nhân thứ tư. Sự đen tối làm duyên đặt ra ánh sáng. Bất tịnh làm duyên, lập bày thanh tịnh, nghĩa là đối với các sắc khởi tham, gọi là đen tối. Giải thoát một, hai tu quán Bất tịnh, chữa trị tham sắc kia, lập giới ánh sáng, nghĩa là trong có sắc, ngoài có quán sắc. Trong không có sắc, ngoài quán sắc v.v… là xả Bất tịnh, lại quán sắc tịnh, để lập giới thanh tịnh, tức là tịnh giải thoát, nên nói Bất tịnh làm duyên để lập bày thanh tịnh. Cõi Sắc làm duyên lập bày hư không, nghĩa là đều là “sắc” quán “không”.

Như thế, gọi là vì có trái.

Đối đãi với “sở trị” kia, lập bày năng trị v.v… kết, do nhân đầu tiên, lập nên ba cõi trước. Kế là, nói rằng: “Do “duyên” cảnh hẹp, nhỏ, vì thức làm duyên, nên lập bày thức vô biên xứ”, nghĩa là vì nhân thứ hai, nên lập thức xứ. Kế là, nói rằng “Vì do sở hữu nhỏ làm duyên, nên lập bày Vô sở hữu xứ”, nghĩa là vì do nhân thứ ba, nên lập Vô sở hữu xứ. Kế là, nói rằng: “Do nhất thiết hữu tối thắng hiện tiền”, trở xuống, là nói do nhân duyên hữu thượng, vô thượng, nên đặt ra hai giới thứ sáu, thứ bảy. Hai giới này dựa vào môn đầu tiên để biết rõ khắp”.

Dưới đây, là giải thích thứ hai, biết rõ về phương tiện đắc. Lại, định hữu tưởng, gọi là hữu hành cho đến “Đạt được định đệ nhất hữu”: là giới thứ sáu, vì không tư duy về tất cả tưởng, vì chánh tư duy đối với vô tướng, nên Tát-ca-da diệt, tức Trạch diệt, sở duyên của vô tướng Tam muội, gọi là giới diệt. Vì do vô tướng, nên thuận theo đạt được định diệt, giới diệt. Văn này là nói giới diệt thứ bảy, gồm cả định diệt.

Hai thứ như thế không do vận hành tịnh, thuận theo đạt được : 1/ Trạch diệt; 2/ Định diệt. Không do giả tưởng vận hành định, tức vì được trụ giải thoát, nghĩa là giải thoát hữu vi. Trụ giải thoát, nghĩa là giải thoát vô vi.

Dưới đây thứ ba, tức nên biết rõ về đắc kia, nghĩa là “các định như thế cho đến “gọi là thuận theo được các giới”.

Dưới đây, là nói thứ tư, phải biết rõ việc đã làm về đắc. Lại, các cõi này có thể tùy đạt được định của tám giải thoát. Phải biết rằng, cõi đầu tiên có thể tùy đạt được định đắc thứ nhất, thứ hai, nghĩa là cõi ánh sáng, gồm thu một giải thoát đầu. Cõi thứ hai kia có thể tùy đạt được đẳng thứ ba, nghĩa là cõi thanh tịnh thứ hai, gồm thu giải thoát tịnh. Ngoài ra năm giới, như thứ lớp của chúng, có thể đạt được của năm giải thoát. bốn cõi Vô Sắc kia, gốm thu giải thoát của bốn Vô Sắc. Giới diệt gồm thu giải thoát diệt tận”.

Thứ hai, là giải thích về tướng kiến, có ba lần “Lại nữa”: lần “Lại nữa” thứ nhất nói: “Hai thuyết giả, hành giả này, nghĩa là tức thuyết giả là một, hành giả là thứ hai. Trong hai lần “Lại nữa” thứ nhất, người độn căn chậm lụt, hoàn toàn tin vào tất cả kiến thú mà người khác nói. Thứ hai, chẳng phải người độn căn chậm lụt, chỉ tin tự cho tùy khắp kiến thú nào, không tin vào kiến thú mà người khác chấp. Thứ ba, người căn nhạy bén, tất cả đều không tin, trong đó có hai:

  1. Nói về hành tà kiến.
  2. Nói về hành chánh kiến.

“Lần lại nữa” thứ ba nêu rằng: “Lại nếu có chấp kiến cố về học xứ đã thọ kia cho đến “Vì có thể đốt cháy, hủy diệt”, nghĩa là chấp vững chắc thân người như túp nhà tranh, có một ít pháp lành. Như con sâu ở trong nhà. Tà kiến cố chấp như ngọn lửa thiêu rụi nhà và căn lành, tức Bổ-đặc-già-la này, cho đến lui mất công đức pháp lành.”

Tam Tạng Pháp sư giải thích: “Văn, Tư, Tu tuệ, được gọi là chấp bền chắc, có thể chữa trị ngọn lửa trước. người chấp ngọn lửa ở trước đã không có chấp vững chắc văn, tư, tu, là lùi mất công đức. Trái với đây, phải biết rằng, xuất lý v.v… nghĩa là trái với người không có văn, tư, tu ở trước, phải biết xa lìa tà chấp, tức kiến không có tức giận, không có hại v.v…

Tam Tạng Pháp sư nói: “Nên nói là mâu thuẩn với ở đây, như pháp thích ứng kia, phải biết là xuất ly, vì sự không giận, hại đã ra khỏi pháp trái nhau trước.”

Trên đây, là ba đoạn giải thích về tướng của kiến xong. Dưới đây, thứ ba, giải thích Phật có hai điều ít có:

  1. Làm sáng tỏ vô ngã.
  2. Nghiệp thiện, ác cũng không thôi.

Có hai loại hữu tình: 1- Tại gia; 2- Xuất gia.

Hữu tình tại gia, vì cầu của báu, trước hết, khởi gia hạnh, gọi là phát khởi giới, nghĩa là cầu một ít của vật. Dưới đây, nói về cầu của báu lớn, tức các cõi này từ nơi chốn của mình, đến nơi chốn khác. Từ người chưa bị đuổi, khi chưa cách biệt gia đình. Người đã bị đuổi, lúc từ biệt vợ con, đều ở hai nơi: 1- Chỗ chưa được; 2- Chỗ đã được.

Hữu tình xuất gia, trước ưa xuất gia, vì một chút mong cầu. Sau, là đại tinh tấn v.v… gọi là cầu mong lớn.

Thứ tư, là giải thích về tánh khác nhau, như văn.

Thứ năm, là giải thích an lập. Do bốn nhân duyên, lập ba thứ, ba cõi, hai cõi xuất ly, bốn nhân:

  1. Ngoài không xuất ly, xuất ly v.v…
  2. Ba thứ Ba cõi v.v…:
  3. Ba cõi Dục v.v…
  4. Cõi Sắc, Vô Sắc diệt.
  5. Cõi đoạn diệt không có dụ.

Hai cõi xuất ly: Năm thứ, sáu thứ. Dục tham trong đây làm duyên, lập ra cõi Dục. Lìa cõi này, lập tĩnh lự đầu tiên cũa cõi Sắc. Vì nghĩa xuất ly của tầm hỷ, lạc, nênlập ba tĩnh lự trên, nghĩa là văn ít đầy đủ, nên nói là do lìa tầm từ, lập hai thiền. Vì lìa hỷ nên lập ba thiền. Vì lìa

lạc nên lập thiền thứ tư. Do tưởng xuất ly các thứ tánh của sắc hữu đối, lập không xứ: tưởng sắc và tưởng xanh, vàng v.v… Tưởng hữu đối là tưởng dài, ngắn v.v… Kết hợp với hai tưởng trước, làm tưởng của các thứ tánh, không đồng với thuyết của Tiểu thừa: Do sắc nghĩa là Nhãn thức tương ưng với tưởng. Hữu đối: tưởng tương ưng với bốn thức. Mỗi thứ tánh: tâm số tưởng tương ưng với ý thức. Do nghĩa xuất ly của vô sở hữu của không thức, nên lập ba thứ trên là bậc nhất. Ngoài không xuất ly, mà là vì nghĩa xuất ly, nên lập ba cõi Dục như cõi Dục v.v…

Lại, “cõi Sắc trở xuống v.v…, là nói do nhân thứ hai lại lập ba cõi.

Lại, “Trong cõi Sắc, chẳng phải là rốt ráo”, trở xuống, là nói do nhân thứ ba lại lập ba cõi không có tăng thượng mạn, nghĩa là dưới đây nói do nhân thứ tư lập hai cõi xuất ly, chỉ cho như quyển mười một giải thích.

Thứ sáu, là giải thích về sự vắng lặng, như văn.

Thứ bảy, là giải thích người ngu. Trước, nói về tướng mạo ngu, trí, sau tùy nghĩa phân biệt. Trong phần trước, trước nói về tướng người ngu. Sau, chỉ rõ chung sự thông minh.

Trong phần trước: 1/ Nêu, hai thứ; 2/ giải thích hai thứ.

Người khác dù chánh hạnh, cũng khiến cho khổ, nghĩa là do thực hành tà hạnh, tổn hại vợ con người và tài vật của người. Người khác dù thực hành chánh hạnh cũng sinh ra khổ cho người.

Lại, “Do Vô Sắc trở xuống v.v…, tùy nghĩa phân biệt chỉ nói về bốn chỗ của tướng thứ hai. Trước là nói sáu mươi hai giới, kiến lập lý do, có mười ba phân biệt vượt hơn. Trường A-hàm nói, do Tầm, Từ của tưởng nhiễm, lập ba cõi như cõi Dục, giận dữ v.v… Do tầm tịnh lập nên ba cõi không có dục, giận dữ v.v… Lại, vì nghĩa biến hành của hai phẩm nhiễm tịnh của ba cõi, nên có bốn cõi khác v.v…. Bốn uẩn chung cho ba cõi, có cả nhiễm, tịnh. Cõi Sắc thì không như thế.

Trong giải thích về giới có ba thứ: Nghĩa chung v.v… ánh sáng v.v… thọ v.v… Đã giải thích hai thứ trước. Kế là giải thích thứ ba. Thọ v.v… có hai bài tụng: Một bài tụng đầu có chín môn: 1- tự tánh; 2- Nhân duyên; 3- Kiến; 4- Nhiễm; 5- Thường chấp lấy cõi; 6- Chuyển sai khác; 7- Đạo lý; 8- Vắng lặng; 9- Quán sát.

Văn văn xuôi, đặt ra hai lần “Lại nữa” để giải thích.

Đầu tiên, thuộc trường hợp với bản tụng, nêu chín môn;

2/ Theo thứ lớp giải thích:

1. Tự tánh tức là ba thọ.

2. Nhân duyên tức xúc khổ, xúc lạc, xúc bất khổ, bất lạc.

3. “Lại, các niềm vui v.v… trở xuống, là giải thích về lỗi lầm của khổ thọ.

Đối với hai, lại nối tiếp, vì năng thuận theo. Luận sư Cảnh nói: “Vì xả không lìa khổ khổ, khổ hoại và khổ hành”.

Luận sư Đạt nói: “Xả thọ này diệt thứ lớp, hoặc sinh khổ thọ hoặc sinh lạc thọ, vì có thể thuận sinh hai thọ khổ, lạc, nên nói đối với hai, lại nối tiếp.

4. “Hữu tham từ trong tùy miên lạc thọ, trở xuống là giải thích nhiễm.

Hỏi: “Đối với lạc thọ v.v… đã có phần vị của các thọ hiện ở trước, tất cả phiền não chưa dứt, là hai thọ khởi, đều bị tất cả tùy miên phiền não ràng buộc. Vậy, vì sao chỉ nói tùy miên tham lạc thọ, tùy miên sân v.v… khổ thọ, nên luận vì giải thích vấn nạn đã có tất cả các thọ về lạc v.v… cho đến “Vì muốn dứt hẳn các tùy miên, tu thành thục phạm hạnh, chẳng phải chỉ vì trừ bỏ nhân duyên của các triền”, nghĩa là vì dứt trừ tất cả tùy miên, nên tu phạm hạnh, chứ phải chỉ dứt triền hiện khởi kia.

5. Từ “Bổ-đặc-già-la không có năng lực tư duy lựa chọn v.v… trở xuống, là giải thích về Sác thủ thú.

6. Lại, “Chỗ nương tựa của tự tánh các thọ kia” v.v… trở xuống, là giải thích về sự khác nhau của chuyển.

7. Lại, “Các khổ thọ, tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống, là giải thích về đạo lý.

8. Lại, “Các thọ kia, nên biết lược có ba thứ vắng lặng v.v…” trở xuống, giải thích về vắng lặng.

Ưa ngôn luận, nghĩa là thứ hai, giải thích lại sự vắng lặng. Luận sư Cảnh nói: “Văn này chứng minh rõ ràng rằng, khi ở định có Tầm tế.

Tam Tạng Pháp sư thường nói: “Ở phương tiện có tầm, từ, còn nhập định thì không có, nên ở định có, chỉ là phương tiện, không ở căn bản”.

Nay, văn này nói trong định có Tầm, Từ tế, không nói căn bản và với phương tiện. Về đạo, thông qua được có, về lý cũng không có gì ngăn ngại”.

Luận sư Đạt nói: “Tam Tạng Pháp sư giải thích văn này đã y cứ ở định phương tiện để luận, còn tầm từ mà tôi nói là cứ theo định căn bản”.

9. “Lại, do hành v.v… trở xuống, là giải thích về quán sát. Nhân thọ thứ hai trong quán bảy tướng của thọ trong các thọ. Trong giải thích, chia làm ba thứ: Nhân duyên Lưu chuyển, Hoàn diệt ở hiện tại, đương lai, quán riêng lưu chuyển làm một, Hoàn diệt làm một, nên thành bảy tướng.

Trong bài tụng thứ hai có bảy môn:

  1. Thọ sinh khởi.
  2. Kém hơn bằng nhau.
  3. Sự khác nhau giữa các thọ.
  4. Kiến v.v… là hơn hết.
  5. Biết khác nhau.
  6. Hỏi.
  7. Ghi nhận.

Trong Văn xuôi, trước là giải thích về sự sinh khởi của thọ. Trước chia chương, lập tông. Sau, gạn hỏi, giải thích riêng, trong đó có hai: Trước nói chúng hữu tình. Sau, y cứ văn, nói rộng về sự sinh khởi của các thọ.

Văn được chia làm hai: Đầu tiên, là y cứ ở tại gia, xuất gia để nói về các thọ sinh khởi. Sau, là dựa vào pháp nội, ngoại đạo để nói.

Trong phần trước, trước là y cứ ở hai chúng để nói về hai duyên sinh thọ, sau, nói riêng hai chúng:

1/ Nói về tại gia: Nói “Lại, do hiện hành của xúc, dục nhiễm ô trước hết, nhận lãnh duyên đó đã sinh các thọ”, nghĩa là kế là ba môn trước: 1- Dục; 2- Tầm; 3- Xúc. Trong ba nghĩa sau: 1. năng lực đắm nhiễm: tức sinh ra phá kia; 2. năng lực tác ý, tức sinh tầm kia; 3. Sức cảnh giới, tức sinh xúc kia. Đắm nhiễm không bỏ, nối tiếp nhau trong thời gian dài không được vắng lặng. Đây là sự khác nhau của môn nghĩa thứ bảy.

“Lại, dục v.v… kia v.v… trở xuống, vì hiện hành của ba duyên, nên phẩm phiền não kia còn ở hành giả, thân chưa dứt trừ hẳn. Đây là sự khác nhau của môn nghĩa thứ hai”.

2/ Nói về xuất gia, nếu các người xuất gia chưa lìa tham, vốn vì bỏ dục xuất gia, nên thọ dục thuộc về năng lực chấp mắc nhiễm, mà được vắng lặng. Thọ tầm, xúc thuộc về sức cảnh giới của tác ý chưa vắng lặng. Do nhân duyên này, đối với xứ xúc kia, chưa tu đối trị tầm, chưa thực hành lìa dục, tác ý phi lý về cảnh đã từng thọ. Hiện hành tầm đối với cảnh mầu nhiệm thù thắng, có xúc hiện hành. Nếu nhận thấy tai họa lỗi lầm ở tầm, tư, nhàm chán dục như trước nói đã được vắng lặng. Do nhân duyên này, tầm cung se được vắng lặng, tức Sơ thiền lìa dục, chỉ cảm xúc chưa vắng lặng, vì nếu gặp cảnh mầu nhiệm, thì xúc nhiễm sẽ nẫy sinh ngay! Nhị thiền trở lên chưa lìa dục. Nếu người nào đã lìa tham đối với các dục, thì tất cả vắng lặng. Sự khác nhau của một môn là Nhị thiền trở lên đã lìa dục.

