DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 19

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 70

Kế là, thứ ba, nói về thắng lợi của trí sáng suốt: Đầu tiên, nói về trí sáng suốt có năm thắng lợi. Lại, nói về trí sáng có mười lăm đức.

Trong phần trước, nói “cho niềm vui thứ nhất; vào thú hướng thứ nhất”. Luận sư Tăng Huyền nói: “Bồ-đề gọi là niềm vui thứ nhất; Niếtbàn gọi là thú hướng thứ nhất”.

Nay, giải thích: “Hiện được pháp lạc, sau hướng về Bồ-đề, Niếtbàn”. Dưới đây, trong phần nói về trí, đức vượt hơn ngoài, nói có thứ trái với bóng tối, nghĩa là khi ánh sáng bên ngoài khởi, vẫn có pháp trái với bóng tối yếu ớt đều cùng có. Khi ánh sáng của trí khởi, không có bóng tối vô minh trái nhau đều có”.

Nói “Không thể che giấu mình, đã mở mang sáng tỏ; có thể che giấu mình đã mở mang sáng tỏ. Ở đây có hai giải thích:

1) Giải thích: “Ánh sáng bên ngoài không thể che giấu mình đã được pháp mở mang sáng tỏ. Như lửa đã soi rọi vật được mở mang sáng tỏ. Ánh sáng mặt trời dù vượt hơn, nhưng không thể che giấu, khiến cho vật thể được soi rọi không biểu hiện. Ánh sáng của trí thì không như thế. Trí trên che giấu pháp đã được mở mang sáng tỏ của trí dưới, tức là bóng tối mê muội không khởi.

2). Giải thích: “Sở tri” của trí thế tục, đã khai thị sáng tỏ pháp. Chân trí quán tướng tục thấp kém, làm sáng tỏ danh, bóng tối che lấp mình đã được mở mang tỏ rõ. Ánh sáng bên ngoài thì không như thế.”

Nói “Trái hại cho kiến, không trái hại cho kiến: như ánh sáng mặt trời trái hại cho cái thấy của mắt. Ánh sáng của Trí chỉ thêm Tuệ và gia tăng cái thấy của mắt.”

Thứ tư, trong phần nói về ba pháp của sáu thứ, có ba điều thiện:

  1. Dứt trừ nghiệp ác.
  2. Hàng phục ràng buộc,
  3. Dứt trừ hạt giống tùy miên.

Ba Phạm chí:

  1. Thú hướng Phạm chí, tức là bốn hướng.
  2. Trụ quả, tức quả của ba Học trước.
  3. Đáo rốt ráo, tức quả vô học.

Phạm, các nước Phương Tây nói, Hán dịch là Tịch tĩnh (vắng lặng), nghĩa là Niết-bàn. Chí là tiếng của xứ này. Vì chỉ mong cầu Phạm, nên gọi là Phạm chí.

Nói Sa-môn, Hán dịch là cần lao. Như sức cần cù vất vả khắp của đạo vô ngại, nhằm dứt trừ các “hoặc”, nên gọi là cần lao, cũng gọi là dứt ác:

  1. Giả Danh Bà-la-môn. Như Hồ Bắc Tuyết Sơn, tự xưng là Bàla-môn v.v…
  2. Chủng tánh Bà-la-môn. Dòng họ Trung thượng Bà-la-môn trong bốn họ của Ấn độ.
  3. Chánh hạnh Bà-la-môn, tức bốn họ xuất gia tu chánh hạnh xuất thế.

Bà-la-môn, Hán dịch là Tịnh chí.

Thứ năn, nói về Thi-la hư hoại đủ. Đầu tiên, là nói do bốn duyên làm cho Thi-la hư hoại:

  1. Đối với tội vô dư, khởi hủy phạm: Phạm tụ đầu.
  2. Đối với tội hữu dư, không ăn năn, nghĩa là bốn tụ sau (hai “duyên” sau, rất dễ hiểu)

Kế là, nói về Cụ túc. Nói “Giúp đỡ tịnh, nghĩa là Kiến quỹ mạng tịnh, tức gia hạnh đắc ở trước. Hoặc nhân duyên, gọi là trợ bạn. Tâm chánh kiến thọ giới, gọi là kiến tịnh. Vận động thân, ngữ, lìa tà kiến ngữ, gọi là quỹ tịnh. Chỉ vì Niết-bàn mà cầu thọ giới, gọi là Mạng tịnh.

Nói “Tự tánh tịnh, nghĩa là Thái kính Tùy học. Cụ Phần Tùy Học, tức là thọ, trì giới, khiến cho giới tịnh. Trân trọng tôn kính Ba-La-ĐềMộc-Xoa, như Phật còn tại thế, gọi là Thái Kỉnh Tùy Học. Trong các giới mình đã lãnh thọ, vì nhiều hay ít đều gìn giữ, nên gọi là Cụ phần tùy học.

Nói “Năm thứ không nên hành xử: Tức nhà giết mổ, nhà dâm nữ v.v…”

Thứ sáu, nói về việc giữ gìn kín đáo căn môn, biết rõ lỗi lầm (như văn, rất dễ hiểu).

Thứ bảy, nói về ăn biết lượng dứt trừ tám chỗ:

Nói “Mạng căn hoại diệt, nghĩa là chẳng phải lượng, ăn nhiều,

mạng căn hoại diệt.

Đói kém: Như ngoại đạo không ăn, do ăn biết độ lượng, thì có thể dứt trừ.

Thứ tám, là nói giác ngộ Du-già. Nói “Hư khí mà giác”, nghĩa là vì giác biết khởi nhiễm “Hư khí mà miên”, nghĩa là lai đến lúc tâm nhiễm làm duyên mà ngủ nghỉ.

Thứ chín, là nói sáu xuất ly: Chỉ giải thích hai thứ xuất ly đầu, còn bốn thứ sau, rất dễ hiểu.

Nói: 1. Cõi thuận theo, nghĩa là thân đường ác v.v…

  1. Sinh không thuận theo nghĩa là Noãn, sinh thấp sinh.
  2. Tinh tấn không thuận theo: nhiều lười biếng.
  3. Chướng không thuận theo: Vì nhiều chướng, nạn.
  4. Ái, lạc không thuận theo: nhiễm ái, lạc v.v…

Nói “Hoặc giáo, hoặc chứng”: Giáo là A-hàm; Chứng là trí chứng.

Ẩn một. Hai ẩn một này thiếu.

Thứ mười, là nói do bốn lực sinh ra dục của pháp lành, như văn.

Thứ mười một, trong phần nói xuất gia viên mãn, nói trú xứ viên mãn: Trong gò mả, dưới cây v.v…

Thứ mười hai, là nói Thi-la viên mãn. Đây là thích hợp với xuất ly không viên mãn ở trước.

Thứ mười ba, nói về luật nghi của hai lực, bốn căn. Nói “Sức tư duy, lựa chọn tu tập”: Tư tuệ là sức tư duy lựa chọn, tu tuệ là sức tu tập.

Bốn thứ Hộ, Pháp sư Cảnh nói: “Cảnh giới hộ: Đối với cảnh trước, tự gìn giữ, khiến tâm không tán loạn. Phiền não hộ: Tức đối với cảnh trước mắt, không khởi tham lo, phiền não là chung: Triền và tùy miên. Không khởi hạt giống trên tâm là gìn giữ riêng. Phiền não không khởi, tức gọi là gìn giữ triền. Vì triền không khởi, nên không huân tập thành hạt giống, gọi là gìn giữ tùy miên. Cũng có thể phiền não hộ, nghĩa là đẳng vị hành mà lúc du hành nơi cảnh, lìa tham lo v.v… Nghĩa là lúc khởi gia hạnh ở giai vị chánh định.

Giữ gìn nhãn căn, lìa tham ưu v.v… gọi là triền hộ. Chứng nhãn căn hộ là tùy miên hộ, nghĩa là ở vị tâm tán, do vì gìn giữ nhãn căn, nên triền không khởi, tức khiến cho hạt giống “hoặc” vì “duyên” thiếu không nẩy sinh, nên mới chứng hộ nhãn căn là tùy miên”.

Pháp sư Thái cho rằng: “Nói “đẳng vị hành” v.v… Người đẳng phần phiền não, phiền não có thể giữ gìn, tăng thượng là không thể giữ gìn, bạc trần, nghĩa là không cần giữ gìn”.

Nay, giải thích: “Nói “Đẳng vị hành”, nghĩa lúc tương ưng với tánh vô ký, thiện, có niệm ngăn ngừa, gìn giữ, gọi là bình đẳng.

Thứ mười bốn, trong phần nói về ăn, biết lượng viên mãn, 1) Y Chỉ đối trị, nghĩa là nương tựa chánh tư lựa chọn. 2) Xa lìa sở trị: không vì xướng ca phóng đảng, kiêu mạn, buông lung v.v… 3) Dựa vào Bạch để tạo nghiệp: Khiến thân an trụ. 4) Vì y xứ, nghĩa là vì tạm giữ gìn mà tu đạo. ) Vì phân biệt: Phân biệt có tội, không có tội v.v… Trong đây trở xuống, có các trường hợp. Luận sư Cảnh nói lại lời Tam Tạng Pháp sư “Thọ, vì có cảm giác về đói, khát nên nói: Xưa, nói thọ, nghĩa là đói mà khởi. Trừ ngoài thọ báo, thọ khác thường có cả ba tánh. Tùy theo lúc được ăn, có tác dụng lãnh thọ khổ. Khổ thọ, do ăn mà khởi. Ngoại trừ thọ báo, thọ khác thường có cả ba tánh, hễ khi nào được ăn, thì có tác dụng lãnh thọ khổ. Nói khổ thọ, nghĩa là do ăn mà khởi.

“Vỗ nuôi” trở xuống, là giải thích văn kinh.

Nói “Lúc nên ngồi trong cái thứ nhất, thứ hai và thứ tư, nghĩa là tham, giận, điệu cử, ăn năn, nên đối trị khi ngồi. Trong “cái” thứ ba, cần phai khi đi, nghĩa là cái thùy miên, cần đối trị lúc đi. Trong “cái” thứ năm, nên đều cùng lúc. Một thứ “cái” nghi, hai lúc đi ngồi, đều được so lường để đối trị.

Vì lìa giống như Sư tử, ngủ nghỉ trong thời gian dài, quên rất trầm trọng, không xen hở. Sư tử không sợ ngày, đêm, vì ngủ nhiều, nên nói lìa sư tử kia.

Pháp sư Thái nói: “Lúc chưa ăn nhân xúc giác đói mà khởi cảm thọ của thân. Xưa gọi là thọ là do xúc giác đói mà khởi.

Ăn no quá phần, khởi khổ thọ, nghĩa là do ăn mà khởi. Y theo lượng mà ăn, tồn tại, nuôi nấng, nghĩa là khả năng tăng trưởng phạm hạnh. Sức ăn kia có thể hại cái đói bị trị mà khởi thọ v.v…

Ăn đúng lượng cũng vui, nghĩa là hiện pháp lạc trụ. Ăn xong không có tội hiện hành, tức là ruộng phước của thí tịnh.

Khi sắp ngủ, trước phải tư duy về tưởng thức dậy sớm vào lúc gần sáng.

Thứ mười lăm, là nói về chánh tri mà không trụ.

Nói: “Vì hai thứ sở y điều hòa thích hợp:

  1. Là ở trước, vì tùy theo thân mà thọ đã nương tựa, nên trừ ngủ bỏ nghỉ.
  2. Trước kia, vì tu giáo, luận bàn, quyết định lựa chọn thân sở y, nên trừ bỏ mệt mỏi.

Cũng khéo biết lượng, cũng có thể ngủ nghỉ và mệt mõi là hai thân sở y.

Mười sáu, là nói về bốn chi gồm tám hạnh đoạn.

Nói “Do chánh niệm nên ngăn ngừa, gìn giữ chưa sinh, chỉ quán tùy “hoặc”, nghĩa là định, gọi là chỉ, tuệ gọi là quán. Hôn trầm, điệu cử gây chướng ngại cho định, tuệ, gọi là “chỉ, quán tùy hoặc”

Mười bảy, nói về bốn pháp làm duyên tăng thượng cho định đã được, như văn rất dễ hiểu. Mười tám là nói về bảy pháp, người muốn chứng được tam-ma-địa thì phải hiểu cho rõ.

Luận sư Cảnh nói: “1- Nhân lui sụt của định bên trong là lười biếng, nghĩa là do tâm biếng nhác, nên khởi hôn trầm, thùy miên, vì thế biếng trể là nhân. 2- Nhân lui sụt của định bên ngoài, đó là điệu cử, nghĩa là do điệu cử làm nhân đối với cảnh ngoài, lấy tán loạn đối với năm dục. 3- Lui sụt định bên trong, là hôn trầm, thùy miên (buồn ngủ, ngủ say). Từ lười biếng sinh ra buồn ngủ v.v… chính là sự lui sụt định kia, là chưa được thối, hoặc là đã được thối. “Duyên” bên trong bị chướng ngại gọi là trong. 4- Lui sụt định bên ngoài, nói là đối với năm dục, hấp dẫn tán loạn, nghĩa là do điệu cử bên ngoài lấy năm dục, cũng có cả hai lui sụt. “Duyên” ngoài làm chướng ngại, gọi là bên ngoài. – Lui sụt định bên trong và nhân đối trị, nghĩa là khéo chấp tướng mà quán sát cho đúng: Do khéo chấp tướng của cảnh giới, nên có thể lìa biếng nhác, hôn trầm ngủ nghĩ. 6- Lui sụt định bên ngoài và nhân đối trị, nghĩa là tức đối với thân, quán sát bất tịnh: quán tâm của mình, của người cho là bất tịnh, thì trừ được năm dục điệu cử. – Đối trị hai lui sụt kia là y trì, là tưởng ánh sáng, nghĩa là đầu tiên, quán tưởng cảnh và quán bất tịnh đều dựa vào tưởng ánh sáng.”

Pháp sư Thái nói: “Hai tùy “hoặc” đầu tiên “duyên” trong, “duyên” ngoài, khởi làm nhân, lui sụt định. Hai tùy “hoặc” kế là cũng “duyên” trong, ngoài là lui sụt thể của định. – Khéo lấy định chấm dứt điệu cử. Xả ba tướng đối trị. quán bất tịnh thứ nhất, thứ hai. quán bất tịnh thứ sáu, đối trị thứ hai thứ tư. Dùng thứ hai, thứ tư “duyên” năm dục bên ngoài khởi điệu cửa và tán loạn, cho nên quán bất tịnh để trị. Thứ bảy, là tưởng ánh sáng làm phương tiện, có thể khởi đối trị thứ năm, thứ sáu, nên vì hai đối trị y trì kia. Cả hai giải thích đồng nhau.”

Mười chín, là giải thích về chín trường hợp tu quán Niệm, Trụ của Kinh:

Nói “Đối với thân”, nghĩa là đối với thân này, khéo trụ niệm kia đối với thân chân như: quán chân như thân, gọi là khéo trụ, niệm.

Hoặc chỉ có trí xuất thế gian, nói là do đạo Xa-ma-tha bên trong, nghĩa là trí ngưng đọng, “duyên” vắng lặng, tức thích hợp với “Chỉ”. Hoặc chỉ kiến của xuất thế gian, nói là do đạo Tỳ-Bát-Xá-Na, nghĩa là vì kiến thích hợp với sự tìm cầu với đạo Tỳ-Bát-Xá-Na, đó là Danh.”

Hai mươi, là nói dựa vào sự lập bày trên, lập ra năm hạng người. Thuận theo thế gian nói năm thứ này đều gọi là thượng hành. Dựa vào thượng hành này kiến lập năm người, nói là dựa vào trên, ra năm thứ v.v…

Nếu dựa vào lý thì người thứ hai, thứ năm là Thánh, được gọi là thượng. Người thứ nhất là Phàm, thứ ba, thứ tư là ngoại đạo kia, vì điều họ làm là điên đảo, nên không được gọi là thượng.

Người đầu tiên có ba, nghĩa là ưu lạc dục, sinh hỷ lạc ở cõi Dục, đây là một cách giải thích. Ưa vui có Tầm, có Từ; ưa vui không có Tầm chỉ có Từ, hợp thành hai thứ. Ưa vui không có Tầm, không có Từ, đây là thứ ba.

Người ưa vui dứt chướng phiền não lạc trụ ở hiện pháp, chưa được, đã được. Đối với bốn thiền căn bản, chưa được, đã được, trừ chướng phiền não, mới bằt đầu được thiền, gọi là hiện pháp lạc trụ. Đối với tất cả thứ hữu tưởng, Đẳng Chí, chưa được, đã được, nghĩa là ba Không Đẳng Chí của cõi dưới, cũng do dứt trừ chướng phiền não cõi dưới xong, mới được các Đẳng Chí của Vô Sắc. Đối với y chỉ, nghĩa là bốn thiền, là chỗ nương tựa của tất cả công đức. Đối với quán sát, nghĩa là phần nhiều quán sát vô biên không tưởng v.v… của bốn Vô Sắc.

Người ưa thích dứt trừ chướng định, đối với tất cả Thắng xứ chưa được, đã được. Và tất cả biến xứ chưa được, đã được, đây là chướng loạn của định, gọi là chướng định, cũng gọi là chướng sở tri.

Người tu hành đến rốt ráo kiến thú, nói là đối với Phi tưởng, Phi phi tưởng xứ, chưa được, đã được, nghĩa là chấp Phi tưởng cho là Niếtbàn rốt ráo. Đến rốt ráo kiến tích, nghĩa là đối với sáu xúc xứ vô dư, dứt hẳn rốt ráo, chứng thọ. Đã nêu sáu nội nhập, dứt trừ hẳn, sáu ngoại nhập, cũng đã dứt trừ hẳn.

Thứ hai mươi mốt, nói về ba đức của cận sự.

Nói “Khả năng dẫn phát đồng pháp, không đồng pháp”, nghĩa là người trí. Trí hữu lậu, gọi là đồng pháp; trí vô lậu, gọi là không đồng pháp.”

Lại, giải thích “Đồng học Ổ-Ba-Sách-Ca, gọi là đồng pháp. Không đồng học khác, người tại gia và năm chúng xuất xuất gia, gọi là không đồng pháp”.

Thứ hai mươi hai, nói về ba pháp như nghe pháp v.v… Trước, nêu chung ba pháp. Sau, đối với tà, biểu dương sáng tỏ chánh.

Lại, pháp của ngoại đạo là nói trái ngược: Tức là nghe pháp.

Tất cả giới cấm chẳng thể hiện thấy v.v… Khổ hạnh, giữ giới của ngoại đạo có nhân, không có quả, vì có thể hiện thấy, nên là pháp tà hạnh, Đẳng chí mà họ có được, có nóng bức, chẳng phải rốt ráo v.v… Tà chứng là pháp. Trái lại, gọi là chánh”.

Thứ hai mươi ba, là nói về nhiễm, tịnh, đắc xả. Trước nói về thứ lớp được, bỏ năm dục. Sau, nói về pháp tịnh, tông chỉ quyết định không lui sụt.

Trong phần đầu, trước do thí, giới, sinh lên cõi trời, thọ dụng năm dục, gọi là “được”. Sau do tai họa lỗi lầm, “bỏ” cả hai dục. Nói là do xuất ly, xa lìa công đức, nghĩa là ra khỏi năm dục trần như sắc v.v… gọi là xả sự “dục”. Vì xa lìa phiền não, nên gọi là “bỏ dục phiền não”.

Thứ hai mươi bốn, nói do ba duyên đuổi kẻ phạm giới (như văn).

Thứ hai mươi lăm, nói do bốn nhân duyên giúp cho Thi-la phát sinh ái lạc sâu sắc:

  1. Do thầy dạy bảo, lìa hai bên khổ vui.
  2. Phiền não mỏng nhẹ.
  3. Được đồng trụ tốt.
  4. Không lười biếng.

Thứ hai mươi sáu, nói về bốn thứ quán sát Thi-la:

1. Do cư trú chung, tin biết là có, nghĩa là phải ở chung, mới biết có Thi-la.

2. Đối với tai nạn hiểm nguy, tin biết vững chắc, nghĩa là với tai nạn nguy hiểm, hoặc tâm bền chắc.

3. Do việc đới, tin biết không thiếu sót. Dù từng trải các việc thế gian, nhưng với chánh tín, chánh trí vẫn không thiếu giảm.

4. Do nói, bàn quyết định lựa chọn, tin biết, không có đoái hoài, ưu luyến, vì kiến không hư hoại, tin biết tất cả pháp không có gì đáng lưu luyến mến, đoái tưởng. Vì chánh kiến không hư hoại, nên thành giới ở trước.

Thứ hai mươi bảy, giải thích rõ về ba tâm thú hướng, gồm có hai lượt.

Trong lượt đầu tiên, Luận sư Cảnh nói: “

1. Người nhàm chán ồn ào náo nhiệt, tâm hướng đến xa lìa.

2. Chán đi dạo thôn xóm, tâm thú hướng xuất ly.

3. Người chỉ ở nơi vắng lặng, có tưởng chỉ quán, tâm hướng về Niết-bàn.

Nói “Xa-ma-tha v.v… nghĩa là đều lấy Tỳ-Bát-Xá-Na. Người thứ nhất trong đây, với tâm thú hướng A-Luyện-Nhã. Người thứ hai, tâm hướng về xuất gia.

Người thứ nhất trong lượt thứ hai là vì lìa phiền não, nên hướng đến Luyện-Nhã. Người thứ hai muốn ra khỏi sinh tử, cho nên xuất gia thọ giới Biệt Giải thoát. Người thứ ba, sau khi ra khỏi sinh tử rồi, vào cung Niết-bàn, gọi là thú hướng Niết-bàn. Danh từ Niết-bàn đại khái có năm thú hướng:

1. Thọ là ảnh của Xúc. Tất cả Thọ diệt, gọi là không có ảnh.

2. Sự nối tiếp nhau là thân, thân diệt gọi là vắng lặng (ba người sau, như văn, có thể hiễu).

Thứ hai mươi tám, là nói do ba điều lỗi, nên không thể không có lắng nghe trái ngược (xem văn rất dễ hiểu).

Thứ hai mươi chín, nói có năm tướng là đồ đựng Văn, Tu. Vì nêu ban đầu để tóm thâu sau cùng, nên nói “Văn, Tu”. Nếu nói đủ, nên nói “đồ đựng Văn, Tu, Tư”.

Thứ ba mươi, là nói vể đức độ, lời nói của năm hạng sư, khéo kiến lập pháp, nghĩa là khéo nói giáo hóa. Lập sở học, nghĩa là lập chế giáo.

Thứ ba mươi mốt, nói về vô ngã kiến, có thể được xuất ly.

Thứ ba mươi hai, là nói về bốn hỷ dẫn sinh bốn lạc (như văn rất dễ hiểu).

Thứ ba mươi ba là nói về pháp Phật, gọi là khéo nói. Có tám cặp, dùng câu sau để giải thích câu trước:

Nói “Túy Đổ Ba, dịch là Cao Thắng, cũng dịch là chỗ cúng dường.

Do hai nhân duyên, nên di hình lập Tốt-Đổ-Ba (tháp).

  1. Do sở chứng trụ vững chắc.
  2. Vì có chỗ để nương tựa.

Thứ ba mươi bốn, là nói bốn thứ làm chướng ngại pháp dứt trừ. Nên biết rằng, Tuệ nhãn đối với kẻ làm ác, nói là người mù. Với kẻ làm điều xấu ác, vì họ không có tuệ nhãu, nên gọi là mù. Đối với người làm việc phước, nói là có nhơ bẩn, nghĩa là nếu người làm việc phước mà không có tuệ nhãn, vì không lìa tướng, nên gọi là nhơ bẩn.

Đối với các ngoại đạo, nói là có che đậy, nghĩa là vì không có chân tuệ nhãn, nên gọi là có che đậy.

Thứ ba mươi lăm, là nói về tu pháp niệm trụ, biết mười một thứ nhiễm, tức là luận Câu-xá nói có mười một pháp đối: như tham, vô tham v.v…

Bốn nhóm năm tán: tức tâm rộng, lược của Câu-xá kia.

Thứ ba mươi sáu, là nói về đạo xuất thế, dùng thế đạo để giúp đỡ.

Nhàm chán tai họa, mục nát hư hoại, nghĩa là để cho hạt giống hư hoại, không thể chiêu cảm quả báo.

Thứ ba mươi bảy, là nói về thiên Nhãn của Đức Như lai vận hành tất cảnh. Bốn hiện thấy không có hữu tình sống chết của Trung hữu. Luận sư Cảnh nói: “Hai cõi Dục, và Sắc quyết định có Trung hữu. Trong cõi Vô Sắc đều không có trung hữu, làm sao thiên nhãn có thể nhìn thấy cõi Vô Sắc ư? Vì thiên nhãn của Đức Như lai nhìn thấy chỗ diệt của tử hữu ở hai cõi dưới, không có trung hữu khởi, biết sanh cõi Vô Sắc”. Pháp sư Thái nói: “ Vói nghiệp nhanh chóng, nhạy bén trong cõi Dục, cõi Sắc Đức Phật đều nhìn thấy không có Trung hữu”.

Lại giải thích: “Chúng sinh của cõi Vô Sắc không có quyến thuộc của Trung hữu, tử sinh khởi cũng biết”.

Thứ Ba mươi tám, là nói về bảy lần lượt chứng đạt các pháp:

Nói “Vì phát siêng năng, tinh tấn cho đến” chướng được thanh tịnh”. Pháp là nội thí: tài là ngoại thí; Tâm bất bình đẳng của nội thí, ngoại thí này không thể khởi phương tiện xứ với thể của định. Do tinh tấn, nên lìa định này, khởi chướng của phương tiện xứ được thanh tịnh”.

Thứ ba mươi chín, vì trị chín thứ đối tựng trị (sở trị) để tu bốn niệm trụ. Ba thứ đầu, đối trị Thân niệm. Hai thứ kế thọ niệm là trị; hai thứ kế, bị trừ của tâm niệm. Hai thứ sau, “sở trừ” cũa pháp tâm.

Thứ bốn mươi là nói về xuất gia, tại gia đều có năm lỗi.

Nói “Lỗi không hỷ, lạc” nghĩa là không hỷ lạc từ chỗ Học xứ.

Nói “Tập cận, làm che lấp lỗi của các dục”. Nghĩa là các dục che lấp đạo, gọi là chủ thể chướng.

Thứ bốn mươi mốt, là nói về tướng mạo người ngu, có năm lần “lại nữa”.

Nói” Hoan hỷ phi xứ”, nghĩa là vì ở chỗ không nên mừng mà sinh vui mừng.

Nói “quyết định gian khổ, cay đắng”, nghĩa là nghiệp xấu ác, chiêu vời lấy khổ, quyết định không sai.

Thứ bốn mươi hai, là nói về sinh, tử giống như biển, không thể uống hết, như biển mặn ở thế gian, người ở đất liền không uống. Biển cả Sinh, Tử như thế Hiền, Thánh không uống.

“Chỗ nương tựa của một vật quý báu lớn. “Nghĩa là như biển của thế gian, phần nhiều có châu ngọc quý hiếm. Biển cả sinh tử cũng như thế, có báo lớn, là hạt giống vô lậu pháp nhĩ của Phật tánh”.

Thứ bốn mươi ba, là nói về các tài thí, pháp thí là vượt hơn có năm.

Thứ bốn mươi bốn, nên khiến cho năm tâm tùy mình mà chuyển, không tùy tâm chuyển.

Thứ bốn mươi lăm, là nói về các”hoặc” mị, còn hơn quỷ mị.

Thứ bốn mươi sáu là nói về lập lỗi của “ngã” (đều như văn).

Thứ bốn mươi bảy, là y cứ vào ba hành để nói về chủ thể đối tượng trị:

Dục hành: là thọ năm dục.

Phước hành, tức thọ phước thế gian Đồng cư hành, tức đồng lìa trụ.

Vì lìa ba hành này, nên có sáu thứ ái, giận dữ: bốn thứ chỗ nương tựa; năm thứ đối trị.

Sáu thứ đầu:

  1. Tham cảnh giới
  2. Sân oán ghét
  3. Thuận với tham của tà giáo.
  4. Sân tăng thượng, đối với sự yên vui tăng thượng mà người khác đã thọ lãnh, không để cho họ được.
  5. Đối với người có đức, khởi tham dục, thí cho.
  6. Đối với kẻ lỗi lầm, nổi sân, không muốn bố thí cho họ. Do đây, tâm oán ghét bất bình đẳng.

Dù thực hành phước thí, mà thường dò xét mong cầu ruộng phước trước mà làm. Hư hoại bên trong là khổ ưu không, trụ yên ổn.

Bốn y xứ: Cảnh giới đầu tiên là ưu xứ: tức là thứ nhất, tham đối với cảnh giới.

Nói “Hữu tình khác làm y xứ”, nghĩa là năm thứ còn lại, khởi đối với xứ hữu tình.

Lại, “Hai y xứ đầu đều khởi một phần tạp nhiễm”, nghĩa là thứ nhất đối với cảnh, chỉ có tham thứ hai, là đối với thù oán, chỉ có sân.

Nói “Y xứ khác đều khởi phần tạp nhiễm”, nghĩa là thứ ba, thuận với giáo sinh tham. Về sau, sinh “hoặc” khác. Thứ tư, dù khởi sân với chúng sinh yên vui tăng thượng, nhưng vì muốn cho mình được nên cũng sinh tham v.v… Thứ năm, đối với có công đức, sinh tham. Thời gian sau, cũng sinh “hoặc” khác thứ sáu, dù đối với lỗi lầm, sinh sân, về sau cũng sinh tham v.v… nên nói “Pháp khác đều khởi Câu phần” (đều cùng có phần). Năm thứ đối trị, nghĩa là bốn trái ngược như bất tịnh v.v… đối trị bốn thứ trước.

Thứ năm, xả tưởng tâm, đối trị thứ năm, thứ sáu. Về sau, có năm thứ đối trị với sáu thứ ái, giận dữ của môn khác:

  1. Tham sự.
  2. Sân sự.
  3. Sinh tham đối với ba độc.
  4. Sinh sân đối với ba thiện căn.
  5. Sinh tham đối với ba thiện căn.
  6. Sinh sân đối với ba độc.

Năm thứ đối trị bất tịnh và từ bi đều trị hai thứ trước. trong ba tác ý, 1/ Đối trị thứ ba; 2/ Đối trị thứ tư; 3/ Tác ý hợp trị thứ năm, thứ sáu (Văn rõ ràng rất dễ hiểu).

Thứ bốn mươi tám, nói về năm đức của người xuất gia:

1. Người tự nương tựa. Vì xuất gia nên lìa bỏ của cải chung, nương tựa giới đức không chung.

2. Nương tựa người không tự tại khác, bởi lẽ xuất gia, nên được đức tự tại.

3. Người đã thành thục thiện căn của giải thoát phần. Do xuất gia, nên, nếu không có kiết thừa thì sẽ được đức củA-la-hán.

4. Người đã thành thục, xuất gia về sau, nếu có đức tu dứt trừ kiết, sẽ được quả Dự Lưu, đức tránh khỏi đường ác.

5. Người thiện căn chưa thành thục, do xuất gia, nên hiện tại thoát khỏi nỗi ép ngặt của người tại gia. Về sau, sẽ thành thục đức.”

Thứ bốn mươi chín, là nói về chín tướng của ba khổ, ba khổ trước là tướng của khổ ba khổ, giữa là khổ hành, ba khổ sau là khổ hoại.

Thứ năm mươi, là nói về bốn chi của chúng sinh: đầu tiên, là nêu, kế là, giải thích, sau là kết.

Trong giải thích có bốn đoạn, mỗi đoạn đều có hỏi, giải thích và kết:

Nói “Thường bị bốn thứ keo kiệt khác làm nổi chìm, còn khởi keo kiệt pháp: Truyết trong văn trên nói: “Vào lúc cuối kiếp, có kẻ ở nhà keo kiệt, keo kiệt về lợi dưỡng, keo kiệt cung kính, keo kiệt danh dự, keo kiệt về pháp và đầy đủ mọi thứ keo kiệt. Theo luận Thành Thật, có năm thứ keo kiệt:

  1. Tru xứ keo kiệt.
  2. Nhà keo kiệt.
  3. Thí cho keo kiệt.
  4. Giải thích, khen ngợi keo kiệt.
  5. Keo kiệt pháp.

Nay nói, bốn thứ còn lại và pháp là năm thứ keo kiệt: Hai keo kiệt: Cung kỉnh v.v… Đề cao hợp thành một thứ, thích hợp với keo kiệt giải thích, khen ngợi của luận Thành Thật.

Nói “Dựa vào tạp nhiễm đầu tiên, nối tiếp nhau thông suốt tám Thánh chi đạo, lập trí thứ nhất v.v… Đây là phàm phu lìa tà tín, được trí Thánh đạo, tức thiện sinh đắc. Dùng trí này làm y chỉ để tu ba trí khác, tức gia hạnh thiện.

Dưới đây, kết rằng: “Bốn chi như thế, được chia riêng mười một mười một và bình đẳng bình đẳng. Trong chi đầu chia làm năm; chi thứ hai có bốn; hai chi sau, đều có một, cộng chung có mười một. Nhưng thể mười một riêng và bốn chi, chung không có rộng, hẹp, lời câu bình đẳng.

BẢN LUẬN QUYỂN 71

Kế đây, là thứ năm mươi mốt, nói về bảy Nghĩa và bảy Hỷ. Nghĩa bảy chi, Luận sư Cảnh nói:

“1. Dục thiện xảo đối với uẩn v.v… gọi là nghĩa nên tìm cầu.

2. Hoặc pháp thuộc tự tánh, hoặc dùng môn thuộc tài pháp v.v… gọi là nghĩa nên thuộc về.

3. Bạn ác, duyên ác, cần phải tránh xa, gọi là nghĩa nên tránh xa.

4. Công đức trong định, nên tác ý dẫn sinh, gọi là nghĩa nên dẫn.

5. Nên ngăn ngừa các điều ác, gọi là nghĩa nên ngăn ngừa.

6. Giới thanh tịnh v.v…, gọi là nghĩa nên gìn giữ.

7. Năm thông nên dựa vào định mà phát. Lại, giới cụ túc v.v… nên nhờ vào sự cung kính mà phát, gọi là nghĩa nên phát.

Pháp sư Thái nói: “Một nghĩa đầu trong bảy nghĩa là giáo pháp. Hai nghĩa kế là lý pháp. Chánh lý nói nên thuộc về, tà lý nên tránh. Hai nghĩa kế là pháp hạnh. Hành đông thiên, nên dẫn phát; hành vi xấu, ác, nên ngăn ngừa.

Hai nghĩa kế là pháp quả. Quả lợi mình nên giữ gìn; quả lợi người nên phát. Nay, theo giải thích sau:

Nói “Bảy Hỷ đã được dẫn phát bởi Trí hay Duyên bảy nghĩa trước:

1. Hỷ do văn dẫn phát, nghĩa là văn tuệ “duyên” nghĩa nên truy tìm ở trước, do đây sinh hỷ.

2. Tư Tuệ “duyên” nên thuộc về, nên tránh.

3. Tu Tuệ, “Duyên” nghĩa nên dẫn phát.

4 -5. Nghĩa thứ tư, thứ năm, lìa “cái” bàn luận, tức “duyên” nghĩa nên ngăn ngừa, vì bên trong lìa năm cái, bên ngoài, hàng phục biện luận của người đồng thời gọi là ngăn ngừa việc xấu ác.

6- Niệm công đức của mình, trí “duyên” nghĩa “nên gìn giữ”.

7. Đối với các thấp kém, bất sanh biết vừa đủ, với trí “duyên” “nghĩa nên phát”.

Thứ năm mươi hai, trong phần nói năm pháp. Luận sư Cảnh nói: “Nhiếp thọ, nghĩa là nhiếp thọ tài pháp. Pháp thọ dụng, nghĩa là pháp thọ dụng tài pháp v.v… Pháp chứng nghĩa là pháp chứng lý, sự. Pháp sư Thái nói: “1- Pháp giáo; 2- Pháp hạnh; 3- Pháp lý, nên nhiếp thọ”.

Hai nghĩa kế là pháp quả. Quả hữu vi là pháp thọ dụng; quả vô vi là pháp “sở chứng”.

Thứ năm mươi ba, là nói về thí dụ cung tên. Đây là nói ba Học. Cung dụ cho giới, đức dựa vào giới phát ra định. Mũi tên dụ cho đức định chuyên chú một cảnh. Trúng đích dụ cho, “đích” dụ đối tượng duyên dựa vào định phát tuệ, thích hợp với cảnh mà biết sự, như trúng đích. Cung có hai đức:

1- Tánh nó cứng chắc, đây là dụ cho giới. Duyên ngoài vì khó hủy hoại, nên gọi là tánh cứng chắc.

2- Khéo thực hành rốt ráo, nghĩa là dụ cho công năng của giới là dẫn đến Bồ-đề. Mũi tên có một đức khéo thực hành rốt ráo, dụ cho công năng của định hướng đến Bồ-đề, không bỏ giở giữa chừng.

Trúng đích có ba đức:

  1. Công xảo rốt ráo: Dụ cho trí Vô học.
  2. Công xảo quán tập, dụ cho trí của tu đạo.
  3. Công xảo sư học, dụ cho trí của Kiến đạo.

Xét Bản Địa Phần quyển 4 nói vể điểm khác nhau Phật giáo và lý thú:

1. Giáo của thời kỳ lâu dài, như giáo của Tiểu thừa hóa đạo dần theo thứ lớp.

2. Giáo Vô gián, nghĩa là “Đốn giáo” của Đại thừa, như Hoa nghiêm v.v… được Phật nói đầu tiên, sau khi thành đạo.

3. Giáo không nói lại: Như giáo liễu nghĩa Niết-bàn.

Thứ năm mươi lăm, nói về dụ năm trị hợp đạo và hai tướng Thi-la, có thể đi đến đường lành. Nói hợp đạo là dụ cho người tu hành lội qua sông sinh tử, để hướng đến Niết-bàn. 1/ Đối trị ánh sáng của ngọn lửa: Lo ánh sáng nắng nóng, dù che đề đối trị. 2/ Đối trị gian nan nguy hiểm: Gian nan, nguy hiểm, nhiều giặc, binh, gậy để đối trị, dụ cho đường ác nhiều tai họa, giới hạnh để nghiêm trị. 3/ Đối trị sông, nghĩa la đưa sang sông: thuyền bè là dụ cho nương tựa, nước ái sôi sục, Bát-Nhã là thuyền. 4/ Trị Khô Kiệt: Nước khô cạn, nước là đối trị. Dụ cho tán loạn, cháy khát, dùng định để thấm nhuần. / Đối trị thân nhọc nhằn: Thân uể oải, chẩn đoán, xoa bóp la đối trị, dụ cho thân thô, nặng, khinh an là đối trị.

Nói Thi-la có hai tướng có công năng qua đường lành, nghĩa là trong đây, đầu tiên chỉ nêu Thi-la, không nói tướng định, tuệ có thể đến, vì đi qua cõi người thì gần, đến Bồ-đề thì xa, nên nói có thể sinh đường lành.

1- Nhiếp thọ Thi-la, nghĩa là thọ giới Cụ túc v.v… 2- Không thiếu Thi-la, nghĩa là gìn giữ giới cấm.

Thứ năm mươi sáu, là nói về thọ dục và biến hoại. Nói “1- Biến đổi, hư hoại thô: một kỳ hạn chết. 2- Đổi thay, hưhoại tế: chết trong từng niệm.

Phần vị đổi thay, hư hoại cũng có hai: 1- Thô; 2- Tế: lại là hai thứ trước được y cứ vào nghĩa phần vị mà nói.

Thứ năm mươi bảy, là nói trí có hai đức:

I. Đức chánh hạnh có ba trường hợp:

a. Nhanh chóng: Các trí tương ưng với tâm, tâm pháp, chuyển biến trở lại nhanh chóng.

