DU GIÀ LUẬN KÝ
Thích Đôn Luân gom góp Biên Soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 4

 (Phần Đầu)

BẢN LUẬN QUYỂN 11

Chín Địa nói về cảnh, được chia làm ba:

1. Hai Địa đầu là thể của cảnh. Tất cả đều lấy thức làm tánh.

2. Ba Địa là tướng của cảnh, vì thô, tế khác nhau.

3. Bốn Địa sau là tâm quyết định đều có, không đều có với phần vị cảnh giới, vì “có”, “không”. Thể có hai thì dễ biết; khó biết là trước, sau. Tướng của ba thô tế thành ba; ba phẩm là phần vị trước, sau. Trong bốn vị là Định, tán “có”, “không”:

Hai định đầu hơn, kém là trước, sau; hai định sau, hiển, ẩn là trước, sau.

Dưới đây là bốn Địa nói về phần vị nên có văn này, trong đó Sơ địa, gọi là Tam-ma-hý-đa, Hán dịch nói là Đẳng-Dẫn. Xưa âm là Tamma-đề, là hơi sai.

Pháp Sư Khuy Cơ giải thích: “Định này có bảy tên:

1. Tam-ma-hý-đa: Thích Luận giải thích: “Nghĩa là Địa thắng định lìa hôn trầm, trạo cử, v.v… Bình đẳng, Năng dẫn. Hoặc Dẫn bình đẳng; hoặc là bình đẳng đã dẫn phát, nên gọi là Địa-đẳng-dẫn.

Quyển hạ này nói: “Chẳng phải một tánh cảnh của tâm ở cõi Dục. Do đẳng định này không có hối hận vui mừng, yên vui đã dẫn phát, tức dùng ba nghĩa để giải thích Đẳng dẫn: – Đẳng năng dẫn (chủ thể dẫn) – Dẫn bình đẳng.

– Vì ba phương tiện bình đẳng đã dẫn phát. chủ thể dẫn, đối tượng dẫn đều có bình đẳng.

2. Tam-ma-địa, Hán dịch là đẳng trì. Bản dịch xưa nói Tam-muội là sai.

3. Tam-ma-bát-đề, Hán dịch là Đẳng chí. Xưa nói rằng Tam-mabát-đề là sai.

4. Đà-diển-na, Hán dịch: là Tĩnh-lự. Xưa nói rằng nghĩa thiền không thích đáng.

Hoặc nói rằng: Trì A Na là sai.

5. Chất-Đa-ế-ca-a-yết-la-đa. Hán dịch là Tâm nhất cảnh tánh. Chất -đa, Hán dịch là tâm, Ế-ca, dịch là nhất; A-yết-la, dịch là cảnh; Đa là tánh. Xưa nói “nhất tâm”là tóm tắt.

6. Xa-ma-tha, Hán dịch là “chỉ”

7. Hiện pháp lạc-trụ. Trong quyển sáu mươi ba giải thích là Đẳngtrì tâm, nhất cảnh tánh, Xa-ma-tha và nghĩa trụ. Trong các danh từ này, về Đẳng -dẫn kia có ba giải thích:

Nghĩa như thật. Nghĩa là chung cả hữu tâm, vô tâm, chỉ ở tất cả công đức của Địa vị định. Ba nghĩa Đẳng-dẫn, vì lý do chung, nên tất cả địa vị tán đều chẳng phải địa này. Tam-ma-địa, gọi là một số định của biệt cảnh, gồm thâu chung tất cả trong địa vị hữu tâm.

Tâm nhất cảnh tánh, chung cho cả địa vị định, Tán. Như bốn trường hợp phân biệt trong thích luận. Nhưng các kinh, luận y cứ ở phần vượt hơn, chỉ nói “không”, “vô nguyện”v.v…, gọi là Tam-ma-địa.

Tam-ma-bát-để, gọi là chung là thể của định đã có trong tất cả các địa vị định hữu tâm, vô tâm.