“Lại có một loại v.v… trở xuống, văn, nghĩa là có loại người chưa lìa tham, do đối với các dục, sinh tham chưa dứt trừ. Xúc nhiễm của các Tầm vì chưa dứt hẳn, nên đều chưa vắng lặng. Nếu đối với các dục, tham dục đã dứt trừ, thì sẽ chứng được định Sơ thiền, dục đã vắng lặng, tĩnh lự vẫn chưa vắng lặng.

“Ở Sơ địa đã lìa tham cho đến “Phi tưởng chưa lìa tham. Cả hai đã vắng lặng, xúc chưa vắng lặng, vượt qua hữu đảnh, tất cả vắng lặng, là gọi là sự khác nhau của môn thứ hai.

Trong môn trước nói vì nhàm chán dục, xuất gia, nên đối với pháp đắm nhiễm, sinh dục rồi, được vắng lặng, hai pháp khác chưa vắng lặng. Nay môn sau nói “Lại có một loại chưa lìa dục tham ơ trong các dục” ấy là vì chưa dứt trừ các dục, nên tất cả chưa vắng lặng.

“Đã lìa dục tham, được sơ tĩnh lự xong”. “Đã lìa” tức đồng với trước.

Dưới đây, sẽ y cứ ở pháp nội, ngoại đạo, để nói về các thọ sinh khởi. Trước nói về ngoại đạo, sau, nói về pháp nội.

“Lại trụ trong pháp nội cho đến “Chưa vắng lặng kia làm duyên sinh thọ”, nghĩa là bốn hướng, gọi là hướng đạo, cũng có thể bảy người cùng hướng đến Vô học, đều gọi là hướng đạo.

Thứ hai, giải thích về môn kém v.v… dứt trừ năm pháp, tu năm pháp, chỉ định như Tam-ma-hý-đa địa. Luận sư Đạt nói “Dứt được năm pháp, là pháp dục ác, bất thiện v.v… Tu được năm pháp, nghĩa là năm chi tong Sơ thiền”. Nay, xét quyển mười một nói: “Nói ly sinh hỷ lạc trong sơ tĩnh lự, do chứng trụ địa này, dứt trừ năm pháp, nghĩa là dục hiện hành, hỷ dục dẫn sinh ưu. Bất thiện dẫn sinh hỷ, bất thiện dẫn sinh hỷ bất thiện đã dẫn sinh ưu.

Lại đối với năm pháp, tu tập viên mãn, nghĩa là hoan hỷ, yên vui và Tam-ma-địa.

Lại, phẩm vượt hơn trong hỷ, lạc, xả kém, nghĩa là hỷ ở cõi Dục là kém, Sơ thiền là trung bình, Nhị thiền là vượt hơn. Nhị thiền là trung bình, Tam thiền là vượt hơn. Xả ở Nhị thiền trở xuống là kém, Tam thiền là trung bình, đệ Tứ thiền là vượt hơn.

Thứ ba, là giải thích tướng khác nhau của các thọ:

Nói “có! Không! Khai, giác, cho đến khổ, vui không có tánh, đã hiển bày”, nghĩa là y cứ không có khổ, gọi là không khổ, vui, chứ chẳng phải cho rằng, có không khổ vui riêng. “Cho nên”, Đức Thế tôn cho đến dù cho là “có”, là người ngoài dẫn kinh làm chứng, tức dựa vào sự vắng lặng của khổ, vui, cho là xả thọ. Dưới đây sẽ giải thích:

“Đức Thế tôn vì muốn chỉ bày cho họ được hiểu rõ, cho đến nói rộng”. Văn này là nói xả thọ.

Từ trạng thái vắng lặng này, há nói khổ, vui, vắng lặng là khổ ư? Tuy nhiện Phật, Thế tôn y cứ ở nghĩa đệ nhất để nói có ba thứ vui vắng lặng.

Dưới đây, sẽ nói lìa sự ràng buộc của tham, sân, si mà được thể vô vi. Lại. Lạc của thắng trụ tương tự với lạc.

Chín định thứ lớp, diệt định là hơn hết, gọi là Thắng trụ.

Thứ tư, giải thích về y chỉ hơn hết của kiến v.v… Tưởng lạc kiến văn của các loại sắc như thế là “có”, nghĩa là chia năm câu này. Dưới đây sẽ giải thích theo thứ lớp:

Thứ tư, hoặc ở cõi Trời “có”, hoặc ở cõi người “có”: Tức là một thân qua, lại mà được lậu tận.

Thứ năm, trong giải thích về cái biết khác nhau, trước là nói biết rõ việc nên biết. Sau, nói biết rõ về sự khác nhau của sự cảnh.

Trong phần trước, trước nói biết rõ về đế lý có tác dụng riêng. 2/ Dẫn bốn câu kinh phối hợp ới bốn tác dụng trước, tức có bốn câu. Dưới đây trong phần nói về hiểu rõ khác nhau của sự cảnh. Trước y cứ phẩm tạp nhiễm, để nói về cảnh khác nhau. Sau, y cứ vào phẩm thanh tịnh, để nói về cảnh khác nhau.

Trong phần trước nói bảy, là: hỷ, lạc, thức, sở hành, bờ mé và sai khác là bảy thức trụ.

Chín là: Hỷ, lạc, chấp, tàng, hữu tình, sinh, xứ, an trụ và bờ mé, là chín chỗ hữu tình ở.

Thứ sáu, là giải thích về thưa hỏi. Bốn thứ sau, nghĩa là tất cả đều vô thường v.v… là nói về hoàn toàn ghi nhận.

“Cố y tạo nghiệp v.v… trở xuống, là nói về phân biệt ghi nhận. Luận sư Cảnh giải thích: “Cố y (cố lo nghĩ) tạo nghiệp, sẽ thọ khổ. Đây chẳng phải hoàn toàn đạt được, nghĩa là nghiệp này chung cho thiện, ác, sao lại nói quyết định sẽ chịu khổ? Quyết định nhập Niết-bàn ở trong hiện pháp, cũng chẳng phải hoàn toàn, nghĩa là lìa bỏ khổ, lạc, xả thọ, không quyết định hiện nhập Niết-bàn, vì chung cho Phàm, thánh đều được Xả.

Hai lần “Lại nữa” này, phải phân biệt ghi nhận.

Luận sư Đạt nói: “hoặc được ở xả, đây là nghiệp do cố tư tạo ra. Hoặc có nghĩa xả ở trong hiện pháp, quyết định nhập Niết-bàn cũng chẳng phải hoàn toàn. Nếu có người hỏi: “Tất cả Bậc thánh đều quyết định nhập Niết-bàn ở trong hiện pháp ư? Thì nay phân biệt đáp: “Chẳng phải hoàn toàn, vì không nhất định”, nay phán quyết: “nghiệp do cố tư tạo ra, sẽ phải chịu khổ? Đây chẳng phải là hoàn toàn, vì hoàn toàn đạt được ở xả v.v… cho đến “Cũng chẳng phải hoàn toàn”.

Giải thích thứ hai đồng với giải thích của Luận sư Cảnh.

Về hỏi vặn ngược lại để ghi nhận (gác qua một bên). Văn rõ ràng, rất dễ hiểu.

Thứ bảy, là giải thích về môn ký biệt, thọ ký.

Nói “Lại các Như lai khéo tránh biện luận v.v… của người khác.” Pháp sư Thái nói:

1. Ngoại đạo hỏi về thần ngã v.v… là pháp quyết định không nên ghi nhận. Tuy nhiện nếu họ không nhất định hỏi rằng “Thần ngã và thân là một, hay khác”, thì Như lai sẽ đáp bằng cách im lặng để tránh.

2. Về hỷ, lạc, pháp của nghĩa riêng với sắc v.v… là pháp quyết định nên phân biệt ghi nhận mà đặt câu hỏi là một, khác không nhất định hỏi. Lại, hỷ lạc với các nghĩa phiền não của bốn thủ, tạo riêng môn bất định, đức Như lai đều có thể tránh.

 

 (Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 97

Trên đây, Ba lựa chọn trước trong bốn lựa chọn. Của khế kinh đã nói xong.

Dưới đây, thứ tư, nói về lựa chọn pháp Bồ-đề phần, có văn của hai quyển, phân biệt các kinh, gồm thu yếu văn của phần giác, nhóm hợp lại mà nói. Trong đó, 1/ Kết trước, sinh sau. 2/ Nêu tụng, giải thích. Tụng có chung riêng. Bài tụng chung có mười môn. Phẩm đạo có bảy Khoa là bảy. Thứ tám, là dứt niệm. Thứ chín, là Học, thứ mười, là chứng tịnh.

Y cứ trong giải thích riêng, đoạn lớn có chín: chánh đoạn, thần túc, một xứ giải.

Đầu tiên, là giải thích niệm trụ có bốn bài tụng riêng: bài tụng thứ nhất, thứ tư đều có tám môn. Bài tụng thứ hai có năm môn, bài tụng thứ ba có sáu môn, cộng chung là hai mươi bảy môn.

Tám môn của bài tụng đầu: 1/ Sa-môn; 2/ Nghĩa Sa-môn; 3/ Hỷ lạc; 4/ Tất cả pháp; / Phạm hạnh; 6/ Sác thủ thú; / Siêu; 8/ Hai nhiễm.

Trong Văn xuôi, đầu tiên, giải thích về Sa-môn. Trước, nêu chung bốn môn. Có Sa-môn rốt ráo, ngoài pháp không có. Sau, là giải thích bốn môn, tong đó, Luận sư Cảnh nói: “1/ Ba kiết dứt trừ hẳn là chỗ nghỉ ngơi nghĩa là pháp diệt đế; 2/ Xứ thế lực của pháp không có lui đọa, đạo cộng giới. 3/ Quyết định thú hướng về chỗ chủng loại Bồ-đề, nghĩa là Phật, 4/ Cùng cực bảy lần trở lại xứ tùy hành hữu, nghĩa là Tăng.

Dựa vào bốn xứ này, đối với Phật, Pháp, Tăng và đối với tịnh giới được tịnh trí, văn này là nói bốn tịnh là trí, không lấy Tín”.

Luận sư Đạt nói: “Chỗ nghĩ ngơi nghĩa là bậc Thánh trụ ở kiến đạo. Chỗ thế lực, nghĩa là trụ quả Tu-đà-hoàn, chỗ chủng loại, nghĩa là từ đạo tư lương trở đi, là đệ tử bậc Thánh. Cùng cực bảy lần trở lại, nghĩa là bảy lần sinh trong cõi người.

Nói “Là sư ngoại đạo cho đến “mà đối với các thủ, không thể lập bày chánh đoạn, Biến trí”, đây là người đầu tiên. Tất cả bốn thủ đều không dứt trừ, mà đồng giảng nói đoạn Luận Biến tri.

Thứ hai, là “Do Bản khế kia v.v… trở xuống, chỉ dứt trừ dục thủ, không dứt ba thủ còn lại.

Thứ ba, “Nếu có với người khác trở xuống v.v…, dục thủ, trước đã dứt trừ, lại dứt trừ biến tri.

Thứ tư, “Nếu có giới cấm cũng không đồng phần” trở xuống, là dứt trừ ba thủ trước mà chưa dứt trừ ngã ngữ. Tất cả ngoại đạo đều không dứt trừ “Ngã ngữ thủ”, vì đều chấp làm ngã.

Thứ hai, là “giải thích về nghĩa Sa-môn. Đầu tiên, là chia ra ba môn, gồm thâu nghĩa Sa-môn. Sau, là hỏi đáp, giải thích riêng, giải thích về nói ba môn gồm thu nghĩa Sa-môn.

Trong phần trước được chia làm ba: Đầu tiên, trong giải thích cảnh, chia ra bốn pháp làm cảnh sở quán của bốn niệm trụ.

Nói sáu cõi như địa v.v… làm thể sở y cho sáu xúc xứ, nghĩa là dù nêu ý sáu cõi quán bốn đại và năm cõi không làm cảnh của thân niệm trụ, nhưng bốn đại, hư không và năm xúc của nhãn, v.v… làm chỗ nương tựa, thức giới và ý xúc làm chỗ nương tựa, sáu xúc mười tám ý hành làm chỗ nương tựa, tuy nêu nơi chốn sáu xúc như nhãn v.v… nhưng ý lấy sáu căn mà sinh ra thể xúc làm cảnh của pháp niệm trụ. Từ sáu căn đó, sinh ra xúc khổ, xúc lạc, xúc không khổ, không lạc, sinh ra sáu ưu, sáu hỷ, sáu xả làm cảnh của Thọ niệm trụ. Mười tám ý hành này năng nhiễm đồng thời với tâm vương, làm Tâm niệm trụ.

Kế là, giải thích về trí, nghĩa là tâm thanh tịnh, dùng làm chỗ nương tựa cho tuệ tăng thượng. Dưới đây trong giải thích về chứng, trước là hỏi, đáp, dẫn bốn xứ. Kế là hỏi đáp, giải thích bốn chỗ Sau, nhẫn phân biệt. Bốn y xứ này cũng gọi là bốn đức xứ. Luận Thập Địa gọi là bốn gia y luận Nhiếp Đại Thừa chỉ y cứ ở sự phối hợp trong Thập Địa để giải thích bốn y. Địa thứ nhất, thứ hai, thứ ba, gọi là địa y đế. Địa bốn, năm, sáu, gọi là y tuệ địa. Hai địa bảy, tám, gọi là xả địa. Địa, thứ chín, thứ mười gọi là địa vắng lặng. Nay, trong văn này, trước là nói về tuệ y xư. Từ tu đắc của địa phàm phu trước kiến đạo, nhập kiến đạo, cho đến Vô học và thành trí xuất thế. Hậu thế gian trí (hậu đắc trí). Nếu là đế y xứ, tức từ đã được tám Thánh đạo. dứt trừ các phiền não, được A-la-hán. Vì các khổ bất sinh, không có quên mất nên gọi là Đế y xứ.

Xả y xứ, nghĩa là đối với sự đã dứt trừ, không có hành tạp nhiễm, hiện pháp lạc trụ.

Y xứ vắng lặng, nghĩa là vì siêng tu phương tiện dứt trừ kiết, nên đã được kiến đạo, tiến đến dứt trừ tu hoặc. Dưới đây chỉ định sự để nói:

“Như đã được đạo v.v… trở xuống, là phân biệt chung.

“Tất cả như thế, tóm lại, vì muốn được chứng, nên tu trí kia, nghĩa là tu tuệ y xứ. Đã được chứng xong, tức là Đế y xứ tức là được Thánh đạo, tức là thứ ba. Do bỏ tạp nhiễm, được hiện pháp lạc trụ và quả Thánh đạo, tức là thứ tư. Do nương tựa vào trạng thái vắng lặng, diệt sự kiết khác, được quả vô vi.

“Một thứ trong đây v.v… ” trở xuống, là trong phần nói lại bốn y trong thành thục, trước là nói, kế là, giải thích “Như thế v.v… trở xuống, là kết.

Trong đây, phần trước đã đạt được Thánh, gọi là đạo vắng lặng, là tướng kiến đạo.

“Vì dứt trừ sự phiền não của phần vị trên”, nghĩa là vì loại trừ tu hoặc, dứt trừ sự phiền não kia gấp bội, hướng đến tăng ích dứt phiền não, ngăn ngừa chưa được thối lui, tức dứt trừ sự nghiệp báo, nghĩa là trong dứt trừ phiền não, ngăn ngừa sự thối lui nên được, chưa được.

Trên đây, giải thích riêng về cảnh, trí, chứng. Dưới đây sẽ hỏi, đáp để nói chung ba môn, gồm thu nghĩa Sa-môn.

“Nói là chánh gia hạnh cho đến “đều không có ngã” Luận sư Cảnh rằng: “Nói là trong địa phàm phu trước kiến đạo, quán riêng bốn đại trong, ngoài là không, quán năm trụ men theo thân. Vì cầu chánh tuệ tăng thượng, hai giải thoát, nên quán giới vô ngã, đây tức ý khởi quán. Dựa vào sức tư duy lựa chọn về giới của các sắc, đã xa lìa tham, nghĩa là hàng phục xa lìa, mà với đối tượng duyên (sở duyên) vẫn còn chưa có thể dứt trừ, nghĩa là chưa dứt trừ tùy miên.”