  1. Quyết định: Các trí dứt các nghi ngờ.
  2. Nhỏ nhiệm: Các trí có thể nhập lý nhỏ nhiệm.

II. Đức tự tánh có bảy trường hợp:

  1. Địa định: Ở đây phân biệt với văn tuệ.
  2. Không thể lui sụt: Phân biệt với năm căn tánh ở trước.
  3. Xuất thế gian: Phân biệt với tu tuệ của thế gian.
  4. Đã khéo tu tập: Phân biệt với mới tập thừa.
  5. Đối với việc mình làm không có trở ngại, đây là chỉ rõ cảnh không có dính mắc.
  6. Vượt hơn tất cả thiện căn tự của loại khác: là vượt hơn thiện căn khac mà thừa mình có.
  7. Vượt hơn tất cả loại thiện căn của người, nghĩa là hơn hẳn thiện căn của ngoại đạo.”

Lại, giải thích: “Trí vô lậu hơn trí hữu lậu, gọi là vượt vượt hơn loại của nình. Lại hơn trí hữu lậu, pháp hữu lậu khác của ngoại đạo, gọi là vượt hơn loại của người.”

Thứ năm mươi tám, có ba cố luyến niệm trụ làm đối trị. 1/ Cố luyến trợ bạn, nghĩa là cố luyến sức sắc thân làm bạn hỗ trợ của mạng, quán thân bất tịnh là đối trị, cũng có thể yêu đắm thê thiếp, thấy là thanh tịnh, gọi là cố luyến trợ bạn, quán thân bất tịnh là đối trị. 2/ Cố luyến lợi dưõng: quán thọ là khổ, là đối trị. 3/ Cố luyến hữu sau: quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã làm đối trị.

Thứ năm mươi chín, giải thích về ba trường hợp như gia hạnh v.v… Luận sư Cảnh nói: “Chia ra ba trường hợp làm gốc. Hai lượt giải thích, đều là văn kinh.

Đối trị với Dục tham vô minh là gia hạnh, đây là người phàm phu khởi gia hạnh để hàng phục “hoặc” này.

“Đã lìa dục, chưa lìa dục là nối tiếp nhau”, nghĩa là y cứ chung một thân lìa dục, không lìa dục, gọi là nối tiếp nhau, đây là có cả Phàm, Thánh.

Lại, vì Y; vì Địa; vì Phẩm; vì chưa tu định, vì đã tu, chưa được, được, nghĩa là giải thích lại sự nối tiếp nhau.

Chướng sở y thanh tịnh: Giải thích lại hiện quan. Vì chướng tác ý thanh tịnh, vì đối trị với chướng kia. Nghĩa là giải thích lại, vì hướng về gia hạnh trước.

Pháp sư Thái nói: “Gia hạnh là chi Kiến đạo, hiện quán là kiến đạo; nối tiếp nhau là tu đạo. Thân nối tiếp nhau của sơ quả chưa lìa dục. Các quả còn lại nối tiếp nhau, thân đã lìa dục. Lại, “Vì (nương tựa), cho đến “Vì đối trị với chướng kia”, nghĩa là sáu thứ ban đầu là nói lại gia hạnh ở trước. Gia hạnh đã dựa vào thân cõi Dục. Tu chín phẩm của địa cõi Dục, vì chưa được định, nên đã học tu phương tiện định chưa thành thì chưa được định. Nếu thành thì liền được định. Đây là nói lại gia hạnh ở trước.

Chướng căn, gọi là chướng sở y thanh tịnh. Nghiệp phiền não, gọi là chướng tác ý thanh tịnh. Đối trị kiến tu, là gọi là đối trị chướng kia.”

Luận sư Tăng Huyền nói: “Vì nương tựa, nghĩa là thân ở cõi Diêmphù Đề là đối tượng nương tựa của gia hạnh. Địa: là Phẩm địa cõi Dục. Đạo gia hạnh đã hàng phục chín phẩm như tham v.v… cũng có thể đối trị chín phẩm của đạo gia hạnh. Vì chưa tu định, nghĩa là đạo gia hạnh chưa tu định căn bản.

Vì đã tu, chưa được, được, nghĩa là vì đạo Gia hạnh đã tu định cận phần, nên nói “đã tu”. Nhưng vì chưa được định căn bản, nên nói “chưa được”. Vì đã được định Cận phần, nên nói là “được”.

Trên đây, vì phẩm, là giải thích gia hạnh trên.

Nói “Vì chướng sở y thanh tịnh”: Tám nạn v.v… gọi là chướng sở y, tức là “báo chướng”, đây là chướng kiến đạo, là giải thích hiện quán trên.

Nói “Chướng tác ý thanh tịnh”: Đây là nghiệp chướng, tức chướng của tu đạo. Đây là giải thích sự “nối tiếp nhau” ở trên.

“Vì đối trị chướng kia”, nghĩa là đạo có công năng đối trị nghiệp chướng, báo chướng kia.”

Thứ sáu mươi, là giải thích sáu hiện quán. Đầu tiên, là nhắc lại, trước lược nêu sáu thứ hiện quán:

1/ “Hiện quán tư, cho đến “hiện quán rốt ráo thứ sáu”, giải thích danh từ hiện quán kia. Sáu thứ, là nêu lên số đầu. Số sáu là danh số; chủng là nghĩa loại. Quyết định quán sát là nghĩa hiện quán. Theo cách giải thích của quyển thứ năm mươi lăm thì ba thứ sau là Thể của hiện quán. Tư là nhân của hiện quán, tức là tư “đương thể” và quả đặt tên.

Lại, là thể hiện quán, là tuệ đồng thời, tức là từ “đương thể có chung tên gọi”.

Thứ tư nói “Trí hiện quán, hiện quán đế tức từ nghĩa của thể “sở duyên” làm tên. Đế là “sở duyên; trí là thể, hiện quán là nghĩa.

Thứ năm từ nghĩa, nghĩa là phát ra biên sau của chân quán, mà được gọi là “Hiện quán biên”.

Hiện quán rốt ráo từ giai vị được tên, vì ở giai vị rốt ráo mà thú hướng quán này, nên phải là hiện quán rốt ráo.

Kế là, hỏi, đáp, giải thích rộng có hai mươi ba môn. Trước là nói về cộng tướng (tướng chung):

Hiện quán tư ở giai vị phàm phu, nghĩa là đầu tiên, khởi ở giai vị phàm phu, kiến đạo trở xuống. Sau ở tu đạo cũng khởi hiện quán rốt ráo.

“Cuối cùng không phạm ở năm chỗ, nghĩa là không đến nhà người giết mổ, nhà dâm nữ, nhà bán rượu v.v…”

2/ Trong phần nói về thể tánh, hiện quán Tư, nghĩa là dùng Tư tuệ của cõi Dục làm thể. Hiện quán Tín: lấy chung Văn, Tư, Tu Tuệ, có cả tâm số Tín tương ưng với lậu, vô lậu làm thể.

Hiện quán trí, hiện quán đế lấy chân kiến đạo của trí vô phân biệt làm thể.

Hiện quán biên, tức lấy trí sau xuất quán. “Duyên” lại trí an lập, phi an lập đế làm tự tánh, tức hiện quán rốt ráo của tướng kiến đạo.

Nếu theo quyển năm mươi lăm thì có cả hai trí. Nay trong văn này, tức lấy trí thế tục, tân vô sinh làm tánh, nghĩa là nghĩ rằng: “Đời ta đã ngu v.v… ”. Đây là y cứ ở khắc tánh, phát ra thể. Nếu y cứ ở “tương ưng”, “cộng hữu”, thì tức là lấy bốn uẩn, năm uẩn làm tánh.

3/ Nói về trói buộc, không trói buộc. Một chỉ trói buộc cõi Dục, nghĩa là Tư. Một thứ, một phần hoặc trói buộc ba cõi là Tín, tức một phần này và ba phần khác, bốn phần này là không trói buộc, tức một phần tín này và giới, hiện quán trí, hiện quán biên là ba, bốn hiện quán này không bị trói buộc. Tức là ba thứ một phần tín này và giới trí hiện quán, biên hiện quán; Bốn thứ này là không trói buộc.

Một là có cả trói buộc, không trói buộc, nghĩa là hiện quán rốt ráo, vì trí tận vô sinh có cả thế gian, xuất thế gian. Hế gian là trói buộc, nếu xuất thế gian là không trói buộc.

4/ Nói về Y tha. Luận sư Cảnh, Bổ khuyết rằng: “Một là Y, Phi y có thể được. Y khác, tất cả Y có thể được: Hiện quán Tư chỉ nương tựa địa tán của cõi Dục, chẳng phải nương tựa tĩnh lự Vô Sắc, tức thừa nhận năm thông khác, sáu thiền khác và ba không mà khởi. Tín có cả hữu lậu, vô lậu. Có cả chín địa khởi, rất dễ hiểu. Giới, có cả chín địa khởi. Nghĩa là trong địa sáu thiền có đạo cộng giới dể biết.

“Trong địa ba không làm sao được có đạo cộng giới? Vì ý tứ của vô lậu kia có ngăn ngừa thân, ngữ phá giới của cõi Dục, cũng giả kiến lập giới vô lậu.

Đã nói hiện quán thứ tư, hiện quán thứ năm cũng có ở khắp chín địa. Lại, đoạn văn kế nói “Chỉ một hiện quán được quả của chín biến tri”, lại nói “một được tất cả bốn quả, tức biết. Hiện quán thứ tư có cả Kiến đạo, Tu đạo. Hiện quán biên thứ thứ năm có cả trong tu đạo khởi, chỉ là tướng kiến đạo. Nói rộng, là từ biên sau của quán chân như, mà khởi mười sáu quán hạnh, đều gọi là hiện quán biên, vì thừa nhận trong chín địa đều được khởi thân của bậc Vô học khởi sáu hiện quán đều gọi là hiện quán rốt ráo nên biết có ở khắp chín địa. Nếu không thừa nhận hiện quán thứ tư, thứ năm có cả ba đạo, chỉ riêng kiến đạo tức là đã thừa nhận cũng nhập Kiến đạo trong địa ba không, bởi vì trong Luận nói trong tất cả y của hiện quán còn lại đều có thể được.

Lại, đoạn văn trên nói trong Địa ba không, có Vị tri, Dương tri căn.”

Hỏi: “Đoạn văn dưới đây nói “Chỉ dựa vào bốn tĩnh lự và Sơ Vị chí nhập Kiến đạo”, nghĩa là y cứ vào xứ tăng cường để nói.

Nói “Lại, ba Y, năm Y sinh một thứ, một phần cũng thế”. Nghĩa là giải thích lại hiện quán thứ ba, thứ tư, thứ năm, tức phán quyết chỉ là Kiến đạo, chỉ nương tựa bốn thiền lự căn bản kia và Sơ vị chí trong năm địa khởi. Tức ba hiện quán Tín đồng thời, cũng vì chỉ năm Địa, nên nói “một thứ, một phần cũng thế”. Hiện quán Tín khác và hiện quán Rốt ráo, có ở khắp chín Địa. Tư chỉ ở cõi Dục không khác với thuyết trước.’

Pháp sư Thái nói: “Các Bộ, Sở y của Thánh đạo không đồng: Nếu theo Tát Bà Da, thì có chín địa Y, nghĩa là bốn thiền căn bản, Vi chí, Trung gian và ba Vô Sắc, trừ địa Phi tưởng. Nếu theo thành Thật, sẽ có bảy y định: Bốn thiền căn bản và ba định Vô Sắc. Nay, Đại thừa có tám y: Sơ cận phần định; bốn tĩnh lự căn bản và ba định Vô Sắc. Cho nên không đồng với Tỳ-đàm, Thành Thật. Nếu dựa theo quyển thứ một trăm, thì Đại thừa cũng có chín Y, nên quyển ấy nói “Lại có chín y có thể cùng tận các lậu. Chín Y là: định Vị chí hoặc Sơ thiền, thiền lự, Trung gian; ba thiền lự còn lại và ba Vô Sắc, trừ đệ nhất hữu. Nhưng nay, tám Y của văn này là Chân thật. Quyển thứ một trăm là môn Lý Tùy chuyển, nên không trái nhau.”

Lại, nếu theo Tát-Bà-Đa thì cõi Dục chỉ có Văn, Tư; cõi Sắc có Văn, Tu; Vô Sắc chỉ Tu. Thành Thật thì có Văn, Tư ở cả hai cõi; Tu, Tuệ ở cả ba cõi. Nay, Đại thừa đồng với Tát Bà Da: Hiện quán Tư dùng Tư, Tuệ tăng thượng làm thể, thành ra chỉ ở cõi Dục. Cho nên nói “Y, Phi Y có thể được”. Năm hiện quán còn lại đối với Tư. Tóm lại, dựa vào tất cả Y, không hẳn mỗi một hiện quán đều dựa vào tám Y. Dưới đây, giải thích riêng rằng:

“Hoặc trí đế biên, trí đế dựa vào ba Y, năm Y sinh”, nghĩa là y cứ Y ban đầu để nói Y sau, nương tựa chung tám Y.

Nói “một thứ, một phần cũng thế”, nghĩa là một phần hiện quán Tín đầu tiên, là dựa vào năm Y sinh. Hiện quán rốt ráo. “Đắc” của Vô Sắc mới khởi, nên không nói năm Y đầu tiên sinh”. Dưới đây là hỏi, đáp:

Các Luận sư phương Tây, có ra hai giải thích:

1/ Thấu triệt phương tiện xa của phần thiện căn, khi sắc nhập quán chân như, tư duy năm chi như Tầm, Từ v.v… của Sơ định, toàn phần tĩnh lự chân như mà vào sơ định. Về sau, khi chính thức nhập quán chân như của vô tướng kiến đạo, mà vì chứng tất cả pháp như thế, nên như khi gia hạnh phương tiện dù có Tầm, Từ, thiền lự có thể được. Do Tầm cầu Từ quán sát lý chân như trong gia hạnh có đủ năm chi, nhưng khi chứng chân như vô tướng, vì lìa tướng, không có phần biệt, nên chánh trí đều cùng lúc không có hai chi Tầm cầu, Từ sát, chỉ có ba chi hỷ lạc và một cảnh tánh của tâm.”

2/ Giải thích rằng: “Dựa vào sơ tĩnh lự, tức nhập quán chân như, tất cả pháp ba cõi, đều là các tướng phần như Tầm, Từ v.v… của Sơ tĩnh lự, nên dựa vào toàn phần tĩnh lự chân, như, như tướng, kiến v.v… của Sơ định trong gia hạnh, dù dựa vào năm chi tĩnh lự có Tầm, có Từ có thể được, nhưng khi chánh trí chứng chân như, lìa tướng, không có chánh trí phân biệt, chỉ đều có ba chi: Hỷ, Lạc và một tánh cảnh của tâm. Về Sơ tĩnh lự hữu lậu, phương tây cũng có hai giải thích, giải thích đầu rằng: Trong định Vị chí, ban đầu có tầm, sau có từ. Đến định Căn bản chỉ có tâm nhất cảnh tánh của hỷ lạc. Vì nói cho có trước có sau, nên sơ định có đủ năm chi.”

Luận sư Giới Hiền v.v… nói “Trong căn bản định, nếu quán một sự chưa rốt ráo, tức trước Tầm, sau Từ. Nếu khi quán đến rốt ráo, thì se không có Tầm, không có Từ.”

3/ Trong phần nói về “Duyên” đế, Bổ Khuyết rằng: “1/ Duyên thế tục đế và một thứ, một phần, nghĩa là Tư chỉ “duyên” tục đế, đồng thời Tín cũng thế. 1/ Không có “sở duyên”, hoặc hai “duyên” an lập thắng đế và một thứ, một phần, nghĩa là Biên và rốt ráo chỉ “duyên” an lập đế như khổ v.v… Đồng thời Tín cũng thế, dựa theo văn này để phán quyết, thì hiện quán rốt ráo không quán đạo chân như. Người vô học không được nhập quán chân như. Nghĩa là đạo Vô học và tu đạo đã có quán chân như “duyên” phi an lập đế, gọi là chung là trí hiện quán thứ tư thuộc về hiện quán đế.

Nay, ý phán quyết như trong văn này như thế. Trong luận ở trước lại nói hiện quán thứ tư chỉ là kiến đạo. y cứ vào loại trí này và trong hiện quán rốt ráo, đều có chung “duyên” phi an lập đế. Lại, thuyết ở trước nói trí Tận vô sinh, có cả phân biệt, vô phân biệt, cho nên vô phân biệt tức là trí vô phân biệt “duyên” phi an lập.

Một “duyên” phi an lập Thắng nghĩa đế và một thứ, một phần, nghĩa là hiện quán thứ tư chỉ “duyên” chân như.

Đồng thời Tín cũng thế. Luận sư Bi nói “Trí Tận Vô Sinh có ba thứ:

  1. “Duyên” tục đế.
  2. “Duyên” bốn đế, an lập đế.
  3. “Duyên” chân như, phi an lập đế, đều gọi là hiện quán rốt ráo, cũng có thể “duyên” tục đế, nghĩa là thuộc về Tín, duyên bốn đế thuộc về rốt ráo. “Duyên” chân như thuộc hiện quán đế.

6/ Nói về hữu tướng, vô tướng. Bổ Khuyết rằng: “Bốn hữu tướng nghĩa là Tư, Giới, Biên rốt ráo không “duyên” phi an lập đế, vì chỉ lấy an lập cảnh hữu tướng, nên giới là sự khác nhau của bảy chi sắc pháp, gọi là hữu tướng, không y cứ ở chấp tướng, gọi là hữu tướng.

Một là vô tướng, nghĩa là thứ tư này. Một là vừa hữu tướng, vừa vô tướng, nghĩa là Tín này.

Pháp sư Thái nói: “Phương Tây có hai cách giải thích

1. Giải thích rằng: “Bốn pháp Tư, Đế, Biên, Rốt ráo là tánh phân biệt của Tuệ, tức tuệ có hành tướng. Giới chẳng phải tánh phân biệt của Tuệ, nên gọi là vô tướng. Tín và tuệ đồng duyên nghĩa. Cũng có “Thể” của phân biệt, chẳng phải là nghĩa tánh phân biệt của Tuệ cũng vô tướng.”

2. Giải thích rằng: “Hiện quán Tư, hiện quán Biên và hiện quán Rốt ráo là tâm phân biệt vì cảnh giới có tương đương với tâm, nên gọi là hữu tướng. Hiện quán giới ở Tu đạo, đạo Vô học v.v… tướng dụng của chánh mạng v.v… hiểu bày có thể phân biệt biết, gọi là hữu tướng (tướng có), nên bốn tưởng này gọi là hữu tướng. Hiện quán Trí đế chánh chứng Chân như, gọi là vô tướng. Tín và ba hiện quán đều cùng cũng là hữu tướng. Nếu cùng có với trí đế, thì gọi là vô tướng.

7/ Hữu phân biệt, vô phân biệt, so sánh đồng với thuyết hữu tướng, vô tướng. Thể của giới là sự khác nhau của Chi sắc, gọi là phân biệt, chứ chẳng phải chấp lấy gọi là phân biệt.

8/ Trong phần nói về Thọ đều cùng có, Tư Chỉ có Hỷ cùng hiện hành, năm thứ còn lại đều cùng hiện hành với Hỷ, Lạc, Xả, vì Xả của cõi Dục kém, không cùng với Tư Tuệ tăng thượng. Lạc của cõi Dục không ở Ý địa, nên cũng không cùng có. Đều hiện hành trong đây, tất nhiên, chưa tương ưng, cho nên có cả giới, cũng có thể đã nói Thọ đều chẳng phải giới, nghĩa là Hành, nên nói “khác” nghĩa là bốn.

9/ Y cứ bốn đối trị nhiếp nhau: Hai chỉ đối trị hư hoại, nghĩa là Tư và hiện quán Biên cũng có nghĩa đối trị xa gìn giữ, vì dứt trừ “hoặc” nên chưa hết. Lại, có “hoặc” đáng nhàm chán nghĩa đối trị hư hoại, vì mạnh, nên nói đối trị hư hoại, một đối trị phần xa gìn giữ dứt trừ chung, nghĩa là hiện quán đế, vì không “duyên” “hoặc”, nên không có đối trị hư hoại. 1- Đối trị phần xa giữ gìn chung, nghĩa là hiện quán rốt ráo. Vì không có “hoặc” để nhàm chán, nên không có đối trị hư hoại. Do “hoặc” hết, nên chẳng phải đối trị dứt trừ. 2- Chẳng phải đối trị nghĩa là dùng hai hiện quán: Tín, Giới, vì chẳng phải tánh tuệ, nên chẳng phải bốn đối trị.

10/ Y cứ hai đối trị thuộc nhau. Ở đây có hai giải thích: Giải thích đầu có ba là đối trị hàng phục các triền, là ba hiện quán: Tư, Biên, Rốt ráo:

  1. “Câu đối trị” (đều cùng chẳng phải đối trị) là hiện quán đế.
  2. “Câu phi đối trị” (đều cùng chẳng phải đối trị) nghĩa là Tín và Giới.

Giải thích thứ hai, ba như Tín, Tư, Biên là trị hàng phục. Giới và rốt ráo chẳng phải hai đối trị, nên không có đối tượng “duyên” (sở duyên), vì không có “hoặc” để dứt trừ.

11/ Y cứ ba phẩm giới để nói đối trị thuộc nhau, nghĩa là trí hiện quán đế có thể dứt trừ ba phẩm phiền não của chín địa, cho nên gọi là đối trị dứt trừ. Năm hiện quán còn lại, thuận theo trí đế để giúp đỡ cho trí đế, không gọi là đối trị dứt trừ, do đây chứng tỏ sau vô lậu được chẳng phải đối trị dứt trừ.

12/ Nói về quả được Biến tri. Xét Bà-sa quyển sáu mươi hai nói về chín Biến tri: “Do cõi Dục, Kiến diệt dứt trừ hết là Biến tri thứ ba.

Cõi Sắc Vô Sắc do kiến diệt dứt trừ hết là Biến tri thứ tư. Cõi Dục do kiến đạo dứt trừ kiết hết là thứ năm. Kiến đạo của cõi sắc, Vô Sắc đã dứt trừ kiết hết là thứ sáu. Đây là y cứ vào thứ lớp đế mà nói thế này: “Nay, trong luận này, vì phiền não dứt trừ do Kiến diệt đoạn hệ thuộc cõi Dục, nên lập thứ hai. Vì phiền não dứt trừ do kiến đạo dứt trừ, nên lập thứ tư. Vì Kiến diệt dứt trừ của cõi sắc, Vô Sắc, nên lập thứ năm. Vì kiến đạo dứt trừ nên lập thứ sáu: Đây là y cứ theo thứ lớp của cõi mà nói rằng: “Luận Bà sa kia y cứ vào pháp. loại mà đoạn chứng theo thứ lớp mà nói là thứ lớp. Nay, trong Đại thừa y cứ kiến đạo chân thật dứt trừ trong một lúc. Vì giả lập bày trong tướng Kiến đạo, nên tùy căn cơ thích hợp, nói là theo thứ lớp.”

Nói một, được quả chín Biến tri, nghĩa là trí hiện quán đế. Do văn này và được quả sau rằng: “Vì một được tất cả bốn quả, nên biết hiện quán của trí đế có cả đạo Kiến, Tu, Vô học.” 13/ Nói về lúc dứt “hoặc”.

Nói “Lúc phiền não dứt trừ (đoạn) với thời gian đối trị sinh đều bình đẳng, bình đẳng: “nghĩa là từ xưa đến nay, các Luận sư Đại thừa đều nói là các cách dứt “hoặc” không đồng nhau: 1- Cận trước, Luận sư Thập địa dựa vào Văn Thập địa cho rằng thời gian chẳng phải ban đầu, chẳng phải giữa, sau, vì lấy cả trước, giữa, sau, tức nói là Thánh đạo một vận chuyển nối tiếp nhau, thời gian trước, sau kết hợp nhau, “hoặc” bất sinh, gọi là dứt “hoặc”, chứ không phải là dùng riêng một niệm vô ngại chánh dứt, vì thể của giải thoát chứng rất sâu sắc.

2) Cận đại, Nhiếp Luận sư dựa vào văn Nhiếp Luận, tập trung tư tưởng để tu Sát na, có khả năng tiêu diệt các nhóm “hoặc”, tức nói là nghĩa đồng với Tiểu thừa, rằng, vô ngại với hạt giống “hoặc” đã dứt trừ, đồng thời cùng nhập vào quá khứ, gọi là dứt trừ “hoặc”. Các Luận sư này do chưa nhận thấy được Thánh giáo rộng lớn của Du-già, tùy tình an lập đạo lý chân thật tuyệt với! Văn Du-già có hai ý nói:

1) Y cứ chung ba đời nối tiếp nhau, để nói về dứt trừ. Không dứt, cho nên luận trên nói rằng: “Chẳng phải dứt trừ quá khứ, vị lai, hiện nay. Tuy nhiên nói dứt trừ ba đời là vì sao? Vì hạt giống “hoặc” trong quá khứ đã diệt mất, nên không có pháp nào để dứt; còn hạt giống “hoặc” ở vị lai thì chưa có, cũng không thể nói là dứt trừ và ngay một niệm trong hiện tại, tự nhiên diệt hoại, cũng không thể dứt.

Trên đây là y cứ vào tánh “hoặc” của ba đới để tìm kiếm, đều không thể dứt, tức tương xứng với luận Thập Địa cho rằng: “Thời gian chẳng phải ban đầu, chẳng phải giữa, sau”, nhưng nhân quả của hạt giống “hoặc” ba đới sinh nhau, thừơng ràng buộc người tu hành, không được giải thoát. Do Thánh đạo khởi, không khởi hạt giống “hoặc” làm nhân không thành, gọi là đoạn tuyệt quá khứ. Vị lai lẽ ra sinh, bất sanh, gọi là dứt trừ vị lai. Thánh đạo đã sinh, hạt giống “hoặc” đã diệt, gọi là đoạn hiện tại.

Y cứ vào lý như thế, nhưng nói là đoạn ba đời, tức đồng với lấy trước, giữa, sau của luận Thập Địa. Đây chính là y cứ chung ba đời, để nói về dứt trừ, không dứt trừ hạt giống “hoặc”.

Thứ hai y cứ trực tiếp trong đoạn, nhằm nói về tác dụng của pháp đoạn.

“Nếu Thánh đạo kia sinh cho đến “hiện tại” v.v… nghĩa là tùy phẩm “hoặc’ thô, tế diệt, nhập quá khứ, lại không nối tiếp nhau, gọi là dứt trừ “hoặc”. “Giải”, “hoặc” trái nhau, như ánh sáng xua tan bóng tối, không đồng thời dứt trừ. Theo đây, vì phân biệt có Thánh giáo, nên nói có thể Y cứ.”

14/ Nói về được bốn quả. “Một là được tất cả bốn quả”, nghĩa là trí hiện quán đế. Một khi được quả Sa-môn viên mãn, nghĩa là Tận trí của niệm ban đầu là đạo Giải thoát. Chưng quả thứ tư, tức hiện quán rốt ráo. Pháp còn lại là được giúp đỡ, là được công hạnh trước. Bổ Khuyết rằng: “Tu và Tín hữu lậu là khi được bốn quả, mỗi quả đều là đạo phương tiện xa, gọi là thực hành hạnh trước. Biến Tín Giới vô lậu, khi chứng bốn quả, nếu ở trong Hướng là được hạnh trước. Nếu khi đắc quả, là được bạn hỗ trợ.”

Pháp sư Thái nói: “Bốn hiện quán khác, ngay từ lúc đầu đã là được một gia hạnh của Sơ quả, là hỗ trợ đạo vô tướng kia, được đạo phương tiện của hạnh trước của sơ quả.”

Lại, giải thích Bốn quán hiện còn lại là được tất cả bạn hỗ trợ. Vì hiện quán Tư đã khởi trước nhất, nên được thực hành đạo Phương tiện trước khi đắc quả.”

Lại, giải thích: “Bốn hiện quan còn lại là đã được bạn hỗ trợ một trong bốn quả là được công hạnh bốn quả viên mãn, của trước kia.”

15/ Chuyển căn. Nói “Trừ một, tất cả khác”, nghĩa là trừ giới, năm pháp còn lại đều có thể chuyển căn. Do đoạn văn này, chứng tỏ rằng, Phàm, Thánh, hữu Lậu, Vô Lậu, Định, Tán đều có công năng chuyển căn.

16/ Nói dẫn các đức thù thắng như thần thông v.v…

“Trừ một, tất cả khác”, ở đây có hai giải thích: 1) “Trừ giới, năm thứ khác” 2) “Trừ hiện quán Tư, năm hiện quán còn lại có thể dẫn phát.

17/ Nói về tác nghiệp. Ý nói “Một phần hiện quán Tín có công năng đi qua đường lành làm nghiệp”: Ở đây là phân biệt với Tín vô lậu tạo nên nhân Dị thục, nen nói một phần”.

18/ Nói về sự khác nhau. Sự khác nhau của hiện quán trí đế gồn có ba mươi bảy phần Bồ-đề v.v… Hai hiện quán sau cũng phải dùng văn này đế chứng minh bốn thần túc có cả Chánh trí và Trí Hậu đắc.

19/ Nói y cứ vào danh, ngôn đã an lập, để nói về tự tánh, như văn.

20/ Trong phần nói về nhân, quả, hiện quán Tư dùng bốn Chi Dự lưu làm nhân, dùng sáu nghiệp làm quả, văn còn lại rất dễ hiểu).

21/ Với bảy tác ý thuộc nhau. Hai hiện quán chẳng phải thuộc về tác ý, nghĩa là Tư và Giới. Vì Giới là sắc pháp, nên chẳng phải tác ý. Tư ở cõi Dục; còn Tác ý thì ở địa định.

“Một hiện quán thuộc về Lạc, thuộc tác ý: Hiện quán Tín y cứ thuộc về Tuệ có chung, thuộc về tác ý lạc, sinh tín, ưa đối Tam Bảo.

Một hiện quán thuộc về lạc, thuộc tác ý quán sát, nghĩa là hiện quán biên.

Một hiện quán xa lìa bao gồm phương tiện Lạc, thuộc về tác ý rốt ráo, nghĩa là hiện quán trí đế. Do dứt trừ ba phẩm đầu trong chín phẩm “hoặc” của mỗi địa, nên gọi là tác ý xa lìa. Dứt ba phẩm giữa, gọi là thuộc về tác ý lạc. Dứt trừ ba phẩm sau, gọi là tác ý rốt ráo của phương tiện.

Một hiện quán phương tiện, rốt ráo tác ý của quả, nghĩa là hiện quan rốt ráo. Tác ý khác là hiện quán Đẳng lưu, chẳng phải thuộc về hiện quán, nghĩa là Tác ý thắng giải tướng liễu: Thắng giải của tướng liễu chẳng phải thuộc về hiện quán, vì sao? Vì Tư là ở cõi Dục. Vì hai hiện quán này là địa định, nên không thuộc nhau. Tín, hiểu Tam bảo, ưa quán công hạnh nhàm chán của hai Tác ý này, vì không “duyên” Tam Bảo, nên không thuộc về Tín. Hai Tác ý và Giới, vì sắc, tâm khác nhau, nên cũng không thuộc về nhau.

Hiện quán Biên là trí vô phân biệt. Hiện quan Biên là tướng kiến đạo. Hiện quán rốt ráo ở Vô học. Hai tác ý này khác với hai hiện quán này, nên cũng không thuộc nhau, chỉ nhân hạnh nhàm chán của Hậu trí hiện quán, mà khởi lên hai thứ tác ý này, nên thuộc về hiện quán Đẳng lưu.

22/ Trí Vô Biên tế và Thuận Quyết Trạch Phần, thuộc về hiện quán nào?

Đáp: “Chẳng thuộc về hiện quán, mà là Đẳng lưu. Bổ khuyết có nhiều giải thích:

1- Giải thích: “Trong phương tiện trước của Kiến đạo, quán chung pháp Vô Biên Tế và Vô ngã, gọi là Trí vô biên tế.”

2- Giải thích: “Theo thứ lớp chín phẩm của Thiền lự thứ tư, từ hạ sinh trung; từ trung sinh lên trí thượng, gọi là trí biên tế. Trí này cộng với trên, lại không thêm lỗi, gọi là Trí vô Biên tế. Trí này không có bộ phận duyên. Vì hiện quán là “duyên” Bộ phần, nên không thuộc nhau. Thiện căn của Quyết trạch phần là thể của phương tiện nhập Thánh, là Tu tuệ, chứ chẳng phải là Tư, tín, vì là hữu lậu, nên chẳng phải giới, cũng chẳng thuộc về ba quán sau, rất dễ hiểu.” Lại nói rằng: “Trí của tất cả pháp vô ngã, các hành vô thường; Niết-bàn vắng lặng v.v… gọi là trí vô biên tế.”

Hỏi: Bốn thiện căn như Noãn v.v… thuộc về hiện quán nào?

Đáp: “Luận Thành Duy Thức quyển chín nói: “Các Thiện căn như Noãn v.v… không thể phân biệt rộng về tánh. Lại vì chưa chứng lý, nên chẳng thuộc hiện quán.”

23/ Thực hành một hạnh đối biện về thuộc về nhau. Đầu tiên đem Tư đối với Tín để thực hành bốn trường hợp:

1. Có Tư chẳng phải Tín, trừ “duyên” tư duy Tam Bảo, các pháp khác “duyên” Tư.

2. Có Tín chẳng phải Tư, nghĩa là “duyên” Tam Bảo, Tín tương ưng với Văn, Tu.

3. Đều có, là “duyên” tư duy Tam Bảo: Đây là thuộc về chung có nêu ra thể, Tín tương ưng với Tư. Tín cũng gọi là Tư; Tư cũng gọi là Tín, nên nói “duyên” tư duy Tam Bảo.

4. Vừa Tư, vừa Tín. Đều cùng chẳng phải (câu phi), trừ các trường hợp trên.

Do lý này, nên biết được các pháp khác cũng thực hành bốn trường hợp: Đem Tư đối với Giới và đối với ba hiện quán sau, đều không thuộc nhau. Đem Tín đối với Giới, vì sắc khác với Tâm, nên cũng không thuộc nhau. Đem Tín đối là thứ Tư, nếu y cứ vào tương ưng nêu ra Thể thì được lập hai trường hợp, chỉ có quán thứ tư, tức thuộc về quán Tín.

Có khi Tín chẳng phải thứ tư, nghĩa là Tín tương ưng với quán khác. Đem Tin đối với Biên, đối với quán rốt ráo. Y cứ tương ưng nêu ra thể, đều thành hai trường hợp. Kế là đem Giới đối với ba hiện quán sau, cũng không thuộc nhau. Kế là đem thứ tư đối với hai luận sau, cũng không thuộc nhau. Thứ năm, thứ sáu cũng không thuộc nhau.

Về sau, có vô lượng, một hạnh thuận với các trường hợp trước:

Theo vào luận Tỳ-Bà-Sa, một hạnh có hai giải thích:

1. Do đạo một hạnh, dùng lý chung để hỏi, gọi là một hạnh.

2. Lại giải thích: Hỏi: “Pháp không giống nhau, không dùng định thế gian, gọi là một hạnh. Nay, văn luận này tức đồng với giải thích trước. Dùng một câu hỏi, một danh, một hạnh, nên dùng hẹp để hỏi rộng, thuận với lời đáp câu hỏi trước. Như hỏi:

“Lúc khinh an khởi, thì có mười vô tham v.v… phải không?”

Đáp: “Nếu có khinh an, thì cũng có mười thứ khác. Thuận với câu sau: dùng rộng hỏi hẹp, thuận với lời đáp câu sau. Chẳng hạn như hỏi:

“Khi mười thứ như vô tham v.v… khởi, tức có khinh an phải không?

Đáp: “Chỉ có khinh an, tức có mười thứ khác. Tự có mười thứ khác mà không có khinh an, nghĩa là tâm thiện của Địa tán. Bốn trường hợp, nghĩa là nếu có thể của pháp kia có rộng, hẹp lẫn nhau, tức thành bốn trường hợp. Như hiện quán Tư đối với hiện quán Tín, được thành bốn trường hợp. Như hiện quán Tư chỉ ở cõi Dục, tức là hẹp. “Duyên” có cảnh duyên của các pháp, tức hiện quán ấy rộng. Thể của hiện quán Tín có cả giai vị hữu lậu, vô lậu của chín địa, tức rộng. Chỉ “duyên” Tam bảo, cảnh giới đó hẹp, nên trở thành bốn trường hợp. Luận rộng về, Tín, thật ra “duyên” muôn pháp, mà tướng của văn luận chỉ y cứ “duyên” Tín Tam Bảo, nên thành bốn trường hợp. Nếu không có rộng hẹp thì sẽ có câu đáp lại trường hợp vô sư. Như cảnh “sở duyên” của Noãn, tức sở duyên của Đảnh ư?”

Đáp: “Đúng thế! nghĩa là chỗ (lĩnh vực) mà Đảnh đã “duyên”, tức sở duyên của Noãn ư?”

Đáp: “Đúng thế!”

“Quyển sáu mươi mốt nói về sự keo kiệt kết hợp với nhơ bẩn, gọi là vết nhơ keo kiệt. Luận sư Cảnh cho rằng:

1. Về Tuệ thí, trước không quán tập v.v… Tức y theo nghĩa tâm yêu mến coi trọng của cải, cái ăn, nói là keo kiệt.

2. Đối với thân mạng, rất coi trọng, cố luyến v.v… phải biết rằng, đoái tưởng đến thân mạng hiện tại, lại là nghĩa tham ái, nói là keo kiệt.

3. Với kẻ keo kiệt, thường cư ngụ chung, lại thuận theo họ, nghĩa là tâm nhiễm, tâm vô ký, thuận theo kẻ keo kiệt, đều gọi là keo kiệt.

4. Ruộng được kiến thí cho, không có công đức vượt hơn, vì ruộng này từ tà kiến là keo kiệt và phân biệt, lựa chọn ruộng phước, nghĩa là kiến có giữ giới, phá giới, tức nói giới thủ, cho đó là sự keo kiệt.

5. Không quán tập từ bi: Y cứ theo nghĩa sân, nói là keo kiệt và đối với chỗ kia, không thấy đức vượt hơn, nghĩa là tâm tìm kiếm lỗi xấu ác, lấy đó làm keo kiệt.

6. Vì các của báu khó có thể chứa nhóm, thường lập tưởng kia, nghĩa là đối với của báu, trí nghĩ khó được, sinh ra trễ nãi, lười biếng, chính nghĩa trễ nãi, lười biếng là keo kiệt.

7. Chấp lấy kiến và cho là tuệ xả có tạp nhiễm kia, tức nói kiến thủ là keo kiệt.

8. Mong cầu của báu mà thực hành tuệ thí và hồi hướng cho người kia: Cầu của là tham, thực hành thí cho, hồi hướng, hể mong được nhiều của cải cũng là tham. Pháp sư Thái nói: “Phần nhiều tham đối với tám thứ, gọi là nhơ bẩn. Chấp lấy ở kiến thứ bảy là Kiến thủ và cho là tuệ thí, xả tài vì chỉ có quả tạp nhiễm của sinh tử kia, nên không thí cho tuệ. Đây là phương tiện chung, vì cho rằng chẳng phải phương tiện này, nên thuộc về tà kiến. Văn khác rất dễ hiểu.

Quyển sáu mươi hai nói về điều thiện. Trước nói về điều thiện có năm. Sau, nói về năm tướng. Nhân của năm điều thiện, như thứ lớp, có thể phối hợp.

Quyển sáu mươi ba nói có bảy điều thiện trong kinh:

  1. Biết pháp.
  2. Biết nghĩa.
  3. Biết thời gian.
  4. Biết lượng.
  5. Biết chúng.
  6. Biết cao, thấp.
  7. Biết mình.

