DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 5

(Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 13

Trên đến đây, đã giải thích về sự gồm thâu Tông yếu của kinh xong.

Từ đây trở xuống, sẽ giải thích về ý nghĩa phức tạp của kinh, văn chia làm hai:

Mười một phần đầu, lại nữa, là dẫn riêng kinh để giải thích: Sau, lấy bốn pháp gồm thâu, gìn giữ Thánh giáo.

Kinh đầu, nói về sự xa lìa thân, tâm, dẫn tới sự hiểu biết như thật.

Kinh thứ hai, khéo tu chỉ, quán, biết rõ Sở tri.

Kinh thứ ba, là Đẳng Trì, Đẳng Chí v.v… trong thiện xảo.

Văn chia làm ba:

1/ Dẫn kinh nêu lên

2/ Hai lần “lại nữa” để giải thích về bốn câu trong kinh.

3/ “Thế nào là trụ” trở xuống, là giải thích riêng mười bốn câu trong kinh. Đẳng Ái trở xuống là phiên dịch ngược lại bất Đẳng Ái thành, một câu, cho nên thành mười bốn câu.

“Câu điều thiện v.v…” trở xuống, có câu chấp Hành; câu chấp Pháp tánh, giải thích câu trong điều thiện. Hai câu này là nêu văn, chẳng phải giải thích câu kinh.

“Lại nữa” lần đầu trong bốn câu là dùng tướng định để đối thành bốn câu. Đẳng Trí kia được gọi là mười một thứ.

Trước là nêu Tam-ma-địa thứ nhất, thứ ba, đối với trong bốn pháp Đẳng Chí, để làm bốn câu.

Kế là “Như thế…” trở xuống, là so sánh với mười công đức khác trong Đẳng trì. Lại, hai Đẳng Chí còn lại trong sáu Đẳng Chí, mỗi Đẳng Chí đều đối nhau, cũng tạo thành bốn câu, nghĩa là “không”, “Vô tướng” v.v… trong các tam-ma-địa, vì rất thù thắng, vì duyên cảnh khắp, nên được tên gọi riêng. Thắng Xứ, Biến-Xứ trong các Đẳng Chí năng trở thành biến hóa. Định Diệt tận Vô Tưởng, vô tâm, vắng lặng, nên nêu riêng.

Đầu tiên, nêu Diệt tận, nêu Vô Tưởng trong hai câu riêng, Sau là nêu Biến-Xứ để so sánh với Thắng Xứ. Vì ảnh được rõ ràng, nên về nghĩa đó có thể biết. Trong bốn câu thứ hai chỉ có hai câu đầu.

Đẳng-trì khéo léo, chẳng phải Đẳng Chí khéo léo, nghĩa là đối với danh, cú, văn thân của Đẳng-trì, giỏi biết sai khác, chẳng phải đối với khả năng nhập Đẳng Chí.

Tướng trạng sai khác của các hành: Đây là nói ba tuệ khéo léo là tánh. Y cứ Đẳng-trì kia năng giải thích khéo léo, trong danh, cú sai khác. Đẳng Chí thì y cứ ở nhập, xuất có khéo, không khéo, đối với phân biệt có thể biết.

Bốn câu trước, y cứ vào tác dụng nhập, xuất, khéo, không khéo của Đẳng-trì, Đẳng Chí của tự Thể riêng, khác nhau để nói.

Hai thứ bốn câu này y cứ vào nghĩa thể của Đẳng-trì, Đẳng Chí khác nhau kia để tạo thành.

Ngài Tam Tạng nói: “Phương Tây (Thiên-trúc) có nghĩa này. Tammuội v.v… gọi là Đẳng-trì. Thể tánh của Tam muội gọi là Đẳng Chí, nên lập hai câu. Cho đến chưa được nghe… chư Phật nói v.v… nghĩa là đối với Đẳng Trì không khéo léo có ba nghĩa:

1/ Chưa được nghe từ Phật.

2/ Chưa được nghe từ Bồ-tát bậc nhất.

3/ Chưa tự chứng đắc rốt ráo bậc nhất, cho nên, không thể khéo léo đối với giáo quyết định.

Một chữ “chưa” ở trên, xuyên suốt ba Xứ ở dưới.

Luận sư Cảnh nói: “Hoặc lấy Sơ địa gọi là Rốt ráo bậc nhất, hoặc Địa thứ mười gọi là rốt ráo bậc nhất.

Đối với Địa bất định thuộc về Thể, tướng phân biệt , nghĩa là cảnh phân tán. Đây là vì pháp loại không đồng của Địa định, nên tư duy tản mát, gọi là Xuất định.

Đối tượng tác động của Định, nghĩa là uống, ăn, v.v… đây là việc nên làm khi xuất định, vì đến thời gian này nên xuất định.

Tướng sở duyên. Nghĩa là thể phân biệt. Do “duyên” với thể này, nên năng nhập các Định, nghĩa là vì các pháp hữu lậu, gọi là phận biệt, nên đối tượng duyên của Định, gọi là thể phân biệt, vì tướng phần lìa kiến phần, không có tánh riêng. Hoặc đối tượng duyên (sở duyên) lấy thể tướng do phân biệt hiện ra trong năm pháp, làm tướng sở duyên. Do định đã được vượt qua Địa này trở lên, vì không thể biết, cho nên đồng. Đây là nói ba độ của Địa dưới không biết Địa trên.

Trong Quyết Trạch nói: “Dựa vào bốn Định, biết chung tâm con người của cõi Vô Sắc, vì y cứ ở Đại Bồ-tát mà nói, nên không trái nhau.

Dẫn phát, nghĩa là tóm tắt gồm thâu nghĩa câu văn rộng, nghĩa là với sức nghe, giữ này gồm thâu nghĩa văn rộng.

Thế nào là Đẳng Ái? Nghĩa là Tàm, quý ái kỉnh đẳng. Ở đây nói là Định khởi trước muời hai thứ pháp: một là Tàm, hai là quý, cho đến mười hai lạc, lấy muời hai pháp này làm tâm phương tiện, tức là được định.

Ở đây, ngài Tam Tạng nói: “Đẳng là Đẳng Chí; Ái là tâm phương tiện của Định. Đẳng Chí Ái vì công đức vượt vượt hơn, nên gọi là Đẳng Ái.”

Luận sư Cảnh nói: Tàm, quý, v.v… đều là thuận theo chánh pháp. Đẳng ái là chánh nghĩa lý, chánh ái. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Vì đối với mười hai bình Đẳng Ái này, nên gọi là Đẳng Ái.” Phương tiện có hai:

1/ Hai Đạo thêm, bớt của các đường.

2/ Chỉ nêu xả, như đã nói trong ba mươi hai tướng ở trước.

Phần thứ tư, trong kinh Phân Biệt Tĩnh Lự, văn có bốn:

1/ Dẫn kinh nêu.

2/ Lược giải thích về bốn chuyển.

3/ Giải thích rộng về tướng.

4/ Kết thành.

Bốn chuyển trong đây, phải biết hai thời gian điên đảo v.v…

Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “Bốn chuyển:

1/ Tam-ma-địa hữu lậu, điên đảo khi hướng tới.

2/ Lúc Định hữu lậu nhắm thối lui là điên đảo.

3/ Chính Lúc Định hữu lậu lui mất, không có điên đảo.

4/ Khi Định vô lậu tiến tới thì không có điên đảo. Hoặc Sơ, nhị đối với tiến cho là thối, gọi là điên đảo. Đầu tiên khi tiến đến định hữu lậu, cho là thối lui. Về sau, lúc tiến đến định vô lậu, cho là thối lui, nên đều gọi là đảo.

Luận nói: “Thứ hai, điên đảo khi thối lui Tam-ma-địa, nghĩa là lúc tu tiến vô lậu, nhắm thối lui hữu lậu, nói là điên đảo. Khi thối lui hai thứ sau, cho là thối lui, gọi là điên đảo.

Đầu tiên, khi đối với định hữu lậu, thật sự thối lui, cho là thối lui.

Sau định vô lậu lúc thối lui hữu lậu, cho là thối lui định hữu lậu.

Lúc thối lui, nghĩa là trong thối lui, văn có ba lần “lại nữa”:

1/ Do ái vị, cho nên thối lui 2/ Do mạn, chê bai, nên thối lui 3/ Do tham, lừa dối, nên thối lui.

Không có điên đảo thứ hai trái với không điên đảo ở đầu, nên biết.

Tướng không điên đảo kia. Nghĩa là được định vô lậu, khi sắp mất định hữu lậu, biết như thật thối lui, đây không có điên đảo.

Thứ ba, không có điên đảo, lúc thối lui Vô lậu, biết thối lui.

Thứ tư, không có điên đảo, khi tiến đến Vô lậu, biết thối lui hữu hậu.

Thứ tư ở đây với thứ hai ở trước có sự sai khác. Nghĩa là tu phương tiện Vô lậu ở trước cũng chưa chứng đắc, cho là thối lui, từng được định. Thứ tư ở đây chính là được Vô lậu, hữu lậu không hiện hành, cho là thối lui, nên trở thành khác, nhau.”

Luận sư Cảnh nói: “Không trái ngược thứ hai trái với không trái ngược ban đầu, sao nói là nên biết tướng không điên đảo đó?”. Vì trước thối lui định phương tiện, sau, thối lui định căn bản, cho nên mới trái với trước.

Hai thối lui sau này đều y cứ ở phàm phu chế phục “hoặc”, lại thối lui.

Do dựa vào như thế, cho đến an lập bốn chuyển, nghĩa là do dựa vào hai không có điên đảo hưng thịnh, suy đồi như thế, vì an lập bốn chuyển, cho nên kết.

Thứ năm, là phân biệt bốn kiểm tra hành.

Văn trong kinh có ba:

1/ Dẫn kinh nêu lên.

2/ Tóm tắt xem xét rõ ràng hành tướng.

3/ Chỉ bày rõ ràng, rộng về hành bị xem xét. Chủ thể xem xét tức ba tuệ. Đây, là một người tu đủ bốn thứ, bốn phần kém v.v… như thứ lớp phối hợp, thuận với bốn thối lui v.v… Giải thích, như văn.

Thứ sáu, là đối với sáu cảnh, không thọ tưởng Vô Tưởng. Các pháp này trong kinh, hoặc thật, hoặc có, đều không lãnh thọ, nghĩa là không thọ Tự tướng của cảnh.

“Còn không thọ tưởng, nghĩa là còn không thọ tưởng của sáu cảnh, huống chi Vô Tưởng, cũng không thọ Vô Tưởng kia.”

Dưới đây nói: “Không có giải thích về tướng của mắt, còn không

lãnh thọ ở tưởng. Không thọ giải thích về tự tướng, đều không lãnh thọ, không thọ giải thích Vô Tưởng, huống chi là Vô Tưởng.

Nói là do chán hư hoại, nên oai thế lấn át, cho đến “nhưng có tưởng kia, nghĩa là Định vô lậu thường chán hư hoại, tức là đối với nhãn v.v… không có tưởng sự, chỉ có tướng các lý của bốn đế khởi, không thọ Vô Tưởng, nghĩa là Tưởng và Vô Tưởng, đều không tho. Do không tư duy tất cả tướng, nên có hai tưởng “hữu”, “không”, vì đều không thọ, nên tư duy vắng lặng trong lý Chân như của Diệt tận.

Ý trong đây nói lìa các tướng tưởng , gọi là Vô Tưởng, nghĩa là lúc trí vô phân biệt chính chứng như, tướng khổ, vui ở trước cũng đều lìa thì tưởng và Vô Tưởng, tất cả đều lìa, cho nên, tưởng của tướng lìa gọi là Vô Tưởng.

Lại nói: “an trụ định Diệt tận ”, đây là y cứ các tưởng của Diệt định sinh ra, là giải thích văn kinh ở trên còn không thọ tưởng, huống chi là Vô Tưởng.”

Thứ bảy, là giải thích về kinh Tứ Thứ Đạo. Nghĩa là lúc phàm phu được Tĩnh Lự căn bản, thời gian sau, nghe pháp, dẫn đến Kiến đạo, cũng gọi là dựa vào tâm tăng thượng, tu tuệ tăng thượng Vô lậu kia. Người thứ hai nọ dựa vào định Vị Chí, được quả vị đầu tiên muốn dứt trừ ngay “tu hoặc” của chín Địa hướng đến chứng La-hán. Từ quả chế phục “tu hoặc” cõi Dục, được định căn bản hữu lậu v.v… gọi là dẫn đến Tu Đạo. Do thối lui hữu lậu, gọi là Tu Đạo, nên cũng gọi là dựa vào tuệ tăng thượng tu tâm tăng thượng.

Hành giả thứ ba, gọi là đều được Xa-ma-tha, Tỳ-Bát-Xá-Na, vì cả hai chuyển xen lẫn. Nghĩa là người này thường trước chế phục “tu hoặc” cõi Dục mà hay khởi định căn bản ban đầu, về sau, dựa vào định Vị Chí nhập hiện quán Đế, được quả thứ ba, được nhập Tĩnh lự căn bản, gọi là tiến dẫn tuệ tâm tăng thượng, cũng dẫn đến Tu Đạo, cho nên, dưới đây kết rằng: “Người thứ hai, thứ ba dẫn đến Tu Đạo.”

Hành giả thứ tư, trước kia tĩnh lự hữu lậu, sau, nhờ nghe pháp nên được nhập Kiến đạo, chứng quả thứ ba, gọi là dẫn đến Tu đạo. Bên như thế, dứt “tu hoặc” còn lại, cũng Đạo chứng A-la-hán, dẫn đến đạo Vô học, nên dưới đây kết rằng: “Người thứ tư thu hướng Đạo, vì được đều dẫn. Về đạo lý, người này cũng là người dựa vào tâm tăng thượng, dẫn đến tuệ tăng thượng. Nhưng không đồng với người bân đầu chỉ dẫn đến Kiến đạo, vì đều dẫn đến ba Đạo, nên phân biệt là thứ tư.

Thứ tám, là trong giải thích kinh Tứ Tịnh Thắng, có chia làm ba:

1/ Nêu kinh Tịnh Thắng.

2/ Giải thích nghĩa Tịnh Thắng.

3/ Giải thích tướng Tịnh Thắng, nghĩa là sở đắc, sở chứng, sở dẫn giới v.v… Sở đắc, nghĩa là như pháp viên mãn; sở chứng, là như pháp nhiếp thọ; sở dẫn giới, nghĩa là phát siêng năng, tinh tấn, chưa mãn làm cho mãn.

Bốn tịnh thắng: 1/ Thi-la; 2/ Tam-ma-địa; 3/ Kiến. 4/ Giải thoát.

Sở đắc, sở chứng, sở dẫn giới nói trong đây, đều có cả bốn tịnh thắng.

Nhiếp thọ viên mãn, là nhắc lại giải thích về phát siêng năng, tinh tấn, chưa mãn, khiến cho mãn là đã dẫn đến giới, định, kiến, vì thể giải thoát, nên không nhắc lại giải thích.

Lại, sở đắc là giới; sở chứng là kiến; sở dẫn, là giải thoát. Giới đẳng, nghĩa là Đẳng định, kiến, giải thoát.

Lại, sở đắc là giới; sở chứng là định; sở dẫn là tuệ và giải thoát, lược qua không có giải thoát, tri kiến cũng có thể tuệ và tri kiến đều gọi là chánh kiến, gồm thâu đủ năm uẩn. Văn dưới đây thế nào?

Một đầu là giới. Đẳng-trì, Kiến, giải thoát kia, đều có hai là thế nào? Tùy phối hợp giải thích, dù trụ sáu chi bốn câu như giới v.v… như Địa Thanh Văn nói rộng. Hai thứ giới, định, đối với giai đoạn phàm phu gọi là viên mãn đắc, nhiếp thọ địa vị Thánh kia, trong định có hai:

1/ Lúc lìa dục: Sáu tác ý trước chưa được phần căn bản, chưa gọi là viên mãn. Nếu khi được quả gia hạnh rốt ráo, được định căn bản mới gọi là viên mãn.

2/ Được ba định Địa dưới chưa gọi là viên mãn. Nếu được định thứ tư, mới gọi là viên mãn, giải thoát ở địa vị Hữu học, chưa viên mãn, địa vị Vô học gọi là viên mãn. Bất thời giải thoát, gọi là nhiếp thọ giải thoát. Chướng định và chướng sự đã được Trạch diệt, gọi là giải thoát.

Thứ chín, là giải thích về hạnh thanh tịnh của tâm, các điều ác, bất thiện, dục v.v… Tầm tư v.v… trong kinh Bí-sô tư duy năm tướng. Nghĩa là các dục v.v… ác bất thiện; v.v… tầm, từ v.v… Nghĩa là các tầm dục, nhuế, hại bất thiện, tầm bà con, cõi nước đã từng trải qua lạc v.v… bảy thứ Tầm, Từ đều che lấp thể.

Đại khái có ba thứ Bổ-đặc-già-la. Nghĩa là tiêu biểu chung về ba phẩm Tầm, Từ khác nhau, thành năm, dưới đây là giải thích riêng.

Thứ nhất, là hành Tầm, Tư. Nghĩa là vì tư duy tướng Đế của nhân, quả v.v… khiến cho bảy thứ Tầm diệt. Dựa vào Tầm, Tư của phẩm trung, chia thành hai thứ:

1/ Thấy tai hại lỗi lầm của Tầm, Tư.

2/ Không niệm tư duy để cho bảy Tầm diệt. Dựa vào Tầm, Tư của phẩm thượng, cũng chia làm hai:

1/ Chẳng phải đầu tiên, tức khiến cho tất cả bất, phải dùng phương tiện để chế phục dần.

2/ Nếu cũng chưa thể chế phục, thì sinh ra chán nản, sợ hãi. Vì phần nhiều tư duy, nên làm cho bảy Tầm diệt.

Thứ mười, là trong giải thích kinh Đãng Trần, văn có ba:

1/ Dẫn kinh để hỏi.

2/ Giải thích về thí dụ ba đào luyện.

3/ Nêu pháp để hợp.

“Như trong tánh vàng ròng đã có bản chất vàng trở xuống, là phát tâm xuất gia, gọi là đào luyện ban đầu. Ở giai đoạn đạo tư lương, được Tĩnh lự v.v… là sự đào luyện tiếp theo, nhập địa vị Thánh vì là đào luyện sau, nên luận nói: “Không bị hữu, hành cầm giữ. Dựa vào tuệ căn chế phục phiền não, giúp cho căn tánh được lộ rõ. Căn trừ diệt phiền não, đặt tên là đào luyện.

Thứ mười một, là giải thích về ba tướng trong kinh Tam Tướng Tư Duy:

1/ Chỉ, 2/ Nêu, 3/ Xả.

Hoàn toàn tu chỉ, nêu ra ở định gia hạnh. Đối với duyên-khởi v.v… không có chánh tư duy, lựa chọn. Vì không tư duy, lựa chọn, nên tâm không chánh định, không chủ động hiện quán, không dứt hết các lậu, thành A-la-hán, thường tư duy xả, tức là tư duy duyên khởi, cho đến dứt hạnh lậu, vì đạo thành tựu viên mãn.

Mười một đoạn trên đây, đã dẫn riêng kinh, để giải thích. Một lần “lại nữa” sau, dùng bốn chánh pháp gồm thâu giữ gìn Thánh giáo có ba:

1/ Nêu. 2/ Phân biệt. 3/ giải thích.

Xa lìa. Nghĩa là chỗ nhập định.

Sở tu tập (đối tượng tu tập). Nghĩa là định tuệ đã tu.

Quả tu. Nghĩa là giải thoát đã được; hai chướng đã lìa, quả Hữu, Vô vi.

“Thế nào là đã tập Xa-ma-tha…” trở xuống, là giải thích phần thứ ba này.

Tất cả chấp có. Tức là chấp pháp. Chấp tất cả “có”, tiêu diệt pháp chấp này, gọi là Diệt giới. Ba giới nói trong đây khác với giới mà hai Quyết Trạch dưới đã nói. Quyết Trạch ấy cũng nói là dứt hết “kiến hoặc”, gọi là Đoạn giới; dứt hết “tu hoặc”, gọi là lìa cõi Dục; dứt trừ hết tất cả pháp hữu lậu, gọi là Diệt giới.

Trong luận Tiểu Thừa nói tám kiết đoạn, gọi là Đoạn giới. Thọ kiết đoạn, gọi là lìa dục giới. Sự hữu lậu khác diệt, gọi là Diệt giới.

Không có trái tránh: Nghĩa là đại ý muốn nói Đức Phật và đệ tử, do Kiến đồng, nên nghĩa đã nói đồng. Câu văn không khác, thuận theo cộng tưởng, không có sai trái, tranh cãi.

Pháp Phật tồn tại lâu dài, làm lợi ích rộng lớn, gọi là bình đẳng thấm nhuần. Chẳng phải như ngoại đạo khởi kiến, lập nghĩa không đồng, câu văn sai khác, hoặc nghĩa, hoặc câu; hoặc văn, không nói danh. Vì được nêu trước, sau để xuyên suốt ở giữa.

Câu thứ nhất. Cái gọi là câu trước cho đến tức là dùng câu này mà hỏi.

Thứ hai v.v… : Đây là nói lược về câu thấm nhuần bình đẳng.

Pháp sư Cảnh, Pháp sư Thái, Pháp sư Bị, Pháp sư Khuy Cơ giải thích đại khái. Như tôn giả A-nan, đối với năm trăm Bí-sô, dùng câu đầu này để hỏi một vị Tỳ kheo. Lại dùng câu đầu để hỏi vị Tỳ kheo thứ hai cho đến năm trăm vị. Các Tỳ kheo ấy đều đáp: “Đúng vậy, đúng vậy, nên mới gọi là câu nghĩa thầy, trò không có sai trái, thấm nhuần bình đẳng, tùy theo lẫn nhau.

Văn dưới, trái lại, thiết lập rõ ràng đối với một người đầu tiên dựa vào uẩn mà hỏi v.v… nghĩa là đặt ra đối với một người đầu tiên dựa vào uẩn Vô thường mà hỏi người thứ hai.

Đã theo thứ lớp hỏi về giới Vô thường, tức là không được gọi là câu thứ nhất thấm nhuần bình đẳng.

Nay, y theo Quảng luận dẫn khế kinh: “Chúc mừng đến thăm hỏi, gọi là Thượng tọa được nghĩa giải thoát, gọi là Thượng tọa đáp: “Tu hai pháp thì được giải thoát quả ba cõi vui mừng, kế là hỏi tên năm trăm đệ tử của Thượng tọa, đáp riêng, không trái với Thuợng tọa. Đến hỏi đức Như lai. Đức Như lai đáp: “Như gọi là Thượng tọa vì giải đoạn các hành, nên gọi là Đoạn giới; vì lìa các hành, nên gọi là ly giới; vì diệt các hành, nên gọi là Diệt giới.

Đây gọi là Thượng tọa và đệ tử kia thấy đồng với đức Như lai, hỏi chúc mừng.

Thấm nhuần bình đẳng nghĩa giáo, tùy theo không có mảy may sai trái, nên gọi là Vô tránh.

Trong bốn cảnh vị , từ đây trở xuống, là phần thứ hai, giải thích chẳng phải vì Đẳng dẫn Thích Luận chép: “Trái với trước, dễ hiểu rõ.”

Về Thể tức là cõi Dục, hoàn toàn là tất cả pháp tán trong hai cõi trên, nhưng quán trong mười hai bất định của ý văn luận này, thú bảy là năm tác ý trước của cõi trên. Thứ chín, thứ mười là bảy tác ý của cõi trên, thứ tám là pháp nhiễm cõi trên đồng nhau. Địa này chẳng những trái với địa trên mà còn chung cho tất cả pháp tán loạn của hai cõi trên.

Văn được chia làm hai:

1/ Nêu lên câu hỏi.

2/ Tùy giải thích riêng.

Mười hai thứ quyết trạch này, quyển sáu muơi ba nói rộng sự khác nhau, kiến lập nguyên do, nghĩa là dựa vào Địa bất định đầu tiên, đối với tâm an trụ, nêu chính thức nhận lấy tướng: tướng xanh, bầm v.v… Đây là nói vì tánh năm thức bất định, nên rong ruổi theo cảnh, tham v.v… sinh khởi. Bị ngừng dứt cho nên quán màu xanh, bầm v.v… mà an trụ tâm, tức là do nghĩa này, phương Tây nêu ra hai thuyết:

1/ “Năm thức chỉ là tánh hữu lậu, vì bất định. Trong Thập bát bất cộng pháp của Như lai thì không có tâm bất định.” Luận cũng nói: “Nói mười lăm giới, chỉ có hữu lậu, nên biết đức Như lai không có năm thức. Trí thành sở tác kia; hoặc thức thứ sáu, hoặc thức thứ bảy.”

2/ “Năm thức cũng có cả Vô lậu, vì năm thức của Như lai thường ở trong định, nên nói Đức Như lai không có tâm bất định.”

Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nhãn căn nhập chánh thọ. Nhĩ căn tam muội khởi v.v…”

Thường dựa vào Nhị thừa, phàm phu để nói tự tánh bất định, hữu lậu của mười lăm giới, chẳng phải dựa vào địa vị nào khác. Trong đó có thuyết nói: “trí thành sở tác , thân Bồ-tát tu đạo, thì hiện ở trước.”

Có thuyết nói: “Phật địa mới được sơ khởi. Như Duy Thức quyển mười, Phật Địa quyển tư v.v… giải thích. Hoặc có khi thiếu khinh an, nên chẳng phải định Địa, nghĩa là cõi Dục trói buộc các tâm, tâm pháp v.v… quyển sáu mươi ba chéo: “Vì y chỉ cõi này mà được tác ý, nên siêng năng tu tập. Ở đây ý nói, vì được tác ý của cõi trên, nên siêng năng tu tập tâm thiện cõi Dục. Hoặc chán thiếu khinh an, địa tán của cõi Dục. Vì được tác ý của địa khinh an cõi trên, cho nên siêng năng tu tập.

Duy Thức có hai thuyết: Có nghĩa: Cõi Dục không có khinh an, lấy văn này làm thể. Nói thiện muời một, chung cho tất cả Địa, nghĩa là có cả ba Địa có Tầm, Từ, vì đều có.”

Có nghĩa cho là: “Cõi Dục cũng có khinh an, gia hạnh định kia cũng được Địa định, vì định đó cũng có nghĩa đều xướng (khinh an). Trừ định gia hạnh , tâm cõi Dục khác đều thiếu khinh an, gọi là Địa bất định, chứ chẳng phải tất cả đều không có.

Nói mười một nói thiện chung cho tất cả Địa, tức là chín Địa. Mười Địa bất định khác, như quyển sáu mươi ba giải thích.

Một cặp hai thứ định, tán trước, trên đã nói xong, từ đây trở xuống, giải thích về hai tâm có, không là một cặp vô vi. Văn được chia làm hai:

1/ Hỏi, nêu năm môn.

2/ Giải thích riêng.

Trong Địa thi thiết kiến lập chỉ dựa theo năm Địa đầu nhằm phân biệt về Địa kiến lập, chứ chẳng phải dựa vào Địa khác.

Ngài Tam Tạng giải thích: “nói theo sự thật, thì ý của năm thức trong mười bảy Địa có Tầm, Từ và Địa có tâm. Như bảy Địa này thuộc Địa hữu tâm, vô dư không có tâm. Hai địa này chỉ là Địa vô tâm; Địa định, phi định; Địa không có Tầm, Từ, Địa do tu thành.

Ba Địa Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Địa hữu Dư y, như tám Địa này có cả hai Địa Hữu tâm, Vô tâm. Dù có nghĩa này, nhưng vì Luận chủ y cứ ở giản lược, nên đối với năm Địa để phân tích tâm có, không.”

Luận sư Cảnh lại giải thích: “Năm Địa này ở trước đã giải thích xong. Vì thế, nên y theo năm Địa này nhằm phân biệt hữu tâm, vô tâm. Ngoài ra, vì chưa nói, nên không đối với phân biệt. Dù lại Tam-ma-hýđa, chẳng phải Tam-ma-hý-đa, nhưng ở trước đã giải thích xong; mà vì hai Địa Tầm, Từ này đã có Tầm, Từ đều thuộc về ba Địa, nên không nói riêng.”

Pháp sư Khuy Cơ cho rằng: “Chỉ dựa vào ý địa năm thức, của Thể Địa mà có danh, có tâm, không có danh, cũng chưa rõ ràng, chưa nhận biết Nghĩa Xứ nào của chín Địa được thành để nói thể tánh của Địa.

Trong ba tướng của Địa có Tầm v.v… để nói về Hữu tâm và Vô tâm, tức biết hai địa vị sai khác của chín Địa, cũng biết Địa Định, chẳng phải Định, sao là Hữu tâm, sao là Vô tâm? Cho nên, càng không cần dựa vào địa Định, phi định để nói về Hữu tâm, Vô tâm.

Ba tuệ, ba thừa, các hành hữu tâm, vô tâm của sáu địa đều không ngoài Hữu, Vô dư y của môn trước. Phân tích Hữu tâm, Vô tâm trong môn thứ tư, thứ năm này, chẳng phải là địa vị có thân, vì Hữu tâm, Vô tâm riêng, nên Hữu tâm, Vô Tâm chỉ dựa vào năm Địa.

Trong Địa có Tầm, có Từ, không có tâm thùy miên, không có tâm ngất xỉu, không gọi là Địa Vô tâm, do ngủ nghỉ ngất xỉu là vô tâm bất định, tr địa vô tầm, vô tứ, thì định vô tưởng, v.v… là định không có tâm. Lại nữa, ngủ nghỉ, ngất xỉu đều dựa vào chủ thức, nói là Địa hữu tâm. Định Vô Tưởng v.v… dựa vào Khách thức, gọi là Địa vô tâm, vì ảnh lược mà nói. Lại, dựa vào môn lý tùy chuyển để nói về Vô tâm.

Tát Bà-đa nói buồn ngủ nghỉ, ngất xỉu là có tâm. Nhưng Quyết Trạch phần lại dựa vào năm nghĩa để phân tích Địa hữu tâm, do bảy thứ nhân để phân biệt về Địa vô tâm, chỉ dựa vào Thể của Địa để phân tích có tâm.”

Dựa vào thứ ba này, Sinh và bất sinh, nhằm kiến lập Vô tâm. Thuyết kia nói bảy nhân, ở đây nói tám nhân, nghĩa là ở đây chia ra căn, cảnh, kia hợp gọi là “duyên” thiếu. Tám nhân này “duyên” chẳng phải một pháp mà đủ. Thông thường nói các pháp sinh, bất sinh, cũng thiếu tác ý. Nếu các tâm, tâm pháp đồng thời không có tác ý thì sẽ không được sinh, cũng có thể nếu không có tác ý của niệm trước thì tâm sau sẽ bất sinh.”

Luận sư Cảnh bình luận: “Cách giải thích sau là đúng. Vì, nếu lấy tác ý đồng thời thì các tâm pháp không có lúc nào bất sinh, bởi trong nhóm tâm thường có tác ý. Trong đây đã nói tám nhân, nên tâm kia đôi khi sinh, hoặc là bất sinh. Sắp nhận biết, tất nhiên, Tác ý dẫn đường trước, sau đó, tâm mới sinh. Nếu không có Tác ý muốn nhận lấy sắc v.v… dĩ nhiên, tâm sau sẽ bất sinh. Tự có không có tác ý trước, đối cảnh thì sinh. Như người tác ý thì định, bỗng nhiên nghe được tiếng v.v… Do từ nhiều phần nói là Tác ý sinh, như sáu mươi ba giải thích.

Thùy miên vô tâm trong phần vị. Thượng tọa Bộ nói thùy miên có hai:

1/ Tâm Thùy miên, dẫn sanh pháp hữu tâm.

2/ Thùy miên sắc, thì lúc ngủ có sắc nuôi lớn.

Đại thừa cho rằng: “Thùy miên có cả có tâm, không tâm.

Nghĩa thứ nhất, Niết-bàn Vô dư trong Kiến lập, Lại-da diệt hẳn. Nếu vậy, thì giới chúng sinh sẽ có thêm bớt chăng?

Giải thích: “Kinh, luận chỗ nào cũng đều nói là giới chúng sinh không thêm, bớt, bởi vì chúng sinh đã có xưa từ vô thỉ, chứ chẳng phải mới có, nên không có tăng mà có vô lượng. Nhị thừa định tánh, lúc vào Vô dư dã rơi vào số phi sinh; về lý, cũng có bớt, vì từ số nhiều, nên nói là không có bớt, như một giọt nước biển. Nhưng kinh Niết-bàn v.v… chép: Tiên ni hỏi: “Thân là trước phiền não, hay phiền não có trước thân? Nếu thân có trước, thì sao nói rằng, vì phiền não nên mới có thân? Nếu phiền não có trước, thì cái gì tạo ra, trụ ở chỗ nào?” Đức Phật đáp Tiên-ni: “Phiền não và thân dù rằng một lúc đều không có trước, sau, nhưng chủ yếu nhân phiền não mới có thân, cuối cùng không do thân mà có phiền não.”

Dù rằng ngoại đạo y cứ mới có để vấn nạn, Đức Phật lại y cứ ở Vô thỉ kia mà đáp. Cho nên, biết không có thêm.

Lại dựa vào kinh Vô thượng y chép: “Chúng sinh mới là Như lai tạng, vì chúng sinh cùng có là vô vi.”

Theo như nghĩa này nói thế giới chúng sinh không thêm, không bớt. Ý kinh ấy nói là dựa vào chân khởi vọng, lập ra thế giới chúng sinh, nên nói chân như gọi là chúng sinh giới. Người Nhị thừa dù vào Vô dư, các uẩn diệt tận, mà thể của giới này vẫn thường tồn tại không diệt.

Y cứ ở nghĩa như thế, để nói là chúng sinh không thêm, không bớt.

Như-Di-Sa-tắc-Bộ nói: “Chúng sinh ở trước, phiền não ở sau.” – Nếu vậy, không có nhân, làm sao có chúng sinh?

Giải thích: “Như Khổ, Loại, Nhẫn, đầu tiên không có “nhân Tự phần”, làm sao được phát sinh? Các trí kia không có tự nhân mà được sinh khởi, chúng sinh này lẽ ra cũng như thế!”

Nay, văn này lựa chọn tánh quyết định diệt hẳn, cuối cùng không thành Phật. Trong khi đó, kinh Niết-bàn nói chẳng có ai không thành Phật. Vì, lập ra giới hạn của giáo đều có chỗ y cứ. Kinh Lăng-già nói: “Các kinh của Thanh văn đều nói, nhiều kiếp vào cõi Niết-bàn, đắm say rượu tam-muội, nằm say trong thời gian dài. Về sau, từ tam-muội đó phát khởi tâm Đại thừa.”

– Luận sư xưa lấy kinh này để chứng minh rằng, không có rốt ráo nhập Vô dư, mãi mãi diệt.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Theo Luận Nhiếp Đại thừa thì hóa thành Thanh văn chẳng phải thật như thế.

Chín Địa trên, chung cho Hạnh, vì cả ba Thừa đều có thể tu ba tuệ; ba Địa sau, phân biệt về Hạnh riêng, vì ứng cơ tùy theo pháp, thành tựu tự thừa.

Lại, ba Địa đầu là hạnh phương tiện; ba Địa sau, là hạnh căn bản. Ba địa trước là hạnh đã học; ba địa sau là hạnh đã thành.

Văn, là văn tuệ, vì nghe, “duyên” giáo, dùng nghe này làm nhân mà thành tựu các pháp, gọi là “văn sở thành”, tức dùng tuệ kia và pháp tương ưng, đều là đối tượng duyên của nghe, hoặc văn, hoặc nghĩa, đều là quả đã được, là Thể của Địa này.

Nghe trong tác ý trước đây, chỉ “duyên” pháp, ít “duyên” nghĩa.

Văn của Địa này chia làm ba:

1/ là kết trước hỏi, sau nêu, khởi đầu mối của luận.

2/ Hỏi, nêu tên của năm minh Xứ.

3/ Tùy theo giải thích riêng.

Nghĩa là nếu nói sơ lược về năm minh Xứ, cho đến đọc bài tụng, nhớ nghĩ, đây là nói về giáo của năm Minh sinh ra Văn tuệ. Trong đây Ngài Tam Tạng nêu ra hai thuyết:

1/ “Sự lắng nghe này là sinh đắc tuệ. Về nghĩa, đồng thời với luận Tiểu thừa: thọ trì giáo pháp, vì sinh đắc tâm.

2/ Sau thức tương ưng với Văn tuệ làm thể. tuệ có ba phẩm: Phẩm

Hạ, gọi là Sinh đắc; hai phẩm Trung, Thượng, đều gọi là Văn tuệ.” Pháp sư Khuy Cơ lại đưa ra hai giải thích:

1/ Nghĩa là tuệ giác là sự lắng nghe trước, thời gian sau, ý Địa lãnh thọ, đọc bài tụng và nhớ nghĩ v.v… mới là Văn tuệ. tuệ giác đầu tiên của năm thức kia đều lắng nghe và đều ý thức lắng nghe, đọc bài tụng là sinh đắc tuệ, vì không hiểu rõ.

2/ tuệ giác là trước hết, là Sinh đắc tuệ, hoặc lắng nghe; hoặc lãnh thọ; hoặc đọc bài tụng; hoặc nhớ nghĩ, đều là Văn tuệ. Do từ phương tiện của ý Địa, vì Văn tuệ đã dẫn phát, nhờ nghe mà tâm trở thành hiểu rõ, cũng là Văn tuệ.