“Đối với vị lai v.v… trở xuống, là giải thích lý do hàng phục, không dứt trừ.

Tâm giải thoát v.v… nghĩa là vì lìa tham, nên tâm được giải thoát.

“Từ đây về sau cho đến “Quán sát không có điên đảo”, nghĩa là quán năm căn bên trong là thân niệm trụ.

“Dưới đây, là quán thọ là thọ niệm trụ.

Đối với giới các thọ cũng lìa tham v.v… nghĩa là quán thọ nhiễm. Người kia vì đã xa lìa vô minh, nên do tuệ giải thoát làm sức tăng thượng. Nghĩa là rời vô minh, tuệ được giải thoát. Đây là quán thọ tịnh dựa vào các xúc minh mà sinh tác ý như lý tương ưng với tất cả khéo thọ, làm thọ niệm.

“Từ đây về sau, nơi mười tám ý hạnh cho đến “Tu quán tâm, pháp”, tổng kết thọ niệm là quán tâm pháp.

“Phàm phu kia nghĩ rằng: “Mười tám ý hạnh này rất là bậc nhất”, nghĩa là xả thọ của Vô Sắc. Nếu đối với xả thọ này, hoặc định, hoặc sinh ra ham vui chấp mắc, quan hệ với tâm ghi nhớ, thì sẽ trở thành tạp nhiễm. Biết như thế rồi xả, mà không ghi nhớ trụ, duyên theo quán tâm”, nghĩa là biết ghi nhớ lỗi lầm của thọ vượt hơn. Xả mà quán tâm, gọi là tâm niệm trụ. Lại, đối với các xứ, quán tánh vô thường, là gọi là đối pháp trụ, tu quán pháp, cho đến pháp khác như thuyết đã nói: “Ba “không” dưới đây, gọi là định ba tưởng, kể cả Phi tưởng, chỉ hàng phục lìa tham, gọi là được xa lìa, chứ chưa thể dứt trừ hạt giống, gọi là “như trước đã nói”. Bậc thánh đã được phi tưởng, có thể dứt trừ hạt giống tham. Phàm phu đã được Phi tưởng, thì chỉ hàng phục tham kia, chứ không thể dứt hẳn, nên nói đệ nhất hữu khác đã lìa tham v.v… ”.

Trên đây, là nói phàm phu kia thực hành bốn niệm trụ. Dưới đây, sẽ nói về người vô học thực hành quán bốn niệm trụ:

Luận sư Đạt nói: “Nói năm giới: Giới của năm căn bên trong. Bốn thứ tham ái: Lợi dưỡng, tiếng khen, ưa thích tham lam, bốn thứ giận dữ: Suy, hủy, thức, khổ sân.

Thứ ba, là giải thích môn Hỷ, lạc. Nghĩa là vì có tu bảy pháp lành, nên được hỷ, lạc v.v… Tựu trung chia làm hai: Trước, chính là nói duyên của bảy chánh pháp, sau nói nhân tu bảy pháp lành, được hai thắng lợi.

Trong phần trước, 1/ chia chương, nêu danh. 2/ giải thích riêng.

Trong phần trước.

1. Sở duyên tác ý của “Văn mà thành”, nên lập biết pháp, nghĩa là do văn tuệ rất dễ hiểu pháp;

2. Sở duyên của tác ý Tư, Tu, nên lập biết nghĩa, vì hai tuệ này rất dễ hiểu nghĩa.

3. Tức ba thứ tác ý này, vì khác nhau lúc như làm, nên lập biết thời gian, vì ba tuệ rất dễ hiểu thời gian. Nếu lúc khởi điệu cử, tức dùng chỉ định có thể hàng phục. Nếu lúc khởi hôn trầm, liền dùng tuệ học có thể điều phục. Nếu khi khởi vô minh, thì dùng xả có thể hàng phục, nên nói “biết thời gian”.

4. Đối với thọ dụng của thọ khắp, khéo thông đạt khi sử dụng của, nên lập biết lượng. Nghĩa là người thọ dụng của, thọ dụng khắp, tiền của khéo thông suốt, nên nói “lập biết lượng” nghĩa là thọ dụng tài vật, khắp thọ dụng tiền tài, khéo thông đạt.

5. Thọ dụng pháp trong bầt cứ lúc nào, cũng luận từ người khác được, nên lập biết chúng. Nghĩa là khéo biết người, chúng: người này là vua, đây là quan, đây là người kỉnh tin v.v… vì nhận lấy của người khác.

6. Vào thời gian rốt ráo, nội tại kìa tăng thượng mạn, không có mất mát, hư hoại, nên lập “tự biết”.

7. Cũng được lìa tăng thượng mạn đối với người khác, không có lỗi lầm, hư hoại, nên lập, biết tôn ty.

“Trong đây v.v… trở xuống, là thứ hai giải thích. Trong bảy nhân duyên, không giải thích nhân duyên, một và hai, vì ở trước, đã giải thích ở các chỗ rồi.

Thứ ba kia, nghĩa là chỉ như Ma-hý-đa địa của Thanh văn. Thứ tư, chỉ như địa Thanh văn.

“Lại, thọ dụng của trong đây” trở xuống v.v…, giải thích “tri chúng” thứ năm.

“Ta nên thực hành như thế trở xuống, là giải thích về “tự biết” thứ sáu.

“Lại tín là trước v.v… xuống, giải thích “biết tôn, ty,” thứ bảy.

“Nói năm pháp như thế”, nghĩa là tín là trước, trì giới là một. Trì giới là trước, cầu học rộng là hai. Do học rộng này là trước, bỏ lỗi lầm v.v… là ba. Do bỏ lỗi lầm này là trước, tâm được tịnh là bốn. Chứng trí như thật là năm.

“Nói lược có hai hạng Bổ-đặc-già-la” nêu cả hai, hai thứ là: 1- cao quý. 2- thấp hèn. Hai hạng như thế, nghĩa là phân biệt hai hạng: lại phân biệt lựa chọn điểm khác nhau của hai người trước.

Dưới đây, sẽ nói về nhân tu bảy điều thiện, được hai thắng lợi: 1- hỷ lạc. 2- được lậu tận.

Thứ tư, là giải thích “tất cả pháp v.v… trước nói về Học và quả Học gồm thu tất cả pháp, sau, nói học, quả học có thể chứng đạo tư lương, đối trị tám tai hại lỗi lầm.

Trong phần trước, nói “vì sức tăng thượng nghe chánh pháp, nên có thể tập họp nhanh ngữ minh xúc. Cho nên, nói người kia cho là tập xúc. Xúc minh là xúc vô lậu. Thật ra, không phát ngữ, mà nói xúc minh, mà gọi là Tăng ngữ là vì duyên xa của phát ngữ, nên gọi là tăng ngữ. Lại nữa, xúc có cả hữu lậu, vô lậu, nay, nói xúc minh của tăng ngữ là hữu lậu. Lại, vì tất cả hữu lậu hẳn cùng tận, nên được rốt ráo minh xúc, mà sinh ra thọ đều tu hành giải thoát. “Tức giải thoát này cho đến “Vì không có tánh tội”, nghĩa là vì thứ nhất trong niềm vui vắng lặng Niếtbàn.

Kế dưới đây nói: “Giải thoát bền chắc là cõi Niết-bàn hữu dư y, nên biết giải thoát là giải thoát của vô vi. Dưới đây, là nói về quả học có thể chứng tư lương, đối trị tám tai hại lỗi lầm, tu tập chín tưởng. Tám lỗi lầm: Ham vui chấp mắc lợi dưỡng, cung kính là một. Ái chứa giữ tất cả các hành của hữu sau. 2- Lười biếng trể nải là ba. Tát-ca-da kiến là bốn. Tham chấp vị ngon là năm. Thậm chí tham ái nơi các thế gian là sáu. Nương tựa phương tiện hành động xấu ác buông lung là bảy. Y chỉ tà nguyện, tu tập phạm hạnh là tám.

Tám lỗi này là đối tượng trị, chín tưởng là chủ thể trị. Luận sư Cảnh nói: “Mỗi tưởng trong chín tưởng có thể trị tám tai hại lỗi lầm xong”. Hai tưởng sau, khó hiểu, luận tự phân biệt.”

Luận sư Đạt nói: ‘Tưởng thứ năm, sáu đối trị chung tham chấp vị ngon thứ năm, bảy tưởng còn lại, gọi là chửa trị một lỗi lầm, từ thứ lớp ban đầu rất dễ hiểu.’

Thứ năm, giải thích phạm hạnh. Nói: “Vì không biết như thật về ba xứ này”, 1- Lậu, 2- thọ, 3- Tưởng tà.

Xứ của năm tập đế ở trước là: 1- Các lậu, 2- Thọ vô minh, 3- Tưởng tà, 4- Các dục, – Nghiệp hậu hữu. Trong năm tập đế đều không biết như thật. Một thứ sau là xứ khổ đế, nghĩa là không biết như thật về các khổ kia.

Thứ sáu, là giải thích về Sác thủ thú, đầu tiên, là nêu chung. Kế là, giải thích riêng, trong đó có hai: trước, nói về sáu người, sau, nói về trí Phật biết rõ như thật.

Trong phần trước lại có hai: Trước nói về sáu người, sau nói lại nghĩa đó.

Trong phần trước, trước nói về ba người trước, kế là, kết. Sau, là nói về hai người sau, tức trái với hai người trước.

Y cứ trong nói lại nghĩa, nếu dùng pháp thiện của đời trước đặt trong pháp diệt nói ác của đời nay, thì sẽ khiến cho pháp thiện tổn giảm. Như lấy tro nóng đặt ở chỗ đất lạnh, hoặc trong đồ đựng bằng đá xanh, thì sẽ khiến cho tro kia không có nóng. Nếu đặt pháp thiện của đời trước ở trong pháp nói thiện lại tu tập thì như để tro nóng ở nhà tranh khô, sẽ giúp cho lửa tro hừng cháy.

Thứ bảy, là giải thích về siêu việt, đầu tiên, là nêu chung năm môn, biết rõ về siêu việt. Kế là giải thích riêng năm môn. Sau, kết thành hai siêu việt.

Y cứ trong giải thích riêng, trước là giải thích môn thứ nhất. Sau, là giải thích bốn môn còn lại.

Trong phần trước được chia làm ba: Trước hết, nói về đi qua đường ác. Kế là nói về môn tổn hại mãi mãi. Sau, nói biết khắp như thật.

Trong giải thích bốn môn còn lại, trước, nói về bốn môn. Sau, nói về trí khắp của Phật v.v… Sau, môn hành trên, Luận sư Cảnh nói: “Người A-na-hàm của hành trên sau cùng, lấy đến phi tưởng làm rốt ráo, nay, giải thích đối với hiện tại, gọi là sau, chứ chẳng phải sau cùng.

Thứ tám, là giải thích hai nhiễm. Trước lược đối biện đối trị hai thứ tạp nhiễm. Sau, tùy nghĩa giải thích rộng.

Trong phần trước, Luận sư Cảnh giải thích: “Các đệ tử bậc Thánh cho đến “Chứng nhập định không có lay động của vô sở hữu, phi tưởng xứ”, nghĩa là bốn thiền và hai không cõi dưới, đều gọi là định không có lay động. Chín vô ngại, tám giải thích dứt trừ dục của cõi Dục, gọi là thú hướng Sơ thiền. Lìa dục tán, động v.v… hạnh định không lay động. Lìa chín vô ngại, tám giải thoát của Sơ thiền, gọi là thú hướng Nhị thiền. Lìa hành động không có lay động của Tầm, Từ. Lìa chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát của Nhị thiền, gọi là hướng đến Tam thiền. Lìa hành không có động, của hỷ bị động, lìa chín vô ngại, tám giải thoát của dục ba thiền, gọi là hướng đến bốn thiền, hạnh vô động do lìa lạc làm cho động, lìa chín vô ngại, tám giải thoát của dục Tứ thiền gọi là hướng đến không xứ. Tưởng sắc tạp, tưởng có đối, hành có lay động, không lay động của các thứ tưởng khác nhau. Khi lìa chín vô ngại, tám giải thoát, dục của hoặc xứ, gọi là hướng đến thức xứ. Lìa không xứ kia, duyên hạnh môn lay động, không lay động. Vì không xứ lấy tướng không ngoài không, gọi là lay động môn ngoài. Nội thức xứ duyên nơi thức, gọi là không lay động. Khi lìa chín vô ngại, tám giải thoát ở thức xứ, gọi là thú hướng hành vô sở hữu. Lìa bốn thiền, không xứ nơi cõi Dục, gọi là lấy giải thoát thứ chín, đều gọi là chứng định không có lay động. Lìa giải thoát thứ chín của thức xứ, gọi là chứng nhập định vô sở hữu. Lìa giải thoát thứ chín của Vô sở hữu, gọi là chứng nhập định Phi phi tưởng. Nói đây là vì đoạn đối trị và đối trị phần xa, nên vượt qua chấp mắc tạp nhiễm cõi Dục. Sơ thiền là đối trị dứt trừ tạp nhiễm cõi Dục.

Thiền thứ hai trở lên, cho đến Phi tưởng, đều gọi là đối trị phần xa. “Hoặc vì dứt trừ tạp nhiễm của hữu sau cho đến “Ta đâu phải không có”, nghĩa là vì khổ sinh v.v… nên nói là ta có khổ. Ta đã có khổ, lúc nào sẽ không có, nên nói ngã sở nào phải không có, tức lấy khổ sinh v.v… cho là thể của ngã. Khổ như thế, ngã đâu phải không có, nên nói “Ngã đâu phải không có”.

Nói “Ngã” sẽ không, “Ngã sở” sẽ không. Nghĩa là do ở trước phát sinh tâm ưa diệt khổ, chánh cần gia hạnh.chánh gia hạnh xong đạt được định khác nhau ở trước, sau. Do nhân duyên này lại được quyết định, nghĩa là khổ, của ngã sẽ không có, khổ sở hữu của ngã sẽ không có.

Nói “Hoặc cái có hôm nay, hoặc cái có thuở xưa, tất cả đều xả”, nghĩa là nghiệp tạp nhạp hiện đang tạo, gọi là nay đã có. Các nghiệp khác gọi là sở hữu xưa. Quả báo của hai nghiệp đều không mong cầu, gọi là đều xả bỏ.

“Người kia tu tập đúng cho đến “Có thể nhập định Phi tưởng”, nghĩa là do người kia tu chân chính, có thể dứt trừ sự khác nhau trước, sau của hậu hữu của ba không bốn thiền.

Dưới đây là nói về giải thoát chung, chỉ có Thánh giải thoát, nghĩa là tất cả hoặc chướng của tám địa dưới, phàm phu đều lìa, hàng phục, dứt trừ dù khác, nhưng nói về tướng chung, thì vô vi của Bát địa, gọi là giải thoát chung, trạch diệt của Phi tưởng chỉ có Thánh giải thoát.

“Như thế, tất cả có chung năm xứ cho đến “Thánh giải thoát thứ năm”: Văn trước chỉ nói hướng đến hành không lay động, hướng đến hành của vô sở hữu, không nói hướng đến hành phi tưởng. Nay, là nói hướng đến Niết-bàn của Phi tưởng với thể giải thoát của bậc Thánh là một nghĩa khác”.

Luận sư Đạt nói: “Văn trước lẽ ra là thiếu ít, nên nói đầy đủ là hướng đến Phi tưởng”.

Thứ tư, là giải thích chấp lấy tướng. Nói “Trong đây coi giữ nhà bếp, cho đến thức ăn ngon, quần áo đẹp, dụ cho Xa-ma-tha ở nội tâm v.v…, như người đời trông coi việc bếp núc, giống như cung cấp cho chủ, ví như người tu hạnh Du-già, do chấp chỉ, nêu tướng “Đẳng”, cung cấp định kia mà nhiếp thọ tâm, Thức ăn ngon dụ cho chỉ, là nêu tướng, thể của định chính là có công năng giúp đỡ, dưỡng nuôi đồng thời với tâm vương. Như quần áo, thức ăn ở trên. Phẩm hắc, phẩm bạch, dụ cho các người ngu trí. Thứ năm, là giải thích các triền, thứ sáu thắng lợi (như văn rất dễ hiểu).