Trong các kinh luận y cứ ở phần vượt hơn, chỉ nói năm Hiện thấy, v.v… tương ưng với các định, gọi là đẳng-chí. Tĩnh-lự có cả hữu tâm, vô tâm, hữu lậu, vô lậu, nhiễm và bất nhiễm. Dựa vào bốn địa cõi Sắc chẳng phải địa xứ khác. Nhưng các kinh luận đều y cứ ở phần vượt hơn, nên phần nhiều nói là địa cõi Sắc có công đức của tâm thanh tịnh, gọi là lá tĩnh lự. Thể của tâm nhứt cảnh tánh tức là Đẳng trì. Xa-ma-tha chỉ có phần vị của tâm, chứ chẳng phải vô tâm, chỉ phần vị tịnh, chẳng phải bất tịnh, chỉ phần vị định, chẳng phải tâm tán.

Hiện pháp lạc trụ chỉ có bốn tĩnh lự căn bản, chẳng phải cận phần. Tâm vô lậu tịnh chẳng phải tán và Vô Sắc. Do đẳng dẫn này gồm thâu chung tất cả công đức của vị định hữu tâm, vô tâm. Vì chung, rộng thông, nên đặt riêng tên Địa.”

Pháp sư Cảnh nói: “Tam-ma-hý-đa, xưa dịch Tam-muội là ngữ sai.”

Pháp sư Thới nói: “Tam-ma-địa, xưa dịch là Tam-ma-bạt-đề là sai, lời của hai Luận sư này có trái nhau.

Nay, cho rằng, tam-muội tức Tam-ma-địa, đúng như Pháp Sư Khuy Cơ đã nói. Vì sao biết? Vì luận Thành-thật nói: “Tam-muội của năm thánh trí.” luận này quyển mười hai chép: “là Tam-ma-địa của năm thánh trí”

Nguyên Hiểu người Tân-la nói: “Tam-ma-địa và danh nghĩa của Tam-muội đều khác nhau. Cho nên biết? Như trong quyển Kinh Kim Quang Minh ba nói về mười địa định: Ba địa định đầu gọi là Tam-mađề; bảy địa định sau gọi là Tam-muội. Nếu một danh từ trong số các tên định đó, mà sự phiên dịch có ssai và đúng, thì vì sao một Luận sư trong việc phiên dịch kinh, có khi thì gọi là Tam-muội, đôi lúc lại gọi là Tamma-đề, cho nên, biết khác nhau.

Nay, cho là không đúng. Vì kinh Kim Quang Minh nói là Tamma-đề, chính là Tam-ma-hý-đa nói ở đây, Hán dịch là Đẳng dẫn. Kimh đó nói rằng Tam-muội, phiên dịch là chánh thọ, nay dịch nghĩa là tamma-địa, dịch là đẳng trì, vì hai nghĩa khác nhau.

Các danh từ về định trên đây đều được gọi là ảnh lược lẫn hiển bày, e rằng Luận sư Nguyên Hiểu không phân biệt hai chữ: “Địa”, “Đề”, nên đã lẫn lộn, nêu lên vấn nạn này? nhưng lại dốc lòng phiên dịch mới kinh kim Quang Minh 10 quyển.

Định Thập Địa đều gọi là Tam-ma-địa, đây là do người phiên dịch giải thích âm không đồng.

Trong địa này, trước là kết trước, sinh sau, về sau triển khai giải thích rõ ràng. Trong đó đầu tiên triển khai năm môn. Hai là mở nêu để giải thích. Trong đó, phần mở nêu có năm môn, hai là y theo môn giải thích.

Trong phần trước lại có hai:

1. Tụng nêu năm môn.

2. Văn xuôi thích hợp về văn tụng. Sau hết về các nghĩa tạp nhạp tức hội nhập yếu tông của các kinh.

Giải thích trong cương yếu tông chỉ các kinh đó dưới đây, sẽ được trình bày qua các kinh pháp tướng như Bát giải thoát, v.v… tạp nghĩa của các kinh đó cũng giải thích các nghĩa xen tạo, tản mát của các kinh. Vì đều giải thích kinh, nên thành lập một môn. Đối với môn An lập; chỉ giải thích tĩnh lự, không giải thích về giải thoát; Đẳng trì, Đẳng chí.

Trong cương yếu của tông chỉ dưới đây vì mới giải thích có ba, nên dựa vào môn giải thích có bốn:

  1. Nêu chung.
  2. An lập.
  3. Tác ý và sở duyên (đối tượng duyên)
  4. Giải thích kinh.

Hai phần ba và bốn kết hợp nói, nên thành bốn.

Trong nêu chung có hai:

  1. Nêu bốn môn.
  2. Tùy giải thích riêng.

Về danh từ bốn tĩnh lự, như đã được ghi chép giải thích trong quyển thứ năm ở trước. Phế lập, thêm, bớt như quyển sáu mươi ba nói.