Dù ý Địa lãnh thọ đọc bài tụng v.v… không sáng suốt hiểu rõ, nhưng đều là Sinh đắc tuệ.

Lại, nương tựa vào sự hiểu rõ không trái ngược trong nghĩa của danh, cú, văn thân, nghĩa là đối với nghĩa của năm minh Xứ, tuệ giác là đầu, đã khởi Văn tuệ. Nếu theo tát-Bà-Đa, thì Văn tuệ hoàn toàn dựa vào giáo. Tư tuệ hoặc ly giáo, như ba người tập bơi v.v…”

Luận Câu-xá bác bỏ: “Tư tuệ y giáo, chẳng khác với Văn tuệ. Nếu Tư tuệ lìa giáo, chẳng khác với Tu tuệ, thì sao lại chấp riêng?”

Luận ấy giải thích: “Dù Văn, Tư đều dựa vào giáo, nhưng văn không phân biệt, lựa chọn, còn tư hay phân biệt, chọn lựa, khác nhau, vì Tu tuệ lìa giáo.”

Nay, ba tuệ trong Đại thừa đều lấy giáo pháp. Nhưng văn, tư tuệ phân biệt lựa chọn khác với không phân biệt chọn lựa, do ở Định, trước là nghe, tư duy giáo pháp; tiếp theo, là tu tuệ nhập Định, “duyên” pháp và nghĩa.

Thứ ba là giải thích riêng trong năm minh Xứ. Đầu tiên, là phân tích về Nội minh Xứ. Văn có hai:

1/ Nêu bốn môn.

2/ Tùy giải thích riêng.

Bốn môn là:

1/ Lập bày về sự, nghĩa là lập sự thuộc về ba tạng.

Sự, là nghĩa của sự, nghĩa là vì nghĩa kinh, luật khác nhau. Lại là các nghĩa đã giảng nói, vì sự được dựa vào thể, nên đặt tên sự.

2/ Lập ra tưởng khác nhau. Nghĩa là chủ thể giảng nói về sinh. Do danh, cú, văn đều từ tưởng sinh, nên danh, gọi là Tưởng. Lại Tây vực, tức nhân sinh, nhiều nhân là tưởng. Lại, Danh v.v… không có tự thể, theo tếng giả lập, tùy theo Tưởng kia mà hiểu, gọi là chủ thể giảng nói (Năng thuyên), cho nên nói danh v.v… gọi là Tưởng.

3/ Gồm thâu nghĩa tướng của Thánh giáo, tức là nghĩa được Thánh giáo giảng nói, năng gồm thâu Thánh giáo.

4/ Do tướng Xứ sở ưng của Phật giáo, nghĩa là từ hai số sự mà Phật giáo đã giải thích được tăng tích, cho đến mười số thứ lớp được Phật giáo giải thích, gọi là sở ưng tri Xứ tướng của Phật giáo (chỗ đối tượng nên biết của Phật giáo).

Thứ ba, dùng lý nhiếp thâu giáo.

Thứ tư, lấy giáo làm rõ lý.

Tố-Đát-Lãm, Hán dịch là khế Kinh, Tỳ-nại-da, Hán dịch là Điềuphục-Ma-đát-lý-ca, nói là Bản Mẫu, nhóm hợp nghĩa các kinh, luận bàn giảng nói, vì Xuất danh nghĩa mà các kinh giải thích riêng, nên gọi là Bản Mẫu, tức xưa dịch là Tu-Đa-la, Tỳ-ni-ma-Đắc-lặc-già.

Trong tưởng sai khác có bốn Ốt-Đà-Nam (Tự thuyết):

Ốt-Đà-Nam đầu có mười hai môn; Ốt-Đà-Nam thứ hai có mười bốn môn; Ốt-Đà-Nam thứ ba có chín môn; và Ốt-Đà-Nam thứ tư có mười môn.

Câu, Nghĩa là sáu Xứ nội v.v… là giải thích tự tánh các pháp, gọi là Danh; pháp giải thích khác nhau, gọi là câu. Nay, pháp giải thích này khác nhau, nên gọi là câu. Lấy rộng gồm thâu hẹp, gọi là ở trong đó.

Câu có năm, nghĩa là Xứ, trung v.v… Nếu tám chữ sinh là câu Xứ trung. Đây là bốn câu, ba muơi hai chữ, gọi là Thất-lộ-ca. Văn Kinh, luận, phần nhiều dựa vào số này.

Văn xuôi, vô vấn và nói kệ, bài tụng, chỉ đầy đủ ba mươi hai chữ. Tên cũ là Thủ lô. Sáu chữ trở lên sinh, là câu đầu; hai mươi sáu chữ trở xuống, sinh là câu sau. Nếu bớt sáu chữ, sinh là câu ngắn; quá hai mươi chữ là câu dài. Vô lượng cảnh giới ở nơi chốn mười phương, thời gian ba đời, đều nói là Vô lượng.

Trong bốn chúng, chỉ nói bốn chúng nam tử, không có Ổ-ba-tư-cavà, Ổ-ba-tư-ca thuộc về Ô Ba Sách-Ca, chỉ từ giới làm tánh trong chúng tại gia, nên đặc biệt ly xuất. Như Địa Thanh văn giải thích: “Năm sự của Đại thừa, bốn Tầm, Từ, Như thật trí, Ba tánh, ba vô tánh.”

Như Quyết Trạch phần giải thích: “Bốn chân thật, năm chủng Đại thừa, năm vô lượng bất tư nghị oai đức, Thắng giải v.v…”

Như Bồ-tát Địa giải thích: “Cảnh giới của sáu Xứ nội trở xuống. Pháp mười bốn môn, gọi là Pháp Địa Thanh văn, năm việc của Đại thừa trở xuống, có công đức của mười bốn môn, là pháp của Đại thừa.

Bổ-đặc-già-la Không, Bổ-đặc-già-la Vô ngã pháp, tánh Không.

Pháp Vô ngã có sai khác: “Không”, là tự tánh của sở không (đối tượng không). Vô ngã, nghĩa là không có tác dụng của “ngã” và Nghĩa sai khác.

Lại “không”, nghĩa là lý “hai không”, Vô ngã nghĩa là đối tượng chấp (sở chấp), hoặc trái với thuyết này, nên có hai sai khác.

Quán hạnh trong Xứ. Nghĩa là như kinh Bát-nhã và Luận Trung Biên v.v… nói: Chẳng phải hoàn toàn là không; chẳng phải một bề bất không, xa lìa thêm, bớt, vì khế hợp nhiệm mầu với Trung đạo.

Tự tánh Đại Bồ-đề của năm tướng. Nghĩa là Hiển Dương quyển tám nói: “Nghĩa là vượt qua Thể chuyển y sở đắc của Nhị thừa.” Công năng. Là mười tự tại:

1/ Thọ mạng; 2/ Tâm; 3/ Chúng cụ; / Nghiệp; 5/ sanh; 6/ Nguyện; 7/ Thắng giải; 8/ Thần lực; 9/ Trí; 10/ Pháp.

Phương tiện. Là bốn thứ biến hóa:

1/ Hiện Bồ-tát vận hành biến hóa, hóa căn chưa thành thục.

2/ Hiện Như lai biến hóa, hóa căn đã thành thục. 3/ Hiện nhiếp Thanh văn biến hóa / Hiện điều phục Độc giác biến hóa.

Chuyển có hai:

1/ Tạm thời đối với các hữu tình chưa giải thoát thành Như lai vận chuyển giáo hóa không ngơi nghỉ.

2/ Rốt ráo khó tư duy công đức của Phật, vì các hữu tình, làm việc lợi ích, vận chuyển không ngơi nghỉ.

Hoàn. Nghĩa là luận gọi là Diệt, vì trở lại Niết-bàn, ở đây cũng có hai:

1/ Tạm thời đối với hữu tình đã giải thoát, Đức Phật tạm thị hiện nhập Niết-bàn.

2/ Rốt ráo, nghĩa là phiền não, tập khí và Khổ dứt hẳn.

Trong năm loại Đại thừa, Hiển Dương quyển tám nói: “Hạt giống, nghĩa là tức phẩm Chủng Tánh của Địa Bồ-tát. Thu nhập, nghĩa là tức phẩm Phát Tâm. Thứ lớp, tức là phẩm Trụ. Chánh hạnh, là các phẩm khác. Quả chánh hạnh, là Đại Bồ-đề Kiến lập hai phẩm.

Đầu tiên phát tâm, nghĩa là tâm Bồ-đề. Do hạt giống hữu tình, xót thương hữu tình là thu nhập Bồ-đề. Ba-la-mật-đa là thứ lớp các Địa. Nhiếp sự chúng sinh là tâm hạnh Đại thừa. Mình và người nối nhau thành tựu là quả chánh hạnh, quả của hai lợi đầy đủ, là của đức Phật.

Lại, đầu tiên nghĩa là hạt giống. Phát tâm, nghĩa là thu nhập. Thương xót hữu tình, nghĩa là thứ lớp Ba-la-mật-đa. Nhiếp sự của chúng sinh, tức là chánh hạnh, Tự, tha nối nhau thành tựu, là quả của chánh hạnh. Đây là thuận với phẩm Bồ-tát Địa, phối hợp giải thích văn này.

Giải thích năm vô lượng cũng như luận Hiển Dương quyển tám .

Nghĩa chân thật, tùy chín Chân như và Trí, Nghĩa là Chân như trùm khắp tất cả pháp, nên nói “biến chí”. Lại, vô phân biệt chánh trí cũng “duyên” Biến Chí Chân như, nên gọi là Tùy chí. Lại, chủng trí của Phật, gọi là trí Vô chướng ngại , không thể nghĩ bàn oai đức, thắng giải.

Bảy thức trụ, như giải thích trong pho sách đầu tiên.

Lại, quyển thứ mười bốn tự có văn.

Ba tánh thanh tịnh:

1/ Tự thể thanh tịnh tánh. Nghĩa là Đạo thanh tịnh tự thể của Chân như ở trước, cũng trụ tánh tự tánh.

2/ Cảnh giới thanh tịnh tánh. Nghĩa là trụ trong đạo, tức là dẫn tánh xuất, là đối tượng duyên (sở duyên) của chứng trí, gọi là cảnh giới thanh tịnh.

3/ Phần vị thanh tịnh tánh. Tức là Đạo Hậu chí đắc quả tánh, nghĩa là Vô cấu Như.

4/ Đạo lý: Là nhân, quả đối đãi nhau, chứng thành pháp nhĩ. Trong sự giả lập bày, đầu tiên là đối với pháp, giả lập hữu tình, sau, dựa vào Viên thành, trên tướng “năng thủ” (chủ thể lấy), sở thủ (đối tượng lấy) giả lập các pháp. Hoặc đối với tưởng Duy Thức giả lập các pháp.

Chứa giữ. Luận sư Cảnh nói: “Nghĩa là tức tập Hỷ, lạc, ái, chấp mắc A-lê-da kia.

Thế nào là Tư? giải thích là một Hành, như Đối Pháp nói: “Vì lấy một hành pháp trải qua các pháp, nghĩa là lấy một pháp và các pháp khác, mỗi pháp hỏi lẫn nhau. Trừ pháp này, lại lấy pháp thứ hai với pháp khác hỏi lẫn nhau.

Mỗi một pháp như thế, tất cả phải biết.

Văn Bà-Sa nói: “Dùng một hỏi một, dùng tướng không để hỏi tướng không . Lấy không đời nhất định gọi là một hành.”

Thuận với câu trước. Nghĩa là đối với pháp dùng bất cứ hai pháp nào xoay vần hỏi nhau. Nương tựa pháp trước để đáp câu hỏi. Dùng rộng hỏi hẹp, vì thuận với câu trước. Thuận với câu sau: Nghĩa là hai pháp xoay vần hỏi nhau, y theo câu sau để đáp câu hỏi, dùng rộng để hỏi hẹp, thuận với câu sau. Thể tất cả hẹp, tất nhiên, tức là rộng. Tự có thể rộng, chứ chẳng phải hẹp. Hoặc đối với điều đã hỏi, nên đáp hai câu, nên đáp ba câu, nên đáp bốn câu.

Trong đây, từ rộng để nói, chỉ nói bốn câu. Thể có rộng, hẹp hoặc khác nhau, nghĩa rộng hẹp, đồng nên thuật lại để đáp, cũng gọi là “đáp như thế”. Đối với câu hỏi không đúng lý, thì đáp rằng: “không đúng”, gọi là “đáp vô sự”, cũng gọi là “đáp ngăn dứt, rộng như trong Đối pháp quyển mười lăm”. Luận ấy nói: “Phân biệt, chỉ bày rõ, quyết định lựa chọn. Nghĩa là đối với các pháp như uẩn v.v… đã nói, tùy theo đối tượng thích ứng với pháp đó, tạo nên một hạnh thuận với câu trước, thuận với hai câu, ba câu, bốn câu sau, thuật lại câu có thể, câu ngăn dứt v.v…

Biện luận về quyết định lựa chọn. Nghĩa là dựa vào tám, tám là gì? Hoặc là lời hỏi đáp quyết định chọn lực tất cả chân, ngụy. Lại, nếu Bà-sa quyển chín mươi bảy nói rộng về bốn câu trong bốn câu nhỏ, bốn câu lớn và câu v.v… như thế.

Hai môn trong hai mươi tám cặp kia, môn v.v… ngũ tam, v.v… đều như sáu Quyết Trạch phần quyển mươi lăm v.v… đã nói. Trong đó, pháp Tâm, Tâm sở gọi là có sở duyên tương ưng, có hành tuớng, có sở y, pháp còn lại rất dễ hiểu.

Bốn pháp hành tích, nghĩa là Khổ, thông nhanh chóng v.v… (đến ở dưới sẽ giải thích)

Bốn pháp tích. Nghĩa là ba học tích, tức là Vô tham, vô sân, Chánh niệm, Chánh định.

Ba thứ hệ thuộc:

1/ Căn hệ thuộc lẫn nhau.

2/ Thức căn hệ thuộc lẫn nhau.

3/ Căn, cảnh hệ thuộc lẫn nhau.

Mười sáu thứ nhiếp. Như Quyết Trạch phần quyển năm mươi hai

và trong Đối Pháp quyển năm nói.

Năm tương ưng, cũng như Đối Pháp quyển năm; Quyết Trạch quyển năm mươi bốn nói.

Thấy, nghe, hay, biết. Quyển ba, chín, Du-già quyển mười ba, quyển thứ nhất Đối Pháp đồng giải thích về nghĩa: Thấy, nghe, hay, biết.

Hiển Dương quyển mười tám nói: “Cõi Vô Sắc không có giác, về sau, khởi ngôn thuyết. Vô Sắc đều không, nghĩa là vì sinh cõi Vô Sắc kia, nên không có ngôn thuyết cõi đó.

Sáu loại thứ lớp là:

1/ Thứ lớp lưu chuyển. Nghĩa là thứ lớp lưu chuyển mười thời gian như trẻ con v.v… hoặc thứ lớp mười hai nhân duyên.

2/ Thứ lớp Thành sở tác. Nghĩa là xuất gia, thọ cụ, tu bảy phương tiện, được Kiến đạo v.v…

3/ Thứ lớp tuyên thuyết. Nghĩa là bốn Chánh đoạn, đủ bốn tác dụng của chánh đoạn kia trong một sát na, để nói về thứ lớp, chứ chẳng phải bốn hiện hành trước, sau có khác, hoặc giảng nói các pháp, nêu, giải thích thứ lớp.

4/ Thứ lớp sinh khởi. Nghĩa là mười phần thời gian, hoặc thứ lớp sinh khởi của mầm, cọng v.v…

5/ Thứ lớp hiện quán. Nghĩa là chân tướng Kiến đạo trước sau.

Thứ lớp hiện quán trước,sau của sáu mươi ba v.v…

6/ Đẳng Chí. Nghĩa là chín định thứ đệ.

Tám thứ sở tác:

1/ Diệt y chỉ. Nghĩa là làm y chỉ cho nghiệp ác. Chuyển, làm chỗ nương cho điều thiện nảy sinh. Biến tri, là biết khéo léo; biết khắp Khổ, Tập, pháp duyên sinh v.v… vì sinh nhàm lìa.

Hỷ lạc: Là bốn thứ “sở duyên” Hỷ, lạc, Diệt, Đạo. Như Đối pháp quyển thứ mười một nói:

1/ Sở duyên đầy khắp có bốn, đó là phân biệt ảnh tượng vô phân biệt ảnh tượng; bờ mé khắp của sự; và sở duyên của sở tác thành tựu.

2/ Sở duyên tịnh hạnh có năm, nghĩa là năm thứ quán hạnh khác nhau: nặng về tham, nặng về sân, nặng về si, kiêu, mạn tầm tư.

3/ Sở duyên thiện xảo có năm, nghĩa là Sở duyên (đối tượng duyên) uẩn, giới, xứ, duyên khởi xứ, phi xứ, thiên xảo.

4/ Đối tượng duyên của Tịnh giới có ba, nghĩa là tướng thô, tĩnh v.v… chân như, bốn Thánh đế.

Bốn thứ chín, thứ Du-già, Địa Thanh văn dưới, Đối Pháp quyển chín nói.

Phương tiện Du-già lấy Tác ý, tuệ thắng giải làm tánh.

Quán ba việc: Có tướng, nghĩa là sự “năng duyên” (chủ thể duyên).

Bốn hạnh quán, như Đối Pháp quyển chín và Địa Thanh văn nói.

Quán sở duyên của sáu việc sai khác:

1/ Nghĩa: Là nghĩa sai khác của Khổ, Vô thường v.v… ở tiền phương tiện của Kiến đạo.

2/ Sự. Nghĩa là tác dụng của các việc, nhóm họp có tác dụng sinh khổ, có nhân.

3/ Ba tướng. Nghĩa là thể tướng của Diệt đế.

4/ Phẩm. Nghĩa là phẩm thượng, Trung, hạ của các pháp, hoặc vì Đạo đế có phẩm loại của ba thừa.

Kế là ba thứ trên ở địa vị Kiến đạo.

5/ Thời. Nghĩa là ở Tu đạo, thời gian sau Kiến đạo mà khởi. Hoặc lý ba đời.

6/ Đạo lý; là ở đạo Vô học. Hoặc sự, nghĩa là uẩn, giới, xứ v.v…

Thời, nghĩa là ba đời. Đạo, lý, nghĩa là bốn thứ Đạo lý.

Năm thứ giáo thọ:

1/ Giáo, giáo thọ, truyền trao cho giáo pháp.

2/ Chứng giáo thọ, trao cho pháp lý.

3/ Giáo thọ thứ lớp, trao cho pháp môn quán hạnh.

4/ Giáo thọ không có trái ngược, trao cho ba thứ ứng cơ ở trước không có lộn xộn.

5/ Giáo thọ thần biến, trao cho thần thông, khiến giáo hóa chúng sinh. Tướng nghĩa của Thánh giáo thuộc Minh thứ ba trong bốn môn Nội minh. Chính giữa có mười pháp năm cặp.

Ý của Thánh giáo, hợp với dứt ác, tu thiện, ngược dòng, tận nguồn, dùng làm nghĩa Thánh giáo kia. Thiện, có chủ thể tu, đối tượng tu, chủ thể chứng, đối tượng chứng. Ác, có hiện-hành và nghĩa hạt giống chiết phục, dứt trừ. Năng tác “sở tác” đầu tiên trong đây, cả hai đều là pháp thiện.

Tiếp theo, pháp Khổ, Tập đế nhiễm ô, tai hoạn lỗi lầm.

Ba hữu che lấp hữu thuận, nghĩa là pháp thiện phiền não.

Bốn hữu, thật có các pháp vô lậu, hữu vi, vô vi vượt hơn.

Năm hữu thuận với “hữu” đắc, nghĩa là pháp thế gian, xuất thế gian.

Nên tập, nên dứt và dứt xong pháp hiện hành (pháp hiện hạnh dứt xong). Luận sư Cảnh nói: “Pháp thiện hữu lậu trong phần vị chưa dứt là đối tượng nên tu. Do có thô, nặng, gọi là nên đoạn, tức pháp thiện này dứt trừ thô nặng. Về sau, vẫn hiện hành, gọi là dứt xong pháp hiện hành.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nên tập, nghĩa là pháp thiện. Nên đoạn, nghĩa là pháp nhiễm ô, dứt xong hiện hành, nghĩa là vô phú, vô ký.

Từ đây trở xuống, là phần thứ tư, nói trong tướng sở ưng tri xứ của Phật giáo có hai:

1/ Thêm mười pháp môn.

2/ Kết.

Đầu tiên, là mười đoạn. Trước là nói về ba thứ:

Môn hữu tình, tức trụ có ba, phải dựa vào hữu tình, mới có tình, và phi tình. Nhân và quả; nhiễm và tịnh; sinh tử, và Niết-bàn; hữu vi; và vô vi v.v… Thêm hai môn v.v… đã nói các pháp, nên đầu tiên, nói về ba thứ:

– Môn hữu tình, thêm hai pháp môn có hai bốn cặp. Lại có hai pháp có thể giúp cho hữu tình bên trong, chánh Tác ý, ngoài, nghe âm thanh v.v… của người khác, nghĩa là trong Tác ý, ngoài nghe âm thanh khác là hai nhân duyên do hai pháp. Nay, hai nhân duyên này hiện nhập hiện quán thích hợp với các căn thành thục.

Về kinh sâu mầu mà đức Như lai đã nói, nghĩa là ba tánh của Giải-Thâm-Mật v.v… làm sáng tỏ giáo.

Giống với “không” thậm thâm tương ưng với kinh, nghĩa là Bát Nhã v.v… giống với kinh thậm thâm này.

– “Duyên” tánh. Là tánh Viên thành thật.- Duyên khởi. là tánh y-tha khởi.

BẢN LUẬN QUYỂN 14

Thêm ba, có ba mươi thứ môn. Nói mười tướng, nghĩa là hoại sinh mạng v.v… Chữ “hoại” ở đây là nói chung cho mười nghiệp ác trở xuống, vì quan hệ với tướng nghĩa. Y cứ ở tướng nghĩa này để nói về ba môn chủng căn dùng làm môn đầu. Ngữ tạp nhạp, nhơ bẩn, gọi là hoại. Sự nghiệp đã làm. Nghĩa là đối với sự nghiệp chân chính, không chân chính, mà nói, gọi là vì nói lời thêu dệt.

Trong ba môn. Luận sư Thái nói: “Bỏ bảy sắc thiện, gọi là nghiệp hủy hoại. Hoại Vô tham, sân, sinh ý lạc thiện, gọi là ý hủy hoại. Hoại các tánh phương tiện như Từ-bi v.v… gọi là phương tiện hoại.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Bảy thứ tác nghiệp hủy hoại trước, nghĩa là vì bên ngoài, phô bày thân, ngữ mà tạo nghiệp.

Theo thứ lớp đó, hai thứ ý nghiệp hủy hoại, đó là Vô tham, Vô sân, chánh ý lạc.

Một thứ phương tiện hủy hoại sau cùng, nghĩa là chánh kiến, chính là nhân của chánh trí.

Nói ba căn: Luận sư Cảnh nói: “Ba thứ tham, sân, si năng sinh ra mười môn nghiệp đạo.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Ở đây Nói mười nghiệp là lấy tham, sân, tà kiến làm gia hạnh, tùy theo sự thích ứng làm rốt ráo. Hoặc đây là nói riêng về ba nghiệp đạo của ý.”

Bị Luận sư nói: “Hỏi: “Nghiệp đao tà kiến chẳng phải là căn bất thiện, đâu thuộc về ba căn? Vấn đề này có ba giải thích:

1/ Nói tà kiến tuy chẳng phải căn, nhưng từ nhiều gọi là Căn.

2/ Nói tà kiến vì đều khởi các căn si, nên theo nhau gọi là căn.

3/ Nói căn thứ ba, tức là Vô minh. Do tham, sân, si, vì mười nghiệp rốt ráo, nên lập làm căn. Không y cứ mười nghiệp gồm thâu thành ba căn.

Văn của môn thứ hai được chia làm hai:

1/ Nói về ba pháp dựa vào bốn Xứ, sinh ra ba Tầm.

2/ Nhân nói về bốn thứ của pháp nội.

Trong phần đầu, tham dục là nhân, sinh tử tăng trưởng, gọi là hạt giống của tà pháp.

Dựa vào bốn nơi chốn.

1/ Bốn bạch pháp như lợi v.v… của tự thân.

2/ Oán.

3/ Vừa chừng.

4/ Thân.

Bốn phẩm bạch; đó là Lợi, dự, xưng, lạc.

Bốn phẩm hắc, đó là suy, hủy, cơ, khổ:

1/ Đối với lợi của mình, nảy sinh Tầm, Tư dục, vì mong cầu được, không mất.

2/ Đối với các oán phẩm, nảy sinh Tầm, Tư Nhuế, cho đến vì muốn cho mạng người kia bị cắt đứt.

3/ Đối với phẩm bạn thân, sinh ra Tầm, Tư hại, chỉ vì tổn não.

Luận Bà-Tu-Mật quyển hai nói: “Hai thứ lợi, suy, nếu dựa vào hữu tình, lấy mười bảy giới. muời một Xứ, năm uẩn làm tánh, trừ âm thinh xa, vì không thành chất. Nếu đối với phi tình, lấy bốn giới, bốn Xứ,một uẩn làm Thể, trừ âm thinh như trước.”

Theo Tỳ-Bà-sa thì: Lấy mười tám giới; mười hai Xứ và năm uẩn làm Thể. Dựa vào phi tình, sáu cứ làm thể, năm trần và bốn tướng.”

Theo Luận Câu-xá của Sư kinh bộ nói: “Suy không có tự thể riêng, vì mất vật, gọi là “suy”. Nay, vì y cứ ở người hay mất để nói về “suy”, nên lấy mười tám giới làm thể. Trái với suy, nói về lợi, cũng lấy muời tám giới làm tánh.

Xưng, hủy, dự, cơ, luận Bà-Tu-Mật cho rằng, Thể của chúng đều là tiếng. tát-Bà-Đa thì cho l à: danh, cú, văn-thân. Ở đây kết hợp lấy tiếng, danh, cú, văn làm thể; Thể của hai thứ Khổ, vui tức là thọ. Như Luận Phật Địa nói tưởng mà không ngoài Thể.

Cõi phiền não. Nghĩa là hướng về quả, tức là ở nhân mong cầu “dục hữu”, tà phạm hạnh khởi lên. Đây là y cứ phiền não để nói về ba mong cầu. Dưới đây, là y cứ ở con người để nói về ba mong cầu, nên thành hai môn.

Trong ba oai thế, vì thần thông vượt hơn, nên chỉ nói về sai của “sinh hữu” trong “nghiệp hữu”, cũng có thể vua thuộc trong dị thục, hường về “Hữu” và Sinh, Bản, Tử hữu.

Trong ba Vô minh đều nói là mé trước. Nghĩa là Vô minh phát nghiệp, gọi là mé trước; Vô minh nhuận sinh, gọi là mé sau.

Ba suy thối. Nghĩa là Hữu hoc phàm phu, do nói bậc Thánh chưa rốt ráo, nên biết Hữu học đều có ba thối lui: có thối lui bệnh, già và chết.

Chi quả Dự Lưu trong ba cao cử, nghĩa là nếu theo Bà-sa, thì chi quả Dự Lưu có bốn thứ pháp:

1/ Gần bạn lành.

2/ Nghe pháp.

3/ Suy nghĩ đúng như lý.

4/ Tùy pháp hạnh.

Trong đây, nói chung là chi quả. Dưới đây, nói về bốn chứng trong bốn pháp. Về nghĩa của chi Dự Lưu, đồng với Bà-sa.

Sở y của ba ngôn thuyết là tướng dứt bặt, không thể nói năng. Chẳng phải như hữu vi ba đời có các thứ khác nhau về sinh, diệt v.v… nên nói là năng sinh.

Lại có ba tướng có công năng gồm thâu tất cả tự tướng v.v… của sắc pháp. Văn chia làm hai:

1/ Nói về sắc nhập, chia làm ba tướng, đó là Hiển sắc, Hình sắc và Biểu sắc.

2/ “Đối với nơi chốn của mình…” trở xuống, nhân luận sinh luận, đại khái nói về các sắc. Tổng cộng có mười Sắc và Sắc của Địa định. – Hỏi: “Vì sao không nói Vô tác v.v… của cõi Dục? – Đáp: “Vì bỏ giả, nói về thật, cho nên không nói.”

Luận sư Cảnh nói: “Nếu được định tịnh, cho đến chưa mãn quả của tâm biến hóa: Nghĩa là nếu theo chánh lý, thì sẽ có ba thứ tâm:

1/ Định tịnh.

2/ Thể của thần thông.

3/ Quả của thần thông. Nghĩa là tâm biến hóa này, tông Đại thừa nói đều là hệ thuộc Sắc, trong đó, bốn tâm là đối tượng biến hóa của cõi Dục, nghĩa là tướng phần biến hóa, tùy thuộc ở Kiến phần, đều hệ thuộc trói buộc cõi Sắc. Nhưng với hữu tình cõi Dục, tâm biến hóa khác với bản chất, khiến cho thức của người khác thay đổi.

Nói cảnh giới của hóa tâm nội. Nghĩa là dựa vào định tịnh, tạo ra sắc biến hóa, hiểu là biến hóa dẫn sinh tâm người khác. Trong khoảng tâm chưa được, thì phải tịnh định tâm, tất cả các sắc. Phải, tịnh định cảnh như thế, tịnh định là khởi nhân biến hóa, cũng gọi là Sắc biến hóa.

Mười bốn tâm biến hóa, ngoài định là tâm tán, vì phân biệt ngoài định kia, nên gọi là hóa tâm nội, tức là sắc do định tịnh này hiện ra cũng gọi là quả của tâm biến hóa chưa mãn. Nếu khởi hóa tâm thì gọi là quả đã mãn của tâm biến hóa.

Mười tám giới nội dường như cõi Dục mà chẳng phải cõi Dục, là tướng phần của hóa tâm, tướng của cõi trên. Nếu tâm vô lậu cõi Dục kia biến hóa giống như tướng ba cõi thì gọi là ba cõi, thật ra chẳng phải ba cõi, làvì Vô lậu. Đức Phật thể hiện việc biến hóa cũng thế.

– Nếu vậy, tướng đã biến hóa của người biến hóa, người khác có được nhìn thấy không?

– Giải thích rằng: “Dù chẳng nhìn thấy trần mà người khác đã hóa sinh ra, nhưng do sức tăng thượng của trần mà người khác đã biến hóa, nên người khác đã được biến hóa, mới trông giống với tướng mà người biến hóa đã hóa hiện ra.

– Nếu vậy, hương, vị hóa ra có trói buộc cõi trên hay không? Giống như hương, vị mà thật sự chẳng phải hương, vị, đến nỗi để cho có hương, vị của cõi trên, cũng không trở ngại khó khăn, tức là y theo nghĩa này giống nhu cõi Dục mà chẳng phải cõi Dục. Như thế, giống như mười tám giới mà chẳng phải mười tám giới, chỉ thuộc về pháp giới.” Luận sư Bị nói: “Sắc có ba tướng:

1/ Có đối, có kiến, tức là biểu hiển hình.

2/ Có đối không có kiến, tức là cảnh giới định.

3/ Không có đối, có kiến: là tất cả cảnh, phải biết rằng, tất cả ba tướng đều có hai thứ:

a/ Mười sắc: Là hai tướng trước. b/ Sắc định: Tức là tướng thứ ba.

Sắc cảnh sở duyên của ba giải thoát đầu tiên trong tám giải thoát, vì chưa hội nhập cảnh “sở duyên” trước của tâm quả chánh thật, nên gọi là chưa mãn.”

Luận sư Thái nói: “Từ định tịnh khởi ra quả chung. Tâm của quả chung được dẫn đến hóa tâm thật, cho nên lúc tu phương tiện, đã được tâm tưởng biến hóa, phải biết, sắc này đều là cảnh của hóa tâm nội, thuộc về Pháp Xứ, chưa có khả năng khiến cho người khác thấy rõ biến hóa ra trần. Tâm của quả thông được gọi là tâm chưa mãn; đối tượng Hiển Sắc nọ cũng là quả của hóa tâm chưa mãn. Nếu từ tâm của quả chung khởi biến hóa đầy đủ thì các sắc đã được biến hóa, sẽ có thể khiến cho người khác thấy, nghe, hay, biết, tức thật biến hóa, thuộc về

mười sắc, tùy tâm “năng biến” mở ra Địa hệ thuộc giới.” Pháp sư Khuy Cơ có hai giải thích:

1/ Ba thứ sắc này đều gồm thâu hết tất cả sắc.

a/ Sắc có kiến, có đối. Nghĩa là: Hiển, Hình, Biểu sắc. Biểu trong

đây gọi là tác dụng, nghĩa Biểu tác, biểu thị tác dụng.

b/ Sắc không có kiến, có đối. Nghĩa là bốn sắc trần khác của năm căn. Luận rằng: “Đối với Xứ của mình bị các sắc v.v… khác chướng ngại…” trở xuống, là tổng kết hai sắc trên: Nói “Nên biết, tất cả gồm có mười sắc.

c/ Sắc không có kiến, không có đối, nên nói rằng: “Và sắc của Địa định.”

Nay, nói ba sắc thuộc về thân mình, cho nên, chỉ nói về các sắc mà người tu phương tiện kia đã có, tức là cảnh của hóa tâm nội, cũng là quả của hóa tâm chưa mãn. Nếu chính là sắc mà quả chung đã biến hóa, thì cũng thuộc về người khác, nên ở đây không nói. Lại, nếu được định tịnh là sắc của quả chung thì người tu phương tiện, là người đó nhân sắc, sắc của quả Thông của họ, tức là cảnh của hóa tâm nội. Sắc của phương tiện kia, chính là quả của hóa tâm chưa mãn, vì cảnh là quả của tâm.”

2/ Nói “Ba tướng, Nghĩa là chỉ ba Hiển, Hình, Biểu trong Sắc Xứ rất vượt hơn, cho nên nói riêng.

Đối với Xứ của mình đã bị sắc khác gây chướng ngại: nghĩa là nhân trước, sau, mà nói mười một thứ sắc.

Ba pháp quán tánh Vô thường của thân, ngữ, ý. Nghĩa là do hơi thở ra, vào vì sắc thân chuyển động, nên thân là Vô thường; do Tầm, Từ, mà tiếng nói được khởi, nên ngữ là Vô thường; do tưởng, tư, nêu ý được hiện hành ra đời, nên ý là Vô thường.

Ba nêu tội: Thấy, nghe, nghi. Trong ba dục, phần nhiều dùng công sức nương tựa, “duyên” các dục, nghĩa là hiện tiện bám trụ tất cả các dục: Bốn dục dưới, trời dục, phần nhiều dựa vào các duyên hiện tiền sinh khởi; dụng công niệm, tưởng, mới từ cõi kia sinh, hoặc do công dụng của nghiệp Dị thục, mới bắt đầu thành thục.

Ba giác ngộ: Ba, cũng là ba tuệ, như thứ lớp phối hợp, dù ba thừa sau đều có ba tuệ, nhưng vì y cứ ở tưởng tăng, cho nên nói thế.

Ba nhãn: Là Pháp nhãn, vì cũng được xếp vào tuệ. Luận này nói về nhân, quả ba thừa đồng có, không nói Phật nhãn. Nếu theo Hoa Nghiêm thì có mười nhãn, ba thứ tâm một tánh cảnh .”

Như thứ lớp đó, tức là đầu tiên, tập nghiệp xong, tập hạnh xong, vượt qua ba thứ tác ý tương ưng với định. Lại, thứ nhất là văn tuệ, Tư tuệ; thứ hai, là tu tuệ thế gian; và thứ ba, là tuệ tương ưng với định.

Thứ ba, là vượt qua. Nghĩa là trí phân biệt tương ưng với định. Lại, văn, tư, tu tương ưng với Đẳng-trì, sinh ra chân trí kiến Vô lậu.

Hành, nghĩa là chủ thể duyên (năng duyên). Tướng, là Thể của cảnh. Vì là tướng của hành sở hành, nên gọi là Hành tướng. Hành tướng này thông qua nghĩa Đẳng-trì Vô lậu. Giải thích về trí Vô phân biệt, vì không có hành tướng. Hoặc vì tướng trạng của hạnh giải, nên gọi là Hành tướng.

Trên đây là dựa vào giai đoạn của ba tuệ hữu lậu để giải thích.

Đối trị ngoại đạo lấy nước để rửa sạch vết bẩn, nhằm nói ba tịnh nghiệp: Tức là ba tịnh nghiệp thân, ngữ, ý.

Nói chỗ sinh bất tịnh, vì vượt qua nhân, nghĩa là ba đường ác, tám không rảnh rang, gọi là chỗ sinh bất tịnh.

Hai tịnh nghiệp, gọi là vượt qua nhân kia.

Ba nghiệp Mâu-ni: tức là ba nghiệp thiện.

Ba pháp, trừ tầm bất chánh, nghĩa là do người khác bị chê bai, cho đến khởi tàm quý, ái kính, nghĩa là đối với người khác bị chê bai, cảm thấy thẹn, vì nhìn người khác xấu hổ. Về phần mình bị chê bai, cảm thấy tủi hổ, vì gẫm lại mình mà hổ thẹn.

Thối lui, mất lợi lớn, nhận thức sâu sắc về nhân duyên, sinh gấp bội tin tưởng dần, gọi là yêu kính, nên gọi là mất lợi lớn.

Hoặc đối với ba Xứ, đều có thể khởi cả ba, không cần phối hợp riêng.