BẢN LUẬN QUYỂN 98

Trong niệm trụ Bài tụng thứ tư có tám môn:

  1. Tà sư.
  2. Ở núi tuyết.
  3. Khuyên cố gắng.
  4. Hệ thuộc tịnh.
  5. Dần dần.
  6. Giới viên mãn.
  7. Tuệ.
  8. Thành tựu.

Trong giải thích của văn xuôi, môn đầu rất dễ hiểu.

Thứ hai, là giải thích ở núi Tuyết, nghĩa là trong núi Tuyết có ba chỗ:

1. Nơi vượn, khỉ và thợ săn đều đến.

2. Chỉ là nơi vượn khỉ hay đến, chẳng phải nơi thợ săn đến.

3. Chỗ cả hai đều không đến là chỗ thứ nhất, dụ cho trông coi đất sống, là chỗ thứ hai, dụ cho ba quả hữu học, là chỗ thứ ba, dụ cho Vô học địa.

Nói: “Lại, các người ngu chủ yếu quán cảnh khác cho đến” không được giải thoát”, nghĩa là phàm phu lìa dục, ưa thích cõi trên, nhàm chán cõi dưới, đeo đuổi cầu mong cảnh trên, ra khởi cảnh dưới, cho đến vẩn ở cảnh Phi tưởng mà không được giải thoát.

Thứ ba, khuyến cố gắng, nói “An lập bốn nghĩa:

  1. Lắng nghe nghĩa lý chánh pháp.
  2. Thọ, trì, đoc tụng.
  3. Quán sát nghĩa lý.
  4. Pháp tùy pháp hạnh, cũng gọi là như lời dạy mà tu hành.

Thứ tư, là giải thích hệ thuộc thanh tịnh”. Lại có ba thứ”. Trở xuống, là giải thích lại.

1. Chứng tịnh, nghĩa là ở Kiến đạo, tức là bốn bất hoại tịnh, đối với tu dứt trừ ở trên, chưa thanh tịnh, nên nói không thanh tịnh.

2. Đã thanh tịnh, Các người của quả Bất hoàn đã lìa dục ái, bất thiện v.v…

3. Trong sạch: A-la-hán. Các hữu học ở trên được gọi là thanh tịnh, La-hán, các vị Hữu học cõi dưới gọi là không thanh tịnh gọi là trong sạch.

Thứ năm, là giải thích về thứ lớp, những người tại gia chỉ có niềm tin thanh tịnh và ba lần lượt hỏi trong thiếu cái thanh tịnh.

Thứ sáu, là giải thích giới viên mãn, rất dễ hiểu.

Thứ bảy, là giải thích về tuệ. Nói “phải biết cõi Dục, như da v.v…”. Nghĩa là lấy thân người dụ cho ba cõi. Cõi Dục như da, cõi trên như thịt. Vô minh ở trong thịt như máu, vì máu vô minh trong thân của ba cõi, ngấm dần.

Thứ tám, là giải thích thành tựu (như văn rất dễ hiểu).

Đoạn lớn thứ nhì giải thích về chánh đoạn, thần túc. Có nửa bài tụng nêu năm môn:

1) Dũng. 2) Lực. 3) Tu đẳng trì. 4) Môn khác. 5) Thần túc.

Một môn dũng đầu tiên, là nói về bốn chánh cần. Bốn môn như lực v.v… là nói về bốn như ý túc.

Trong giải thích của văn xuôi, trước là giải thích môn dũng. Trong đây giảng nói câu thứ năm của dũng, nghĩa là tinh tấn có năm câu. Một áo giáp tinh tấn, cho đến thứ năm không bỏ ách thiện v.v… là dũng.

Thứ hai, là giải thích về lực. Nếu nói lược, thì bốn lực giữ gìn tâm, làm cho định, cho đến gìn giữ trong đẳng trì, chỉ có ngần ấy việc làm của đẳng trì, trì đẳng trì này, không có đẳng trì nào khác hoặc hơn, hoặc thêm.

Thứ ba, là giải thích: Tu Đẳng trì, luận sư Cảnh giải thích rằng: “Dục v.v… nghĩa là biếng nhác đều thực hành dục, cần, tâm, tuệ nên nói “Dục v.v…”.

Nói “Cảnh sở duyên của phẩm Tỳ-bà-xá-na”, nghĩa là tưởng trước, sau: văn, tư, tu, chứng bốn trí, tu tập tướng trước sau, nhập, gọi là tưởng trước sau: Văn, tư, tu chứng bốn trí tu tập trước sau nhập nhau, gọi là tưởng trước sau.

Cảnh sở duyên của phẩm Xa-ma-tha, nghĩa là tưởng v.v… trên, dưới. Bốn thiền, bốn không từ dưới lên trên, gọi là tưởng trên, dưới.

“Cảnh sở duyên của phẩm câu cho đến” có tu tâm đều hiện hành các bóng sáng”, nghĩa là khi mới học quán, tạo ra tướng ánh sáng, lúc bầy giờ, liền có tướng phần của bóng sáng thích hợp với tâm, làm cảnh sở duyên. Dưới đây, sẽ phân biệt:

Hỏi: “Dục, tinh tấn, v.v… là pháp thiện, làm sao được tương ưng với lười biếng để đều hiện hành ư?” Cho nên luận tự giải thích: “Lại, chẳng phải như dục v.v… cho đến” gọi là biếng nhác đều cùng hiện hành”, nghĩa là vi đối với tinh tấn, không thể xen lẫn biếng nhác nối tiếp nhau, nên gọi là đều hiện hành. Lại, năm tướng này, phải biết rằng, gồm thu chung tất cả thứ tu v.v… nghĩa là đã nói năm nhân duyên tướng tu thần túc, gồm thu chung hết tất cả thứ pháp Tu lạc đẳng trì. Vì lý do thứ tu này, nên đẳng trì chóng viên mãn.

Nay, xét quyển hai mươi tám: “Tưởng trên, dưới của phẩm Chỉ, nói là quán sát thân này như chỗ ở của nó, như điều mà nó mong muốn, trên, trên từ đỉnh đầu, dưới đến bàn chân, đầy dẫy các thứ bất tịnh tạp nhạp.

Tưởng trước sau của phẩm quán, nghĩa là như có một tướng nơi sở quán (đối tượng quán) nghĩa là khẩn thiết đến nỗi khéo lấy, khéo tư duy, khéo liểu, khéo đạt, nghĩa là khi đứng, quán ở chỗ ngồi, lúc ngồi quán khi nằm. Hoặc ở bước đi sau, quán sát bước đi trước.(Giải thích rộng, như quyển hai mươi tám kia).

Thứ tư, là giải thích môn “khác”: “Lại nữa, năm xứ giải thoát”, nghĩa là như luận Thành Thật nói:

“1) Nhân nghe pháp được giải thoát.

  1. Nhờ người khác nói, được giải thoát.
  2. Nhờ tự đọc, tụng kinh, được giải thoát.
  3. Nhờ tư duy, được giải thoát.

2) Pháp tùy, pháp hạnh, được giải thoát.

“Nếu có Bí-sô dựa vào ý lạc tịnh và dục mạnh mẽ, nhạy bén cho đến “Gọi là Dục Tam-ma-địa.” Thì Bí-sô này nhờ nghe pháp được định.

“Lại, có Bí-sô cho đến “Gọi là tinh tấn Tam-ma-địa. Đây là nhờ người khác nói và tự đọc tụng hai thứ mà được định, hợp thành tinh tấn tam-ma-địa. Lại có cho đến gọi là Tâm tam-ma-địa. Đây là nhờ tự tu duy tướng bất tịnh v.v… mà khởi Tam-ma-địa gọi là Tam-ma-địa tâm chấp lấy tâm vương.

“Lại có cho đến “gọi là Tam-ma-địa”: đây là do pháp tùy, pháp hành mà được định.

Hạnh của phân biệt đoạn: Cũng là tư lương của tám diệt.

Thứ năm, là giải thích thần túc. Nói “Bổ-đặc-già-la của chủng tánh bất tịnh, gọi là loại vật chỉ trụ pháp nội. Dòng họ Chiên-đà-la gọi là loại vật bất tịnh, nên biết loại này chỉ trụ nội pháp mới có thể tu tập thần túc của các bậc Thánh, dẫn phát thần thông Thánh giả. Thần thông có bốn:

  1. Biến hóa.
  2. Tánh biến hóa thay đổi tánh ấy.
  3. Lúc trụ.
  4. Lúc biến, tướng văn rất dễ hiểu.

Thứ ba, đoạn lớn, giải thích năm căn. Có một bài tụng nêu bốn môn thần thông kia:

  1. An Lập.
  2. Cảnh sở hành.
  3. Tuệ căn là hơn hết, phải biết an trụ sau.
  4. Phẩm phàm phu ngoại v.v…

Thứ nhất, là giải thích môn an lập, nhân nói năm căn như tín v.v… tức nói về hai mươi hai căn.

Thứ hai, là giải thích cảnh sở hành.”khởi về minh thoát”, nghĩa là tuệ vô lậu, gọi là “minh”. Số giải thoát tương ưng với tuệ, gọi là “thoát”.

Thứ ba, là giải thích tuệ căn, cho đến an trụ như văn rất dễ hiểu.

Thứ tư, là giải thích phẩm phàm phu ngoại v.v… nghĩa là nếu không có năm căn như tín v.v… đối với Phật, chỉ là phàm ngoại. Nếu đối với Bồ-đề chỉ có năm căn như tín v.v… của thế gian, là phàm phu nội. Nếu khởi tín vô lậu ở Bồ-đề thì gọi là phẩm loại Thánh, chẳng phải phẩm loại phàm phu kia.

Đoạn lớn thứ tư, là giải thích năm lực. Có một bài tụng nêu sáu môn:

  1. Tư duy lựa chọn.
  2. Giác tuệ v.v…
  3. Nước v.v… và các Vua.
  4. A-la-hán..
  5. Hữu học.
  6. Ngay thẳng.

Trong Văn xuôi giải thích, môn một, hai rất dễ hiểu.

Thứ ba, là giải thích Quốc vương v.v…

“Nương tựa nước và vua cho đến “Có mười thứ lực v.v…”.

Có Luận sư giải thích: “Vì đối với nước v.v… có năng lực tự tại, nên lập mười lực, lại xem xét”.

Nay, giải thích: “Một, là nước v.v… Là hai, Vua, cho đến chúng xuất thế thứ mười. Dựa vào mười thứ này, có lập mười lực, giải thích rộng kinh nói.

Thứ tư, là giải thích A-la-hán.

Luận sư Đạt nói: “Thành tựu tám lực, nghĩa là không tạo hai lực trong “hữu” của nghiệp ác.

  1. Vì nhàm chán hậu hữu, nên không tạo.
  2. Vì nhàm chán các dục, nên không tạo.

Trong tu thiện có sáu lực, nghĩa là bảy vị của phẩm Đạo, hai môn căn lực hợp làm một, nên có sáu”.

Nay, giải thích “Chánh đoạn, Thần túc hợp làm một, nên là sáu”.

Thứ năm, là giải thích Hữu học: Các vị hữu học thành tựu năm lực. Luận sư Đạt nói: “Lại hỏi “Nay xét quyển một trăm rằng: “Dựa vào Tỳ-nại-da, Bí-sô siêng học, thành tựu năm lục:

  1. Lực gia hạnh.
  2. Lực ý lạc.
  3. Lực khai hiểu.
  4. Lực chánh trí.
  5. Lực ngay thẳng.

Nói “Hai nhân duyên: 1- Tự tu hành viên mãn. 2- Lợi người là lợi mình.

Thứ sáu là giải thích ngay thẳng v.v… (văn rất dễ hiểu).

Đoạn lớn thứ năm, giải thích bảy giác phần. Có một tụng nêu bảy môn kia: 1- Lập; 2- Sai khác; 3- Ăn, 4- Lần lượt; – An vui; 6- Trụ; – Tu.

Đầu tiên giải thích môn lập: Nhân Xa-ma-tha, nghĩa là ba thứ định, ỷ (khinh an), xả, là Xa-ma-tha. Phẩm Tỳ-bát-xá-na, nghĩa là Trạch pháp, tinh tấn, hỷ. Phẩm Câu, nghĩa là hai phần: Niệm, thông.

Thứ hai, là giải thích về sự khác nhau, xét y theo văn trước.

Có giải thích: “Tự tánh tức bảy sở duyên, có bốn nhân duyên lập. Kế là Ba môn rất dễ hiểu.

Thứ sáu, là giải thích môn Trụ. “Nói trụ bốn giác chi trong phần đầu”, nghĩa là Định, y, xả, niệm. Trong phần thứ hai, trụ bốn giác chi: là Trạch pháp, tinh tấn, Hỷ, niệm, an trụ đầy đủ trong phần thứ ba.

Bảy Chi giác: định, tuệ trên phân, đầy đủ bảy giác, chưa từng an trụ, chỉ một chi giác”, Luận sư Đạt nói: “Chi niệm giác là bước đầu tiên của người tu hành”, lại giải thích: “Đã từng không có hành, nghĩa là chỉ trụ một Chi giác.

Thứ bảy, giải thích môn Tu. Luận sư Cảnh nói: “Giải thích hai mươi mốt tưởng: 1- Tưởng vô thường; 2- tưởng khổ; 3- Tưởng vô ngã; 4- Tưởng “không”; – Tưởng bất tịnh; 6- Tưởng nhàm lìa cái ăn; – Tưởng thế gian không đáng vui; 8- Tưởng cái chết; 9- Tưởng dứt trừ; 10- Tưởng lìa; 11- Tưởng diệt.

Lại, có quán chín tưởng: Thây chết xanh bầm là quán đầu tiên, “không” là sau (nhận xét văn kinh, màu lục xếp vào trong đây). Lại thêm tưởng tai hại lỗi lầm là hai mươi mốt”.

Nói “1- Y cứ vào nghĩa Câu hành, tương ưng, nghĩa là tức tương ưng đồng thời với bảy Giác: Tưởng vô thường v.v… đều hiện hành tu, cho đến tưởng cái chết đều hiện hành tu. Đây là y cứ đã được tạo nên quán hạnh này trong trí Hậu đắc của Bậc thánh, tương ưng với bảy Giác.

2- Y cứ ở nghĩa đều hiện hành không có gián đoạn, nghĩa là từ tưởng bất tịnh cho đến tưởng quán “không”, đây là y cứ áp dụng quán bất tịnh trong đạo Phương tiện, cho đến tâm thức trống không về thi hài, tức bảy giác trước, sau nhập vào nhau, gọi là y cứ ở nghĩa không có gián đoạn. Từ v.v… cũng thế. Đây là so sánh rộng, chứ chẳng phải có quán từ v.v… trong số hai mươi mốt tưởng.

Tiếp theo, nói về chướng bị đối trị của hai mươi mốt tưởng, có mười bốn:

  1. Ái nhiễm trong hành của ba đời.
  2. Trể nãi, lười biếng.
  3. Tát-ca-da kiến dù đã diệt tập khí, nhưng vẫn theo đuổi ràng buộc hiện hành của ngã mạn.
  4. Tham vị ái.
  5. Tham ái sự tốt đẹp của thế gian.
  6. Tùy miên phiền não còn lại.
  7. Mong cầu lợi dưỡng.
  8. Mong cầu nuôi sống.
  9. Hoặc các ái dục.
  10. Hoặc hữu ái, hoặc theo phân biệt giả dối phẩm hạ.

Lại, có bốn thứ Dục tham:

  1. Tham sắc đẹp.
  2. Tham thân hình diện mạo.
  3. Tham cảm xúc tế.
  4. Tham thừa sự.

“Như thế cho đến vượt qua đường mà chuyển”, nghĩa là nói về lỗi của chướng. Vì đối trị chướng, nên tùy theo sự thích ứng của hai mươi mốt tưởng đều hiện hành tu Chi giác khác nhau: Tưởng của nghĩa thủ thích ứng với bị đối trị, chẳng phải y cứ theo thứ lớp. Thế nên nói ngay rằng, tùy theo sự thích ứng.