Trong đẳng trì có mười một môn. Không giải thích môn thứ mười một, vì dễ, lại ở địa vị Thanh văn mới giải thích.

Bốn tu định:

  1. Vì được hiện pháp lạc trụ.
  2. Vì được trí kiến.
  3. Vì được phân biệt tuệ.
  4. Vì được lậu tận.

Năm thánh trí: Nghĩa là tự thể trí; bổ-đặc-già-la trí; là thanh tịnh trí; quả trí và nhập xuất định trí.

Năm chi thánh: Hiện pháp lạc trụ là bốn. Xét quán pháp duyên khởi và vì dứt trừ kiết, phược của pháp khác là chi thứ năm.

Có nhân, có đủ chánh thánh. Nghĩa là năm chánh kiến; chánh tư duy; ngữ; nghiệp và mạng, gọi là có nhân. Ba chánh kiến, chánh tinh tấn và chánh niệm, gọi là có đủ. Bảy chi này với Tam-ma-địa của chánh thánh là nhân.

Trong Đẳng-chí có sáu môn; tám thắng xứ; mười biến xứ, nhân giải thoát, đã giải thích tóm tắt xong, không giải thích nữa. Giải thích bố Vô Sắc trong quyết trạch, v.v…, vì không khác với giải thích nên cũng không giải thích.

Trong môn an lập, trước chung, sau riêng.

Do Đẳng định này không có ăn năn, vui mừng, an vui đã dẫn phát. Nghĩa là do tâm trì giới, tức là không ăn năn. Vì không ăn năn, nên vui mừng; vì vui mừng nên được an ổn; vì yên ổn, nên được định. Vì thế, nên đẳng dẫn này chẳng phải ở cõi Dục. Cũng chẳng phải hoàn toàn không có xem xét, quán xét chân chính về pháp trong cõi Dục.

Trong phần khác nhau có bốn:

1/ An lập ly sinh hỷ lạc.

2/ An lập cái, chướng (che phủ, ngăn ngại)

3/ An lập chi phần.

4/ An lập tên định. Trong phần đầu có ba: a. Dẫn kinh nêu lên b. Tùy theo giải thích riêng. c. “Đức Thế Tôn đối với phương tiện vô lậu”

Trở xuống, là giải thích Tam-ma-địa và giải thoát, khó khăn trở ngại trước sau.

Vì muốn dẫn phát hỷ, v.v…, nên chỉ bày rõ ràng về đối tượng lìa, đối tượng chứng (sở chứng), chuyển y vô vi, gọi là lìa.

Lại, năm pháp tu tập viên mãn. Nghĩa là chỉ rõ pháp do chuyển-y sinh ra, vui mừng đều lấy hỷ thọ làm tánh. Không ăn năn thì dẫn sinh vui vẻ tốt lành sâu sắc, lập nên hai khác nhau. Sự yên vui đều lấy lạc thọ làm tánh. lìa các thô nặng, được dẫn phát khinh an, khinh an đã dẫn sinh quả vui, lập ra hai khác nhau.

Quyển năm ở trước nói: “Ly sinh hỷ lạc, nhưng hai thọ này đều có sự vui vẻ, vừa ý này, đều do ý nẩy sinh, gọi là chung là hỷ. Ở đây, chỉ nói ly sinh hỷ. Không như vậy, các văn sẽ sai trái về gốc độ.

Không nói xã trong đục đã dẫn phát, muốn được dẫn xã mà chẳng phải vì hớn hở, vui vẽ, ưa nhàm chán Dục ác, mà chẳng phải đối tượng đoạn, không khéo dẫn xã tánh bất thiện nên chính là sở đoạn, vì vậy mà nói là không đồng.”

Hỏi: “Sát sinh, chủ yếu phải là nghiệp đạo sân nhuế, rốt ráo đều có với sân nhuế. Sân là tánh buồn bực, làm sao có với hỷ?”

Giải thích rằng: “Quyết trạch quyển hạ nói: “Sân với hỷ đều có, cho nên không có trở ngại.”