Ba thứ Vô thượng hơn hết:

1/ Trí vô thượng. Nghĩa là trí Vô ngã trong ba trí là căn bản. Hai trí đều là phương tiện, do ba trí này thể nhập Đế quán, cho nên nói riêng.

2/ Hạnh vô thượng. Nghĩa là bốn Hạnh tích.

3/ Giải thoát Vô thượng. Nghĩa là giải thoát của tâm bất động. Đối với giải thoát của thế gian, xuất thế gian, giải thoát của Hữu học, vô học; và thời giải thoát, giải thoát của tâm bất động kia là tối vô thượng.

Ba minh. Nghĩa là do ngu các pháp nhân duyên của đời trước, nên khởi thường kiến; vì ngu pháp quả mé sau nối nhau, nên Khởi đoạn kiến. Vì các phiền não ngu hết, an trụ Niết-bàn, nên Khởi tà kiến. Vì lìa ba thứ ngu này, nên lập ba minh.

Trong tăng bốn, có bốn mươi sáu môn, cũng có Tương vì là một môn.

Niệm trụ. Thể tức là tuệ, vì tương ưng với Niệm, tuệ, mới trụ cảnh.

Nói có bốn pháp năng gồm thâu tất cả sở tri và trí. Nghĩa là tất cả các pháp không ngoài Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Tất cả trí tuệ đều không ngoài thể của bốn Niệm, trụ, vì tất cả trí đều “duyên” bốn cảnh như thân v.v… mà Khởi.

Bốn thứ ràng buộc. Luận sư Cảnh nói: “Đại khái năm uẩn là bốn cảnh, bốn cảnh tức là sự ràng buộc, bởi vì tướng cảnh giới hay ràng buộc tâm, nên hay “duyên” phiền não, gọi là sự buộc ràng thô nặng.

Luận chép: “chấp lấy sự ràng buộc, nghĩa là lấy sắc thân kia làm chỗ chấp cho Lại-da. Đối tượng chấp lấy này tạo ra cảnh ràng buộc tâm, gọi là sự ràng buộc chấp lấy. Cũng có thể cảnh sắc năng trói buộc tâm chấp lấy, gọi là sự ràng buộc chấp lấy.

Nói về văn dưới đây, thì nói Mạt-na là ràng buộc tướng Mạt-na, bên trong ràng buộc tướng Lại-da mà khởi, gọi là ràng buộc tướng. Phải biết rằng, tâm đối với thân, do chấp lấy chủ thể ràng buộc, nghĩa là khi tâm sinh chấp lấy sắc thân, tức là bị cảnh giới của thân kia ràng buộc.

Nói đối với Thọ, do sự ràng buộc của lãnh, thọ bên trong, tức Thọ là, cảnh giới sinh ra tâm chấp lấy, chấp ba thọ kia nhất định hay lãnh nạp. Về sau, dùng Thọ niệm trụ đối trị.

Nói đối với tướng của cảnh giới như sắc v.v… do phân biệt rõ chủ thể ràng buộc, đối tượng bị ràng buộc, đều chấp Thức uẩn phân biệt rõ (liễu biệt) cảnh trước, và Tưởng uẩn chấp lấy tướng cảnh giới, tức là Thức uẩn kia và Tưởng uẩn bị cảnh ràng buộc. Về sau, lấy tâm niệm trụ làm đối trị.

Nói “Tức đối với thân đã nói v.v… là do Đại, Tiểu phiền não như tham, sân, v.v… chấp mắc chủ thể ràng buộc (năng phược), đối tượng ràng buộc (sở phược). Nghĩa là chấp Đại, Tiểu, phiền não trong Hành uẩn, “duyên” thân v.v… mà sinh, tức Hành uẩn đó, dựa vào sinh mà ràng buộc. Về sau, lấy pháp Niệm trụ làm đối trị.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Bốn ràng buộc, nghĩa là chấp ngại tâm kia, nên gọi là ràng buộc, chẳng phải tâm, mà chủ yếu là tánh ràng buộc của phiền não, do tâm dựa vào chấp thân làm tự, thể, ma thân lại ràng buộc tâm. Do tâm đều thọ lãnh sâu sắc đối tượng duyên, tức là ràng buộc đều có với tâm. Do tâm phân biệt hiểu rõ về sắc v.v… là cảnh giới. Cảnh bị phân biệt chính là câu thúc nơi tâm, tức do ba pháp thân v.v… như trước tương ưng với phiền não, vì đều có nhiễm não tâm, nên gọi là ràng buộc.

Quán cảnh bốn vi, sinh, chán tai hoạn sâu sắc, lập bốn Niệm trụ. Thân nội bi nương tựa ràng buộc tâm hay nương tựa “năng duyên” (chủ thể duyên) đều thọ năm phần vị, phân biệt thường và tâm đều đi chung. Cảnh giới bị phân biệt ràng buộc tâm, chủ thể phân biệt, và các phiền não tạp nhiễm đều đi chung với tâm, cho nên lập bốn ràng buộc.

Lại, có bốn thứ dục, siêng năng là trước, cho đến được pháp thiện và làm cho tăng trưởng, tức là bốn chánh đoạn. Đoạn các pháp bất thiện hiện hành, là Luật nghi đoạn. Dứt sự trói buộc kia, nghĩa là đoạn đoạn. Vì pháp ác chưa sinh, gọi là trói buộc kia, nên hay được pháp thiện, nghĩa là tu tập đoạn, và năng tăng trưởng, nghĩa là ngăn ngừa, giữ gìn đoạn (phòng hộ đoạn).

Lại có bốn thứ là tâm dục trụ, cho đến quán sát các pháp. Đây là giải thích về bốn thần túc. Về nghĩa có hai lớp:

1/ Lấy Thể định làm thần, vì tác dụnh khó so lường. Dục v.v… làm nhân sinh định, gọi là Túc. Y cứ ở bốn túc kia lấy định đã sinh.

2/ Dựa vào công đức của định, gọi là Thần, vì khó xét nghiệm so lường. Bốn thứ như, cần v.v… sinh ra thể của định, và công đức do kia sinh ra là Túc.

Lại có bốn thứ tâm định, tâm trụ. Nghĩa là phân biệt Địa tán, gọi là tâm định, trong trụ một cảnh, gọi là trụ tâm.

Bốn thứ Sở tri chân thật, tức là bốn Đế. Bốn thứ tưởng là sự ràng buộc của hí luận ở trước. Nghĩa là vì dựa vào bảy Hữu tướng, nên trừ Hữu Đảnh.

Xả Vô lượng chỉ nói trừ dục tham, nghĩa là đồng với Luận Trí Độ, như hội trong ký quyển mười hai có nói.

Lại, có bốn thứ chí lạc để tu Chánh đạo. Ở đây, giải thích bốn Thánh chủng. Trong đây, “cho đến tâm lìa tán loạn”, là giải thích ba chủng Thánh.

Kế là “người ưa dứt trừ phiền não, tu Chánh đạo, đó là chủng Thánh thứ tư.

Kế là nói về bốn thứ chi Dự Lưu, tức là bốn Bất hoại tịnh, hai tín, giới làm Thể.

Lại, nói về bốn chi Dự Lưu, lại đồng với Bà-sa.

Bốn trí là:

1/ “Duyên” cõi Dục, gọi là hiện thấy, tức là Pháp Trí.

2/ Chẳng phải hiện thấy, tức là Tỷ Trí.

3/ Đẳng-trí.

4/ Trí tha tâm. Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “Trí Tha tâm hữu lậu không biết tâm vô lậu, cũng không biết tâm kia năng “duyên” Tự chứng phần v.v… Không biết “trí năng tri ” kia, nghĩa là vì tự tâm không tự thấy. Trí Tha tâm vô lậu có thể biết tâm hữu lậu, vô lậu, cũng biết trí “Năng tri”.

Ba phần chung sau trí Phật có thể tự biết, nhưng chưa hẳn tạo ra bốn hạnh cũng Đạo, cũng chưa hẳn chung với người khác.

Nay, giải thích rằng: “Trí tha tâm có cả hữu lậu không biết tâm vô lậu: Đây là y cứ ở Nhị thừa mà nói thế này: “Trí tha tâm hữu lậu của Bồ-tát vì cũng có thể biết tâm vô lậu, nên Luận Trí Độ quyển bốn mươi nói: “Bồ-tát chưa thành Phật, làm sao biết được tâm vô lậu của Thanh văn, Bích Chi Phật?”

Đáp: “Đối với pháp Thanh văn của ông, Bồ-tát trong Ma ha diễn lại được Pháp Nhẫn Vô sinh dứt trừ kiết, sử, đời đời thường không mất sáu thần thông, do Trí tha tâm hữu lậu có thể biết tâm vô lậu, huống chi dùng Trí tha tâm vô lậu.

Lại, Trí tha tâm không của Bồ-Tát trong Đại thừa biết vô lậu của ba cõi. Tất cả tâm, tâm pháp đều có thể thông đạt, như trong Luận Thập Địa nói: “Sinh, nghĩa là tâm trong con người nhỏ hẹp; tâm của các trời cõi Dục rộng. Hai tâm giải thoát của cõi Vô Sắc, Trời Sắc, cho đến vô lượng. Như kinh nói: “Tâm nhỏ, tâm rộng, tâm vô lượng.” Bồ-tát dùng trí tha tâm niệm biết như thật.”

Hỏi: “Vì sao không nói là biết tâm của bốn Vô Sắc, mà chỉ nói hai giải thoát của Vô Sắc?”

Đáp: “Vì tâm của hai “không ở trên, chẳng phải vô biên, chẳng phải vô lượng, cho nên không nói.”

Kế là Trí Bốn Đế, lại, có bốn pháp hay dứt hết lậu, có ba thuyết:

1/ “Tức bốn pháp tích, trong đạo Vô học, Tu đạo, Kiến đạo, của bảy phương tiện, vì khả năng dứt hết lậu trên, nên là dấu tích đủ.” 2/ Bốn dấu tích (dấu ấn): a/ Được tuệ hữu lậu, tức là bảy phương tiện. b/ Địa vị Kiến đạo đã thiếu các phiền não và việc nghiệp quả . c/ Địavị Tu Đạo Vô dư, dứt hẳn các sự phiền não.

d/ Vọ học đạo Vô dư, dứt trừ hẳn các sự phiền não. Thông suốt

qua ba Xứ trên, trừ tuệ hữu lậu.

3/ “a/ Tuệ hữu lậu là Đạo gia hạnh. b/ Đạo vô gián thiếu các phiền não. c/ Đạo giải thoát thiếu các sự, trừ các thô nặng và pháp quả. d/ Vì Vô dư dứt các sự phiền não. Như, trước đã được chuyển đổi lại tu tập là Đạo Thắng Tấn.

1/ Hộ. Luận sư Thái nói: “Y cứ Thích Luận của Tối thắng tử nói: “Lìa bất bình đẳng, gọi là Mạng hộ; uống ăn biết độ lượng, gọi là Lực hộ; tư duy, lựa chọn, tu tập hai lực, tức Phiền não hộ. Chính đáng lìa gia hạnh Vô phân biệt Trí là chánh phương tiện.”

Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “1/ Mạng hộ. Nghĩa là gìn giữ mạng căn người khác mà không gây hao hụt, hu hoại; hoặc giữ gìn chánh mạng của mình, không khởi nghiệp ác.

2/ Lực hộ. Nghĩa là bảo hộ Trí tuệ, dẹp trừ các ma oán. Hoặc giữ gìn thân lực, vì lợi ích cho người khác. Hoặc gìn giữ năm lực, dẹp tan ma oán, không chịu khuất phục.

3/ Tâm phiền não hộ. Nghĩa là giữ gìn đối với các phiền não, không có tâm nhiễm ô. Vì bảo hộ chánh pháp, nên khởi các phiền não.

4/ Sai khiến người ác phá hoại chánh pháp. Nghĩa là chánh phương tiện hộ, dùng phương tiện khéo léo để tập hành chánh pháp. Lại, có bốn hạng có khả năng được Chánh Kiến cho đến chuyên chú vào một “duyên”.

Pháp sư Thái nói: “Thích ứng với bốn Pháp tích này, do ba thứ Vô tham, vô sân và chánh niệm, nên lúc thực hành thanh tịnh. Do về sau, khi trụ chánh định, được thanh tịnh, nên có khả năng giải thích Luận.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Đối với các cảnh, không thuận, không tham; đối với cảnh, không trái, không sân; biết đúng mà thực hành, không si. Ba thứ hành này lúc “duyên” các cảnh hạnh, chánh hạnh thanh tịnh, chuyên chú một “duyên” chánh niệm. Từ đây về sau, lúc một thức trụ thanh tịnh.”

Luận sư Cảnh nói: “Ba tâm tán trước “duyên” cảnh, gọi là lúc thực hành thanh tịnh; một thứ sau thì trụ chỉ định, gọi là thời gian trụ thanh tịnh.

Bốn hạnh năng chứng minh và giải thoát: do niệm lực, nên được Túc mạng minh; do nhãn, được Tử sinh trí minh; do tuệ, được Lậu tận minh. Lại, một minh sau, vì dựa vào thân, nên chứng hai giải thoát thân, tức là thân năm uẩn.

Bốn nghĩa là tánh động nhẹ v.v… Pháp sư Khuy Cơ nói: “Gió hay tạo và bị tạo, vì giống với nhẹ, nên gọi là nhẹ v.v… do tánh gió lay động, nên gọi là tánh lay động nhẹ v.v…

Kế là bốn cách ăn. Bốn pháp là dấu vết đủ của Thức, Nghĩa là bốn thức trụ. Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “Kiến đã thu hướng năm sắc căn; thủ là sáu sắc cảnh sở duyên, cảnh giới sở y, “câu hữu”, như thứ lớp phối hợp căn, pháp xứ, năm trần, nay cũng có thể là cảnh giới năm căn sở y, năm trần rơi vào sắc của Pháp xứ, đều cũng có Kiến lập, nghĩa là thức với căn, cảnh không lìa nhau mà kiến lập.

Bốn thứ ái mong cầu. Nghĩa là “Hữu ái” “có”, “không”, hớp thành thứ tư. Không hiểu rõ Niết-bàn là do dứt phiền não mà được, lại chấp thân đoạn, tức là Niết-bàn, rồi chấp tự thân ngang đây không có. Ái thân kông có cái có, gọi là không có “ ái”.

Bốn pháp khiến cho tác, không nên tác. Cái gọi là tham, sân, sợ hãi, vô minh.

Bốn vấn hý luận: đó là: Bốn luận như Nhất Hướng Ký, v.v…

Bốn ký của Nhân: đó là đối với Thật tướng của pháp, như hỏi: “Pháp thân của Như lai là chân giác tánh v.v… nên hoàn toàn ghi nhận, nói là rõ ràng như thế.”

Hỏi: “Quả của người hơn, kém, nên phân biệt ghi nhận. So sánh với trời là kém, so với người là thì hơn, giấu kín chẳng hiển rõ ràng. Hỏi về nghĩa cũng chẳng phải một bề hỏi. Hỏi: người hơn, kém, lẽ ra là Cật vấn ký: “Ông hỏi về phương diện nào?” Như thế, xoay vần quan sát ý cong vạy của người kia, rồi vặn hỏi ngược lại vô cùng.

Hỏi: “Thật có hữu tình tác giả, thọ giả chăng?” Nên xả trí ký (ghi nhận bằng cách gác qua một bên).

Bốn ghi nhận của pháp. Hỏi về Thật tướng của pháp: “Chân như là thường chăng?” Lẽ ra là Nhất hướng ký. Hỏi: “Quả nghiệp trong thân các hữu tình, Dị thục đó có nhất định sinh chăng?” Với người “Hoặc” thấm nhuần đã hết thì Dị thục sẽ không sinh; đối với ngưới “hoặc” thấm nhuần chưa cạn hết, thì Dị thục sẽ sinh.

Quan sát người kia hỏi đáp với ý dua nịnh, thì chỉ nên hỏi ngược lại, chứ không nên triển khai giải thích.

Hỏi: “Pháp thật của uẩn sẽ là “có”, “không” ư?” Nên gác qua không ghi nhận. Ký là ghi nhận riêng, ghi nhận giải thích riêng.

Đại khái, biện luận về đặt để ghi nhận có hai thứ: Hoặc có ngôn thuyết; hoặc không có ngôn thuyết.

– Có ngôn thuyết. Nghĩa là như nói: “Câu hỏi của ông, ở đây không nên ghi nhận.” Lại có người nói để ngăn dứt, cũng gọi là trí ký. Như Bà-Tú-La đã im lặng không đáp việc của Xa-Đề-La.

Phương tiện của bốn thứ nhiếp chúng. Tức là bốn sự nhiếp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hạnh, Đồng sự, như thứ lớp phối hợp.

Bốn thứ tử, như quyển năm trước đã giải thích.

Lại có bốn Đạo thanh tịnh:

1/ Chẳng phải căn công dụng viên mãn. Đây là bốn Hạnh tích, nghĩa là Khổ trì thông, Lạc tốc thông, như thứ lớp phối hợp: Độn căn, gọi là Trì; Lợi căn, gọi là Tốc; Vị chí và Địa Vô Sắc, gọi là Khổ. Định, tuệ một, vì riêng. Tĩnh Lự Căn bản, gọi là Lạc, vì hai Đạo chuyển. Dù địa Vị Chí gọi là có Hỷ lạc, nhưng vì chưa viên mãn, nên chỉ gọi là Khổ.

Căn công dụng. Nghĩa là luyện căn. Nhưng vì Bồ-tát dựa vào sự khác nhau của phàm, Thánh, nên không đồng với căn này. Cho đến Địa Thanh văn sẽ nói.

Trong bốn Đạo thanh tịnh, như Bà-sa nói: “Đối Pháp gọi là Chánh pháp, Điều phục gọi là Tỳ-ni.

Nay, ở đây không nêu Đối pháp là vì hai đạo trước, phần nhiều do

Phật nói. Đạo thứ ba, dù có Phật nói, nhưng phần nhiều là đệ tử Thánh nói, cho nên, trong văn này lược qua không nêu.

Một Lạc, mà khôn phải lợi ích v.v… Nghĩa là nhiêu ích của sinh, tử gọi là Lạc; nhiêu ích của xuất thế, gọi là Lợi. Các nghĩa sai khác, đối chiếu sẽ biết. Nghĩa là các quốc vương và chủ tế tự, giết ngựa để tế tự. Nghĩa là các quốc vương kia, thường có tâm lo sợ bọn cướp bóc, giặc thù v.v… vì hay khiến cho mình, người đều đau khổ, chẳng phải phước!

Bốn thứ ngữ mất có lỗi, đó là luống dối, chia rẽ, ly gián, thô ác và tạp uế.

Trong tăng năm, có năm môn hai mươi bốn thứ. Năm thứ là các dục thô nặng, chạy theo tụ hạnh, là năm uẩn hữu lậu, trái lại là năm uẩn vô lậu.

Năm thứ nhân hạnh v.v… mất lợi dưỡng. Luận sư Cảnh nói: “Ở đây nói về nhân mất lợi. Nếu người thọ dụng lợi dưỡng ở chỗ này, thì gọi là nhà đàn việt. Bảo vệ nơi chốn này, không cho tăng khác đến ở, tức là nhà keo kiệt.

Nếu từ người kia được, là thứ hai, từ thí chủ, tức thí chủ keo kiệt. Nếu vật đã được, nghĩa là vật đã thí này là vật thí keo kiệt thứ ba. Nếu đã làm được là do danh vặn nên được là danh vặn keo kiệt thứ tư.

Nếu người được như thế, là do dựa vào sự so sánh mà được khắp vật thí. Gìn giữ, luyến tiếc chỗ này, gọi là nơi chốn keo kiệt.

Kế là tổng kết: “Đối với các chỗ này, tâm sinh bỏn sẻn, luyến tiếc. Nghĩa là đối với năm xứ trước, vì sinh tâm bỏn sẻn luyến tiếc, nên mất lợi dưỡng kia trong hiện tại, và mất năm lợi dưỡng ở vị lai.

Pháp sư Thái nói: “Hoặc được lợi dưỡng, như chỗ quốc gia; hoặc từ Thí chủ kia được; hoặc đã được của vật v.v… hoặc đã làm như giữ giới được; hoặc phương tiện, như cầu thỉnh v.v…”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Đây tức là năm thứ keo kiệt mà Luận Thành Thật nói: “Nếu thọ lợi dưỡng ở chỗ này thì tức là Xứ keo kiệt. Nếu từ chỗ khác được thì là nhà keo kiệt, cũng gọi là Thí chủ keo kiệt. Nếu là vật đã được, thì đó là vật thí keo kiệt. Nếu đã làm được, thì gọi là khen keo kiệt. Nếu được như thế, nghĩa là pháp keo kiệt.

Trú xứ keo kiệt. Nghĩa là riêng mình ta ở nơi này, không cho người khác vào, dù có người khác thì ta cũng luôn làm chủ.

Nhà keo kiệt: Mỗi mình ta có ngôi nhà này, không chấp nhận người khác vào. Giả sử có người khác đến, thì ta là người hơn hết trong ngôi nhà đó. Vật cho keo kiệt: Một mình ta lấy vật này, không dùng cho người khác, dù có cho người di nữa, nhưng riêng của ta vẫn nhiều hơn.

Khen ngợi keo kiệt. Nghĩa là khen ngợi riêng mình ta, chớ khen ngợi người khác, dù ca ngợi người khác, đừng để cho họ hơn ta.

Pháp keo kiệt. Nghĩa là riêng mình ta có khả năng biết nghĩa của các kinh giáo, chớ để cho người khác biết. Dù cho có người có thể biết, nhưng họ đều thua ta xa.

Nay, lại xếp năm thứ keo kiệt này là sự mất mát đều nhân hành, nghĩa là có chung, có riêng. Nói chung là năm đều mất lợi ích hai đời, trái với Niết-bàn. Nói riêng, thì bốn thứ trước là mất nhân hạnh lợi dưỡng; một thứ sau, là trái với nhân hạnh Niết-bàn.

Lại, có năm pháp khiến người tu hành: Trước là hủy tịnh giới, tức là năm cái. Hai thứ trước là hủy tịnh giới; ba thứ sau, hủy học rộng, thiếu chỉ, quán, không thể lãnh thọ là cái hôn-trầm, thùy miên; quân là cái Điệu cử, Hối hận; Bất định là cái nghi. Cũng có thể do hai cái tham dục, sân nhuế, nên hủy tịnh giới, học rộng. Do hai cái Hôn, miên, Diệu, hối, nên khiến cho thiếu chỉ quán; do cái nghi, nên thiếu ách thiện.

Thể của phần dưới. Nếu theo tát-bà-đa (Hữu Bộ) thì phần dưới có hai nghĩa:

1/ Chúng sinh trở xuống là nói thân kiến, giới thủ, nghi.

2/ Là cõi Dục dưới, nghĩa là tham, sân. Nếu theo Đại thừa, thì như luận này nói có hai thứ phần dưới, không đồng với tát-bà-đa. Nói theo phần dưới của Kiến đạo.

Ba kiết: Không vượt qua cõi ác, Biên kiến theo Thân kiến; Kiến thủ theo Giới thủ. Tà kiến vì theo nghi sinh, nên nói căn bản ba, tức gồm thâu sáu cuối. Tướng si có ở cả ba cõi; sân, tham thêm ở cõi Dục, chỉ nói Tham Nhuế, tức bao gồm ngu si. Vì không vượt ngoài cõi dưới, nên chỉ nói năm là kiết phần dưới. Lại, do thân kiến không thú hướng về giải thoát, do giới cấm thủ mê chánh, chạy theo nẻo tà. Do nghi, vì nghi ngờ chánh đạo, nên che lấp giải thoát. Chỉ có ba thứ đầu là nhân của đường ác .

Không có biết khác nhau trong năm phần trên.

Luận sư Cảnh nói: “Vì chia tham làm hai, nên nói là không khác nhau.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Dựa vào giới để biện biệt, về Kiết, vì không dựa vào người, nên gọi là không có khác nhau. Ba thứ còn lại, dựa vào người để nói về Kiết, gọi là có khác nhau. Do không có Kiết khác nhau, nên lấy phần sinh ở trên. Do có Kiết khác nhau, nên không bỏ phần sinh ở trên.

Năm thứ không kỉnh tín… Pháp Sư Cảnh nói:”

1/ Đối với Đại sư, không kỉnh tin, ba học chánh pháp, không tin, đã nói không cung kính, cộng với trước là bốn. 5/ đối với người đồng nói phạm hạnh, không tin, không kỉnh, nghĩa là người chánh giác phát; người chánh giáo thọ; người chánh dạy răn là những người đồng phạm hạnh.”

Cơ Pháp sư cũng đồng với các giải thích này.

Pháp sư Thái nói: “1/ Đối với Phật; 2/ Đối với Pháp; 3/ Đối với hành; / Đối với Tăng; 5/ Đối với bạn.

Nói chánh giác phát, nghĩa là ngang đồng. Nếu theo Pháp sư Khuy Cơ giải thích rằng ba đồng phạm hạnh. Nay, giải thích về ba người nói trên, như thứ lớp: 1/ Hòa-thượng; 2/ A-Xà-Lê. Người đồng phạm hạnh, là người đồng học.

Năm thứ tà hạnh:

1/ Đối với kẻ thù, khởi sân.

2/ Đối với người thân, phá hoại.

3/ Thường muốn cho người khác sinh ưu phiền, khổ não, nên gây ra chuyện không lợi ích.

4/ Phá hoại thi-la của mình.

5/ Hành ba hạnh ác. Tại hại lỗi lầm của hai thứ đẳng lưu trong đây, nghĩa là do giận kẻ oán. Do phá hoại người thân, nên bạn thân chống đối, lìa bỏ. Do làm những việc không lợi ích, vì khiến người khác sinh khổ, các thứ ưu khổ luôn hiện ở trước. Ba thứ này là quả Đẳng lưu của đời sau:

Một thứ tai hoạn lỗi lầm đẳng lưu hiện pháp. Nghĩa là vì phá hoại giới của mình, nên thường ăn năn khi sắp qua đời.

Một thứ tai họa lỗi lầm của pháp Dị thục sau: Nghĩa là vì thực hiện ba hạnh ác, nên về sau, đọa vào đường ác.

Ngu thời tiết: là ngu về thời tiết, sát-na sinh diệt, vô thường, chấp là thường.

Ngu phần vị. Nghĩa là ngu phần vị của ba thọ, đối với khổ, chấp là vui.

Ngu tự tánh. Nghĩa là ngu tánh của năm uẩn, không có ngã mà chấp là ngã.

Thứ tư mong cầu lợi dưỡng. Thứ năm, là cầu mạng sống, gọi là năm pháp sở trị.

Hai hạnh vượt hơn:

1/ Định thắng hạnh.

2/ Trí thắng hạnh.

Định thắng hạnh có bốn:

1/ Nhờ nghe, dựa vào ngôn luận của Thánh đế, nên giải thích đúng về nghĩa pháp.

2/ Nhân lớn tiếng đọc bài tụng kinh điển.

3/ Biểu dương nghĩa nhiệm mầu cho người khác nghe .

4/ Ở chỗ vắng, xem xét Đế, tư duy, như đối với nhân lắng nghe, nhân tiếng nói lớn v.v… giải thích đáng về nghĩa pháp, phải biết rằng cũng thế.

Trí thắng hạnh. Nghĩa là tư duy đối trừ tham dục của phẩm trên, đây là nghĩa thứ năm, thích hợp với năm thứ giải thoát của Tỳ-đàm.

Năm hạng hành giả tu quán. Nghĩa là Tín Bồ-đề, và Niết-bàn là hai; ý lạc vô gián, ân cần, trân trọng tu tập Chánh trí là thứ ba, tức văn, Tư tuệ; Xa-ma-tha là thứ tư; Tỳ-Bát-Xá-Na là thứ năm, tức Tu tuệ. Ba hạng sau, gọi là Phương tiện đầy đủ.

Lại, do thành tựu phương tiện v.v… ý lạc như trước đã nói: Một “Lại nữa” này đồng với kỉnh tin v.v… mạnh mẽ, nhạy bén về Bồ-đề, Niết-bàn ở trước. Nhưng đây là y cứ sinh ra hiện quán vì có công năng vượt hơn, nên về sau, sẽ nói riêng.

Kế là nói về năm Bất hoàn. Hai Bất hoàn ở Sơ Tĩnh lự, mới thọ sinh rồi, được bát Niết-bàn. Luận Đối Pháp chép: “Sinh cõi Sắc xong, Thánh đạo hiện tiền. Đây là dựa vào người trước khi lìa dục cõi Sắc mà nói, chứ chẳng phải nhất định chỉ có thể, mà trong Địa Thanh văn sẽ phân biệt rộng.”

Hỏi: “Đối Pháp v.v… nói Trung, Bát có ba loại, từ Sơ Tĩnh lự kia đắc quả xong, thì nhập Vô Dư ngay? Vì sao bốn thứ còn lại, Bất hoàn đắc Hữu dư, đã chẳng nhập vô dư ngay? Ba loại Trung, Bát vì sao tùy theo ba loại kia được Hữu Dư rồi, liền nhậpVô Dư ư?”

Đáp: “Do bốn Bát còn lại cả hai sinh Kiết, Khởi Kiết đều chưa hết. Thời kỳ sinh hữu kéo dài, vì thế lực của kiết kia mạnh mẽ, nên đầu tiên được Hữu Dư rồi, chẳng phải nhập Vô Dư ngay. Sinh kiết của Trung, Bát Bất hoàn đã hết, Kiết khởi dù ở vào thế yếu kém kia, huống chi Trung Hữu sinh thế lực kia chỉ bảy ngày, cho nên Kiết yếu kém, được Hữu Dư rồi, tức là nhập Vô Dư y.

– Nếu theo kinh Niết-bàn nói thì: “Trung, Bát có bốn thứ tâm, nghĩa là tâm Thọ sinh; tâm Mạng chung; tâm Học và tâm Vô học.

Hai tâm học Bát Niết-bàn, nghĩa là Tâm học, Tâm phi học, Phi vô học. Pháp sư Viễn nói: “Thật sự là tâm vô học chứng Niết-bàn, mà nói là tâm học, vì đây là từ nhân mà nói.” Lại nói: “Tâm vô học chứng Hữu Dư; Tâm Mạng chung, thì hướng đến Vô Dư.

Luận sư Cảnh nói: “Sức của Đạo Vô ngại được quả hữu vi, vô vi, nên Tâm học chứng A-lại-da, tác động tâm Mạng chung, nhập Vô Dư, cho nên nói rằng: “Tâm Phi học, Phi vô học.” Pháp sư Khuy Cơ lại giải thích: “Kinh Niết-bàn kia nói: “Hai trong bốn thứ tâm là hai Niết-bàn chẳng phải Niết-bàn,” nghĩa là lấy tâm Vô học để nhập Hữu dư y; lấy tâm thứ tư nhập Vô Dư y, vì hai tâm trước chẳng phải. Lại nữa, đây là nói về địa vị dưới, nên nhập Vô Dư y, trước phải nhập định Vô tướng, tức là ý thức thứ sáu của tâm Vô học này. Phi học, Phi vô học kia tức là thức thứ tám. Nếu nhập Diệt định mới nhập Niết-bàn, thì chỉ có Thức này.

Năm thứ tu quán hạnh. Nghĩa là ba thứ Dục, Nhuế, hại, hữu vi, vô vi. Tướng Niết-bàn thứ tư của Đẳng Chí Sắc, Vô Sắc là thứ năm.

Kết hợp trong tăng sáu có mười sáu môn. Nghĩa là dựa vào sáu tướng để nói về sự khác nhau v.v… của tám thứ hữu tình: Sáu căn; sáu cảnh; sáu thức; sáu Xúc; sáu Thọ; sáu Tưởng; sáu Tư và sáu Ái.

Sự khác nhau về, sở y (Đối tượng nương tựa) của “ngã”, là sáu căn; sự khác nhau của cảnh giới là sáu cảnh; sự khác nhau của tự tánh là sáu Thức. Vì chấp làm tự tánh của “ngã”, nên sự khác nhau của nhân Thọ dụng là sáu Xúc, vì là nhân của Thọ. Sự khác nhau của Thọ dụng là sáu Thọ. Tùy theo nói sự khác nhau của sáu tưởng, là nói nhân. Tác dụng sự khác nhau sáu Tư. Sự hy vọng khác nhau là thân của sáu Ái, cũng là sáu Dục. Do đối với sự ái, phi ái, hy vọng muốn làm tự tánh.

“Đối với những sự khác nhau v.v… như thế” trở xuống, là nói dựa vào sáu Tướng, để nói về về tám sự.

“Ngã” dựa vào nhãn v.v… là tướng ban đầu.

“Ngã” đối với các cảnh như sắc v.v… là tướng thứ hai.

Người kia chấp thức là “ngã”, gọi là sự tự tánh khác nhau. Trong căn, cảnh chung v.v…, nên nói mỗi mỗi là do Xúc và Thọ là tướng thứ ba. Dựa vào một tướng nói là Xúc và sự Thọ có tên như thế, cho đến khởi theo ngôn thuyết là tướng thứ tư, tạo tác tất cả hạnh pháp, phi pháp, là tướng thứ năm.

Đối với sự khả ái, cho đến không dừng lại sự tổn bớt là tướng thứ sáu. Trong sự phi ái, chưa được hy vọng không hợp, dù hợp với hy vọng mà không trụ, dù trụ cũng tổn bớt.

Luận sư Cảnh nói: “Trong sự khác nhau như thế v.v…” trở xuống, là nói lại thứ lớp khởi tám thứ sáu tướng .”

Lại, đối với thật học, có sáu thứ khinh miệt. Nghĩa là đối với Tam bảo, nên tin, hay không tin. Đối với ba học, nên được, không được. Do ác ngữ, nên hoàn toàn không có sở đắc, nghĩa là được giới tăng thượng.

Thối mất tất cả pháp thiện đã có, tức nên tin, không nên tin, nên được, không được. Phần vị bình đẳng, nghĩa là vì tham lấy thuận với duyên.

Lại có sáu thứ rất thanh tịnh v.v… tức sáu hằng trụ. Lại có sáu pháp, cho đến cho rằng bốn đại chủng không giới, Thức giới, nghĩa là sở y của sắc cho là Đại chủng; sở y của phi sắc, cho là Thức giới; sở y (đối tượng nương tựa) của hành động, cho là Không giới, cho nên, chỉ nói sáu để thành hữu tình. Do lời nói đầu tiên này là các sắc căn, và nơi chốn nương tựa, tùy theo đối tượng nương tựa thích hợp với căn kia.

Ba chỗ khó vượt qua: Ở đây có hai nghĩa:

1/ Sở trị (đối tượng trị) có ba. Vì năng trị (chủ thể trị) có ba, nên gọi là sáu pháp.

2/ Ở đây lấy sáu đối trị, nghĩa là Bốn vô lượng, tức là bốn Đẳngtrì Vô tướng là thứ năm. Ngã mạn hết hẳn là thứ sáu. Sáu pháp có công năng dứt trừ căn bản tranh cãi, tức sáu hòa kính, như Tỳ-ni nói.

Oai đức rốt ráo. Nghĩa là năm Thông trước cũng ở Hữu học phàm phu mà chưa hết lậu, nên nói gồm thâu Oai đức. Một thông sau, ở địa vị Vô học lậu tận, nên nói gồm thâu rốt ráo.

Theo Luận Trí Độ thì Lậu tận thông, Bồ-tát cũng có. Nay, vì y theo Nhị thừa nên nói rằng: “Đại khái có sáu thứ làm che lấp pháp hiện quán Đế.” Nghĩa là ba ngu khỏi ba đảo trong tăng năm môn ở trước kia, tức là ba; theo quy định mong cầu lợi dưỡng là thứ tư; hy vọng mạng sống lâu là thứ năm, năm thứ này đồng với trước.

“Sự Khác nhau trong đây…” trở xuống, là giải thích chướng sáu, vì ở trước không có.

Nói “cho nên nói”, đây là ở trong phần sáng suốt, chứ chẳng phải ở trong phần giải thoát thành tựu. Phần thành tựu, nghĩa là Đạo gia hạnh. Phần sáng suốt là Đạo tư lương. Sáng lập sự mong cầu tuệ Vô lậu sáng suốt, nên ở phần sáng suốt, khởi lên sáu chướng này, chứ chẳng phải ở phần thành tựu, vì che lấp hiện quán Đế.

“Lại, thân người, trời” trở xuống, là nói về nhập địa vị Thánh là sáng suốt trên hết, từ trời, người được chứng quả Thánh, gọi là từ sáng suốt đi vào sáng suốt. Trong sự sáng suốt của người, trời, mà khởi lên chướng này, chứ chẳng phải ở địa vị thành tựu sau khi nhập Thánh Khởi; Nói là năm thứ chấp lấy tướng như ở trước đã nói. Nghĩa là đối với tăng năm môn về tướng Vô thường, khổ, vô ngã, về tướng nghịch, ác của cách ăn, về tướng trung, yểu của mạng. Vì hướng về Niết-bàn, nên thực hành giới; vì nhắm vào tiền của, tài sản, nên thực hành thí cho, vì hướng về sinh lên cõi trời, nên hành giả tu.

Sáu pháp gọi là Vô thượng là:

1/ Gặp Đại sư.

2/ Nghe chánh pháp.

3/ Được tịnh tín.

4/ Tùy học học Xứ.

5/ Ở chỗ Đại sư, khởi hạnh tùy niệm.

6/ Ở chỗ Đại sư, cung kính, thừa sự, cúng dường.