“Nói là vì đối trị bốn thứ chướng cho đến “Tưởng không đáng ưa”, nghĩa là tưởng vô thường, chửa trị ái trong hành của ba đời. Tưởng khổ trị lười biếng, tưởng bất tịnh chán lìa. Tưởng thức ăn chữa trị tham vị ái thứ tư. Tưởng tất cả thế gian không đáng ưa, đối trị thứ năm là tham ái sự tốt đẹp của thế gian. Năm tưởng về trước, đều là hạnh vô nguyện, không có đối trị:

1/ Chướng ngại cho tu tưởng “Không hạnh”, tưởng khổ vô ngã, nghĩa là hai tưởng “Không”, “Vô ngã” đều là môn “không”, đối trị hẳn tập khí, hiện hành ngã mạn của thân kiến thứ ba. Vì muốn dứt bỏ tùy miên phiền não còn lại, nên tu tưởng hành vô tướng của ba cõi, nghĩa là quán dứt trừ không có cõi Dục diệt, gọi là ba cõi. Ba tưởng như đoạn v.v… này đều là môn Vô Tướng.

“Vì muốn đối trị mong cầu lợi dưỡng. Vì lợi dưỡng và dục ái, nên tu tưởng tai hại lỗi lầm trong các dục”, nghĩa là thứ bảy, thứ chín ở đây đồng là ái trong cảnh ngoài, do quán tưởng tai hại lỗi lầm, vì mong cầu mạng sống sót và vì ái “Hữu”, nên tu tưởng cái chết. Nghĩa là tưởng thứ tám, thứ mười ở đây đồng với thân tong khởi ái, nên dùng tưởng chết để đối trị. Vì theo đuổi phân biệt giả dối bốn Dục tham, nên tu tưởng bất tịnh là đầu tiên, cho đến quán tưởng “Không” là sau, hữu vi dứt trừ tham sắc đẹp, tu tưởng xanh xao, bầm tím, tưởng sình trướng. Vì dứt trừ tham vóc dáng, diện mạo, nên tu phần tưởng ăn, nuốt, cũng phần tưởng, tưởng tán vì đối trị. Vì dứt trừ tham xúc giác mịn màng, nên tu tưởng hài cốt, tưởng bộ xương. Vì đối trị tham thừa sự, cho nên tu vô tâm thức, tưởng thây chết không có. Lại tất cả tưởng này, từ tưởng xanh bầm, cho đến quán tưởng không, phải biết đều thuộc về tưởng bất tịnh.

Chín quán tưởng này đều là sự khác nhau trong quán bất tịnh, được chia ra chín thứ quán. Lại, tu từ trong đây rất cùng cực cho đến Biến tịnh v.v… cho đến “Nên biết rằng tướng kia”: Đây là giải thích văn trước, vô gián câu hành, so sánh nêu từ v.v… cũng thế.

Đoạn lớn, thứ sáu, giải thích về tám chi Thánh đạo, có một bài tụng nêu bốn môn:

  1. Sức trong ngoài.
  2. Sự khác nhau của thanh tịnh.
  3. Môn khác.
  4. Sa-môn, Bà-la-môn.

Trước là giải thích về sức trong ngoài, tu tám Thánh đạo, do sức trong ngoài, sức ngoài chiếm đa số. Nhưng sức của thiện tri thức rất thù thắng, do đó nên gọi là “Nghe âm từ người khác”. Sức trong chiếm đa số, vì năng lực chánh tư duy rất thù thắng. Do đây nên gọi là chánh tư duy bên trong. Do hai nhân này, chánh kiến được quả Thánh.

Thứ hai, giải thích về sự khác nhau của thanh tịnh.

Bảy thứ định đủ: Xét y theo văn trước.

Có chỗ giải thích: “Trừ chánh định, chi bảy đạo còn lại, gọi là bảy định đủ”.

Thứ ba, là giải thích môn “khác” tức các danh từ khác nhau của tám Thánh đạo, gọi là môn khác. Vì hợp với chánh lý nên gọi là Pháp, chứng lý chỉ có pháp, vì vô nhân vô ngã, nên gọi là pháp.

Thứ tư, giải thích Sa-môn, Bà-la-môn. Trước giải thích Sa-môn. Sau, so sánh giải thích Bà-la-môn.

Trong phần trước: 1/ Tánh Sa-môn, nghĩa là trong khéo nói pháp Tỳ-nại-da, giả gọi là xuất gia, thọ tánh Sa-môn; 2/ Sa-môn tức tám chi Thánh đạo thuộc về vô ngại, là thể của Sa-môn; 3/ Nghĩa là sa-môn, thôi dứt được các việc ác là nghĩa Sa-môn, vì cho nên luận này nói: “Lại, người xuất gia theo đuổi mong cầu quả sa-môn này, nghĩa dứt trừ rốt ráo tham, sân, si v.v… Cho nên nói người kia gọi là nghĩa Sa-môn.

4- Quả Sa-môn tức hai quả: Trí, Đoạn.

Đoạn lớn thứ bảy, giải thích thôi dứt niệm thứ tám, có một bài tụng nêu tám môn:

  1. Chướng Tùy “hoặc” Tầm v.v…
  2. Quả.
  3. Dục.
  4. Tế.
  5. Thân mệt nhọc.
  6. Học trụ.
  7. Tác ý.
  8. Trí vô chấp.

Đầu tiên, giải thích chướng mười sáu hành tuỳ “Hoặc” như tầm v.v…

1/ Quán hơi thở dài.

2/ Quán hơi thở ngắn v.v… (Như quyển bảy mươi bảy trước đã nói).

Thứ hai, là giải thích quả. Nói sáu kiết là: 1- Kiết phần dưới; 2- Kiết phần trên; 3- Kiết dứt trừ; 4- Tu dứt trừ; – Hoặc khởi, nghĩa là khởi phiền não trong trung ấm. 6- Nếu sinh nghĩa là phiền não sinh trong Sinh ấm. Như thế dùng riêng có sáu Kiết. Như thứ lớp của kiết đó, kiến lập các quả thắng lợi của hai thứ, bốn thứ, bảy thứ, nghĩa là dứt trừ năm kiết phần dưới, lập quả Bất Hoàn. Dứt trừ năm kiết phần trên, lập Ala-hán, cho nên nói lập hai quả. Nếu dứt trừ hết kiến hoặc, lập Sơ quả, dứt trừ hết tu hoặc, lập ba quả sau, nên nói lập bốn quả. Tong Trung ấm, lập ba Na-hàm. Nói là Hạ, trung, thượng. Sinh ấm lập bốn Na-hàm, nghĩa là hành của sinh hữu, không có hành. Vì thượng lưu (dòng chảy trên) nên lập bảy.

Thứ ba, là giải thích về dục. Luận sư Cảnh nói: “Tu tập hơi thở ra vào có hai: Có trên, không có trên. Từ “có” ở trên tu muốn cầu vô thượng, hoặc vì “dục”. Luận sư Đạt nói “Trong văn này không thấy có chữ Dục, nhưng ở đoạn văn sau cuối nói Ái, giận dữ, tức là dục cũ.

Trong tụng chung có kèm chữ Dục.

Thứ tư, là giải thích Tế như văn.

Thứ năm, là giải thích thân nhọc nhằn, tuệ nhãn không có nhọc, vì khéo trừ tùy phiền não của Tỳ-bát-xá-na.

Thứ sáu, là giải thích học Trụ (tìm đọc văn sẽ biết).

Thứ bảy, là giải thích bốn pháp như thân tác ý v.v…, như bốn đại lộ: Thân, Thọ, Tâm. Pháp, là Trí, Tuệ đồng quán của các Hiền, Thánh, gọi là bốn đại lộ.

Thứ tám, giải thích về Trí không có chấp. Lại nữa “Tinh tấn, siêng năng cho đến “Chủng loại của thân này có thể chấp thân”, nghĩa là tu bốn niệm trụ, biết không có ngã, “năng quán” (chủ thể quán), “sở quán” (đối tượng quán) đều là chủng loại của nhân, nên nói lại là bình đẳng: chủng loại của thân này có thể lấy, bỏ thân, như tác ý vô ngã của thân cũng thế, nghĩa là quán thân vô ngã. Trí vô ngã tức là một phần của thân. Tác ý như lý “duyên” thân mà khởi, cũng là một phần của thân, tức là lấy pháp quán pháp.

“Là nói ngoại đạo kia cho đến “đều không thật có” nghĩa là nếu có thần ngã có thể tu thân niệm trụ thì đều không thật có.

“Như thân niệm trụ v.v… trở xuống, so sánh ba niệm trụ còn lại.

Đoạn lớn thứ tám, là giải thích về Học thứ chín. Có một bài tụng nêu năm môn:

  1. Tôn trọng Thi-la.
  2. Giới thanh tịnh viên mãn.
  3. Hiện hành.
  4. Thắng lợi của Học.
  5. Sự khác nhau của Học.

Môn đầu là giải thích tôn trọng Thi-la. Nói hai hạnh như thế, được chia làm bốn thứ, tức bốn thứ này hợp thành hai hạnh. Hai hạnh này và bốn bình đẳng, bình đẳng: Có khả năng có ba, nghĩa là khả năng sinh ba Học, hoặc Hạ, trung, thượng, tức là người chánh hạnh. Không thể chỉ một, tức người tà hạnh, nên thành bốn thứ.

Thứ hai, là giải thích về giới thanh tịnh viên mãn.

Đầu tiên lìa tội tánh. Nếu giới tịnh mãn, giữ kín căn môn thì gọi là pháp thiện mãn. Xa lìa tội giá, gọi là biệt giải thoát mãn. Lại, dưới đây, giải thích lại, dựa vào giới mà bậc Thánh đã yêu, gọi là tịnh giới mãn. Khéo léo dựa vào uẩn v.v… gọi là pháp thiện mãn. Dựa vào Luật nghi Biệt giải thoát, thọ trì (nhớ nhắc) giới sở hữu của thế tục, gọi là Biệt giải thoát mãn.

Thứ ba, là giải thích hiện hành. Luận sư Cảnh nói:

“1- thọ trì chẳng thuộc về “chỉ” v.v… là giới Tác trì”.

2- Thọ trì thuộc về “chỉ”: nghĩa là “giới chỉ trì”.

“Ở đây lại hai thứ trở xuống: là “Phân biệt Chỉ trì”.

Lại, có hai thuyết này, nghĩa là hoặc có Tỳ-nại-da này đã nói, chứ chẳng phải Biệt giải thoát đã nói: Luật rộng của năm bộ, chẳng phải một quyển giới bản Biệt Giải thoát. Hoặc có khi là thuyết của Tỳ-nạida này đã nói, cũng là thuyết-mà Biệt giải thoát đã nói. Đây tức y cứ ở Bản rộng của năm bộ kia, gồm có một quyển giới Biệt giải thoát, tức là câu “Đều cùng có”.

Cho nên, tất cả đều có ba chỗ:

  1. Hiện hành tăng thượng: Tức tác trì.
  2. Tỳ-nại-da tăng thượng: Luật rộng của năm bộ.

Biệt giải thoát tăng thượng: Một quyển giới bản.

Luận sư Đạt nói: “Chẳng phải sở nhiếp thọ, nghĩa là giới Biệt giải thoát. “Chỉ” đã nhiếp thọ, nghĩa là định cộng giới.

4. Thắng lợi của Học rất dễ hiểu.

5. Sự khác nhau của Học.

Bốn Thánh đế, cho đến bốn pháp như tích v.v… đều có thể tánh của Thánh trụ. Nhưng theo văn ở trước nói” ba Môn giải thoát và diệt định, gọi là thánh trụ”, đây là lời nói lý cùng tận của văn.

Đoạn lớn thứ chín, giải thích xong.

Thứ mười, là chứng tịnh, có một bài tụng nêu năm môn:

  1. Chứng tịnh, an lập đầu tiên.
  2. Có đổi khác là trước.
  3. Đường trời.
  4. Dụ cho gương sáng.
  5. Ghi nhận riêng.

Đầu tiên, giải thích về chứng tịnh, an lập đầu tiên. Lược do hai pháp năng vào Chánh nhiếp thọ, vì tánh chứng tịnh, nên kiến lập bốn thứ, nghĩa là nhiếp tín, giới: Thể của bốn chứng tịnh không gì ngoài tín, giới. Đối với chủ thể thuyết, là tin Phật. Đối với nghĩa Sa-môn, nghĩa là tin pháp. Đối với pháp đồng đẳng, nghĩa là tin Tăng. Đối với chủ thể chứng đắc Sa-môn, người giúp đỡ đã có tịnh tín, là tín tăng. Căn bản vững chắc, sâu sắc, ở trong sự sinh khác, cũng không thể dẫn phát, vì không có lừa dối, gọi là tánh chứng tịnh.

Giải thích chung, “Đối với cảnh của Tam bảo, sinh tín không hư hoại và tịnh Thi la”, trở xuống, là nói về tịnh giới kia.

Thứ hai, là giải thích có đổi thay khác, rất dễ hiểu.

Thứ ba, là giải thích về đường của cõi trời. Bốn thư chứng tịnh với tịnh thiên của nghĩa thứ nhất là con đường. Lại, các đệ tử bậc Thánh là chỗ nương tựa trong bốn chứng, dựa vào ba thứ môn, tu sáu tùy niệm:

  1. Vì dứt trừ tùy phiền não của phẩm Định.
  2. Vì dứt trừ phiền não của phẩm Trí.
  3. Vì dứt trừ sẽ có thể sinh khởi hai tùy phiền não, dựa vào ba thứ này tu sáu tùy niệm, nghĩa là Phật, Pháp, Tăng, Giới, Thí, thiên.

“Do đế lý thế tục mà được tùy niệm, gọi là Pháp uy dũng”, nghĩa là do dựa vào giáo pháp mà được tùy niệm, gọi là pháp uy dũng.

Thứ tư, là giải thích về thí dụ gương soi sáng, rất dễ hiểu.

Thứ năm, là giải thích về thọ ký. Luận sư Cảnh nói: “Có thành tựu bốn thứ chứng tịnh của mình, thọ ký cho người riêng v.v… nghĩa là khi lấy quả đầu, Bồ-đề như Noãn v.v… trong phương tiện trước của kiến đạo, chỉ quán đế lý, không thực hành quán sự, vì “duyên” sáu niệm v.v… nên khi đắc quả, như sở duyên của phương tiện trước đều chứng, nghĩa là khổ khác không thề làm cho vui v.v… chứng kiến bốn đế, tức là thể của Tam Bảo, rốt ráo tối thượng. Đã tự chứng rồi, lại thọ ký cho người, không thể dẫn phát thay đổi, không được dựa vào địa vị tu trên, vì giữ giới, nên không có an năn, cho đến được định. Nếu đối với địa vị trên, cho đến đối với các vị trời kia vì chưa hiện trông thấy, nghĩa là lấy thời gian của quả thứ hai, chung cho thế gian, xuất thế gian trong đạo Phương tiện. Một thứ phương tiện tạo nên năm niệm trong Tục đạo, trừ niệm Thiên, vì lìa dục không có Thiên nhãn kia, vì không thấy thiên, nghĩa bậc nhất vô lậu của cõi Sắc, nên không niệm thiên. Về sau, khi chứng quả thứ hai, chứng kiến sở duyên trong đạo Phương tiện là thọ ký riêng cho người. Giới trong năm niệm là giới vô lậu. Xả tức là vô tham, khi đắc quả chứng Tam Bảo, cũng thế (văn còn lại rất dễ hiểu).

“Nếu đối với địa vị trên v.v… trở xuống, là nói thực hành phương tiện Na- hàm, tức thành đủ sáu Niệm ở trong đạo thế tục. Vì dựa vào thiền căn bản, được thiên nhãn, hiện thấy các vị trời, nên mới có niệm thiên. Khi đắc quả tự chứng, thọ ký cho người riêng. Quả A-la-hán chỉ có đạo xuất thế mới có thể thú chứng, tất cả tùy niệm, chỉ là thế gian, nghĩa là dứt trừ “hoặc’ của Phi tưởng, chỉ đạo vô lậu, không tạo ra sáu niệm, nên khi đắc quả chỉ chứng sinh tận, thọ ký cho người, cho nên, quả Bất Hoàn trở lên, không có tùy niệm thọ ký như thế,”

Hỏi: “Hai quả đầu, sau, là chứng thấy bốn Đế, tức thấy thể của Tam Bảo. Giới vô lậu, là gốc lành vô tham, vô lậu đều là đạo Đế. Chứng đạo Đế xong, tức là chứng sáu niệm. Vì sao không tự chứng sáu niệm, không thọ ký cho người khác.