Trong biết pháp nói “Thế nào là biết rõ nhiếp thọ? Nghĩa là khả năng biết rõ về danh, cú, văn Thân. Do đây, nói rộng pháp môn sai khác, nghĩa là do danh, cú, văn, thân nói rộng về pháp môn khác nhau của uẩn, giới v.v…

Trong biết nghĩa, 1) biết duyên, nghĩa là biết rõ một phần nghĩa đã giáo hóa, nên thị hiện và đến một phần nghĩa đã giáo hóa, nên ái, hỷ. Đây là thị hiện lợi, hỷ của giáo. 2) Biết câu sai khác, nghĩa là hiểu rõ về tướng khác của môn khác, chỉ dạy, giải thích rõ về điểm khác nhau của phẩm loại ngôn từ. Như thuộc về môn khác, thuộc về các thuyết trong phần giải thích. 3) biết rõ thứ lớp, nghĩa là khả năng biết rõ, giải thích theo thứ lớp. Như giải thích Bốn đế, trước khổ, sau Thánh đạo. Giải thích trong năm uẩn, trước thức, sau thức. Giải thích trong mười hai chi, trước, giải thích vô minh; sau giải thích già chết v.v…

Thành lập thứ lớp v.v… Nghĩa là trước hết, lập Tông; kế là, nhân; sau là dụ v.v…

Thứ lớp viên mãn: Trước thực hành (gieo) nhân sau, mới đắc quả. Y cứ trong hạnh, bắt đầu là mười tín, sau cùng là mười địa, nhân là viên mãn v.v…

“Biết thời gian trong năm tướng”. Luận sư Cảnh nói: “Hai biết trước lúc khởi nhiễm: 1) Biết đang khởi nhiễm, sinh nhàm chán. 2) Biết khi sinh khởi nhiễm, phải đề phòng về sau. 3) Biết khi khởi tịnh, trong đó lại biết hai thời gian: Chính khởi, sắp khởi để tác ý pháp tịnh, riêng tu. 4) Tác ý đối trị đẳng khởi: Biết phiền não như thế, khởi đối trị như thế. Nghĩa là đối với kẻ nặng nề tham dạy họ quán bất tịnh v.v… 5) Tác ý đối trị, nghĩa là thời gian khởi hạnh quán. Pháp sư Thái nói: “ 1) Biết chính khi, “hoặc” khởi. 2) biết khi, “hoặc” sắp khởi. 3) Biết khi “hoặc” không khởi. 4) Biết đối trị nhân đẳng khởi. 6) Biết khi đối trị sát na đẳng khởi.

Trong biết lượng rằng: “Đại khái nói hai thứ tánh thuận theo dứt trừ: hai thứ thuận với vô vi đoạn.

1. Nhậm trì tánh thuận theo, nghĩa là đối với thức ăn v.v… khéo biết số lượng, gọi là thuận theo vô vi đoạn.

2. Thuận theo tinh tấn, nghĩa là trong mọi cử chỉ đi đứng v.v… khéo biết so lường, nên thuận với vô vi đoạn. Đây là giải thích sơ lược hai thứ. Dưới đây sẽ giải thích hai thứ (như văn, rất dễ hiểu)

“ Một chỗ cao, thấp giải thích chung” nghĩa là từ “ khéo biết chúng sinh sát-đế-lợi cho đến “sư Du-già như thế” v.v…”.

Trong giải thích tự biết, văn chia làm ba:

1. Nói về khéo biết đi đến v.v… cho nên im lặng như văn rất dễ hiểu.

2. Nói về tướng mạo của tín, bất tín, trong đó chia làm hai:

a) Nói tự biết có niềm tin, cho đến “là người thiện nam”. Pháp sư Thái nói: “Trong đây đồng với luận Thành thật và mười thứ thí dụ của Tỳ-Bà-Sa. Cần chi Thiền địa, như văn rất dễ hiểu.

Nay, xét văn này có mười chi:

  1. Tín, vì đầu tiên nhập đạo, gọi là chi Thu nhập.
  2. Do giới sinh định, giới là chi chỉ.
  3. Nhân nghe định Tuệ, gọi là chi tư lương.
  4. Xả ích đắc, tuệ, gọi là chi quán.
  5. Tuệ do Tư Thành bên trong.
  6. Thuận theo giáo thọ răn dạy người khác. Vì y chỉ hai pháp này, nên chứng chỉ quán
  7. Do chỉ quán nên chứng quả Thánh.
  8. Đối với pháp mình đã chứng, nếu có nghi “hoặc” vì dứt trừ nghi ngờ đó, nên vì nói rộng và có biện tài để hàng phục luận của người khác.
  9. Nhẫn nhục.
  10. Nhu hòa. Đây chính là đối với thân, nghĩ của người khác, khi tà hạnh khởi, phải có tánh của người thiện nam thuộc về hai nghiệp này.

b) Nói về tướng bất tín v.v… trong đó được chia làm hai:

  1. Nêu mười thứ ba duyên để nói về phẩm Hắc.
  2. Trái lại, làm rõ phẩm bạch.

Trong phần trước nói rằng: “Che khuất Tuệ, Tuệ vượt hơn: giống như úp bát không nhận vật, Tuệ chậm lụt cũng thế, vì không tiếp nhận pháp. Nói che kuất tuệ, cũng như khi hạt cỏ v.v… dính trên gối, lúc ngồi thì nó bám dính, khi ta đứng dậy, nó rơi xuống. Tuệ chậm lụt cũng thế. Khi ngồi thì nghe pháp, lúc đứng lên, lại quên mất, nên nói tuệ vượt hơn.”

Dưới đây, nói về đi dạo quan, tìm kiếm văn, rất dễ hiểu.

Quyển sáu mươi bốn, nói về hai thứ dục sắc, gọi là thô:

1. Vì số nhiều nên thô: như hai trần hương, vị của nam, nữ, chỉ ở cõi Dục, vì số nhiều nên thô.

2. Nặng nề: Các sắc của cõi Sắc nhẹ, mầu nhiệm, giống như ánh sáng. Sắc của cõi Dục nặng. Lại, như y cứ vào lượng. Bốn đại, lượng áo của trời Tứ vương là sáu lượng, cho đến áo của các vị trời cõi Sắc, không theo chuẩn tắc xứng lượng. Bốn việc kiên cố mạnh mẽ, nghĩa là không mềm mại. Năm đổi thay hư hoại, nghĩa là trời, người cõi Dục, chặt dứt tay chân v.v… của họ, bị biến hoại. Cõi Sắc thì không như thế. Dưới đây, là kết pháp khác không biểu hiện.

Trên đây, văn của bốn quyển rưỡi, quyết định lựa chọn Địa Thanh văn xong.

Dưới đây là nên theo thứ lớp quyết định lựa chọn văn của Địa Độc Giác. Vì nghĩa văn của Bản địa Phần đã rõ ràng, nên không quyết định lựa chọn, cho nên nói rằng: “Lại, các quyết định lựa chọn của Địa Độc Giác, cũng không biểu hiện lại nữa.

 

BẢN LUẬN QUYỂN 72

Dưới đây là thứ mười một, quyết định lựa chọn Địa Bồ-tát. Có văn của tám quyển rưỡi, trong đó, trước, là kết trên, sinh dưới. Sau chính thức quyết định lựa chọn rộng.

Y cứ trong chanh quyết định lựa chọn, nếu theo Bản Địa Bồ-tát thì có bốn thứ xứ Du-già. Nay trong đây, quyết định lựa chọn ba thứ trước, lược không quyết định lựa chọn thứ lớp Du-già, vì ngoài ba Trì không có tự Thể của pháp thứ tư riêng để được.

Y cứ vào văn trong quyết định lựa chọn ba trì, được chia làm hai: trước, là theo thứ lớp quyết định lựa chọn ba trì. Sau, dẫn kinh Bảo Tích, để giải thích mười sáu pháp môn.

Y cứ quyết định lựa chọn ba trì trước, tức là ba đoạn:

1- Trước, quyết định lựa chọn Du-già sơ trì kế là từ phẩm công đức đã nói như thế” trở xuống, quyết định lựa chọn Du-già Tùy pháp trì.

3- Từ “hỏi, như trước đã nói một trăm bốn mươi Bất Cộng Phật pháp “trở xuống, quyết định lựa chọn Du-già Cưu cánh trì.

Y cứ quyết định lựa chọn sơ trì, chỉ quyết định mười sáu phẩm trong Du-già, không quyết định bốn nhiếp, phẩm vô lượng cúng dường thân cận. Vì nghĩa văn rõ ràng, nên không còn quyết định lựa chọn.

Y cứ trong quyết định mười sáu phẩm, được chia làm mười một đoạn:

  1. Quyết định chọn phẩm chủng tánh.
  2. “Lại nữa, mười thứ phát tâm “trở xuống, là phẩm Quyết Phát Tâm
  3. “Lại nữa, Bồ-tát có chín chánh hạnh v.v…” trở xuống, quyết định lựa chọn phẩm tự lợi tha.
  4. “Lại nữa, nếu muốn biết rõ v.v…” trở xuống là quyết định phẩm Chân Thật Nghĩa.
  5. Như thế, đã nói phần nghĩa chân thật”trở xuống:là quyết định phẩm Oai Lực.
  6. “Lại nữa, ở trong Đại Thừa v.v…” trở xuống, là quyết định phẩm thành tựu.
  7. “Lại nữa, như văn sở thành địa v.v…” trở xuống, quyết định phẩm Bồ-đề.
  8. “ Thế nào là hay khen ngợi v.v…” trở xuống, là quyết định phẩm Lực Chủng Tánh.
  9. “Lại nữa, như các Bồ-tát đã thực hành tuệ thí” trở xuống, quyết định lựa chọn sáu phẩm như thí v.v…
  10. “Lại nữa, trụ theo quán thân” trở xuống, quyết định phẩm Bồ-đề phần.
  11. “Lại nữa, đối với Đại thừa v.v…” trở xuống, là quyết định phẩm Công Đức.

Đầu tiên nói: “như thành lập chủng tánh Thanh văn, phải biết rằng, Bồ-tát cũng giống như thế”. Đây là nói về nghĩa có hay, không chủng tánh Bồ-tát, đại khái giống như thuyết của Địa Thanh văn nói.

Thứ hai, trong phần nói về phát tâm trì, trước, là nói về mười thứ phát tâm. Sau, nói về bốn thứ thường giữ gìn tâm.

Trong phần trước, phát tâm có mười, tức là năm cặp. Luận sư Cảnh nói: “Xưa, phán quyết ba trì gồm có nhiều thứ: có thuyết nói: “Mười giải là chủng tánh trì: Mười hạnh gọi là phát tâm trì: Thập Hồi hướng trở đi, gọi là hành phương tiện trì”.

Có thuyết nói: “Thập Tín là chủng tánh; Thập giải là phát tâm. Thập hạnh trở lên, là hành hương tiện. Nay, theo luận phán quyết, nếu ở trước đã thành chủng tánh, chưa khở hiện hạnh thì gọi là giai vị chủng tánh. Như luận trước đã nói là Thập Tín trở xuống, gọi là chủng tánh. Trì; Thập Tín, tức gọi là phát tâm; Thập giải trở lên, gọi là pháp Bồ-đề phần. Nếu y cứ vào hai thứ: Tánh, tập, thì đều gọi là chủng tánh, tức là Thập Tín và Thập Tín trở xuống đều gọi là chủng tánh trì. Thập giải có phát tâm trụ, tức là phát tâm trì. Thập hạnh trở đi, gọi là Bồ-đề phần pháp. Hoặc y cứ ở chưa khởi hiện hạnh vô lậu trong tăng-kỳ đầu của Địa tiền, đều gọi là chủng tánh trì. Tăng-kỳ thừ hai, gọi là phát tâm, vì Sơ địa trở lên, chân chứng phát tâm. Tăng-kỳ thứ ba, đạo không có dụng công, gọi là Bồ-đề phần pháp, trong Bồ-tát địa chưa nhập kiến đạo, chỉ dựa vào định hữu lậu để nói, chủ yếu là kỳ hạn nhiếp thọ, gọi là thế tục thọ phát tâm, được nhập trên Sơ địa, chứng “hai không” hiển bày chân như, tức gọi là chân chứng phát tâm. Và, hồi hướng trên bốn quả Thanh văn, đã chứng nhân không, làm sáng tỏ chân như, cũng gọi là pháp tánh phát tâm. Một cặp này thuộc về hết phát tâm, bốn cặp còn lại, vì môn khác nhau, nên đến.

Người không có chủng tánh, quá duyên tạm thời phát mà không quyết định. Giả sử chủng tánh của Bồ-tát, Thập Tín trở xuống dù có hạt giống của Đại thừa, nhưng vì chưa thu tập lâu, nên vẫn có lui sụt, gọi là bất tịnh. Trái lại, gọi là quyết định phát tâm. Đây là ý nói thuộc về hết nghĩa phát tâm. Kế là, đối với cặp tịnh, bất tịnh, rất dễ hiểu.

“Cho đến rằng, đã thành quả phát tâm”, nghĩa là Như lai đã có phát tâm. Hỏi: “Ở nhân chưa mãn có thể phát tâm. Quả của Phật địa đã mãn, sao gọi là phát tâm?” dưới đây sẽ dẫn kinh để đáp:

“Như đạo Thế Tôn đã nói cho đến” cũng muốn cho cõi khác cùng chứng Bồ-đề”. Y đáp rằng, ở giai vị Phật tự chánh nguyện viên mãn, chỉ Đức Phật muốn cho cõi khác chứng Bồ-đề, gọi là Phật phát tâm”.

Mười phát tâm này, nhiễm, bất nhiễm v.v… đều có rất nhiều nghĩa, không thể nêu rộng, nên nói rằng: “Lại, không biểu hiện nữa”.

Pháp sư Thái nói: “Đã phát tâm, nghĩa là Như lai địa đã có phát tâm, vì tâm khởi ở quả Phật, nên gọi là phát tâm, chứ chẳng có điều mong cầu”.

Luận sư Khuy Cơ nói: “Người phát tâm thanh tịnh, bất thiện, chỉ do duyên ngoài mà phát tâm, chứ chẳng phải tự động phát khởi, nên gọi là không thanh tịnh. Thanh tịnh, thì trái lại, rất dễ biết.

Người phát tâm yếu kém, như có một người dù đã phát tâm Bồtát, nhưng vẫn còn bị các triền tham, sân, si, ràng buộc, che lấp, vì hàng phục, nên bỏ chánh hạnh, theo tà hạnh”.

Hỏi: “Tín v.v… trở xuống, là thuyết minh về bốn thứ gìn giữ tâm, vẫn thuộc về phát tâm, phải không?”

Đáp: “Phải nghĩa là phát tâm tương ưng với bốn thứ”.

Nói tư lương” Như địa Thanh văn đã nói mười ba tư lương v.v…

Thứ ba, trong phần nói về gia hạnh trì, phẩm lợi mình, lợi người (tự lợi, lợi tha) trong đó có ba:

  1. Nói về chín chánh hạnh.
  2. Nói về tà hạnh.
  3. Nói tánh không kham nhậm.

Trong phần đầu nói rằng: “Người thực hành chánh hạnh ở trong sinh, tử” nghĩa là như người bệnh, đã có bệnh đối với thuốc đắng cay, thực hành công hạnh khó làm ở trong sinh tử, như vì chữa bệnh, nên uống đắng cay thực hành công hạnh khó làm ở trong sinh tử, như vì chữa bệnh, nen uống thuốc đắng cay.

Nói “Người thực hành chánh hạnh ở tên tự thể”, nghĩa là như gia trưởng khéo léo đối với trẻ con chưa thanh thục, tự xét mình là sái quấy, theo lẽ phải, chẳng hạn như gia trưởng kia giáo dục con cái của họ. Gia trưởng dụ cho công hạnh của Bồ-tát. Con trẻ chưa thành thục, dụ cho các đức hạnh chưa thành.

“Thực hành chánh hạnh ngay trong các dục”, nghĩa là như lái buôn, trên đường đi buôn mang theo vải lụa, vàng ngọc. Đối với cảnh năm dục, Bồ-tát thường giữ gìn các hạnh, như các người đi buôn bảo vệ của cải khi vượt qua chặng đường đầy nguy hiểm.

Về hành động của thân, ngữ, ý đối với chánh hạnh, như người giặt áo đối với y phục. Bồ-tát tu trị ba thừa, như giặt, nhuộm áo, thục hành chánh hạnh trong Xa-ma-tha ở nội tâm, như chủ buôn nọ đối với người có rât nhiều của cải, có thể ủy thác cho họ.

Dựa vào định khởi hạnh, công hạnh sẽ không nghiêng động, như người để của cho kẻ đáng gửi gắm cho họ.

Thực hành chánh hạnh trong Tỳ-Bát-Xá-Na của pháp tuệ tăng thượng, như nhà ảo thuật khéo léo đối với các việc ảo thuật. Dựa vào tuệ khéo léo để tập khởi các hạnh, như nhà ảo thuật giỏi tập khởi trong các trò ảo thuật.

Kế là, nói về tà hạnh, trong đó: 1/ Nêu lên năm thứ có tánh, rất dễ hiểu. 2/ Nói về khởi tà hạnh. Luận sư Cảnh nói: “Tà hạnh trong đây, nói là ở trong đây, hoặc tạo nên gia hạnh, nghĩa là thực hành gia hạnh. Thực hành tà gia hạnh. Hoặc không làm gia hạnh, nghĩa là người không có tà gia hạnh, không có tâm cứu giúp, hoặc gia hạnh không lợi ích, nghĩa là có ý định cướp đoạt v.v… Hoặc gia hạnh trung dung, nghĩa là đối với năm cảnh này, dù khởi thân, ngữ, nhưng không làm tổn hại, không làm lợi ích, đều không có thương xót.”

Luận sư Tăng Huyền nói: “hoặc thực hành gia hạnh, nghĩa là đối với người cầu xin, lẽ ra phải ban cho của cải, vật dụng, đàng này trái lại, còn áp đảo, mắng nhiếc, nên nói là thực hành gia hạnh. Lại, không thực hành gia hạnh, nghĩa là đối với người gặp phải tai nạn nguy hiểm, không thực hành gia hạnh cứu giúp. Hoặc không gia hạnh lợi ích, nghĩa là có người ngu không có khaảa năng cúng dường.

Gia hạnh trung dung, nghĩa là trong hai người sau, lẽ ra phải tạo nên gia hạnh của phẩm thượng là nói giáo pháp, mà lại thực hành gia hạnh trung dung (lưng chừng) không thể tổn ích.”

Dưới đây, là nói, tánh không kham nhận thì Chư Phật không cứu vớt. Quyết định lựa chọn năm thứ tánh không có kham nhận trong phẩm lợi mình, lợi người của Bản địa, trước, là nói không kham nhậm. Sau trái lại, làm rõ kham nhận.

Trong phần trước, đã nói “Đối với gia hạnh không có tánh kham nhậm, cho đến “tu chánh phương tiện”, người này đồng với chúng sinh khác, có pháp giáo Niết-bàn, đã tu hạnh Địa tiền trong nhiều thời gian, gọi là nối tiếp nhau đã thành thục. Nhưng do tạo tác thừa che lấp chánh hạnh, nên không có khả năng tu chánh hạnh trong hiện pháp, cũng có thể đây là y cứ vào chủng tánh của Thanh văn, đã ở trong nhiều đời gieo trồng giải thoát phần và tu công hạnh thành tựu trong đời này. Do gặp phải duyên ác, tạo nên các nghiệp ác, không có khả năng tu chánh gia hạnh.”

Nói “Đối với quả kia được thành tựu xong, không có tánh kham nhận, cho đến thành xong quả kia, nghĩa là người này tu công hạnh địa, dù không có nghiệp ác che lấp chánh gia hạnh, nhưng do khi chưa thay đổi, nên không thể thành xong. Nhập quả của Sơ địa cũng có thể đây là y cứ ở người có tánh Thanh văn, dù không có nghiệp ác che lấp chánh gia hạnh, nhưng do thời gian tu chưa lâu, nên không hoàn thành quả Thánh đạo kia.”

Nói “Đối với gia hạnh và hoàn thành xong quả kia, không có tánh kham nhậm cho đến “đều không kham năng”, đây là ở vào thời gian tu Địa tiền chưa lâu, nên không thể thành xong quả Thánh của Sơ địa. Lại tạo nghiệp ác, gây trở ngại cho tu chánh hạnh.”

Nói “Đối với nhiếp thọ, lợi ích, không có tánh kham nhận, cho đến “không có khả năng khiến cho người kia được giàu to, không có thiếu thồn, được yên vui. Với định nghiệp nghèo cùng, Chư Phật không cứu vớt.”

Thứ tư, văn trong quyết định lựa chọn phẩm chân thật nghĩa, chia làm hai phần:

  1. Y cứ vào “ngũ sự” để nói nghĩa chân thật.
  2. Y cứ ở ba tánh để nói.

Trong phần trước có hai:

  1. Lược nêu năm sự, để làm rõ nghĩa thật.
  2. Giải thích chính đáng năm việc.

Đầu tiên, nói rằng: “Nếu người muón biết rõ nghĩa chân thật, tức là hai thứ chân thật và bốn thứ chân thật trong Bản địa phần.

Hai thứ chân thật: Như tánh sở hữu, cùng tận tánh sở hữu, bốn thứ chân thật, nghĩa là thế gian cực thành chân thật v.v…

Theo trong giải thích đúng, cóhai bài tụng, bài tụng đầu có mười môn: Nêu chung là thứ nhất; phân biệt riêng là thứ hai; “có” là môn có “không” thứ ba; Thật: là Môn giả, thật thứ tư; Thế tục là thế tục Thắng nghĩa đế phân biệt, là thứ năm; hoặc sinh thứ sáu; hoặc dị là thứ bảy; tướng là thứ tám; hành v.v… là thứ chín; sắc v.v… là thứ mười.

Dưới đây là văn xuôi, theo thứ lớp các môn để giải thích:

“Thế nào là năm sự? Cho đến năm chánh trí?” đây là giải thích nêu chung môn thứ nhất.

“Những gì là tướng?” Trở xuống, là giải thích môn phân biệt riêng thứ hai. Trước nói về Thể, danh, sau tùy văn, giải thích thể. Đầu tiên, tướng có năm thứ nêu ra thể:

1. Nếu y cứ có tự Thể, gọi là tướng, thì năm pháp đều gọi là tướng.

2. Nếu y cứ danh, nói chỗ an lập đủ, gọi là tướng, tức chỉ trừ chân như, bốn pháp còn lại, gọi là tướng, vì đối với pháp lìa tướng vô vi, nên nói bốn pháp hữu vi, gọi là tướng. Lại tự tướng của bốn pháp sau cũng không thể nói, nay y cứ cộng tướng có thể giải thích nên nói bốn pháp kia được gọi là Tướng. Gần do cộng tướng có thể nói. Xa, do tự tướng không thể nói.

3. Nếu y cứ vào ba cõi, đối tượng duyên (sở duyên) của tâm và tâm sở, gọi là tướng, thì sẽ lấy ba pháp trước nói là tướng, do tướng gọi là phân biệt, đều là ba cõi, đối tượng duyên của pháp tâm, tâm sở.

Đạo lý của ba pháp như thế cũng là đối tượng duyên của Hậu trí xuất thế, vì theo đa số, nên phán quyết như thế.

4. Nếu y cứ vào tướng phần sở duyên của hữu lậu, gọi là tướng, chỉ lấy hai thứ tướng và danh làm tướng, vì không chấp kiến phần, nên trừ phân biệt.

5. Nếu y cứ cái không thuộc bốn pháp thì đều gọi là tướng, nghĩa là năm căn, năm trần hoàn toàn là sắc thuộc pháp xứ, trừ danh, cú, vi, hai mươi mốt bất tương ưng v.v… còn lại.

Thứ hai, là Danh; thứ tư là chân như, lai không có tiến, lùi, chỉ mỗi một thứ. Thứ ba là phân biệt, thứ năm là chánh trí, tiến, lùi không nhất định. Nếu chánh trí kia lấy tâm hệ thuộc ba cõi gọi là phân biệt, thì tức sẽ lấy chung hai trí Như Lý, Như lượng trong chánh trí làm thể. Nếu chỉ lấy trí vô phân biệt trong Chánh trí, thì trong phân biệt, sẽ lấy chung tâm hệ thuộc ba cõi và Trí Hậu đắc, trí như lượng và tâm làm phân biệt.

Kế là giải thích danh kia. Năm là danh số; sự là nghĩa thể. Từ số y cứ vào nghĩa đặt tên. Giải thích danh riêng, nghĩa là thể trạng biểu lộ, gọi là tướng. giải thích, kêu gọi, gọi là, Danh. Tâm và tâm sở hữu đã lo nghĩ, gọi là phân biệt, đều từ nghĩa là chánh trí. Trái với tà là chánh. Quyết đoán gọi là trí. Lìa vọng, xứng chân không khác, gọi là như. Từ nghĩa được tên gọi là. Đã quyết định thể, danh, sẽ tùy văn giải thích.

Thế nào là Tướng? Nghĩa là nếu nói lược thì, nói bàn sự việc chỗ an lập đủ: Văn này tức nói bốn pháp là tướng. Trong tướng này, chia ra danh khác; nói là ngay nơi tướng đã có “tăng ngữ”, tức nói danh này là “tăng ngữ”. Các pháp không có danh, gượng gạo đặt tên, nên gọi là “tăng ngữ”. Chân như nghĩa là pháp vô ngã đã rạng rỡ v.v… Vì y cứ ở phần vượt hơn để luận, nên chỉ nói là: “Pháp vô ngã”.

Trong giải thích Chánh trí có hai:

  1. Chia ra chương, hỏi, đáp, phân biệt.
  2. Dẫn thuyết chúng thành thuộc đương nghĩa.

Nói “lại do Chánh trí này, nên các Bồ-tát kia đối với lĩnh vực năm minh, khéo tu phương tiện v.v…” Luận sư Cảnh nói: “Duyên” năm minh xứ, là trí như lượng, biết khi Bồ-tát tu ngũ minh, chủ yếu là dùng trí vô phân biệt “hai không” dứt trí, mới có thể quán suốt Pháp sự của năm minh kia. Thê nên, tu năm minh cũng là trí chân như của công hạnh xuất thế.”

Pháp sư Thái nói: “Bồ-tát ý mong cầu trí Nhất thiết, vì dứt trừ chướng sở tri, nên thường học năm minh, để hàng phục chướng sở tri. Lúc học năm minh, phần nhiều trụ nhất thiết biến mãn chân như, nên dứt trừ hạt giống chướng sở tri, với ý không cầu dứt chướng “hoặc”, nên không trụ nhiều quán bốn đế v.v…. Nhị thừa không cầu dứt chướng sở tri, nên không học năm Minh và không trụ khắp trí chân như.”

Luận sư Bị nói: “Đây là nói chân như khắp các Pháp sự, nên thấu suốt nghĩa chân như, tức hiểu khắp pháp năm Minh”.

“Những ai gọi là Chánh trí của thế gian, xuất thế gian? Đó là Thanh văn, Độc Giác v.v…”

Trong đây, vì theo đa số ảnh hiện, nên không nói là Bồ-tát. Kế là dưới đây, thứ ba, trong phần nói về môn “có, không”. Luận sư Cảnh, bổ khuyết rằng: “Hỏi: “Vì như tự tánh khác nhau, giả lập như thế, sẽ nói là có ư?”

Đáp: “Đúng thế, nói là không. Ý hỏi, như khi giả lập tự tánh sai khác, gọi là như.

Danh trở xuống tức có tự tánh khác nhau, thể tánh nhất định khác ư?”

Giải thích: “Tìm kiếm danh, chấp, nhất định, là biến kế sở chấp kia không có thể tánh.”

Hỏi: “Vì chân như phân biệt cảnh đã hiện hành, sẽ nói là “có” ư?

Đáp: “Sẽ nói là “có”, là nhân duyên có”

“Như thế, Bồ-tát cho đến “khéo ghi nhận là chẳng phải có, chẳng phải không có”, nghĩa là “có”, y cứ nhân duyên”có”, “không”, y cứ vào định tánh “không”, vừa có, vừa không, gồm hai pháp trước thành trường hợp thứ ba. Chẳng phải có tánh quyết định; chẳng phải không có nhân duyên giả có, là trường hợp thứ tư.

“Bồ-tát kia do khéo ghi nhận riêng như thế “khéo nói pháp giới”, nghĩa là lìa tánh quyết định, thêm lìa không có nhân duyên tổn diệt.

Nói “Nếu như lời nói an lập chỗ đủ như thế đểnói là nghĩa sẽ nói là “có”, nghĩa là các pháp cộng tướng là lĩnh vực (xứ) dựa vững của ngôn thuyết, nên nói là “có”.

“Nếu như tự tánh sai khác, giả lập nghĩa không thành tựu cho đến “sẽ nói là “có”, nghĩa là như gọi là chấp có thể quyết định sai khác của tự tánh, điều này không thành tựu. Nhưng có lìa ngôn thuyết, tự tánh cùa các pháp là “có”. Chánh trí chân như phải nói là “có”, cũng là lìa danh ngôn “có”.”

Luận sư Thái nêu rõ, làm sáng tỏ rằng: “Vì tướng là tánh của Y tha, nên phải nói là có. Chấp “có” tự tánh sai khác là giả lập biến kế sở chấp. Vì không thuộc về năm pháp, nên phải nói là “không”. Tướng là cảnh giới đã hiện hành của phân biệt thứ ba, vì thuộc về duyên, sở duyên nên phải nói là “có”. Biến kế sở chấp vì chẳng phải thuộc về duyên sở duyên, nên phải nói là “không”.

Sơ địa trở lên, các Bồ-tát đều khởi trí Hậu đắc. Đối với tướng phần mà trí đã biểu hiện, được khéo léo, nên nói rằng “Vì không có chấp, nên bốn trường hợp giả nói trong đây đều “là không”, nên không có lỗi.

Bốn đế xa lìa, quyết định, tăng ích, tổn giảm v.v… hai biên vận hành ở trung đạo, khéo nói pháp giới tục đế của y tha, tánh của Y tha khởi giả có mọi tướng. Các Bồ-tát v.v… khi giả nói mọi tướng, đều là tướng Y tha khởi, là chỗ đặt chân của ngôn ngữ. Với nghĩa ngôn thuyết như thế, phải nói là “có”.

Nếu như tự tánh sai khác của biến kế sở chấp là giả lập, thì nghĩa không thành tựu tướng của Y tha khởi do lìa ngôn thuyết của Biến kế sở chấp, phải nói là “co”. So với giải thích về danh thứ hai, “phân biệt” thứ ba cũng thế.

Chân như, chánh trí là thuộc về Viên thành, Y tha, nên phải nói là có. Biến kế sở chấp, phải nói là “không”.

Luận sư Bị nói: “Bồ-tát như thế cho đến “khéo nói pháp giới”. Nghĩa là vì Bồ-tát đối với “có” “không”, được, khéo léo ghi nhận năm tướng là “có”, khéo ghi nhận tướng Biến kế là không. Khéo ghi nhận cũng Y tha “có”; cũng biến kế là “không”.

Trong trường hợp thứ tư vì khác với hai văn trước, nên phi nghĩa. Nếu y cứ vào Biến kế, thì vì chẳng phải cái “có” của Y tha, nên nói “phi hữu”. Nếu y cứ ở Y tha, thì vì chẳng phải Biến kế “không”, nên nói là “phi vô”.”

Hỏi: “Nếu vậy thì tánh chung với tánh Biến kế ư?”

Giải thích: “Trong đây nói Y tha chẳng phải tánh biến kế, nên không nói biến kế.”

Thứ tư, trong phần nói về môn giả, thật, Bổ khuyết rằng: “Cái “có” thật trong hành phải nói là thật có, cái giả “có” trong hành, phải nói là giả có. Tướng phần sở duyên của sáu thức không gá vào tướng phần của bản chất A-lại-da kia mà khởi,. Nếu gửi nhờ vào tướng phần thật có của A-lại-da mà khởi, thì ảnh tượng là “có” thật. Nếu gởi vào trần giả có dài, ngắn, nhám, trơn v.v… của A-lại-da mà khởi, thì ảnh tượng là “giả có” nên nói thế. Các hành có tướng cũng có hai thứ.

Đây là nói tướng phần của bản chất hay có ảnh tượng, nên nói là tướng “có”. Tướng có tự nó “có” giả, thật, như các màu xanh, vàng v.v… là thật, còn tướng dài ngắn và bình chậu v.v… là giả, cho nên nói là “tướng có”.

Các hành cũng có hai thứ: cũng có thể nói cái thật có trong hành, phải nói là có thật, cái giả có trong hành, phải nói là giả có, đây là y cứ ở tướng phần để nói về giả, thật.

Nói “Các hành có tướng cũng có hai thứ: Vì chủ thể phân biệt có tướng ở trước, nên nói là tướng có. Tâm pháp có tướng tự có “giả” “thật”. Như buông lung nghĩa là “xả” “bất hại” nương vào hai thiện căn mà giả lập, pháp khác là có thật. Trong tùy phiền não cũng giả có, thật như trước đã nói. “Danh” phải nói là giả có, vì nó chỉ giả lập trong tướng. Tướng có cả các pháp, chỉ giả lập ở “danh” trên thinh trong tướng, rồi phân biệt chung về giả thật, nên nói cả hai thứ đều có. Như trước đây đã nói. Chánh trí có cả hai trí là thật có. Pháp tương ưng với

Trí, nên là giả có.”

Pháp sư Thái nói: “Giả, thật có hai thứ:

1. Năm uẩn xanh, vàng v.v… là “thật có”; chúng sinh và tướng dài, ngắn v.v… là “giả có”.

2. Tướng của bản tánh là “thật có”; tướng của ảnh tượng là “giả có”. Nếu thật có thể của hành thể hiện trong kiến phần thì phải nói là thật có. Nếu giả có hạnh, giải biểu hiện trong kiến phần, tất nhiên phải nói là cái giả có.

“Duyên theo” các hành có tướng từ cảnh, cũng có hai thứ: “Danh” chỉ giả lập trong tướng phần, nên là giả có, vì tánh Y tha thật sự lìa ngôn thuyết. Phân biệt hai thứ đều có, vì “duyên” hai tướng “giả, thật”.

Chân như phải nói là thật có, vì thuộc về Thắng nghĩa, Chánh trí phải nói đều có.

Trí là thật có trong pháp tâm, tâm sớ xuất thế.

Nếu các tâm, tâm pháp, quyến thuộc của Trí, cũng được gọi là Trí, thì nói là giả, nên có hai.”

Luận sư Bị nói: “Trong đây nói chân như là thật có, vì thuộc về Thắng nghĩa. nếu vậy thì vì sao luận Đối Pháp nói rằng, tất cả đều là giả có ư? Việc này có hai giải thích:

1. “Tất cả có hai. Luận Đối Pháp kia đã y cứ vào phần ít, không y cứ vào tất cả của tất cả, nên không trái nhau.”

2. “Chân như có hai nghĩa. Nay y cứ ở nghĩa thật, còn luận kia thì nói về môn nghĩa giả, do đó nên không có trái nhau.”

Thứ năm, là hai đế phân biệt. “Bổ Khuyết rằng: “Tướng la cái có của thế tục, do hai nhân duyên:

1. Tạp nhiễm khởi: vốn do tâm biến kế chấp huân tập thành tạp nhiễm, thành nối tiếp nhau. Nay vì khởi lên tướng đó, nên nói là tạp nhiễm khởi.

2. Lập bày đồ đựng: Lập bày là danh. Thể tướng như thế là chỗ đặt chân của danh ngôn kia, gọi là đồ đựng của lập bày. Do tướng của hai nhân này là cái có của thế tục: Danh” do ba duyên, nên nói là tục có: 1. Tạp nhiễm khởi. 2. Lập bày Đồ đựng. 3. “Chỗ nương” của ngôn thuyết.

Hai nhân đầu, như trước đã nói “Sở y” (đối tượng nương tựa) của ngôn thuyết: Do có “danh” nên khởi ra ngôn thuyết, hoặc do ngôn thuyết mà khởi lên Danh. Trong đây đã nói từ một nghĩa riêng.

Phân biệt thế tục này có bốn nhân duyên:

  1. Tạp nhiễm khởi.
  2. Lập bày Đồ đựng. (Giải thích như trước).
  3. Ngôn thuyết Tùy miên: Lại-da là thể của phân biệt, có hạt giống ngôn thuyết.
  4. Ngôn thuyết (lời nói) tùy giác: Sáu thức cũng là “phân biệt” tùy thuộc vào ngôn thuyết mà khởi lên cảnh của giác biết.

Chánh trí thứ hai, phải nói là đều có: Nếu Hậu trí duyên trái với chân như thì như thế, Thắng nghĩa “có”. Nếu “duyên” việc đời, thì gọi là thế tục “có”. Cũng có thể Hậu đắc của Bồ-tát có hai:

  1. Thắng nghĩa đế là vô lậu.
  2. Thế tục là hữu lậu.

Luận sư Chương nói: Tướng phải nói là thế tục “có”:

1. Tướng gìn giữ (trì) vì khởi tạp nhiễm.

2. Tướng với lập bày Danh, vì làm chỗ nương tựa nên gọi là đồ đựng. “Danh” phải nói là thế tục có: 1/ Vì hay khởi tạp nhiễm. 2/ Vì đồ đựng lập bày.

3. Vì “danh” làm y chỉ cho ngôn thuyết. “Phân biệt” phải nói là thế tục “có”: 1- là chủ thể khởi tạp nhiễm. 2- Vì lập bày đồ đựng. 3- Do ngôn thuyết nên tùy miên khởi phân biệt như trâu, dê v.v…

4. Ngôn thuyết Tùy giác, vì khởi phân biệt, như hiểu về danh ngôn, chúng sinh v.v… Chân như phải nói là Thắng nghĩa có, vì là tánh cảnh sở duyên của chánh thể trí thanh tịnh.

Chánh trí thứ nhất vì chỉ “duyên” Thắng nghĩa, nên phải nói là thắng nghĩa “có”. Chánh trí thứ hai, vì chân, tục đều “duyên”, nên phải nói “đều có” (câu hữu).

Luận sư Tăng Huyền nói: “Tướng là cái Tục có, do hai duyên nên bình đẳng: Nếu tướng sở duyên của tâm, tâm pháp của ba cõi vì từ nghiệp phiền não sinh khởi, vì ngôn ngữ tạp nhiễm khởi, thì đây là nói tướng “sở duyên” của tâm, tâm pháp của ba cõi là cái thế tục “có”. Nếu tướng “sở duyên” của trí Hậu đắc là tâm, vì ngôn thuyết lập bày riêng, vì nói lập bày tướng đồ đựng là cái thế tục “có”, do ba duyên nên gọi là tục “có”.

Vì sở duyên của ngôn thuyết thứ ba, là y cứ vào sự thật để luận, thì danh và ngôn thuyết lại nương tựa nhau. Nhưng nay trong đây vì muốn hiển bày thế tục có, vì là đối tượng nương tựa (sở y) của ngôn thuyết, nên phân biệt với lý chân như, là vì tánh của sở duyên thanh tịnh, vì chẳng phải sở y của ngôn thuyết và là vì Thắng nghĩa “có”, nên nói rằng: “là sở y của ngôn thuyết”.

Do bốn duyên, nên “phân biệt” là ngôn thuyết thứ ba trong tục “có”. Vì tùy miên nên ngôn thuyết thứ tu là tùy giác. Nghĩa là hạt giống của tâm, tâm pháp trong Thức A-lại-da không có ngôn thuyết, danh hiện hành và tư duy “Danh”, nên nói rằng: “Vì tùy miên của ngôn thuyết, nên tâm, tâm pháp hiện hành”, có thể khởi ngôn thuyết, “danh” hiện hành và tư duy “danh”, nên nói rằng “ngôn thuyết tùy giác”.