Tăng bảy, kết hợp với mười lăm môn, Niệm chung cho cả hai phẩm. Nghĩa là trước kia có nhân, có trụ, trong chánh Tam-ma-địa của Thánh, Niệm là phần của định. Về sau, thêm Chánh niệm, Chánh định, trong tám, gọi là tu định v.v… Ở đây nói rằng chung cho cả hai: Tu sinh ở định, Niệm tùy định tăng, là ghi rõ về chỉ quán. Về lý, thì có cả Định, tuệ, che lấp định, giải thoát, chứ chẳng phải phiền não che lấp giải thoát, nên Kiến lập thân chứng v.v… Nghĩa là về thể của chướng định kia, có nghĩa của hai Sư:

Ngài An tuệ v.v… nói: “Trong tâm ba tánh đều có pháp chấp, trong đó có thuyết nói: “Duyên Khởi Luận của Thế thân Bồ-tát chép: “Vô minh có cả ba tánh, ba tánh tâm hữu lậu và “câu Vô minh” làm thể che lấp định vô lậu. Các tán chẳng phải tâm thiện và “câu Vô minh” là thể che lấp định hữu lậu.”

Ngài Hộ pháp v.v… nói là không đúng.

Du-già v.v… nói: “Vô minh có hai: Bất thiện và vô ký. Vì Du-già không nói Vô minh có tánh thiện, nên Vô minh che lấp định là chướng Sở tri (che lấp sở tri). Dù hai tâm có, mà là tánh Vô ký, vì thuộc về Dị thục sinh trong tám tâm cõi Dục.”

Đối Pháp quyển hai chép: “Có hai thứ pháp nên dứt trừ, đó là tánh của các phiền não và Thọ sở y. Vì phiền não đoạn, nên lập ra Trạch diệt; vì hai Thọ đoạn, nên lập ra Bất động và Tưởng, Thọ diệt, tức chứng tỏ Dị thục sinh che lấp định; thọ và “câu Vô minh” đều lấy làm tự tánh. Sự lãnh thọ thấp kém nên không thể tiến tu các tánh chất cứng, nhám, trong định vượt hơn. Đây là nói hạnh riêng. Nếu tâm nhiễm đều có tất cả, thì đều đúng. Trong hai mươi bảy Hiền, Thánh, bảy thứ hạnh này là quả chung đầu tiên. Hai mươi thứ khác dựa vào sự Kiến lập riêng, nên chỉ nói bảy thứ này.

Lại, vì bảy thứ hạnh của ba nhân duyên, nên đồng nghĩa là thu nhập, an trụ; nhiếp Thọ, gọi là ba nhân duyên. Chánh kiến, Chánh tư duy, gọi là nhân duyên thu nhập đầu tiên Chánh ngữ, Nghiệp, Mạng, gọi là nhân duyên An trụ. Chánh Tinh tấn, Niệm, gọi là nhân duyên Nhiếp thọ.

Do bảy chi đạo của ba nhân duyên này, nên khiến cho nội tâm, tâm định không, chính một duyên.

Niềm vui do bảy Thánh tài sinh ra, nghĩa là tín, giới, tàm, quý, văn, xả, tuệ, như thứ lớp phối hợp. Sức của phẩm Bảy ma theo thứ lớp ấy trái với bảy Thánh tài.

Lại, có bảy pháp sở bị đối trị của Niết-bàn, nghĩa là đối với sự suy tổn ban đầu, có một đối trị, với thể là tham dục, suy tổn thứ hai, có hai đối trị: 1/ Với Đạo; 2/ tâm không tin hiểu về quả của Đạo. Đối với suy tổn thứ ba, có bốn đối trị, nghĩa là biếng nhác; thất niệm; Tâm loạn và Ác tuệ. Vì hai căn bất thiện của bảy nhân này khởi, nên gọi là phẩm loại.

Thân khác với hoại dưới trong bảy thức trụ, là thứ nhất, thân khác, tưởng khác, Phải biết rằng, với thân này trở xuống, là thứ hai thân một, tưởng một. Từ Phạm Thế trở xuống, là thứ ba thân khác, tưởng một. Từ Tĩnh lự thứ hai trở xuống, là thứ tư, thân một, tưởng khác. Văn tóm lược không nói ba Vô Sắc trở xuống.”

Hỏi: “Ở cõi trời Quan Âm, sinh trước, sau khác có sợ, không sợ, lẽ ra cũng ở Tĩnh lự thứ ba, trước, sau sinh khác nhau, thấy thủy tai ở cõi dưới, lẽ ra cũng có sự sợ hãi, không sợ hãi chăng?.”

Giải thích: “Hỏa tai thấy từ Địa dưới hướng lên Địa trên, nên sinh sợ hãi; còn thủy tai xuất phát từ Địa trên xuống Địa dưới, nên dù có thấy, nhưng không sợ hãi.”

Hoặc theo Bà-sa bình luận rằng: “Sự sợ hãi có tự tánh riêng, là thuộc tâm sở, chỉ ở cõi Dục, thậm chí La-hán cũng có sự sợ hãi, chỉ trừ đức Như lai.”

Hỏi: “Nếu vậy, thì vì sao khi kiếp hỏa khởi, trời Sắc lại có sự sợ hãi?”

Đáp: “Vì trời sắc kia nhàm chán sự giả tạm, nên gọi là sợ. Đo đó, nên không có lỗi. Nhưng Du-già quyển mười tám này nói rằng: “Sự sợ hãi là phẩm nhuế.”

Đây là vì y cứ ở sự sợ hãi của cõi Dục, nên nói như thế.

Bảy thứ thô nặng. Tức bảy tùy miên, lại, có bảy pháp khiến tranh

cãi được chấm dứt, tức bảy pháp Diệt tránh:

1/ Tỳ-ni Hiện tiền.

2/ Tỳ-ni Ức niệm.

3/ Tỳ-ni Bất si.

4/ Tỳ-ni Tự ngôn Trị.

5/ Tỳ-ni Bất kiến tội tướng.

6/ Tỳ-ni Đa nhân bất kiến tội tướng.

7/ Tỳ-ni Như thảo phu địa, như thứ lớp phối hợp bảy thứ vi phạm sự tranh cãi ở dưới.

Bảy Tỳ-ni này diệt trừ bốn tranh cãi, cái gọi là ngôn tránh, bất kiến tránh, sự tránh v.v… rộng như luật nói.

BẢN LUẬN QUYỂN 15

Trong thêm tám, gồm có mười môn:

– Giải đãi thí. Nghĩa là người đến xin, thí cho không khắp, không đi đến thí cho, chỉ đợi người đến xin.

– Không tùy theo điều họ mong muốn. Nghĩa là sợ hãi thí, sợ mình sẽ nghèo khổ.

– Luyến tiếc thí. Là gia pháp thí, nghĩa là vì bắt chước theo thói quen của người trước, nên thực hành bố thí.

– Hy vọng, là mong cầu quả báo bố thí, mong người trả ơn mình, nên cho ngay trong đời này.

– Lỗi khinh mạn: là báo ơn thí. Xưa người cho ta, thì nay ta trả lại họ, không vì cung kính ruộng phước mà thí cho, gọi là khinh mạn. Hoặc đợi khi mình giàu có, khởi lên tâm miệt thị, làm tay sai cho mình, nên cho.

– Hy cầu: Nghĩa là vì mong cầu được sinh lên trời, vì phước lạc nên thí cho.

– Cầu người khác nghe biết, đây là cầu danh thí.

– Không có lỗi trong thí cho. Nghĩa là hướng về Niết-bàn, cầu tư lương thí. Vì hướng đến cõi thiện, nhằm mong cầu Đạo Khí, nên thí.

– “Bốn Xứ, tám thời khác nhau, là nói về sự ăn nhiều trong biếng nhác” trở xuống, có mười sáu câu, hai câu hợp thành một thời, rất dễ hiểu.

– Tám thứ chỗ sinh đáng yêu. Tức xưa gọi là chỗ tám phước sinh.

Nói chủng loại v.v… của người thấp hèn, xấu ác. Nghĩa là trừ Quốc vương trở xuống, bốn nhân duyên của người giàu sang v.v…

Kiến lập bốn chúng của đức Như lai trong cõi người:

1/ Tối tăng thượng. Nghĩa là Quốc vương tức Sát-Đế-Lợi.

2/ Ruộng phước Thế gian. Nghĩa là Bà-la-môn, do phần nhiều tịnh hạnh, đời cho là ruộng phước.

3/ Dùng của cải không do người khác. Nghĩa là Đại trưởng giả.

4/ Là bỏ các tài sản thế gian. Nghĩa là các Sa-môn, đây đều là Phật có, gọi là chúng Như lai.

Vì ba nhân duyên, nên lập ra bốn chúng trong cõi trời:

1/ Dựa vào bờ mé của Địa, để Kiến lập hai chúng:

a/ Chúng Trời Tứ Đại Vương, cư ngụ trên đỉnh núi Trì Song; và đỉnh núi Tu-di v.v…

b/ Trời Ba mươi ba cư ngụ, trên đỉnh Tu-di.

2/ Bờ mé cõi Dục, Kiến lập chúng ma.

3/ Bờ mé ngữ hành, Kiến lập chúng Phạm.

Tịnh, bất tịnh trong tám giải thoát, chẳng phải hai sắc. Xả Thắng giải thứ nhất, gọi là thứ ba. Nghĩa là do tịnh giải thoát có ba thứ tưởng:

1/ Xoay vần đối đãi nhau.

2/ Xoay vần hội nhập vào nhau.

Hai thông này quán sắc tịnh, bất tịnh. Vì quán bình đẳng, nên gọi là Xả Thắng giải.

3/ Xoay vần tưởng một vị, chỉ quán ánh sáng, không thực hành tịnh, bất tịnh, nên gọi là “chẳng phải hai sắc”.

Xả Thắng giải thứ nhất, quán bình đẳng ánh sáng, vì địa vị hơn hết, nên gọi là Xả đệ nhất.

Ba giải thoát chí này không phải tất cả phàm phu đều có: Quyển mười hai đã dẫn thành văn, cho rằng phàm phu được được. Nay, vì nói địa vị, vượt hơn, nên nói không chung.

Năm Thắng giải này cho đến Trụ tối Thắng, nghĩa là văn này chỉ nói là tâm vi vi dẫn dắt Diệt định, không đồng với giải thoát thứ tám. Nghĩa của tát-bà-đa trước nói là dẫn riêng “không”, dẫn đến trở lại thần thông; Thức dẫn sinh đức Vô tránh v.v… Đây, chính là nói thần thông dẫn phát định rốt ráo viên mãn, cho nên không trái nhau.

“Lại, nếu quán các sắc… cho đến… mà tu tập”, là nêu kinh Bát Thắng Xứ, nghĩa là “ba giải thoát” trở xuống, là giải thích văn kinh đó. Trước kia, dựa vào mới tu Thắng Xứ làm quả. Giờ đây, lại tu Thắng-Xứ làm nhân; giải thoát trong trí Như lý làm quả. Cho nên, ba Thắng-Xứ là nhân của phương tiện.

“Nếu quán các sắc v.v… ”. Pháp sư Thái nói: “Tám định ThắngXứ, vì đều quán sắc định, nên gọi là “nếu quán sắc”. Sắc trong tâm định vì giống như sắc ngoài định, nên nói rằng: “Đối tượng như quán.”

Ba giải thoát trước, dù có tám Thắng-Xứ, nhưng đối với ba giải thoát, đều gọi là phương tiện. Tám Thắng-Xứ đối với ba giải thoát là Đạo phương tiện, nên tùy theo giải thoát nói rằng ba Thắng-Xứ.

Trong đây, tâm ở trong định quán sắc dường như ngoài định, nhưng, sắc trong định không đồng với sắc ngoài định, vì các thứ quán, nên trong kinh gọi là định biết vượt hơn, thấy vượt hơn. Vì gọi là hiện ngữ, nên gọi là Trí tuệ. Vì có tìm cầu, nên gọi là thấy. Như khi quán sắc trong định vượt hơn, tri kiến Tầm Tư rõ biệt sắc ngoài định, nên nói rằng “cũng thế”.

Bị Luận sư nói: “Khi mới tu tám giải thoát, tiền phương tiện có ba Thắng-Xứ, nhưng chẳng phải ba Thắng-Xứ trong tám Thắng-Xứ, nên không nói là tám.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Quán các sắc, nghĩa là bốn Thắng-Xứ ở trước. Nếu như đối tượng quán (sở quán) thì là bốn Thắng-Xứ sau, như cảnh khác nhau đã quán ở trước, là quán sắc. Tám Thắng-Xứ kia về sau được thành tựu viên mãn, do ba giải thoát là nhân, nên nói ba Thắng-Xứ là ba giải thoát thuộc về Đạo phương tiện, chứ chẳng phải chỉ có ba.”

Trong đây, quán các sắc ngoài cho đến “nếu vượt hơn”: Là nhắc lại kinh, nghĩa là quán chẳng phải đối tượng vận hành của Tam-ma-địa, hiện ra sắc đã được. Đây là giải thích nghĩa mà kinh trước đã quán các sắc lớn, nhỏ. Ở định, vì khởi quán các thứ sắc này trong phần vị Văn, Tư của gia hạnh trước. Do “duyên” Tam-ma-địa cùng cực, nên gọi là vượt hơn, là giải thích được tên vượt hơn trong định về lý do duyên một sắc loại không đồng.

“Duyên” xen lẫn lớn nhỏ của định trước, nên gọi là vượt hơn. Hoặc chẳng phải sắc của Tam-ma-địa có tướng lớn, nhỏ là bản chất sắc, mà là do “duyên” Tam-ma-địa, cho đến câu “nên gọi là vượt hơn”, là “duyên” sắc trong định, vì chỉ “duyên” một loại, nên gọi là vượt hơn, vì là ảnh tượng của các thứ bản chất ở trước. Tâm gia hạnh ở trước vì có các thứ cảnh tướng, nên cảnh không vượt hơn, do đó, không được gọi là vượt hơn. Cảnh trong Tam-ma-địa chỉ một loại tâm, vì không có tướng khác nhau, nên gọi là vượt hơn.

Đã Tầm, Tư xong, thì phân biệt rõ. Vì phân biệt rõ thời gian trước khác với thời gian sau. Như thế, nên đối với cái đã tưởng bên ngoài, cho đến quán các sắc cũng thế. Đây là giải thích về địa vị Văn, Tư, so sánh đồng với chỉ quán đã dẫn trong định, hoặc biết, hoặc thấy sắc kia, cũng Tầm, Tư trước hết và phân biệt rõ sau.

Nhân nói về tông khác, phân biệt nhân giải thoát v.v… như tát-bàđa nói, tám giải thoát hoàn toàn là nhân; mười Biến-Xứ hoàn toàn là quả; tám Thắng-Xứ cũng nhân quả. cho nên, từ giải thoát nhập ThắngXứ, Thắng-Xứ nhập Biến-Xứ. Nếu theo Thành thật thì Biến-Xứ hoàn toàn là nhân; Thắng-Xứ cũng là nhân quả; Giải thoát hoàn toàn là quả. Cho nên, Nhiếp Luận chép: “Rốt ráo chẳng phải vô lậu v.v… Về nghĩa của bốn trường hợp, sẽ thích hợp với tông Thành Thật. Nghĩa là nhân chẳng rốt ráo, quả là rốt ráo, do “không quán” là vô lậu; “Hữu quán” là hữu lậu. Mươì Biến-Xứ hoàn toàn là nhân, hoàn toàn là hữu quán. Tám Thắng-Xứ, đầu tiên tạo ra “Hữu quán”, là quả mà Biến-Xứ trước sinh ra. Do tạo ra “không quán” là nhân của tám giải thoát sau. Tám giải thoát, nghĩa là hoàn toàn “không quán”, hoàn toàn là quả, bốn trường hợp liền thành. Nghĩa là sơ quán trong Thắng-Xứ là rốt ráo chẳng phải vô lậu; quán sau là vô lậu chẳng phải rốt ráo. Tám giải thoát là “câu thị”; Biến-Xứ là “câu phi”.

Luận sư Thái nói: “Nếu y cứ thấy nghĩa, thì bốn không và năm Thắng giải vi vi, vì tâm vi vi dắt dẫn Diệt định. Nếu y cứ ở giải thoát, vi vi, thì thuộc về giải thoát của Hữu Đảnh. Tóm lại, bảy thứ trước cũng được gọi là Thắng giải, Thắng-giải thứ tám chỉ có giải thoát, không gọi là Thắng giải là pháp sở hữu của tâm.

Chỗ sinh của cữu hữu, tức chỗ cư trú của chín hữu tình. (Trong pho sách thứ nhất đã giải thích)

Mười pháp vô học thuộc về năm uẩn. Nghĩa là giới uẩn gồm thâu ngữ, nghiệp, mang. Định uẩn gồm thâu Niệm, Định. tuệ uẩn gồm thâu Chánh Kiến, Tư duy, Tinh tấn, thêm hai pháp khác là mười.

Ở đây, Luận sư Cảnh nói: “Chánh kiến, Trí khác nhau. Nghĩa là lấy “không quán” làm Chánh kiến. “Duyên” “hữu”, gọi là chánh trí giải thoát, nghĩa là lấy đến số vượt hơn làm Thể.

Nếu theo Nhiếp Luận quyển chín thì đoạn văn kết về tướng vượt hơn nói rằng: “Đã thuyềt minh về giải thoát, giống như nói vô vi giải thoát.”

Theo Nhiếp luận nói năm phần Pháp-thân, chưa có, mà có có, thì là hữu vi.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Giải thoát, tức số của Thắng giải, Chánh Kiến, nghĩa là “duyên” sự. Tuệ giải thoát tri kiến, nghĩa là “duyên” tuệ vô vi.

Thứ hai, là y phương minh nói về tướng của văn rất dễ hiểu.

Thứ ba, là nói trong Nhân minh xứ chia làm hai:

1/ Hỏi đáp chung để nêu.

2/ Phân biệt, giải thích bài tụng.

Là tất cả các việc trong nghĩa quán sát. Nghĩa là pháp đã được Kiến lập, gọi là Nghĩa quán sát. Pháp năng tùy theo, gọi là các việc sở hữu. Các việc sở hữu tức là Nhân minh, là nhân soi sáng, là nghĩa quán sát.

Giải thích riêng có hai:

1/ Nêu bài tụng, bày danh.

2/ Tùy giải thích riêng.

Thể của luận. Nghĩa là lời nói sinh nhân, lập ra Thể của luận.

Nơi chốn. Nghĩa là chứng nghĩa, nơi chốn của Luận chứng.

Sở y của Luận. Nghĩa là chân năng lập. Nghĩa của tợ hiện, tỉ là ngôn y. Đối tượng thành lập kia cũng là sở y.

Trang Nghiêm. Nghĩa là năng phá (chủ thể pháp). Đọa phụ, nghĩa là Tợ lập, Tợ phá.

Xuất ly. Nghĩa là khi sắp khởi biện luận, tự an pháp Xứ.

Phần nhiều đã làm. Nghĩa là do hội đủ sáu thứ trên, có thể tạo tác nhiều.

Y cứ thể tánh của biện luận có ba:

1/ Nêu sáu môn.

2/ Tùy theo giải thích riêng.

3/ Hỏi đáp, biện biệt.

Ngôn luận. Nghĩa là lấy âm thinh làm tánh. Lời nói làm Thể; tiếng nói là Tướng; lời nói là Dụng, là ba thứ khác nhau. Lại, do âm thinh khởi câu văn, danh từ, bài văn. Như thứ lớp phân biệt, nên lập ba thứ khác nhau.

Luận ưa chuộng. Nghĩa là thế gian này đã có ngôn luận tương ưng với lý lẽ, được thế gian phân tích, ưa chuộng đối tượng nên nghe, đều gọi là Luận ưa chuộng; Luận tranh cãi; luận chê bai, là ngôn luận, khởi duyên ác của sở nhân.

Luận tranh cãi có bốn:

1/ Do các dục khởi.

2/ Muốn xâm chiếm, cướp đoạt, không có Nhiếp thọ dục, khởi.

3/ Ác sinh đã khởi.

4/ Dựa vào các kiến khởi.

Nói “không có nhiếp thọ dục. Pháp sư Thái nói: “Đối với các việc ca múa v.v… chỉ vì muốn ngắm xem, nên có hành lấn chiếm, không muốn thuộc về mình, nếu đối với nữ xướng ca hai bên v.v… vì đã được tạm thọ dụng, nên hành động xâm lấn nhau, cũng không muốn gồm thâu làm thê thiếp của mình và tôi tớ v.v… mà mình đã có, gọi là không nhiếp thọ các dục.

Vũ Chúng thấy v.v… Nghĩa là theo pháp của các nước phương Tây, một năm có ba, gọi là ba mùa. Từ ngày mười sáu tháng giêng đến cuối ngày mười lăm tháng năm gọi là mùa nắng, vì thời gian này thường rất nóng. Từ ngày mười sáu tháng năm, đến hết ngày mười lăm tháng chín, gọi là mùa mưa, vì ở vào thời gian này, trời mưa nhiều. Từ ngày mười sáu tháng chín, đến hết ngày mười lăm tháng giêng, gọi là mùa lạnh, vì vào thời gian này thường rất lạnh.

Tăng-Khư vì vốn sinh vào mùa mưa, nên gọi là Vũ. Bè bạn, đồ đệ của Vũ, gọi là Vũ Chúng.

Tránh luận nhân việc mà sinh, báng luận nhân lời nói mà khởi. Hai luận thuận theo sự dẫn dắt của Chánh giáo là ngôn luận, khởi duyên thiện của sở nhân. Hai luận này đâu có khác nhau.

Luận sư Cảnh nói: “Ở trước, y cứ theo phái để lập đạo lý của Pháp môn. Sau, chính thức đối với căn cơ, dạy bảo, dẫn dắt, khiến học, lại thuận với chánh luận, vì dẫn đến gần gũi căn cơ. Dẫn dắt giáo hóa, luận giải họ trở thành Học lâu.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Thuận với chánh luận là duyên lành” của Giới học. Luận giáo đạo là thiện duyên của Định, tuệ. Hai Luận sau cùng, nên tu tập, nghĩa là thuận với chánh lý. Hai luận trung gian, nên xa lìa, nghĩa là chớ say mê việc ác mà nói lời ác mà khởi biện luận. Vì muốn dứt trừ phát ra lời nói cũng thế, cũng tức là thuộc về tu tập của hai Luận sau kia.

Hai thứ Luận trước nên phân biệt: Vì có cả tánh thiện, ác, nên tu dứt trừ.

Nói về xứ sở có sáu đối với vương gia. Nghĩa là Quốc vương có đức, nhận thức đồng đều. Đối với nhà vua đó có thể biện luận. Trái lại thì không thể.

Nhà chấp lý. Nhận thức đồng đều, khéo dứt việc nhà.

Trong đại chúng: Chúng có người nhận thức đồng đều, ba người khác rất dễ hiểu.

Trong sở y của biện luận có ba:

1/ Nêu mười thứ.

2/ Tùy theo giải thích riêng.

3/ Hỏi đáp, nói về mười thứ lớp.

Về giải thích riêng có hai:

1/ Đối tượng được thành lập (sở thành).

2/ Chủ thể thành lập (năng thành).

Về nghĩa sở thành lập có hai tự tánh khác nhau. Nghĩa là Tông v.v… trong đây gọi là chủ thể lập (năng lập); Tự tánh khác nhau được gọi là đối tượng lập (sở lập).

Từ Ngài Thế Thân, tiền tông được gọi là “Năng thành”; Từ ngài Trần-na, hậu Tông được gọi là “Sở thành”.

Pháp sư Mại nói: “Về mặt lý, thật sự tông cũng là Năng lập. Y cứ trong lập, “Năng”, “Sở” không phân biệt vật, tình, không có gửi gắm, cho nên, Tông sau của Ngài Trần-na được mệnh danh là Sở lập.” Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “Ở đây có ba lớp:

1/ Tông, nói là nghĩa sở lập, gọi là đối tượng lập. Vì thế, nên sở lập này mà có nghĩa, ngôn. Ngôn (lời nói) “năng thuyên” (chủ thể giải nói) của Tông kia và ngôn, nghĩa của Nhân (lý do) v.v… đều gọi là Năng lập. Vì ngôn, nhân, dụ của Tông kia được thành lập, nên cũng là sở lập.

Từ đây trở xuống, văn được nói là chỉ bày rõ ràng trước hết.Về nghĩa của Tông mà mình đã ưa thích, nên cũng là sở lập. Vì nghĩa “năng thành” cũng như về Nhân, Dụ đều là chủ thể thành lập, nên chỉ gọi là “Năng lập”.

Về nghĩa “sở thuyên” (đối tượng giải thích) quyết định chỉ là đối tượng được lập, gọi riêng là sở thành.

2/ “Tự tánh khác nhau, nhóm chung của các pháp, hoặc giáo, hoặc lý, đều là Sở lập. Sở lập ở đây chỉ là vì danh, nghĩa tùy điều kiện thích hợp mà có, nên chỉ một phần trong chung mà đối phương bày tỏ.

Hoặc lời nói, hoặc nghĩa, tự tánh khác nhau, đều được gọi là Tông (lập trường), thì gọi là Năng lập. Dù lập trường (Tông) riêng, nhưng cũng là Sở lập. Vì chủ thể lập chung, nên được gọi là “Năng lập”. Chính vì thế, nên tông của ngài Trần-Na được gọi là Sở lập, không mâu thuẫn với lý của Du-già v.v… Du-già v.v… nói là Tông chẳng phải hoàn toàn (một bề) chỉ Năng lập.”

3/ “Tự tánh sai biêt kết hợp với nghĩa sở y (đối tượng nương tựa), được gọi là Sở lập, chỉ có Năng y (chủ thể nương tựa) kết hợp với tông, mới được gọi là Năng lập (chủ thể lập).Vì đều lập riêng. Chẳng phải tông chung này nhất định chỉ là Năng lập. Vì lẻ đối phương kết hợp trình bày Nhân, Dụ để thành lập, nên cũng là Sở lập. Vì chẳng phải nhất định là Sở lập, nên được gọi là Năng lập.

Ngài Trần-Na chỉ lấy sự thừa nhận chung về Nhân, Dụ, để thành lập, trong khi đối phương chưa chấp nhận. Đối phương (tha) chưa thừa nhận, có nghĩa là họ chỉ kết hợp với Tông là Sở lập.

Tự tánh sai khác chỉ là “Tông y”. Vì nghĩa đối lập khác nhau, nên không trái nhau.

Trong chủ thể thành lập, văn được chia làm hai:

1/ Nêu, ra tám môn.

2/ Tùy giải thích riêng.

Thứ ba, dẫn dụ, là chung. Đồng loại, dị loại là riêng.

Về phần chung, so sánh pháp, dùng “nhân” để phân tích chung mà không triển khai riêng. Trong dụ, cũng chỉ trình bày chung, chỉ vì chủ thể thành lập có tám số chẳng phải sai trái. Trong nghĩa thành lập lai thêm kết hợp.

Luận này vì kết hợp không lìa “Nhân”, “Dụ”, nên không triển khai riêng. Luận Đối Pháp kia lấy nghĩa thành lập để được sáng tỏ thêm, nên tách rời riêng lập, không trái nhau. Ngài Trần-Na lấy hợp, kết, không tách rời Dụ, Năng lập bỏ đi. Đối Pháp lấy nghĩa hợp, vì thêm chú trọng nên tách riêng ra làm Năng lập. Dẫn Dụ chung, riêng, thêm, bớt cũng thế.

Lại, người, lập luận, hiện tượng v.v… là ba, xa có giác ngộ người khác, xưa gọi là Năng lập, người lập luận và người vấn nạn đích thân chỉ tự ngộ, cho nên ngài Trân-na, v.v… không phải năng lập cũng không trái nhau.

Trong lập Tông, đều nhiếp Thọ riêng về phẩm mà mình đã thừa nhận. Đây là văn chung. Nhiếp thọ, là nghĩa tự ý ưa chuộng; phẩm là nghĩa Tông. Vì thế, nên Hiển Dương quyển mười một nói: “Tông mình đã thừa nhận. Ý trong đây nói dựa vào hai Sở lập để lập luận điều riêng, tùy ý mình ưa thích điều mà Tông mình đã thừa nhận, nên nói là tông.

Trong vần đề này có ba cách giải quyết:

1/ Dùng lời nói để đối lý. Lấy sự giải thích riêng về nghĩa nương tựa, gọi là đều chấp nhận tự Tông riêng.

2/ Lấy riêng đối với chung. Nghĩa là dùng lời nói riêng dựa vào cái chung và nghĩa, cả hai, được gọi là điều mình đã thừa nhận.

3/ Lấy Hợp đối với lìa. Nghĩa là lấy “Năng y” (chủ thể nương tựa) kết hợp với tánh không lìa nhau để làm Tông của mình đã thừa nhận. Lập ra nghĩa “y”, “ly” của Tông để làm Sở lập, cho nên, văn này, nói chung, hoặc nhiếp thọ tông chỉ của luận, nghĩa là dựa vào Tông Chỉ của thầy mình, đối với lập trường của sư phương khác mà thành lập tông mình. Không như thế, thì sẽ cò sự phù hợp nhau cực thành. Hoặc người tự biện luận, do tài biện luận của mình mà lập ra tông nghĩa của người khác, tùy ý ưa thích của mình, không để ý đến Tông chỉ của Luận. Chỉ hai thứ này là Tông chính. Hoặc đã thừa nhận khắp, hoặc tự đồng với Tông, hoặc dựa vào nghĩa bên cạnh, cứ theo chẳng phải nhiếp thọ riêng. Chẳng phải vì tự ưa thích, nên chẳng phải là Tông chân thật. Vì lập đã thành, nên chẳng phải vốn thành. Khi lập tông này, hoặc khinh miệt người khác; hoặc nghe từ người khác; hoặc tự giác ngộ tông chân thật rồi bày tỏ chí thú củaTông. Ba trường hợp này được gọi là nhân duyên lập Tông. Hoặc thành lập Tông mình; hoặc đả phá Tông người, cả hai trường hợp này, đại khái nêu tất cả ý lập Tông, đều không có gì trường hợp đây. Hoặc chế phục người khác, nhằm lý giải rõ ràng về Tông của mình đã thành lập ở trên. Hoặc khuất phục người khác, nhằm giải thích về chủ trương bác bỏ Tông người khác ở trên để thành lập mình, đả phá người khác đều vì thương xót họ.

Ba trường hợp sau giải thích hai ý trước, mười trường hợp sau chia làm ba:

1/ Hai trường hợp đầu đều là thể của lập tông.

2/ Ba trường hợp tiếp theo là nhân duyên lập tông.

3/ Năm trường hợp sau là ý lập tông.

Nói về nhân. Nghĩa là vì thành thục nghĩa của tông đã lập, là nhân riêng. Như nói: “Vì tánh tạo tác”, để chứng minh rằng âm thinh là vô thường v.v…

Dựa vào thí dụ đã dẫn, đồng loại, dị loại v.v… là nhân chung, chủ thể thành lập chung nhắm vào nghĩa của tông trước, để giúp cho nghĩa của nhân tánh được tạo tác.

Từ “dẫn thí dụ cho đến ngôn luận so sánh”: Chẳng hạn, như lập Âm thanh vô thường, Nhân, nói rằng: “Tánh được tạo tá”. Vì muốn cho luận đối tượng sinh niềm tin đối với nhân, nên sau, nói bình v.v… là pháp dễ hiểu rõ mà thế gian đều thừa nhận chung, dùng phép so sánh để cho Nhân được lập. Cho nên nói rằng: “Những gì được tạo ra, đều là Vô thường, cũng như bình v.v…” Vì thế, nên thí dụ được dẫn là Sở y (đối tượng nương tựa) của Nhân.

Văn này là chung. Dưới đây, là nêu đồng loại, dị loại, để nói riêng về hai dụ.

Về tướng trạng giống nhau, như thấy sừng của mao ngưu v.v… ở hiện tại; giống như tự thể của con bò trong quá khứ. Như sắc của lá xanh kia, lấy màu xanh làm thể. Về sau, hễ thấy áo xanh, cũng lấy màu xanh làm thể v.v… cho nên nói giống nhau. Thí dụ ba, bốn rất dễ hiểu.

Nhân, quả giống nhau. Nghĩa là nhân thiện, quả vui; nhân ác quả khổ. “Năng thành”, “Sở thành” xoay vần giống nhau.

Pháp sư Mại nói: “Từ Ngài Thế Thân về trước, thì lấy các vật thể như bình v.v… làm thí dụ. Vì Vô thường đồng với tiếng, nên gọi là phẩm đồng. Từ Ngài Trần-Na về sau, thì bình và tiếng đã hoàn toàn khác, huống chi cũng bốn trần, một trần đâu thành phẩm đồng. Vì bình Vô thường với nghĩa tiếng vô thường có đồng đều nhau, nên gọi là phẩm đồng.”

Về văn hiện lượng có ba:

1/ Nêu.

2/ Giải thích.

3/ Hỏi đáp, biện biệt.

Tương tợ sinh. Nghĩa là cho đến đã sinh, sinh xong v.v…; Hoặc sinh, hoặc khởi v.v… Ngài Tam tạng có hai giải thích:

1/ Rằng: “Quá khứ gọi là đã sinh; Hiện tại gọi là “hoặc sinh”. Hiện tại sinh xong v.v… cũng gọi là “hoặc khởi”.

Luận sư Cảnh nói: “Lấy căn cõi Dục đối với Trần của cõi mình, vì đồng một cõi, nên nói giống nhau căn cõi Sắc đối với cảnh cõi sắc cũng thế. Nói đã sinh, nghĩa là y cứ ở căn và cảnh lúc tác dụng mà nói. Nói sinh xong v.v… nghĩa là đồng khởi với Thức. Hoặc sinh, nghĩa là “Trung Hữu”; hoặc khởi, nghĩa là “sinh hữu”. Cũng có thể hoặc sinh, nghĩa là thời gian sinh; hoặc Khởi, nghĩa là thời gian khởi. Vì dựa vào đã sinh v.v… ở trước để nói về nghĩa giống nhau của căn, cảnh kia nên nói là tương tợ.”

Luận sư Thái nói: “Vì đã sinh Địa trên, nên nói rằng đã sinh. Vì lấy về phần đồng sự sinh của cảnh kia, căn này giống nhau, nên nói là sinh xong v.v… hoặc “Trung hữu” sinh; hoặc “sinh hữu” khởi.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Quả tăng thượng của Dị thục đời quá khứ, gọi là đã sinh. Quả Đẳng Lưu, gọi là sinh xong v.v… vì “Đẳng” là nghĩa tương tợ (giống nhau). Trụ ở hiện tại, sinh gọi là “hoặc sinh”; trụ ở vị lai, gọi là “hoặc khởi”.

2/ Sự che lấp đã trở lại, nghĩa là bóng tối như đen v.v… Ở đây có ba thứ:

a/ Bóng tối đen; là sắc của bóng tối. b/ Vì Vô minh si tối, cho nên mê cảnh.

c/ Sắc tối không lóng trong: Nghĩa là vách che khuất v.v… Nếu lưu ly v.v… gọi là sắc lóng trong, thì chẳng phải che khuất, dù ngăn cách, vẫn có thể thấy.”

Hoặc tướng sắc thù thắng. Luận sư Cảnh nói: “Như nhìn thấy có gái đẹp bậc nhất, tâm người kia mê mờ, rối loạn, không rõ ràng.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Với uy thế của ánh sáng mặt trời, mắt nhìn thấy, không ngắm được sắc tướng vì vượt hơn. Hoặc là giống nhau. Nghĩa là như hạt đậu trong đống đậu, tâm sinh ngờ vực, hoặc sở tác bên trong. Tức ở dưới được sáng tỏ, như nháy mắt v.v…

Ba thời rất xa. Như đã giải thích trong pho sách đầu tiên. Nay, xét lại quyển ba kia, chỉ nói hai thứ, vì lược qua, nên không nói, vì thời gian rất xa.

Chẳng phải đã tư duy, nên tư duy, hiện tượng. Đã tư duy, nên tư duy, phần nhiều là tỷ lượng, hoặc thuộc phi lượng. Nay, vì chẳng phải hai lượng này, nên gọi là Hiện tượng. Vừa lấy, liền thành lấy.

Cảnh sở y: Cho đến bệnh người kia nếu lành, gọi là đã tư duy v.v…

Luận sư Cảnh nói: “Pháp thật của bốn Trần, bốn Thức của người bệnh. Vừa lấp, thì cảnh được thành, chứ chẳng phải đã tư duy, cho nên là Hiện tượng. Thuốc có công năng tiêu trừ bệnh. Ý thức của người bệnh lo nghĩ, về thuốc này. Nay, trị bệnh của ta đã lành, chưa lành, là tỷ lượng kia.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Chủ thể y chỉ kia, nghĩa là oai thế của thuốc, đây chẳng phải hiện lượng. Vì Sở y (đối tượng nương tựa) của oai thế là Sắc, hương, vị, Xúc, nhậm vận vừa lấy, tức là chỗ nương tựa của oai thế đã lấy. Đây là hiện cảnh. Người năng lấy, gọi là Hiện lượng.

Nói oai đức, thế lớn mà thuốc có, nếu binh chưa lành, gọi là nên lo nghĩ v.v… Nghĩa là với công năng của thuốc này, bệnh chưa lành thì thường lo nghĩ, nếu bịnh đã lành thì gọi là sự lo nghĩ đã thôi dứt. Cảnh của hai tác dụng đã lo nghĩ, nên lo nghĩ này chẳng phải là Thể của hiện cảnh; chủ thể “duyên” sự lo nghĩ kia cũng chẳng phải hiện lượng, lại làm rõ thuyết trước: “vừa lấy, tức là thành cảnh sở y của lấy, chủ thể “duyên” tâm kia, gọi là hiện lượng.