Hoan, Nghĩa là từ xưa đến nay thanh tịnh. Hành. Nghĩa là quán Địa tư lương, người đã tu tịnh hạnh, v.v… Ý ttrong đây nói, vì địa vị của đạo gia hạnh mới tu Đẳng dẫn, trụ ở địa Tư lương mới tu tịnh hạnh, trì giới thanh tịnh, sinh không ăn năn, v.v… Trong khi tu định, phương tiện xa trước kia chủ yếu, trước là giới tịnh, gọi là Địa-tư lương, chẳng cần nhập vị, mới tu Đẳng dẫn.

Giải thích trong khó khăn, trở ngại trước, sau, có ba kinh không đồng:

1/ Trước nói Tam-ma-địa, sau, nói giải thoát.

2/ Trước nói giải thoát, sau nói Tam-ma-địa.

3/ Nói cả hai đạo cùng lúc (đồng thời)

Từ trên đến đây, đã dẫn lìa năm pháp ác, trước nói giải thoát, tu tập năm pháp, sau nói Tam-ma-địa, thích hợp với kinh thứ hai, đã trái với luận này, nay sẽ giải thích:

Định căn bản trong đây gọi là Tam-ma-địa, dứt trừ hàng phục phiền não, gọi là giải thoát. Do phần nhiều vì dựa vào Địa căn bản để dứt trừ các phiền não, nên trước nói Tam-ma-địa, sau nói giải thoát.

Chẳng phải không dựa vào phần đầu, trước dứt phiền não, sau được căn bản. Trong hữu lậu, phần nhiều dựa vào phần gần, dùng sáu tác ý để khuất phục phiền não ở trước, vì tác ý của quả rốt ráo gia hạnh thứ bảy nhập địa căn bản, cũng có tác ý thứ bảy ở địa cận phần là Đạo giải thoát, về sau, mới được căn bản.

Trong đây nói do chứng quả tác ý gia hạnh rốt ráo, nên phiền não đã dứt rồi, mới được Tam-ma-địa căn bản. Nếu không như vậy, tức là trái với thuyết mà Đối-Pháp, v.v… nói.

Tác ý thứ bảy ở Địa căn bản, tác ý trong trường hợp đều có chung và định đều có là vô lậu giải thoát đều có, nghĩa là dứt hạt giống phiền não: Tác ý rốt ráo gia hạnh ở định vị chí, đã dẫn tác ý quả, nhập vào định căn bản, gọi là Tam-ma-địa. Đinh này đều cùng lúc (đồng thời) là đạo giải thoát chứng vô vi giải thoát. Cho nên nói là Tam-ma-địa đều có với giải thoát, chứ chẳng phải là định đồng thời tác ý rốt ráo gia hạnh, gọi là Tam-ma-địa và đẳng trong Tam-ma-địa của đạo Vô gián khác, đây là nói tiền phương tiện ở địa Vị Chí dựa vào địa căn bản, khởi đạo Vô gián vô lậu. Hai địa này đã dẫn đạo giải thoát đều có trong Tamma-địa. Chủ thể dứt “hoặc”này gọi là giải thoát đều có, chẳng phải cho rằng, tác ý của hai hữu lậu ở trước, có khả năng chế phục “hoặc”, gọi là đạo Vô gián khác. Đạo này không đều có với Tam-ma-địa đã dẫn đạo giải thoát cũng không nhập căn bản.

Hữu lậu, vô lậu đều nói là Phương tiện. Nghĩa là chưa được quả vô học viên mãn, gọi là Phương tiện. Vì nói dứt “hoặc”là giải thoát, nên nói sơ lìa sinh hỷ. Định khác sinh, v.v… thì rất dễ hiểu.

Hoặc trường hợp đều có này, tức là đạo Vô gián của địa Vị Chí, gọi là Tam-ma-địa. Vì đạo này có năng lực giải thoát chướng, nên gọi là giải thoát với Tam-ma-địa trước và thể giải thoát không đồng dùng làm trường hợp đều có, vì đối tượng so sánh riêng.

Trong cái chướng của môn An-lập thứ hai có hai:

  1. Nói về tướng cái.
  2. Nói về thức ăn chẳng phải thức ăn.

– Tướng cái có hai: a. Nêu, bày. b. Giải thích riêng.

Trong cái hôn trầm, thùy miên: Trước là giải thích riêng về tướng sau, kết hợp lập nguyên do của cái là không giữ gìn căn môn, v.v…, như Địa Thanh Văn nói: “Tâm cực vị lược”. Như Luận Duy-Thức nói: “giả hợp lập trong cái, dùng hai lần “lại nữa”để giải thích: Điệu cử, ác tác trong cái, đầu tiên, là bày ra, giải thích hai tướng. Sau, kết hợp giải thích, lập ra nguyên do của cái.