Thứ sáu, là môn “năng sinh” (chủ thể tham) “sở sinh” (đối tượng sinh”. Bổ khuyết rằng: “Tướng được cái gì làm sở sinh? Và cái mà phân biệt trước đã sinh? Tướng của ảnh tượng sáu thức từ tướng bản chất của A-lại-da kia sinh ra. Tướng phần của A-lại-da sinh ra từ hạt giống phiền não nghiệp của phân biệt trước. Cũng có thể tướng đã sinh tức là tướng của A-lại-da. Tướng sau được khởi từ tướng trước và đã sinh từ bốn đại đồng thời, gọi là tướng đã sinh.

Và phân biệt ở trước sinh ra như giải thích ở trước. Phân biệt từ phân biệt sinh và tướng đã sinh, nghĩa là tâm phân biệt sau từ tâm phân biệt trước, “duyên” sinh theo thứ lớp. Cũng có thể hạt giống của danh ngôn phát sinh từ phân biệt ở trước và từ tướng của cảnh giới sinh.”

Luận sư Chương nói: “Tướng mạo của tướng phần sinh ra từ nhân duyên của hạt giống tướng. Khi tướng phần huân tập, vì không lìa kiến phần, nên lúc khởi nó sẽ không lìa duyên tăng thượng của kiến phần sinh ra, gọi là giả. Vì nó không có tự thể. Không riêng gì từ hạt giống sinh, chỉ do lòng dục của con người mà khởi. Về nghĩa đồng với Tỳ-BàSa ở chỗ dục vì bản nguyện v.v…

“Phân biệt lại từ nhân duyên của hạt giống kiến phần phân biệt sinh, bởi lẽ kiến phần không lìa tướng phần, nên cũng sinh ra từ duyên tăng thượng của tướng phần và duyên sở duyên (đối tượng duyên, chủ thể duyên).

Vì chân như là thường, nên nói là vô sinh Chánh trí do hạt giống của Văn, Tuệ lắng nghe chánh pháp và tác ý như lý, huân tập Văn, hạt giống v.v… tư, tu sinh ra.”

Luận sư Bị nói: “Theo văn luận này, vì chánh trí mới sinh, nên không có nhân duyên sinh”. Nay giải thích sơ lược, không nói về hạt giống, là làm chứng.”

Thứ bảy, là nói về môn khác, không khác. Bổ khuyết rằng: “Năm pháp ở trong đó, đem pháp trước đối với pháp sau, làm nên một hạnh đối biện về “một” “khác” đối với tướng đầu tiên, đem “tướng” đối với bốn pháp sau. Kế là đem “danh” đối với ba pháp sau, tiếp theo đem “phân biệt” đối với hai pháp sau. Chân như, chánh trí tức không có cái đối lập. “Tướng” khác với “Danh” thì có lỗi gì? “Danh” lẽ ra thật có, nghĩa là danh được giả lập trên thinh ở trong tướng. Nếu khác với tướng, có “danh” lẽ ra có thật, không khác thì có lỗi gì? Nếu khi chấp “tướng” lẽ ra cũng chấp “danh”, như mắt nhìn thấy sắc, lẽ ra cũng thấy danh. Pháp so sánh với danh. “Tướng” khác với phân biệt có lỗi gì? “Phân biệt” lẽ ra chẳng phải tướng làm tánh, nghĩa là về mật lý, “phân biệt” và tất cả duyên của pháp tha tâm cũng gồm cả “tướng” này. Nếu “tướng” khác với “phân biệt” thì lẽ ra chẳng phải là tướng sở duyên. Không khác thì đâu có lỗi gì? Lìa “phân biệt” mà có các tướng, lẽ ra dùng “phân biệt” làm tánh. Nghĩa là y cứ ở bên có thể, thì năm pháp đều là tướng. Nếu “tướng” quyết định không khác với “phân biệt” thì

chánh trí, chân như đều là “danh”, lấy “phân biệt” kia làm thể! Nếu “tướng” khác hay không khác với chân như, đều cùng không thể nói”. Trong đó đầu tiên đem “tướng” đối với chân như, sau so với “danh” với “phân biệt”, đối với chân như cũng thế.

Trong phần trước có ba: Pháp dụ, dẫn thuyết trong pháp có ba lỗi khác:

  1. Thắng nghĩa của tướng lẽ ra chẳng phải chân như.
  2. Lẽ ra xả “tướng”, cầu riêng chân như.
  3. Giác biết đúng lúc. Lẽ ra giác biết tướng.

“Không khác” cũng có ba lỗi:

  1. “Tướng” cũng đồng với chân như, là lỗi không có khác nhau.
  2. Phàm phu được tương ưng chứng chân như.
  3. Chân như đồng với “tướng”, lỗi không thanh tịnh.

Trong dụ có bốn:

1. Do tên các hành có vô thường, khổ v.v… chẳng thể nói “khác”, “không khác” để làm thí dụ.

2. Vì thân, tâm có thô, nặng, khinh an, nên lấy “khác”, “không khác” làm thí dụ.

3. Y cứ vào môn Tùy chuyển lý. Pháp ba tánh có hạt giống của các pháp, với pháp không nhất định là “một”, “khác”. Cũng có thể dùng pháp ba tánh của hiện hạnh so với hạt giống đã được huân tập. Hạt giống sinh hiện hạnh, hạt giống đối với Lại-da hoặc “khác” hoặc “không khác”, đều không thể nói.

4. So sánh hư không với “sắc” hoặc “khác” “không khác”, đều không thể nói. “Khác” có lỗi gì? Và sắc “khác” với “không” là sắc xứ riêng chẳng có “không”, lỗi hư không chẳng khắp sắc. Lại, sắc xứ không có hư không, trừ sắc mới bắt đầu có hư không, thì hư không lẽ ra vô thường? Không khác thì có lỗi gì? Lìa ngoài sắc lẽ ra chẳng có định. Dù biết rằng, Đại thừa không có lập thể của hư không, nhưng vẫn mượn tạm hư không thật có mà tiểu thừa lập ra để làm thí dụ.

“Trong đây, về mặt đạo lý, cho đến “phải biết rằng cũng như thế”, là hợp dụ.

Dưới đây sẽ dẫn thuyết của kinh:

“Trong Thanh văn thừa cho đến “Thủ chẳng phải “tức” uẩn, cũng không “lìa” uẩn, dục tham là thủ. Nếu nói Dục, tham chẳng khác với uẩn là tức chỉ có uẩn nhiễm, lẽ ra không có uẩn thiện, vô ký, nên nói là lỗi chê bai pháp vô ký, thiện trong uẩn, không thanh tịnh. “Khác” có lỗi gì? Lỗi không thanh tịnh, tánh thường, tăng ích trong các thủ.

Nếu thủ khác với uẩn thì uẩn là vô thường. Nếu thủ chẳng phải uẩn, tức thể nó lẽ ra là thường, tăng ích ở ngoài uẩn, là lỗi bất tịnh, há có pháp thường, không thanh tịnh ư?

“Tướng” khác và không khác với chánh trí, như với “phân biệt”, đều không thể nói: Văn này tức nói bốn pháp như chánh trí v.v… đều gọi là tướng. Cho nên, được nói tướng với chánh trí không thể nói “cũng khác”, “không khác” v.v… “Danh” và “phân biệt’, phải nói là có khác, nghĩa là hai phân biệt tướng kiến. Danh với Chánh trí cũng khác: 1/ Lậu khác với vô lậu. 2/ Tướng khác với kiến phần, vì hậu trí kia được duyên chánh trí nọ, gọi là tướng, kiến có khác. Phân biệt với Chánh trí, phải nói là có khác: Thế gian khác với Xuất Thế gian.

Luận sư Bị nói: “Nói về tướng có hai: 1/ Phân biệt; 2/ Tướng chung. Nếu y cứ vào tướng ngoài, thì chỉ lấy hai tướng ảnh tượng, căn bản và tướng ảnh tượng trong bốn sự khác.

Nếu luận về tướng chung, thì tâm “năng phân biệt” cũng gọi là tướng, vì trí Hậu đắc có thể làm rõ các tướng, nên cũng gọi là tướng, tức dùng văn này làm chứng.

“Nếu không như vậy, vì tướng đối nhau, thành ra không thành hỏi, đáp? thế, nên nói về lỗi rằng: “phân biệt”lẽ ra chẳng phải chấp tướng làm tánh? Y cứ theo đây mà biện luận về chân như cũng gọi là tướng không có lỗi. Nay, văn luận rõ ràng dù giả cói thích về nghĩa nấy cũng chưa tường tận, nên tung ra đến tướng, văn nhờ vào môn chế số, để nói lại văn luận, nhằm giải thích năm sự, đều có môn khác. Môn khác là sao? Tướng có mười môn, được gọi là sáu môn: “phân biệt” có sáu môn; chánh trí có bốn môn; chân như có ba môn, đây gọi là môn khác.

Ở đây, mười môn sự tướng là:

1. Môn phân biệt không có thủ, hữu, chỉ vì dứt trừ bốn thứ như Danh v.v… trong Y tha, an lập sự tướng, như đã giải thích trong môn phân biệt Hữu.

2. Môn luận về tướng “có” “không”, chẳng phải chỉ Y tha khởi, mà cũng chấp tánh biến kế, gọi là sự tướng, như đã nói vế thuyết khéo léo của Bồ-tát.

3. Môn chủ thể Duyên thuộc cảnh. Các Tâm, Tâm pháp hoặc “phân biệt” hoặc Chánh trí, vì đều có công năng làm rạng rỡ các tướng, nên cũng gọi là tướng. Chánh trí dù có nhưng không bằng làm sáng tỏ tướng, nhưng vì y cứ vào trí thế gian, nên lược qua mà không nói, tức là nghĩa của môn khác, không khác.

4. Môn phân biệt với tịnh, nói về nhiễm. Về mặt lý thật ra bốn sự, như danh v.v… đều có nghĩa tướng. Vì tướng của thể, nên chỉ hai sự sau chẳng phải sự tạp nhiễm. Sự tạp nhiễm: Tức danh, tướng, phân biệt. Vì cho nên ba sự ban đầu đều gọi là tướng, như đã nói trong phần giải thích Bốn y.

5. Y cứ vào Thể để nói về môn tướng. Năm sự như tướng v.v…đều có thể tướng, nên đều gọi là sự tướng. Y cứ vào tướng của Thể chung, tùy theo nghĩa riêng của thể tướng đó để an lập danh v.v… thành ra không nên vấn nạn rằng: “Sự thành một thứ, như môn tưởng dưới đây và lần “Lại nữa” sau. Vì đối nhau nên gọi là thuyết trong bốn trường hợp.

6. Môn dùng tánh quy tướng. Chân như dù không có tướng là tánh của tướng, nên theo tướng gọi là tướng, như thuyết trong bốn trường hợp dưới đây.

7. Môn luận riêng về ảnh gốc. Bốn sự như Danh v.v… được y cứ ở gốc để an lập đương tâm mà biểu hiện, đều gọi là sự tướng. Vì dùng tướng phần, nên đã thừa nhận chung nghĩa này, không dùng làm chứng.

8. Môn thuộc về ảnh về gốc. Ảnh tượng như Danh v.v… lại thuộc về danh v.v… như thuyết trong bốn trường hợp của chân như nói là Trí Hậu đắc cũng quán chân như. Nếu theo môn này, thì chỉ tướng của bản tánh và ảnh tượng của tướng đó gọi là sự tướng.

9. Môn đối với chân để nói về tướng, Bốn việc trước trong năm việc gọi là tướng là “ngôn y”, như thuyết trong phân biệt trước đã nói.

10. Môn đối với biện biệt riêng tướng. Tưởng tức là “tướng”, bốn thứ còn lại không thuộc về, vì rơi vào tướng là gọi là mười môn tướng.

Sáu môn sự Danh là:

1. Môn phân biệt không có hai Thủ, Hữu; môn luận về“tưởng” có hay không Hai môn này, như thuyết trong phần nói “có” đã nói.

2. Môn luận riêng ảnh gốc. Chỉ dùng danh, cú, văn thân của pháp gốc, gọi là “sự danh”, vì ảnh tượng của danh được gọi là sự “tướng”.”

Lại giải thích: “Sự Danh chỉ có pháp gốc, lại không có ảnh tượng, vì giả không có ảnh.

3. Môn gom ảnh về gốc. Hoặc bản gốc hoặc ảnh, đều gọi là “sự sinh”. Ảnh tượng của sự chân, cũng gọi là chân như, cũng đâu có ngăn ngại! Ảnh tượng của “sự sinh”, cũng gọi là “sự danh”. “Phân biệt” v.v… cũng thế, không do nói riêng.

4. Môn nhiếp thu giả theo thật, tức dùng âm thinh làm thể cho sự danh. Về nghĩa rất dễ hiểu.

6. Môn luận chung hai danh, tức dùng nghĩa biểu để làm sáng tỏ hai thứ cảnh, gọi là danh. Giải thích trong hệ thuộc ba cõi là gọi là sáu môn “sự danh”.

Những gì gọi là sáu môn phân biệt? Sáu môn đó là:

1. Môn phân biệt không có Thủ, Hữu. 2. Môn luận chung về “có” “không” 3. Môn luận riêng về ảnh gốc. 4. Môn nhiếp ảnh về gốc. Bốn môn này y theo Danh, rất dễ hiểu.

5. Môn lưu chuyển, hoàn diệt, chỉ lấy dục của pháp lành xong, lại tất cả tâm pháp, gọi là “sự phân biệt”. Dục của pháp thiện đã bỏ, tất cả tâm thiện. Vì sinh ra từ chứng pháp đẳng lưu, nên gọi là sự chánh trí. Như thuyết trong trói buộc, có thể dẫn chứng sáu môn hữu lậu, vô lậu của Luận Đối Pháp, tất cả pháp tâm, tâm sở hữu lậu, đều gọi là phân biệt, như trong môn phân biệt ở trước đã nói tâm, tâm pháp có trong hành (hoạt động) của ba cõi. Nhưng vì luận chủ Đối Pháp đã y cứ vào phần vượt hơn để nói về tâm, nên nhóm văn Tuệ, Tư túc không gọi là môn ngoại, đây gọi là sáu môn phân biệt.

Bốn môn chánh trí là:

1. Môn luận riêng về ảnh gốc, chỉ lấy bản chất, gọi là Chánh trí, như thuyết trong môn niệm trụ đã nói.

2. Môn nhiếp ảnh về gốc, ty theo chân rất dễ hiểu.

3. Môn phân biệt với lậu, nhằm nói về chánh trí, chỉ lấy pháp tâm, tâm sở vô lậu, gọi là chánh trí, như thuyết trong “phân biệt” trước đã nói.

4. Môn đối với lưu chuyển, lấy hoàn diệt, chẳng phải chỉ có trí vô lậu, cũng lấy tâm pháp hữu lậu của giải thoát phần v.v… cũng nói trong môn trói buộc, không trói buộc của chánh trí, gọi là bốn môn của chánh trí.

Ba môn sự của chân như là:

  1. Môn luận riêng về ảnh gốc.
  2. Môn thuộc về ảnh thuộc về gốc. Hai môn này, y theo ở trên rất dễ hiểu.
  3. Môn bỏ xa lấy gần. Dù tưởng của ảnh tượng chân. Gọi là sự chân, mà ảnh có hai:
  4. Tướng phi an lập.
  5. Tướng an lập đế.

Đầu tiên, vì rất giống với bản chân, nên thuộc về “Sự chân”. Sau,

vì không giống với chân gốc, nên gọi là “sự tướng”. Dẫn bốn quan điễm của chân làm chứng. Đó gọi là ba môn của “sự chân”. Rõ ràng, thông thường, danh của năm sự với thể, đã có Trên đây, nhờ tạo nên môn khác, chưa từng có, có thể nói là thừa trước phản ảnh thừa sau, mầu nhiệm từ ngàn xưa. Luận về sự thô sơ về cương yếu, lược thuật như thế. Về tế, không thể đầy đủ, nên không cần luận nhiều.

Thứ tám, là nói về tướng trạng của năm sự. Bổ khuyết rằng: Hỏi “Tướng có tướng gì?”

Đáp: “Tướng sở hành” “phân biệt”, nghĩa là với gốc, có thể “năng phân biệt” làm rõ “sở phân biệt”.

Tướng danh có tướng gì?”

Đáp: “Tướng sở y” của ngôn thuyết, nghĩa là nhân danh khởi thuyết”.

“Phân biệt” có tướng gì?

Đáp: “chân Như là tướng “sở hành”, nghĩa là nêu trí nhằm làm sáng tỏ tướng của cảnh”.

“Chánh Trí có tướng gì?”

Đáp: “Chân như là tướng “sở hành”, nghĩa là nêu cảnh, nhằm làm rõ tướng của trí.

Luận sư Chương nói: “Ngôn nói là thật “danh” là giả lập trên tiếng. Vì giả dựa vào tiếng thật, nên gọi là dùng ngôn thuyết làm sở y, là danh tướng văn khác rất dễ hiểu.”

Thứ chín, nói về môn hành tướng v.v… trong đó. 1/ Nói về hành tướng. 2/ Nói về năm pháp với nhiều khác nhau .

Trong phần trước, Bổ khuyết rằng: Hỏi: “Tướng có hành tướng gì? Cho đến “do vô lượng các thứ hành tướng phân biệt, vì tâm, chủ thể phân biệt nhiều vô lượng, nên tướng sở duyên cũng nhiều vô lượng, nghĩa là sắc, tâm, tâm sở hữu, tâm bất tương ưng, vô vi”.

1. Giải thích: “Năm trí này gồm nhiếp hết các pháp.

2. Năm trí này là tùy tướng phần của tâm, không thuộc về bản chất. Nói hành tích, tức là bốn hạnh tích như khổ, trì v.v… Tướng của pháp tích: Như luận Đối Pháp nói: Vô tham, vô sân, niệm và định, đó là pháp tích sở y của ba học. Vô tham, vô sân là đối tượng nương tựa của giới. Niệm và định là chủ thể nương tựa. Định và tuệ là chủ thể nương tựa”.

Thế nào là tướng có tướng? Nghĩa là hiểu rõ tướng sở hữu của sự, danh, phân biệt, nghĩa là nhận thức về sự, danh, tìm kiếm, danh, phân biệt, hiểu rõ về sự, phân biệt.

Gọi là tướng của hữu tướng, thế nào là tướng của vô tướng? Nghĩa là không hiểu rõ về tướng sở hữu của sự, danh phân biệt.

Không hiểu rõ, danh, dù là phân biệt nhưng vì đối với cảnh không sáng suốt, nên gọi là tướng của vô tướng. Tướng hẹp, nhỏ, nghĩa là tướng sở hữu của phân biệt, sự cõi Dục. Tướng rộng lớn, nghĩa là sự v.v… của cõi Sắc: Vì y cứ vào nghĩa chánh báo của cõi Dục, Sắc, nên có hẹp, nhỏ, rộng lớn khác nhau. Nếu y cứ ở khí thế giới ngoại thì lớn, ít nhiếp nhau.

Thế nào là tướng của bản tánh? Đó là do phân biệt ở trước sinh ra nghĩa là căn, trần, tướng, phần của bản thức, do nghiệp phiền não của biến kế sở chấp ở trước, huân tập hạt giống nẩy sinh; và, tướng được sinh, nghĩa là căn trần được nuôi lớn, do tướng của bốn đại sinh ra, và trước, sau đều là danh, tướng sinh ra

Được thành lập chung, nghĩa là mọi người đồng thừa nhận, gọi là cộng tướng đã được hình thành.

“Thế nào là tướng của ảnh tượng?” Cho đến chẳng phải trụ tướng của bản tánh? Nghĩa là sáu thức tùy theo tướng ảnh tượng của tâm.

“Danh có hành tướng gì?”

Đáp: “Do thế lực của tướng cũng có các thứ vô lượng hành tướng, nghĩa là từ đối tượng giải thích (sở duyên) cũng có vô lượng.

Danh giả thuyết, nghĩa là nói tên bình, chậu v.v… danh của sự thật: Nói là danh như sắc, v.v…

Danh tương ưng với chủng loại: Danh của Sát-đế lợi v.v… đều có khác, nghĩa là y cứ trong sát-đế lợi, tự phô trương danh hiệu vua.

Danh tùy theo đức: như Kinh sư v.v…

Danh Giả lập: như người thấp, tên dài. Danh của sở tri: Danh từ Tô-Mê-Lô, biển cả v.v…

Chẳng phải tên của sở tri: Tùy phân biệt danh, đương xứ tự hiểu.

Hiển bày rõ danh: Một danh, gọi là một nghĩa. Không hiển rõ danh: một danh, gọi là nhiều nghĩa.

Danh từ chung: Uẩn, giới, xứ v.v… Danh từ riêng như Danh sắc, thọ v.v… mắt, tai v.v…

Hành tướng phân biệt có bảy, như Bản Địa quyển hai nói. Nếu theo Đối Pháp quyển hai nói rằng: “Có bao nhiêu khác nhau trong sáu thức?”

Đáp: “Chỉ có một Ý thức, do ba phân biệt nên có phân biệt. Kế là nêu ba phân biệt. Sau, lại nói có bảy thứ phân biệt. Trình bày danh, giải thích rộng như Luận Đối Pháp nói.

Luận sư Chương nói: “Tướng là tướng chung. Hành tướng là riêng, nên ngoài tướng trạng, luận riêng về hành tướng. Như tướng của bốn đế là chung; mười sáu đế tướng là riêng, nên lý của mười sáu đế là riêng, nên lý của mười sáu tướng được gọi là hành tướng, vì dựa vào các thứ bất đồng của hành tướng trong pháp chung, nên là tướng riêng. Hành tướng vì “duyên” tướng sở duyên của hành, nên gọi là hành tướng.

Tướng sắc có mười một; tướng tâm có tám, tướng của tâm sở hữu có năm mươi mốt; tâm bất tương hành có hai mươi bốn; tướng vô vi có sáu mươi mốt sắc. Tướng ảnh tượng của bản tánh đều thuộc về tướng. Tướng bản tánh của tám tâm vương; năm mươi mốt tâm số là thuộc về phân biệt, chánh trí. Tướng của ảnh tượng thuộc về tướng. Trong hai mươi bốn món Bất tương ưng hành, trừ danh, vị, cú, tướng ảnh tượng của bản tánh của hai mươi mốt bất tương ưng hành còn lại thuộc về tướng. Tướng bản tánh của ba thứ danh, vị, cú, thuộc về danh, tướng của ảnh tượng thuộc tướng. Trong sáu vô vi, trừ chân như, tướng ảnh tượng của bản tánh năm vô vi còn lại, thuộc về tướng. Tướng bản tánh của chân như vô vi, thuộc về chân như. Tướng của ảnh tượng thuộc về tướng.

Nói “Lại có năm tướng khác: Có hai giải thích:

1. Giải thích: Tướng ban đầu trong năm pháp là có cả năm pháp, vì đều là tướng. Tướng có năm thứ. Y cứ trong tướng đầu, chia ra bốn tướng khác. Trong vô úy đầu thuộc về lực đầu gồm có mười lực, bốn vô úy. Tuy nhiên, đầu tiên, y cứ trong mười lực, chia ra chín lực; đầu tiên, trong vô úy, chia ra ba vô úy.”

2. Giải thích: “Tướng bản tánh của năm sự, đều thuộc về tự sự. Nay nói tướng ảnh tượng của năm sự đều thuộc về tướng ban đầu, nên tướng ảnh tượng của nhà tướng, gọi là tướng, cho đến ảnh tượng của Chánh trí, gọi là tướng Chánh trí.

Lại có hai tướng:

  1. Tướng của bản tánh.
  2. Tướng của ảnh tượng bình đẳng:

Nói “Do phân biệt ở trước sinh”, nghĩa là kiến phần ở trước huân tập và tướng được sinh: Tướng phần ở trước đã huân tập. Do hai huân tập này không lìa nhau, nên nói tướng phần sinh chung, gọi là “tướng thành chung”. Nói theo lý thật, hạt giống của tướng phần tự sinh tướng phần’ hạt giống của kiến phần tự sinh kiến phần. Tánh này từ tâm bản thức khởi, thường nối tiếp nhau, gọi là bản tánh nương tựa tướng của bản tánh. Thức thứ sáu, bảy khởi biến kế sở chấp. Và vì thức sáu, bảy vượt hơn kiến giải đã được thể hiện tùy tâm, nên khởi, diệt bất thường, không nối tiếp nhau, chẳng phải là ảnh tượng của tướng bản tánh giống với bản tánh, gọi là tướng của ảnh tượng. Đã nói “và tướng đã sinh”, nên biết được tánh ảnh tượng căn, trần v.v… của tướng phần cũng huân tập thành hạt giống.” Văn này minh chứng.”

Luận sư Bị nói: “Tướng của ảnh tượng là sao? Nghĩa là biến kế sanh khởi v.v… : Tức dựa vào văn này, nước phương Tây có haigiải thích:

1. Giải thích: “Đã nói do biến kế sanh khởi, nên biết tất cả khởi ảnh tượng đều là pháp chấp. Nếu theo cách giải thích này thì pháp chấp sẽ có cả bảy thức và ba tánh, chưa luận về vô lậu của Nhị thừa, kể cả bản thức.”

2. Giải thích: “Lời văn của Luận chủ có hai so sánh không đồng: Nếu nói Biến kế, tức là tên khác của phân biệt, nên văn ở dưới nói: “Hoặc phân biệt hoặc tư duy, hoặc biến kế, cho đến “phân biệt” như thế v.v… khác nhau”.

Nếu nói Biến kế sở chấp, tức là pháp chấp, vì pháp chấp có thể của tướng biến kế, nên nói là Biến kế, không nói pháp chấp.”

Nếu theo giải thích này, là thích hợp với nghĩa thật của Luận Phật Địa.

Luận sư Tăng Huyền nói lại lời ngài Tam Tạng rằng: “Từ hạt giống của danh ngôn trong Thức A -lại-da, sinh ra tướng của bản chất.”

Nói “Do phân biệt ở trước sinh ra”, được biểu hiện rõ tướng của ảnh tượng trên nhãn thức v.v… Vì từ bản tánh hiện ra, nên nói và tướng sinh ra.”

Hai thứ tướng này thể hiện rõ tướng ảnh tượng trên ý thức tìm cầu. Vì làm gốc nên nói rằng, tánh tướng gốc. Ở đây gọi là tánh tướng gốc nghĩa là vì mọi người đều thừa nhân chung, nên nói rằng: “Tướng do chung thành”.

Tướng của ảnh tượng, nghĩa là biến kế chấp khởi thắng giải hiện ra, chứ chẳng trụ nơi tánh tướng gốc. Đây là y cứ vào tướng của ảnh tượng đã hiện rõ trên ý thức tìm kiếm, mong cầu. Dưới đây sẽ nói về các danh từ khác nhau của năm pháp:

“Nếu tướng” nghĩa là bản chất. Hoặc bản chất, hoặc ảnh tượng lúc hiện ở trước, đều biểu hiện rõ. “Nếu tưởng”, nghĩa là vì danh từ tưởng khởi.

“Nếu vô điên đảo, hoặc bất điên đảo v.v… nghĩa là vì không có tà phân biệt mà chấp tướng, nên gọi là không có điên đảo. Vì chỉ có chánh trí đã chứng, nên gọi là không điên đảo. Hoặc có thể do chân như, nên gọi là không có điên đảo. Do Thật tánh, nên gọi là không điên đảo. Do tánh Đế lý, nên gọi là không có hí luận.”

Thứ mười, nói về các như môn sắc v.v… trong đó, đầu tiên, là chia ra có năm mươi mốt môn, như chương của Pháp sư Thái. Hoặc có phân biệt làm bốn mươi lăm môn, như Luận sư Bị sao. Nay, dùng nghĩa so với tướng từ, chia ra thành hai mươi tám môn để phân biệt.

Nêu chung môn sắc, đồng lấy môn khác:

1. Năm vị phân biệt, tướng có cả năm thứ, đây là y cứ ở có tự thể, gọi là tướng, tức năm pháp đều là tướng. Ở trong tướng, có cả sắc, tâm cho đến vô vi.

2. Môn thuộc về bảy thiện xảo. Bổ khuyết rằng: “Thuộc về ba uẩn, gọi là Hành uẩn. Phân biệt, chánh trí đều có cả bốn uẩn.

Thuộc nhau, không thuộc nhau, nghĩa là có cả năm pháp trong tướng. Bốn pháp trước là uẩn chân như chẳng phải uẩn.

Nói “Thuộc ba duyên khởi: Ba pháp danh phân biệt, và chánh trí đều nhờ vào duyên mà khởi, cho nên là “duyên khởi”. Như “duyên khởi” gồm có xứ, phi xứ và thuộc căn cũng thế.

Thuộc về xứ, phi xứ và “duyên khởi” v.v… căn phải phân biệt. Tướng có cả các pháp, nghĩa là hữu lậu không thuộc trong hai mươi hai căn, gọi là thuộc về “phi căn”.

“Phân biệt” chánh trí có cả bốn uẩn, cũng thuộc có cả căn, “phi căn”. Chân như chẳng phải căn.

1. Thuộc về An lập đế. Nghĩa là Danh, Phân biệt, Chánh trí. Tướng vừa thuộc vừa không thuộc, nghĩa là có cả năm pháp trong tướng.

2. An lập. Chân như không thuộc Đế an lập, nên nói là không thuộc.

Pháp sư Chương nói: “Hữu vi từ nhân sinh, đều gọi là “duyên khởi”. Vì chẳng phải chỉ mươi hai duyên khởi, nên ba pháp: Danh, Phân biệt, Chánh Trí là thuộc về “duyên khởi”.

Lại, giải thích: “Chánh trí trong tám duyên khởi là duyên khởi thanh tịnh.

3. Thuộc về “duyên khởi”, môn tám duyên khởi, như thuyết của Du-già, Đối Pháp nói.

Nghĩa xứ, phi xứ trong nhân quả. Vì nhân duyên khởi, nên so sánh nhiếp thu duyên khởi (thuộc về duyên khởi), đồng nói nghĩa duyên khởi uẩn, giới, xứ, phi xứ, nên so sánh thuộc nhau. Tuy nhiên căn không đồng với nghĩa duyên khởi, tùy theo pháp thích hợp với căn đó, nói là một đoạn môn giáo theo nhau mà so sánh.

Đế có hai thứ v.v… Bốn đế an lập nhân quả, gọi là đế an lập, chân như chẳng phải an lập nhân quả, gọi là phi an lập đế dùng đoạn văn này để chứng minh.

Chân như vô vi thuộc về phi diệt đế. Trạch diệt vô vi; diệt thọ tưởng vô vi và Bất động vô vi là thuộc về Diệt đế; Danh và Phân biệt trong năm pháp này thuộc về Khổ đế, tập đế; chánh trí tuệ thuộc về Đạo đế, nên nói ba pháp thuộc về an lập đế. Hư không trong tướng, phi trạch diệt vô vi, chẳng thuộc về bốn đế, tướng khác là thuộc bốn đế, nên thuộc, không thuộc chung An lập đế. Chân như chẳng phải nhân quả, nên thuộc về Phi an lập đế.

Luận sư Bị nói: “Y cứ vào thật xứ, Phi xứ, có cả Hữu vi, vô vi. Nay trong văn này, vì nói theo số nhiều, nên chỉ lấy hữu vi.

Môn ba, bốn là duyên theo môn tương nhiếp. Bổ Khuyết rằng: “Tướng thuộc tất cả duyên, nghĩa là tướng có hạt giống ở trong Lại-da, tức thuộc về nhân duyên; ba “duyên” còn lại, rất dễ biết.

Gọi là duyên Đẳng vô gián không nhiếp thuộc, nghĩa là Danh có hạt giống tức là nhân duyên, Duyên tăng thượng của cảnh giới, chỉ trừ Duyên đẳng vô gián, vì chẳng phải Tâm. Phân biệt, Chánh trí, bốn Duyên và chân như chỉ thuộc về duyên sở duyên, nghĩa là vì giản lược, nên không nói thuộc về Duyên tăng thượng.

Duyên Đẳng vô gián trong tướng Chương, nghĩa là phân biệt Chánh trí, ảnh tượng và Duyên đẳng vô gián gọi là chẳng phải tâm, tâm pháp, nên không thuộc về Duyên đẳng vô gián, thuộc về ba duyên khác.

Danh đối với pháp bốn tướng có chung đều có Duyên tăng thượng gần. “Phân biệt”, Chánh trí hoàn toàn là tánh tướng gốc, thuộc về bốn duyên, nên cho bốn duyên. Nếu nói chân như chỉ thuộc về duyên sở duyên của Chánh trí, chẳng phải tánh sáu căn, lại vì không có pháp chung, vì không có Duyên tăng thượng gần, cho nên không nói đến.”

Luận sư Bị nói: “Tâm pháp có hai thứ: 1- Ảnh tượng, tức là sự tướng. 2- Pháp gốc, Nếu hữu lậu, tức là sự phân biệt. Tuy nhiên văn luận này y cứ ở tướng chung, cho nên có Duyên đẳng vô gián, tức vì lấy năm sự, nên gọi là tướng chung. Vì sao chân như chẳng phải Duyên tăng thượng? Tự có hai cách giải thích:

1. Giải thích: “Như luận trên nói rằng: “Duyên tăng thượng, nghĩa là có thể làm Duyên tăng thượng cho Niết-bàn, với pháp tăng thượng, vì hay làm duyên, nên được tên gọi từ quả.”

Nay, chân như này đối với các pháp, đều chẳng phải tăng thượng, nên chẳng phải duyên tăng thượng.”

2. Giải thích: “Duyên tăng thượng có hai nghĩa: a- “Duyên” có sức. Như mắt đối với thức v.v… b- Chỉ có “duyên”, vì không che lấp.

Nay, y cứ ở phần vượt hơn để luận, cho nên, không nói.

1. Môn Bốn Y thuộc nhau: Bổ Khuyết rằng: “Ý chẳng phải lấy “sở y” làm bốn Y.

“Tướng” thuộc về ba Y, nghĩa là trong tướng có đủ Y, Pháp, Y Kinh liễu nghĩa, và Y nghĩa. Nếu y cứ trong “tướng” có trí, thì cũng có là “y trí”, tức gồm đủ bốn Y, ý trong đây lấy “sở Y”, nghĩa là y pháp v.v… Danh chỉ pháp y, vì sao Danh không thuộc về Y kinh liễu nghĩa”.

Giải thích: “Vì gồm lấy cả nghĩa sở liễu, mới là kinh liễu nghĩa. “Danh” là pháp giáo, chỉ là Y pháp. Như tướng phân biệt cũng thế, nghĩa là vì tâm phân biệt là Thể của ba Y trước, nên có đủ ba y. Vì là Tâm pháp của thế gian, nên không có trí y”. Nếu thế thì làm sao được pháp y?

Giải thích: “Pháp là pháp giáo là thuộc về tướng phần của Tâm. Vì “tướng” từ “kiên”, nên dùng “phân biệt” để làm pháp. Vì “sở hành” của trí chân như, nên là nghĩa y. Chánh trí chỉ là trí y. Dù rằng là kinh liễu nghĩa, kinh liễu nghĩa là đối tượng liễu, vì không có chủ thể liễu. Thể chánh trí chẳng phải Y kinh liễu nghĩa”.

Pháp sư Chương nói: “Tướng” thuộc về ba y, trừ trí y. Trí y chỉ là trí tướng của bản tánh. “Tướng” trong y pháp, không y nhân cũng là pháp. Nghĩa là tướng của ảnh tượng, nghe pháp, tụ tập, thể hiện rõ trên tâm thức của đồ chúng hiển hiện giáo pháp. Lại, “danh” chỉ thuộc về y pháp, nên biết giáo được giải thích của kinh liễu nghĩa, lấy liễu nghĩa, không lấy chủ thể giải thuyết giáo.

Lại, “Danh” chỉ y pháp, nghĩa là giáo, tướng của bản tánh với pháp trong tướng, đều dựa vào tướng riêng của ảnh tượng, như phân biệt tướng cũng thế. Thuộc về ba y trừ trí y, vì phân biệt đã thuộc về y pháp, nên biết không y trí. Y nhân chẳng phải chỉ giáo pháp. Chân như chỉ thuộc về y thức chánh trí, chỉ thuộc y trí.”

Nói “Y pháp không y nhân”, nghĩa là y cứ vào môn tướng tùy chuyển, hữu lậu thành nhân, pháp làm y pháp, không y nhân, nên chẳng thuộc về y pháp.”

Lại, nói “Đối tượng giải thích và chẳng thuộc về y nghĩa. Tướng, Danh, Phân biệt đều là chứng lượng sở chứng nên đều thuộc về y nghĩa. Chánh trí dù cũng là chứng lượng, đối tượng chứng, nhưng vì lập làm chủ thể chứng, nên không lập làm sở chứng. Trong phân biệt Y nghĩa, vì có “Phi chứng lượng” năng chứng, nên lập y nghĩa của đối tượng chứng.”

Luận sư Bị, Khuy Cơ nói: “Tướng, trừ Y trí, vì tướng chánh trí chẳng phải chánh trí. Vì thể của giáo tức danh, nên gọi là thuộc về Y pháp. Pháp nhiễm “phân biệt” dựa vào ba y thuộc về tướng đồng, sở dĩ so sánh sẽ hiểu. Chân như vì là môn “sở duyên” nên thuộc về “y nghĩa”. Trí là nghĩa “năng duyên”, nên thuộc về y trí. Nhưng tức “y nghĩa” chỉ y cứ vào môn Cảnh sở duyên. Y trí chỉ y cứ bên cạnh nghĩa chủ thể duyên (Năng thuyên).

Luận sư Phưởng người Tân-la nói ba giải thích:

2. Y pháp nghĩa là danh và đối tượng nương tựa gọi chung là y pháp. Như lời pháp, hai cảnh không ngăn ngại, nói chung là pháp. Vì pháp tức y, nên nghiệp trì được giải thích.

Y nghĩa, nghĩa là các pháp, như nghĩa cảnh không ngăn ngại gọi là nghĩa, đây là Nghiệp trì (gìn giữ).

Y liễu nghĩa kinh là nghĩa sở thuyên (nghĩa được giải thích) của giáo liễu nghĩa. Đây là y chủ thích, cũng là đa tài giải thích.

Y trí trước hết, nghĩa là hai chánh trí và trí gia hạnh, đều gọi là trí, đây là nghiệp trì.

Nói “Tướng thuộc về ba y” nghĩa là trừ tướng của y trí, vì chẳng phải trí, dù cũng chẳng phải danh, nhưng vì là đối tượng nương tựa của danh, nên cũng là y pháp.

“Danh” chỉ có Y pháp: Chỉ có chủ thể giải thích, gọi là sự danh, nên nghĩa và kinh dựa vào lý, cũng chẳng phải không có. Tuy nhiên vì pháp rõ ràng, nên chỉ nói pháp. “Như “phân biệt” tướng cũng thế”, nghĩa là trừ ba số v.v… của y pháp, nên nói là “cũng thế”. Vì “sở hành” (đối tượng vận hành) của trí chân như, nên thuộc về ý nghĩa. Ở đây vì chẳng phải trí và vì chẳng phải chủ thể giải thuyết, nên ngôn giáo không sánh bằng.

Chỉ thuộc về ý nghĩa, chánh trí chỉ thuộc y trí: Nghĩa và y theo lý kinh, cũng chẳng phải không có, nhưng vì trí rõ ràng vượt hơn, nên chỉ nói trí.

3. “Y pháp nghĩa là chủ thể giải thích, đối tượng pháp giải thích, đều gọi là nghĩa pháp. Y, là nghĩa sở duyên, y kinh kiễu nghĩa, nghĩa là nghĩa được giải thích của giáo liễu nghĩa. Nhưng không đồng với y pháp. Nghĩa ấy có cả không liễu nghĩa, còn ở đây chỉ liễu nghĩa.”

Y trí, nghĩa là hai chánh trí. Tướng, Danh, Chân Như và Y chánh trí không khác với trước. Phế lập, hội ý giải thích như lý, nên biết.”

Nói “Như tướng phân biệt cũng thế”, nghĩa là y trí nhiễm chẳng phải hai trí, nên nói rằng “cũng thế”.