Trong đây, Kiến lập cảnh giới sở y của lấy chẳng phải đã tư duy, chẳng phải nên tư duy v.v… Nghĩa là Địa v.v… thật bên ngoài là bản chất của cảnh Định, là kiến lập cảnh sở y của lấy của cảnh giới, vì Kiến lập cảnh ảnh tượng của tâm định. Tâm hay lấy của thể hiện cảnh này, được goị là Hiện lượng. Các giới Địa v.v… xuyên suốt tiền phương tiện, nếu hiểu biết chưa thành thì gọi là “nên tư duy v.v…”, chẳng phải là thể của hiện cảnh. Chủ thể lấy tâm kia, chẳng phải nhất định là hiện lượng. Trái lại, làm tỏ rõ sự Kiến lập cảnh sở y của lấy cảnh giới, gọi là hiện cảnh.

Thường lầm loạn. Nghĩa là người mắt mờ đối với vị trí một mặt trăng thấy nhiều mặt trăng.

Trong hiện tượng này, Luận sư Cảnh giải thích: “Nhãn căn, thức đồng chấp nhiều mặt trăng. Do sự lầm loạn này nên chẳng phải Hiện lượng. Cho nên năm căn, năm thức có lượng, phi lượng, không được đều thuộc về hiện lượng.

Nay, giải thích: “Nhãn căn và ý thức đồng “duyên”, đều lấy một mặt trăng mà không sáng rõ nên lại là ý thức tìm kiếm lầm loạn lấy nhiều mặt trăng. Nhãn thức v.v… dù không biệt rõ ràng mà thật sự “duyên” một mặt trăng. Vì thế, nên năm thức chỉ là Hiện lượng.

Trong đây, ba thứ chẳng phải không hiện thấy v.v… gọi là Hiện lượng, Luận Nhập chánh Lý chép: “Hiện lượng trong đây, nghĩa là vô phân biệt. Nếu có Chánh trí đối với Nghĩa Sắc v.v… lìa sắc chủng v.v… mà có phân biệt hiện hiện chuyển biến riêng, nên gọi là Hiện lượng. Các bộ đều không đồng với giải thích này. Luận nàu cũng khác với Nhân Minh.

Xét văn này nói: Thế gian cũng có Hiện lượng thanh tịnh, cho nên, tâm của định tịnh cũng thuộc về Hiện lượng, chẳng phải chủ yếu y cứ ở thể của cảnh. “Ngũ câu ý” v.v… gọi là thể Hiện lượng.

Giải thích về gìn giữ tự tướng trong tỷ lượng, mà so sánh biết đạo, tục. Nghĩa là giữ gìn tướng thể v.v… của chiếc áo, so sánh biết là Đạo. Giữ gìn mũ, miện v.v… so sánh biết là Tục. Vì hiện thấy tự thể kia, nên so sánh loại, vật kia, không hiện thấy thể: chẳng hạn nhìn thấy hiện một con voi. So sánh với loại voi khác, không hiện nhìn thấy. Như lấy hiện tại so sánh với loại quá khứ. Nghĩa là như thấy người kia hiện tại tu thiện, so sánh biết trong quá khứ họ đã từng tu thiện. Hoặc lấy quá khứ để so sánh với vị lai. Nghĩa là đã biết người này hiện đang tu thiện, tức là lấy quá khứ của người này đã từng tu thiện, so sánh biết đến đời sau, họ sẽ lại tu thiện.

Pháp không thể ghi nhận trong chánh giáo là tìm kiếm, mong cầu ghi nhận riêng. Nghĩa là vì khả ký, hoặc an lập ký: Đầu tiên, ghi nhận tự thể, sau, ghi nhận sai khác. Ban đầu, ghi nhận chung về “hữu”, về sau, chỉ bày riêng sự cong vạy. Như chấp tất cả Lạc thọ đều là tùy miên của tham, v.v… Nghĩa là dựa vào tăng tùy miên dù phân biệt như thế, nhưng chẳng phải là cả ba tùy miên đều không tùy tăng lẫn nhau, nên chấp chỉ có thế, gọi là trái với pháp tướng. Lại, lìa lậu ba thọ, chẳng phải ba đối tượng tăng. Vì vậy, nếu chấp đều tăng, là trái với pháp tướng, hoặc trong pháp có tưởng, không có tướng khác nhau.”

Kiến lập sai biêt v.v… Luận sư Cảnh nói: “Hữu vi gọi là pháp có tướng. Vì Hữu vi ngang bằng với bốn tướng, nên gọi là không có khác nhau, mà gắng gượng an lập một phần có bốn tướng, một phần không có nghĩa khác nhau của bốn tướng.

Có tuớng khác nhau, lập ra không có tướng khác nhau. Nghĩa là Hữu vi, Vô vi khác nhau, tánh của chúng khác nhau, lập không có khác nhau. Dưới đây, chỉ sự rằng: “Như đối với Hữu vi không có tướng khác nhau, cũng vẫn được Kiến lập trong Vô vi. Nghĩa là như đối với Hữu vi có sinh, trụ, diệt, không có tướng sai khác cũng lại được Kiến lập trong Vô vi.

Nói: “Về pháp Vô vi không có tướng khác nhau lại lập nơi pháp Hữu vi. Nghĩa là trong Vô vi không có sinh, trụ, diệt, cũng lại Kiến lập trong Hữu vi. Bị Luận sư nói: “Đối với pháp Vô vi không có tướng khác nhau, có thể nói là có khác đối với pháp Vô vi.”

Xét về văn của bản thảo cũng như thế, đem hỏi Ngài Tam Tạng, Ngài nói rằng: “Sai rồi!”

Trong phần hỏi đáp, vì một không quyết định, nên hai đồng với sở thành lập, ở dưới:

“Lần lại nữa” thứ hai này, là giải thích về lập lý do của đồng loại.

Ở đây, ý nói làm rõ Nhân đối với lỗi của tông, gọi là “bất thành”. Đối với lỗi của dụ đồng, khác gọi là “bất định”. Đối với lỗi của Tông dụ, gọi là “trái nhau”. Vì không quyết định, nên có sáu bất định, do trái với dụ đồng khác nên không thể quyết định, thành lập nghĩa của tông kia.

Đồng với sở thành (đối tượng thành lập). Tức là bốn bất thành; Bốn trái nhau. Vốn lập nhân chung, phỏng theo (nghĩ định) thành lập quả của Tông.

Nhân đã kèm giống với lý, thì phải lại thành lập. Nếu lại thành lập Nhân, thì sẽ không có khác với Tông, nên gọi là “Đồng sở thành.” Giống với thí dụ đồng, khác cũng thuộc về nhân này.

Vì quyết định trong không trái nhau. Nghĩa là chân Nhân, chân Dụ, vì quyết định thành lập Tông.

Sở thành khác. Tức là chân Nhân, Dụ không có các lỗi lầm. Vì Thể là “năng thành”, nên khác với “sở thành”.

Trái nhau kia. Nghĩa là Tợ nhân, Tợ dụ và Tợ hiện, Tợ tỉ, không thể làm lượng.

Không Trái nhau. Tức chân Nhân và chân Hiện, Tỉ, có thể làm Thể của lượng.

Văn, Tư, tuệ v.v… “duyên” theo trí chí giáo. Trong luận Trang Nghiêm chia làm hai:

1/ Nói về năm thứ luận Trang Nghiêm, nghĩa là đức viên mãn, nên về sau, nói về hai mươi bảy thứ khen ngợi công đức. Nếu hội đủ hai mươi bảy thứ này, thì gọi là khen ngợi công đức.

2/ Nói: “đã thiện, đã nói, đã nói. Luận sư Cảnh giải thích: “Đã thiện, nghĩa là giải thích về ái, lạc ở trước. Đã nói, nghĩa là giải thích về tán thán, bài tụng đọc, thọ trì, lắng nghe, tư duy.

Đã nói. Nghĩa là giải thích về sự tu hành thuần thục trước kia.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Đọc bài tụng, thọ trì, gọi là đã thiện, lắng nghe gọi là đã nói, vì đã từng lắng nghe, có khả năng vì người khác nói. Tư duy thuần thục, gọi là đã nói.”

Nay, giải thích: “Đọc bài tụng, thọ trì, gọi là đã thiện, lắng nghe tư duy, gọi là đã nói. Thuần thục v.v… gọi là đã nói.”

Nghĩa thiện. Nghĩa là dẫn phát vượt hơn, sinh định vượt hơn: Điều thiện của đời, năng dẫn sinh Đạo tăng thượng. Điều thiện xuất thế hay dẫn đến quyết định Đạo vượt hơn.

Chúng nhiều. Nghĩa là chúng hội bố thí lớn.

Chúng tạp. Nghĩa là tám bộ Chúng

Đại chúng. Nghĩa là chúng vương tử của Quốc vương.

Chúng chấp. Nghĩa là chúng chấp lý, tức người giải quyết sự việc.

Chúng Đế. Nghĩa là các chúng nói lời chân thật. Hoặc các Thánh chúng đã thấy đế.

Chúng thiện. Nghĩa là chúng Sa-môn, hoặc nghĩa ưa pháp, phần nhiều xen lẫn hai chúng, hợp gọi là Đại chúng trong sáu nơi chốn.

Đại chúng, tức nhà vua kia. Chúng chấp là nhà chấp lý. Chúng Đế, tức nhà Hiền triết kia.

Chúng thiện. Tức khéo hiểu nghĩa ấy và ưa nghĩa pháp, mà không sàm nhanh. Nói cắt ngang trong khi người khác đang nói, gọi là nói sàm, không từ từ trúng lý, gọi là nhanh.

Mười thứ phi nghĩa trong biện luận rơi thua thiệt.

Pháp sư Khuy Cơ giải thích: “Vô nghĩa là không có nghĩa lý. Nghĩa trái, nghĩa là trái với đạo lý chân chánh. Tổn lý, nghĩa là tổn hại hai Đế lý.

Với Sở thành v.v… Nghĩa là chủ thể lập gồm ở Tợ, lẽ ra có thể thành lập, vì chẳng phải chân lý, tức vì đồng với đối tượng thành trong hỏi đáp ở trước.

Thành lập “năng thành”. Nghĩa là lấy Nhân thành Nhân, lấy Dụ thành Dụ.

Tuyển Pháp sư nói: “Phi nghĩa dù có mười, nhưng phán quyết chung có hai:

1/ Câu gốc, tức năm thứ trước.

2/ Giải thích về câu, tức năm thứ sau. Câu của năm thứ sau, như thứ lớp giải thích năm thứ trước. Thứ tư, Xứ Thinh minh có hai:

a/ Văn xuôi vàbài Tụng, nêu ra sáu môn. b/ Dựa vào môn để giải thích.

Thi thiết, Kiến lập Pháp. Nghĩa là danh thân, cú thân, văn thân v.v… Nghĩa là phát ra Thể của Thinh minh và năm đức, nên mới thành Thanh luận. Thắng “năng giải thích tiếng.

Thanh Luận giả nói: “Nghĩa là thể của danh, cú, văn tức là tiếng. Tánh của tiếng là thường; tiếng vang là Vô thường. Tiếng vang Vô thường làm rõ tiếng thường. Nếu biết Thể là thường, thì gọi là Thinh minh.

Thi thiết Kiến lập nghĩa. Nghĩa được thanh minh giải thích. Do Thinh Minh kia dựa vào chủ thể giảng nói (năng thuyên), đối tượng giảng nói (sở thuyên) mà kiến lập.

Lại nói nghĩa tương ưng khác nhau trong sáu thứ. Nghĩa là các pháp đồng loại lẫn nhau được tương ưng, vì Thể khác nhau.

Nghĩa chuyển. Như đối với vô lượng Nghĩa môn khác nhau của một pháp mà chuyển. Như chuyển biến riêng các nghĩa có thể thấy, không thể thấy của một sắc pháp.

Bổ-đặc-già-la thi thiết Kiến lập, nghĩa là nam, nữ, phi nam nữ v.v… Tức là dựa vào ba loại này để lập âm thinh khác nhau.

Trước kia, tục truyền rằng: “Trong tiếng Tô-mạn-đa có cả ba loại này:

1/ Tám Bổ Lô Sa là nghĩa Thể của giọng nam.

2/ Chuẩn-Để-Lý là nghĩa thể của giọng nữ.

3/ Như Nạp Phùng (Khứ thinh) Tố-Ca, là nghĩa thể của giọng phi nam, phi nữ.

Lại có tiếng ẩn, như Niết-lý-Đề-Thế. Bốn loại này đều có tám chuyển: Trong mỗi chuyển đều có một danh, hai danh, nhiều danh. Như thế, gồm có chín mười sáu âm thinh. Hoặc còn kiến lập tướng khác nhau của tiếng thượng sĩ trong ban đầu. Nghĩa là nếu theo tục sau này thì tiếng Để Ngạn Đa có mười tám chuyển chẳng phải thứ mà thế gian đã dùng. Ở đây nói ba loại, nghĩa là trên, giữa, dưới, đều có ba tiếng. Như trẻ con là sĩ dưới, chưa có sự nhận thức, không biết mình, người, có thiện, có ác, chỉ đại khái thốt ra tiếng. Như sĩ Dung dung, gọi là sĩ giữa, chỉ người khác có thiện, ác mà không tự biết. Sĩ rộng lớn, gọi là sĩ trên, chỉ nội tâm tự cảnh tỉnh: nên làm thì làm, không nên làm thì không làm.

Ba thứ tiếng sĩ này đều gọi là một Thể, hai Thể, nhiều Thể. Ba thứ tiếng nhân nhau thành chín. Nay, nói sĩ trên trong ban đầu tức đều có ba trong tám chuyển đều có ba.

Quá khứ, quá khứ thù thắng v.v… Nghĩa là quá khứ gần, gọi là quá khứ; quá khứ xa gọi là thù thắng. Vị lai cũng thế. Thời gian dài trong hiện tại, gọi là hiện tại. Sát-na hiện tại, gọi là thù thắng.

Xứ sở căn tài thi thiết kiến lập. Như rễ cây, gốc rễ của cây trồng, nên căn bản của tiếng, gọi là căn tài, tức là chữ. Chỗ phát ra tiếng, gọi là Xứ sở. Vì chỗ phát ra tiếng, vốn là Thinh minh. Nghĩa là kiếp sơ khởi, Phạm Vương sáng tạo một trăm muôn bài tụng Thinh minh. Về sau, mạnh tuệ bớt, Đế Thích lại tóm lược còn mười muôn bài tụng. Kế có vị tiên Ca-Đơn-Thiết-la rút gọn thành một muôn hai ngàn bài tụng. Kế là có vị Tiên Ba-Ni-Ni tóm lược thành tám ngàn bài tụng.

Bốn luận trên đây, gọi chung là Xứ sở. Nay, hiện lưu hành chỉ có hai Luận sau, còn hai Luận trước đều đã diệt mất.

Thinh minh Luận của căn tài, Thể của chữ, có ba trăm bài tụng. Tiên Ba-Ni-Ni đã tóm lược tạo thành bài tụng của Thinh minh, tóm lược thành Bản bài tụng. Về sau, có Luận Bát giới, có tám trăm bài tụng, goị là Nhân duyên. Lại có văn Thích ca Luận gồm một ngàn năm trăm bài tụng. Lại có Luận Ôn-Na-Địa gồm hai ngàn năm trăm bài tụng. Năm Thinh minh này đều gọi là căn tài, có thể cùng với Thinh minh, Xứ sở căn bản, vì là gốc được nương tựa sinh, ra trí hiểu biết. Nhưng Bồ-tát Hộ Pháp sáng tác ra hai muôn năm ngàn bài tụng, gọi là Tạp Bào Thinh minh Luận. Mà phương Tây (Ấn Độ) cho là Cực Luận Thinh minh rốt ráo, rất được thịnh hành ở đời.

Nối tiếp nhau, Nghĩa là pháp chữ hợp của tiếng “hợp” trong Thinh minh này là một phẩm, là phần thứ nhất.

Danh hiệu. Nghĩa là vào thời kiếp sơ, trong mỗi pháp vua Phạm đều đặt ra ngàn tên. Về sau, giảm còn một trăm tên, lại, bớt còn mười tên. Sau đó, lại bớt còn ba tên, gọi là chung là một phẩm, là danh hiệu thứ hai. Phẩm là phần của danh hiệu.

Tổng lược. Nghĩa là lược yếu căn bản trong Thinh minh.

Ích kia. Nghĩa là tóm lược trong thứ lớp này, để cho chúng sinh sự hiểu biết, gọi là ích kia.

Tuyên thuyết: Tuyên là nói rộng, là rộng trong lược, là ba phẩm sau, tức ba tên sau.

Từ trên đến đây, năm phần tức là năm phẩm, vì gốc là phẩm phần của Thinh minh, nên gọi là Xứ sở.

Hoặc Giới bài tụng: Nghĩa là Thể của “chữ”. Ba trăm bài tụng gọi là Giới Tiên Ba-Ni-Ni đã soạn ra một trăm bài tụng của Thinh minh, gọi là lược Bản bài tụng, tức bài tụng này.

Chữ “Đẳng”. Nghĩa là tám trăm bài tụng, luận Bát Giới; Nhân duyên của “chữ”; và một ngàn năm trăm bài tụng; nghe Luận Thíchca; và hai ngàn năm trăm bài tụng; và luận Ôn-Na-Địa , nên gọi là “Đẳng”.

Thứ năm, trong Công nghiệp Minh xứ, công Sinh thành, nghĩa là nuôi sáu gia súc, vì thành tiền của nuôi sống. Hoặc giáo dục sự sống trau dồi thành lễ nghi, ở địa phương này, là phòng tà công nghiệp: Như dệt thêu, v.v…. Phương Tây, đa số do phái nam làm nghề này; cho nên, còn giữ nguyên âm gốc, gọi là Phòng-Na, giọng nam gọi là.

Công nghệp Hòa hợp: Nghĩa là biết về đấu tranh kiện v.v…

Công nghiệp thành thục. Nghĩa là thành thục uống ăn.

 

(Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 16

Địa do tư thành, Tư, là Tư lự, tức ý thức tư duy biến hành, đều nhân Tư, sinh ra tuệ, gọi là Tư tuệ.

Nay, lấy nhân Tư tuệ mà thành các pháp, thể chung cho năm uẩn, là thể của Địa này.

Văn chia làm hai:

1/ Nêu, ra ba môn.

2/ Tùy giải thích riêng.

Tự tánh thanh tịnh. Nghĩa là nói về Thể của tư tuệ. Vì phân biệt với sinh đắc thiện, nên gọi là Thanh tịnh.

Tư trạch sở tri. Nghĩa là tư duy, lựa chọn tất cả pháp nên biết.

Tư trạch các pháp. Nghĩa là tư duy, lựa chọn văn xuôi của kinh Phật và các nghĩa pháp yếu của bài tụng.

Xa lìa tất cả chỗ bất tư Nghị xứ. Nghĩa là cảnh đặt để, ghi nhận và cảnh chứng của các Địa chẳng phải phần của mình.

Khéo biết rõ mặc thuyết, đại thuyết. Luận sư Thái nói: “Không có bẩn thừa lời nói đã phát ra, gọi là mặc thuyết; có bẩn thừa, như đã được nghe nói từ chỗ Phật, Bồ-tát, gọi là Đại thuyết.”

Luận sư Khuy Cơ nói: “Tà thuyết của ngoại đạo và các thiện ác, gọi là hắc thuyết. Chánh thuyết của nội đạo và các điều thiện, được gọi là Đại thuyết. Đối với phần ít pháp, chỉ sinh tín, hiểu v.v… Nghĩa là ít chỗ sở tri, kiến giải chẳng phải là phần mình, gọi là phần ít pháp, chỉ nên tin, hiểu, không nên chê bai. Nếu đối với một ít pháp sở tri, phần của mình, thì nên dùng tuệ để quán sát.

Đoạn thứ hai, trong tư duy chọn lựa sở tri, văn chia làm ba:

1/ Hỏi đáp chung về thể.

2/ Phân biệt sơ lược về thể của hỏi đáp.

3/ Tùy theo giải thích riêng.

Giải thích riêng có ba: a/ Giải thích pháp “có”. b/ Giải thích pháp “không” c/ Nói về cả hai “có và “không”.

Pháp “có” có hai:

1/ Nêu năm môn.

2/ Tùy theo giải thích riêng.

Pháp “có” của tự tướng, văn chia làm ba:

1/ Nêu bày.

2/ Giải thích riêng.

3/ Kết thành thắng nghĩa.

Tướng “có”. Nghĩa là tức trí chân như căn bản được, chứ chẳng phải tướng an lập, tướng của tướng trạng mà có, tức tánh y tha, tướng hiện tại có. Chỉ ở đời hiện tại, chẳng phải ở vị lai, phải đủ bốn nghĩa trong cái “có” của hiện tại, mới là “pháp có” của tự tướng. Nghĩa là các pháp giả đại khái có ba thứ:

1/ Tụ tập giả, như bình, chậu v.v…

2/ Nối nhau giả lập một hữu tình ở ba đời. Nghĩa đến nay không dứt, tức là sự nối tiếp nhau kia.

3/ Phần vị giả, nghĩa là Bất tương ưng v.v…

Nay, vì chẳng phải ba thứ này, nên tự tướng “có”.

1/ Ở chỗ này gọi là có thể được. Nghĩa là trí Hậu đắc chứng tánh y tha , dù tách rời danh ngôn, nhưng do danh giải thích, thuận với danh, chẳng phải như Chân như, vì không thuận vời Danh, nên gọi là “có thể được”, là phân biệt với tánh Viên Thành Thật, vì dù có tên kia, nhưng không có sự của thể.

2/ Danh này đối với sự này chẳng phải không quyết định. Nghĩa là phân biệt với phần vị giả, vì danh này chỉ gọi là sự này, như đã nhìn thấy tên xanh v.v… nhất định gọi là sự xanh, chứ chẳng phải như người bị bệnh nóng, nhìn thấy màu xanh, cho là vàng. Khi bịnh nóng kia đã lành, thì lên bịnh nóng kia vàng nọ không nhất định. Vì mê loạn nên như thế, gọi là không nhất định. Cũng như chiếc bình vỡ thành ngói, thì bỏ đi tên bình. Do Vô thường, nên tên gọi không quyết định.

3/ Danh này tùy-chuyển vô ngại đối với sự này. Nghĩa là danh, sắc v.v… hoặc tụ, hoặc tán, danh thường chuyển biến theo, chứ chẳng phải như bình v.v… đối với chỗ nhóm họp, tên nó tùy chuyển; ở nơi ly tán, tên nó thối lui trở lại. Trái lại, làm rõ danh đối với việc này không có trở ngại tùy chuyển, tức phân biệt với tu tập giả.

Tướng hiện tại “có”. Nghĩa là phân biệt với tương tục giả. Nếu hiện đã sinh là Nhân của vị lai, là quả của quá khứ thì mới là pháp tự tướng “có”.

Trong công tướng (khái niệm), văn cũng có ba, đó là: Nêu, giải thích, kết.

Chủng loại công tướng. Nghĩa là chủng loại của năm uẩn dù Thể của chúng đều mang nghĩa chứa nhóm riêng, nhưng đều gọi là chung là “uẩn”. Uẩn là cộng tướng, là cộng tướng của thành sở tác. Luận sư Cảnh nói: “Nhân dù thiện, ác, lậu, vô lậu khác nhau, nhưng phân tích về nghĩa quả thì đều gọi là “cộng tướng do một thứ thành”.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Sáu thức, ba nghiệp với thể của tư dù khác, nhưng về thiện, hữu lậu thì đồng, đều chiêu cảm quả ái, gọi là cộng tướng sở tác, với những loại như thế.”

Cộng tướng của tất cả hành. Nghĩa là Vô thường, nay, y cứ ở văn này, chỉ quán Vô thường, tức chẳng phải Hiện lượng, vì quán cộng tướng này. Cho nên, Luận Tập Lượng nói: “Vì Hiện lượng chỉ lấy cảnh của tự tướng.” Thế, nên Luận ấy nói: “Tâm tán Lại-da của năm thức “duyên” tự tướng của cảnh, là hiện lượng kia. Trong ý thức, nếu là tâm định, thì cho dù “duyên” hữu vi, thực hiện quán Vô thường đi nữa, nhưng mỗi hữu vi đều chứng riêng vô thường trên Thể của các Hành. Cho nên, hiện lượng đều là cảnh của Tự tướng.”

Luận sư Giới Hiền nói: “Như bốn thiện căn quán năm uẩn Vô thường, đều có một tướng Vô thường trên năm uẩn, phải quán tâm hiện tại, như dùng một sợi chỉ xâu chung các đóa hoa. Ở đây, tức năm uẩn chung một tướng Vô thường, ở đây chẳng phải Hiện lượng. Nếu kiến đạo quán năm uẩn Vô thường, thì sẽ có năm tướng Vô thường riêng, đo đó, cần phải quán tâm hiện thực. Vì một tâm quán có năm kiến giải kia chứng riêng năm uẩn Vô thường, cũng là cảnh của Tự tướng.

Người phương Tây có giải thích rằng: “Như Kiến đạo của Tiểu thừa chỉ quán Vô thường mà Chân như được hiển bày. Tự tướng thắng nghĩa như thế, cho nên là Hiện lượng. Nếu với tâm lo phân tán “duyên” pháp cộng tướng thì sẽ không biết được Tự tướng. Như thấy có khói lửa mà không biết được tự tánh nóng của lửa, nên cũng không biết được lửa đó là thuộc loại lửa nào? Lửa xuất phát từ cỏ ra hay từ phân v.v…?

Giải thích về tướng giả trong pháp có, văn chia làm bốn:

1/ Tổng lược hỏi đáp, nêu.

2/ Hỏi đáp nêu danh.

3/ Tùy theo giải thích riêng.

4/ Tổng kết thành.

Thuộc về chủ trương ưng ngôn luận, là nói phần vị giả, xa lìa ngôn luận kia đây; nói tụ tập giả, nghĩa là nói cửa v.v… của nhà.

Luận sư Cảnh nói: “Lấy cái giả này để làm sáng tỏ ngôn luận này, nghĩa là tướng tròn của viên đá, giọt đầu, ánh sáng của ngọn lửa hừng cháy, cũng nói là sự nhóm họp giả có. Nếu nói tiếng trống bay bổng là nói gió giả, nghĩa là có gió trần, cũng là sự nhóm họp giả có.

Lấy các giả kia để làm rõ cái giả kia, nghĩa là Đức Phật trao cho bạn đức y phục v.v… cũng nói là nhóm họp giả có.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Lấy cái này để làm rõ cho cái này. Nghĩa là dùng vật này lại làm rõ cho vật này, lấy cái kia để làm rõ cái kia: dùng vật thể khác để chỉ rõ riêng về vật thể khác.”

Xa lìa kia đây. Nghĩa là chẳng phải là hai vật giả ở trước, như cửa của nhà. Lấy cửa này để làm rõ chất cứng của đất trong ngôi nhà này, cho đến tướng lay động của gió đều chuyển biến ở chỗ thật tướng. Ánh lửa của ngọn lửa cháy bùng v.v… đều chuyển biến ở chỗ giả tướng. Ngọn lửa đốt lên, v.v… đều là ở chỗ giả tướng mà chuyển.

Ngọn lửa, là tên riêng khác của lửa giả; ngọn lửa hừng hực, gọi là ngọn lửa cháy bùng, là lấy cái kia để làm rõ trong kia. Đức Phật truyền trao, đều là hữu tình giả, thức uống ăn đồng là pháp giả. Xa lìa vật thể này trong kia, cửa v.v… của ngôi nhà, nhà lớn, cổng nhỏ, chẳng phải đủ khắp. Lấy vật này để làm rõ tự thể này, cũng chẳng phải lìa ngôi nhà mà có cửa riêng, cũng chẳng phải lấy cửa kia để làm rạng rỡ cho cửa kia, cho nên là “câu phi”.

Mười phần trăm, ba phần mười:

Hỏi: “Vì sao không nói: một phần mười, hai phần mười ư?

Giải thích: “Lại y cứ ở chỗ rõ ràng mà nói.” Mọi người cùng lập bày, mà khởi ngôn luận có sáu thứ. Trong đây nêu Thức và năm Biến hành, mỗi thứ đều mang tướng trạng riêng. Ý nói rõ pháp giả của cộng tướng không lìa pháp thật. Ở đây cũng đều đã lấy riêng Tự tướng là pháp thật có. Sáu thứ đã lấy pháp giả của cộng tướng, để tăng ích cho Tự tướng để khởi tướng trạng, tự tánh của ngôn thuyết, gọi là ngôn luận được thi thiết chung, như bình, chậu v.v… cho nên, Duy thức nói là giả, nghĩa là tăng ích, chứ chẳng phải thật tướng “có”, vì đối với sáu đối tượng đã biến chuyển, mỗi đối tượng đều gá vào thề chân thật Tự tướng, của mình mà tăng ích. Cho nên, dù đã lấy cảnh v.v… riêng, nhưng tướng trạng sở chấp cũng có thể lập chung lời nói giả. Nhưng sáu thứ này vì nhất định là cảnh phổ biến, nên chẳng nói cảnh khác.

Mọi người nêu bày chung mà khởi ngôn luận, tất nhiên, dựa vào sáu tướng trạng này, chứ chẳng phải nói sáu tướng trạng này quyết định là giả có. Tuy nhiên, Duy Thức nói: “Tác ý, chủ thể hiểu rõ tướng chung của việc và tâm sở khác, đã chấp tướng riêng. Trong đây, tức nói hai cảnh chung, hoặc ở đây chỉ nêu chủ thể chấp (năng thủ) cảnh chung, nên nói là đối tượng lấy (sở thủ) của tác ý hay khởi ở thức. Nếu không như thế, tức là trái với Luận Hiển Dương v.v… nói: “Lấy chung cảnh gọi là tâm, cũng gọi là riêng tâm sở.” Nhưng, quyển sáu mươi lăm nói: “một thứ giả”. Nghĩa là nếu pháp “có” đối đãi với cái khác, dựa vào đối tượng khác nhằm lập bày tự tướng, thì gọi là giả “có” . Như đối đãi, nương tựa uẩn, để lập bày có “ngã”. Đối đãi, nương tựa vào các tướng như sắc v.v… để giả lập sắc v.v…

Đối đãi, với năm trần v.v… lập ra nhà cửa v.v… Đối đãi với sự tướng của uẩn, lập ra sinh, già v.v… cho đến đối đãi với các sắc không chuyển biến, giả lập Hư không, như thế v.v…

Đối Pháp v.v… hoặc nói là hai giả, nghĩa là đối đãi với cảnh tưởng của danh, ngôn. Hoặc đối đãi với danh, ngôn này, cảnh tưởng khác.”

Kinh Đại Phẩm chép: “Ba giả, là Danh giả, Thọ giả, Pháp giả.”

Duy Thức cũng nói: “Ba giả: là Tụ Tập tương tục và phần vị.”

Luận Thành. Thật nói có bốn giả; là nhân sinh giả, tương đãi giả tương tục giả và Duyên sinh giả.”

Luận này Quyển một trăm nói: “Có sáu giả: Tụ tập giả, nhân giả, quả giả, sở hành giả, Phần vị giả và quán đãi giả.”

Trong đây và Luận Hiển Dương quyển mười tám lại nói có sáu thứ chỗ sinh khởi của ngôn luận, gọi là giả, rất dễ hiểu.

Đình, là nhà của đình Huyện. Lạ, nghĩa là vách che lấp trong nhân lưu chuyển.

Do hạt giống này, nghĩa là hạt giống của nghiệp.

Do huân tập này, nghĩa là hạt giống của danh ngôn.

Do sự giúp đỡ này, nghĩa là Vô minh ái thủ. Pháp kia lưu chuyển: sanh, già, chết khởi.

Các hành hoàn diệt trong nhân hoàn diệt. Nghĩa là: Ba tánh hữu lậu, Hành diệt, thì diệt giới.

Hoàn diệt tạp nhiễm. Nghĩa là Kiến, Tu, phiền não đoạn, đoạn giới và cõi không có dục. Đây là nói Diệt Đế mà có tất cả Đạo hay vắng lặng. Nghĩa là các Đạo vô lậu hay vắng lặng hai hoàn diệt trước. Đạo Vô lậu này năng nhập Niết-bàn, hướng về Bồ-đề và Đạo Tư lương kia, và phương tiện v.v… kia. Luận sư Cảnh nói: “Nghĩa là Đạo Tư lương gần, và Đạo phương tiện, xa, năng giúp bạn, năng sinh Thánh Đạo (chủ thể sinh Thánh Đạo), chủ thể biện biệt Niết-bàn. Từ tướng, cũng gọi là nhân hoàn diệt.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Và, Tư lương kia, tức là Đạo Tư lương và phương tiện kia, tức Đạo gia hạnh.

Năng sinh: là Đạo kia năng sinh hạt giống.

Năng phân biệt. Nghĩa là năng phân biệt về hiện-hạnh của Niếtbàn, vì Đạo Vô lậu.”

Đối Pháp Quyển chín nói: “Hoặc Đạo tư lương, hoặc Đạo gia hạnh, Kiến Đạo, Tu đạo, và Vô học Đạo, đều gọi là Đạo Đế.”

Nói nhân Hoàn diệt ở đây, chỉ gồm thâu bốn pháp ở trước. Lại giải thích: “Tư lương, phương tiện trong đây đều là Đạo Vô lậu, là Đạo Vô gián, vì Gia hạnh gần, xa trước kia, không đồng với Đối Pháp, nói là Đạo năng vắng lặng, là Đạo Vô gián. Nếu phân biệt rộng, như trong nhân, quả của Tư, nên biết tướng đó.

Luận sư Cảnh nói: “Chỉ Địa Tu sở thành, gọi là quả tu, cũng có thể chỉ cho quyết định sau, gọi là quả của Tư.”

Luận sư Bị nói: “Khó hiểu quả của Tư, đem hỏi Ngài Tam Tạng, Ngài nói: “Nếu không hiểu được, thì hãy, nói rộng về chỗ tướng của quả, nên biết, tướng của nó. Nếu kkông được, vì trong năm tướng đều nói về tướng của quả, nên biết tướng ấy cũng có thể Địa có Tầm, Từ, nói rộng về nhân quả, văn gọi là quả của Tư.”

Y cứ ở pháp “có”, tức lấy năm nhân trước, như thứ lớp được năm quả.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Địa Quyết Trạch Tư tuệ nói: “Tư duy, bàn luận về nhân, quả. Nghĩa là như Địa có Tầm, có Từ đã nói: “Đây tức chỉ cho Bản Địa, phần trước kia và hai thứ Quyết Trạch phần; Địa có Tầm, có Từ đã nói đầu đủ về nhân, quả, nhiễm, tịnh. Trong pháp không có của sở quán (đối tượng quán), nếu xa lìa tánh, thì trong con bò sẽ không có tánh của con ngựa v.v… Nếu chẳng phải tánh có, thì uẩn, giới, xứ của người này chẳng phải tánh của uẩn, giới, xứ của người kia.

Tánh không hòa hợp. Nghĩa là các pháp lậu, vô lậu của ba tánh.

Lậu kia, vô lậu này không có tánh hòa hợp lẫn nhau . Nghĩa là Thắng nghĩa không có: Tự tánh lời nói của các thế tục đã nói, dựa vào Thắng nghĩa đều chẳng phải có.

Văn dưới đây hợp giải thích về tánh “có”, “không” của năm thứ, chia làm hai:

1/ Nêu chung.

2/ Giải thích riêng.

Nói thứ tư là tướng v.v… không hai, là tướng sinh, già v.v… gọi là tướng sai khác. Vì nói pháp sở y không có tự thể riêng, nên gọi là tướng không hai.

Tướng v.v… được nhận thức của Sự tướng. Tức các ngôn luận được lập bày chung trong sáu thứ ngôn luận ở trước.

Sau Như lai diệt độ, hoặc có, hoặc không v.v… chẳng thể giảng nói, Luận sư Cảnh nói: “Đây là nói chấp hóa thân là Như lai. Sau Như lai diệt độ, hoặc “có”, “không” v.v… không thể giảng nói, các ngoại đạo chấp giải thoát, Thần ngã gọi là Như lai có ba thân riêng. Hoặc “có”, hoặc “không”, là việc không thể nói. Lại, trước dựa vào thể không có, nay ở đây, dựa vào thể mầu nhiệm, nên gọi là là sâu xa. Trái với năm thứ không có tánh là năm thứ có tánh như sự thích ứng, nên biết.

Đoạn lớn thứ ba, Tư duy, lựa chọn các pháp, văn chia làm hai:

1/ Nêu. 2/ Giải thích.

Tư duy, lựa chọn Nghĩa Tố-Đát-lãm. Tạng Tố-Đát-lãm dựa vào luận này để nói bảy phần thuộc nhiều phần trong mười hai phần, trừ Duyên khởi, Thí dụ, Bốn sự, Bổn sinh. Bốn phần này thuộc về tạng Tỳ-nại-da, là tự tánh của Duyên Khởi, là ba quyến thuộc khác. Lại, trừ Luận Nghị vì thuộc về tạng A-tỳ-đạt-ma. Dựa trong bảy phần, trừ đơn bài tụng Già-đà, kinh Phúng bài tụng, sáu phần giáo còn lại là đối tượng tư duy lựa chọn nghĩa Tố-Đát-lãm. Đơn bài tụng Già-đà là đối tượng tư duy lựa chọn nghĩa Già-đà. Ở đây ba thứ Thắng nghĩa Già-đà, nghĩa là nói về lý Vô ngã.