Giải thích “Nếu lúc vận dụng phương tiện, nếu khi “duyên” sáu Niệm được chứng quả, thì sẽ thọ ký cho người. Nếu khi dùng phương tiện không duyên được quả, thì không gọi là thuận với phương tiện gốc, mà chứng, vì thọ ký cho người. Lại, bốn chứng tịnh chỉ nói là tịnh v.v… trong quả Dự Lưu. Người của bốn quả dù đồng được bốn tịnh, nhưng tên gọi là, thời gian và tướng khác nhau, như văn.”

Luận sư Đạt lại giải thích: “Người Sơ quả chỉ dựa vào mình đã chứng bốn Bất hoại tịnh. Vì người khác giảng nói tùy niệm Phật v.v… không dựa vào địa vị Chỉ. Quả Nhất. Lại có thể thuận, có thể vui mừng đối với năm thứ tùy niệm, trừ niệm thiên, chưa được thanh tịnh năm Nahàm Thiên v.v… Bậc thánh thanh tịnh trong đây gọi là thiên, chứ chẳng phải là đầy đủ thiên. Quả Bất Hoàn sanh sáu Niệm, đã được thấy năm tầng trời Na-hàm.

“Quả A-la-hán v.v… trở xuống, là giải thích về ngăn ngừa vấn nạn của người khác. Người khác nói: “Vì sao La-hán không có sáu Niệm ư?”

Giải thích: “Quả này hoàn toàn là đạo Vô lậu đã được sáu niệm, chỉ là thế gian.”

“Như thế. Lược dẫn trở xuống, là đoạn văn lớn thứ ba, kết khuyên giác biết rõ.

BẢN LUẬN QUYỂN 99

Là một trong các Sự điều phục, lựa chọn chung. Tiếng Phạm là Tỳ-nại-da, Hán dịch là Diều phục, hàng phục, loại trừ các điều ác, nói là điều phục.gồm thu chung, phân biệt là việc quan trọng của giới luật, nên nói sự điều phục, gồm thu lựa chọn chung. Về văn, có một quyển rưỡi, quyển này ở đầu nên nói là một.

Trong văn, đầu tiên, là trước kết, sau sinh. Kế là, chính là giải thích. Sau kết khuyên giác biết rõ.

Trong phần chánh giải thích, chia làm hai:

  1. Lược nói hứa thừa nhận thuyết.
  2. Nêu tụng, chánh giải thích.

Trong phần trước, nói là tức từ ngoài bốn thứ kinh này, kinh Biệt giải thoát đã có nói rộng Ma-đát-lý-ca, xoay vần truyền đến v.v… Luận sư Cảnh nói: “Ngoài bốn A-hàm, Đức Thế tôn đa nói kinh Biệt Giải thoát, tạo ra hỏi đáp rộng, gọi là Tỳ-nại-da Ma-đát-lý-ca, cho đến phần ít của tướng chung, nay ta sẽ nói.”

Luận sư Đạt nói: “Trước kia đã nói về bốn lựa chọn như lựa chọn hạnh, v.v… gọi là bốn thứ kinh. Trong nêu tụng để giải thích, trước nêu một bài tụng nêu mười một môn: 1- Lợi, 2- Tụ, 3- Nhiếp, 4- Tùy hành, 5- Nghịch, thuận, 6- Hay vắng lặng, 7- Biến tri, 8- Tín, bất tín, 9- Lực.

Trong chữ “Đẳng” có hai lần “Lại nữa”. Dưới đây theo thứ lớp giải thích. Trong giải thích môn đầu, chế mỗi giới đều có nghĩa của mười câu, chỉ như gồm thu, giải thích. Lại như luật Tứ phần quyển một nói: “1- được tăng Nhiếp thủ, 2- Khiến tăng vui mừng, 3- Khiến tăng an vui, 4- Khiến người chưa tin, sẽ tin, – Khiến người đã tin, được tăng trưởng, 6- Người khó điều phục, khiến được điều phục, nhu thuận, – Người hổ thẹn được an vui, 8- Dứt trừ hữu lậu hiện tại, 9- Dứt trừ hữu lậu vị lai, 10- Chánh pháp được tồn tại dài lâu. Nay trong văn này giải thích theo thứ lớp, câu đầu thứ hai, rất dễ hiểu.

Nói tánh của bốn Đại: Phệ-xá, Thú Đa-La v.v…

Câu thứ ba, “Do năm tướng v.v…” trở xuống, là nói chung tức giải thích câu thứ ba kia: “khiến cho tăng được yên vui. Nói riêng, tức là giải thích bảy câu sau:

1. Khiến thuận với đạo, đầy đủ không có túng thiếu, tức giải thích câu thứ tư, thứ năm: “Chưa tin, khiến tin. Người đã tin, khiến được tăng trưởng.

2. “Khiến khai trừ Bổ-đặc-già-la của pháp khác”, tức giải thích câu thứ sáu: Người khó điều phục, khiến được điều phục quy thuận.

3. Khiến khéo loại trừ sinh ra ác tác: Tức giải thích câu thứ bảy: Người hổ thẹn khiến được an vui.

4. Khiến khéo hàng phục các phiền não: Tức giải thích câu thứ tám: Dứt trừ lậu hiện tại.

5.  Khiến khéo dứt hẳn tùy miên phiền não: Tức giải thích câu thứ chín: Dứt trừ lậu vị lai.

Về sau nói: “Như thế đạt được an lạc trụ xong cho đến “Phạm hạnh tồn tại lâu dài”: Tức giải thích chánh pháp tồn tại lâu dài thứ mười.

Lại, “Tất cả câu này v.v…” trở xuống, là lần “Lại nữa” thứ hai, lần “Lại nữa” trước giải thích rộng có mười điều lợi. Trong đây, giải thích sơ lược, nói “Chính là hiển bày nhiếp thọ trước hết”, nghĩa là tóm tắt câu đầu ở trước. Kế chính là nhiếp thọ: Tóm lược câu thứ hai ở trước.

“Đã nhiếp thọ xong, khiến trụ yên vui”: Lược năm tướng trước và chỉ rõ người chưa nhiếp thọ ở vị lai, để nhập phương tiện: Lược đạt được như thế ở trước v.v… trở xuống, giải thích câu thứ mười.

Thứ hai, là giải thích về môn tụ. Văn có ba tiết: Tiết đầu, là nói năm nhóm tội. Kế là, nói về bốn thứ tịnh trở lại. Sau là nói mười lăm thứ phiền não.

Trong phần đầu, nói năm nhóm tội, nghĩa là năm thiên tội:

1. Nhóm tội hơn người kia: Cũng gọi là vượt hơn người khác, tức bốn Ba-La-Di. Luận sư Cảnh nói: “Do người phạm tội này, tức chẳng phải Tỳ-kheo, vì nhóm tịnh kia vượt hơn”.

Nay, giải thích: “Vì ma đã cướp đoạt vượt hơn. Luận Thập tụng nói: “Đọa vào xứ không như ý”. Phái Tát-Bà-Đa giải thích: “Do chiến đấu với ma. Vì người phạm giới này, thì rơi vào chỗ thua thiệt.”

2. Nhóm tội của chúng khác: Tức mười ba tăng tàn. Luận sư Đạt nói: “Nếu người phạm giới này, sẽ đuổi ra ở ngoài chúng để sám hối, nên nói “chúng khác”. Nay, xét Tỳ-ni-mẫu nói: “Như người bị người khác chém, chỉ còn cuống họng chưa đứt, nên gọi là “tàn”. Bà-sa nói: “Nếu phạm tội này, vết nhơ ràng buộc người tu hành, chẳng phải hoàn toàn tịnh, vì dùng tăng có tội “tàn”, vì tăng trừ diệt.

3. Nhóm tội hao hụt, rơi rớt: tức ba mươi, chín mươi tội ba-dật-đề. Luật Thập Tụng nói: ‘Đọa vào địa ngục che lấp, nung đốt.

4. Nhóm tội ăn năn riêng: “Tức bốn Đề-xá-ni. Luật sư Đạo Tuyên dịch là “Hướng Bỉ hối.

5. Nhóm tội ác tác: Đột-cát-la. Luận sư Cảnh nói: “Trong ác tác này tức gồm thu ác thuyết, là pháp chúng học.

Tứ phần giới bản nói: “Thức-Xoa-ca-la-ni, hán dịch là Ưng đương học. Nhóm họp thô không nhất định, như nên nhập các tội trong chúng”.

Pháp sư Thái nói: “Người khác vượt hơn chúng khác là tội ba-dậtđề. Thâu-lan là thô. Tội phương tiện có thể tập khởi, nên nói là “Tập thô”.

Luật Thiện Kiến nói: “Thâu-lan, gọi là Đại già (ngăn che lớn), ý nói che lấp đạo thiện. Về sau sẽ rơi vào đường ác, thể là ô uế lẫn lộn. Từ thể bất thiện để đặt tên, nghĩa là do có thể thành tội của hai thiên: Một, hai. Luật Sư Đạo Tuyên nói: “Với cảnh gửi gắm của hai pháp bất tịnh, dùng lời nói giải thích chung sáu nhóm. Nếu luận về thể của tội, sinh nghi, không tin, là Đột-cát-la. “Che lấp ba tội, hai tội trong văn luật”, lược nêu sự sinh nghi.

Kế là, nói về bốn thứ tịnh trở lại: Nói nhóm tội trước nhất dù có thể thanh tịnh trở lại, nhưng chỉ dựa vào hai người đồng có. Luận sư Cảnh nói: “ “Tu-Đề-Na tử hành dục với vợ cũ. Lại ở trong rừng, có Tỳkheo khất thực hành dục với con vượn cái. Nhân chuyện này Đức Phật mới chế giới, cho đến cùng với súc sinh, phạm Ba-la-di, chế giới trọng lần đầu.”

Sau cuối, là nói “Không phạm”, nghĩa là đầu tiên chưa chế giới, với bệnh rối loạn của tâm cuồng si, bị triền phiền não ràng buộc, nên nói tịnh trở lại của nhóm ban đầu, nghĩa là chỉ có hai người.

Luận sư Đạt nói: “1/ Người vi phạm trước khi chưa chế giới. 2/ Trái phạm mà biết ăn năn. Dưới đây, là nói về lỗi lầm của mười lăm thứ phạm tội. Nói các Bí-sô đối với lỗi lầm của mười lăm thứ phạm tội này, hoặc tùy trái phạm nhiều hoặc một. Trong văn nêu số, nêu danh, giải thích theo thứ lớp.

Nói “hoặc trừ lúc khác, cùng đi đường chung với các ấp mẩu, trừ khi có nhân “Duyên”. Là mạng nạn, phạm hạnh nạn.

Nói “Hoặc không xem mặt trời v.v… ”, nghĩa là đi vào thôn xóm phi thời, không nói với Tỳ-kheo khác.

Thứ ba, là giải thích về nhiếp, 1- Chia ra, năm pháp gồm nhiếp Tỳ-ni. 2- Gạn hỏi, giải thích riêng. Giải thích về văn trong môn hành thứ năm kia, được chia làm ba: 1/ Nêu liệt kê ba hạnh, 2/ Lược gồm thu hai, 3/ Theo thứ lớp, giải thích riêng ba hạnh.

Nói “Hoặc đối với người kia, hoặc hình dáng v.v… của con người”, nghĩa là dựa vào luật Ngũ phần, hoặc là con người, giống như con người, nghĩa là vào thai bốn mươi chín ngày, quá ngày này về sau, đều gọi là con người”. Luật Ngũ phần kia nói giống như người, tức là hình dáng con người trong đây.

Nói “Điều đã nên làm trong đây, đại khái có năm thứ v.v…”:

1. Ở thôn ấp; 2. Ở đạo tràng; 3. Ở phẩm thiện; 4. Lại, việc nên làm đối với thành ấp; 5. Hoặc vì người chưa tin, làm cho tin, người đã tin, khiến được tăng trưởng, nhập vào thôn xóm. Trái với đây, nghĩa là rõ ràng trái vói việc không nên làm, rất dễ hiểu.

Trong ba môn, nói chung là giải thích thứ nhất, có phạm rồi. Không có vi phạm, thì thanh tịnh trở lại (Như văn rất dễ hiểu).

Thứ tư, là giải thích tùy hành, trước, là nêu lên năm môn, sau, là gạn hỏi, giải thích riêng. Hai mươi hai xứ, nghĩa là quyển hai mươi ở trước nói: “Đối với bốn xứ, sở dĩ hai mươi hai xứ tương ưng với khéo quán sát, nghĩa là tự thề thọ hình tướng thấp kém, oai nghi đầy đủ. Cho đến nói rộng hạ, trung, thượng tọa. Luận Tỳ-ni mẩu rằng: “Từ không có hạ đến chín hạ, là hạ tọa. Mười hạ đến mười chín hạ, gọi là trung tọa. Hai mươi hạ đến bốn mươi chín hạ, gọi là thượng tọa. Từ năm mươi hạ trở lên, được tất cả Sa-môn, Quốc vương tôn kính, là trưởng giả kỳ cựu. Chỗ ở của Bí-sô ni có ba thứ như trước đã nói, tức Hạ, trung, thượng.”

Ba-Luân-Bát-Đa, Pháp sư Thái nói: “Hán dịch Xúc ái, tức nhà ngoại đạo yêu súc sinh”.

Luận sư Trắc nói: “Hán dịch là Ngưu chủ, hoặc thú chủ, chỗ ở tạp nhiễm, tất cả Yết-ma đều không lập bày, vì không có kiết giới. Hoặc chỉ lập bày một phần yết-ma, nghĩa là ở chỗ này làm yết-ma kiết giới. Ngoài ra, như trước đã nói. Ba thứ nhân duyên: 1- Khi có tai nạn. 2- Lúc đi đường. 3- Khi hóa độ chúng, nghĩa là tất cả Yết-ma, đại khái có bốn thứ v.v… Luận sư Cảnh nói: “ 1- Yết-ma Bạch đơn có hai thứ:

1- Có nhân, nghĩa là khi nói giới. Đại đức tăng nghe! Nay ngày rằm trăng tròn, Bồ-tát nói giới v.v…

2- Không có nhân, như nói: “Đại đức tăng xin lắng nghe! Nếu thời gian của tăng đã đến, tăng bằng lòng nghe. Tăng sai Tỳ-Kheo A làm giáo thọ sư bạch như thế, vì nói không có trăng sáng, tháng tối trời v.v… gọi là không có nhân.

2. Yết-ma Bạch nhị. Một lần bạch, một lần Yết-ma với ngày giờ như thế, gọi là bạch hai.

3. Bạch Tứ Yết-ma, nghĩa là thọ giới cụ túc v.v…

4. Yết-ma ba lần nói: Như khi nói giới, chỉ có ba người, không rộng nói giới, chỉ đối thú nói rằng. “Đại đức tăng xin lắng nghe! Tôi,

Tỳ-kheo (pháp danh là v.v…) đối với giới thanh tịnh v.v… nói ba lần như thế, gọi yết-ma ba lần nói. Yết-ma là sự giải thích kia, gọi chung là yết-ma.

Có chỗ giải thích; “Yết-ma ba lần nói, nghĩa là ba thuyết đối thủ, như thọ y v.v…

Yết-ma xuất gia: Như khi có người tục muốn xuất gia thì phải hợp chúng thưa bạch. Sau đó, cạo tóc cho họ v.v… e rằng cha mẹ họ sẽ không cho, hoặc là giặc, tôi tớ và người làm quan v.v… Sau khi chúng bằng lòng xong, mới nói ba quy, thọ mười giới, hoặc thọ giới cụ túc, rất dễ hiểu.

Nếu Bổ-đặc-già-la đồng ý: Luận sư Cảnh nói: “Hễ muốn làm việc thì hòa chúng đồng ý, gọi là yết-ma đồng ý.”

Lại, có giải thích: “Hoặc ở suốt sáu đêm v.v… là Yết-ma chiết phục người tội, hoặc người xuất tội, nếu là người vi phạm tăng tàn, thì cần phải tác bạch Yết-ma trong hai mươi vị tăng,nhằm nêu ra tội. Nếu người nêu tội, nghĩa là sự ba lần nêu. Nếu có người tà ác không bỏ, không thấy tội, không sám hối, thì chúng làm yết-ma, khai trừ người này, không đồng với sự tăng, gọi là cử Yết-ma gồm năm người có đức làm người nêu tội. Hoặc nêu năm đức để làm người tự tứ.