4. “Y, Pháp nghĩa là Danh, Cú, Văn và Thinh sở y làm thể. Đây là y cứ ở một phương, nếu dựa vào các phương có cả sắc, tâm v.v…

Y nghĩa, nghĩa là nghĩa của cảnh đã chấp lấy làm thể. Y kinh liễu nghĩa: nghĩa mà kinh đã giải thuyết là thể. Y trí lấy Chánh trí là thể.

Ba y của tướng, nghĩa là trừ trí, rất dễ hiểu.

“Như tướng phân biệt cũng thế”, nghĩa là vì hữu lậu nên trừ trí. Nếu dựa theo phương khác để phân biệt thì có thể làm Phật sự, là vì y danh, cú, nên thuộc về y pháp”.

Lại giải thích: “phân biệt” là tư duy “danh” làm rõ pháp, nên gọi là y pháp. Chánh trí chỉ y trí, nghĩa là y cứ vào sự thật, hoặc có đại trí của Phật thực hành Phật sự và tư duy Danh, nên thuộc về y pháp, là vì đối tượng chấp lấy, vì giáo đã chứng, nên nghĩa và kinh nương tựa.

Nay, tướng đầu nói lên chỉ thuộc về y trí.

5. Môn ba đối có sắc, không có sắc v.v… Luận sư Chương nói: “”Danh” và chân như đều chẳng phải (câu phi) hai thứ, vì danh là giả có ở sắc, chứ chẳng phải vì sắc giả lập, nên không thể phán quyết thiên lệch sắc chẳng phải sắc. Không thể nói chân như là Sắc, phi Sắc. Nếu y cứ vào môn giả danh, thì chân như là phi sắc.

Môn có kiến, không có kiến, có đối, không có đối. So sánh đồng với thuyết có sắc, không có sắc. Trong đây nếu nói rằng: “Đức Như lai có năm căn, năm trần v.v… vô lậu, nghĩa là đủ mười một sắc, Nhiếp Luận như dịch vào đời Lương chép: “Mười tám trong thân thọ dụng là thân sắc; bốn ấm là thân hành. Thân tự tánh, Sắc, Hành, không thật có, thân thọ dụng chẳng phải thân tự tánh. Sắc của quả Phật này thuộc về Chánh trí. Nếu nói rằng: “Chư Phật không có sắc thân, chỉ dùng Đại trí; Đại Định và Đại Bi làm Thể thì Chánh trí không có sắc. Vì thế, nên trong phân biệt bốn niệm trụ, dưới đây sẽ nói: “Chánh trí chỉ là cảnh của ba niệm trụ, trừ Thân niệm trụ, y cứ ở thân không có sắc của chư Phật mà nói.”

Luận sư Bị nói: “Vì sao tướng trong sinh tử lấy “phân biệt” làm thể, lại lập sự tướng? Sắc của quả Phật thuộc về Chánh trí, không lập riêng làm tướng ư?”

Giải thích: “Vì chấp giả dối ngoài tâm có tướng theo tính chấp đó, lập riêng môn tướng. Đức Phật thấu suốt đạo lý Duy Thức, không chấp ngoài tâm có sắc, tức thuộc chánh trí.”

Lại, có chỗ giải thích: “Quả Phật thuộc về các tướng như sắc v.v… Nhưng văn dưới nói tướng là trói buộc ba cõi, nghĩa là vì đối với “phân biệt” chỉ nói tướng hữu lậu, thật ra có cả không trói buộc.”

6. Môn hữu lậu, vô lậu, tướng có cả hai thứ, như tướng căn trần v.v… của thân người vô học, vì lìa Tùy miên cũng gọi là vô lậu.”

Lại, giải thích: “Hư không Phi trạch diệt là thuộc về tướng, nên có cả hai thứ. Hai thứ chỉ có hữu lậu, nghĩa là danh và phân biệt chỉ hữu lậu. Dưới đây luận nói: “Phân biệt ba đế, trừ diệt đế, nghĩa là theo luận Du-già chép: “Có ba thứ đạo đế. Thuận Quyết trạch phần v.v… cũng thuộc về đạo đế. Chân như là đạo đối trị. Nghĩa sở duyên của lậu tận, gọi là vô lậu, chẳng phải trí đối trị, có thể dứt hết nghĩa lậu, cho nên là vô lậu.”

Lại, giải thích: chân như chẳng phải “nghĩa tận tướng của trạch diệt, nghĩa tận tướng của Trạch diệt là thuộc về tướng.

7. Chân như trong môn hữu vi, vô vi, chỉ vì đối trị để cho nghĩa sở duyên của tướng vắng lặng của các hành, nên thuộc về vô vi. Tuy nhiên chân như chẳng phải trí đối trị khiến cho nghĩa tướng vắng lặng của các hành.”

Lại, giải thích: “Chân như chẳng phải là nghĩa Trạch diệt của tướng vắng lặng của các hành. Nghĩa Trạch diệt, là tướng vắng lặng của các Hành là thuộc về tướng.”

8. Môn hữu tránh, vô tránh ba đối, đẳng so sánh với hữu lậu, vô lậu ở trước.

9. Chân như trong môn hai đối của thế gian, xuất thế gian, là đạo đối trị, có thể khiến cho tất cả ngôn thuyết, hý luận trở thành nghĩa sở duyên của trí vắng lặng của thế gian, gọi là thể chân như của xuất thế gian, chứ chẳng phải vượt qua nghĩa đối trị tướng ngôn thuyết, hý luận nên gọi là xuất thế gian.

10. Môn phân biệt bốn đối như trong, ngoài v.v… Bổ Khuyết rằng: “Danh chỉ là ngoài, nghĩa là vì thuộc pháp nhập. “Phân biệt”chánh trí có cả trong lẫn ngoài. Tâm vương là trong, vì thuộc về ý nhập; tâm sở khác là ngoài, vì thuộc về pháp xứ. “Chân như chẳng phải hai”, nghĩa là không đồng với bốn pháp còn lại, vì vừa là trong vừa là ngoài, nên nói “chẳng phải hai”. Theo lý của tướng pháp, thì chân như thuộc về pháp xứ ngoại, nên nói chẳng phải ttướng, vì nghĩa “cực lược” giảm dần, nghĩa không đồng với sắc pháp trong tướng giảm dần đến một cực vi lược, gọi là tế. Chỉ vì nghĩa khó biết, nên gọi là tế.

Luận sư Chương nói: “Phân biệt” thuộc về “duyên”cảnh sinh.

Vì “duyên”chung trong, ngoài, nên có cả hai thứ. Hậu đắc, chánh trí, cũng thế. Chân như chỉ có nghĩa tế khó biết, chứ chẳng phải vì đồng với tướng sắc, từ nghĩa thô đến tế, giảm dần đến cực vi, nên có cả thô tế, chánh trí chỉ nghĩa hạnh tế; chân như thì cảnh tế.

“Gần, xa thuộc nhau”. Tạp Tâm chép: “Xứ xa, như Thiên trúc, Chấn Đán. Thời gian xa, như khi Nhãn thức ở trước đối với nhãn thức sau, vì thời gian xa. Tướng do nơi chốn, thời gian gần, xa, nên đều có cả hai thứ gần, xa. Bốn trần của Thiên Trúc, Chấn Đán vì thuộc về tướng, nên có xứ gần, xa. Các tướng hữu vi có thời gian gần, xa, gọi là ba pháp danh, phân biệt và chánh trí đều là hữu vi, đều không có cả thời gian gần, xa. Hai thứ chân như do hai thứ gần, xa, nên không thể nói là gần, xa. Nếu theo Tạp Tâm thì hiện tại và vô vi, là nói gần, vì vô vi tùy theo hiện tại kia mới chứng được, nên khác với văn này”.

Luận sư Bị nói: “Hai sự tướng, danh được y cứ ở xứ để nói về trong ngoài. Phân biệt, chánh trí đồng là pháp hữu tình, nên nếu y cứ vào cảnh sở duyên để phán quyết trong, ngoài thì thân trong được gọi là “duyên”trong; thân ngoài gọi là ngoài”.

Hỏi: “Vì sao không nói danh chỉ là sinh ư?

Đáp: “Vì thiếu”.

11. Môn có chấp thọ, không chấp thọ.

12. Môn này đồng, phần đồng kia (rất dễ hiểu)

13. Môn sáu đối như nhân chẳng phải nhân v.v…

Pháp sư Chương nói: “Trong đây, nói về nhân duyên, nhân quả.

Chân như chẳng phải nhân duyên, nhân quả. Trong đây có bốn môn:

  1. Môn thể là nhân chẳng nhân.
  2. Môn thể là quả chẳng quả.
  3. Vì quả thì có nhân, nên gọi là có nhân, chứ chẳng phải quả gọi là chẳng có nhân.
  4. Vì nhân hay có quả, nên nhân gọi là có quả, chứ chẳng phải nhân gọi là chẳng phải có quả.

Báo, chẳng phải báo nghĩa là báo trong tướng. Năm căn, Trần là Dị thục, pháp khác chẳng phải Dị thục. Vì tiếng chẳng phải báo, nên gọi là cũng chẳng phải Dị thục. Thức thứ tám trong phân biệt và sáu thức của báo là Dị thục, pháp khác chẳng phải Dị thục; nên có cả hai thứ. Chánh trí đã chẳng phải Dị thục.

Các Luận sư xứ này nói: “Báo. “Biến dịch” là vô lậu, là không đúng.

Có báo, không có báo, nghĩa là thiện, bất thiện hữu lậu trong tướng và phân biệt là có báo. Vô ký, vô lậu vì không có báo, nên có cả hai thứ. Danh là vì vô ký nên chẳng có báo. Nhưng giả không có tự thể, lấy tiếng làm thể. Y cứ ở thể mà nói, cũng được nói có báo, nên không nói rằng: “Nhất định chẳng có báo”. Chánh trí là vô lậu, quyết định chẳng có Dị thục.

Các sư xứ này nói: “Nghiệp vô lậu là nhân của Biến dịch sinh tử, cũng có báo” là không đúng! Bởi vô lậu chỉ được tư chất(tư lương), còn nghiệp hữu lậu thì được báo Biến dịch, nên nói rằng: “Nghiệp vô lậu làm nhân”. Tuy nhiên, vô lậu chẳng phải nhân của báo, do vậy chẳng có báo”.

Luận sư Bị nói: ‘Vì sao chân như chẳng phải là nhân “năng tác”.

Giải thích: “Y cứ vào môn bốn duyên ở trên, nên lập ra hai cách giải thích: “phân biệt” có cả Dị thục, phi Dị thục, nghĩa là phân biệt Lại-da là Dị thục. “Phân biệt” của thức sáu, bảy chẳng phải Dị thục. Phương tây có hai giải thích:

  1. Giải thích: Cái do “Thiện, ác chiêu cảm là Dị thục, pháp khác là chẳng phải.
  2. Giải thích: “Sáu thức hoàn toàn chẳng phải Dị thục.

14. Môn bốn cặp có sở duyên, không có sở duyên v.v… tâm, tâm sở, gọi là có sở duyên, gọi là tương ưng gọi là có hành, gọi là có căn sở y, nên so sánh đẻ nói.

15. Môn có trên, không có trên. Luận sư Chương nói: “Chín mươi chín trong một trăm pháp đều có trên. Vì pháp chân như có, nên chỉ có chân như gọi là không có trên (vô thượng) nên pháp còn lại không có lỗi. Vô vi phân biệt khác với chín mươi bốn pháp hữu vi. Nghĩa đối tượng duyên của trí phân biệt thanh tịnh phân biệt khác với Trạch diệt v.v… tất nhiên là vô vi.

16. Môn ba đời chẳng phải đời. Bốn thần thông, ba đời. Chân như chẳng phải ba đời. Bổ khuyết rằng: “Ở trước, y cứ vào sự giống hệt với bản chất, nên là vô vi. Nay, thuộc về tướng từ “không” chỉ là hữu vi thuộc ba đời.

Luận sư Bị nói: “Tướng trong môn thuộc về uẩn trước đây, có cả hai thứ, nghĩa là y cứ có cả hai tướng để nói, còn ở đây vì chỉ y cứ vào tướng của tướng, nên không trái nhau”.

17/ Môn trói buộc ba cõi. Bổ khuyết rằng: “Sự trói buộc của cõi Dục, cõi Sắc có ba: Tướng, Danh, và phân biệt. Sự trói buộc của cõi Vô Sắc cũng thế, nghĩa là cũng có, ba pháp tướng, danh, phân biệt.

Hỏi: “Nếu vậy, tức lẽ ra phải nói trói buộc ba thần thông, ba đời.

Nhưng vì sao lại luận riêng về Vô Sắc ư?”

Giải thích: “Danh của cõi Dục, cõi Sắc có hai thứ: Danh của ngôn thuyết và danh của tư duy. Vì cõi Vô Sắc chỉ có danh của tư duy, nên nói là biện luận riêng”.

Chương Luận sư nói: “Hỏi vì sao trong môn phân biệt hữu lậu, vô lậu ở trước, chân như và Chánh trí chỉ có vô lậu. Nay, ở đây lại nói hai thứ thần thông, chánh trí trói buộc, không trói buộc? Há, có thể chánh trí chỉ có vô lậu mà nói là trói buộc ư?”

Đáp: “Môn trước vì y cứ ở hai thứ chân thật, chánh trí của tâm định, nên chỉ có vô lậu. Giờ đây, nói chung chánh trí của tâm tán địa thượng, là vì hữu lậu, nên có cả trói buộc”.

Luận sư Bị nói: “Vì ở đây nói về Trí Hậu đắc của đạo Như lai, nên chỉ có không trói buộc, chánh trí của Bát địa trở lên cũng thế. Thất địa trở xuống, về nghĩa thì không nhất định. Nếu từ sau chánh thể trí, nối tiếp nhau sinh, gọi là không trói buộc. Nếu chẳng phải nối tiếp nhau sinh, thì đó là sự trói buộc của ba cõi. Hoặc có thể từ Sơ địa trở lên, Hậu trí không trói buộc, còn Địa tiền là trói buộc. Lại có thể Hậu trí của Nhị thừa là trói buộc, trí của Bồ-tát thì không trói buộc. Cũng có thể Trí Hậu đắc của Hữu học Nhị Thừa gọi là trói buộc; còn Trí Vô học, chẳng phải trói buộc”.

18. Môn phân biệt ba tánh. “Danh” chỉ có vô ký, nghĩa là nói theo tướng thô thì thật là có cả thiện, vì danh cho quả Phật và Bát địa trở lên, phát ra v.v… là tánh thiện, nên chân như chỉ thiện, vì là nghĩa sở duyên của trí vô phân biệt, thiện xảo, thanh tịnh, nên là thiện thắng nghĩa, chứ chẳng phải làm nhân dẫn đến sinh nghĩa tướng của quả đáng ưa, nên gọi là thiện.”

19. Môn Cảnh, Hạnh của ba Tuệ. Bổ khuyết rằng: “Hỏi: “Ý như năm pháp này, có bao nhiêu pháp do văn v.v… sinh ra; hoặc do văn v.v… tăng trưởng, hoặc do văn v.v… được sáng tỏ, đều gọi là sở thành, bao nhiêu là cảnh của ba tuệ ư?”

Đáp: “Tướng” và “phân biệt” là do ba tuệ được thành tựu, là cảnh của ba tuệ. Nghĩa là tướng do ba tuệ được sáng tỏ. Về sau biểu hiện tướng của ảnh tượng, gọi là ba tuệ thành tựu. Lại, do ba tuệ hữu lậu hiển rõ nghĩa văn xong, tăng trưởng phân biệt, cũng là thành tựu của ba tuệ, gọi là Văn, Tư sở thành là ba thứ cảnh, nghĩa là do Văn, tư nên “danh” của tướng phần khởi, nên nói rằng: “Danh là do Văn, Tư được thành, là cảnh của ba tuệ. Chân như chỉ là cảnh do tu được thành, nghĩa là do tu nên thể hiện, tức là cảnh của tu. Chánh trí là do tu thành, nghĩa là chánh trí nhờ định, mà khởi, gọi là tu sở thành là cảnh của ba tuệ. Y cứ duyên bản chất là cảnh của ba tuệ.”

Luận sư Cảnh nói: “Dựa theo văn này, thì chánh trí chỉ tu tuệ. Y cứ luận ở trước nói: “Nếu thế gian, xuất thế gian, có cả trói buộc (hệ thuộc) và không trói buộc (không hệ thuộc), thì Thất Địa trở xuống, Trí Hậu đắc, hai thần thông khởi đắc tu tuệ hữu lậu”. Theo thuyết trước nói: “Chân như chánh trí chỉ vô lậu” ấy, là y cứ trí chánh thể mà nói, cũng có thể hệ thuộc cõi, vì tánh của chánh trí là có hữu lậu, vì bị sự thô nặng theo đuổi, nên hệ thuộc cõi.”

Luận sư Bị nói: “Vì tướng có cả “phân biệt”, nên “tướng” và “phân biệt” khéo có cả qua ba tuệ là cảnh của ba tuệ. Hai Tuệ Văn, Tư cũng phát ngữ nghiệp, nên dựa vào ngữ nghiệp, mà tiếng được có danh v.v…

20. Trong môn Hạnh, Cảnh của ba tam-muội. Bổ Khuyết rằng: “Hữu sau trong tướng là hữu lậu. Vì “không” “vô nguyện”, “vô tướng” nên là ba thứ, cũng là ba cảnh, gọi là chẳng phải vô vi, nên không làm sở duyên của vô tướng. “Phân biệt” có cả ba thứ, là hai thứ Cảnh, như Tướng, Danh. Nói Chân như chẳng phải ba thứ là “sở duyên” của “không”, “vô tướng”. Chánh trí chung cho ba tướng là cảnh “không”.

Trong văn trên, dưới, hoặc “duyên” đạo đế làm “vô nguyện”. Hoặc nói là vô tướng, hoặc nói “không” v.v… Nay nói chánh trí chỉ do “không” đã hiện hành, nghĩa là nêu riêng một môn để luận.

“Nếu khác nhau v.v… trở xuống, là ba lần “lại nữa”, nhằm nói về sự khác nhau của ba Tam-muội đó:

Đầu tiên, nếu thể chẳng khác nhau, thì nói chung, gọi là “không”, “vô nguyện”; “vô tướng”. Thể chúng sẽ rộng, có cả ba Tuệ chỉ là hữu lậu. Nếu gọi là “không Tam-ma-địa’, cho đến “Vô tướng Tam-ma-địa”, thì chỉ do tu thành làm tánh, có cả hữu lậu, vô lậu. Nếu chỉ môn tâm giải thoát thì Tu tuệ vô lậu là tánh. Tát-Bà-Đa nói: “chỉ có hai, nếu nói ba Tam-muội, tức có cả hữu lậu, vô lậu. Nếu nói môn ba giải thoát, thì thể chỉ có Tu tuệ vô lậu là tánh.”

Luận sư Cảnh nói: “Theo văn này thì “không tam-muội” duyên có hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi làm cảnh. Vô nguyện tam-muội không duyên cảnh vô lậu hữu vi. Chánh trí chẳng phải đối tượng Duyên của vô nguyện.”

21. Môn cảnh giúp của ba học Giới, Định, Tuệ. Bổ khuyết rằng: “Tướng là giới tăng thượng, quyến thuộc v.v… của giới tăng thượng, nghĩa là trong tướng có bảy Chi thiện thân ngữ căn bản là tự tánh giới.

Phương tiện v.v… trước sau khác là quyến thuộc của giới. Tuệ, Tâm hữu lậu của hữu sau trong tướng cũng là sở hành của Tu tuệ, gọi là “sở hành” tuệ tâm, quyến thuộc của giới. Nghĩa là “Danh” chẳng phải thể của bảy chi giới của thân ngữ, chỉ dựa vào tâm giới được giả lập trên tiếng của ngữ nghiệp trong giới. Cho nên, ở đây gọi là quyến thuộc của giới, cũng là “sở hành” (đối tượng hiện hành) của Tuệ. “phân biệt” Tâm Tuệ này, cũng là “sở hành” của Tuệ, Tâm, là quyến thuộc của giới. Nghĩa là do “phân biệt” nên thọ trì giới, nên là quyến thuộc của giới.

Chánh trí là quyến thuộc của giới, nghĩa là do sức tuệ này khởi đồng thời với giới của đạo, định v.v… nên là quyến thuộc.”

Luận sư Chương nói: “Tướng” là thể của giới tăng thượng của hai nghiệp thân, ngữ phát nghiệp. Bốn uẩn là quyến thuộc, gọi là quyến thuộc giới của ngữ nghiệp.”

22. Ba môn như học v.v… “Tướng” và “phân biệt” có cả ba học. Luận sư Bị nói: “Tướng có cả Học vì ba Học có cả hữu lậu, nên nói rằng: “Thiện giải thoát phần, Luận Du-già nói là Vị tri căn; Dục tri căn, nói là Học. Tâm thiện hữu lậu vì đã khởi ở thân người vô học, nên nói là vô học. Nhưng, phân biệt Học, Vô Học chỉ là hữu lậu, nên thuyết trước nói hai thứ danh và phân biệt chỉ có hữu lậu.”

23. Môn phân biệt ba dứt trừ. Pháp sư Chương nói: “Danh là “không ẩn một vô ký”, nên chỉ do tu đoạn.” Luận sư Bị nói: “Các danh hữu lậu, nên do tu dứt trừ.”

Nếu vậy, danh mà La-hán có, vì sao giải thích là phán quyết phần nhiều.”

24. Môn Cảnh của bốn niệm, trụ. Bổ Khuyết rằng: “Lại, tư duy của tướng thân, của tu pháp niệm trụ của duyên hư hoại, nghĩa là ở trước “duyên” sắc thân là Thân niệm xứ. Nay, quán chân như tức là pháp niệm trụ của duyên hư hoại. Tướng của như Thọ, Tâm, Pháp phải biết cũng thế. Nghĩa là cũng quán chân như Thọ v.v… tức là quán chung Thân, thọ, tâm, pháp. Tất cả chân như gọi là pháp niệm trụ “duyên” hoại.”

Luận sư Chương nói: “”Duyên” Thể chân như là pháp niệm trụ “duyên” không hư hoại. Lại, khi tư duy tướng thân nhập Chân như, thì nghĩa chân, tục không khác nhau, cũng tu pháp niệm trụ của “duyên” hư hoại. Tướng của ba niệm trụ: Thọ, Tâm, Pháp cũng thế.

“Duyên” Chánh trí làm cảnh, tu ba niệm trụ trừ Thân niệm trụ, nghĩa là nói Đức Phật đã biết chung sắc vô lậu v.v… vì không khác với thức, nên trong Chánh trí không nói cảnh tu thân niệm trụ, cũng không nói có danh của vô lậu, vì tâm, tâm pháp phân biệt hữu lậu thấy có danh, nên Danh chỉ hữu lậu. Tâm, tâm pháp vô lậu không thấy ngoài tâm có Danh và các Sắc v.v… riêng. Danh và sắc v.v… chỉ có hữu lậu”.

25. Môn vì cảnh xả giới. Bổ khuyết rằng: “Nếu Chánh trí “duyên” chân như thì tức là dứt hẳn tùy miên, nghĩa là trong một niệm, kiến phần “duyên” chân như, tự chứng phần vì “duyên” nới kiến phần dứt trừ, nên nói rằng: “Duyên” chân như và chánh trí dứt hẳn tùy miên.”

Luận sư Chương nói: “Phương Tây nói rằng: “Vì chánh trí tự phản chiếu, nên “duyên” chân như, chánh trí làm cảnh, có thể dứt hẳn tùy miên. Nếu “duyên” riêng Chánh trí thì vì chẳng phải quán vô tướng, nên không thể dứt “hoặc”.”

Nay, giải thích: “Vì tư duy chân trí, nhập Chân như, nên nói là “duyên” chánh trí chân như làm cảnh, dứt hẳn Tùy miên. Như tướng của tiền thân cũng tu pháp niệm trụ của “duyên” hư hoại.

Nếu lời nói như phản chiếu nên nói là “duyên” chánh trí, thì lẽ ra lúc “duyên” chân như, sẽ phản chiếu Thọ, Tâm, Pháp, khi “duyên” chân như, tu ba niệm trụ.

Vì y cứ ở trí để nói về “không”, nên kinh nói rằng: “Đệ nhất nghĩa không, gọi là biết Tuệ.”

26. Môn nhập cảnh định, trong đó, trước nói về nhập cảnh định hữu lậu, sau nói về nhập cảnh định vô lậu.

Trong phần trước, Bổ khuyết rằng: “Duyên” dục có ba: Khổ, thọ, chưóng. “Duyên” Sơ thiền ba là chánh mầu nhiệm. Với “duyên” như thế, hàng phục tu hoặc của cõi Dục, được vào Sơ thiền, cho đến tư duy Phi tưởng và ba vô sở hữu xứ được nhập Phi tưởng.”

Luận sư Bị nói: “Do Pháp ưa nhàm chán trói buộc địa, nên trừ chân như, chánh trí.”

“Nếu vậy, thì pháp trói buộc mà La-hán v.v… đã có, cũng là chánh trí? Về sau, khởi chẳng phải pháp mà người khác đã nhàm chán?”

Giải thích: “Trí thế gian của A-la-hán v.v… có hai môn: 1- Thuộc về phân biệt. 2- Thuộc về chánh trí. Văn này y cứ ở môn phân biệt để luận.

Kế là, trong phần nói về nhập cảnh định vô lậu, trước, là y cứ vào bảy định, nhằm nói về nhập. Vì sao không nói chánh trí?” Vì tâm “năng nhập”, “sở nhập”, nên lược qua không luận. Sau, nói về Hữu Đảnh không có định xuất thế v.v…

27. Môn Căn, Lực, Giác v.v… Bổ khuyết rằng: “Về đạo lý, Tín v.v… cũng “duyên” phân biệt, cũng dùng phân biệt làm tự tánh của tín, v.v… cho nên không nói duyên theo phân biệt kia rằng.

Luận sư Chương dùng năm sự, phân biệt năm căn, năm lực, cho đến chỉ, quán. Theo luận Trung Biên, thì năm căn ở Noãn, Đảnh, năm Lực ở Nhẫn và Đệ nhất. Vì ở chung trước kiến đạo, nên lấy phân biệt làm tánh, duyên Danh, duyên Tướng làm bốn Tầm, Từ quán ở giai vị Noãn, Đảnh, vì gọi là năm căn, nên gọi là tướng là sở duyên. Vì làm tăng thượng cho Chánh trí chân như ở trên Sơ địa mà được tên năm căn, năm lực cũng thế.

“Phân biệt” làm tự tánh, gọi là tướng là sở duyên, tạo nên bốn trí Như thật, quán ở nhẫn và giai vị thứ nhất. Đối với Chánh trí, chân như trong địa làm tăng thượng mà được ban đầu, tên năm căn. Như năm căn thì năm lực cũng thế, phân biệt là tự tánh danh tướng là sở duyên, thực hành bốn quán như thật trí. Ở tại Nhẫn và thứ nhất, đối với chân như chánh trí ban đầu làm tăng thượng mà được gọi là Lực. Như trước kiến đạo, căn và lực như thế. Bảy chi giác trước Kiến đạo, hoặc vì hay được chi Bồ-đề của Sơ địa, nên gọi là chi giác. Đây là chi giác của thế gian Địa tiền, nên dùng “phân biệt” làm tự tánh.

Nếu vì nương tựa vào chi Bồ-đề của Trí vô phân biệt của Sơ Địa, nên gọi là Chi giác, thì đây là chi giác vô lậu xuất thế, lấy chánh trí làm tự tánh, chân như làm đối tượng duyên (sở duyên) Giác ngộ an lập đế làm duyên tăng thượng cho tướng Kiến đạo. Lại, tám đạo chi như Chanh kiến v.v… nếu là chi đạo của thế gian Địa tiền như trước, thì nên biết rằng, “phân biệt” làm tự tánh. Nếu chi đạo Vô lậu xuất thế dùng chánh trí làm tự tánh, trừ ba chi giới, vì không duyên. Năm chi còn lại, dùng an lập bốn đế làm sở duyên cho phi an lập chân như, vì tám chánh ở Tu đạo xuất quán chân như, được “duyên” an lập bốn đế. Kiến đạo tu bảy chi giác, chỉ vì khởi quán chân như, nên chỉ “duyên” Chân như.

Đối với Học đã chứng được tất cả công đức của lậu tận, hiện pháp lạc trụ làm tăng thượng. Như các chi đạo hoặc dùng “phân biệt” làm tự tánh. Hoặc dùng Chánh trí làm tự tánh an lập, chân như làm đối tượng duyên. Đối với lậu tận, hiện pháp lạc trụ là tăng thượng. Cũng như giải thích bốn hạnh ngăn ngừa bốn pháp già, chỉ quán cũng thế. Bốn hạnh tích trong đây dựa vào độn căn, nói là chậm lụt; dựa vào lợi căn, nói là nhanh chóng. Bốn định căn bản hiện pháp lạc trụ đã được, nói là lạc; chưa được nói là khổ. Kiến lập khác nhau như thế. Nếu các bốn pháp tích dựa vào khả năng gìn giữ Thắng nghĩa của giới thế tục, sự khác nhau của chánh pháp định, tuệ được kiến lập. Nghĩa là do giữ gìn giới tăng thượng, chánh pháp của thế tục, nên kiến lập Sơ, Nhị vô tham, vô sân. Do gìn giữ tuệ tăng thượng khác, chánh pháp thắng nghĩa, nên kiến lập hai chánh niệm, chánh định sau. Luận Đối Pháp quyển mười nói: “Bốn chánh hạnh là: Khổ trì thông hạnh. Khổ tốc thông hạnh, Lạc trì thông hạnh, Lạc tốc thông hạnh. Thứ nhất là độn căn chưa được thiền lự căn bản. Thứ hai lợi căn chưa được Tĩnh lự căn bản. Thứ ba, là căn chậm lụt đả được tĩnh lự căn bản. Thứ tư, là căn nhạy bén đã được tĩnh lự căn bản.

Bốn pháp tích: là Vô tham, vô sân, chánh niệm, và chánh định, Vô tham, vô sân, có công năng làm cho giới học tăng thượng được thanh tịnh, không đồng với môn tham, giận dữ, hủy phạm học xứ giới. Chánh niệm, khiến tâm học tăng thượng thanh tịnh, vì không có quên mất đối với sở duyên. Chánh định khiến cho tuệ học tăng thượng thanh tịnh, bởi tâm định là khả năng biết khắp như thật.”

28. Môn Giải thoát Thắng xứ, Biến xứ. Bổ khuyết rằng: “Hỏi: “Vì nương tựa chủ thể giải thoát hai ràng buộc, nên lập tám giải thoát, nghĩa là ý kiến lập tám giải thoát. Đối với năm sự dùng cái gì làm tánh là một câu hỏi: Dùng sự nào làm đối tượng duyên? Là câu hỏi thứ hai: sự nào tăng thượng, là câu hỏi thứ ba.

Trong phần đáp, trước hết, nói về giải thoát dùng chung hai trí như lý, Như lượng làm tánh. Bảy giải thoát trước là Trí Hậu đắc.”

Luận sư Khuy Cơ v.v… cho rằng: “Ba giải thoát đầu trong tám giải thoát nương tựa vào năm Địa: Bốn thiền và cõi Dục. Năm giải thoát sau có cả khắp chín Địa.

Giải thoát đầu và thứ hai, hiển sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Sau, tức quán chân như hiển sắc này. Cho nên lấy chung hai trí làm tánh. Văn này là nói giải thoát đầu, thứ hai chẳng phải chỉ lập quan bất tịnh. Quán sắc tịnh, bất tịnh trong giải thoát thứ ba, lần lượt đối đãi nhau, đối đãi với bất tịnh được có sắc tịnh. Lại vì đối đãi với tịnh nên có được sắc bất tịnh. Vì cho nên tịnh, bất tịnh, tánh của chúng không nhất định.

Đã hiểu rõ đối đãi nhau, kế là, quán tùy theo nhau, chỉ có sắc tịnh, tức có sắc bất tịnh theo. Có sắc bất tịnh, tức có tịnh theo.

Đã hiểu rõ tâm quán theo nhau tự tại, cho nên, giải thoát thứ ba, quán chung một vị làm tướng thanh tịnh. Vì y cứ vào hạnh quán này, nên nói tức trong các sắc, dùng tướng nhiếp thọ và tức quán chân như sắc tịnh kia. Như thứ lớp bốn Không giải thoát, đều lấy bốn uẩn của Địa mình và chân như kia làm đối tượng duyên. Giải thoát của diệt tận không có đối tượng duyên (sở duyên).

Lại, “Người tu quán v.v… trở xuống, là nói lại ý tu giải thoát. Ba giải thoát trước trừ chướng không tự tại của Sắc v.v… Sau là giải thoát dứt trừ các chướng không tự tại của Vô Sắc.

Kế là, nói về Thắng xứ. Bốn thắng xứ trước, như giải thoát thứ nhất, thứ hai. Bốn Thắng xứ sau, như giải thoát thứ ba, do chia ra ba giải thoát trước làm tám thắng xứ. Vì Thắng xứ duyên sắc, duyên Chân như, có chung hai nghĩa thứ nhất. Hai nghĩa là một, như nói ba giải thoát trước. Từ vô thỉ đến nay, chấp tướng tịnh của sắc làm cảnh, đã bỉ cảnh lôi kéo vượt hơn tâm, tâm không được tự tại.

Thời nay, quán sắc cho là bất tịnh. Đôi khi quán tịnh, xiay vần xả bỏ, đều được tự tại. Nếu khi đối với sự sắc, có thể hàng phục vượt hơn, cũng là lúc đối với bốn uẩn Vô Sắc, được tự tại vượt hơn, nên chẳng phải nói quán Thắng xứ của tâm.

Quán chung sắc, tâm, nghĩa là vì không muốn nói về thắng đức, nói về vô biên, nên phàm phu dù tạo nên quán tám thắng xứ, nhưng chỉ “duyên” sắc, không quán chân như. Nay các bậc Thánh quán sắc và chân như, gọi là tri kiến vượt hơn. Phàm phu chỉ do ba chung, nên gọi là Thắng xứ, chứ chẳng phải do duyên chân như mà gọi là thắng. Bậc Thánh lại do “duyên” Chân như nên vượt hơn. Dưới đây sẽ nói về biến xứ:

Từ quán bốn Thắng xứ Xanh, Vàng, Đỏ, Trắng kia, chuyển thành quán bốn Biến mãn xanh, vàng, đỏ, trắng, nên nói rằng: “Do sứ “sở duyên” của Thắng xứ, chứ chẳng phải chỉ quán bốn sắc biến mãn kia, mà cũng quán khả năng tạo đất, nước, lửa, gió và duyên chân như của bốn Đại, bốn sắc”.

Nói khác nhau ở đây, nghĩa là cũng dùng tướng đại chủng làm sở duyên và tướng chân như kia làm đối tượng duyên, đều nói là tướng; Y cứ năm pháp, đầu tiên, sắc và chân như trong tướng thứ nhất là tướng “sở duyên”. Lại, quán tướng của Không, thức vô biến xứ và tướng chân như kia. Nếu không duyên cảnh đầy khắp (biến mãn) của chân như, “sở duyên” của Không, Thức kia, thì có thể dựa vào Không, thức không thành đầy khắp, vì sự biến mãn của chân như “sở duyên” kia, được gọi là đầy khắp.

Nói “Do thế lực đầy khắp của Thắng xứ, đã giúp cho các giải thoát cũng được thanh tịnh”: Văn này là nói Thắng xứ là biến xứ đầu tiên, giải thoát thứ hai là sau cùng.”

Pháp sư Thái giải thích về ba khoa Công đức trong Nhiếp Luận rất sáng suốt là chướng ngại. Luận ấy nói: “Biến xứ chỉ nhân hoàn toàn hữu lậu. Giải thoát chỉ quả hoàn toàn vô lậu. Thắng xứ ở nghĩa chính giữa có ở khắp nhân, quả. Trong phần nói về Thắng xứ, chỉ là rốt ráo, tức là tên quả, chỉ là vô lậu, tức có cả nhân quả; là vô lậu chẳng phải rốt ráo, nghĩa là tám thắng xứ đã được quán Không, gọi là vô lậu. Đối với tám giải thoát là nhân chẳng phải quả, nên chẳng phải rốt ráo.

Là rốt ráo chứ chẳng phải vô lậu, nghĩa là lúc đầu khởi tu trong tám thắng xứ là quả của Biến nhập kia, gọi là rốt ráo, chưa được quán Không, gọi là vô lậu.”

Luận sư Bị nói: “Nhiếp Luận bản cựu dịch chép: “Là vô lậu chứ chẳng phải rốt ráo v.v…”: là nghĩa của luận Thành Thật được tra cứu ở bản Phạm Thích luận, không có văn này.” Pháp tu ba khoa có hai thứ lớp:

1/ Thứ lớp Sơ học, trước được giải thoát, kế là, được thắng xứ. Sau, được biến xứ.

2/ Thứ lớp “quán không”: Trước, biến xứ; kế là, Thắng xứ, sau, là giải thoát.

Nay, ý văn này, y cứ ở phần sau để luận. Nếu vậy thì sao trong đây, trước nói thắng xứ, kế nói biến xứ, giải thoát ư?”

Giải thích: “Vì ở đây y cứ vào thuyết nói có thứ lớp trước, sau chứ chẳng phải quán, hạnh trước sau.”

 

(Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 73

Trên đây, trong giải thích năm việc, có hai bài tụng. Bài tụng đầu, đã nói về mười môn phân biệt xong. Dưới đây là bài tụng thứ hai, sau, dùng mười một môn phân biệt, trong đó, đầu tiên nêu một bài tụng, trình bày mười một môn đó. Sau, dựa vào môn, giải thích theo thứ lớp.

Số môn trong giải thích bài tụng, được khai hợp khác nhau. Luận sư Cảnh nói rằng: “Có mười môn, tức nói Tư nhiếp thủ tự tánh, là thứ nhất.

Luận sư Bị có hai cách giải thích:

1. Vì hay tư duy thuộc về v.v… các môn nên nói tư duy nhiếp thủ tự tánh nếu theo giải thích này suy nghĩ tự tánh là nêu chung chấp Tát-ca v.v… trở xuống là chính nêu chín môn.

2. Tư duy thuộc về là môn thứ nhất, tự tánh là môn thứ hai, cho nên trong văn xuôi có hỏi về tất cả pháp kia, sẽ nói trở xuống v.v… là giải thích môn thứ hai. Nếu theo giải thích này, thì sẽ có mươìi một môn.”

Nay, thì chín mươi mốt môn đồng với giải thích sau của Luận sư Bị.

Tư duy nhiếp thủ là thứ nhất; Tự tánh thứ hai, Thủ là thứ ba, Tát ca thứ tư; Hữu là thứ năm, Thế gian là thứ sáu; Chân là thứ bảy; Tầm, Từ là thứ tám; Biết Thật là thứ chín; Mật ý là thứ mười; Thứ lớp là thứ mười một.

Trong dựa vào môn để giải thích, đại khái lập ra chín đoạn. Dùng Tát-ca-da, Hữu và một xứ thế gian hợp lại để giải thích.

Y cứ vào giải thích đầu, trước nói về bốn đế thuộc nhau: sau, dựa vào số câu để phân biệt.

Trong phần trước. Luận sư Cảnh nói: “Tướng thuộc về bốn An lập đế, nghĩa là về hành tướng của Biện luận trước, là thuộc về chung an lập, phi an lập đế, trái với ở đây. Tướng có hai nghĩa rộng hẹp. Phân biệt thuộc về ba đế, trừ Diệt đế, nghĩa là văn này tức nói “phân biệt” thuộc về đạo đế, là vì giả cói thoát phần, là đạo Phương tiện và đạo Tư lương, gọi chung là thuộc về đạo đế. “Phân biệt” kia là khổ tập. Chân như thuộc về bốn Phi an lập đế. Bốn đế bình đẳng chân như là vì thuộc về phi an lập đế, cho nên nói thế.”