Ý thú Già-đà; Là giải thích ý Già-đà, như bốn ý thú v.v…

Già-đà nghĩa thể. Luận sư Cảnh nói: “Nghĩa là nói về thể tánh khác nhau của các pháp. Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nghĩa là nói về nghĩa lý, thể tánh trong Già-đà.

Y cứ trong Thắng nghĩa Già-đà, văn chia làm hai:

1/ Nêu bài tụng của kinh. 2/ Tùy theo giải thích riêng. bài Tụng có trong bốn mươi bốn. Pháp sư Thái nói: “Được chia làm hai:

1/ Có mười sáu bài Tụng, chỉ rõ số quán của phẩm Tạp nhiễm.

2/ Có ba mươi tám bài Tụng, nói rõ chủ thể quán Vô ngã v.v… của phẩm Thanh Tịnh.

Bị Luận sư nói: “Đầu tiên, có mười một bài Tụng, nói về Nhân Vô ngã. Tiếp theo, có năm bài Tụng, nói về thời gian mà tạp nhiễm khác nhau đã nương tựa. Sau, có hai mươi tám bài Tụng, nói về phẩm Thanh tịnh, lúc quán Như thật được thanh tịnh v.v…

Nay, nương theo điều mà hai Luận sư Cảnh, và Cơ đã phán quyết, mà chia thành mười hai:

1/ Chín bài Tụng đầu, nói không có ngã của hữu tình và các pháp của Nghĩa thể, tác dụng.

2/ Có hai bài Tụng nói về Vô minh, tham ái, tự tánh Tạp nhiễm của tại gia, Xuất gia.

3/ Có năm bài Tụng, nói về phẩm Tạp nhiễm dựa vào thời gian của Nhân.

4/ Có bốn bài Tụng nói về Tự, tướng cộng tướng và hai Đế quán.

5/ Có hai bài Tụng nói về không có nghĩa hòa hợp của ba thứ ba pháp.

6/ Có một bài Tụng nói về tâm sở đồng tánh tương ưng với chẳng phải tánh v.v… khác nhau.

7/ Có hai bài Tụng dựa vào lý của hai Đế, nhằm nói về “Nhân”, “Pháp”, “có”, “không”.

8/ Có một bài Tụng nói về người làm (tác giả) người nhận (Thọ giả), “một”, “khác” không thể nói.

9/ Có năm bài Tụng giải thích về thưa hỏi nghi ngờ chung.

10/ Có một bài Tụng nói về Tập sinh Khổ Đế, giải thoát v.v…

11/ Có một bài Tụng nói về thức A-lại-da, thí dụ như dòng Trì phái.

12/ Bảy bài tụng sau, chỉ thị rõ ràng về sự hiểu rõ giải thoát Biến tri và ràng buộc Biến tri.

Văn trong chín bài Tụng đầu được chia làm ba:

a/ Năm bài Tụng đầu, chín thức nói Vô ngã và tác dụng.

b/ Ba bài Tụng rưỡi, nói lại pháp không có tác dụng.

c/ Có nửa bài Tụng sau nói về pháp từ duyên sinh, tự nhiên mà diệt.

Trong giải thích bằng văn xuôi được chia làm hai: a/ Giải thích chung về ý bài tụng.

b/ Nhắc lại riêng, giải thích.

Đối trị thêm, bớt biên chấp, nghĩa là chấp có tác dụng của ngã, gọi là tăng ích; bác pháp tánh “không”, gọi là tổn bớt. Đây là nói theo cảnh giới chung của ba thừa, không nói pháp tăng và Chân như bớt.

Trong phần nêu riêng, giải thích, hoặc tùy theo nghĩa, giải thích thành mười hai đoạn. Như thế, nửa bài tụng ngăn ngừa phân biệt của nghĩa riêng về đối tượng phân biệt ngã. Nghĩa là bác bỏ “ngã” lìa uẩn. Các pháp cũng không có tác dụng v.v… Nghĩa là bác bỏ “ngã” tức uẩn, vì tác dụng của các uẩn ngã cũng đều không. Đây là nói không lấy vi tế nhiều ngã, tức là chủ thể đối trị v.v…

Luận sư Cảnh nói: “Biết rõ chỉ pháp lưu chuyển uẩn, giới, Xứ của mười hai chi Hữu, không chấp nhiều ngã chân thật, cho nên trừ chấp chúa tể v.v…”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nói nhiều pháp vi tế như các uẩn v.v… tức là chấp Năng đối trị chủ tể v.v… không dựa vào một thân để chấp có vi tế, vì nhiều thật ngã.”

Thành Duy Thức chép: “ngã” lẽ ra như uẩn, vì chẳng phải thường, “một”. “Nếu “ngã” này là không, thì làm sao Kiến lập trong, ngoài, thành tựu v.v… ?”

Kế dưới đây, có sáu lần “thế nào?” Đều dựa theo trước để khởi câu hỏi sau. Ở đây, ý hỏi rằng: Nếu “ngã” là “không”, thì làm sao lập ra trong, ngoài?”. Câu hỏi thứ hai rằng: “Nếu tất cả là không thì làm sao được có người, chủ thể quán “không”, cảnh, đối tượng quán không? Câu hỏi thứ ba rằng: “Chủ thể, đối tượng quán (năng, sở quán) đều là không, sao được có phàm, Thánh khác nhau?”

Luận sư Cảnh giải thích thêm: “Cũng có thể phá bậc Thánh kia, nghĩa là Độc Tử Bộ chấp có tánh của “ngã” và phá phàm phu chấp “ngã”, đều là điên đảo.

Câu thứ tư, hỏi rằng: “Nếu phàm, Thánh là không thì sao lại được có chủ thể giáo (Năng giáo) đối tượng được giáo hóa (sở quả), kia, đây khác nhau?”

Câu hỏi thứ năm: “Nếu không có “năng giáo”, “sở hóa” thì làm sao được có người nhiễm, kẻ tịnh?”

Trong đây là đáp câu hỏi đầu, pháp giả, chẳng chân thật, là đáp: “Nhân”, “Pháp” chẳng phải thật. Với ba câu hỏi sau, chỉ đáp: “Ngã” Vô thường.

Sáu pháp hỏi đáp không có tác dụng, như thứ lớp kia, chủ tể, tác giả đều không có sở hữu, nghĩa là không có nhậm trì, không có chủ tể, không có sai khiến: Nghĩa là không có tác giả.

Sự khác nhau trong đoạn thứ ba, là nhân sở y và thời gian. Luận Đối Pháp nói: “Nghĩa là đối với thời gian nhân, có chủ thể dẫn (năng dẫn), đối tượng dẫn (sở dẫn). Đối với thời gian của quả, có chủ thể sinh (năng sinh), đối tượng được sinh (sở sinh).

Dẫn phần vị nhân, gọi là nhân; phần vị biến chuyển, thành thục,

gọi là quả. Hai thứ này, gọi là thời phần. (phần vị thời gian). Cho nên, ở đây nói: “Các pháp có phân, các khổ có nhân, bảy thứ trước đều là có nhân nên gọi là các pháp có nhân. Hai thứ sau là các khổ, nhưng ái thủ hữu vi có nhân nên gọi là các khổ có nhân chẳng phải trong cũng chẳng phải ngoài v.v… trong bài Tụng, cho đến chủ thể sanh tạp nhiễm. Ý trong đây nói mười lăm bài Tụng nói về Phẩm tạp nhiễm dựa vào nhân, trong thời gian.

Hai bài Tụng đầu, nói về nghiệp phiền não sinh tạp nhiễm. Ba bài Tụng dưới, nói dựa vào các hành quá, hiện nay sinh tạp nhiễm, không dựa vào vị lai mà sinh tạp nhiễm.

Y bảy câu đầu, nói vị lai không sinh tạp nhiễm. Năm câu sau, nói dựa vào quá, hiện có thể sinh tạp nhiễm. Nghĩa là không dựa vào vị lai, căn trong, trần ngoài mà sinh ra tạp nhiễm, vì hành chưa sinh nên ở đời quá khứ có thể được sinh Hành. Cho nên, nói rằng: “có thời gian mới có thể được”, chứng tỏ trái lại, vị lai không có thời gian để được.

Lại giải thích: “Vị lai ở vị lai sinh ra nhiễm không thể được. Từ vị lai đến hiện tại sinh nhiễm có lúc được. Nếu thành đã sinh, tức do tướng này không có phân biệt.” Đây là giải thích lời bài tụng nói: “Giả sử các hành đã sinh. Do đây nên không được.”

Nghĩa là giả sử trong quá khứ, hiện tại đã sinh ra hành, tạo ra quán bất sinh, không ở trước, trong, ngoài, chính giữa. Do quán này, nên không còn phân biệt, không được sinh ra ba thứ tạp nhiễm. Vì vị lai vô tướng nên không có phân biệt. Thích luận nói vị lai không có tướng, là nói tướng vị lai đều thật có, đều là vô phân biệt mà sanh tạp nhiễm.

Như đây, như thế, tương lai quyết định không thể biết, kết nàu vị lai quyết định không thể biết, nên không sinh tạp nhiễm.

Nếu không phân biệt như thế, thì loại khác đôi khi có thể được. Nghĩa là nếu không phân biệt như thế, thì vị lai sẽ khác với quá khứ, hiện tại, đôi khi có nghi rằng, vị lai có dẫn sinh các tạp nhiễm có thể được. Nếu đối với quá khứ, thì có thể phân biệt như thế.

Như thế “Như thế, từng có tướng mạo vì có thể phân biệt.” Đây là giải thích trong bài tụng: Quá khứ có thể phân biệt, năng sanh tạp nhễim chẳng phải chỉ từng mà có thể chẳng phân biệt, cho đến sanh các tạp nhiễm. Đây là giải thích trong bài tụng. “Phân biệt từng đã trải qua, chẳng phải từng cũng phân biệt.” Đại ý này xác định rõ chẳng phải chỉ có cảnh đã từng trải trong quá khứ có thể phân biệt sinh ra các tạp nhiễm, mà ngay như các cảnh hiện tại chưa từng trải qua, vì chưa từng trải, nên dù không rõ ràng “duyên” lấy tướng mạo đó, nhưng tùy theo chủng loại đã từng được trong quá khứ.

Với cảnh mới của hiện tại này cũng có thể phân biệt sinh các tạp nhiễm. Đây là văn kết, rất dễ hiểu.

Hành, dù có từ vô thỉ nhưng mới có thể được. Nghĩa là từ thời vô thỉ đến nay, Hành thường theo đuổi khởi, cho nên, vô thỉ đến nay thường khởi theo, cho nên vô thỉ thường mới sanh khởi, cho nên mới chẳng phải là không.

Trong đoạn thứ tư có bốn bài tụng:

Một bài tụng rưỡi đầu, nói về quán Tự tướng. Nhật thân, nghĩa là Phật. Kiều-Đáp-Ma, Hán dịch là Nhật chữ, nên xưng Phật là Nhật thân. Nửa bài tụng tiếp theo, nói về quán cộng tướng. Hai bài tụng sau, nói về quán hai Đế:

Ba câu đầu, quán Thắng Nghĩa Đế; năm câu sau, quán thế tục Đế. Vì pháp không có tác dụng thật, nên không có si thật. Vì không có hữu tình thật, nên không có si thật. Vì thế, nên ba câu trên nói: “Si không thể si, si cũng không thể si người kia. Chẳng phải người không ngu khác có thể ngu kia, đây gọi là quán Thắng Nghĩa đế.

Sự ngu si trong quán Thế đế chẳng phải không có. Chẳng phải người không ngu khởi, có htể nói là có si và người có si.

Đoạn thứ năm, có hai bài tụng. Trong giải thích, nói nghiệp là sở tùy (đối tượng tùy); Thức là năng tùy (chủ thể Tùy), vì quả tùy theo nhân, không có trong Thắng Nghĩa.

Lại ba đời, ba nghiệp, nói là không hòa hợp, chẳng phải đối với một đời. Lại một đời ba nghiệp không có tướng thật, nên chẳng phải không có pháp giả. Nếu đời kia và nghiệp này lại tương ưng lẫn nhau, các hành như phước v.v… không có hòa hợp, lại tương ưng lẫn nhau, nói là nghĩa hòa hợp. Ba nghiệp của ba đời làm phước v.v… quyết định không có nghĩa tương ưng.

Đoạn sáu, trong giải thích một bài tụng: tâm tương ương cũng thế. Không thật có tánh tương ưng tùy chuyển, chẳng phải không có pháp giả. Lại, tương ưng, nghĩa là tánh đồng; Bất tương ưng, nghĩa là tánh riêng. Chẳng phải tánh “đồng”, nghĩa là hoặc không tương ưng; chẳng phải tánh “dị”, nghĩa là hoặc chẳng phải bất tương ưng. Do đây nên biết không có tánh tùy chuyển thật.

Trên đây, đã giải thích hai câu đầu. “Lại chẳng phải tất cả tâm hoặc tương ưng; hoặc không tương ưng.” Là giải thích hai câu dưới, trong tương ưng lại chẳng phải tất cả nhất định tương ưng, với tất cả. Nếu tất cả bất tương ưng thì cũng chẳng nhất định bất tương ưng, đối với Thắng Nghĩa đế, không có nghĩa thật sự tương ưng, chẳng tương ưng.

Đoạn thứ bảy có hai bài tụng, dựa vào lý của hai Đế, để nói về “người”, “pháp” “có”, “không”:

Một bài tụng giữa, đầu dựa vào Thế Tục Đế, nói về nhân duyên tùy chuyển của tâm. Nửa bài tụng tiếp theo, dựa vào Thắng nghĩa đế, để nói về Thể của “ngã” là không. Một nửa bài tụng sau, nói dựa vào Thế Tục Đế, có làm, thì thọ.

Lưu, nghĩa là giống nhau, giống nhau vì quả nối tiếp. Không có đoạn, nghĩa là không giống nhau vì quả sinh. Đây là nói quả Đẳng lưu và ba hữu khác là quả.

Đoạn thứ tám có một bài tụng, nói về tánh “một”, “khác” của người, vật không thật có, vì chỉ có nhân quả khác nhau sinh.

Đoạn thứ chín có năm bài tụng, giải thích trong vấn nạn của nghi chung. Lại ở đây nhân của đạo không dứt.

Bốn câu trong bài tụng, như thứ lớp kia giải thích về bốn vấn nạn này:

1/ Nạn rằng: “Nếu không có “ngã”, về sau có, thì lẽ ra là đoạn?”

Đáp câu đầu: “Vì nhân của Đạo không dứt.”

2/ Có nạn rằng: “Quả nên cùng sanh?”

Đáp lại lời vấn nạn này: “Tác dụng hòa hợp chuyển biến, chẳng phải ngay tức khắc, vì chẳng phải cùng có tác dụng hòa hợp.

3/ Có người vấn nạn: “Nếu không có thật ngã thì lẽ ra phải từ tất cả, vì tất cả được sinh?”

Kế là đáp rằng: “Từ nhân, mà sinh tự, không có nhân tha, vì có bất sinh.”

4/ Có nạn rằng: “Đã không có “ngã” thì ai nhiếp thọ việc đã làm, vì tác dụng của sinh, tử v.v… ?”

Ở đây đáp: “Và nhiếp thọ, việc đã làm, do nhân không dứt, quả sinh, lập giả, nghĩa là chủ thể nhiếp thọ, vì đối tượng tác động thật ngã, nên trở thành không có. Do đây gọi là bốn câu như thứ lớp.

Bài tụng đầu, “chỉ bày rõ cho đến” không thể nhìn thấy”, Luận sư Cảnh nói: “Đây là y cứ ở cảnh ngã sở duyên (đối tượng duyên ngũ) của Mạt-na, gọi là tự nội chứng. Về hành tướng của Mạt-na chấp ngã, thật khó biết, gọi là vô sắc, không thể thấy.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Kinh nói: “Vì sắc tướng là Tầm, Tư, vì khó nói, bày cho người khác, nên không thể thấy.” Tự tướng sắc sở chứng tánh lìa nói năng, vì cảnh tầm từ không gọi là tự tướng, gọi là tầm tư, khó chỉ bày cho người.

Đoạn thứ mười có năm bài Tụng nói về tập trong khổ sinh , chỉ rõ Ngã kiến kia do thứ lớp Tập phát sinh khổ, nghĩa là tham ái chính là vì tự thể của Tập, tức cảnh nội tham, gọi là duyên tham ái, năng sinh khổ, đều gọi là Tập. Ngã Kiến và Khổ đều gọi là nhân duyên sẽ khổ. Thể của Ngã kiến cũng là Khổ.

Đoạm thứ mười một, một bài Tụng nói về thức A-lại-da. Thí như phái trì lưu, ở đây nói là nghĩa “bất nhất”. Kinh Lăng-già nói: “Như biển gặp gió duyên cảnh v.v… gió bị kích động v.v… nói về bài Tụng nghĩa không khác. Vì thế, nên nghĩa văn đó đây không sai trái. Lại, ở đây y cứ ở nghĩa gốc, ngọn, còn kinh kia thì y cứ ở nghĩa Thể, Dụng, cả hai nghĩa đều thành không có nghĩa “một”, “khác”.

Đoạn thứ mười hai, có bảy bài tụng, chỉ bày rõ về sự hiểu rõ trong giải thoát, biến tri và ràng buộc biến tri. Văn chia làm hai:

1/ “Lại, pháp hành…”: Giải thích chung bảy bài Tụng: hiểu rõ ràng buộc biến tri.

2/ Giải thích riêng bảy bài Tụng.

Trong giải thích riêng có hai:

a/ Một bài tụng nói hiểu rõ ràng buộc biến tri.

b/ Sáu bài tụng còn lại nói về hiểu rõ giải thoát biến tri. Trong đó, một bài Tụng đầu, nói về “hoặc” đã lìa, tức là Mạt-na với bốn “hoặc” đều đồng sinh, đồng diệt, chẳng ttrước, cũng chẳng phải sau. Nghĩa là Kim Cương Đạo Khởi ý nhiễm bốn “hoặc” đều dứt cùng lúc, cho nên, không có trước, sau.

Lại, chẳng phải trước, nghĩa là Mạt-na với “hoặc” vì thường đều cùng sinh; sao chẳng phải sau, tức đều diệt với hoặc kia.

Giải thích sau phù hợp thuận với văn xuôi.

Tiếp theo, hai bài Tụng kế làm rõ tánh giải thoát.

Luận sư Thái nói: “Chính Mạt-na kia trước đều cùng lúc với “hoặc”, chứ chẳng phải vì tánh nhiễm của bốn “hoặc”, tức nói bốn “hoặc” đều cùng lúc, vì Mạt-na giải thoát bốn “Hoặc”, nên chẳng phải Mạt-na kia đều sinh chung với “Hoặc”. Sau khi dứt “hoặc” rồi, đã có riêng bốn ý thanh tịnh khác sinh, khác ý nhiễm trước kia.”

Bị Luận sư nói: “Có riêng ý thức thứ sáu sinh, khởi, trị tâm Mạt-na và “hoặc”, nên ý thức thứ sáu tự có “hoặc”; không có “hoặc”, dù khác mà tánh vẫn thanh tịnh, tức gọi là giải thoát.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nhiễm ô trước không gọi là giải thoát, chẳng phải ý tịnh sau được gọi là giải thoát ý của Nhị thừa chỉ nhiễm ô không có, vì đối tượng tịnh (sở tịnh) là không, nên ý của chủ thể tịnh (Năng tịnh) cũng không có, chứ chẳng phải chủ yếu ý tịnh mới gọi là giải thoát.”

Một bài tụng kế là, giải thích Niết-bàn Hữu Dư. Một bài tụng kế nói về Niết-bàn Vô Dư . Một bài tụng sau, nói không có thật thú hướng sinh tử, Niết-bàn.

Đoạn thứ hai, giải thích về thú trong Già-đà. Văn chia làm ba:

1/ Kết trước, sinh sau, nêu lên thưa thỉnh.

2/ Nêu Già-đà.

3/ Tùy theo giải thích riêng.

Văn trong năm mươi mốt bài tụng chia làm hai:

1/ Một bài Tụng đầu, Phạm vương thỉnh cử hỏi.

2/ Năm mươi bài Tụng sau, Đức Thế tôn đáp.

Thưa hỏi có hai: Nửa bài tụng trên khen ngợi, nửa bài tụng dưới thưa . Có ba:

1/ Hỏi về Thể của học.

2/ Hỏi về Số của học.

3/ Hỏi về pháp học.

Như thứ lớp phối hợp thỉnh Học và Sở học và Văn tu học trong bài Tụng.

Y cứ trong phần đáp năm mươi bài Tụng, có hai giải thích:

a/ Nếu lấy đoạn văn thì hai mươi hai bài Tụng của quyển này, tức hai mươi hai đoạn.

b/ Quyển sau có hai mươi tám bài Tụng, giải thích chia làm mười chín đoạn. Đến quyển sau sẽ phối hợp năm mươi bài tụng. Nếu lấy khoa nghĩa thì chia làm hai:

1/ Một bài Tụng đáp thể của học, số của học.

2/ Số bài Tụng còn lại, đáp tu học ở đường lai.

Y cứ phần đáp trong tu học đương lai, được chia làm mười bốn đoạn:

1/ Một bài Tụng, nói về phương tiện Học.

2/ Có một bài Tụng, nói về thứ lớp Học sinh khởi.

3/ Một bài Tụng, chỉ rõ về thứ lớp thanh tịnh khác nhau của hữu Học.

4/ Một bài tụng nói về quả sở đắc của tu tập chung riêng.

5/ Một bài tụng nói về sự tu tập chung, riêng, nhân duyên xoay vần của hữu Học.

6/ Có ba bài Tụng, nêu chung, nghĩa là thứ lớp làm nhân quả sau.

7/ Tiếp theo, có ba bài tụng, nói về cộng với bất cộng thành, bại của hữu Học.

8/ Có một bài Tụng, nói về Học chánh, tà.

9/ Một bài Tụng nói về ba học lìa chướng thành mãn.

10/ Có một bài Tụng, nói về sự khác nhau của Thọ.

11/ Một bài Tụng nói về thuần túy, tạp nhạp có thể được của hữu Học.

12/ Có hai mươi mốt bài tụng, nói thuần nói về Giới Học, xa lìa thanh tịnh.

13/ Có chín bài Tụng rưỡi, nói thuần túy về Định học, xa lìa, thanh tịnh.

14/ Có ba bài tụng rưỡi, là nói thuần về tuệ học, rốt ráo thanh tịnh.

Chúng sinh lười biếng phần nhiều so sợ hãi mà ra . Nghĩa là vì ưa nghe tóm tắt, cho nên sợ tu học nhiều. Dù có sáu độ, muôn hạnh, nhưng chỉ nói ba học, vì danh từ ba học gồm thâu tất cả hạnh, vì chẳng phải nói một cách rõ ràng, nên gọi là mật ý.

Như thế, sáu chi chỉ bày rõ ràng bốn thứ Thi la thanh tịnh, nghĩa là một chi đầu, là “Thọ”; năm chi sau là “Trì”. Vì đối với Trì là gốc, nên là căn bản sở y (đối tượng nương tựa).

Câu đầu là chung, vì mới thọ giới gọi là an trụ. Năm chi sau là bốn tên thuộc Trì giới, gọi là bốn tịnh, như văn đã nêu.

Về nghĩa sáu chi này trước đây dù nói sơ lược, nhưng đến Địa Thanh văn thì nói rộng.

Chỉ bày bốn đường ba cõi, Nghĩa là trì giới được đường lành người, Trời của cõi Dục. Định học được cõi trời của hai cõi trên; tuệ Học được cõi Niết-bàn.

Bốn đường trên đây hợp thành ba chỗ: Giới biệt giải thoát thành tựu được sanh cõi Dục. Tâm hữu học được sanh hai cõi trên, tuệ học được chứng Niết bàn.

Lời nói này chỉ rõ sỡ đắc (đối tượng chứng đắc) của hai đạo Thế gian và, Xuất thế gian. Nghĩa là hai chỗ của ba cõi trước là sở đắc của đạo Thế gian (chỗ mà Đạo Thế gian được); một cõi sau, một chỗ mà Đạo xuất thế gian được.

Hai an trụ hai thứ:

1/ Người thú hướng Niết-bàn v.v… Cảnh Pháp sư nói: “Giới an giới và an Học tâm. Học tâm an Học tâm và an Học tuệ.

Nói: “chỉ bày rõ trung gian, cho đến “làm hai thứ nhân duyên an trụ.” Nghĩa là Định tuệ đồng thời có chung luật nghi, hay làm nhân 738 duyên an trú của Định, tuệ.

2/ Nói: “chỉ bày rõ một thứ hơn hết hay làm nhân duyên an trú của Niết-bàn.” Nghĩa là tuệ của ba học vượt hơn, ở chỗ dứt “hoặc”, chứng Diệt, có khả năng làm nhân duyên an trụ Niết-bàn.”

Cơ Pháp sư giải thích: “Làm rõ tăng thượng giới học đầu tiên, cho đến nhân duyên an trú. Đây là giải thích hai thứ an trú xoay vần làm nhân duyên: Nghĩa đầu, là Giới Biệt giải thoát tăng thượng, có công năng an trú giới Tĩnh Lự, và tâm định phương tiện tăng thượng. Tâm định phương tiện, lại hay an trú tâm định căn bản và tu tuệ tăng thượng, là gọi là đầu tiên an trú hai thứ nhân duyên. Giới Biệt giải thoát dẫn sinh, định, giới; và vì định, nên phương tiện định đầu tiên dẫn sinh định căn bản. Và, vì Tu tuệ, tức Định, tuệ, Trung gian này đều lúc thuộc về giới học Tĩnh Lự, có thể làm nhân duyên an trú của hai thứ Định, tuệ Vô lậu, là hai thứ nhân duyên an trụ.

Nói trung gian. Nghĩa là giới, định đầu tiên, về sau, sinh ra định, tuệ ở nhân trước của Định, tuệ Vô lậu, nên gọi là Trung gian.

Chỉ bày rõ một thứ trên hết, hay làm nhân duyên an trú của Niếtbàn: giải thích một khả năng thu hướng Niết-bàn, xoay vần làm nghĩa nhân duyên, vì nghĩa nhân duyên chung cho hai câu trên. Một thứ tuệ Vô lậu trên hết trong ba, cũng là quả cùng cực được sinh ra bởi hai nhân duyên (do hai nhân duyên sinh ra), nên gọi là trên hết.

Nêu hiển bày tu tập, hoặc riêng, hoặc chung, tùy theo sự thích ứng, nghĩa là giải thích về thuần, tạp trên mà tu tập nghĩa. Tu ba học riêng, gọi là thuần túy; tu ba học chung, gọi là tạp nhạp. Nếu người hành động hướng về bất tịnh thì ảnh hưởng riêng hướng đến tịnh, cũng thu hướng cõi thiện, nghĩa là ảnh hiển hướng đến cõi ác.

Một giới đầu là bất động: Nghĩa là Giới học đầu tiên có thể tu chỉ có một, vì không nhờ Định, tuệ, cũng được thành.

Chính giữa không lìa ban đầu. Nghĩa là Định Học thứ hai không lìa Giới học, tu phương tiện được thành.

Không lìa hai học trên. Nghĩa là tuệ học thứ ba phải có, đủ hai Học đầu. Nếu A-la-hán ba học đã mãn, thì vượt qua tất cả Học đó.

Từ đây về sau, sẽ chỉ bày về thọ trì giới tướng. Nghĩa là hai mươi mốt bày bài tụng dưới, đây sẽ nói về tướng thanh tịnh của giới học.

Người xướng linh nói là giết mổ dê v.v… Nghĩa là theo pháp của phương Tây, nếu có người gây ra việc ác, thì bắt buộc họ phải tham dự vào nhóm tội nhân tuần hành, vừa đi vừa tố cáo: “người này đã gây ra những tội ác như thế, như thế”, đó là giết mổ dê v.v…

Người xướng lên nhơ nhớp, đó là nhà dâm nữ v.v… Chiên-Đồ-la và nhà Yết-Sỉ-Na, nghĩa là Chiên-Đồ-la, tức chấp các căn bản. Nương tựa vào nhà chấp ác, lại còn gây ra điều ác cùng cực, gọi là Yết-Sỉ-Na, như người giết mổ, gọi là chấp ác. Kẻ chấp ác kia tay cầm dao, gậy v.v… gọi là Yết-Sỉ-Na. Kẻ này tức loại cai ngục.”

Lại giải thích: “Nhà Yết-Sỉ-Na, Hán dịch gọi là Kiên cần gia.” Như người xuất ly, cũng không có gây ra việc ác Luận sư Thái nói: “Xuất gia, gọi là xuất ly. Hối, gọi là ác tác. Đối với các tội nhỏ, thấy rất sợ hãi. Ở đây giải thích như người xuất gia kia cũng không có ăn năn, cho đến không phạm tội nhỏ, nên nói rằng: “không có ăn năn.” Nếu gây tội nhỏ, như người kia hay ăn năn, về sau, cũng không có phạm tội v.v… Như người tạo ác nọ cũng không có trái phạm, nghĩa là ăn năn vì làm điều thiện ít, thì không phạm.

Giải thích bài tụng: “Chẳng phải rất trầm, rất phù v.v…” Nghĩa là xa lìa điều ác xấu kém mà tạo tác thì chẳng phải rất phù. Vì xa lìa thất niệm, nên trụ chánh niệm. Thời gian rốt ráo, nghĩa là căn bản. Thời gian phương tiện, nghĩa là quyến thuộc. Trong hai thời gian này, tu hành phạm hạnh, đều được thanh tịnh. Bài bài tụng này nói về nghĩa của năm chi giới. Năm chi, là như bài tụng Kệ Tạp Tâm nói:

“Căn bản quyến thuộc tịnh

Không bị “giác” làm hoại

Nhiếp thọ ở chánh niệm

Thuận theo đạo Niết-bàn.”

Ở dưới giải thích rằng: “Căn bản tịnh. Nghĩa là lìa nghiệp đạo căn bản. Quyến thuộc tịnh. Nghĩa là lìa nghiệp ác trước, sau.

Không bị “giác” làm hoại. Nghĩa là lìa tham, sân.

Nhiếp thọ ở chánh niệm. Nghĩa là nhiếp thọ niệm Phật, Pháp, Tăng.

Thuận theo Niết-bàn: Nghĩa là hồi hướng về Bồ-đề.

Dù thứ lớp trước, sau không đồng, mà tướng văn có đủ, nghĩa là chẳng phải quá chìm, quá nổi, tức là không bị “giác” làm hư hoại.

Thường khéo trụ chánh niệm, tức là nhiếp thọ ở chánh niệm.

Căn bản quyến thuộc tịnh. Nghĩa là như văn, tức đồng, mà tu hành phạm hạnh, tức là thuận theo Đạo Niết-bàn.

Luật sư Thủ nói: “Mỗi giới đều có đủ năm chi này.” Lại nói: “Thọ là căn bản, năm thứ chi này là tùy theo giới thiện. Dựa vào Thọ mà khởi, gọi là Chi, cũng có thể Chi gọi là Nhân, đều có thành tựu, là công năng của quả, để làm chi.

BẢN LUẬN QUYỂN 17

Nếu theo đoạn văn đầu, thì quyển này nói phần này là quyển mười bảy, giải thích hai mươi tám bài tụng trước là mười chín đoạn:

Một bài tụng đầu là một đoạn; hai bài tụng kế là một; một bài tụng kế là một; hai bài tụng tiếp theo là một; kế có mười bài tụng. Mỗi bài tụng là một đoạn. Hai bài tụng tiếp theo là một đoạn; hai bài tụng kế là một; hai bài tụng kế là một, tiếp theo, hai bài tụng rưỡi là một; Tiếp theo, ba bài tụng rưỡi là một đoạn.

Nếu dựa vào khoa nghĩa sau thì hai mươi tám bài tụng dưới chia làm ba:

Mười lăm bài tụng đầu nói về giới tăng thượng. Kế là có chín bài tụng rưỡi, nói về Định tăng thượng. Sau đó, có ba bài tụng rưỡi, nói về tuệ tăng thượng, nên phát siêng năng, tinh tấn là trình bày khắp.

Thường vững chắc: nghĩa là gia hạnh. Mạnh mẽ là không thối lui. Không nói không có tinh tấn. Đây là nói về tu nhân, không nói về quả của nhân đó.

“Không nói không có” trở xuống, là tinh tấn, nghĩa là trình bày khắp gia hạnh đối với điều thiện mới tu, không lui sụt một thứ nào. Đối với Khổ, có thể chịu đựng, nhiếp thiện, lìa khổ, hai thứ này đã chu toàn.

Vì lược “không”, vô trở xuống, chỉ nói là hai. Như Du-già quyển tám mươi chín nói rộng về tướng đó.

Năm chi không buông lung. Nghĩa là tinh tấn ba đời tức là ba chi. Tác ý trong mỗi đời là trước, gọi là công việc đã làm của thời gian trước, tức Tác ý gia hạnh là thứ tư. Và với tác ý tinh tấn, đều lùi với các tâm, tâm sở thân, ngữ nghiệp v.v… là năm chi.

Công đức đỗ-đa. Tức cựu Đầu-đà, nghĩa là thiểu dục, tri túc, lìa chấp mắc. Hán dịch dịch là Trừ khí, cũng gọi là đẩu tẩu.

Xa lìa tham dục quyến thuộc, tức pháp lộ điều ác, nhân tham dục sinh, nên gọi là quyến thuộc.

Xa lìa nhiều dục, nhân không biết vừa đủ, nghĩa là được y phục v.v… tốt, xấu đều vui mừng.

Xa lìa nhiều dục, không biết vừa đủ, nhân che chướng học tịnh. Nghĩa là ít theo việc đời, thô, xấu cũng chuyển theo, gọi là lìa nhiều dục.

Thọ công đức đổ đa là vắng lặng, lìa phiền não, gọi là lìa nhân che chướng Học tịnh, là tu phạm hạnh, giúp đỡ, gìn giữ mạng sống lâu.

Có đối tượng thọ. Nghĩa là giải thích về nghĩa ứng lượng mà thọ. Do lợi đã được, vì đổi thay, với lấy lợi. Nghĩa là giải thích được rồi, thì không khinh chê, chê thứ này được ít, đổi lấy thứ nhiều lợi hơn.

Năm thứ ác kiến, tức năm phiền não nhạy bén.

“Không thọ tín thí” trong bài tụng, không tham chấp lợi dưỡng, cung kính, là ý chung, không chấp ác kiến là câu thứ hai. Không giả dối thọ thí là câu thứ ba. Không chê bai chánh pháp là nửa bài tụng dưới. Văn cũng tổng quát.

Hoặc e sợ bị ghẻ phỏng gia hại. Nghĩa là chấp chặt ác kiến; giả dối thọ của tín thí, chê bai chánh pháp, tham dục đời sau; sinh ra nhân ác kiến. Năm thứ này được gọi là nhân của thứ ghẻ phỏng. Thọ của tín thí, tham chấp lợi dưỡng là nguyên nhân của sự cung kính phát sinh.

Tập gần thuận với định, các thứ đồ nằm. Nghĩa là các đồ nằm xấu kém, trong các đồ nằm. Do đây, lại thuận với sinh định vắng lặng, chẳng phải hai câu hôn trầm, điệu cử v.v… dưới.

Như thứ lớp, giải thích về tinh tấn vững chắc, và mạnh mẽ dứt trừ hai việc ác, tu hai điều thiện.

Đối với các phẩm thiện, sinh khởi dục: giải thích “sinh dục” trong bài tụng và không thêm đều ác.

“Rất chán ghét trong các dục”: là giải thích không có dục và ghét điều ác, là tu phẩm thiện, cho đến thói quen ngủ nghỉ: giải thích về ngủ nghỉ trước kia là có kham nhậm và tâm yên tĩnh. Nên mỗi khi ngủ, không nên để cho uể oải. Ngủ ấy giống như hôn trầm, cũng thuộc loại này. “nếu tâm chìm mất, cho đến vì không ở trong sữ yên tĩnh”. Đầu tiên, giải thích về lìa thùy miên, tư duy tướng định mầu nhiệm của ánh sáng. Sau, giải thích về lìa điệu cử, tu tướng giống như trạo cử: như khi di dạo khất thực, thực hạnh công hạnh lợi tha, vì không ở chỗ yên tĩnh, cũng lìa thùy miên.

“Nếu lúc ở chỗ yên tĩnh,vì thêm thùy miên, nên cảm thấy lo lắng, ăn năn về những gì đã trái phạm trước kia”: là giải thích về “ác tác” ở trước.

“Đối với điều không trái phạm, thì không lo lắng, ăn năn”: là giải thích về lìa “ác tác”.

“Thù thắng sau sau, sinh hy vọng, lo nghĩ: giải thích về sự vượt hơn, sinh hy vọng, lo lắng, trái lại làm rõ sự yếu kém trước trước, không hy vọng, không lo nghĩ. Đây là chứng tỏ nghe giống nhau, trừ tướng nghi chân.

Năm cái trên đây đều nói là cái giống nhau, để lìa cái thật.

Ân trọng vô gián chánh phương tiện. Ân trọng, nghĩa là tất cả chủng, tức tu đầy đủ. Vô gián, là thường hằng. Chánh phương tiện, nghĩa là tu phương tiện.