Nếu Yết-ma tẩn xuất, nghĩa là nếu là người phạm tội trọng rốt ráo, thì phải đuổi khỏi chúng. Nếu là kẻ đã hành động xấu ác, làm nhơ nhà người, thì phải đuổi ra khỏi thôn xóm.

Y Yết-Chỉ-Na: Xưa nói là Y Ca-Hi-Na, Trung văn dịch là công đức Y.

Tịnh lúa nếp, Yết-ma đồng ý: Kiết tịnh địa.

Lại giải thích: “Tịnh địa gồm có mười bảy thứ các việc như lúa v.v… luật như sớ nói. Yết-ma này, hoặc có hai chúng làm. Nghĩa là hai người đối thủ sám hối Đột-cát-la, nói ba lần. Hoặc Vẫn Trụy, nghĩa là hối-Ba Dật-Đề, hoặc tội Ác tác v.v… tức Đẳng thủ ác thuyết Đột-cát-la. Hoặc bốn chúng làm, chẳng hạn như người phạm tội thô, phải đối trước bốn người, phát lộ sám hối, trừ yết-ma. Như tôi Thâu lan, sám hối trước bốn vị v.v…. Bốn người vì làm yết-ma.

Mười chúng làm, nghĩa là Yết-ma v.v… thọ giới cụ túc. Hai mươi chúng: Nêu ra tội tăng tàn. Và Ni thọ cụ giới, cần phải bốn mươi vị làm. Nêu tội tăng tàn của ni, phải hòa chúng mà làm tạo ra, nói là Yết-ma tăng trưởng, nghĩa là khi nói giới hoặc tha hồ nêu là: Tự tứ.

Thứ năm, giải thích về nghịch, thuận: 1/ Là nêu, hai chương; 2/ Dựa vào chương, giải thích riêng. Trước, giải thích về pháp học trái ngược. Sau, là giải thích pháp Thuận theo học.

Trong phần trước có ba: Đầu tiên, là gạn hỏi, nêu lên năm môn. Kế là, giải thích, sau, là kết.

Trong phần giải thích có năm: Đầu tiên, trong giải thích, gạn hỏi, nêu chướng của năm môn: giải thích theo thứ lớp:

Nói: “Hoặc là tôi tớ: Vốn là tôi tớ. Hoặc là đạt được, nghĩa là cướp lấy được. “Hoặc có lời nói cho đến mà tương ưng với”, nghĩa là nói rộng, ngăn ngừa vấn nạn. “Như mười một chướng trong luật kia”, nghĩa là như Bản Địa Phần đã nói.

Thứ hai, là trong giải thích tương tự chánh pháp, trước lược, sau rộng. Trong phần rộng, bài tụng liêt kê bốn môn.

Trong giải thích của Văn xuôi, đầu tiên, là năm lần “Lại nữa”, giải thích câu đầu của bài tụng. Kế là có mười lượt. Giải thích về câu thứ hai. Một câu là căn, chín câu là kiến. Kế là, có bảy lượt giải thích về phi xứ, ác tác v.v… Sau, có năm lượt giải thích về giới bạo ác v.v…sau.

Thứ ba, là giải thích về bạn xấu ác.

Thứ tư, là giải thích về sự hưng thịnh của phiền não ngu độn.

Thứ năm, là tư lương của đời trước, sức chúng rất mỏng, yếu, đồng thời cách hành văn rất dễ hiểu.

“Trái với đây trở xuống v.v…, trái với trước, tức giải thích về năm pháp thuận học thành tựu.

Pháp thuận theo như thế, lại có năm pháp ngăn ngừa giới uẩn.

Thứ sáu, là giải thích về năng vắng lặng, trước là nêu, năm thứ, sau, là giải thích theo thứ lớp, trước lược, sau rộng.

Trong lược giải thích, nói sáu thứ pháp lạc đáng yêu, tức sáu hòa kính. Những gì là đoạn? Nghĩa là các người, trời đã có bốn luân: Đều có bốn luân trong người, trời, diệt hết tám nạn. Văn sau sẽ nói.

“Phải biết rằng, trong đây v.v… trở xuống, là thứ hai, trong giải thích rộng, tức chia làm năm: Đầu tiên, có thể dể dàng ở chung. Nói “Do dựa vào thân hiện hành đồng với phạm hạnh phi ái”, nghĩa là trái với ba nghiệp này. Sẽ giải thích về sáu Hòa, trước giải thích bất hòa. Lại đối với tăng kỳ có chung tài vật, thọ dụng bất bình đẳng, nghĩa là nói về bố thí không đồng. Lại, “Có giới kiến v.v…”, nói về giới kiến không đồng.

“Trái với giới kiến bất đồng này v.v…” trở xuống, là bày rõ sáu hòa:

Thứ nhất lập ba, tức ba nghiệp, thứ hai là lập bốn bố thí đồng, thứ ba lập năm, sáu, nghĩa là đồng giới, kiến.

Lại, “ở trong đây cho đến “Nếu bạn hiền thiện là ba nghiệp đồng, lập thứ tư, là thí đồng.

“Nếu vật có thể khiến cho đến gọi là thọ dụng bình đẳng”, nghĩa là thọ dụng đồng.

“Giới mà bậc Thánh đã thọ v.v… ” trở xuống, là giải thích về nhân của giới.

“Chánh kiến xuất thế v.v… ” trở xuống, là nói về nhân của kiến.

Lại, “do hai tướng thành tánh v.v… đáng ưa”, nghĩa là giải thích chung sáu hòa là pháp đáng ưa có một thể, nghĩa là sáu hòa kia có đức có thể gánh vác trọng trách. Sáu hòa kia có ơn mà tự ý an ủi, nghĩa là do được sáu hòa, vì tự yên, yên ổn cho người, nên gọi là có ơn.

Lại, “tánh đáng ưa có hai khác nhau v.v… là do đáng yêu, nên chưa sinh khiến sinh, đã sinh khiến tăng trưởng”, Nên biết rằng, tôn trọng tăng thượng trong đây cho đến hai nhiếp của pháp, nghĩa là thí đồng tức là nhiếp của Năm thứ khác đồng, tức là nhiếp pháp.

“Hai tăng thượng kia trở xuống v.v…, là giải thích danh khác nhau”.

Thứ hai, là giải thích về đoạn, tức là bốn luân hết tám nạn.

“Năm thứ xứ của sức đã trụ tốt đẹp, gọi là nơi chốn viên mãn”, nghĩa là nên xét lại văn trước. Luận sư Cảnh nói: “Ở trong Trời, Người đều có xứ tốt lành, nghĩa là lìa ba đường Bắc Uất Đơn, trời Vô tưởng, tức lìa năm thứ được tốt đẹp, nên gọi là năm nơi ở tốt đẹp, gọi là xứ viên mãn. Cũng có thể sinh ở trung quốc, có năm cảnh mầu nhiệm, gọi là năm nơi ở tốt đẹp.

“Chánh sĩ bạn lành trở xuống v.v…, là nói ở người, trời, đều gặp người thiện, nghĩa là Phật, Bồ-tát, do năm thứ tướng tự phát chánh nguyện v.v… trở xuống, là nói chánh nguyện viên mãn lìa nạn tà kiến của thế trì biện thông cho đến bốn hạng Bí-sô ưa dứt trừ, ưa tu, đối trị ái thủ”, nghĩa là thực hành bốn hạt giống Thánh. Lại “Phước đã tạo đời trước trở xuống v.v…, là nói về tư lương viên mãn, lìa nạn các căn không đủ v.v…

“Bốn thứ như thế cho đến chiếc xe kia không chạy”, nghĩa là như sinh trong cõi người, cũng nói là lìa ba nơi là ba đường, trời Vô tưởng và trời Trường Thọ v.v…

Vì sao trở ngại sinh lên cõi trời, cũng nói là được lìa trời vô tưởng và ba đường, gọi là xứ viên mãn? Ba luân còn lại, sẽ gặp người thiện tự phát chánh nguyện, tư lương viên mãn, người, trời đều có. Dựa vào bốn thứ bánh xe chỉ có quán này mới có thể quay được.

Thứ ba, là giải thích về năm chi đoạn, nên tín hiểu sâu sắc về nghĩa đã được là một.

  1. Đối với Sư trưởng, trước, bạch như thật rõ ràng.
  2. Thân có có mạnh.
  3. Tâm có sức mạnh.
  4. Khả năng có thể lãnh thọ, hiểu biết v.v…

Thứ tư, là giải thích về sự kỉnh có bảy câu. Luận sư Cảnh nói: “Lại, đối với trước nhất v.v… trở xuống, là nói về kính Phật, kế là nên kính pháp do người ấy nói, đây là pháp kỉnh thứ hai. Kế là, khi tu tập pháp tùy pháp hạnh. Là Thứ ba, kính tăng.

Dưới đây, kính hạnh ba học, tức lấy ba, cộng với trước là sáu. “Đối với mỗi lúc trở xuống, là dùng tài pháp phát ra sự thể của năng kính, kế là đối với “Ở tĩnh lự v.v… trở xuống, thứ bảy, cung kính, phụng sự Niết-bàn lậu tận của chân đế.

Lại, do ba tướng nên rằng, cung kính, phụng sự v.v… Là lược nói cung kính, phụng sự, chia làm ba:

  1. Thể, người kia có đức, khởi tôn trọng.
  2. Tùy sở thể, đều dùng thân v.v… cung kính.
  3. Lại, lập phướn lọng để cúng dường.

Luận sư Đạt nói: “Có khả năng giảng nói cho đến giáo pháp” là một. Kế là nên cung kính thờ phụng pháp đã nói kia là hai. “Dùng tu tập cho đến “Học xứ” là ba. Kế là, “Nên cung kính, thờ phụng cho đến “Giáo thọ” là bốn, “Trong mỗi thời gian cho đến “Đồng thọ dụng”, là năm, Kế là tĩnh lự, tu Tam-ma-địa là sáu. “Từ vô gián này cho đến “không buông lung” là bảy.

Thứ năm, là giải thích vắng lặng. Trước, là theo thứ lớp giải thích bảy Tỳ-ni, sau, là bốn tránh, bốn diệt đối nhau để nói.

Trong phần trước, “Có các người đồng phạm hạnh cho đến “tức được diệt trừ, là giải thích hiện tiền Tỳ-ni thứ nhất.

“Có các Bí-sô thấy Bí-sô khác trở xuống v.v…, là nói về ức niệm Tỳ-ni thứ hai kia.

“Lại, có Bí-sô do điên cuồng nên, trở xuống v.v…, là nói Bất si Tỳ-ni thứ ba.

“Lại có Bí-sô ở trong chúng Tăng trở xuống v.v…, là thứ tư, Tự ngôn Tỳ-ni.

“Có số đông Bí-sô của trú xứ khác trở xuống v.v…, là thứ năm, Đa nhân ngữ Tỳ-ni.

“Lại có Bí-sô đã phạm tội trở xuống v.v…, là nói về nơi chốn thứ sáu.

“Có nhiều Bí-sô nêu tội lẫn nhau trở xuống, là nói về Thảo phú địa Tỳ-ni.

Sự tranh cãi như thế, lược có bốn thứ trở xuống v.v…, là bốn tránh, bốn diệt đối nhau để nói. Thuật lại có hai nghĩa:

1/ “Bốn tránh trong đây, tức là bốn thứ như tranh v.v… trong luật.

Theo Luật Sư Trí Thủ thuật Tứ Phần sớ rằng: “Thuốc, bệnh trị nhau, có hai lượt:

Thứ nhất, thuốc tự tạo ra của bốn Tỳ-ni nghĩ diệt, hai phẩm trung hạ, lại tạo ra một lượt. Thứ hai trở xuống là ba tỳ-ni nghĩ diệt, bốn tránh thượng dươc, lại là một lượt. Hiện tiền trong phẩm trước là lý gốc của các thứ thuốc, cần phải nói trước.

Lời lẽ tranh cãi vì là lời lẽ bắt đầu trong bốn tránh này, nêu cũng nói trước. Thuốc của hai phẩm trung, hạ của lời lẽ tranh cãi, nghĩ diệt hiện tiền, là tìm kiếm tranh cãi thứ hai, là do thứ lớp nói về thuốc của hai phẩm trung, hạ của ức niệm, bất si, diệt, tìm kiếm tranh cãi.

Sự tranh cãi thông dụng, tức dùng thuốc của hai phẩm trung, hạ của bốn nghĩ diệt, sự tranh cãi này.

Kế là, nói về thuốc phẩm thượng của bốn tranh cãi thứ hai.

Nói tranh cãi là điểm bắt đầu của bốn tranh cãi. Nói tranh cãi phẩm thượng, về lý, cần phải diệt trước, là do nói về Tỳ-kheo đa nhân ngữ.

Tìm kiếm tranh cãi y cứ ở hai, là do thứ lớp nói về xứ tội đã nghĩ diệt, tìm kiến thuốc phẩm thượng của tranh cãi. Phạm tranh cãi thứ ba, là do thứ lớp nêu phạm phẩm thượng của nghĩ diệt Thảo phú địa. Lại, dùng phẩm thượng sự tranh cãi của ba nghĩ diệt này.

Nay, trong văn này:

“1- Người khác nêu ra sự tranh cãi, nghĩa là khi người khác nêu ra bình phẩm tường tận phải quấy với lời lẽ tranh cãi kia, đây, nên gọi là lời lẽ tranh cãi, ở đây, tức dùng lời nói của nhiều người và Tỳ-ni hiện tiền, muốn nêu ra định lý đã phạm để trừ diệt, nên nói “mong muốn đề ra điều đã phạm, nhằm trừ diệt.”

2- Sự tranh cãi, ngờ vực lẫn nhau, nghĩa là vì ba căn tìm tội, bèn sinh sự tranh cãi kia, nên gọi là tìm kiếm tranh cãi. Đây là dùng nơi chốn của tội kể cả không si, nhằm gạn hỏi chỗ mà người xem kia phạm. Hoặc dùng sự nhớ nghĩ, tức biết thanh tịnh, để chứng minh rằng người kia không phạm, nên nói “Bố thí thanh tịnh trừ diệt”.

3- Tự nêu ra sự tranh: Tự phê bình lỗi phạm này rồi đâm ra phân vân, nên gọi là phạm tranh cãi. Đây là lấy cỏ che đất và tự nói Tỳ-ni cộng rõ, định rõ. Vì có tội đều sám hối, nên nói “Thừa nhận cầu thật tánh, trừ diệt.”

4- Nêu ra sự tranh cãi lẫn nhau: Nêu ra sự ăn năn lỗi lầm, để luận về Yết-ma, nên gọi là sự tranh cãi. Đây là khi phát lộ lẫn nhau, dùng chung bảy Tỳ-ni để trị, nên nói “Mỗi người đều phát lộ, trừ diệt.”

Nghĩa thứ hai rằng: “Bốn tranh cãi trong đây không thể phối hợp riêng bốn tranh cãi trong luật, chỉ phán quyết bảy pháp trước làm bốn câu, nghĩa là bốn câu đầu”, nếu người khác nêu sự tranh cãi, tức là hiện tiền, ức niệm. Bất si và tư ngôn diệt.

Một câu kế gọi là sự tranh cãi nghĩ định lẫn nhau, tức là “Đa nhân ngữ” diệt.

Một câu kế gọi là tự nêu sự tranh cãi, tức là xứ tội đã diệt. Một câu sau, gọi là nêu ra sự tranh cãi lẫn nhau, tức là Thảo phú địa đã diệt. Cách giải thích sau là hơn.

BẢN LUẬN QUYỂN 100

Dưới đây thứ bảy, trong phần giải thích về sự nhận biết khắp, được chia ra năm môn, giải thích theo thứ lớp: đầu tiên là giải thích về sự biết khắp, nghĩa là năm sự như uẩn v.v… tức duyên khởi của uẩn, giới, xứ, phi xứ. Kế là, “Nói Đẳng vận trong biết khắp tội”.

Có chỗ giải thích: “Y cứ ở một, y cứ ở nhiều chúng sinh, hoặc y cứ nhiều thời gian trái phạm chung, gọi là đẳng vận, vì vận chuyển bình đẳng đều trái phạm”.