Pháp sư Thái nêu rõ rằng: “Như môn hữu lậu, vô lậu ở trước đã nói: “Phân biệt chỉ hũu lậu”. Nay, nói phân biệt thuộc về ba đế, là vì luận nói Đạo đế có năm, tức có cả hữu lậu. Chân như thuộc về bốn Phi an lập đế, là vì chân như đế, nên gọi là bốn, không thể an lập làm nhân, quả, nên nói phi an lập. Dưới đây sẽ nói về số câu có năm hỏi đáp.

1. Hỏi đáp về tướng và danh v.v… Các danh đều là tướng, Có khi tướng mà chẳng phải danh, nghĩa là vì câu hỏi có rộng, nên thuận với phần đáp câu hỏi sau. Văn này tác là năm pháp, đều gọi là Tướng. Tùy theo đối tượng thích hợp v.v… khác, nghĩa là vì phân biệt đối nhau v.v… có ba. Lại, vì Danh đối với ba pháp sau, cho đến chân như đối với chánh trí, thông bít cũng thế.

2. Hỏi đáp về tướng, và tướng của tướng. Năm việc có tự Thể, gọi là chung là tướng. Tướng đầu tiên trong năm việc vì nêu chung năm Danh, nên gọi là tướng của tướng. Đáp về tướng cùa các tướng đều là tướng. Hoặc có khi tướng chẳng phải tướng của tướng ban đầu. Nghĩa là bốn tướng như Danh v.v… cũng là thuận với đáp câu hỏi sau.

3. Bốn câu hỏi, đáp về tướng, danh. Nếu khi dùng phân biệt tướng của tướng đầu, thì tất cả đều là danh, tướng thứ hai, với tướng của “tướng” lại hòa hợp nhau, nương tựa nhau mà khởi tâm phân biệt chăng? Nếu khi phân biệt “Danh” “Tướng” của tướng thứ hai, lại hòa hợp nhau, thì dựa vào nhau mà khởi phân biệt ư?”

Đáp: “Có phân biệt tướng của tướng đầu, chứ chẳng phải do “danh”, tướng thứ hai lại hòa hợp nhau, nương tựa nhau mà khởi phân biệt. Nghĩa là như tâm phân biệt trâu, dê và trẻ con v.v… không thể hiểu rõ tất cả có tướng ban đầu.

Lại, “các Bồ-tát từ Sơ địa trở lên v.v…, đã nhổ hết “danh”trong các tướng”, trở xuống, là có danh ngôn của nghĩa quyết định vì huân tập tùy miên của pháp chấp. Khi các Bồ-tát v.v… “duyên” tướng của các tướng, không dựa vào danh ngôn của các tướng đó, để chấp tướng của tướng.

4. Có khi phân biệt “danh” “tướng” thứ hai, chẳng phải chấp tướng của tướng đầu, lại kết hợp lẫn nhau, nương tựa nhau mà khởi “phân biệt”: người nước ngoài lần đầu tiên đến nước khác, “phân biệt” danh tướng, không hiểu rõ sự tướng của tướng ấy.

5. Hiểu về danh, ngôn trái với tướng trên, thông thường, dựa vào “danh”, chấp tướng”, dựa vào, “tướng”chấp “danh” là trường hợp đều cùng có.

6. Không có phân ra trí phân biệt, thì “danh” “tướng” đều trái nhau, trừ ngần ấy “tướng” trên là trường hợp đều sai quấy.

Hỏi, đáp thứ tư y cứ vào bốn trường hợp tư duy quán sát chân như Pháp sư Cảnh nói: “ Nếu tư duy chân như, cho đến không thấy chân như chân thật, tức khi gia hạnh và Trí Hậu đắc tìm kiếm cầu chân Như, tứ có tướng giống với chân như, hiện rõ ngay nơi tâm, không thấy thật như.

Dưới đây, là nêu ra phần vị đó, nghĩa là chưa khi thông đạt và sau thông đạt, tư duy chân như an lập.

Có quán chân như, đến tư duy tướng chân như đó, nghĩa là trí vô phân biệt chánh chứng, gọi là quán, chẳng phải “phân biệt”, chấp lấy “tướng” tư duy chân như. Tuy nhiên có tác ý tương ưng với khổ khởi, tức nói tác ý, gọi là tư duy, nên nói do thắng nghĩa, nên tư duy tướng khổ kia.

Trường hợp đều cùng có, nghĩa là thông đạt sự nối tiếp sau, tư duy chân như phi an lập, nghĩa là đầu tiên xuất quán, sau nói là nối tiếp nhau. Chân trí khởi phân “duyên” chân như đã thấy trong duyên quán, ngược lại do do trí chứng dẫn đạo, nên cũng tự sáng suốt rõ ràng.

“Câu phi”, nghĩa là lìa tác ý như lý tư duy các tướng”.

Pháp sư Thái nói: “ Tư duy chân như chẳng phải quán thấy chân như, nghĩa là Địa tiền do tác ý như lý thuộc về “phân biệt” thứ hai, cho đến tư duy của giai vị nhẫn, tư duy lý không, vô tướng của trần. Tư duy pháp thế đệ nhất, nhận thức lý không vô sinh, nghĩa là chân như bình đẳng, chỉ thấy tướng ảnh tượng của chân như, là về tướng của tướng đầu.

Không thấy chân như thứ tư của tướng bản tánh; Từ lúc mới phát tâm cho đến pháp thế đệ nhất, chưa đến Sơ địa, thông suốt đúng về giai vị chân như và chánh thể trí thông đạt chân như của Sơ địa trở lên. Sau, khởi trí Hậu đắc tư duy chân như. Từ trí Hậu đắc xuất quán, về sau, lại tác ý lần nữa, tư duy tướng ảnh tượng của chân như an lập, cũng thuộc về tướng của tướng ban đầu, đều là tác ý tư duy chân như thừ tư, gọi là tư duy chân như. Tuy nhiên, chỉ quán thấy tướng của tướng ban đầu, chứ không thấy chân như thật thứ tư.

Quan điễm thứ hai, có quán chân như, chẳng phải tư duy chân như, nghĩa là Sơ địa trở lên, lúc chánh thể trí thông đạt chân như, do đạo lý thắng nghĩa, nên tư duy tướng của tướng ban đầu kia trong trí gia hạnh không thật có, tức nhập chánh thể trí, quán thấy thật chân như, do tướng của tướng ban đầu, tục đế cho là có thắng nghĩa, nghĩa là vì không có:

Trường hợp thứ ba: Các chánh thể trí sau khi thông đạt chân như, nối tiếp nhau tức khởi Trí Hậu đắc, tư duy lại lý chân như phi an lập đế:

Phương Tây có hai cách giải thích:

1. “Trí Hậu đắc nối tiếp nhau tư duy chân như, vì quán chân như không có tướng ảnh tượng, gọi là quán chân như.

2. “Dù Trí Hậu đắc có quán chân như của tướng ảnh tượng là thuộc nhau của tướng ban đầu. Nhưng vì chân như giống với tướng của bản tánh, nên gọi là quán chân như phi an lập.

Trường hợp thứ nhất trước, phân biệt lại tác. Y tư duy an lập chân như với tướng bản tánh thật chân như tương tự, nên gọi là “không quán chân Như”.

Trường hợp thứ tư, nghĩa là lìa như lý đã dần phát tác ý tư duy các tướng riêng. Không tư duy tướng chân như”.

Luận sư Bị nói: “Tư duy dùng tác ý phân biệt” làm thể. Do “phân biệt”, nên nhất định chẳng phải chánh thể trí tương ưng với tác ý, quán dùng tuệ làm thể, vì tuệ chứng chân như và “duyên”sự tướng giống với chân như, đều gọi là quán.

Quán, tư duy đã không đồng, nên có bốn quan điễm:

Quan điễm thứ nhất, trí gia hạnh của Địa tiền và “duyên” an lập Trí Hậu đắc.

Trường hợp thứ hai, tức chánh thể trí.

Trường hợp thứ ba, “duyên” Trí Hậu đắc phi an lập.

Hỏi: “Vì sao trong quan điểm thứ nhất, Trí Hậu đắc “duyên” chân như, gọi là an lập? Chân như, đối tượng duyên trong trường hợp thứ ba, gọi là phi an lập ư?

Giải thích rằng: “Trong trường hợp thứ ba đã nói Hậu Trí do thứ lớp của chánh thể trí sinh, nên chẳng phải an lập chân như. Chân như “sở duyên” trong trường hợp thứ nhất, vì không giống với bản chất nên gọi là an lập”.

Hỏi: “Hậu trí của Như lai là thể của pháp thế nào?” Giải thích: “các nước phương tây có hai thuyết:

1. Hậu trí của đức Như lai hoàn toàn không “duyên”chân như. Vì sao? Vì nếu muốn “duyên” chân như thì tức phải chứng chân như, tức gọi là chánh thể trí”.

2. Trí Hậu đắc cũng “duyên” chân, tục. Nhưng Trí Hậu đắc của Như lai có hai thứ:

1/ Cảnh trong chánh thể trí ở một sát na, được chia ra hai trí. Nếu như thế, thì hoàn toàn “duyên” lý.

2/ Tự có Trí Hậu đắc “duyên” tục đế và “duyên”tướng chân như. Trường hợp thứ tư trừ tác ý “duyên” lý, còn thì các tác ý khác. Như bốn trường hợp này lấy chân như làm tông, nên gọi là bốn câu chân như”.

Khuy Cơ Luận sư nói: “ Trường hợp một, trí gia hạnh của Địa tiền vì có “phân biệt”, nên tướng chân như, “sở duyên” không giống với chân như bản chất, nên không gọi là quán chân như.

Trường hợp thứ hai, chánh thể trí vì chẳng phải phân biệt, và vì chứng chân như,nên hỏi:”

“Nếu vậy, vì sao nói tư duy?”

Giải thích: “Vì không đồng với tư duy ở trước:

Như Mạt-na vô lậu gọi là lý; chẳng phải tư duy nhiễm, nên không gọi là tư. Vì vô lậu, nên cũng gọi là Tư.

Trường hợp thứ ba, chánh thể trí của Sơ địa trở lên, theo thứ lớp dẫn phát “duyên” chân như. “Sở duyên” của Trí Hậu đắc giống với tướng chân như. Vì rất giống với chân như, nên gọi là Quán. Vì “phân biệt”, nên gọi là tư duy. “Sở duyên” của biện luận chân thật, gọi là “phi an lập”

Trường hợp thứ tư, tác ý khác trừ tác ý “duyên” lý. Nghĩa khác suy ra đồng với Luận sư Bị”.

Luận sư Cảnh nói: “Tư duy có hai nghĩa:

1. Vì quán lại (trùng quán)

2. Vì chẳng phải chân quán. Quán tức thông suốt nghĩa quán chiếu. Nhưng ngay cả trường hợp thứ ba cũng quán tư duy chân như, nghĩa là chánh trí của Tu đạo. Vì quán lại, nên gọi là tư duy. Vì quán chiếu, nên gọi là quán. Như nghĩa thích hợp với tu đạo của người xưa, gọi là tư duy.

Nay, xét qua các giải thích, ta thấy giải thích của Pháp sư Thái là hơn. Tuy nhiên, nếu theo Luận sư Nan-đà, thì trong nhân, chánh thể trí không tu bản chất chân như mà là biến đổi ảnh tượng khác, không hợp với văn này. Cứ theo nghĩa của bốn trường hợp, lại có thuận.

– Hỏi, đáp y cứ vào bốn trường hợp tướng của “tướng” tư duy quán. Luận sư Cảnh nói: “ Trái với bốn trường hợp trước, có tư duy “tướng” không quán tướng chân nhu nghĩa là trường hợp thứ hai ở trước, là lìa tướng, tư duy tướng chân như, không chấp tướng, quán tướng chân như, tức là hướng về trước, quán không tư duy.

Có quán tướng chân như kia, không tư duy tướng chân như, nghĩa là trí gia hạnh ở trước, tư duy cầu chân như, chưa thể chánh chứng. Và, Trí Hậu đắc, trở lại “duyên” chân như. Chấp tướng để quán.

Có khi tư duy cũng quán tướng chân như kia, nghĩa là trường hợp thứ tư ở trước, nói là lìa như lý đã dẫn phát tác ý tư duy các tướng, tức là không tư duy chân như, cũng không quán chân như.

Có khi không phải tư duy tướng, cũng chẳng phải quán tướng chân như kia, nghĩa là trường hợp thứ ba ở trước, nói là “đầu tiên xuất quán Trí Hậu đắc tư duy trong tâm, chẳng phải tư duy an lập đế chân như, mà hầu hết đều không tư duy, không quán tướng các pháp. Luận sư Cảnh nói: “ trường hợp thứ hai chỉ tư duy tướng chân như kia. Vì y cứ vào thắng nghĩa, rốt ráo không thật có, nên gọi là tư duy tướng. Vào lúc không có tướng, vì chỉ thấy chân như, không thấy tứơng, nên gọi là không quán tướng chân như kia.

Trường hợp đầu ở trước, quán thấy tướng chân như, là tướng đầu và giữa. Nhưng ngay khi tư duy chân như, không tư duy tướng chân như.

Trường hợp thứ tư ở trước, tư duy tướng ban đầu, cũng quán tướng ban đầu, rất dễ hiểu.

Trường hợp thứ ba ở trước, tư duy thật chân như, tuệ quán thật chân như, vì chấp mắc nên chẳng phải tư duy.

Các tướng như năm việc v.v… cũng chẳng phải quán tướng ban đầu, do bốn trường hợp này làm chứng nên biết.

Trường hợp thứ ba trước, tâm phân biệt của Trí Hậu đắc, cũng quán chấp mắc thật chân như, vì ảnh tượng chân như xứng với chân như, tướng của bản tánh trong quán ở trước, nên gọi là quán chân như. Địa tiền vì chưa thấu suốt chân như, nên không có tướng. Trong quán Vô sinh dù có giống với tướng chân như, nhưng vì hiện không xứng với chân như thật, nên không quán chân như”.

Luận sư Bị nói: Tư duy trong đây, tương ưng chung với chánh thể Trí Hậu đắc. Trí Hậu đắc của tác ý gia hạnh và các tuệ phân biệt, gọi là quán, cũng không “duyên” lý. Vì trí Hậu đắc đã có sự khác nhau này, nên có bốn trường hợp. Trong bốn trường hợp đó, dù có chân như nhưng vì chấp tướng làm Tông, nên gọi là bốn trường hợp Tướng, trái với ở trước, rất dễ hiểu”.

Ý của Luận sư Khuy Cơ đồng với Luận sư Bị: Đầu tiên nói rằng:

“Có tư duy tướng, không quán tướng chân như kia, nghĩa là trường hợp thứ hai ở trước. Đây là nói về chánh thể trí tư duy tướng thể của chân như, không quán các tướng ngoài chân như.

Trường hợp thứ hai có quán tướng chân như kia, không tư duy tướng, nghĩa là trường hợp đầu tiên ở trước. Đây là nói về quán các tướng mà không có tư duy tướng Thể của chân như.

Trường hợp thứ ba có tư duy tướng, cũng quán tướng ấy, đây là nói tư duy các tướng và quán các tướng. Thứ tư chẳng phải tư duy tướng, chẳng phải quán tướng, nghĩa là trường hợp thứ ba ở trước. Đây là nói duyên giống với chân như mà không tư duy, vì các tướng ngoài và không quán.

Thứ hai, giải thích môn tự tánh, trong đó đầu tiên, có ba lượt hỏi đáp, chính là lập tông. Sau phá chấp ngoại.

Hỏi, đáp thứ nhất trong phần đầu là biênminh về pháp năm sự nhiếp. Luận sư Cảnh nói: “Về lý thật sự kết hợp đáp.

Nói “Nhiếp tất cả pháp” mà đáp rằng: “Như thế”, ấy là vì theo văn của bản Phạm. Luận sư Chương nói: Tất cả pháp đều thuộc năm việc, nên năm việc thuộc tất cả pháp. Biến kế sở chấp là pháp “không”, như sừng thỏ, chẳng thuộc về năm pháp.

Lượt hỏi, đáp thứ hai, là nói đúng về tự tánh. Luận sư Cảnh nói. Cộng tướng có thể nói: Tự tánh vì lìa ngôn thuyết, nên hỏi đáp về tự tánh không thể nói năng.”

Trong chương lại nói: “Về đạo ngôn thuyết chỉ nói tướng chung của các pháp, còn tự tánh vì lìa ngôn thuyết, nên không thể nói, như nói màu xanh, dù phân biệt với màu vàng, đỏ, trắng, nhưng tên xanh, được gọi là chung là pháp giới, vì tất cả là rễ, cành, nhánh, lá của cây trúc xanh đều xanh, dù phân biệt với rễ, cành, nhánh, nhưng cái tên là xanh là gọi là chung pháp giới. Tự tướng của mỗi lá cây đều không giống nhau. Một tên lá xanh gọi là chung pháp giới không giống nhau, nên với một tên chung không thể gọi là riêng tự tướng mỗi chiếc lá của pháp giới, bởi lẽ mỗi tự tướng của pháp giới đều không giống nhau., tất cả đều không giống nhau, tất cả đều không giống như, cũng như gương mặt của con người.

Y cứ vào một chiếc lá xanh, có rất nhiều cực vi. Số cực vi rất nhiều đều chẳng phải là xanh, vì thế, nên tên gọi là xanh cũng không hợp pháp. Lại, tự tướng của số nhiều cực vi, đều không giống nhau, cũng như gương mặt của mỗi con người. Cho đến tự tướng của một cực vi cũng không thể nói. Sắc pháp đã như vậy, tâm và tâm pháp; chẳng phải sắc, chẳng phải tâm pháp và pháp vô vi cũng thế, nên nói: “Tự tánh của các pháp không thể nói năng, chỉ giả nói cộng tướng (tướng chung) là pháp không có kia. Nếu chấp chúng thì “có” là thuộc về biến kế sở chấp.

Lượt hỏi đáp thứ ba, quán tưởng của năm việc: Luận sư Cảnh nói: “Ý hỏi các pháp đã không thể nói. Vậy y cứ vào những việc gì để quán biết các pháp?”

Trong phần đáp dưới đây có hai: thí dụ so sánh hợp dụ để đáp. Như tướng của việc huyễn chẳng phải hoàn toàn không có, nghĩa là hay tạo ra tánh huyễn không có tướng mạo của voi, ngựa v.v… chứ chẳng phải hoàn toàn không có. Thí dụ như sự huyễn có tánh của sự huyễn không có tánh của voi, ngựa v.v…

Hợp dụ dưới đây có hai: Trước, chung, sau, riêng.

“Các pháp như thế, chỉ có danh, tướng, không có tự tánh khác nhau, biểu hiện rõ ràng có thể được”. Đây là chung chỉ có Danh, tự giả lập các pháp, lìa danh tự, không có quyết định tùy lời nói pháp. Tự tánh khác nhau thể hiện rõ có thể được.

Về tướng, dưới đây sẽ kết hợp riêng:

“Tướng” do danh của tướng, tự tánh của tướng thật sự không thật có, nghĩa là thật tướng trong năm pháp không thật có, chỉ có do danh, tự gọi là chúng là “có”, như tướng, danh như thế, gọi là tự tánh v.v… phải biết rằng, cũng thế, nghĩa là trung gian của loại có ba. Tùy lấy ba danh, chấp lấy ba tánh, quyết định không thật có. Chánh trí do danh của chánh trí, tự tánh thật của chánh trí không thật có.

Hỏi: “Sự của năm pháp, đầu tiên nói về tướng đã xong, tức lẽ ra so sánh chung bốn việc còn lại mới phải, vì sao so sánh ba sự trong giải thích, giải thích riêng về chánh trí ư?

Giải thích: “Phải biết rằng, về thể của kinh luận mới phiên dịch, việc so sánh đôi khi đúng. Nếu như nói về mười thứ pháp môn, biên minh về một môn đầu đã xong. Kế sẽ giải thích tám môn còn lại. Sau đến môn thứ mười, lại phân biệt khiến cho nghĩa được rõ ràng. Thế nên tạo ra pháp này. Vì sao? Vì đối với tất cả thứ, tùy sự tánh của ngôn thuyết đều không thành tựu, kết biến kế sở chấp (ngộ nhận) không thành tựu.”

Chương rằng: “Như tướng của sự huyễn chẳng phải hoàn toàn “có”, cũng chẳng phải hoàn toàn “không”. Cho nên, kinh Tịnh Danh nói: “Các pháp chẳng phải “có” cũng chẳng phải “không”, ví như sự huyễn. Chỉ có tánh của việc huyễn chẳng phải là hoàn toàn là “không”.

Tuy nhiên vì không có tánh chất của voi, ngựa v.v… nên chẳng phải hoàn toàn “có”.

Thể tánh của các pháp như thế, chỉ có danh để gọi là. Nhân duyên giả có tướng của Y tha khởi, vì có thể được, chẳng phải hoàn toàn “không”. Nhưng không có tự tánh khác nhau của biến kế sở chấp lập bày tướng biểu hiện rõ có thể được, nên chẳng phải hoàn toàn có. Do danh của Biến kế sở chấp trên y tha khởi, mà gọi là tự tánh của tướng, quyết định không thật có, như việc huyễn của tướng ban đầu.

Như thế, quán bốn sự khác cũng thế, biến kế sở chấp không thể được.

Dưới đây, trong phá chấp ngoài, trước phá chấp ngoài, sau giải thích vấn nạn của ngoại đạo.

Trong phần trước, Bổ khuyết rằng: “Nếu nói là các tướng, cho đến như đã lập danh, nghĩa là ý chấp của người ngoài rằng, tất cả Danh và Thể của các pháp thường tồn tại một chỗ, vì vốn tự tại, nên nói tự tánh các pháp an lập. Nhưng danh xưa này cần phải chờ đợi tiếp nhận Danh phát hiện rõ, mới có thể giải thích pháp, nên lời nói tức xứng với lượng chung, giả lập Danh v.v… Dưới đây là chính phá:

Thông thường, ngôn thuyết, Danh, tất nhiên, là làm rõ pháp. Đã có danh xưa, trước là phải giải thích về danh chờ đợi cái gì để tiếp nhận danh? Là tức trước khi chưa lập giả danh, lẽ ra đã lập lượng đối với pháp. Trước khi chưa lập danh, lẽ ra giác biết nơi pháp. Vì có danh cũ, nên như lập tiếp nhận danh, cũng có thể phá rằng: “ông chấp tự tánh các pháp an lập, do trước hiểu rõ tự tánh các pháp an lập. Sau xứng với lượng kia, giả lập danh ngôn. Tức là trước khi chưa lập danh, lẽ ra giác biết về pháp, nên như đã lập danh. Dưới đây là phá lại:

Lại nữa, đối với một tướng đã lập danh ngôn, vì có số nhiều, vì có khác nhau, nên lẽ ra phải có nhiều thể, nghĩa là như một pháp kia có nhiều Danh, ông lập dựa vào “Thể” để lập bày “Danh”. Danh đã có nhiều thể. Lẽ ra chẳng phải một, nên lập lượng rằng:

“Một pháp có nhiều Danh, Thể lẽ ra cũng nhiều.

Vì xứng với pháp mà lập giả danh.

Như kiến lập một “Danh” ở một Thể”.

Cho nên, Danh, ngôn dựa vào tướng mà lập, là không hợp lý.

Khuy Cơ Luận sư nói: “Vì ngôn có khác nhau, đây là thuyết như một Danh, gọi là nhiều nghĩa. Nghĩa đã chẳng phải một, thì Danh lẽ ra phải có nhiều. Như luận Câu-xá nói: “Danh gọi là năm nghĩa, kệ rằng:

“Phương, thú, địa quang

Nói mắt Kim Cương

Nước trời do đây

Chín thử pháp trí

Ấy gọi là tên Cồ.”

Dưới đây thứ hai, phá pháp theo danh khởi. Đây là phá rộng tiến lui, chưa hẳn có chấp này.

Dưới đây, là thứ ba, phá chấp tùy kết hợp khởi, chưa hẳn có chấp này, chỉ phá rộng tiến lùi.

Dưới đây, là thứ tư, chấp danh làm sáng tỏ.

Nói “Nếu chấp tướng rồi, giả lập danh ngôn, tức là sẽ không thành làm rõ. Vì muốn biết pháp, nên giả lập danh giải thích. Khi chưa lập danh, đã lấy được pháp, thì đâu cầu danh làm sáng tỏ, nên lập lượng rằng:

“Tất cả Danh ngôn không thể làm sáng tỏ pháp. Vì khi chưa lập Danh, đã chấp lấy pháp, cũng như Danh ngôn không thể sinh pháp.”

Nếu không chấp tướng, giả lập Danh ngôn, thi sẽ không có danh ngôn của sự, là không hợp lý. Là thông thường lập danh ngôn, trước phải dựa vào pháp, sau đó, mới đặt danh. Đã không lấy sự, thì không có đối tượng nương tựa, sẽ lập danh ở đâu? Nên lập lượng rằng:

“Tất cả danh, ngôn đều không thật có. Vì không có sự sở y.

Như sừng thỏ v.v… ”

Chương rằng: “Văn này đồng với Nhiếp Luận nhắc lại: Nghĩa “Nhân Danh, chấp Danh, phá Trí đời trước. Theo Bản Phạn, không có chấp Danh, nghĩa làm một chấp, chỉ chấp danh, nghĩa tương xứng. Như vợ chồng xứng lẫn nhau làm chủ, chẳng phải khách, là biến kế sở chấp.”

Nay, phá chấp đó, Danh, Nghĩa không tương xứng:

Tướng so với Danh, nghĩa làm khách lẫn nhau, chẳng phải chủ. Danh, nghĩa chỉ Y tha. Nay, nhắc lại chấp rằng:

“Nếu cho rằng, các tướng do tâm phân biệt, an lập tướng sắc xanh v.v… của tự tánh, thì sẽ xứng với lượng xanh v.v… kia, giả lập Danh, Ngôn. Đây là giả lập danh ngôn của tướng xanh, dựa vào tướng xanh mà lập.”

Nếu vậy, tức là đối với tướng xanh, giả lập danh, trước khi chưa lập danh xanh, đã thấy xanh, lẽ ra đã có giác biết màu xanh kia? Giác biết danh xanh, vì danh xứng với tướng, nên nghe danh biết tướng, vì xứng với danh, nên hễ thấy tướng là biết danh. Nay, đã thấy tướng, mà không biết danh, nên biết danh không xứng với tướng. Lại, đối với một nhãn căn đã lập danh, ngôn có số nhiều, nên nói với một nghĩa này có nhiều danh.

Vì có sai khác, nên một danh của thứ hai này, gọi là nhiều nghĩa khác nhau. Như đối với một nhãn lập một danh Cồ, tức là gọi là chín nghĩa khác nhau. Nếu danh nghĩa tương xứng, thì một nhãn sẽ tùy nhiều danh, lẽ ra có nhiều thể. Lại, một nhãn tùy tên Cồ, lẽ ra sẽ có chín Thể tánh khác nhau. Về lý đã không như thế, cho nên, danh ngôn tương xứng, dựa vào tướng mà lập, là không hợp lý.”

Trên đây, phá chấp tướng của Tát-Bà-Đa Bộ. Từ đây trở xuống thứ hai, là phá chấp của Nhất thuyết bộ. Bộ ấy chấp tất cả pháp, chỉ có một danh, ngôn thuyết. Ngoài ngôn thuyết, danh, không còn có pháp nào khác. Do ngôn thuyết, danh, nên các pháp được hiển hiện rõ ràng”. Nay, nhắc lại chấp để phá:

“Nếu cho rằng, các tướng vì như Danh, Ngôn thuyết nên an lập; do thế lực của danh, nên tự tánh các tướng khởi, tức là tướng của Danh đó giả lập danh, trước chưa lập danh. Lẽ ra đã không có tự tánh, là một lỗi.

Lại, tướng đó trước đã không có. Vì tướng không có, nên Danh không có. Về sau giả lập ngôn thuyết, lẽ ra cũng không có, là lổi thứ hai. Cho nên cả hai đều trở thành lỗi “không”.

Lại, Vì giả danh ngôn có rất nhiều, nên một nghĩa này có nhiều danh. Vì có khac biệt, nên một danh này gọi là chín nghĩa khác nhau, lẽ ra có nhiều tánh khác nhau, đại ý đồng với cách giải thích ở trước.

Lại, Tướng chỉ dựa vào danh người khác để khởi lỗi. Do các tướng kia chỉ dựa vào cái giả của kẻ khác để kiến lập. Dưới đây, đầu tiên là pháp: Kế là dụ, sau, là kết hợp tổng kết rất dễ hiểu.

Dưới đây là phần thứ ba, phá chấp của Vệ thế sư: “Lìa tướng và danh, nhưng do hai thứ danh, tướng hòa hợp cú nghĩa, nên sanh “Hữu cú nghĩa riêng hòa hợp”, có thể khiến cho danh tướng hòa hợp. Hữu Cú nghĩa khiến cho danh, tướng “có”. Nay, phá rằng:

“Nếu ông cho rằng lìa tướng kia và lìa danh, ngôn, nhưng do hai thứ danh tướng hòa hợp, tự tánh của Hữu Cú nghĩa ấy”, thì tự tánh của Hữu Cú nghĩa kia đối với các tướng, hoặc ở trong Danh, Ngôn; hoặc ở trung gian hai tướng, danh lẽ ra hiện lượng có thể được. Nhưng không thể được. Cho nên, chấp này không hợp lý.

Do nhân duyên này, nên tùy lời nói lập tất cả pháp có tự tánh. Đối với tất cả thứ pháp khác nhau, đều không có “cái có” (sở hữu).

Dưới đây là phần thứ tư, phá tăng-già.

Dùng khổ, lạc, si ba đức với hai mươi hai Đế làm tự tánh, cho nên nói là cac pháp có tự tánh của ba đức. Nhưng tự tánh đó là thường, nhờ Danh nên sáng tỏ.

Nay, phá rằng:

“Nếu cho rằng Danh, Ngôn có thể làm sang tỏ tự tánh, cũng không hợp lý. Vì nếu lấy, không lấy, mới lập danh, ngôn, đều có lỗi. Nếu tâm chấp tướng của tự tánh, về sau mới giả lập danh, ngôn, tất nhiên danh đó sẽ không thành. Làm sáng tỏ tự tánh, trước đây đã giải thích: “Nếu tâm chưa chấp tướng của tự tánh, mà trước đó đã giả lập Danh, Ngôn. Chưa có sự đã rõ mà lập danh, ngôn là không hợp lý, vì việc này cũng đều là danh sinh trước, vì một nghĩa có nhiều danh và một danh gọi là chín nghĩa, phá giống như thuyết trước.

Người ngoài cho rằng danh nhất định thuận với pháp, như đèn rọi sắc. Nay phá rằng:

Dụ soi rõ vì không giống nhau nên lập thí dụ không thích hợp với đạo lý.

Không giống nhau, nghĩa là nhân duyên soi rõ, đối với tất cả sự khác nhau như bình v.v… không sai khác. Như lúc đèn soi vào chiếc bình, cũng chiếu soi tất cả vật không có khác nhau. Danh thì không như vậy. Một danh khi gọi là tâm thì không gọi là sắc v.v… Các thứ cũng thế, Đèn chiếu đã như thế, các thứ mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, cỏ thuốc, v.v… soi chiếu cũng như thế năng chấp nhân duyên, nhân duyên đối với một soi thấy danh ngôn của các pháp khác nhau, danh ngôn thì không thế, nhân đối với sắc, danh chỉ có thể chấp sắc, không thể lấy tâm, nên biết thí dụ không giống với pháp.”

Kế là, giải thích vấn nạn của ngoại đạo có ba lượt hỏi, đáp. Đầu tiên, trong hỏi đáp, Chương chép: “Ở đây có hai câu hỏi:

1. Hỏi: “Không thể nói là có ngôn thuyết trong pháp tánh, rằng không thể nói, cho nên, nói pháp tánh không thể ngôn thuyết là không hợp lý?”

2. Hỏi: “Thân huyễn hóa ở trước dụ cho tất cả pháp. Dù các loại mà người kia đã biến hóa chẳng phải là có thật, nhưng có các việc năng tạo ra là thật. Như dùng chiếc khăn tay với chiếc khăn hóa ra con thỏ chẳng hạn. Con thỏ được tạo nên dù chẳng phải thật, nhưng tay hay tạo, khăn là thật. Vì đều chẳng phải là thật trong pháp đã dụ, nên thí dụ cũng thế, không giống nhau.

Trong phần đáp “Cho đến phương tiện lập bày”, là đáp câu hỏi thứ nhất.

Chính lập tông nói tất cả , lúc “không thể nói”. Nói “không thể nói”, cũng đã ngăn ngừa dứt trừ, vì lời nói kia đối với tất cả pháp, vì khiến giác biết nghĩa “không thể nói” như thế, nên nói “phương tiện lập bày không thể nói”. Nhưng nói “không thể nói” đã không thể được, nên tất cả pháp không thể nói.

“Vì thí dụ v.v… ” trở xuống, là đáp câu hỏi thứ hai, dùng thí dụ để dụ cho pháp chẳng phải không giống nhau, đã dụ có chân, có tục trong pháp. Pháp tục không có tánh, dù giả danh ngôn, nhưng chẳng phải như tánh của pháp tục kia, đồng với huyễn hóa không có tánh thật. Nghĩa “không thể nói” của lý thật đế chẳng phải không có thật, đồng với

huyễn v.v… Cho nên Pháp, Dụ cũng giống nhau.” Luận sư Bị nói: “Trong phần đáp có hai:

1/ Đáp câu hỏi ở trước: “Nói “không thể nói” cũng tức là xếp vào “không thể nói”, nên nói rằng: “Đã ngăn ngừa”.

2/ Đáp câu hỏi sau rằng: “Vì để cho giác biết nghĩa “không thể nói”, nên lập thí dụ để nói. Muốn nói giả danh là các pháp, dù chẳng phải tánh biến kế “có”. Nhưng lìa ngôn thuyết Y tha tánh chân thật chẳng phải là không, nên chẳng phải là không giống nhau.

Trong đáp câu hỏi thứ hai, Chương rằng: “Đây là giải thích thí dụ giống nhau. Ý hỏi: “Nếu các pháp thế tục do danh, ngôn nên tức là “có”,lìa danh, ngôn thì “không”!? Nếu như thế,có thể sẽ đồng với thí dụ huyễn hóa ban đầu hóa thành tức “có”; không hóa thành tức “không”? là nói lúc “không” có thể nói chấp hợp lý.”

Nay, Pháp sự thế tục thì không như thế. Ngôn thuyết cũng có, không ngôn thuyết cũng có, không đồng với biến hóa hoặc có, hoặc không. Đã thường là có, tức thường có thể nói chấp, không thể nói tức là vô ích!”

Ý đáp do tám phân biệt, sinh ra ba thứ sự, như Bồ-tát Bản địa phần đã nói. Do ba thứ sự kia lại khởi phân biệt các pháp tạp nhiễm, xoay vần nối tiếp nhau, cũng như huyễn hóa, khởi có nhân, dụ giống nhau. Lại nữa, do chứng lý “không thể nói”, khi tâm phân biệt diệt, các pháp tạp nhiễm đều có thể diệt theo, nên chấp không thể nói cũng không vô ích. Vì thế, nên tất cả pháp khởi, đều có sở nhân và có khi đoạn diệt, nên thí dụ giống như huyễn hóa.”

Luận sư Bị nói: “Đây là phá chấp của Phân Biệt Thuyết bộ:”

Thứ ba, trong phần hỏi đáp, giải thích về nhiễm không diệt hết, người ngoài nhân thuyết trước đã nói: “Nếu khi tâm diệt, các pháp tạp nhiễm đều sẽ diệt”, nên không thể nói là chấp, tức đặt ra vấn nạn rằng: “Nếu vậy, lẽ ra một người thành Thánh, thì tất cả đều thành, một tạp nhiễm diệt, tất cả đều diệt ư?” Luận chủ đáp:

“Các vật bình đẳng , nếu do phân biệt không chung, mà khởi báo bên trong của thân mình, thì khi trí vô phân biệt của Phật khởi, phần đoạn, biến dịch kia cũng diệt theo. Nếu do huân tập danh ngôn, phân biệt chung khí thế giới mà khởi, thì khi được thành Phật, tự thức phân biệt chung đã thể hiện cõi nước báo hữu lậu cũng là không. Tuy nhiên, từ quả báo của phàm phu, Nhị thừa, các Bồ-tát v.v… do thức đã biến hiện ra báo cõi nước, do phân biệt của người khác đã gìn giữ mà không diệt hẳn. Nếu không như thế thì nhân tố phân biệt chung của người khác lẽ ra sẽ không có quả của cõi nước quả kia? Dù cõi nước quả của chúng sinh nọ không diệt, nhưng chư Phật vẫn được thanh tịnh, nghĩa là cõi nước nhiễm quả báo kia của ta, với pháp chánh kiến thanh tịnh, cõi nước chân tịnh. Vì thế, nên kinh Nhân Vương chép: “Ba Hiền, mười Thánh cư trú cõi nước quả báo, chỉ mỗi mình Phật ở Tịnh độ.”

Thứ ba, là trong giải thích môn thủ, trước phán quyết chung về chủ thể chấp (năng thủ) đối tượng chấp (sở thủ), sau nói riêng về đối tượng hiện hành của ba thủ.

Trong phần trước, Chương rằng: “Trong tướng đầu, dù có phân biệt tướng ảnh tượng của Chánh trí, nhưng vì chẳng phải thật chủ thể “duyên”, nên chỉ là đối tượng chấp.

Trong môn bốn duyên ở trước, vì y cứ ở mường tưọng “chủ thể” duyên, nên trong tướng được có Duyên đẳng vô gián”.

Luận sư Bị lại nói: “Vì y cứ vào tướng riêng, nên không gọi là chủ thể lấy. Tướng chung cũng phân biệt chung Chánh trí có thể có sở duyên gọi là “năng thủ”. Vì làm cảnh cho người khác, nên nói là “sở thủ”.

Y cứ trong phần nói về tướng “sở hành” của ba thủ, đầu tiên, chính là nói về nghĩa “sở hành” của ba thủ; sau, là hỏi đáp lại, để phân biệt.

Đầu tiên nói: “Hỏi: “Năm việc như thế, cho đến vì không dựa vào ngôn thuyết”. Chương rằng: “Biết rõ Danh, Ngôn, chúng sinh dựa vào ngôn chấp tướng là chấp nghĩa “sở hành” của có ngôn, có tướng.

1. Không biết rõ Danh, ngôn, chúng sinh do thành tựu đối đãi tùy miên hạt giống của danh, ngôn chấp tướng, nên dù không phân biệt rõ về danh ngôn, nhưng do sức tùy miên chấp danh ngôn, nên hay chấp lấy các tướng, là tùy miên của ngôn thuyết, nghĩa là nghĩa “sở hành” của chấp lấy “không có ngôn”, “có tướng”.

2. Từ Sơ địa trở lên, Bồ-tát đã dứt trừ hạt giống tùy miên của danh ngôn đối đãi. Chánh thể trí không dựa vào danh ngôn, không thấy tướng sự, là nghĩa “sở hành” của chấp “không có ngôn”; “không có tướng”.

Trước sơ địa, nhị địa, ba thừa chấp lấy Thề tục đế, sau cùng trí chứng của Sơ địa chấp lấy Thắng nghĩa đế.

Lại có Trí Hậu đắc xa lìa tùy miên danh ngôn, chấp lấy chung thuộc về Thế đế, Thắng nghĩa. Dù biết chân như Thắng nghĩa, nhưng có tướng chân như vì từ tâm biến hiện, nên gọi là an lập.