Trong nguyên do có hai lần “lại nữa”:

1/ Giải thích lý do đều “duyên”xứ sở thân thuộc, v.v…, nên lập chung một “cái”.

2/ Giải thích về nguyên do vì hành tướng của cái giống nhau, nên lập chung một cái.

Trước là giải thích riêng trong tướng ác tác có ba thời gian: a. Lúc ở tục. b. Xưa, vì sao ta không xuất gia từ nhỏ, để đến lúc này mới xuất gia? c. Hoặc nhân nhớ lại những gì đã từng trải rồi đến thời gian sau mới xuất gia.

Giải thích tướng giống nhau, văn cũng có ba;

1. Lại, đối với việc nên làm, không nên làm, cho đến việc chẳng nên làm lại làm. Giải thích về sự ăn năn trong hai thời gian: Nên làm mà không nên làm, chẳng nên làm trái lại làm, đều chung cho người ở tục mới xuất gia.

2. Trừ hối tiếc về trước đã nẩy sinh ác tác.

Thứ hai, là giải thích việc xuất gia ở trước, thời gian sau sanh khởi ác tác, trừ sự hối tiếc ở trước đã sinh ác tác, v.v…, trừ ra lúc ở tục đã khởi ác tác. Triền ác tác này cũng chưa thể bỏ, nghĩa là khi mới xuất gia đã khởi ốtác, cũng chưa bỏ được. sau đó, lại nẩy sinh lo buồn, luyến tiếc ác tác, nghĩa là nhớ lại chuyện trước kia đã từng đùa giởn, cười cợt, v.v… mà sinh khởi.

Lại nữa, xuất gia về sau, sự khác nhau của một thứ ác tác.

Từ trên đến đây, hai thứ thuộc ba thời gian trước kia đã có ác tác. Nơi mà ác tác ở tục có thể khởi, có thể đồng với cảnh giới của điệu cử. Xuất gia mới khởi hành tướng ác tác, chỗ không nên khởi, gọi là ác tác phi xứ.

Vì thế, nên luận quyển ba, văn tổng kết nói rằng: “Sau, trước đã sinh ác tác phi xứ và sau khi xuất gia đã khởi ác tác, dù không đồng với chỗ của điệu cử, nhưng giống nhau về tướng, chẳng phải chỉ đồng cảnh với ác tác, mà nỗi lo buồn lưu luyến, kết hợp với điệu cử để lập, không đồng với hai cảnh sau khi xuất gia. Vì sự ăn năn cũng lo buồn, lưu luyến nên lập chung cái, chẳng phải thể của điệu cử không khắp tâm nhiễm. Nhưng, hành tướng tăng vào thời gian này chẳng phải có, vì nói chỗ không đồng, không trái với lý Duy-thức.

Trong nghi, đối với sư, hai bảo Phật, Tăng; đối với pháp là lý; học là hạnh. Hối là giáo; thể là quả, tức bốn pháp bảo: Giáo, lý, hạnh, quả. Do “hoặc”hoài nghi đối với Tam-bảo, nên không thể thu nhập Đạo đế phương tiện mạnh mẽ và chánh đoạn Diệt đế vắng lặng. Hoặc phương tiện, nghĩa là đạo gia hạnh; chánh đoạn, nghĩa là Đạo đế; tịnh, nghĩa là diệt đế.

Dưới đây, là nói về thức ăn, chẳng phải thức ăn.

Thức ăn: Nghĩa giúp đỡ nuôi lớn, sinh thêm duyên cái. Chẳng phải thức ăn, nghĩa là pháp dứt diệt cái. Nếu là người xa lìa được tâm nhiễm, v.v… này, thì nêu cử lý do của tướng tịnh diệu.

Chín não sự. Như quyển năm mươi lăm chép: “Ánh sáng của pháp: Như có một người tùy từng đối tượng thọ; đối tượng tư; đối tượng xúc, thì văn, tư, tu tuệ như thứ lớp phối hợp, quán sát các pháp chung cả ba tuệ trên. Lại, chứng quán sát chủ thể đối trị sự đen tối của hôn trầm, thùy miên. Chứng, nghĩa là tu pháp tuệ, rằng tuệ xúc trong định tụ hội gọi là chứng. Do ánh sáng của pháp, tuệ văn, tư, v.v… trừ si và nghi. Ở địa vị tu tuệ, trừ được hôn trầm, thùy miên, vì khả năng làm sáng tỏ tánh các pháp, nên gọi là ánh sáng của pháp; dùng làm chẳng phải thức ăn.