Địa sở y của nguy hiểm: Nghĩa là thân người, trời, gọi là Địa sở y. Do dục mất của, cho nên nguy hiểm. Vì các dục kia như bộ xương khô, nên khiến cho không no đủ, tức nêu bài Tụng sau để giải thích bài Tụng trước.

“Như vì khúc thịt nên mọi người đều có”: Cũng nêu bài Tụng sau để giải thích bài Tụng trước.

“Cũng như đuốc cỏ chính khởi hiện tiền vì đốt chảy hết phiền não: chỉ ở bài tụng sau, vì hai bài tụng trước không có. “Chẳng phải nhân duyên của pháp như hầm lửa lớn, vì sinh khát ái” v.v… Trở xuống, năm chữ “cố”, đều nêu trước, giải thích sau.

Đoạn ba là giải thích về Nghĩa Thể trong Già-đà. Văn chia làm ba:

1/ Kết trước, sinh sau.

2/ Nêu chín mươi mốt bài tụng, giải thích: nên nói chín mươi mốt bài tụng rưỡi.

3/ Cuối quyển mười chín, lấy chung một bài tụng để kết những bài tụng đã nói trên, thành mười bốn đoạn. Kết hợp trong quyển này có năm đoạn:

1/ Một bài tụng đầu, gọi là “Ác”.

2/ Có bốn bài tụng, gọi là “thuyết”

3/ Có năm bài tụng, gọi là “tham”

4/ Có ba bài tụng, gọi là “Lưu”

5/ Có ba bài tụng rưỡi, gọi là “bố”

6/ Có ba bài tụng, gọi là “Loại”

7/ Có hai bài tụng, gọi là “Dự”

8/ Có ba bài tụng, gọi là “Trì”

9/ Có năm bài tụng, lại gọi là “Lưu”

10/ Có bốn bài tụng, gọi là “Tham”

11/ Có năm bài tụng, gọi là “Tác”

12/ Có năm bài tụng, gọi là “cù lao”, nên nói bốn bài tụng rưỡi.

13/ Có ba bài tụng, gọi là “đắc nghĩa”

14/ “Các hành Vô thường” trở xuống, bốn mươi bốn bài tụng rưỡi, gọi là Luận nghi.

Trong đây, hoặc lấy bài tụng đã nói đầu tiên; hoặc lấy nghĩa của Tông để làm danh hiệu, như giải thích bài Tụng sau.

Giải thích thứ hai “nên nói v.v… ” trong bài tụng, gồm có bốn lượt giải thích. Trong lượt thứ ba lược qua không giải thích bài Tụng thứ ba.

Vì các pháp hữu vi đều thuộc về ba thứ ngôn,sự. Luận Câu-xá nói: “Lời nói của đường thế gian dựa vào ba thứ này, tức đường của ba đời

Ngôn sự, tức nói việc sở y. “Vô vi không đúng”, đây là nêu chung hữu vi, tức nói riêng dục mầu nhiệm trong nghĩa này, để vì “nên nói”. Tưởng của “nên nói” là danh. Do đó đến tên “dục”, người kia mới hiểu, nên họ không đánh hơi, ôm lòng ham muốn bên trong. Nghĩa là Đức Phật khuyên các tỳ-kheo không nên như voi điên say mềm kia thò vòi vào nhà người để cầu xin điều mà nó muốn.”

Trong lượt giải thích thứ hai, bài tụng đầu, nêu thời gian đợi chờ các dục: là giải thích câu đầu.

Do “nên nói”, nên sở dĩ có lúc chờ đợi, như bốn lượt giải thích ban đầu ở trước, lại theo thứ lớp giải thích, tức câu thứ hai dựa vào “nên nói” an trú.

“Quả của tà hạnh”, tức nửa bài tụng dưới nói chiêu cảm sinh tử.

Nửa bài tụng trên trong bài tụng thứ hai, gọi là bỏ dục hợp lý.

Nửa bài tụng sau, nói tu hành bị chê bai căn cơ không hợp đạo lý.

Và lúc chờ đợi dục. Nửa bài tụng sau cũng nói về dục, tất nhiên là chờ đợi thời gian. Vì nếu muốn thọ dung, thì phải có lúc chờ đợi mới được.

Lượt giải thích thứ ba cũng thế: Cũng là xả ngạo mạn để mong cầu không ngạo mạn.

Lượt giải thích thứ ba trong bài tụng thứ hai, chỉ thị rõ đối với các dục, vì hay biết rõ, là giải thích câu đầu.

Chữ “cố” của hai câu tiếp theo là giải thích câu thứ hai. Chữ “cố” của ba câu tiếp theo là giải thích câu thứ ba.

Lượt giải thích thứ tư, giải thích trong ba bài tụng trước.

Luận sư Cảnh nói: “Trong kinh khác, Phật, Thế Tôn đã vì các vị trời, nói là Bí-sô không thể hiển dương rạng rỡ đại nghĩa Thánh giáo của Như lai, mà chỉ mình ta có khả năng. Bấy giờ, các vị trời sinh tâm khinh miệt các Bí-sô và đối với ngay bản thân mình cũng sinh kiêu căng, ngạo mạn.

Do đức Phật vì nói ba bài tụng trước, cho nên các vị trời mới lãnh ngộ, bỏ tâm khinh miệt và tâm kiêu mạn.”

Pháp sư Khuy Cơ lại giải thích: “Khi đức Phật vì các vị trời kia nói ba bài Tụng trước, họ lãnh ngộ, nghe hai bài tụng trước, họ nhàm chán sâu sắc các dục; nghe bài tụng thứ ba, xả tâm lăng nhục, miệt thị và dứt kiêu mạn.

Đoạn thứ ba có năm bài tụng giải thích trong Tham:

Một bài Tụng đầu, hỏi, bốn bài tụng sau, đáp.

Ba bài tụng đầu trong phần đáp, là quán phương tiện; một bài tụng sau, là quán căn bản.

Trong phương tiện quán, một bài tụng đầu, là quám về cảnh nhàm chán; một bài tụng tiếp theo, quán bất tịnh.

Bài tụng thứ ba có ba quán:

1/ Khổ; 2/ Vô ngã; 3/ Quán thân niệm trụ.

Trong văn xuôi giải thích: “Nêu nhiếp các căn không có dục tham” trở xuống, là giải thích về quán căn bản của bài tụng thứ tư. Đoạn giải thích bài tụng kia liên quan đến sự phân biệt trước.

“Biết rõ là đã, chưa lìa dục tham” trở xuống, là chính giải thích Bản bài tụng. Cũng có thể là triền, dục tham này và Tùy miên có hai thứ kiết phần dưới, chính là giải thích bài tụng thứ tư: nói về tham dục sinh trong năm nhân.

Bài tụng thứ hai nói do ưa thích dục lạc, bài tụng thứ ba, nói do tưởng hữu tình nam, nữ v.v… bài Tụng thứ tư nói, có hữu tham mạnh mẽ ép ngặt.

Đoạn thứ tư, giải thích về việc lưu hành ba bài Tụng:

Một bài tụng đầu, là Thiên nữ hỏi; hai bài tụng còn lại, là đức Thế tôn đáp:

– “Vì sao Bí-sô có nhiều đối tượng bám trụ? Đối với ba thứ lo, mừng, xả, phần nhiều bám trụ ở Thọ nào?” Dưới đây là đáp:

– “Trụ ở xả Thọ.”

– “Vượt qua năm bộc lưu, phải vượt qua sáu ư?”

Đáp: “Lúc dứt trừ năm kiết phần dưới, vượt qua dòng thác bộc lưu của năm căn. Khi cắt dứt năm kiết phần trên, phải vượt qua bộc lưu của ý-căn thứ sáu.”

– “Thế nào là người tu định có thể vượt qua dục ái rộng mà vẫn chưa được thuyền lưng?”

Đây là hỏi người học làm thế nào dứt năm kiết phần dưới, phương tiện chưa được thuyền lưng ý lúc Vô học. Như người đời vượt qua biển, họ thường dùng hồ lô, hoặc túi da, hay thứ khác, làm thành chiếc phao nổi cột trên eo, gọi là thuyền lưng. Biển, là dụ cho sinh tử; ý thức như eo, tuệ như chiếc thuyền.

Trong phần đáp của hai bài tụng, bài tụng đầu chính thức đáp; bài tụng sau kết đáp.

Trong giải thích của văn xuôi, chỉ giải thích về phần đáp của hai bài tụng sau, mà tĩnh lự, thẩm lự, đế lự. Nghĩa là vì phân biệt trước, giữa, sau. Nếu hòa hợp với ái, thì cho là chưa được cảnh vượt hơn. Nếu tăng trưởng ái, hoặc không ly ái thì cho là đã được thắng cảnh. Nếu không hợp với ái, thì chưa được cảnh ác. Nếu người lui bớt ái, hoặc cách ly ái, thì cho rằng, đã được cảnh ác.

Lại có khác nhau, thì làm sao tu tập về định không có Tầm v.v…?

Lượt trước đã giải thích về tu định không có tầm là phương tiện dứtnăm kiết phần dưới. Do Sơ tĩnh lự có ba thức thân sẽ sinh Hỷ, Xả mà khởi ái si. Vì Tầm v.v… chưa hết, nên dựa vào định không có tầm, Từ đề tu dứt phương tiện.

Nay, sự khác nhau này dựa vào Tĩnh lự thứ hai, lại thường tu tập, gọi là như khéo dứt kia. Và, “lại nữa” ở trước, là nói dựa vào trì của văn, tư v.v… cõi Dục, vì chán các Tầm, nên gọi là định không có Tầm, là phương tiện dứt kiết phần dưới, dựa vào Sơ Tĩnh lự, lìa kiết đoạn phần dưới của cõi Dục.

Nay, sự khác nhau thứ hai, là tu Tĩnh lự thứ hai là định không có Tầm, Từ để cho xa kiết phần dưới, gọi là như khéo dứt kia.

“Ngoài ra như trước nói”. Nghĩa là hiểu rõ pháp, giải thoát, đều đồng với giải thích ở trước.

Như kinh nói: “Trục bánh xe tàm, thuyền lưng ý.” Tàm, như trục xe, có công năng nhiếp thiện, bánh xe ngự giá, trí xe vận chuyển vượt qua khỏi sự nguy ách. Thuyền lưng, như trên đã nói.

Đoạn thứn năm, ba bài Tụng rưỡi, nói về sợ hãi, trong đó chia làm ba:

1/ Một bài tụng rưỡi, là thỉnh.

2/ Một bài tụng, là đáp.

3/ Một bài tụng, là ngợi khen.

Mười dụng cụ giúp thân, như quyển thứ hai ở trước đã giải thích.

 

BẢN LUẬN QUYỂN 18

Mười bốn đoạn giải thích về nghĩa Thể trong Già-đà.

Trên đã nói năm đoạn xong, trong quyển này có tám đoạn hoàn toàn và phần ít đoạn (một vài đoạn) thứ mười bốn. Loại giải thích đầu tiên này có ba bài Tụng:

Một bài Tụng đầu, là hỏi; hai bài Tụng sau, là đáp.

Trong phần hỏi có năm:

1/ Nước nhuận sinh vượt hơn.

2/ Mở mang Đạo xuất thế.

3/ Học với thầy nào?

4/ Trụ học pháp nào?

5/ Không sợ chết.

Trong phần đáp:

Một bài Tụng rưỡi đầu, là đáp hai câu hỏi thứ nhất: Nêu đủ chín đức. Đã thành người vượt hơn, có thể nhuận sinh vượt hơn và mở mang Đạo xuất thế.

Nửa bài Tụng sau, đáp ba câu hỏi sau: dùng pháp để sửa cho ngay thẳng, cho thành khuôn phép, để dẫn dắt.

Luận sư Cảnh nói: “Nghĩa là lấy pháp thật, và dùng chánh pháp của vua, đối với kẻ ác thì chế phục rõ ràng; với người thiện, làm kẻ dắt dẫn.

Luận sư Thái nói: “Tráng có bốn nghĩa:

1/ Dùng giáo pháp.

2/ Nói chánh nhân quả.

3/ Dùng giới, luật để chế ngự.

4/ Dùng ba thừa để dẫn dắt.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Dùng pháp là đạo lý; để chánh nghĩa là thuận ích; để chế nghĩa là khuôn phép, để dẫn dắt nghĩa là khuyên răn. Lại, lấy pháp, là giáo; lấy chánh, là lý; lấy chế, là dùng giáo lý này để chế ngự; lấy dẫn dắt, nghĩa là huấn thị, chứ chẳng phải lấy oai nghiêm để hình phạt họ. Nghĩa là vì sức nhân nên là bố thí; sức sử dụng, nghĩa là chắc thật; trị bạn, nghĩa là tuệ xả.

Thế nào là suối? Nghĩa là chỗ sáu Xứ Xúc. Sáu Xứ, như suối; phiền não, như nước. Vì chỗ suối chảy ra, nên hoặc an thọ thuộc về Thọ, nghĩa là Lạc. Lại, do tâm vui, gọi là An thọ; thân cảm thấy dễ chịu, gọi là thuộc về Thọ, không an thì trái với đây.”

Lại có một giải thích: “An thọ là Hỷ lạc; thuộc về Thọ, nghĩa là

thân, tâm, hoặc hạt giống của Thọ.

Đoạn thứ chín lại giải thích trong “Lưu” (dòng chảy) có năm bài tụng được chia làm hai đoạn:

1/ Hai bài Tụng đầu; nói phàm phu Hữu học v.v… xoay vần có thể vượt qua bộc lưu.

2/ Ba bài Tụng sau, nói về Đạo rốt ráo vượt qua hẳn bộc lưu.

Trong hai bài Tụng đầu, trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp, một câu đầu, nói về phàm phu do niềm tin chân chính, nên vượt qua bộc lưu Dục. Ba câu sau, nói đều là Hữu học, vượt qua ba bộc lưu còn lại.

Về nghĩa bốn Lưu, như hai quyển thứ tám, thứ chín v.v… trước đã giải thích.

Hai mươi hai Xứ trong giải thích ba bài Tụng sau, như Địa Thanh văn có nói rộng. Và, nói về chủ thể chứng Đệ nhất trụ đạo, nghĩa là chủ thể chứng Diệt tận, tham, thứ mười, trong bốn bài Tụng:

1/ Một bài Tụng, là hỏi.

2/ Một bài Tụng, là đáp.

3/ Một bài Tụng, là kết.

4/ Một bài Tụng nói Đối trừ.

Trong phần giải thích, nếu dựa vào điều mà hai Luận sư cảnh, Cơ đã phán quyết được chia làm bốn đoạn:

1/ Giải thích bài Tụng đầu.

2/ “Thế nào là nhuận sinh” trở xuống, là giải thích bài Tụng thứ hai.

3/ Trong phần giải thích bài Tụng thứ ba, văn không đồng. Luận sư Cảnh nói: “Lược có sáu thứ dục riêng trở xuống.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Hoặc có sức tay “trở xuống”.

4/ “Lại có Sa-môn…” trở xuống, giải thích bài Tụng thứ tư. Nay, chia làm ba:

1/ Giải thích bài Tụng đầu.

2/ “Thế nào là nhuận sinh” trở xuống, là giải thích hai bài Tụng tiếp theo

3/ “Lại có Sa-môn…” trở xuống, là giải thích bài Tụng thứ tư.

Cây Nặc-Cồ-Đà. Cây này vốn từ một hạt giống mọc lên. Nhánh sau to dài, rũ sát mặt đất, tự có chúng sinh. Lại, chim ăn hạt cây, rẽ chúng nương tựa theo đường rẽ của cây. Lại mọc lên nhiều cây, rễ nương vào nhánh cây. Xoay vần như thế, từ một cây gốc, mọc ra nhiều cây. Nước gọi là duyên chung. Cho nên, Tham, Nhuế v.v… đều lấy nước ái thấm thuần làm duyên chung, đều là tự hạt giống mà làm duyên 78 riêng.

Ma-Lỗ-Ca-Điều: Là loại dây leo. Đây là dụ cho các dục. Xưa nói là Ma- Lâu-Ca-Tử. Sáu thứ dục khác nhau, giống như cây rừng. Vì tham hay quấn vòng quanh, nên dụ cho sắn bìm.

Trong nghĩa tóm tắt, hai thứ trong nhiều, ràng buộc riêng. Nghĩa là văn Luận tự giải thích gọi là sự ràng buộc riêng. Mỗi hạt giống khác nhau, gọi là nhân không chung, đều do ái thấm nhuần, gọi là duyên chung.

Phương tiện đoạn, dứt thắng lợi. là: Nửa bài Tụng trên, trong hàng bài tụng thứ tư, là nói rõ về tánh Vô thường rồi, không khởi tham chấp mắc, gọi là phương tiện đoạn.

Nửa bài Tụng sau, là nói vượt qua bộc lưu xong, cuối cùng không có thối lui, gọi là dứt thắng lợi. Hoặc tham, hoặc hớn hở, cho đến phẩm ái v.v… nghĩa là trong sáu dục riêng đã sinh ra phẩm ái, Nhuế, như trước nên biết.

Đắm say, ham thích, tức là thứ sáu Tầm, Từ năm trần bên ngoài.

Đoạn thứ mười một: có năm bài Tụng:

Một bài Tụng đầu, là hỏi; bốn bài Tụng còn lại, là đáp. Giải thích đầu tiên trong phần giải thích, là Tụng hỏi.

Thứ hai, “lại nói đức Như lai dựa vào nghĩa thứ nhất…” trở xuống, giải thích về bài tụng đáp thứ nhất.

“Do đây, chỉ bày rõ Học và Vô học” trở xuống, là giải thích bài tụng đáp thứ hai.

“Đây là chỉ rõ các Bà-la-môn” trở xuống, là giải thích bài tụng đáp thứ ba.

“Người được tĩnh lự dứt trừ hẳn tất cả” trở xuống, bài Tụng đáp thứ tư.

Nếu chưa lìa dục, vì vượt qua Dục lưu, vận động chân tay, phát siêng năng tinh tấn, gọi là chưa cùng tột đáy. Nếu đã lìa dục, thì gọi là được nguồn đáy, thường tham dự tiến tới dứt trừ các kiết phần trên, không vận động chân tay, siêng năng thêm tinh tấn, được gọi là chẳng phải các phần thân.

Đoạn thứ mười hai có năm bài Tụng, bốn hàng rưỡi bài tụng trước, trong sự cần cù, vất vả, có ba lượt hỏi đáp.

Hai câu đầu là một lượt hỏi đáp, nói về việc Đức Phật vượt qua bộc lưu, trời gọi là Đức Phật là Bí-sô.

Hai câu tiếp theo là lượt hỏi đáp thứ hai, nói Đức Phật không có duyên bám, không có trụ, đã vượt qua bộc lưu.

Dưới đây, có ba bài Tụng rưỡi là lượt hỏi đáp thứ ba, nói về Đức Phật không có bám trụ sự vượt qua tướng bộc lưu, trong đó một bài Tụng đầu, là hỏi; hai bài Tụng dưới, là đáp.

Trong phần đáp, một bài Tụng rưỡi đầu, là nói về chướng; một bài Tụng sau, là nói về pháp đối trị.

“Như lai ta đã phải siêng năng khổ nhọc…” là nói về Đức Phật khi xưa khổ hạnh ròng rã sáu năm, uổng công khổ nhọc, kém cỏi như thế, như thế. Do Phật hành khổ thực hạnh, nên pháp hành bị lui mất, nên gọi là kém.

“Như như ta kém, đã trụ như thế, như thế.” Nghĩa là biết pháp lành của ta bị lui mất, nên bỏ tà hạnh, Như như ta trụ, đã phiêu lưu như thế, như thế. Nghĩa là lại đến với ngoại đạo Uất Đầu Lam tử v.v… đã thuận theo quán sát, gọi là phiêu lưu. Dưới đây là phần nói về đối trị.

Đức Phật lại đến dưới cây Bồ-đề, bỏ tất cả phi phương tiện, gồm sự tinh tấn vô ích, gọi là bỏ đi sự khổ nhọc.

Không có kém, bớt, Nghĩa là pháp thiện tăng trưởng.

“Nói rộng về sự tươi trắng như thế” trở xuống, câu này gồm có hai nghĩa:

1/ Do không biết tu đủ, nên không rảnh an trụ, tức trái với trụ ở trước.

2/ Lại không tìm thầy của ngoại đạo khác v.v… vì tự nhiên thành Phật, nên không có trôi nổi.

Trong đây, “kỳ diệm” nên biết. Nghĩa là kết bài tụng đã nói trên là ứng bài tụng Già-đà.

Văn xuôi có ba:

1/ Nêu không có bám trụ, chỉ đồng với thuyết trước: Niết-bàn, Diệt định v.v… Nghĩa là nếu y cứ ở Niết-bàn thì vì lìa triền hiện tại, nên gọi là không có duyên bám, vì lìa tùy miên, nên gọi là không có trụ. Nếu ở Diệt định, Diệt tưởng, thì gọi là không có duyên bám; Diệt thọ, gọi là không có trụ.

“Đức Thế Tôn dựa vào xưa” trở xuống, 2/ giải thích; 3/ văn đáp.

Trước, là giải thích chung về trị chướng trong bài Tụng. Sau, là giải thích riêng.

– Chẳng phải phương tiện, nghĩa là ở chỗ Ni-kiền-đà, mỗi ngày chỉ ăn hột mè, mạch, tà tự khổ hạnh.

Ốt-Đạt-Lạc-Ca, nghĩa là mạnh mẽ, hưng thịnh. Xưa nói rằng, UấtĐầu-lam tử, tu định Phi tưởng với Ốt-đạt-lạc-ca.

A-la-trà, nghĩa là gặp gỡ, tức cựu A-lam, Già-lam, tu Vô Sở hữu xứ với ông ấy, tức nói khổ hạnh ở lạc hạnh trước kia.

Bốn nghĩa trong đây bỏ sự khổ nhọc vất vả v.v…, văn kinh như thứ lớp phối hợp giải thích. Nghĩa là lại “thời gian sau, ngồi tòa Bồ-đề” trở xuống, là câu thứ nhất, bỏ sự gian lao vất vả.

“Đã có pháp niệm, bèn được tăng trưởng”, là câu hai, bỏ sự kém cỏi.

“Như thứ lớp pháp thiện đã tăng trưởng” trở xuống, câu thứ ba là xả trụ.

“Do không biết đủ như thế” trở xuống, là câu thứ tư, bỏ trôi nổi, nên, nói là như thứ lớp.

“Sao lại dựa vào Niết-bàn, chẳng dựa, chẳng trụ, để làm rõ sự khác nhau” trở xuống, câu thứ ba là giải thích dứt khoát không có nương tựa, không có trụ trong hai lượt hỏi đáp đầu tiên. Trước, y cứ Niết-bàn để giải thích. Sau, y cứ vào Tưởng, Thọ Diệt để giải thích.

Không có nương tựa: là vượt qua triền hiện tại, không có trụ, là vượt qua Tùy miên.

“Trở lại, lại chỉ trụ nhân sinh của Địa dưới.” Nghĩa là lại sụt lui khởi “hoặc” của thiền thứ tư. Vì trụ nhân đó, nên tâm quyết định hướng Địa đó mà được quả. Nghĩa là qua đời ở cõi Dục, sinh lên tĩnh Lự thứ tư. Như Luận Đối Pháp nói: “Từng có Đệ tử bậc Thánh đã lìa dục của cõi Sắc, được vắng lặng giải thoát của cõi Vô Sắc, về sau quyết định sẽ sinh cõi Sắc hay chăng?”

Đáp: “Có”. Nghĩa là được định Diệt Tận , lui sụt sinh trong cõi Sắc, tức là cõi Vô Sắc này.”

Đại ý bài Tụng này nói, ngoại đạo có là siêng năng khổ nhọc v.v… đức Thế Tôn ta đã thoát khỏi sự vất vả nhọc nhằn của sinh tử, chứng Niết-bàn, vì quyết định đã lìa sinh tử. Nếu bậc Thánh lui sụt thì có siêng năng khổ nhọc, v.v…

Đoạn thứ mười ba, trong phần được nghĩa Già-đà. Một bài Tụng rưỡi, là hỏi; một bài Tụng rưỡi, là đáp.

Biết rõ đầu tiên kia, nghĩa là biết tập nhân. Ba thứ sau, là biết rõ Khổ, Diệt, Đạo, như thứ lớp. Khéo thấy, khéo biết, khéo xem xét, khéo thấu rõ. Nghĩa là dùng trí bốn Đế như tập v.v… như thứ lớp, nên biết.

Đoạn thứ mười bốn. “Các hành Vô thường” trở xuống, có bốn mươi bốn bài Tụng, là giải thích về luận nghị. Trong đó chia làm hai mươi bảy đoạn. Vì phân tích, biểu dương lý sâu sắc, nên gọi là Luận nghị.

Giải thích trong bài Tụng đầu, văn chia làm bốn:

1/ Giải thích trường hợp chung ở đầu: “có”, chẳng phải thường có, “không” chẳng phải thường không có.” Sinh và diệt đều là Vô thường. Lời nói Vô thường đi suốt qua ba đời chung và quá khứ riêng.

Uẩn và Thủ uẩn, đều gọi là các hành, ý ở Thủ uẩn. Nghĩa là thể của uẩn có cả hữu lậu,Vô lậu, Thủ uẩn chỉ có hữu lậu. Nay, trong nghĩa này, vì ý nói về Thủ uẩn.

2/ “Nếu quá khứ sinh quá khứ mà được” trở xuống, như thứ lớp, giải thích về Vô thường, câu thứ nhất, pháp có sinh diệt, câu thứ hai. Đời quá khứ đã sinh diệt, gọi là pháp Vô thường. Đời vị lai sẽ sinh, có thể diệt, gọi là pháp có sinh. Đời hiện tại hiện nay đang sinh, sắc diệt, nên gọi là pháp có diệt. Các hành của ba đời đều là pháp có diệt.

Nói vì đều là quá khứ, cho nên đồng. Nghĩa là các pháp đã qua, gọi là đều là quá khứ. Phân biệt với hiện tại, gọi là đã lui diệt. Lại, phân biệt với vị lai, gọi là sinh đã mất.

3/ “Nếu các uẩn kia ở vị lai” trở xuống, là giải thích trường hợp thứ ba.

“Nếu các hữu tình” trở xuống, giải thích trường hợp thứ tư. Vì nhân của khổ diệt, nên sẽ sinh giải thoát, gọi là vui. Vì sự thô, nặng thôi dứt, nên hiện an vui trụ, nói là vui.

Nếu giải thích theo Tiểu thừa về bốn trường hợp này: “Các hành Vô thường”, là lập Tông. “Pháp có sinh diệt”, là nhân.

Có Sinh thì có diệt, nghĩa là thông suốt qua vấn nạn của ngoại đạo. Nạn rằng: “Quả, hiện có sinh, diệt, có thể là Vô thường? Vì thông suốt qua vấn nạn này, nên nói rằng: “Do có sinh, thì có diệt, cho nên là Vô thường.”

4/ Trong nghĩa lược có chín đôi giải thích riêng:

Sáu lần “lại nữa” đầu, như thứ lớp phối hợp các hành và pháp vô vi vắng lặng kia.

Gọi là Biến tri. Nghĩa là đối tượng chứng (sở chứng) từ đạo của chủ thể chứng (năng chứng) mà được tên. Các quán hạnh hữu vi khởi “Vô nguyện” vì không chấp ngã, tức quán là “không”. Cho nên quán các hạnh khởi “không” “Vô nguyện”:

1/ Thuận theo hý luận. Nghĩa là bốn Kiến, hoặc Khổ đế trở xuống, tất cả phiền não.

2/ Sợ không có hí luận. Nghĩa là Ngã kiến hoặc Diệt đế trở xuống, là tất cả phiền não. Hai pháp này trái với hiện quán.

Nay, nói hai pháp đoạn y xứ, tức Khổ, Diệt đế.

Tánh không có ngược mạn của Sở tri, tức nửa bài Tụng trên. Tánh không có ngược mạn của Đối tượng chứng, tức nửa bài Tụng dưới. Ngoại đạo chấp thế gian là thường vì chê bai Niết-bàn, nên ở đây gọi là bất cộng.

Trong Đoạn tụng thứ hai, trường hợp thứ nhất trong bài Tụng là Đạo Đế và Diệt Đế là dấu vết. Trường hợp thứ ba do Đạo đế chứng Diệt đế. Trường hợp thứ hai, Tập đế là tích nhân của Khổ Đế. Trường hợp thứ tư, do có Tập đế nên thường thọ Khổ đế.

Trong giải thích, dựa vào bốn sở y để lập bốn Hộ, tức dùng bốn thứ không buông lung làm bốn sở y để lập bốn thứ Hộ:

Do không buông lung, làm cho mạng được an toàn, tức lập Mạng hộ. Do không buông lung, tâm lìa tạp nhiễm, tức lập Tâm tạp nhiễm hộ. Do không buông lung, nên tu đạo Niết-bàn, tức lập Chánh phương tiện hộ.

Hoặc khéo tu tập không có buông thả v.v… này. Luận sư Cảnh nói: “Thân hiện nay củA-la-hán dù điều phục chết thiện, nhưng cái chết này cũng do quá khứ vì không điều phục chết thiện, nên có cái chết này. Ở hiện tại, chẳng do không điều phục chết mà ở đời vị lai đều không do chết, do không còn sinh nữa. Nếu có phóng túng thì Bổ-đặcgià-la hiện không điều phục cái chết, cũng do quá khứ không điều phục mà chết. Ở hiện tại, vị lai đều không điều phục cái chết.

Pháp sư Khuy Cơ lại nói: “Các người Hữu học tu Đạo Đế, lúc đã chết trong đời quá khứ, vì họ chưa tu tập đạo, nên có thể do không điều phục cái chết thiện. Hiện tại, do tu tập Đạo, nên không do không điều phục cái chết thiện. Các vị A-la-hán ở vị lai không có chết, cũng gọi là không do điều phục cái chết thiện và không điều phục cái chết thiện. Buông lung thì trái với đây.

Trong nghĩa giản lược, về tánh tự nghiệp tác, tánh xứ, phi xứ. Luận sư Cảnh nói: “Do nói không có buông lung là dấu vết không chết, cònbuông lung là dấu vết chết, tức là Xứ. Khác với xứ đã nói ở đây, là phi xứ kia.

Do nói không có buông lung là không chết; buông lung thường chết, tức chứng tỏ là cảnh của tức nghiệp của tự nghiệp.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nhân quả thiện, ác của tánh Xứ, phi xứ vì thuận với sinh nhau, nên ngiệp mình đã gây ra, chứ chẳng phải người khác gây ra, và vì không có nhân. Thầy đối với nghiệp mà đệ tử đã tạo, lẽ ra, vì pháp dạy răn. Nghĩa tự mình tạo tác của các đệ tử v.v… vì dựa vào thầy truyền trao mà tu pháp đoạn.”

Đoạn thứ ba, trong bài tụng nói về năm nghĩa đó:

1/ Tầm, Tư ác.

2/ Tham mạnh mẽ, nhạy bén.

3/ Tùy quán mầu nhiệm.

4/ Thêm nhiễm, ái.

5/ Sự ràng buộc bền chắc.

Văn xuôi tùy giải thích thứ năm này làm năm đoạn.

Đoạn thứ tư, trong giải thích tụng nói, rằng, thuận với nhân duyên của giới thừa thải, giới xấu ác. Nghĩa là năng phát thân ngữ xấu ác, gọi là nhân duyên xấu ác, tức xưa nói là ác thi la. Vì nhiễm ô giác ác, thiện nên gọi là giới ác, chứ chẳng phải thể của giới là ác. Phạm căn bản của các giới thiện, gọi là nhân duyên của giới thừa thải.

Giải thích, chỉ giải thích nửa trên trong bài Tụng này.

Đoạn thứ năm, văn trong bài Tụng chia làm hai:

Trước, giải thích ba câu trên; sau giải thích câu thứ tư.

Trong giải thích ba câu trên, nghĩa là lấy tám thứ quán quả báo nghiệp của các hữu tình, trong đó lại có hai: Trước, nói riêng tám quán, Sau, “Như thế, răn người thiện nam” trở xuống, là kết thành bốn hạnh: Hạnh đầu, hạnh thứ hai, như thứ lớp đều gồm thâu ba. Hạnh thứ ba, thứ tư, như thứ lớp mỗi hạnh đều gồm thâu một. Trong nghĩa lược, có nói về nghiệp thiện, ác đều được giới quả, gọi là quả báo nghiệp của Nghiệp Tư như lý. Cho đến ngừng dứt các nghiệp ác này, cuối cùng “không nên vì v.v… ” gọi là Tư như lý là Pháp tùy pháp hạnh trước nhất.

BẢN LUẬN QUYỂN 19

Trong giải thích Luận nghị thứ mười bốn, có hai mươí bảy đoạn. Quyển trên đã giải thích năm đoạn, quyển mười chín của luận này, gồm hai mươi hai đoạn.

Trong bốn Ngữ, ngữ đầu, là nêu chung; ba ngữ sau, là giải thích riêng.

Nói thiện, là lời thiện, luận thiện. Luận sư Cảnh nói: “Thể một, vì nghĩa khác, nên có ba thứ này.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nói thiện là câu chung; hai thứ sau, là nói riêng. Thể, gọi là lời nói thiện. Nói nghĩa, gọi là luận thiện. Lời nói thiện, luận thiện đều có nói thiện ba tướng. Nói thiện ba tướng, hoặc phối hợp riêng ba câu sau; hoặc tùy đối tượng thích hợp, thông qua cả ba câu sau.

Hoặc có ái ngữ chẳng phải Đế, chẳng phải pháp. Đây là nêu Đế ngữ, ái ngữ của thế gian.

Hoặc có pháp ngữ, cũng là Đế v.v… Nghĩa là trái lại, nói hai ngữ xuất thế. Do bài Tụng, đầu tiên, nêu ngữ của Hiền, Thánh.

Về tướng của Ái ngữ kia, quyển bốn mươi ba nói: “Ái ngữ có ba: an ủi, khuyến dụ, chúc vui vẻ và ngữ thắng ích (ngữ ích vượt hơn). (rộng như thuyết kia nói)

Trong bài Tụng thứ hai do năm thứ sự thiện: như hạnh tín v.v…được ba thứ quả: người tin tưởng chân chính, Tín; người cư gia tủi hổ, Tàm; người vâng giữ giới, Giới; người được y phục v.v… Thí; là người có được chánh pháp v.v… Pháp. Đây là giải thích câu đầu.

“Những người đó đã thành tựu”, giải thích ba câu dưới. Đầu tiên, gọi là quả danh dự, tức câu thứ hai; kế là quả giải thoát, là nơi chứng giải thoát.

Trong chúng đồng phần của các vị trời thanh tịnh.

Luận sư Cảnh nói: “Hai thí đạ dẫn sinh Phước, Trí, Tư lương, là pháp của cõi Dục được cõi Trời Dục. Cũng có thể các vị trời kia do sự xoay vần tu này mà Khởi Tĩnh lự, phát tuệ vô lậu viên mãn. Nhân sự tu này, về sau, sinh lên năm tầng trời Tịnh cư, không ngoài cõi trời đó mà chứng giải thoát. Cho nên, nói rằng “nơi chứng giải thoát”.

Vì thế, Luận ở trên nói: “Người tu định xen lẫn sinh lên năm tầng trời Tịnh cư, cũng có thể trừ Phạm Thiên, Vô Tưởng. Ngoài ra các Trời khác đều là nơi chứng giải thoát.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “ Vô lậu, gọi là thanh tịnh Thánh tự tại, gọi là Thiên. Đây là giải thích câu thứ ba. “Về sau, được Quả sinh thiên, là giải thích câu thứ tư.”

“Lại có sự khác nhau” trở xuống, “Lại nữa” thứ hai, là giải thích lại Văn bài tụng.

Trong giải thích bài Tụng thứ ba, chia làm ba:

1/ Giải thích câu đầu.

2/ “Nhanh chóng xa lìa các hạnh ác được thích hợp” trở xuống, là giải thích hai câu thứ hai, thứ ba. Các bất thiện, gọi là ác. Ngoại đạo không có lợi, các tà khổ hạnh, gọi là nhân vô nghĩa, đều xa lìa.

3/ “Hoặc đối với bốn Thánh đế v.v… tăng thượng” trở xuống, giải thích nghĩa giản lược trong câu thứ tư.

Trong đó, “trước nghe chánh pháp, tư duy như lý” là giải thích câu đầu. “Pháp tùy pháp hành ” là câu thứ hai, thứ ba. “Được quả thắng lợi” là giải thích câu thứ tư.

Trong giải thích bài Tụng thứ tư, có ba lần “lần Lại nữa”. “Lại nữa” thứ hai này nói rằng: “Tất cả uống ăn, nói năng, đi dạo. Ba lần “Lại nữa” này như thứ lớp là chỗ ba bài Tụng không có nhiễm. Nhưng trụ ở Vô tướng mà vẫn có khổ khác theo đuổi thì không gọi là viên mãn cùng cực. Hoặc vì lợi mình, uống ăn, đi dạo không có nhiễm. Hoặc vì lợi người khác mà nói năng, đi dạo không dao động.

Nói đi dạo, chung cho hai lợi trên. Như ao trong lồng bồng. Nỗi khổ khác theo đuổi, gọi là chán chất bẩn đọng lại trong biển sinh tử thời gian.

“Lần lại nữa” thứ ba nói: “Thân Hữu học chứng tuệ giải thoát và “câu giải thoát”, như ba chỗ thứ lớp, nghĩa là do chướng phiền não của ba người này đã hết, chứ chẳng phải chướng định. Vì chướng của định đã hết, nên chẳng phải phiền não, cả hai chướng đều lìa, nên nói “như thứ lớp”.