Trong bốn trường hợp trước, vì y cứ vào chân như xứng thật, nên gọi là phi an lập. Vì đã dùng chân như Phi an lập làm sở hành (đối tượng hiện hành), nên hai thứ chấp này do hai nhân duyên được trí xuất thế gian:

1. “Duyên” từng được cảnh tục chưa từng được. Vì cảnh tục chưa từng được cảnh chân, nên gọi là thế gian, xuất thế gian.

2. Duyên cảnh tục có thể ngôn thuyết (nói năng), cảnh tục không thể nói năng, cảnh chân không thể nói năng khởi, nên gọi là trí thế gian, xuất thế gian.”

Luận sư Bị nói: “Ở trước, y cứ vào thứ lớp của chánh thể trí để dẫn phát, nên trường hợp thứ ba nói là “Phi an lập đế”. Nay, y cứ chung thứ lớp, nên nói “an lập”. Hoặc có thể có hai nghĩa đối lập nhau không đồng.”

Hỏi: “Trí Hậu đắc “duyên” danh, vì sao luận nói rằng: “không nói chấp nhau ư?”

Đáp: “Giả sử vì “duyên” Tục đế lìa ngôn thuyết, nên kinh Duyma nói: “Người nói pháp kia không có ngôn, không có thuyết, kẻ nghe pháp kia không có nghe, không có đắc”.

Lại, Luận Trì Địa chép: “Tùy sự chấp; Tùy sự như chấp, không thực hành Niệm này, sự này, như này, cho nên, các Bồ-tát lập:duyên” danh ngôn, gọi là lấy “không có ngôn”, “không có tướng”.

Kế là, trong phần phân biệt hỏi đáp lại, được chia làm bốn: Đầu tiên là nói về nhân duyên chấp lấy:

Hỏi: “Cảnh chấp “có tướng”, người đời đều có thành tựu chung thế gian. Không có tâm chấp tướng, chẳng phải đối tượng mà người đời thành tựu chung. Nhân nào, duyên nào được tâm vô tướng?”

Đáp: “Danh, Ngôn của thế tục được huân tập thành hạt giống. Tâm lấy cảnh trên thời gian sau. Tâm chấp cảnh, gọi là chấp quả, là tâm chấp “hữu tướng”, người đời đã thành tựu chung. Ở đây có tâm chấp “hữu tướng” này, khiến cho sinh tử tạp nhiễm. Nếu trước đạo, thực hành quán học giống với vô tướng, lìa các tướng “sở nhân” của danh ngôn, tướng, kiến. Phần Thắng nghĩa huân tập thành văn, hiân tập hạt giống. Từ nhân huân tập văn này khi nhập kiến đạo, chứng thấy lý vô tướng. Chứng này lấy kiến vô tướng là quả của huân tập văn vô tướng ở trước. Chấp vô tướng này chẳng phải pháp mà người đời đã thành tựu chung, có thể khiến cho người tu hành chứng được Niết-bàn thanh tịnh.

Cho nên, hai chấp “hữu tướng”, “vô tướng” đều có nhân duyên. Dưới đây sẽ y cứ thí dụ để làm rõ:

1. Y cứ ở hạt giống của kiến vô lậu bản hữu ở tại chướng và ra khỏi chướng để giải thích. Hoặc y cứ ở kiến hữu lậu mới huân tập văn, chuyển thành kiến vô lậu để giải thích. Hoặc y cứ hòa hợp mới, cũ để giải thích.

2. Nói về vô tướng chấp danh nghĩa có sáu lượt hỏi đáp (như văn rất dễ hiểu).

3. Nói về sự huân tập, để phân biệt nhân quả của thủ. Có ba lượt hỏi đáp: 1- Hỏi đáp là đầu để nói về “hữu tướng là nhân của vô tướng”. Bổ Khuyết rằng, ý hỏi: “Vô thỉ đến nay, chưa hề tu tập trí biết vô tướng. Thời gian sau này, trí kia tức là không có nhân, làm sao sinh sau?” Đáp: “Hữu tướng cũng được làm nhân cho vô tướng, cho đến “cũng như thế”: Thêm trí thế gian, trong tông chỉ của ông làm duyên sinh trí v.v… xuất thế gian. Về nghĩa cũng như thế. Hữu tướng làm nhân sinh ra vô tướng, có lỗi gì?

Luận sư Thắng Quân đọc thấy văn chỗ này, liền nói: “Nhất định không có hạt giống vô lậu bản hữu”. Nếu hạt giống kia có, thì trong đây lẽ ra nói là hạt giống vô lậu từ vô thỉ làn nhân duyên sinh. Vì sao ở chỗ này chỉ nói “Từ hữu tướng” kia sinh “vô tướng” ư?”

Nếu theo Ngài Hộ Pháp v.v… thì dẫn luận trên rằng: “Người có chủng tánh ở trong Na-Lạc-Ca, vì y cứ ở hạt giống, nên thành tựu ba căn vô lậu. Cho nên biết có hạt giống vô lậu bản hữu.”

“Nếu vậy, thì vì sao trong đây không nói hạt giống bản hữu làm nhân? Mà chỉ nói “hữu tướng” là nhân của “vô tướng” ư?

Đáp: Vì muốn hỏi vặn lại người ngoài: “Tông (chủ trương) của ông đã thừa nhận thế gian kia là “duyên” sinh ra nghĩa xuất thế, cũng cho rằng “hưu tướng” kia làm “duyên” sinh ra “vô tướng”, có lỗi gì ư?”

Vì nghĩa này, nên cho dù hạt giống có nhưng không nói dùng làm nhân duyên.

Trong chương lại nói: “Hữu tướng của Địa tiền cũng được làm nhân cho vô tướng của địa thượng, vì học giống với vô tướng quán, vì thuận theo vô tướng kia. Như trí hữu lậu của thế gian trước kiến đạo của Tiểu thừa làm “duyên” sinh ra trí vô lậu v.v… xuất thế của kiến đạo.

Thứ hai là hỏi đáp, giải thích kinh. Đáp lại câu hỏi của người ngoài, Luận chủ đã dùng các thứ đạo lý để giải thích nghĩa vấn nạn.

Dưới đây lại nêu kinh: “Như trí khổ v.v… đức Thế Tôn nói là nhân của thanh tịnh”, đây là nhắc lại kinh.

Nếu trí như khổ v.v… đối với các đế như khổ v.v… phân biệt khổ v.v… tức là tướng “có” trí hữu tướng sẽ không dứt trừ phiền não, là Tông của Luận chủ, làm sao dứt trừ là nhân của thanh tịnh? Nếu không phân biệt là khổ, là Tập thì các trí như khổ v.v… sẽ không có, làm sao có được quả thanh tịnh rốt ráo của các trí như khổ v.v… ư?”

Đáp: “Do sức tăng thượng của trí vô tướng, cho đến danh đã dứt trừ, người đã dứt trừ phiền não”. Ý đáp: “Nếu người Nhị thừa do trí vô tướng, quán nhân vô ngã, đã bày rõ chánh trí chân như dứt trừ phiền não. Đại thừa thì quán “hai không” mà làm sáng tỏ chân như, dứt trừ phiền não, nên nói: “Thanh tịnh thiện cùng cực trong các Đế.”

Từ xuất quán, mới khởi trí phân biệt như khổ v.v… Thật ra trí phân biệt không dứt trừ “hoặc”. Y cứ vào chân quán kia, nói về trí khổ v.v… chủ thể dứt trừ phiền não là nhân thanh tịnh. Nhân lại là danh của quả, gọi là trí khổ v.v… Cho nên, nói rằng: “Trí vô tướng kia là nhân của trí khổ v.v… cho đến “nên không có lỗi”.

Trong hỏi đáp thứ ba, rất dễ hiểu.

4. Nói về người tu hành dứt trừ “hữu tướng”, chuyển được vô tướng, trong đó có bảy lượt hỏi đáp:

1) Hỏi đáp đầu tiên, nói được ảnh tượng hiện tại của định, trừ bỏ, chuyển diệt ý hỏi: “Nếu cảnh tục sở tri của pháp giới, niệm niệm vô thường, chứa nhóm, nối tiếp nhau vô lượng, thì người tu hạnh quán phần đông không hiện thấy, làm sao người tu hành được “duyên” đối tượng ấy làm cảnh và khiến cho chuyển diệt không hiển hiện ư?”

Đáp: “Vì sức tăng thượng của hai tuệ văn, tư cho nên chứng được Tam-ma-địa. Do nhân duyên kiến phần của tâm định đó, nên khiến cho ảnh tượng năm thứ sự cảnh của pháp giới, tướng phần của pháp giới, được hiện ở trước, tức “duyên” năm sự, tướng ảnh tượng của pháp giới này để làm cảnh giới. Khi dứt trừ ảnh tượng pháp giới này, được chuyển diệt, tức là đã chứng chân lý vô tướng của năm sự. Hỏi đáp thứ hai, để nói về tướng dứt trừ;

Nói “Chẳng phải diệt nghĩa “không”, nghĩa là như các Luận sư v.v… của luận Thành Thật nói: “Niết-bàn trạch diệt không có thể tánh riêng, gọi là diệt vô, nay, ngăn rằng: “chẳng phải diệt nghĩa “không”.

Hỏi đáp thứ ba, dùng thí dụ để chứng tỏ Niết-bàn kia chẳng phải không có pháp giới thanh tịnh. Trước, nêu ba dụ, nhằm làm rõ Niết-bàn Hữu dư, vô dư kia chẳng phải nghĩa diệt vô sau dùng pháp dụ để làm rõ trừ tướng, pháp giới được thanh tịnh.

Hỏi đáp thứ tư, là dùng pháp dụ để nói về lúc dứt bỏ.

Xưa nay, tương truyền, có hai giải thích:

1. Pháp sư Viễn nói: “pháp dứt trừ phiền não, trước, dứt trừ phiền não, sau mới được nhập địa. Chẳng hạn như khi mở cửa rồi, mới được vào nhà. Ở Sơ địa trước, dứt trừ phiền não rồi, sau nhập Sơ địa như tâm Kim Cương là đạo vô ngại; về sau, nhập Phật địa là đạo giải thoát.”

2. Pháp sư Dung cho rằng: “Khi dứt trừ phiền não, tức nhập Sơ địa, chứ chẳng phải dứt trừ xong phiền não, rồi về sau, mới nhập địa. Như ta đập cây gậy xuống đất. Lúc đập tức chỗ đất bị lỏm xuống; lúc đất bị lõm xuống, tức đã đập xong. Như thế, lúc dứt tức nhập, khi nhập tức dứt.”

Nay, giải thích: “Đạo vô ngại dứt trừ phiền não, lúc ở tướng sinh, tức là “hoặc”. Tướng diệt của pháp đều không đồng với hai giải thích kia. Nay, trong văn này chỉ y cứ vào hạt giống và các pháp tướng để nói về dứt trừ trước, sau, bất luận hoặc ngoại luôn luôn trước, sau.’

Hỏi, Đáp thứ năm, nói vể chuyển đắc vô tướng, gồm có năm giai vị:

Hỏi: “Hạnh tu quán, làm thế nào dứt trừ được cảnh tướng sở duyên?”

Đáp: “Do tâm chánh định, đối với tướng ảnh tượng của cảnh sở tri của pháp giới, trước cần có bốn Tầm, Từ xem xét, quán sát. Sau đó khởi bốn trí như thật. Do năng lực tác ý của Thắng nghĩa đế, chuyển xả có ảnh tượng, chuyển đắc vô tướng. Vô tướng này lại chuyển nữa, có năm giai vị:

1. Một ít giai vị ở địa trước, trong giai vị Nhẫn, gọi là Tam-ma-địa của một phần Chân nghĩa.

2. Giai vị đầy khắp ở Sơ địa.

3. Giai vị có động. Thất địa trở lại, vì có công dụng lay động.

4. Giai vị có Gia hạnh. Bát địa trở lên là nhân thắng tấn, nên gọi là Gia hạnh.

5. Giai vị thành tựu, viên mãn, hoặc Thập địa, hoặc Phật địa.

Hỏi, đáp thứ sáu, là nói về giai vị thành tựu, viên mãn: lìa nhau ba, thành tựu ba, đối tượng lìa ba:

1. Phiền não; 2. Khổ; 3. Thô nặng.

Vì lìa ba thứ này nên như thứ lớp, thành tựu ba, đó là “sở hành” chân nghĩa; sở hành hiện tượng; và sở hành tự tại.

Hỏi, đáp thứ bảy, là nói về Tùy căn, lập thừa, số đầu, lúc chứng đắc. Bổ khuyết rằng: “Nói lúc chứng đắc cũng không quyết định”, nghĩa là nói về lúc viên mãn của người Nhị thừa kia không nhất định: Người Thanh văn ít nhất là ba đời, nhiều là sáu mươi kiếp. Nghĩa nhiều ít trung gian không quyết định. Độc giác ít nhất là bốn đời, nhiều nhất một trăm kiếp. Thời gian nhiều ít ở giữa cũng không nhất định. Đại thừa thì phải trải qua ba vô số kiếp mới chứng được.

Hỏi: “Thế nào là Đại thừa quyết định lập ba-tăng-kỳ mới có thể chứng đắc?”

Dưới đây là phần đáp, vì dựa vào dứt trừ ba thứ thô nặng, nên lập ba tăng-kỳ:

1. Địa tiền trải qua một tăng-kỳ tu hành, đến khi nhập Kiến đạo, mới dứt trừ được một ít ở ngoài da.

2. Lúc nhập kiến đạo, hàng phục phẩm trung thượng tu hoặc; phẩm hạ phiền não cũng còn hiện hành. Phẩm hạ của tâm viên mãn của Thất địa cũng hàng phục rốt ráo không hiện hành.

3. Thời kỳ viên mãn của-tăng-kỳ thứ ba, dứt trừ chướng sở tri và hết chướng phiền não, tự tại đối với cảnh. Trong đây nói tâm da thịt có ba. Y cứ trong chướng phiền não, chia ra thành hai tăng-kỳ da thịt, dứt chướng sở tri, tóm thu chung là tâm. Đây là nói ba xứ của hai chướng dứt trừ, cũng y cứ vào phần vị ba-tăng-kỳ mãn, từ một phần nói đạo lý. Tăng-kỳ ban đầu mãn, lúc nhập Sơ địa dứt trừ tất cả mê lý chướng phiền não và chướng sở tri, chẳng phải chỉ dứt trừ phiền não thô nặng của đường ác. Từ Sơ địa đến Thất địa nhập quán, tức dứt chướng sở tri, vì bỏ đi cảnh sự lý sở tri nhập quán, tức dứt chướng phiền não, vì có sức đối với sự sinh, nên phiền não, từ Thất địa trở xuống, vì chúng sinh, nên vẫn còn khởi. Nhập Bát địa trở lên, hàng phục hẳn không hiện hành. Tất cả Tùy miên, đến Kim cương mới dứt. Đối với thân đã thọ, có sức thấm nhuần. Từ Bát địa trở lên, dứt trừ chướng sở tri trong mỗi niệm, như Bản địa phần đã nói: Hai chướng ra khỏi thể, các xứ đều không nhất định.”

Có thuyết nói: “Tu hoặc” trong chướng phiền não, gọi là da, vì mê sự ngoài, kiến hoặc gọi là trong, vì mê lý trong. Chướng trí gọi là tâm, vì rất nhỏ nhiệm, thí dụ tâm ở bên trong. Hoặc y cứ vào ba kỳ đã dứt trừ hai chướng, đều chia làm ba thứ, nghĩa là da, thịt, tim, như Nhiếp luận nói. Hoặc đối tượng dứt của ba tâm trong mỗi địa là da, thịt, trái tim. Vì cắt đứt phiền não da, nhập Sơ địa, cho đến vì dứt phiền não tim, nên xuất Sơ địa v.v… cũng như Nhiếp Luận nói.”

Nay, trong văn này nói: “Tăng-kỳ đầu tiên đã dứt trừ phiền não của đường ác, gọi là da. Tăng-kỳ thứ hai, đã dứt trừ hai phẩm trung, trung thượng chướng phiền não, gọi là thịt. Tăng-kỳ thứ ba, đã dứt chướng gọi là tim.

Trong chướng: “Lại Sơ địa trở lên, không đến đường ác để thọ sinh báo thật.

Du-già nói: “Bồ-tát Sơ địa đã dứt trừ vô minh trong nghiệp đạo ác. Một tăng-kỳ Địa tiền lúc tu phương tiện của Sơ địa, để hàng phục hạt giống nghiệp của đường ác, cũng bất đọa đường ác, không bị pháp không vui của ba đường ác, vì lẫn lộn.”

Nhiếp Luận chép: “Được chánh kiến trên đời, qua lại trăm ngàn đời tu, không đọa vào đường ác.”

Kế là nói về nhân duyên lập thừa. Bổ khuyết rằng: “Lập thừa Thanh văn có ba nhân duyên:

1. Biến hóa. Đức Phật tùy đối tượng giao hóa, hóa thành Thanh văn.

2. Thệ nguyện, nghĩa là có chúng sinh đã thệ phát nguyện đối với thừa Thanh văn, Đức Phật kia liền kiến lập để làm người Thanh văn. Đây là người tánh bất định, gặp “duyên” phát nguyện Thanh văn. Đức Phật kia theo nguyện của người này để lập.

3. Pháp tánh Thanh văn, nghĩa là Trên đây, từ bi mỏng yếu, sợ hãi đối với nổi khổ, không ưa làm lợi ích cho người. Dựa vào pháp tánh này, để lập làm Thanh văn.

Lại, giác biết pháp tánh, nghĩa là ở trong an lập đế, phần nhiều tu tập chuyển hạnh sợ hãi. Do nhân duyên này chứng được viên mãn, nghĩa là phần nhiều “duyên” khổ, tập trong các đế như khổ v.v… tu, hạnh sợ hãi, chứng được viên mãn thừa Thanh văn.

“Độc giác cũng thế” v.v…, nghĩa là ở trước cũng có ba điều thệ nguyện biến hóa và pháp tánh. Từ bi mỏng yếu, sợ hãi các nỗi khổ, không đem lại lợi ích an ui cho người, chỉ ra đời không có Phật, đây là sự khác nhau, tức trái với trên vì ba nhân duyên, nên biết rằng, Bồtát cũng có ba hạng Bồ-tát pháp tánh thệ nguyện biến hóa, mà từ xưa đến nay, từ bi thuần hậu, không sợ các khổ, thường đem lại lợi lạc cho người.”

Luận sư Bị nói: “Thanh văn có ba hạng:

  1. Như Thân tử v.v…
  2. Vì trụ tánh Bất định, nên nguyện thành Thanh văn.
  3. Trụ chủng tánh Thanh văn.

Dưới đây là nói về mất mát, hư hoại kinh, luật:

Trước, nói về Thanh văn mất mát, hư hoại, nghĩa là có Thanh văn chấp không có phiền não, thân liền diệt theo, sinh ra rất sợ hãi. Thà rằng ta không thoát khỏi phiền não như thế. Vì có chấp này, nên không dứt phiền não, không nhập Niết-bàn và không giữ giới, nên nói rằng: “Mất mát, hư hoại chánh pháp và Tỳ-nại-da. Như người bệnh họa đối với bệnh nóng, nói là khi bệnh lành, cả thân thể đều diệt, rồi sinh ra sợ hãi: “Thà rằng không khỏi bệnh.”

Kế là, nói về Bồ-tát làm mất mát hư hoại Đại thừa: nghĩa là có Bồ-tát nghe nói các pháp vô tánh rấtt sâu sắc, liền chấp tự tánh của tất cả phiền não vốn là không có, rồi cho rằng chính bản thân mình không có sinh tử v.v… Đây là chấp không, không thể tu hành.

“Vì sao không nói về Độc Giác làm mất mát hư hoại? Vì Độc giác kia không có phân biệt rõ về giáo. hoặc vì đồng với Thanh văn nên không nói riêng”.

Thứ tư, giải thích về Tát-ca-đa hữu và thế gian. Tát-ca-đa: Tiểu thừa gọi là “có thân”. Đại thừa gọi là tượng thân. Vì định nghĩa này không nhất định, nên giữ lại tiếng phạm gọi là Tát-ca-đa. Chung nhau hai thứ, nghĩa là hữu vi, hữu lậu la thân. Vì vô vi, vô lậu chẳng phải thân, nên nói là có cả hai. Hai là Tát-ca-đa, nghĩa là danh và phân biệt. Một chẳng phải Tát-ca-đa nghĩa là chánh trí. Vì chánh trí có thể làm hư hoại Tát-ca-đa, nên chẳng phải Tát-ca-đa.

Chân như đều không thể nói: “Hữu” và thế gian cũng thế: “Hữu” là ba Hữu. Chung nhau hai thứ: Danh và phân biệt, hoàn toàn là “câu phi””.

Thứ năm, giải thích môn Chân thật nhiếp. Đạo lý thế gian đã thành tựu ba sự nhiếp chân thật: ba sự tướng, danh, phân biệt là sở tri của thế gian và sở tri học, thuộc về hai chân thật. Hai chướng sở hành của trí thanh tịnh, thuộc hai sự chân thật, nghĩa là Nhị thừa chứng nhân vô ngã, đã làm rõ chân như, dứt trừ chướng phiền não, nên nhân vô ngã chân như, chánh trí là thuộc về hai sự sau.

Bồ-tát chứng pháp vô ngã, dứt trừ chướng sở tri, nên pháp vô ngã chân như, chánh trí cũng thuộc về hai sự sau.

Y cứ ở Bản địa phần, hai chân thật sau chỉ là vô vi dứt trừ kiết. Về mặt lý, lẽ ra hai chân thật sau chỉ thuộc về chân như mà nói là cũng thuộc về chánh trí, về lý cũng khó hiểu?

Ngài Tam Tạng giải thích: “Vì khi chứng chướng phiền não thanh tịnh, cũng chứng trí tuệ, nên dứt và trí, đều là “sở hành” của chướng phiền não tịnh và trí. Như kiến phần, chứng chứng tự chứng phần, trí chứng.

Dựa vào nghĩa như thế, hai chân thật sau, thuộc chung chân như và chánh trí.

Thứ sáu, là giải thích môn tầm, tư nhiếp. Luận sư Cảnh nói: ‘Bốn Tần tư chỉ là Địa tiền, chỉ là thuộc về phân biệt như lý. “Luận sư Cảnh nói: “ Tầm, tư tìm kiếm, mong cầu, kiến phân biệt mà chẳng phải chánh trí, nên Thích Luận của Bồ-tát Vô Tánh chép: “Tìm kiếm, mong cầu, kiến hiện hành, gọi là Tầm, tư, cho đến Thất địa trở xuống tất cả bốn Tầm, tư, đều là tâm, tâm pháp hữu lậu của ba cõi, nên chỉ thuộc về phân biệt.” Bát địa trở lên luận Phật Địa và Nhiếp Đại Thừa thích của Bồtát Vô Tánh, thì không có trí gia hạnh. Bốn Tầm, tư cũng gọi là chung thuộc về trí gia hạnh.

Thứ bảy, giải thích môn Thật trí nhiếp. Luận sư Cảnh nói: “ Bốn biến trí như thật ở địa thượng đều là đạo lý thuộc về chánh trí. Bốn như thật trí cũng ở Địa tiền, vì Địa tiền cũng có chánh trí của thế tục khởi quán như thật”.

Luận sư Cảnh nói: “ Nhiếp Đại thừa Thích của Bồ-tát Vô Tánh nói rằng: “Quyết định hạnh trí, như thật trí, dựa vào nhẫn và đắc thứ nhất của Đại thừa, vì bốn như thật cũng thuộc chánh trí. Theo môn hệ thuộc giới trước kia, thì chánh trí có cả hệ thuộc, không hệ thuộc. Bốn như thật ở Địa tiền là hệ thuộc; bốn trí như thật của địa thượng là không hệ thuộc. Nhưng theo môn hữu lậu, vô lậu, thì chánh trí chỉ vô lậu, như trước đây đã hội ý giải thích.

Thứ tám, là giải thích môn mật ý, trong đó, hội ý giải thích mười bốn thứ mật kinh.

Trong giải thích kinh đầu, Luận sư Cảnh nói: “Nếu như danh ngôn, chấp có năm sự, nói là không có tự tánh, thì lìa danh ngôn kia, dùng năm pháp nọ đều có tự thể riêng, nói là có tự tánh, tức là không có tự thể của pháp mà lời nói đã giải thích, chỉ có tự thể của pháp lìa lời nói, nên nói “không hai” Luận sư Cảnh nói: “ Hỏi: “Vì sao đức Thế tôn nói là tất cả pháp không có tánh, có tánh. Là không hai”.

Đáp: “Tức dựa vào năm việc đã nói như thế. Về lý thế tục có, thật ra chẳng nói là không có tự tánh, vì chân như không có tự tánh cuả thế tục, cũng nói là thế tục không có tự tánh, như thắng nghĩa không có tự tánh. Bốn pháp còn lại là vì thế tục có, nên không có tánh tự nhiên. Như năm sự do phân biệt tướng riêng, vì không giác biết sự tự tánh, nên nói là năm việc này “có tự tánh”, năm việc có tự tánh, cũng có năm việc. “không có tự tánh”, nên nói tất cả pháp “không hai”.

Trong kinh thứ hai, Luận sư Cảnh nói: “Tướng không có tánh của tự tánh nghĩa là tất tự tánh của ngôn thuyết thế tục, tức biến kế sở chấp theo pháp ngôn thuyết, xưa nay là vô tướng.

1. Sinh vô tự tánh tánh, nghĩa là tất cả hành đều do các duyên sinh, vì sức duyên nên có, chứ chẳng phải tự nhiên có, tức tánh y tha nhờ vào các duyên sinh, không có tự nhiên sinh, gọi là sinh vô tánh.

2. Thắng nghĩa vô tánh, nghĩa là pháp đã xa lìa tướng của nghĩa chân thật. Đây là do Thắng nghĩa, nên nói là không có tự tánh, nghĩa là thắng nghĩa vô tánh này cũng là y tha, do nhân duyên này, nên thể của pháp vô thường chẳng phải là pháp thắng nghĩa chân thật kia, nên nói là pháp đã lìa tướng của nghĩa chân thật. Do y tha này không có thắng nghĩa kia, nên nói y tha gọi là thắng nghĩa không có tánh tự tánh. Dựa vào kinh Giải Thâm Mật dưới đây để giải thích thắng nghĩa vô tánh, có hai nghĩa:

1- Y cứ vào y tha để giải thích thắng nghĩa vô tánh, như luận đã nói trước đây.

2- Y cứ vào thể của Viên thành thật để nói về thắng nghĩa không có tánh của tự tánh.

Lại có hai nghĩa:

1- Tánh Viên thành thật, tánh lìa Danh ngôn, không chấp tướng nghĩa của thắng nghĩa kia, gọi là vô tánh thắng nghĩa.

2- Thể của Viên thành này là Thắng nghĩa. Thắng nghĩa như đây sở dĩ được sáng tỏ là do hai môn vô tướng, vô sinh kia, nên gọi là thắng nghĩa vô tự tánh tánh.

Nay, văn này chỉ y cứ y tha để nói về thắng nghĩa vô tánh.

Hỏi: “Tướng không có tự tánh là tướng không có tự tánh của tướng biến kế sở chấp, nên gọi là tướng vô tánh. Y tha không có sinh tự nhiên của chấp ngang trái kia, gọi là sinh vô tánh. Đây cũng dứt bỏ không có biến kế sở chấp, tức y tha này không có tánh thường trú của thắng nghĩa kia, gọi là vô tánh thắng nghĩa. Y tha này cũng không có biến kế sở chấp, tức là “không có” ba, đồng thời không có biến kế, đều là một “không”, nên chỉ nói là tướng kia không có tự tánh, nghĩa ấy là đúng, cần gì lại nói y tha này là không có sinh, không có thắng nghĩa ư?”

Giải thích: “Y cứ lý thật đồng thời y cứ không có biến kế sở chấp. Nhưng nay, nói về Tông chỉ, hoặc y cứ hai tánh mà nói ba không có tánh; hoặc y cứ ở ba tánh để nói ba không có tánh. Vì phân biệt chung riêng nên có ba: Tướng, không có, tự tánh, tức là gồm chung biến kế sở chấp kia đều hết.

Lại nói “Y tha không có sinh, không có thắng nghĩa v.v… là phân biệt riêng.

Kế là, nói về thể của pháp nhân duyên y tha không có tự nhiên sinh, không có thắng nghĩa kia nên ở trong cái chung, chia ra hai pháp riêng này, chẳng phải cho rằng bỏ tánh không có của tướng biến kế. Người ngoài còn bỏ Y tha và bỏ thắng nghĩa để nói về thắng nghĩa vô tánh của sinh vô sinh. vì thế, nên ở dưới đây, trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Chỉ bỏ biến kế sở chấp để nói ba vô tánh, chứ chưa bỏ ba vô tánh để nói về ba vô tánh.”

Hỏi: “Nếu vậy, thì sao Nhiếp luận lại nói rằng: “Trước kia chứng minh tướng Căn, Trần không có tự tánh, thời gian sau thấy thức vô sinh, thức dùng căn, trần làm nhân duyên. Nhân duyên đã không thức làm sao sinh?.

Y cứ vào luận kia cũng xả bỏ y tha, làm sao được nói chỉ xả bỏ tánh biến kế sở chấp ư?”

Giải thích: “Căn, Trần và thức có hai thứ:

1- Pháp nhân duyên sinh của Y tha. nếu nhập Sơ địa, cũng không xả bỏ tâm này, là cảnh của Hậu đắc thế tục. Trí vô phân biệt tự quán chân như. Trí Hậu đắc tự “duyên” pháp nhân duyên sinh, lý, sự và hạnh không chướng ngại nhau. Nếu nhập chân quán, tức xả bỏ chân tục căn trần, thức v.v… và vận hành trí thế tục “duyên” cảnh nào ư? Cho nên biết pháp nhân duyên có, nhập quán không xả bỏ.

2- Biến kế sở chấp, với tính ngược lại với căn, trần, thức v.v…chấp có rốt ráo không có tự thể. Trong luận, y cứ vào thức, xả bỏ căn trần trước. Nếu tỏ ngộ chủ thể sinh., thì căn trần không có tự thể, tức tỏ ngộ thức đã sinh, thì làm sao được sinh? Đây chính là lại xả bỏ thức Biến kế chấp, không xả bỏ y tha.

Trong tánh y tha gồm có tám thức, lúc nhập chân quán, ý thức hữu lậu, Mạt-na dù tạm không khởi, nhưng khi xuất quán lại sinh, Lại-da hiện hành. Năm thức gặp duyên trong quán, cũng khởi, nên không được nói là nhập quán,xả bỏ thức y tha kia. Nếu đồng với biến kế sở chấp, nhập quán đều cùng xả bỏ vì biến kế, nên tỏ ngộ bản tướng không có hậu trí, không duyên, vì xả bỏ y tha, nên lẽ ra hậu trí cũng rốt ráo không “duyên”.”

Dưới đây y cứ thí dụ để làm rõ: Tỳ-kheo tu quán hạnh, cho đến thường chuyển vô gián: Như khi quán xương, nếu chưa quán rông, thì trước quán đầu lâu, cho đến quán chân. Giường dây đã nương tựa là xương. Một phòng; một tăng già lam; một làng, một xóm, một nước, cho đến đại địa, xương đều đầy dẫy. Sau, duyên cõi Dục trừ xương đã nhìn thấy, vì tập lâu về quán cảnh xương hiện ở trước, không thể trừ diệt, bèn nghĩ rằng: “Đống xương như thế, dù đầy dẫy khắp đại địa, nhưng chỉ là do tâm ta giả tưởng an lập. Tìm xét bản tâm, duệt trừ tướng xương, huống chi biến kế ở trước lúc chấp có cảnh tánh nhất định, chỉ có tự tâm, ngoài tâm không có pháp.

Hỏi: “Hành giả nhập quán, quán đống xương. Bỏ tế thời gian sau nhóm xương là do tâm định chấp có xương thật, nên phải loại bỏ. Vì không chấp thật nêu cần loại bỏ. Nếu chấp thật thì tâm định tức có chấp pháp. Vì có chấp pháp tức có vô minh. Vì có vô minh không nên nói định. Nếu không chấp đống xương, đối tượng quán thật là y tha tánh. Nay dứt bỏ đống xương, tức dứt trừ y tha, sao lại nói là không loại bỏ y tha?”

Giải thích: “Tâm định, quán xương không có chấp thật. Vì điều phục tâm mình, nên đầu tiên, là nhờ quán xương. Su, lại tìm gốc, bỏ xương, quán tâm. Tâm này chuyển quán bỏ đống xương. So sánh với quán ba vô tánh ở trước, loại bỏ biến kế sở chấp, Thật tướng sinh và thắng nghĩa v.v…

Nói “năm việc trong đây cho đến “Vì thắng nghĩa không có tánh tự tánh. Vì năm việc chẳng phải biến kế sở chấp, nên chẳng phải tướng không có tự tánh.

“Chỉ có hai việc còn lại là không có tánh của tự tánh”. Câu này là chung, dưới đây vì phân biệt riêng, nên nói tùy điều nào thích hợp với pháp đó, cho đến nói “không có tự tánh”, nghĩa y như trước.” Cho nên v.v… trở xuống, là kết.

“Cho đến.. “Ta nói một đế, không còn đế thứ hai”, kia nói chân như, vì chẳng phải ba vô tánh, nên chỉ là nói chân thật, không thay đổi, nói là một đế.

Trong chương lại giải thích: “Tướng không có tánh tự tánh, chỉ không có chấp ngang trái tánh biến kế của hai Cảnh Nhân, Pháp.

Sinh không có tự tánh. nghĩa là y tha từ các duyên sinh, không phải tự nhiên sinh, nên nói là y tha sinh không có tánh tự tánh, nghĩa là không có tánh của thể tánh của tánh tự nhiên sinh.

Thắng nghĩa không có tự tánh, có hai thứ:

1. Y tha không có thắng nghĩa. Nói pháp tục của y tha là tánh không có tanh của thắng nghĩa. Đây là thắng nghĩa không có tánh của tự tánh của thế tục đế. Như khổ đế không có chân ngã, nói là vô ngã.

2. Vì thắng nghĩa chân như không có y tha, nên gọi là thắng nghĩa không có tánh của tánh. Nay trong văn này là nghĩa đầu. Tướng nghĩa chân thật đã xa lìa tánh y tha của pháp thế tục. Đây là do không có chân như thắng nghĩa, nên nói là thắng nghĩa không có tánh của tánh. Như Tỳ kheo tu quán hạnh, đối với đống xương lớn, thực hành quán giả tưởng. Quán ấy đã thành muốn bỏ không thể được, cho nên giải thích rằng: “Đối với giả tưởng nầy, quán đống xương, việc làm, chẳng phải là nghĩa chân thật. Đống xương không có tánh, đều thường chuyển biến không có gián đoạn.

Như thế, nên biết rằng tánh y tha của chân quán. Vì chẳng phải quán vượt hơn chân thật, nên gọi là quán vô tánh thắng nghĩa, nhưng là quán tục chẳng phải chân.

Tánh biến kế sở chấp, chẳng thuộc về năm việc. Năm việc chẳng phải do tánh của tự tánh, nên nói “không có tự tánh”. Trong năm sự, nói là tướng, danh, phân biệt, chánh trí, đều do hai thứ không có tánh của tự tánh.

1. Bốn thứ phải do các duyên sinh, chẳng phải tự nhiên sinh. Nói tự tánh vô sinh là tánh ấy.

2. Bốn thứ là tục, chẳng phải chân, không có tánh thắng nghĩa, nên nói là thắng nghĩa không có tánh của tánh. Một thứ chân như có thật Thể. Do thắng nghĩa không có tánh thế tục, nên nói là thắng nghĩa không có tánh của tánh. Chẳng do không có tánh của tự chân tánh, nói là không có tự tánh. Cho nên Đức Thế tôn dựa vào mật ý này nói rằng: “Ta nói một chân đế, không có chân đế thứ hai.”

Nhiếp luận bản cựu dịch đời Lương v.v… gọi là chân thật không có tánh của tánh. Nay, gọi là thắng nghĩa không có tánh của tánh, vì tánh chận thật thuộc về thăng nghĩa đế, nên gọi là kinh luận cựu dịch của của thắng nghĩa đế, gọi là đệ nhất nghĩa đế.

Nay, dựa vào luận này, hội ý với kinh luật cựu dịch. Chân thật không có tánh.

1. Vì y tha chẳng phải tánh chân thật, nên nói là y tha không có tánh của tánh chân thật, dùng y tha không có chân thật để làm tánh.

2. Tanh chân thật chẳng phải tánh y tha làm tánh, nên nói “chân thật không có tánh của tánh”. Theo Nhiếp Luận, bản dịch đời Lương nói xả bỏ tánh chân thật, để được không có tánh chân thật, nên gọi là chân thật không có tánh của tánh. Người chép văn lầm lẫn.

Lại, theo luận Phật tánh và luận Du-già, do ba tánh và năm pháp trong thuộc nhau, tánh chân thật và chân như trong năm pháp thuộc nhau, nếu xả bỏ tánh chân thật, được không có chân thật, thì gọi là chân thật không tánh của tánh, thuộc về phiền não trong năm pháp? Nếu nói rằng: thuộc về Chân như thì sẽ không khác với tánh chân thật. Nếu nói không thuộc năm pháp, nghĩa là pháp thuộc năm pháp là bất tận. Nếu nói năm pháp nhiếp bất tận thì vì sao luận Du-già nói: “Hỏi: “Năm việc như thế là vì nhiếp tất cả pháp, hay không như thế?”

Đáp: “Đúng thế!”

“Lại, vì xả bỏ tánh chân thật, nên nói là chân thật không có tánh của tánh, vì sao luận Du-già nói rằng: “Chân như không do “không có tánh của tự tánh”, nói là không có tự tánh. Cho nên, Đức Thế tôn dựa vào mật ý này, ở trong Già-tha, nói rằng: “Ta nói một Đế, lại không có thứ hai. Lại Cổ Han Sự rằng: “Y tha không có tánh, nghĩa là không có các duyên sinh vì tánh tục đế, nên gọi là y tha không có tánh, thì không đúng! Luận Du-già nói “không có tánh của tự tánh là thế nào? Nghĩa là các duyên sinh của tất cả hành, do sức duyên mà có, chứ chẳng phải tự nhiên có. Cho nên nói sinh không có tự tánh. Ở đây ý nói: “Các pháp do “duyên sinh” vì không có tánh “tự nhiên”, nên nói là sinh không có tự tánh là tánh của chúng, chứ chẳng phải cho rằng “không có tánh của nhân duyên sinh, nên nói “sinh không có tánh của tự tánh”.

Nếu nói “Không có tánh do các duyên sinh, nên nói là “không có tánh của tự tánh” ấy, tức là “ác thủ không”. Cho nên Du-già quyển bảy mươi lăm nóiLại nữa, ở trong Đại thừa, hoặc có một loại ác thủ không nói rằng: “Do thế tục nên tất cả đều có”, do thắng nghĩa nên tất cả đều không có, nên bảo người đó rằng: “Trưởng lão, thế tục là gì? Thắng nghĩa là gì? Hỏi như thế xong, nếu người ấy đáp: “Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh thì đây gọi là Thắng nghĩa.

Nếu đối với không có tự tánh các pháp, tự tánh có thể được, gọi là Thế tục. Vì sao thế? Vì trong “vô sở hữu” (không có cái có) kiến lập, thế tục. Nếu danh ngôn mà khởi ngôn thuyết, thì nên bảo người kia rằng “Ông muốn cái gì? Danh, ngôn thế tục, là từ nhân có tự tánh có thể được, hay là vì chỉ danh, ngôn thế tục nói là có?

Nếu danh ngôn thế tục từ nhân mà có, thì trong danh ngôn thế tục sẽ từ nhân mà sinh, nhưng chẳng phải có, thì không hợp lý.