Cười; Như có một người hoặc do khai luận, hoặc do hợp luận, v.v…, nói năng rõ ràng, gọi là khai luận, hoặc do hợp luận, v.v… Giấu kín, ước dụ kết hợp với nói năng, để cho người ta hiểu, gọi là hợp luận. Mở miệng mà cười, gọi là lộ răng; phát ra tiếng trong cổ họng, gọi là a á.

Chín thứ trụ tâm. Nghĩa là như Thanh Văn Địa quyển mười ba, Đối-Pháp quyển 10 đồng giải thích.

Hữu duyên duyên khởi. Hữu duyên, nghĩa là pháp quả; duyên khởi, nghĩa là pháp nhân.

Trong phần chi của môn an-lập thứ ba có hai:

  1. Dựa vào Địa để lập ra số.
  2. Nói về phế lập.

Trong phần đầu, giải thích về danh. Chi là phần chi, như chi giác đạo. Tát-ba-đa nói: “Định là tĩnh lự, cũng là chi tĩnh lự, định khác là chi tĩnh lự chẳng phải tĩnh lự.

Nghĩa như thật. Nghĩa là như bốn chi quân, vì đều đối trị ba xã niệm tri, dựa vào địa vị định, đồng có thể dứt trừ chướng, gọi là nội đẳng tịnh. Vì tịnh các chướng, cái khác gọi là có thể, giải thích nói về thể là bảy. Dựa vào hai định đầu, là lạc thọ. Vì thể của nội đẳng tịnh chẳng phải tín.

Ngài Tam Tạng nói: “Trừ định vị, trong hai định còn lại đều lập chi hữu. Nếu hai thứ tầm, từ trong định định hữu lậu đều có với tu tuệ, thì tùy theo lúc tu công đức nào ở phương tiện trước, được có tầm, từ, nếu đến căn bản, thì không có tầm, từ. Nếu ở trong tám chánh đạo hữu lậu, thì lập thể của tầm là chánh tư duy.

Y cứ trong chi tám chánh vô lậu, nếu trí hậu đắc đều có, thì đối với tầm, từ, thường lập chánh tư duy khởi lời nói. Trí Vô phân biệt đồng thời với tám chánh, y cứ vào nghĩa thể của một tuệ nói là hai. Vì lìa tà kiến, nên gọi là chánh kiến. Lìa tà tư duy, nên gọi là chánh tư duy. Vì chứng trí chẳng phải nhân của ngôn thuyết, nên không y cứ ở thể của tầm kia để lập chánh tư duy.

Do kinh Thập Địa chép: “Vì sao tịnh giác nhân, v.v…, nên biết rằng, trí hậu đắc khởi, nói là tương ưng với tầm, nói nghĩa một thể của hai thứ hớn hở, vui vẻ. Nếu khiến ý thức tâm vui vẻ, gọi là hỷ. Nếu khiến Lại-da và bên sắc thân, vui vẻ, gọi là lạc. Đây là dựa vào văn của Đối-pháp. Nếu nói theo Du-già để nói, sẽ khiến đối tượng nương tựa Lại-da vui vẻ, gọi là lạc. Lại-da dù biết rằng thường là xã thọ, nhưng ở chốn khổ địa ngục, v.v…, cũng khiến đã nương tựa Lại-da, không yên vui, vừa ý nhiều. Nếu ở xứ vui của người, trời, tức khiến Lại-da vui vẻ, vừa ý, yên ổn.

Trong hai định đầu dù gọi là hỷ lạc, nhưng đều có tánh hỷ thọ, để nói về môn công đức và phiền não tương ưng với Thọ. Chỉ nói hai định đầu tương ưng với hỷ căn, không nói đều có với lạc căn.

Kế là trong phế lập, tầm, từ của sơ định là lấy sở duyên (đối tượng duyên), v.v… Đối-Pháp nói ba, nghĩa là tầm, từ là đối trị; hỷ lạc là lợi ích; định là sở y (đối tượng nương tựa).