Trong nghĩa tóm tắt, lìa dục của ba cõi, đối với chỉ thú của Phật, Thánh vẫn còn có sự nương tựa khác, tức các vô học, gọi là bực trí.

Lìa tham của cõi Dục, thuộc về Đạo Thắng Tấn, tức Hướng thứ tư gọi là Bất động, vì đã lìa dục tham, Khởi Đạo Thắng Tấn. Hoặc hướng thứ hai, cùng với quả. Và hướng thứ ba là lìa dục tham, Khởi Đạo Thắng Tấn.

Quả Bất hoàn kia, như ao trong rộng. Lại, nói về ba thắng lợi: giải thoát, Đẳng-trì, Trí tuệ. Nghĩa là các quán giải thoát , quán ánh sáng, vì xa lìa chướng định, nên thành vô nhiễm. Đẳng-trì quán “không”, phi ngã, bất động. Trí tuệ soi đoạn, như ao nước trong bềnh bồng.

Lại, nói về quả mà Tâm, tuệ học đã được.

Luận sư Cảnh nói: “Tuệ giải thoát không nhiễm như hư không chẳng có gì chấp mắc. “Câu giải thoát như ao nước tràn đầy, trong mát, không ưa biển sinh tử ứ đọng bùn lầy.

Nói và làm hai Học Tâm, tuệ ở trên. Tức nói về Hữu học chứng không lay động, cũng như cờ Đế-thích.

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Quả của tâm học gọi là bất động, quả của tuệ học, như ao nước rộng. Hai Học Tâm, tuệ như hư không vô nhiễm. Hoặc như thứ lớp, quả , tuệ học của Tâm như hư không vô nhiễm; Tâm học như cờ Đế-thích; tuệ học như ao nước trong rộng.

Đoạn thứ năm có năm bài Tụng, trong đó chia làm hai:

1/ Bốn bài Tụng đầu, nói về phàm phu.

2/ Một bài Tụng sau, giải thích về Bậc Thánh.

Bực Thánh có pháp Phật, vì giáo hóa, nên gọi là là thấy.

Trong phàm phu kia, một bài tụng đầu, là giải thích về Dục tham; tà phân biệt (phân biệt bất chính). Bài Tụng thứ hai, nói về Thiên nhãn thấy Phật không nhất định; bài Tụng thứ ba, nói về nhục nhãn thấy Phật không nhất định; bài Tụng thứ tư, nói trong, ngoài đều không thể thấy.

Kim Cương Bát-nhã nói: “Nếu dùng sắc để thấy ta; dùng âm thinh để tìm cầu ta…, thì người đó sẽ sinh sự ngu si tà kiến, không thể thấy ta, tức phàm phu này thuộc về bốn hạng trước.

Kinh đó nói Nhị thừa dù đạt Đế lý, nhưng chưa chứng pháp thân, cũng không thể biết được sắc, thân v.v… của Phật, vì chẳng phải nghĩa bậc nhất , nên không gọi thấy hai thân trong, ngoài.

Chế-đa. Luận sư Thái nói: “Đây là phiên dịch chỗ cúng dường xưa nói Thi-Đề là sai.

Quang nghĩa là chứa nhóm.

Đoạn thứ sáu, trong giải thích một bài Tụng có bốn:

1/ Giải thích câu đầu.

2/ “Nếu “hữu” để vượt qua năm bộc lưu” trở xuống, là giải thích câu thứ hai.

Nhất định đều có vị ái, gọi là lúc có nhiễm. Nhưng có khi chấp là mình có trong vị ái nhiễm này: “Ta hay yêu vị ở định, chấp vững chắc không bỏ. Tâm nhiễm sau này nhiễm lấy yêu định của tự tâm trước kia. Tâm này lại hay yêu đối tượng đã yêu trước, gọi là Tham nhiễm. Nhân ái này, nên sinh khổ ở tương lai, cũng gọi là nhiễm. Phiền não sinh này vì chẳng phải nhất định là phiền não, nên nói là “chiêu sinh”. Đây tức là tướng bộc lưu thứ sáu.

3/ “Nếu nhiễm tự lấy ở tâm bị nhiễm” trở xuống, là giải thích câu thứ ba. Nếu nhiễm tự lấy, nghĩa là tâm nhiễm sau này. Đối với tâm sở nhiễm là định tâm ở trước, nghĩa là do tâm nhiễm ở sau đối với tâm sở nhiễm ở kế trước không thuận theo mà sinh ái nhiễm, phát khởi công dụng nhiếp thọ một chỗ, sao cho không chảy tản mát. Vì ngăn cấm nhiễm, nên tu Tác ý đối trị của bộc lưu thứ sáu. Tâm, là chủ thể nhiễm hiện tại này cũng không có Tâm tương ưng với chủ thể nhiễm, tức tâm Bất tương ưng của đối tượng nhiễm. Vì tự tánh nhiễm, nên gọi là Tâm vô nhiễm.

Trong đây ý nói đối với tâm bị nhiễm, vì không theo công dụng, nên tách rời đối tượng duyên (sở duyên) của sự ràng buộc, không có nhiễm ô. Vì với tâm không nhiễm, nên lìa tương ưng của buộc ràng. Vì đã lìa hai sự ràng buộc, nên nỗi khổ ở tương lai không nảy sinh, cũng gọi vô có nhiễm. Do duyên tham nặng làm thấm nhuần sinh.

4/ “Nếu “hữu” đối với công dụng tùy tạo tác kia” trở xuống, là giải thích câu thứ tư.

Xét luật Tứ Phần, Long vương Y-La-Bát nói kệ cho La-Na Đà nghe rằng:

“Sao là người nhiễm trên ở trong vua,

Ngang đồng với nhiễm?

Thế nào là được không nhơ?

Sao gọi là Ngu?

Sao là lưu, bị trôi nổi?

Sao gọi là Trí.

Thế nào là lưu, không lưu

Mà gọi là giải thoát?”

Phạm Chí Na-La-Đà vội dùng bài kệ này đến trước Đức Phật, nói, đức Phật dùng bài kệ này đáp:

Vua thứ sáu là trên.

Người nhiễm với nhiễm thảy.

Không nhiễm thì không nhơ.

Người nhiễm gọi là ngu.

Người ngu, chảy, bị trội.

Người hay diệt là Trí,

Hay bỏ tất cả lưu.

Trời và ở thế gian,

Không tương ưng với Lưu,

Không bị chết mê hoặc.

Hay lấy Niệm làm chính.

Các Lưu được giải thoát.

(Nói rộng về nhân duyên như Kiền-Độ Thọ giới trong Luật Tứ phần).

Nay, một bài Tụng này giống với hàng kệ đầu do Đức Phật đáp.

Đoạn thứ bảy. Thành, nghĩa là bên trong, lấy sự gồm thâu, gìn giữ; bên ngoài có ngăn ngừa giữ gìn. Bốn pháp nhiếp trong, Tín giải chế ngự bên ngoài, nên dụ với bức thành.

Bức “Thành Tâm” tương ưng với hai thứ pháp lành:

1/ Khéo nói pháp. 2/ Tỳ-nại-da.

Đoạn thứ tám, trong giải thích một bài Tụng giải thích chia làm ba:

1/ Giải thích hai cầu đầu.

2/ “Người kia lúc an trụ ở chánh địa này” trở xuống, là giải thích câu thứ ba: không sinh vị ái, không có đối tượng nương tựa (sở y chỉ).

3/ “Người kia do phương tiện chính đáng, nên” trở xuống, là giải thích câu thứ tư.

Trọn nghĩa giản lược, bốn thứ nhiễu loạn:

Thứ nhất, là hai câu đầu, thứ hai, thứ ba, là câu thứ ba.

Câu thứ tư.

Đoạn thứ chín. Trong giải thích một bài Tụng, có bốn:

1/ Giải thích câu đầu

2/ “Lại, đức Phật thị hiện sự vắng lặng bên trong” trở xuống, là giải thích câu thứ hai, thứ ba. “Như nhân quả trứng trước kia nở ra con gà v.v… ” trở xuống, là giải thích câu thứ tư.

“Sự khác nhau ở đây” trở xuống, là giải thích lại nghĩa Xả mạng hành. Câu đầu, là nói về “đắc” khác nhau; ba câu sau, là nói về sự khác nhau của Xả.

Luận Câu-xá chép: Luận sư Thái nói: “Đây gọi là cái kén. Kén sinh ra con tằm. Danh thân của Đức Phật từ sắc thân phát ra, như con tằm chui ra từ cái kén.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nghĩa Tạng Mạng được Bồ-đề. Về sau, giống với sắc thân trước chưa được, gọi là “đẳng sinh”.

Niềm vui vắng lặng bên trong, nghĩa là thị hiện ở riêng một mình trong khu rừng hoang vắng. Và, niềm vui của Sa-môn, nghĩa là thị hiện niềm vui giữ giới không ăn năn. Hai niềm vui là nhân giúp tâm được định. Các sức định vượt hơn có thể bỏ hai hành:

1/ Thọ hành, tức mạng hành.

2/ Hữu hành, tức uẩn hữu lậu khác. Hữu hành rộng; Thọ hành hẹp. Từ rộng là Luận. bài Tụng không có Thọ hành. Sắc thân đa xả này sinh thị hiện hữu lậu, giống với tướng trước. Bốn uẩn Vô lậu kia gọi là Thân sinh, chẳng phải đối tượng thị hiện, vì xả với thân trước không đồng, nên cả hai thân đều khác nhau.

Sắc thân như tạng mạng, mạng của bốn uẩn vô lậu kia vỡ, rồi sinh ra, nhu gà v.v… nở. Sự khác nhau nhau của hai thân cũng thế.

Về nghĩa đồng không đồng của hai thân danh sắc trong đây, vì sao nói lại? Vì ở trước khi nói về Bồ-đề, sắc thân, danh thân và nghĩa đồng đẳng, không đồng đẳng ở trước. Về sau, khi nói về Bát Niết-bàn, Xả thân danh sắc với trước đồng, không đồng ở trước. Nghĩa là Phật, Thế Tôn hoặc không Xả các Thọ hành v.v… Vấn đề này có hai thuyết:

1/ “Đức Phật sống lâu trăm tuổi, nhưng chỉ năm tám mươi, thì Xả phần thứ năm, vì cứ hai mươi năm là thọ một phần. Kinh phần nhiều đều nói đức Phật Ca diếp xuất thế vào thời kỳ hai con người sống lâu muôn tuổi. Nhân thọ của Đức Phật Thích-ca ra đời vào thời kỳ một trăm tuổi.

2/ “Đức Phật Thích-ca phần lớn lẽ ra thọ đúng một trăm hai mươi tuổi, bốn mươi năm là một phần, nhưng năm tám mươi, thì Xả thọ của phần thứ ba. Các giáo đa số nói nhân thọ bốn mươi này là một trăm hai mươi lăm tuổi. Châu phía Đông, hai trăm năm mươi tuổi v.v… Theo cách giải thích sau của kinh Đại Tập là chính xác hơn cả. Kinh đó nói: “Vì tuổi thọ của đức Phật là ba phần, nên mạng thọ hành đâu có khác nhau. Tuổi thọ là hạng lượng về nghĩa lâu, mau của thời gian trải qua. Mạng, là nghĩa sống còn. Thọ mạng tức Hành. Chứng tỏ đức Phật biết vừa đủ đối với “hữu”, nên Xả Thọ hành là rõ ràng về mạng cũng được tự tại. Vì ba tháng sau khi từ giã Tu Bát v.v… đức Phật mới nhập diệt, nên lưu lại Mạng hành. Nhưng lấy phước nghiệp đã có của phần khác đã xả để ban cho đệ tử. Và chỉ bày rõ về nhân duyên sở y của việc xả bỏ, nghĩa là hai niềm vui là nhân quyết định tự tại.

Đoạn thứ mười, trong giải thích một bài Tụng. Luận sư Cảnh nói: “Hai lần “Lại nữa” của văn xuôi giải thích về Thể của pháp đâu có khác.” Giải thích rằng: “Thể tức đồng, Đồng là dục, Nhuế, Si, ái. Lượt giải thích trước, chỉ Thể của “pháp”; lượt giải thích sau, y cứ ở lỗi người.

Trong phần giản lược lại có hai: Trước nói: “Trong đây, lược chỉ bày triền phược của kẻ ngu của các phẩm các cõi.” Nghĩa là tóm tắt nghĩa “lại nữa” đầu tiên trong phần rộng ở trước.

Bốn pháp như thế, phải biết là che lấp các người thông minh. Bốn pháp nên biết dựa theo thứ lớp phối hợp chướng, rất dễ hiễu.” Pháp sư Khuy Cơ phán quyết có ba:

1/ Dựa vào các giải thích.

2/ Nói về nghĩa giản lược.

3/ Dựa theo người ác.

Lại, trước là dựa vào tại gia, xuất gia của ba cõi, kế là nói về nghĩa giới. Sau, dựa vào người tại gia xấu ác của cõi Dục, để giải thích về Bản bài tụng, bất luận học giả, không so sánh, thường ghi nhận nghĩa khái quát.

Đoạn thứ mười một. Trong phần giải thích một bài Tụng được chia làm bốn:

1/ Giải thích rộng về ba cầu.

2/ “Dục cầu” trong đây thuộc “Hữu cầu…”trở xuống, là giải thích câu đầu.

3/ “Hoặc ưa Sa-môn và Bà-la-môn…” trở xuống, là giải thích câu thứ hai.

4/ “Lại, thuộc về tất cả ba môn này…” trở xuống, là giải thích hai câu sau.

Đoạn thứ mười hai, trong giải thích một bài Tụng, gồm có bốn:

1/ Trụ đều không có ái.

2/ Hí luận đều không có ái.

3/ Dụ cho tường lìa ái.

4/ Dụ cho hào lìa ái.

Cho nên nói A-la-hán lìa hẳn tham ái, do bốn tướng nên dạo khắp thế gian, trời, người không biết.

Văn giải thích được chia làm hai:

1/ Giải thích nửa bài tụng dưới: Mâu ni dạo thế gian, Trời, người không bay biết. A-la-hán gọi là Mâu-ni, vì chứng pháp vắng lặng, Về sau, nói rằng: “Các A-la-hán lìa ái là thế nào?” trở xuống, là giải thích về nửa bài bài tụng trên, chỉ bày rõ lìa ái, nêu riêng bốn tướng. Chúa tể của ma oán, gọi là sự tham ái. Trong nghĩa giản lược, “xấu hổ”, không nên xấu hổ v.v… Nghĩa là cầu mong của cải thuộc về người khác là không nên xấu hổ, mà tỏ thái độ khinh miệt, chê trách, gọi là xấu hổ không nên xấu hổ. Tìm cách xoay của cải về cho mình gọi là nên hổ thẹn. Say sưa ngắm xem cảnh đẹp, thuộc về trói buộc, gọi là nên xấu hổ, không xấu hổ, hợp thành một chỗ.

2/ Cầu có đoạn diệt, gọi là không nên sợ. Quở trách, chê bai siêng

năng tu hướng, gọi là sinh sợ thấy. Sinh lên cõi Trời, tha hồ hưởng vui, gọi là nên sợ. Khen ngợi nói pháp, mong cầu, gọi là không có sợ thấy, gọi là chỗ thứ hai, vọng sinh khinh thường, chê bai.

Đoạn thứ mười ba, trong một bài Tụng, “huân trừ”. Huân là huân tu; trừ, là trừ diệt.

Đoạn thứ mười bốn, văn trong một bài Tụng giải thích văn chia làm bốn:

1/ Giải thích câu đầu.

2/ “Nếu có người lại có khả năng khéo nói pháp” trở xuống, là giải thích câu thứ hai.

3/ “Như thế, khéo tu chánh phương tiện” trở xuống, là giải thích câu thứ ba.

4/ “Lại, tu như trước, vì đã đắc Đạo.” trở xuống, là giải thích câu thứ tư.

Thọ trì (nhớ chắc) bảy thứ dựa vào sự nghiệp phước. Vần đề này có ba thuyết:

1/ “Tức bảy Thánh tài, thí rất tăng thượng, cho nên nói riêng.”

2/ “Trước kia nói trong tám thí, là có lỗi vì trái với bảy Thánh tài trước.”

3/ “Câu-xá v.v… nói: Kinh chép “Như vầy : “Những người có niềm tin thanh tịnh, hoặc người thiện nam, thiện nữ, thành tựu, có dựa vào bày sự nghiệp phước; hoặc đi; đứng; thức, ngủ, thường nối tiếp nhau, nghiệp phước tăng dần, nối tiếp nhau Khởi. Không có nương tựa cũng thế, trừ nghiệp Vô biểu.”

Giải thích: “Có nương tựa bảy nghiệp phước:

1/ Cho lữ khách đệm lót yên ngựa.

2/ Bố thí cho người đi đường.

3/ Bố thí cho người bị bệnh.

4/ Cho người chăm sóc bệnh nhân.

5/ Bố Thí vườn, rừng.

6/ Bố Thí cho người thường khất thực.

7/ Bố thí tùy theo lúc đó cần điều gì.

Ở đây nói là bảy thứ, tức là bảy thí kia.

Đoạn thứ mười lăm. Trong giải thích một bài Tụng được chia làm ba:

1/ Giải thích câu đầu: Nơi chốn của tất cả nhân duyên. Cảnh, Pháp sư Khuy Cơ đều nói: “Mười nghiệp đạo ác, gọi là tất cả chủng. Tham, Nhuế, si v.v… gọi là tất cả nhân duyên, cảnh tạo nghiệp, hoặc tình, phi tình và tiền của, dụng cụ v.v… gọi là tất cả nơi chốn.”

Luận sư Thái nói: “Chủng được nương tựa Khởi riêng các hạnh ác , gọi là tất cả chủng. Nhân duyên đồng với trước, nơi chốn của năm đường, gọi là tất cả Xứ.”

2/ “Người kia do ba tướng…”trở xuống, là giải thích câu thứ hai Dựa vào giới khởi định; dựa vào định khởi tuệ; dựa vào tuệ chứng cảnh, gọi là ba tướng.

3/ “Đầy đủ như thế…” trở xuống, là giải thích câu thứ ba, không giải thích câu kết thứ tư.

Huy Pháp sư giải thích câu đầu, nói về giới; câu kế là nói về tuệ; câu thứ ba, nói về Định.

Trong nghĩa giản lược, ba học, Nghĩa là hai câu đầu, nói về Học. Quả, là câu thứ ba. Không chung với người khác, là câu thứ tư.

Đoạn thứ mười sáu. Trong giải thích một bài Tụng, trước giải thích câu đầu:

1/ “Khó có thể điều phục trở lên, là giải thích khó điều phục. “Dù miễn cưỡng yên định chỗ” trở xuống, là giải thích về cử chỉ nhẹ nhàng, vội vã. Vì tánh khinh an, thường thay đổi.

2/ “Dù gắng gượng yên định chỗ” trong tịch chỉ nội, trở xuống, là giải thích câu thứ hai.

3/ “Đệ tử các Thánh đối với những việc như thế v.v…” trở xuống, là giải thích câu thứ ba.

4/ “Người kia đã khéo điều phục tâm mình như thế…” trở xuống, là giải thích câu thứ tư.

Trong giản lược, Tả đạo trái với lý Chánh đạo, nghĩa là hai câu trên, nói không theo tâm của Tả đạo, là câu thứ ba. Đã được thắng lợi, là câu thứ tư.

Đoạn thứ mười bảy. Trong một bài Tụng, câu đầu là sở nhân chung; ba câu sau là bốn công đức đã được.

Bốn công đức trong giải thích:

1/ Ăn vị xa lìa.

2/ Tĩnh lự.

3/ Thường nghĩ về niệm.

4/ Thọ không có nhiễm Hỷ, lạc.

Đạn, nghĩa là sợ, khiếp sợ. Người không có khiếp sợ, không có sự sợ này.

Giải thoát Hỷ, lạc. Nghĩa là Vô vi. Không có nhiễm Hỷ, lạc, nghĩa là Hữu vi.

Trong nghĩa giản lược, sở tác của Xá-na tức Tĩnh lự trong bài Tụng, đo đạo lý xem xét, lo nghĩ, được thành sở tác của Tỳ-Bát-Xá-na, nên trước nói Tĩnh lự; sau nói tuệ tác.

Đoạn thứ mười tám, trong một bài Tụng, hai câu đầu thành tựu năm chi; hai câu sau, là dứt năm chi:

1/ Sống không có công Xảo, nghĩa là bốn việc:

a/ Mạng sống không kiêu hãnh tà vạy.

b/ Không cậy người có thế lực. c/ Không quy định danh tiếng, dòng họ. d/ Không lừa dối lãnh thọ lời bậc Thánh nói.

Như phàm phu ở đời nương tựa vào công Xảo để làm nghiệp phi pháp, mong cầu. Bí-sô chân thật thì không như thế. Không nương tựa bốn thứ này, khởi phi pháp, nhằm mong cầu thức uống ăn, y phục cũng như phàm phu kia.

2/ Không tự khinh mình. Nếu đối với áo, cơm, tham lam phi pháp, vào xóm, không mang y, bát, gọi là tự khinh thường mình, Bí-sô thì không như thế, gọi là không tự khinh.

3/ Ưa vượt hơn, yêu kính Sa-môn; yêu mến Học Xứ, giữ cấm giới vững chắc.

4/ Các căn, nghĩa là tịnh Mạng Hỷ túc v.v… tức Hỷ căn, tuệ căn, Niệm căn v.v…

5/ Tận giải thoát, vì hạt giống của kiết sử, triền phược, đều giải thoát, gọi là thành tựu năm chi:

a/ Không có nhà, không hề xả giới, trở lại lưới tục. b/ Không có gì chứa để, thọ của, thọ cảnh.

c/ Không có hy vọng, không mong của cải, mạng sống biết mà nói dối.

d/ Dứt dục: không hề chẳng cho mà lấy.

đ/ Đi một mình. Sự tham dục đã dứt hết, không có bè bạn, dạo đi một mình, tránh xa phi phạm hạnh, thấu suốt một cách mầu nhiệm về nhân quả. Các việc ác đều hết. Không chấp nhân xấu ác, không có nhân mà vời lấy quả, gọi là dứt năm chi. Tùy theo hình trạng của nghĩa năm chi đó mà phối hợp riêng. Giải thích văn.

Đoạn thứ mười chín. Trong giải thích một bài Tụng được chia làm bốn:

1/ Giải thích câu đầu.

2/ Lại hiện tại này tùy theo tự thể kia” trở xuống, là giải thích câu thứ hai.

3/ Nếu có thông minh do bốn tướng này…” trở xuống, giải thích câu thứ tư.

Tâm, có ở cả tám thức. Vô lượng khác nhau, tự thể xoay vần. Nghĩa là ba tánh, bốn sai khác mà chuyển, và, nhân xoay vần, nghĩa là tâm trước trước làm nhân sinh tâm tự thể của sau sau. Hoặc hạt giống của tâm và “duyên” khác hay sinh thể của Tâm, đều gọi là nhân xoay vần.

Vì mé trước không biết, nên gọi là viễn hành. Quyển năm mươi bảy chép: “Do thời gian vô thỉ của mé trước, vì “duyên” khắp tất cả cảnh “sở tri” nên gọi là Viễn hành.

Văn kia nói riêng về sự tạo nghiệp của ý thức, đây là chung cho tất cả, nên không trái nhau.

4/ Mỗi mỗi mà chuyển. Nghĩa là vì không có nhãn-thức v.v… thứ hai sinh một lúc, nên cũng chẳng phải ba tánh của tất cả chủng hiện ở trước tức khắc, nên gọi là độc hành (đi một mình).

Quyển năm mươi bảy nói có hai nghĩa: 1/ Vì mỗi mỗi chuyển. 2/ Vì là chủ tể, nên gọi là đi một mình.

Trong đây, nhân Viễn hành trước, nói là thức từ duyên khởi. Vì nhân văn thuận tiện, nên đã ngăn không có người tạo tác, giản lược trong đi riêng một mình, cũng không trái nhau. Nhưng, thể của tâm này lúc hiện tại khởi , tánh của tâm không nhất định, vì thường thêm sự thay đổi gián đoạn, nên gọi là không rốt ráo chuyển. Rốt ráo, nghĩa là đầu cuối dường như nối tiếp nhau.

Năm sắc căn kia hoặc Dị thục đồng, khác với Trưởng dưỡng. Dù trước tối, kém, sau sáng suốt, thù thắng, nhưng vì đầu cuối dường như nối tiếp nhau mà sinh, gọi là rốt ráo chuyển.

Các thứ phẩm loại phàm phu, lúc sinh khác với lúc diệt v.v… Khác, nghĩa là nghĩa riêng: Sinh khác riêng của phẩm loại ba tánh. Như tâm thiện khác với phẩm của hai tánh khác, lúc sinh mà sinh, khác với phẩm của hai tánh khác, lúc diệt mà diệt. Hai tánh còn lại cũng thế. Lại, như phẩm “tham câu” trong phiền não khác với phẩm còn lại, hoặc sinh, hoặc diệt. Nhưng tự tánh của Thể tâm chẳng phải nhiễm, thể của tánh nhiễm ấy trước, sau dường như thật có, và do tánh của tâm vốn thanh tịnh, nên thể của nhiễm kia không thật có. Cho nên không thành thật gọi là không có thân.

Trong đây ý nói thể của tâm đã sớm lui dứt sự sinh, diệt của loại khác, không rốt ráo chuyển, không đồng với sắc căn trước, sau dường như rốt ráo mà chuyển và không Thể nhiễm, cho nên gọi là không có thân.

Quyển năm mươi bảy chép: “Vô Sắc, vô kiến, cũng vô đối, nên gọi là vô thân.

Đời vị lai này ở bốn thức trụ: Ở đây nếu theo nghĩa môn lý của Kinh Bộ Sư, thì ở đời vị lai, hữu tâm tùy miên ở bốn thức trụ, có thể ở đời sau, từ tùy miên mà khởi, có qua, có lại, có Thể sinh là nghĩa ngủ trong hang.

Dựa theo môn chân thật lý nhằm giải thích đoạn văn này: Nghĩa là nếu đời vị lai, thức ở bốn Thức trụ, thì ở trong bản thức của đời hiện tại mà có Tùy miên, có thể có nghĩa qua, lại, ở đời sau, gọi là ngủ trong hang.

Quyển năm mươi bảy nói: “Vì nương vào sắc, nên gọi là ngủ trong hang. Thuyết kia nói là có Thức của cõi Sắc, chẳng phải hức vị lai. Ở đây nói là thức chung cả ba cõi, thức riêng của ba đời, để giải thích Văn tụng, về mặt lý không trái nhau.

Viễn hành. Nghĩa là nói Thức quá khứ, hai nghĩa “đi một mình” và “không có thân” là nói thức hiện tại. Ngủ trong hang, nghĩa là nói Thức vị lai, tức bốn nghĩa thức của ba cõi, gọi là bốn tướng, chứ chẳng phải đời quá khứ, vị lai mà không có nghĩa đi một mình và không có thân, vì tác dụng hiện tại có thể biết được rằng, từ tăng mà nói là hiện.

Trong nghĩa giản lược, Luận sư Cảnh nói: “Tâm ở quá khứ, đây là lược viễn hành (đi xa). Nhiễm ô trong thời gian lâu dài, không có tánh tác giả ở đời hiện tại, tánh là Sát na. Ở đây, y cứ ba tánh khởi gián đoạn không có sắc thân nối tiếp nhau.

Tự tánh thanh tịnh, đây là giản lược không có thân nhiễm ô.

“Ở đời vị lai” trở xuống, đây là giản lược thức sẽ khởi buông lung, không buông lung trong đạo lý nối tiếp nhau, đã nói là nhiễm tịnh, vì chưa khởi, nên chỉ trụ trong hạt giống của hiện thức, gọi là ngủ trong hang.

“Lược qua không giải thích kia” trở xuống, là văn của nửa bài tụng. Pháp sư Thái nói: “Vì thể của tâm chẳng phải “hoặc”, nên tự tánh thanh tịnh, ở đời vị lai, phàm phu có buông lung, bậc Thánh không có buông lung cho nên nhiễm, tịnh khác nhau.”

Pháp sư Khuy Cơ nói: “Nhiễm ô trong thời gian dài, tức là mé trước không biết, không có tánh tác giả tức tự thể của tâm xoay vần và nhân nghĩa xoay vần. Ở đây, cũng giải thích về Viễn hành.

Về tánh của đời hiện tại là sát-na, tham, sân v.v… thay đổi, vì không rốt ráo. Thể nhiễm ô của tự tánh thanh tịnh, vì không thành thật, ở đây giải thích là vô thân, nhưng thiếu đi một mình. Ở đời vị lai vì có buông lung, nên đến đời sau, sẽ có nghĩa qua, lại, tức ngủ trong hang. Do không phóng túng, nên thanh tịnh, tức người không minh biết rõ tâm kia trụ nơi đất liền v.v… tức nửa bài tụng dưới.

Đoạn thứ hai mươi. Có mười bài tụng, trong số đó có năm lượt hỏi đáp. Cứ hai bài tụng là một lượt hỏi đáp, đều trước hỏi, sau đáp.

Trong phần giải thích có:

1/ Chỉ chung bài tụng của kinh.

2/ Tùy theo giải thích riêng.

Ba la diên, là tên kinh, từ người thỉnh mà được tên. Ba-la, gọi là Bỉ ngạn. Diên là cõi. Tiếng Phạm Mê-Để-Lý, Hán dịch dịch là Từ Thị, tức họ, Danh tự là A-Thị-Da, Hán dịch nói Vô Năng Thắng. Xưa nói là Di-lặc A-Dật-Đa đều sai.

Hỏi: “Nếu thế thì vì sao luận Bà-sa nói: “Bồ-tát Từ Thị lúc xuất hiện ở đời, vua A-Thị-Đa ở nơi Nhưỡng-khư? Nhưng không thể nói chữ

Từ Thị là A-Thị-Đa?”

Đáp: “Vì hiện thấy nhiều người đồng tên, nên không trái nhau.” Nói “Thế gian…” trở xuống, giải thích riêng có năm:

1/ Giải thích lời đáp đầu tiên.

2/ “Lại, người nói pháp dở, do môn Vô minh” trở xuống, là giải thích về lời đáp thứ hai.

3/ “Lại ghét người nói pháp và người tại gia”, trở xuống, là giải thích lời đáp thứ ba.

4/ Cho đến pháp kia chưa diệt hẳn về sau” trở xuống, là giải thích lời đáp thứ tư.

5/ “Nếu các Hữu học, thì điều này nên hiểu biết rõ ràng…” trở xuống, là giải thích về lời đáp thứ năm, đều chỉ giải thích lời đáp, không giải thích các bài Tụng.

Đầu tiên nói về pháp nhiễm ô hoặc nhân, hoặc quả. Kế là nói về nhân có công năng dứt các nhiễm. Tiếp theo, nói về phần vị uẩn diệt, quả chung, riêng. Tiếp theo, là nói về hai thọ không sinh vui mừng, ưa thích được sáu hằng trụ, chỉ địa vị cuối cùng sau pháp Vô học. Sau, nói về mọi công việc đã làm của các bực Hữu học của các loại.

Trước là giải thích câu đầu trong bài Tụng đầu tiên:

Ba thứ thế gian là thế gian chung, hai thứ thế gian được lập riêng trong ba.

Vô minh che lấp ngoại đạo, người xuất gia trong thế gian là ngoại đạo. “Người khéo nói pháp, do có sáng suốt”, nên …” trở xuống, là giải thích về câu bài Tụng thứ hai.

“Nếu các tại gia, bạch y khác loại v.v…” trở xuống, là giải thích câu thứ ba.

Ba hí luận:

1/ Ba ngôn, sự.

2/ Bốn ngôn thuyết.

3/ Tầm, Từ.

Ba thứ ngôn sự, nghĩa là pháp ba đời. Bốn thứ ngôn thuyết, nghĩa là thấy, nghe, hay, biết. Ngôn sự chỉ gọi là hí luận, là đối tượng phân biệt (chủ thể phân biệt), là hủ thể tăng trưởng, là chủ thể tùy theo.

Người nói pháp dở trong đây: “bị Vô minh che lấp…”, trở xuống, là giải thích câu thứ tư.

Ba câu trước là nhân; một câu này là quả. Đầu tiên là Vô minh; tiếp theo làbuông lung sau là tư duy phân biệt trái, thuận.

Giải thích trong lời đáp thứ hai, “lại người nói pháp dở” trở xuống, là giải thích câu đầu.

“Như thế Vô minh,buông lung, hí luận” trở xuống, giải thích câu thứ hai.

“Nếu thuộc về chánh kiến thế gian” trở xuống, giải thích câu thứ tư. Đối với lưu, lậu của thế gian, hoặc chế phục, hoặc diệt hẳn…” trở xuống, là giải thích về câu ba.

Giải thích nghĩa chế phục. Bài Tụng tiếp theo, tùy văn thuận tiện trước, sau không đồng.

Giải thích trong lời đáp thứ ba có hai:

1/ “Lại người nói pháp, dở, và người tại gia” trở xuống: là đại khái giải thích hai loại khác nhau: Không hiểu rõ ràng và hiểu rõ ràng của hai phẩm nhiễm, tịnh. Về sau, các A-la-hán từ đây đã hiểu rõ ràng…” trở xuống, là giải thích chung về ý của bài Tụng.

Người đã hiểu rõ ràng, là A-la-hán; người nên hiểu rõ ràng là các Hữu học.

Trong giải thích về lời đáp thứ tư, cũng giải thích chung ý bài Tụng.

Trong phần đáp thứ năm có bốn, cho đến “ủy thác đều là việc đã làm”, là giải thích câu đầu:

1/ Việc Thường làm.

2/ Ủy thác làm.

Hai thứ này lẽ ra là làm việc không buông lung, đều là việc mà tất

768 cả Hữu học đã làm, nên Hữu học khác loại.

2/ “Nếu các Hữu học…” trở xuống, là giải thích câu thứ hai, có bốn lượt giải thích:

1/ Nói là hạ phần kiết, thượng phần kiết đều gọi là tâm không nhiễm ô. Tâm không nhiễm tức tâm không có vẩn đục.

2/ “Lại đối với các dục, không say sưa chấp mắc…” trở xuống, là giải thích riêng về hai kiết, không phối hợp không có nhiễm và nghĩa không có vẩn đục.

3/ “Lại đối với pháp Khổ của tất cả Hữu” trở xuống, là giải thích câu thứ ba.

4/ “Tu tập như trước…” trở xuống, là giải thích câu thứ tư.

Đoạn thứ hai mươi mốt. Trong giải thích có chia làm sáu. Như thế, gọi là chung vị ái của các dục trở lên, là giải thích bài Tụng đầu.

2/ “Lại, người kia hy vọng mong cầu…” trở xuống, là giải thích bài Tụng thứ hai.

3/ “Lại rắn độc…” trở xuống, là giải thích bài Tụng thứ ba.

4/ “Lại, tự tánh của các dục…” trở xuống, giải thích bài Tụng thứ tư.

5/ “Lại, đối với sự dục….” trở xuống, là giải thích bài Tụng thứ năm.

6/ “Nếu đối với các dục…” trở xuống, là giải thích bài Tụng thứ sáu.

Các ngọc báu v.v… gọi là củng tương ưng. Nghĩa là đồng với số bảy báu, vì đáng quý trọng, tất cả nơi đều dùng, trái lại đây thì gọi là bất tương ưng.

Trong sáu bài Tụng này, ba bài Tụng đầu, nói về quán nhiễm xa lìa của các Hữu học; ba bài Tụng sau, nói về quán nhiễm dứt hẳn của các Vô học.

Trong nghĩa giản lược, Dục sự gọi là vị ái dục. Dục phiền não gọi là tai họa lỗi lầm. Dứt cả hai thứ này, gọi là xuất ly.

Ba bài Tụng đầu này, như thứ lớp phối hợp. Hai bài Tụng tiếp theo, là vị ái, chủ thể gây nên tai họa lỗi lầm. Một bài Tụng sau, nói về công đức xuất ly.

Đoạn thứ hai mươi hai, trong giải thích một bài tụng rưỡi, văn chia làm ba:

1/ Giải thích chung về ý bài tụng. Luận sư Thái nói: “Trong bài tụng này, vì nói về sự tạo tác năm quán hạnh của bậc Hiền, Thiện, nên gọi là tạo bài tụng Hiền Thánh.

2/ “Nghĩa là chủ thể lìa bỏ v.v…” trở xuống, là nói riêng năm tướng, thuộc về giải thích Văn tụng.

Các pháp như sắc v.v… và sự an lập của nó: Nghĩa là đối tượng giảng nói và chủ thể giảng nói.

Pháp thứ hai Tỳ-Bát-Xá-Na của pháp đầu tiên. Nghĩa là Sơ học thành mãn hai phần vị.

3/ “Do năm tướng này…” trở xuống, là kết tu phạm hạnh cực thành chân thiện.

Quyển trước có năm đoạn, quyển này hai mươi hai đoạn, hợp thành hai mươi bảy đoạn trong luận nghị.

Về nghĩa Thể trong Già-đà có ba. Một bài tụng cuối này là đoạn thứ ba, dùng mười bốn môn để kết nghĩa trên của bài tụng. Luận sư Thái nói: “Từ các hạnh Vô thường về sau, có dẫn bài tụng, biện luận về nghĩa Thể, lại không có pháp khác, nên nói rằng mười bốn nghĩa luận.