Nếu chỉ Danh ngôn thế tục nói là “có” thì danh ngôn thế tục vô sự ma có, là không đúng lý, lại nên bảo rằng “Trưởng lão! Duyên cớ gì hầu hết các pháp có thể được nói ở đây đều không có tự tánh? Hỏi như thế xong. Nếu người kia đáp “Vì sự điên đảo, thì lại nên bảo rằng “Ông muốn cái gì? Sự điên đảo này là “có” hay “không”? Nếu nói là có, nghĩa là nói tất cả pháp do Thắng nghĩa, nên pháp ấy không có tự tánh, là không hợp lý?”

Giải thích: “Trong Bộ Đại thừa, hoặc có Bồ-tát Thanh Biên v.v…vì một loại “ác thủ không”, nên nói rằng “Do thế tục, nên tất cả y tha đều “có”. Do Đệ nhất nghĩa đế, nên tất cả y tha đều “không”.

Bồ-tát Từ Thị nói: “Nên bảo với người kia rằng: “Sao là thế tục? Sao là Thắng nghĩa? Hỏi như thế xong, các Ngài thanh Biện v.v… đáp: “Tất cả pháp y tha đều không có tự tánh, gọi là thắng nghĩa. Nếu trong vô tự tánh, tự tánh nhân duyên, có thể được, thì gọi là thế tục. Vì sao? Vì thật ra trong vô sở hữu kiến lập pháp “có” của thế tục, giả lập danh ngôn mà khởi ngôn thuyết, nên gọi là thế tục. Bồ-tát Từ Thị nên bảo người kia rằng: “Ông muốn điầu chi? Danh ngôn pháp thế tục từ nhân có tự tánh, có thể được. Vì chỉ danh ngôn, thế tục nói có, thật sự không có nhân duyên sinh ư? Nếu danh ngôn đã nói, pháp thế tục tứ nhân có, thì danh ngôn thế tục se tứ nhân mà sinh, vì đạo nhân duyên không thể phá.”

Kinh chép: “Không hư hoại thế đế mà nhập đệ nhất nghĩa đế”.

“Ông nói từ nhân mà sinh tục đế, vì dựa vào đệ nhất nghĩa đế mà chẳng phải có, là không hợp lý. Vì nếu nói chỉ danh ngôn, thế tục nói là có. Thật sự không có pháp từ nhân sinh, nghĩa là danh ngôn, thế tục không có sự nhân duyên sinh của đối tượng giải thích, mà nói là có, là không hợp lý.”

Bồ-tát Từ Thị lại bảo rằng: Vì sao các pháp nhân duyên có thể được? Còn ở đây không có tự tánh của nhân duyên ư? Hỏi như thế xong, nếu Luận sư Thanh Biện v.v… đáp “Vì sự nhân duyên điên đảo, nên lý thắng nghĩa đế không có sự điên đảo.”

Bồ-tát Từ Thị lại bảo “Ông muốn điều gì? Sự nhân duyên điên đảo này vì có pháp nhân duyên, hay không có pháp nhân duyên? Nếu nói có pháp nhân duyên điên đảo thì nói tất cả pháp nhân duyên do Thắng nghĩa, nên đều không có tự tánh của nhân duyên, đồng với tà kiến nói là không có nhân duyên, là không hợp lý. Nếu nói vì không sự điên đảo, pháp nhân duyên điên đảo này, nên không có sự được nhân, mà nói là ông không có tự tánh của nhân duyên là không hợp lý”.

Bồ-tát Vô Trước khi soạn luận nhiếp Đại Thừa, thì chính nói về Tông chỉ này, nên luận rằng “Nếu tánh Y tha Viên Thành Thật cũng không thì thường không có hai phẩm và pháp nhiễm tịnh.

Thanh tịnh nói nhiễm ô là y tha sự điên đảo, từ xưa Luận sư Nhiếp Đại thừa hiểu lầm Tông gốc, nên nói bỏ pháp nhân duyên y tha, được tánh vô sinh, cho đến là tông ác thủ không của học trò Bồ-tát Thanh Biện, chẳng phải Bồ-tát Từ thị và tông chỉ mà Bồ-tát Vô Trước đã học.

Kinh Thiện Giới quyển hai, nói “Có hai hạng người xa lìa pháp Phật, chẳng phải đệ tử Phật, mất hẳn pháp Phật:

  1. Nói sắc, cho đến Niết-bàn có tánh chân thật.
  2. Không tin tánh thế lưu bố.

Hai hạng người như thế, không tin thọ trì giới cấm của Bồ-tát, chê bai tất cả pháp: tức là đệ tử chân thật như Phước-lan-na v.v… của ngoại đạo, cho rằng tánh các pháp là không, mà trong pháp Phật vừa có, vừa không. Nếu sinh, ngã kiến, không rơi vào ba đường ác, chẳng hiểu nghĩa “không”, nói rộng, cho người nghe phải biết rằng “Người này sẽ rơi vào A-tỳ”.

Người chẳng hiểu “không”: Chê bai tất cả pháp; không hiểu thật tánh, không hiểu pháp tánh, gây ngăn ngại cho giải thoát, làm ác tri thức cho đa số chúng sinh, mình không giữ giới, lại xúi giục người phá hủy giới, thường ưa nói không có tạo tác, không có thọ lãnh, làm cho nhiều chúng sinh thêm lớn nghiệp địa ngục.

Sao gọi là chẳng hiểu nghĩa “không”? Nói là bản tánh của tất cả pháp tự là không, chẳng có nhân duyên “không”. Nói tất cả pháp cũng không, nếu không có nơi chốn, vì sao gọi là “không”,đó là chẳng hiểu nghĩa“không”?

Thế nào gọi là chân thật hiểu nghĩa không? Nói vì không có pháp trong tất cả pháp, đây gọi là không. Pháp cũng bất “không”, đó gọi là giải không, sự hiểu biết không có sai lầm.

Sao gọi là chẳng hiểu nghĩa không? Nói bản tánh của tất cả pháp nhân duyên tự trống không, vì không có pháp nhân duyên cho nên “không”.

Nói tất cả pháp biến kế sở chấp cũng không có xứ sở của tánh y tha. Nếu không có xứ sở của y tha tánh, thì sẽ y cứ vào đâu để nói là “không”? Đây gọi là chẳng hiểu “không”.

Thế nào gọi là thật hiểu nghĩa “không”? kế là đáp: “Nói tất cả pháp Y tha vì không có pháp biến kế sở chấp, nên gọi là không. Dựa vào pháp tánh Y tha cũng là bất không”, gọi là “giải không”.

Kinh thứ ba chép: “không có sinh không có diệt v.v… dựa vào tướng, không có tánh của tự tánh. Đây là dựa vào tướng Biến kế sở chấp ngoài năm việc, để nói không có sinh, không có diệt v.v…”

Kinh thứ tư chép: “Đối với hư không, dựa vào biến kế sở chấp để nói.”

Kinh thứ năm rằng: “Các pháp như huyễn, dựa vào y tha kia nói là vô sinh và Thắng nghĩa vô tánh”.

Kinh thứ sáu chép: “Đẳng tùy quán sắc v.v… cho đến thức có vô thường ư?”

Đẳng: Tâm định bình đẳng, tùy cảnh quán sắc cho đến thức có vô thường. Nói vô thường là giấu kín. Luận chủ giải thích: “Thuyết biên kế v.v… đã chấp sắc tánh thường. Vì vô thường, nên dựa vào tướng vô tánh để nói. Vì Sao Luận chủ muốn giải thích lời kinh. Theo lời kinh điên đảo có thể nói là thường, vì không có. Vì biến kế thường trên sắc y tha v.v…, nên nói là thường không. Nhưng tức kinh kia muốn nói Đẳng tùy quán năm uẩn thường, không có.”

Kinh thứ bảy chép: “Năm uẩn đều có khổ, nghĩa là cũng dựa vào y tha, nói sinh vô tánh và thắng nghĩa vô tánh.

Kinh thứ tám chép: “Đẳng tùy quán tức y tha kia đều là không, tức dựa vào sinh không có tánh v.v… của tự tánh, cho đến. “Nói như vậy”: Ở trước là nói tánh biến kế “không” đồng với hư không. Hư không chẳng có tự thể, dụ cho tánh không của biến kế sở chấp. Nay nói tùy quán, tức y tha kia đều là không, nghĩa là nói về các pháp y tha là không, chẳng có tự nhiên sinh; không có thắng nghĩa, không đồng với thuyết trước đã nói là tướng “không” của biến kế sở chấp không có tánh. Nên nói là xa lìa tướng không có tánh của tự tánh. Cũng không cần đối với trước mà gọi riêng là xa lìa tuệ.

Giải thích kinh: “Đẳng tùy quán tức y tha kia đều là không, nghĩa là nói y tha là không, không có tự nhiên sinh và vì không có thắng nghĩa, nên nói là “Không”. Vì không nói tướng không có tự tánh, nên nói là xa lìa tướng không có tự tánh.”

Nói “Như dựa vào tánh xa lìa để nói tướng kia là “không” cho đến “cũng thế”, nghĩa là trước nói y tha là nhân duyên. Ngoài pháp nhân duyên, lìa tự nhiên sinh và lìa thắng nghĩa nên nói là “không”. Nay nói y tha, tức Thể vô ngã, khác với nói nghĩa không nên nói rằng “Dựa vào tướng khác, tánh là vô ngã, cũng có thể nói về thể vô ngã của pháp y tha này, khác với biến kế sở chấp ngã là không nên nói rằng “Dựa vào tướng, tánh khác nhau để nói là vô ngã.”

Kinh thứ chín chép: “Quán như lý năm Uẩn kia chẳng phải có biểu hiện” lời đáp dựa vào tướng không có tánh để nói, như lý quán sát, thật sự chẳng phải có, mà là vì theo tính giả dối để biểu hiện, nên dựa vào tướng không có tánh, để nói chẳng phải có được biểu hiện.”

Kinh thứ mười chép: “Nói luống dối kia không thật biểu hiện: Dựa vào sinh vô tánh và thắng nghĩa vô tánh để nói, nghĩa là do tánh Y tha khởi giả dối không có thật từ duyên hiện rõ, vì không có tự nhiên sinh, nên gọi là “Sinh vô tự tánh”. Chẳng phải chỉ không có tự thể mà cũng chẳng phải chân như thắng nghĩa, nên nói rằng “Thắng nghĩa vô tự tánh”.

Trong kinh thứ mười một, Luận sư Cảnh nói: “Đây là nói đối với pháp chân như, xa lìa mười hai xứ, đều không dựa vào ba vô tánh kia để nói.”

Hỏi: Nếu dựa vào tứơng, xa lìa mười hai xứ, trong pháp chân như, dựa vào ba tánh nói có thì có lỗi gì ư? như trong pháp chân như kia, mắt biến kế sở chấp, vắng lặng hẳn, xa lìa tướng sắc của biến kế sở chấp, cho đến ‘nói vắng lặng hẳn tưởng của pháp xa lìa, cũng lìa biến kế sở chấp?”

Giải thích: “Quán ba vô tánh ở đạo phương tiện, quán chân như, các pháp vắng lặng không tạo nên quán vô tướng, vô sinh v.v…

Nếu y cứ ở thắng nghĩa để nói là lìa mười hai xứ của biến kế sở chấp trong quán chân như, thì cũng được nói là tướng vô tự tánh. Nhưng dựa vào kinh có nói vô tánh, mới được dựa vào trong kinh để nói là vô tánh. Trong kinh chỉ nói mắt v.v… vắng lặng, xa lìa các tưởng, hoàn toàn không nói là có lời nói không có tánh của tánh, nên Luận chủ nói: “Đều không dựa vào “ba vô tánh” để nói, tức biết, quán, “ba vô tánh” là ở đạo gia v.v… hạnh. Chứ trong quán căn bản, không tạo ra sự hiểu biết của vô tánh”.

Pháp sư Thái nói: “Mắt v.v… trong chân như vắng lặng hẳn, xa lìa tưởng sắc, cho đến tưởng pháp chân như. Vì thật có thể tánh, nên đều không dựa vào không có tự tánh mà nói lời như thế”.

Luận sư Bị nói: “Đây là y cứ ở tánh Viên thành thật để nói, không y cứ vào ba vô tánh để nói”.

Kinh thứ mười hai, dứt trừ tất cả tưởng, nghĩa là vì cũng dựa vào chân như để nói, nên không theo tánh của ba vô tánh để nói. Xét rõ thuyết nói là tánh của vô tánh trên dưới của luận này, chỉ dựa vào tánh của tánh chấp ngang trái, không dựa vào tánh y tha và viên thành nên kinh Tịnh Danh nói: “Chỉ trừ bệnh kia mà không trừ pháp. Pháp là hai đế chân, Tục viên thành và y tha. Bệnh là các pháp chấp ngang trái của biến kế. Cho nên ý kinh kia lại đồng với luận này. Người này thực hành quán chân như như thế, đều rất dễ hiểu, nên luận trên nói: “Chư thiên được trí tha tâm, tìm định mà Tỳ-kheo kia đã nhập, nhưng không thể biết, nên nói tụng rằng:

“Nam-mô Tối thắng sĩ,

Nam-mô Sĩ Trung Tôn

Nay ta không biết ông

Nương đâu tu tĩnh lự?”

Trong kinh thứ mười ba, Luận sư Cảnh nói: “Nói thuận theo nhãn xứ Hỷ, Ưu, xả đã nhận thức sắc, cho đến đã nhận thức trong pháp không có đế, không có thật, nghĩa là dựa vào tướng vô tánh để nói.

Chẳng có “không điên đảo”, ngoại đạo chấp pháp tự nhiên mà sanh, gọi là không điên đảo, nay nói y tha vô tự tánh mà sanh, chẳng có không điên đảo, chẳng có không điên đảo: nghĩa là ngoại đạo lại chấp rằng, báo thân của người, trời là pháp không điên đảo của thắng nghĩa Niết bàn. Nay, nói báo thân của người; trời là sinh tử của họ, chứ chẳng phải Niết-bàn thắng nghĩa, nên nói” không điên đảo”.

Nói “Lại nói có xuất thế gian của bậc Thánh, cái gọi là chân như, tức là an phi lập đế xuất thế, không dựa vào tất cả thuyết của tánh vô tánh. Văn đáp, dựa vào đây giải thích; rất dễ hiểu. Nay, giải thích;

Quyển trước đã nói tên khác của chân như là thật tánh; Đế tánh, không có tánh điên đảo; tánh v.v… không điên đảo”.

Giải thích: “Vì không có tà phân biệt chấp, nên gọi là “không có điên đảo?. Chỉ vì chánh trí sở chứng, nên gọi là “không điên đảo”.

Nay, ý văn này nói, không có các tướng như đế thật v.v… trong các pháp như sắc v.v… của thế gian, chấp ngang trái cho là thật v.v… Dựa vào ba vô tánh, để nói là không có đế thật v.v… Nói có chân như, Thánh đế xuất thế là đế, là thật không có điên đảo; không điên đảo nghĩa là không dựa vào thuyết ba vô tánh”.

Kinh thứ mười bốn chép: “Có chỗ giải thích: Biết biến kế là không; biết y tha khởi có. Cho nên nương tựa tất cả. Nếu chứng chân như, thì sẽ không nương tựa tất cả, vì chân như chẳng phải vô tánh”.

Nay, giải thích: “Cũng có thể là cảnh quyết định chẳng phải có, chẳng phải không, gọi là không thể tư duy, bàn luận. Cảnh giới Chư Phật cũng thế. Chẳng phải có, chẳng phải không, gọi là không thể nghỉ bàn, chỉ dùng cảnh định trong nhãn, trừ chấp. Dựa vào thuyết vô tánh để nói, cảnh giới Chư Phật đã vắng lặng hẳn, không nương tựa vô tánh.

Thứ chín, Trong giải thích môn thứ lớp, y cứ ở phẩm tạp nhiễm, để nói về thứ lớp của ba việc ở trước. Lại nữa, y cứ phẩm thanh tịnh đễ nói về thứ lớp của hai việc sau.

Về mặt lý, năm việc đều có thanh tịnh. Luận chủ y theo nhiều thuyết để nói”.

Trên đây, hai bài tụng đã nói về năm việc xong.

Dưới đây thứ hai giải thích về ba tánh.

1. Kết trên, sinh dưới.

2. Nêu bài tụng, giải thích. Có ba bài tụng tức chia làm ba: Trong phần đầu, trước là bài tụng, nêu lên bảy môn. Sau dựa vào môn, giải thích, bảy môn gồm: Nêu chung là thứ nhất, phân biệt riêng là thứ hai; “duyên” là thứ ba; sai khác thứ tư; y chỉ là thứ năm; chấp mắc vi tế là sáu; chấp tánh như Danh v.v… là bảy.”

Luận sư Cảnh nói: “Ba môn đầu trong bảy môn là phân biệt chung ba tánh. Bốn môn sau chỉ phân biệt tánh Biến kế sở chấp. Về nghĩa ba tánh, các Đại đức từ xưa đến nay, đã nêu ra nhiều giải thích, là có nhiều đường lối. Như Pháp sư Huền Trang đã nêu ra chương nghĩa của ba tánh rõ ràng rất đẹp. Ngài đã lập ba tánh, dùng ba môn để phân biệt:

  1. Môn lý tình sự.
  2. Môn lý trần, thức.
  3. Môn có cả nhiễm tịnh.

Chấp có cảnh của tánh quyết định Nhân, Pháp, gọi là Biến kế sở chấp. Sự của nhân duyên, gọi là Y tha. Lý Vô tướng v.v… gọi là Viên Thành Thật. Cho nên luận chép: “Mê sợi dây, chấp là rắn, gọi là biến kế sở chấp.

3. Thể của sợi dây trần là y tha. Lý “không” của sợi dây rắn, gọi là Viên Thành Thật. Cho nên Luận chủ không lấy thức làm Biến kế sở chấp, mà lấy sự đổi khác của thức làm Trần, ngã v.v… gọi là biến kế sở chấp.

Trong môn thứ ba, nhiễm là biến kế sở chấp; tịnh làm Viên Thành Thật. Tánh y tha: Có cả nhiễm tịnh, nên luận chép: nếu duyên biến kế sở chấp. Thì thức này lẽ ra trở thành tịnh. Cho nên, nhiễm là Biến kế sở chấp; tịnh là Viên thành thật, chủ thể nhiễm y tha, tức có cả nhiễm tịnh.

Đã có ba môn, theo văn Du-già, chỉ môn đầu là “thị”; hai môn còn lại là “phi”. Vì quyển thượng hạ, của luận mới dịch chỉ có môn tình sự.”

Hỏi: Nếu vậy, dựa vào hai môn sau đã dẫn. Thích Luận của Bồtát Thế Thân trong Nhiếp Đại thừa, làm sao hội ý giải thích?”

Giải thích: “Văn Thích luận của Bồ-tát Thế Thân mới dịch, chưa hẳn là có. Nếu có văn này đều là tình có, gọi là biến kế sở chấp. Pháp sự nhân duyên là y tha.

Nói “không lấy thức làm tánh phân biệt, mà lấy đối tượng thức đã biến trần vô ngã v.v… “không” mà dường như có là tánh phân biệt”. Nghĩa là dù có Pháp sự như sắc v.v… y cứ chỉ môn thức đều gọi là Thức, nên nói rằng “không lấy thức làm phân biệt”.

Lấy trần vô ngã v.v… do thức đã biến ra không mà dường như có để làm phân biệt, tức là không có ngã, chấp là ngã. Không có pháp thật quyết định, chấp có pháp quyết định, lại là tình có, gọi là biến kế.

Nói “Cảnh nhiễm gọi là biến kế sở chấp”, nghĩa là sở chấp (đối tượng chấp) không có tự thể, sinh ra tâm nhiễm, nên gọi là nhiễm, chứ chẳng phải cho rằng, có pháp nhiễm kia làm đối tượng nương tựa cho Thể.

Đã biết như thế, kế là, dựa vào kinh luận mới dịch nêu ra thể của ba tánh.

  1. Y cứ năm pháp.
  2. Y cứ năm tướng.

Nói năm pháp: Tức là tướng, danh, phân biệt, như như và chánh trí. Tự tánh ban đầu trong năm pháp này không thuộc về năm pháp. Tự tánh thứ hai thuộc về bốn pháp. Tự tánh thứ ba, chỉ thuộc như như. Tự tánh ở đây, như thuyết đầu tiên trong quyển bảy mươi bốn nói so với kinh, luận xưa có đồng, khác, hội ý giải thích (Đến quyển bảy mươi bốn kia sẽ giải thích).

Kế là dựa vào năm tướng, nêu ra thể của ba tánh.

Nói năm tướng, bao gồm phân biệt giải thích, nói như dưới:

  1. Tướng được nói.
  2. Tướng năng nói.
  3. Tướng tương ưng với “năng nói”, “được nói”.
  4. Tướng chấp mắc.
  5. Không chấp mắc.

Trong “tướng được nói”, có năm pháp chung, tức bao gồm y tha và Viên thành thật.

Trong “tướng năng nói”, y cứ ở chấp ngang trái, gọi là không có tự thể, đồng với nghĩa, thuộc về tánh thứ nhất, tướng tương ưng với “năng nói”, “được nói”, chấp nhất định tướng danh, nghĩa, thuộc về tánh thứ nhất.

Tướng chấp mắc, thuộc về Y tha, nghĩa là vì tâm phân biệt này thuộc về Y tha.

Tướng không chấp mắc, thuộc về Viên thành thật, có cả như như, chánh trí làm thể.”

Luận sư Bị nói: “Thông thường nói về ba tánh, kinh, luận không đồng, lược phân biệt thành chín môn để giải thích:

1. Môn danh, nghĩa tịnh, như luận Trung Biên chép: “Danh của các pháp, nghĩa là tánh phân biệt. Chỉ do nghĩa chấp danh là thật, mà gọi là pháp, là tánh y tha. Bốn thứ thanh tịnh là tánh chân thật.

2. Môn nghĩa, danh tịnh. Như Nhiếp Luận chép: “Nghĩa đã gọi là tánh phân biệt”, nghĩa là dựa vào danh, chấp danh, nghĩa dưới là thật, hay gọi là danh, là tánh y tha, nên luận chép: “Làm rõ danh là Y tha, làm rõ nghĩa là Phân biệt. Bốn thứ thanh tịnh là tánh chân thật.”

3. Môn Trần, Thức như kinh Lăng-già chép: “Hai thứ tướng, danh trong năm pháp tạng, gọi là tánh phân biệt; một thứ vọng tưởng, gọi là tánh y tha, chánh trí, chân như, gọi là tánh phân biệt.”

4. Môn tình sự lý, như luận Phật Tánh chép: “Tánh phân biệt, không thuộc trong năm sự, vì tình chấp thì có mà vì không có tự thể của sự, nên bốn pháp: Tướng, Danh, Phân biệt, Chánh trí, gọi là Y tha. Một pháp chân như, gọi là tánh chân thật.”

5. Môn ngọn gốc tịnh, như Nhiếp Luận chép: “Tất cả pháp nhiễm là tánh phân biệt. Thức A-lại-da là tánh Y tha. Bốn thứ thanh tịnh là tánh chân thật.”

6. Môn tình nhiễm. Như trong Nhiếp Luận dẫn kinh Tỳ-Phật-lược chép: “Như kệ rằng:

Huyễn thảy tụng Y tha

Nói không tụng phân biệt

Nói bốn thứ thanh tịnh

Phải biết là chân thật.”

7. Môn nhiễm có cả tịnh, như trong Nhiếp Luận dẫn kinh A-tỳđạt-ma, như dụ Kim Tạng lập v.v…

8. Môn đế lý chung, như luận Trung Biên và Kinh Niết-bàn chép: “Bốn đế đều có cả ba tánh.”

9. Môn tướng riêng, chung như luận ba Vô Tánh và luận Hiển Dương nói: “Tướng “năng nói”, “được nói”, gọi là có cả ba tánh. Tánh thuộc về năng nói, “được nói” là tánh biến kế sở chấp. Tướng của chấp mắc là tánh y tha khởi. Tướng không chấp mắc là chân thật.

Nay, dựa vào luận này, y cứ môn tình sự lý thứ tư, xếp năm sự vào ba tánh. Luận Thành Duy Thức cũng xét môn này, làm rõ ràng không có lẫn lộn.

Trong phần dựa vào môn để giải thích, nêu chung như văn.

Trong phân biệt riêng, nói tánh Viên Thành Thật, nghĩa là Chân như: Đây là nêua khắp về nghĩa khác không biến đổi, phát ra thể Viên thành. “Sở hành” của trí, là sở duyên của cảnh giới, về nghĩa của ba trường hợp này không khác nhau, chỉ muốn trịnh trọng nêu trí vô phân biệt “năng hành” kia, làm hiển bày chân như “sở hành” kia làm Viên thành thật, vì chân như kia rất sâu xa khó tin, nên nêu “năng hành” làm rõ “sở hành”.

Dưới đây có ba trường hợp nói chứng chân như có nhiều lợi ích, cho đến có thể khiến chứng được thanh tịnh, nghĩa là do chứng chân như, được trí thanh tịnh, gọi là được thanh tịnh.

Kế là, do chứng chân như, giải thoát, hai ràng buộc. Kế là, do thấy chân như, dẫn phát tất cả công đức hữu vi. Dưới đây, giải thích về môn duyên thứ ba. Luận sư Cảnh nói: “Biến kế sở chấp “duyên” về tướng, danh, hệ thuộc với nhau nên biết. Nghĩa là chấp danh tướng kia, nhất định chấp mắc, hệ thuộc nhau. Tình chấp mắc là biến kế sở chấp. Y tha khởi “duyên’ Biến kế sở chấp, chấp tự tánh nên biết, nghĩa là do chấp tình có cảnh, nên tâm y tha khởi, viên thành thật, cho đến rốt ráo không thật, nên biết, nghĩa là do “duyên” y tha khởi biến kế sở chấp. Nếu hiểu rõ đối tượng chấp rốt ráo không có thật, thì thể hiện rõ Viên thành, nên nói như thế, dưới đây, là giải thích trái kinh.

Ở trong kinh khác, Đức Thế tôn nói là “duyên” không chấp mắc tự tánh biến kế sở chấp” đây là nhắc lại văn kinh. Luận chủ, trước đây, đã nói Viên thành “duyên” tự tánh biến kế sở chấp, vì sao kinh khác lại nói Viên thành kia “duyên” không chấp mắc biến kế sở chấp? Nói “nên biết tánh này”, nghĩa là đến nay, trong nghĩa này phải biết rằng dựa vào tướng mà nói, nghĩa là Luận chủ vì cái chung. Nên biết rằng, kinh khác nói Viên Thành Thật “duyên” chấp mắc biến kế sở chấp phẩm hạ, dựa vào đã chứng đắc thanh tịnh Viên thành Thật mà nói, không dựa vào chấp mắc tướng không nói. Nay trong đây, nói tánh Viên thành thật, biến kế sở chấp. Nghĩa là dựa vào chưa chứng được thanh tịnh Viên thành, còn chấp mắc tướng mà nói.”

Pháp sư Thái nói: “Duyên”, nghĩa là nhờ. Nhân tướng, Danh, tướng thuộc về chấp mắc nên lại thuộc nhau, nên biết. Chấp ngang có tánh biến kế sở chấp khởi phân biệt, là trong tâm năng chấp, chỉ nói về cảnh có nhân khởi, nên không nói tâm.”

Luận sư Bị nói: “Tùy chỗ biến kế sở chấp, liền được tự tánh y tha khởi”. Nay, giải thích:

“Đức Thế Tôn cho đến “nên biết”, tánh này là nhắc lại kinh.

“Dựa vào được v.v… ”trở xuống, là Luận chủ giải thích.

Trong giải thích môn sai khác thứ tư, chỉ nói về năm thứ Biến kế sở chấp. Đầu tiên, hỏi đáp, nêu lên. Sau gạn hỏi, giải thích riêng.

Y cứ trong tự tánh của nghĩa chấp ban đầu, lại có bốn thứ: Trước, nêu sau giải thích; ba thứ trước dễ hiểu.

Trong “năng chấp lấy” tự có hai trường hợp:

1- Chấp nhãn căn là “năng chấp lấy” (chủ thể chấp lấy) của nhà sắc, trần và chấp bốn căn như nhĩ v.v… là chủ thể chấp của nhà Thinh, Hương, Vị, Xúc. Đây thuộc về chấp sắc uẩn. Năm căn như nhãn v.v… là chủ thể chấp lấy năm Trần.

2- Bốn uẩn như chấp thọ v.v… là chủ thể chấp của nhà sắc Trần. Lại, bốn uẩn này là chủ thể chấp lấy của nhà Thinh, hương, vị, xúc, pháp.

Trong chấp tự tánh danh thứ hai, nói “Tất cả pháp đã có danh, nghĩa là trong đây nói chung, danh tất cả pháp của không khác nhau. Nói lại “tất cả”. Có chỗ giải thích: “Tất cả” trước: như nói: ‘Tất cả các pháp, tức có pháp. “Tất cả” sau: là như nói vô ngã, tức là pháp ấy, như Nhân Minh nói” pháp và pháp hòa hợp, gọi là Tông”. Lại giải thích: trước “nói “tất cả”, tức là “danh” chung, sau nói “tất cả”, tức là “pháp” chung, cho nên nói lại. Về tướng văn của tự tánh nhiễm, tịnh thứ ba, thứ tư, rất dễ hiểu.

Thứ năm, trong chấp chẳng phải nhiễm, tịnh. Luận sư cảnh nói: “biến kế sắc này là”sở thủ”, năng thủ v.v… nghĩa là trực nhĩ, pháp biến kế sắc, tâm v.v… là “năng thủ” “sở thủ” không tạo nên sự hiểu biết của nhiễm, tịnh này nên nói là chẳng phải tạp nhiễm, thanh tịnh.

Lại, đối với tất cả pháp vô ký của biến kế trong pháp vô ký, đây là giải thích thứ hai, các pháp vô ký, bị chấp gọi là chẳng phải nhiễm, tịnh. Pháp sư Thái nói: “ Đầu tiên, chỉ chấp năm căn là chủ thể chấp lấy; năm trần là đối tượng chấp lấy không y cứ ở trị chướng, nên nói rằng” chấp chẳng phải nhiễm, tịnh. Sau, chấp vô ký, vì chẳng phải thiện, ác, nên không có nhiễm, tịnh.

. Trong giải thích môn y chỉ trước, nói về năm y. Sau, nói về hai chấp.

Trong phần trước, tự tánh của nghĩa biến, kế nghĩa nương tựa: là

chợt thấy một vật. Do không biết rõ tên và phân biệt sự vất đó, không đồng với Nhiếp luận dựa vào hai biền kế, hai tự tánh. Trực nhĩ phân biệt “thể” sắc và phân biệt “danh” của sắc, tức dựa vào thể sắc của mình, để phân biệt thể của sắc. Và dựa vào danh sắc của mình, để phân biệt danh, sắc, nên nói”dựa vào hai phân biệt”.

Hai tự tánh: Như học ngày nay, dựa vào thể của sắc, danh, chấp thể của sắc, danh. Do danh thể của bốn uẩn, mà chấp thể, danh của bốn uẩn.

Dưới đây, nói về hai chấp:

Giải thích lại y chỉ gia hạnh có năm:

1) Tham.2) Sân. 3) Hợp hội gia hạnh. Nghĩa là do tham nên khởi hợp hội gia hạnh. 4. Biệt ly gia hạnh, nghĩa là do sân, nên khởi biệt ly gia hạnh. 5) Xả tùy và gia hạnh, nghĩa là tùy với cảnh Trung Dung, muốn khởi gia hạnh xả.

Danh lập bày gia hạnh có hai:

1) Chẳng phải do văm tự tạo nên, nghĩa là chấp văn tự này là vật gì? vật này thế nào? Vật này là gì?vật này ra sao?Tam Tạng Pháp sư nói: “Hai gia hạnh đầu, từ trong hướng ra ngoài: Tự tánh này là tướng, vật gì? tướng khác nhau ra sao? Gia hạnh sau, từ ngoài hướng vào trong: Tướng, vật này là gì? Tự tánh nào? Tướng, vật này khác nhau nhau thế nào?

Có chỗ giải thích:

  1. Đây là tự tánh nào?
  2. Đây là khác nhau ra sao?
  3. Tự tánh này là danh nào?
  4. Khác nhau này thế nào là danh?

Luận sư Cảnh nói: “ Không nói vật này là sắc, vật này là thọ, mà nói ngay: Đây là vật gì? Vật này là gì? v.v… nên nói “chẳng phải do văn tự tạo ra”.

Hỏi: “Đã nói rằng: “ Danh lập bày có hai,” lại nói “chẳng phải do văn, tự tạo ra”. Y thú ở đây thế nào?”

Giải thích: “Vì không dựa vào văn tự pháp tướng để nói rằng vật này là sắc, là thọ, tưởng v.v… nên nói “chẳng phải do văn tự tạo ra”. Nhưng nói chung đây là vật gì? Vật này thế nào? nên nói “danh lập bày”.

Pháp sư Thái nói: “Chấp chung pháp có tự thể, nhưng vì chưa chấp danh, nên nói “chẳng phải do văn tạo ra. Tuy nhiên, vì so lường danh, nên gọi là lập bày. Tìm kiếm danh khác nhau của tự tánh, mà vì chưa lập bày danh đó, nên cũng chẳng phải do văn tự tạo ra.

2) Do văn, tự tạo ra: nghĩa là chấp đây là vật này: là” chấp danh của tự tánh. “Vật này như thế v.v… ” trở xuống, là chấp danh khác nhau.

6. Giải thích môn chấp mắc nhỏ nhiệm. Có năm thứ, bốn thứ trước là bốn điên đảo, là chấp người, thứ năm là chấp pháp, tất cả đều là mê lý, vì lúc khởi khó biết, nên nói là “nhỏ nhiệm”.

7. Giải thích môn v.v… chấp tánh như danh; trong đó, đầu tiên, là nêu chung, do năm nhân duyên, như danh, khởi chấp, tức nêu Tiểu thừa ngoại đạo, gọi là chung là người ngu.

“Vì sao?” trở xuống, là thứ hai, giải thích riêng, trong đó, trước là nêu bốn nhân trước, tức nêu chấp ngoài. Sau, nói nhân thứ năm, nêu trực tiếp lý, giáo, nhằm nói về các người ngu bị danh ngôn ràng buộc.

Trong phần trước, trước nêu bốn nhân; sau, kết luận thành đạo lý đã nói, thành tự nhân trong phần trước”.

Hỏi: “Sự này dùng gì làm tự tánh”.

Đáp: “Sự này là tự tánh của sắc, chẳng phải danh của sắc. Chấp danh, nghĩa khác, đây là nhân đầu. Kế là, ở chỗ rảnh rang, quán sát, tầm, tư, chứng danh, nghĩa khác, là nhân thứ hai. Kế là, chấp rằng: Như tìm kiếm sắc không được, sinh ra không vui, chứ chẳng phải khi tìm, kiếm danh không được mà có ý nghĩ không vui này, thuyết minh biết danh nghĩa quyết định có khác, là nhân thứ ba.

Có Luận sư giải thích: “Nhân thứ hai trước là người nhập định, khởi biến kế. Nhân thứ ba này là người không nhập định và chưa được định chấp danh nghĩa có tự thể.

“Lại nữa” “ngữ” chuyển biến đối với danh v.v… ” trở xuống, đây là nhân thứ tư, nói về tính toán so lường kia, gọi là tùy đối tượng giải thích, đều quyết định riêng, trong đó có hai: 1) Người ngoài lập Tông. 2) Luận chủ đả phá. Người ngoài thành lập Tông rằng: “Ngôn thuyết của thế gian, dùng lời nói để gọi danh và nghĩa. Lúc giải thích tự tướng, không giải thích cộng tướng. Danh của tự tướng này, cho đến không giải thích năng chấp sở chấp.

Nói “Nếu tức danh kia, cho đến “lẽ ra không thật có”nghĩa là người ngoài giải thích chung. Nếu danh của một pháp kia có thể giải nói nhiều pháp, như tùy theo danh riêng, khởi. Giải hạnh riêng, lẽ ra không thể được, nhưng lại tùy theo danh riêng, khởi hạnh giải riêng. Phải biết rằng, danh của một pháp không giải thích nhiều pháp.

Luận chủ cho rằng, đều chẳng đúng. Kẻ khởi lên chấp này không hợp lý.

Dưới đây là phá riêng:

“Như thế, cho đến vì chuyển đối với vô nghĩa ư?” hai câu hỏi này quyết định thay đổi đối với có nghĩa chuyển, lại không hợp lý, như đã nói trong quán năm việc trước đây. Nghĩa là ở trước, đới với năm sự tứớng, danh, đã phá người ngoài rồi. Nếu danh quyết định đổi thay trong có nghĩa thì như một pháp thế gian sẽ có rất nhiều danh. Nếu danh, nghĩa đến với nhau có quyết định, mà gọi là nhiều nghĩa thì sẽ có lỗi một pháp có nhiều thể?”

Nói” Nếu đối với vô nghĩa chuyển thì lý ấy cùng cực. Nếu danh nghĩa biến chuyển chỗ vô nghĩa kia, thì ông không nên nói rằng, phân biệt các danh riêng, mỗi danh đều co 1hạnh giải riêng, chuyển biến theo nghĩa”.

Nói” Nếu chuyển biến đối với nghĩa không có tướng v.v… đến “tức là chấp mắc”, thì danh này nếu đối với vô ngã mà chuyển biến, thì là ngôn giáo, sẽ có đối tượng duyên nói, chỉ là tăng ích. Nếu chấp lấy tăng ích, tức là chấp mắc”. Dưới đây sẽ kết thành đạo lý:

Dưới đây là nói về năm nhân kia; 1) Một là nêu chung người ngu, đối với tướng, danh, ngôn là đối tượng ràng buộc. Nên biết như danh, vọng chấp tự tánh. 2) Giải thích riêng, trong đó, trước nêu lý, giáo, để chứng biết là ràng buộc đối với tướng, danh, ngôn sau,dẫn dụ để so sánh.

Trong phần trước, trước là hỏi đáp chung làm rõ.

“ Do lý, giáo v.v… trở xuống” là giải thích riêng, trước là giải thích lý ấy có ba:

Nếu lìa danh, ngôn thì sẽ không cảm thấy vui mừng đối với các việc. Nếu danh, ngôn đều gắn với sự, thì mới sinh ra mừng. Nếu danh mừng vui thì chính là bị sự, danh ngôn buộc ràng, là một đạo lý.

Lại nữa,danh nghĩa xoay vần nương nhau. Như ở trước, dựa vào “sự”, khởi phân biệt”danh”, tức là nương tựa vào sự, danh ngôn mà được sinh.

“Như tĩnh lự cho đến”sự có thể được sinh”, nghĩa là ý thức kia tư duy danh, nên tạo ra quán xanh vàng v.v… tức là có sự ảnh tượng của màu xanh vàng khởi, tức là dựa vào danh, sự mà được sinh khởi, là lý thứ hai.

“Lại, đối với danh ngôn v.v… đến tức là các tướng trôi nổi thay đổi tâm mình, để tâm nơi tướng trong cõi Vô tướng chân như, đều không thể hiện.

Nếu không như thế, thì tức là tiêu biểu cho tướng, là lý thứ ba, “ Dưới đây sẽ dẫn ba tụng, nhằm nói tướng kia do giáo. Bài tụng đầu, dẫn; hai bài tụng sau, là đến theo. Nửa trên bài tụng đầu, phàm phu bị lời nói ràng buộc. Nửa bài tụng dưới, là nói về Đức Phật giải thoát, sự ràng buộc của ngôn từ. Dưới đây sẽ dẫn thí dụ để so sánh”.

Lại như phàm phu biết rõ về uẩn đều không có ngã, chứ chẳng phải không tùy chuyển đối ngã chấp kia, vì về sau sẽ dứt trừ tùy miên ngã, đây là nêu thí dụ. Dù rằng biết rõ danh, ngôn giả lập, mà ở trong tướng vẫn bị danh ngôn buộc ràng, cũng do chưa dứt trừ tùy miên danh”.