Lại, giải thích: “Y cứ ở con người, thời gian không nhất định, vì tội đồng nhau, nên gọi là đẳng vận y cứ. Con người thời gian bất định, đều chế lập riêng, gọi là phi đẳng vận.

Thứ ba, là giải thích về người biết khắp. Như văn, rất dễ hiểu.

Thứ tư, là giải thích về nghĩa lợi dẫn nhiếp, nói là đủ năm chi trong biết khắp:

  1. Chân thật.
  2. Hay dẫn nghĩa lợi.
  3. Thời gian thích hợp.
  4. Có bạn.
  5. Lìa phá tăng.

Thứ năm, là giải thích về biết khắp tổn não. Tìm đọc văn sẽ hiểu.

Thứ tám, là giải thích về tín, bất tín. Trước nói về tín. Sau chỉ rõ trái lại là bất tín.

Trong phần trước chia ra, năm môn, giải thích theo thứ lớp: Bốn văn trước là y cứ địa Thanh văn.

Y cứ tranh cãi trong văn thứ năm, so sánh tướng của văn dưới.

  1. Phẫn, hận.
  2. Phú, kiêu, mạn.
  3. Tham dục hoặc cuống siễm (lừa đảo, nịnh bơ)
  4. Không có tàm, quí, nên phạm giới.
  5. Tán loạn hoặc hôn trầm.
  6. Điệu cử hoặc ác tuệ.

Nếu theo thuyết-ma di nói về căn bản tranh cãi có sáu: 1- Giận dữ, 2- Não hại, 3- Dối trá, 4- Keo kiệt, ghanh tị, – Kiến thủ, 6- biên Kiến, tà kiến.

Thứ chín, là giải thích năm lực, như văn, rất dễ hiểu.

Thứ mười, là giải thích về phẩm loại khác nhau của năm người, tức là lần “Lại nữa” đầu tiên của môn chữ “Đẳng” trong bài tụng.

Thứ mười một, là giải thích về ba thứ tà, hạnh, là lần “Lại nữa” thứ hai trong chữ “Đẳng”.

Bài tựa của Bản mẫu sự, nói về nhiếp: Trên đây, đã nói các thứ phân biệt Ma-đát-lý-ca của hai tạng kinh, luật. Kế đây, sẽ nói về phân biệt pháp tướng Ma-đát-lý-ca của A-tỳ-đạt-ma. Do dựa vào pháp tướng, hỏi đáp phân biệt. Vì các thứ nghĩa văn đều phân biệt pháp tướng đó mà xuất hiện, nên gọi là Bản mẫu. Hoặc tạng Đối pháp sinh ra, yếu nghĩa của hai bài tụng còn lại, nên gọi là sự Bản mẫu. Trước nêu danh tự. Sau, giải thích tên, nói. Do bài tựa này, nói vì gồm thu chung tất cả các pháp, nên gọi là nhiếp. Hoặc vì nghĩa mà bài tựa nói gồm thu trong văn này, nên gọi là tựa.

Trong phần nói về văn gồm thu, đầu tiên, trước kết, sau hỏi. Kế là giải thích. Sau, trong kết giải thích.

1. Nêu chung cương yếu, để làm cho sự giải thích được tường tận.

2. Nêu bài tụng, chính là giải thích, trong phần trước, nói là nếu Tố-đát-lãm Ma-đát-lý-ca, nếu Tỳ-nại-da Ma-đát-lý-ca, lược chung, gọi là một Ma-đát-lý-ca v.v… nghĩa là dù ở hai tạng kinh, luật, nghĩa hỏi, đáp khác, đồng, có sinh ra đạo lý nghĩa văn, nhưng lược chung gọi là một Ma-đát-lý-ca”.

Hỏi: “Hỏi, đáp, phân biệt ở hai tạng trước, tức gồm thu Ma-đát-lýca của Bản mẫu đã hết, vì sao lại nói là Ma-đát-lý-ca thứ ba ư?” Dưới đây Bồ-tát Di-lặc tự giải thích để thông qua vấn nạn trên:

Lại, không có Ma-đát-lý-ca riêng. Nhưng vì đại khái gồm thu nói pháp xen lẫn tạp nhiễm, thanh tịnh của lưu chuyển, hoàn diệt, nên hôm nay, Ta-lại nói phân biệt pháp tướng Ma-đát-lý-ca”.

Trong phần nêu tụng để giải thích, có hai bài tụng. Nửa trên trong bài tụng trước, chính là nói về phương thức giải thích nghĩa. Nửa bài tụng dưới, chính là nói về bài tựa, giải thích trước sau.

Phần Văn xuôi được chia làm hai: Trước, giải thích nửa bài tụng trên, sau, “Đại khái do hai tướng” v.v… trở xuống, giải thích nữa tụng dưới, trong đó có hai lượt giải thích; trước, là nói về sự tịnh, giải thích rộng. Sau, lược nói làm năm việc, giải thích rộng.

Phần trước, đầu tiên, là nói về sự của phẩm tạp nhiễm lưu chuyển, lược nêu hai mươi hai thứ.

Nói “Do lìa dục riêng cõi thiện, đường ác, vì chiêu cảm dẫn thú hướng có khác nhau”, nghĩa là giải thích thành mười thứ.

Có nghĩa: là ‘Do lìa riêng cõi Dục, đường thiện có hai, đường ác có ba là năm. Nghiệp hữu chiêu cảm dẫn chung ba cõi lại làm một. Trung hữu thú hướng chung một, hai cõi dưới, về sau làm hai, thêm vào năm cõi trước thành bảy, chung cho ba cõi trước thành mười.

Nếu bốn được sự tự thể, nghĩa là có được tự thể, tự hại được làm, người khác hại không làm. Hoặc kẻ khác hại được làm, hại tự mình không làm, đều được làm, đều không được làm.

Nếu là sự của bốn pháp thọ:

1/ Hiện tại thọ pháp hữu, thọ vui ở đời đương lai, thọ khổ ở Dị thục.

2/ Thọ pháp hữu ở hiện tại, thọ niềm vui ở đương lai, thọ niềm vui ở Dị thục.

3/ Thọ pháp hữu ở hiện tại, thọ niềm vui ở đương lai, thọ niềm vui ở Dị thục.

4/ pháp hữu thọ hiện tại, thọ khổ ở thời đương lai, thọ khổ Dị thục.

Sự của phẩm thanh tịnh hoàn diệt, nêu mười chín thứ sự.

Nếu là sự của bảy chánh pháp, Luận sư Cảnh nói: “Rằng biết pháp, biết nghĩa, biết thời gian, biết so lường, biết chúng, biết mình biết cao thấp.”

Pháp sư Thái nói: “Sự bảy chánh tác ý, phải cứu xét Thích luận. Việc như thế v.v… nói rộng như trước đã nói trong các địa kia, nghĩa là đã nói trong Bản địa phần và các nhiếp phần, nên biết tướng kia, nghĩa là gồm thâu giải thích, môn khác trong phần nhiếp sự, nên biết tướng đó.

Trong lượt thứ hai, thế nào là dựa vào sự bài tựa đã tóm lược như thế, về sau sẽ nói rộng cho đến bốn phẩm loại khác nhau v.v… Trong bốn môn này, ba môn trước chỉ đồng với thuyết trước, chỉ giải thích về phẩm loại khác nhau.

“Lại có tám thứ v.v… trở xuống, là theo thứ lớp, giải thích riêng từng thứ.

Thật có, nghĩa là tức pháp nhân duyên của tánh y tha là có thật, chẳng phải không.

Quả giả có, cái gọi là trạch diệt, là quả đạo, nên chẳn thể nói không. Nhưng chẳng phải có thật v.v… nghĩa là trong nghĩa Đại thừa, chỉ chân như là thật. Ba vô vi v.v… chỉ giả kiến lập, nghĩa ấy rất dễ hiểu. Lại do bốn thứ khác, không khác nên lập tánh khác, không khác, cho đến bốn thứ vì do thời gian riêng, không riêng. Đây là nêu bốn danh. “Nếu tướng” khác của các pháp sở nhân v.v… khác nhau có thể được cái khác ở chỗ đây với chỗ khác, là giải thích chung bốn thứ riêng. Nếu không có tướng “khác” thì trước đây và sau sẽ “khác” không khác với hiện tại, nghĩa là sẽ không có nghĩa riêng trong giải thích chung bốn thứ.

Dưới đây, trong giải thích riêng, trước giải thích về thời gian thứ tư, phân biệt, không có riêng.

Nói thời gian phân biệt, nghĩa là tất cả hành v.v… rất dễ hiểu.

“Do pháp kia làm hạt giống, mà pháp này được sinh, nói là sở nhân”, nghĩa là đều phát ra sở nhân, giản lượt không giải thích nghĩa riêng, không riêng. Sở y và tác dụng cũng thế.

Nói “cõi Sắc cho đến có mười bảy địa”, nghĩa là về phán quyết địa trong cõi Sắc nhiều hay ít, nghĩa ấy không nhất định. Hoặc nói là mười sáu địa. Sơ thiền là hai, vì Đại Phạm vương đồng với xứ của trời Phạm Phụ. Hai thiền, Ba thiền đều có ba thành sáu. Bốn thiền cũng có tám, nghĩa là Phước sinh, Phước ái, Quảng quả và năm Tịnh cư, vì trời vô tưởng không có Trú xứ riêng chỉ thọ, riêng báo không có tâm trong trời Quảng quả là khác.

Hoặc nói mười bảy, nghĩa là Đại Phạm Vương dù đồng ở Phạm Phụ, mà vẫm có Phạm Phụ khác, khác với chiều dọc trên đài cao, lập riêng làm một, nên luận này nói rằng, bốn tĩnh lự và trung gian tĩnh lự có mười bảy địa. Hoặc có kinh, luận nói: “Ở trời Quảng Quả chia ra Vô tưởng, hợp với vua Phạm mà nhập Phạm Phụ. Cũng thành mười bảy hoặc có hai xứ đều chia ra nên thành mười tám”

Ở đời hiện tại có Sát na hiện tại, có chúng đồng phần hiện tại, nghĩa là đối với đời sống quá khứ, vị lai, nói hiện tại. Một thân hiện tại, gọi là chung là chúng đồng phần hiện tại.

Có nối tiếp nhau chưa diệt hiện tại: tức một thân này, niệm trước, niệm sau nối tiếp nhau chưa diệt, gọi là hiện tại. Nếu dựa vào sắc pháp sinh khởi, tức ở chỗ đó nói là có nơi chốn v.v… nghĩa là tâm pháp bốn uẩn dựa vào sắc uẩn khởi, theo xứ sắc đó, nói là có nơi chốn, như nói tâm người phương Tây, tâm người phương Đông v.v… Đây là do dựa vào sắc đổi thay tướng, gọi là phương, chứ chẳng phải tự thể tâm chiếm cứ nơi chốn ấy mà gọi là nơi chốn. Vì các sắc đủ cả hai, nên gọi là phương: 1) Dựa vào sắc chuyển. 2) Y cứ ở nơi chốn.

Nối tiếp nhau có bốn, nghĩa là căn, cảnh của mình, người. Hai thứ trước là giả, hai thứ sau là thật. Kế là, có một bài tụng nêu sáu môn:

  1. Nhóm.
  2. Thuộc nhau.
  3. Thành tựu v.v…
  4. Tự tánh v.v…
  5. Nhân v.v…
  6. Nói rộng về địa v.v…

Trong giải thích của văn xuôi, 1) Giải thích về môn tụ. Pháp sư Thái nói: “Nay theo Đại thừa nói, nếu sự ăn năn không có gián đoạn và căn lành nối tiếp thì môn tụ sau chẳng phải là nhóm tà định, chỉ vì luận chủ nói chưa ăn năn không có gián đoạn, vì gốc lành chưa nối tiếp, nên gọi là Tà định”.

“Nêu biết rằng v.v… trở xuống, là thứ hai, giải thích về nhiếp thu nhau, v.v… tương ưng với đẳng thủ.

“Hoặc có một loại v.v… trở xuống, là thứ ba, giải thích về thành tựu v.v… Được bỏ của đẳng thủ v.v…

Lại “Tất cả pháp, mỗi một tự tánh v.v…” trở xuống, là thứ tư, giải thích về tự tánh v.v… ; tác dụng của đẳng thủ v.v…

Lại, chẳng phải tự tức tự tánh sát na này làm nhân cho tự tánh sát na này.

Thứ năm, là giải thích về nhân v.v… “Nói rộng Ốt-đà-nam của địa rằng trở xuống, là giải thích môn thứ sáu.

Có hai bài tụng nêu mười tám môn: 1) Các địa. 2) Các y. 3) Đế. 4) Trí. 5) Gia hạnh. 6) Tam-ma-địa. 7) Căn. 8) đạo. 9) Đối trị. 10) Hạnh. 11) Tu tập. 12) Pháp hữu lậu, vô lậu. 13) Các quả. 14) các nhân. 15) Duyên. 16) Lập Bổ-đặc-già-la. 17)Biến tri. 18) Rốt ráo.

Trong văn xuôi nói: “Lại có chín y cho đến “Trừ hữu thứ nhất”, nghĩa là một bộ Du-già chỉ một văn này nói là Trung gian thiền, có vô lậu có công năng dứt hết các lậu”, lại có sáu thứ biến tri.

1- Địa bất định với trí đế hữu lậu, nghĩa là khổ, Tập. Tận của cõi Dục, lập một biến tri.

2- Biến tri của địa định hữu lậu, nghĩa là khổ, tập của hai cõi trên, “hoặc” phẩm hạ dứt hết, lại lập một biến tri.

3- Biến tri của Đế vô lậu, vô vi, nghĩa là diệt của ba cõi, “hoặc” phẩm hạ dứt hết, lập chung một biến tri.

4- Biến tri của đế hữu vi vô lậu, nghĩa là đạo của ba cõi, “hoặc” phẩm hạ dứt hết, lập chung một biến tri.

5- Biến tri thuận kiết phần dưới.

6- Biến tri thuận với kiết phần trên. Rất dễ hiểu đây là tùy theo nghĩa mà nói, không y cứ thật để luận. “Hoặc chỉ có hai”, nghĩa là nhập kiến đạo chứng quán chân như, dứt trừ chung “hoặc” phẩm hạ của bốn đế ba cõi, hợp lập một biến tri. Người này được Sơ quả rồi, hàng phục chín phẩm tu hoặc của chín địa, dứt chung, siêu việt chứng La-hán. Lại tập biến tri thứ hai, tất cả kiết đều dứt hết.

Hoặc chỉ lập bốn biến tri, nghĩa là nhập kiến đạo, lập một biến tri như trước. Ở tu đạo theo thứ lớp, dứt trừ dần tu hoặc của ba cõi, lập ba biến tri, thêm một biến trước thành bốn.

Nếu là nghĩa chung, thật sự theo nghĩa mà nói, tức có đa số, hoặc nói là hai, như trước đã nói. Hoặc nói là ba biến tri, nghĩa là kiến đạo lập một, tu đạo lập hai: Kiết phần dưới hết, kiết phần trên hết. Hoặc nói có bốn kiến tri, thêm ái sắc hết. Hoặc nói có năm, nghĩa là bốn trong kiến đạo như văn. Tu đạo có một, nghĩa là chứng siêu việt La Hán. Hoặc nói có sáu, như văn này. Hoặc nói có bảy, nghĩa là bốn trong Kiến đạo, ba trong tu đạo hoặc nói có tám, nghĩa là Kiến đạo lập sáu, tu tập lập hai, trừ ái sắc hết. Hoặc nói có chín, thêm ái sắc hết.

“Như thế, lược dẫn trở xuống, là kết gần bài tựa sự của Bản Mẫu, nói về nhiếp thọ, khuyến thỉnh các học giả, nên chuẩn y theo đây để biết. ngoài ra, nói biến hành tất cả Ma-đát-lý-ca, như Nhiếp thích phần, nên biết tướng ấy. Nói chung Ma-đát-lý-ca của kinh, luật, chỉ như Nhiếp Thích phần.

“Giáo pháp của Đức Như lai, số không có giới hạn, so lường cho đến “Nên giác biết chân chính, rõ ràng”, nghĩa là trong Nhiếp Sư phần có ba: Đầu tiên, là trước kiết sau sinh. Kế chính quyết định lựa chọn. Sau, kết khuyên nên hiểu rõ. Đây là đúc kết khuyên thứ ba, hoặc nói là Tổng kết một Bộ.