Trong đây nói bốn. Pháp sư Thới nói: “Lấy chung ba nghĩa để giải thích về chi tĩnh lự. Vì đem ba nghĩa của luận Đối-Pháp để gồm thâu bốn nghĩa này, nên ở đây nói chi, đại khái có hai: “Ơn nặng, thêm hỷ lạc, v.v… có lợi ich cho người tu hành.

Nếu pháp có hai nghĩa này thì lập chi định. Vì tuệ tư, v.v… khác không có hai nghĩa này, nên lược qua không nói.”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Trong đây nói tầm, từ là lấy sở, sở duyên (chủ thể duyên, đối tượng duyên). Nghĩa là quán tùy theo cảnh thích ứng, là chủ thể đối trị; định là đối tượng nương tựa. Hỷ nhận lãnh sở đắc lạc, trừ thô nặng. Tâm vui vẻ, thích hợp được gọi là hỷ; thân cảm thấy nhẹ nhàng vui vẻ, thì gọi là lạc. Thô nặng ở thân, lạc sinh ra, diệt ở thân kia, gọi là trừ, chẳng phải trừ “hoặc của địa dưới. Trừ “hoặc”của địa dưới, nghĩa là vì chỉ tầm, từ tức chỉ rõ các xứ, nên nói chi lợi ích có hai nghĩa:

  1. Nhận lãnh cảnh sở đắc.
  2. Trừ chướng thô nặng.

Định thứ ba, thứ tứ lấy sự nhận lãnh sở đắc, tức trừ thô nặng; lại không có chỗ riêng. Vì đủ hai công năng nên vừa ý vui vẻ, vì các căn xã thô nặng.

Trong các tĩnh lự, dù có pháp khác, nhưng tĩnh lự này vượt hơn. Đối với người tu định, vì là ơn nặng nên lập riêng là chi. Nhưng về nghĩa của chi thiền này, nếu phân biệt rộng, đến quyển sáu mươi ba sẽ giải thích rõ hơn.

Trong an-lập tên định thứ tư, trước giải thích danh hiệu riêng, sau giải thích tên chung.

Trong phần đầu, cho đến định thứ tứ, nói rằng “sự khác nhau của xã niệm thanh tịnh, nên biết”, nghĩa là giải thích về sự khác nhau có hai:

1. Giải thích chung về sự khác nhau của bốn tĩnh lự: Như có tầm, có từ; tầm, từ vắng lặng; hỷ vắng lặng; lạc vắng lặng; xã niệm thanh tịnh, v.v…

2. Giải thích: Chỉ đối với ba thiền, để nói về sự khác nhau. Ba thiền cũng có xã niệm, không gọi là tịnh vì chưa lìa phiền não, v.v… trở lên. Tĩnh lự thứ tư vì lìa hết chướng, nên có tên xã niệm được thanh tịnh, cho nên nói: “Sai khác nên biết”

Sau đây, giải thích về tên chung có năm:

  1. Tăng thượng tâm.
  2. Hiện pháp lạc trụ.
  3. Niết-bàn phần kia.
  4. Niết-bàn sai khác.
  5. Nêu ra các việc thọ.

Văn được chia làm bốn: Thứ ba, thứ tư, hợp phân biệt.

Tăng thượng tâm. Nghĩa là thể của định gọi là tâm; tức vì thể của định thanh tịnh, nên hay lo nghĩ. Cũng có thể do tâm vương đồng thời có thanh tịnh, khiến cho định kia thường xem xét nghĩ lường thích đáng.

Trong hiện pháp lạc trụ: Trước là giải thích về lạc. Kế là giải thích hiện pháp trụ, sau là giải thích Vô Sắc không gọi là sở so. Lãnh thọ lạc hỷ. Nghĩa là hỷ thọ và lạc thọ.

An vui, nghĩa là vui khinh an, xã lạc, là xã niềm vui của xã thọ, thuận với thân tâm, vui vẻ, đều gọi là lạc, nghĩa là vui được thư thới vui vẻ.

Lạc trụ. Nghĩa là quyển sáu mươi ba chép: “Buộc trói tâm ở bên trong, vì không chạy rong, tản mát, nên trụ, năng dẫn sinh lạc, gọi là lạc trụ. Do đây, Bồ-tát địa nói; “vui hữu lậu thuộc về ba cõi; vui vô lậu, không thuộc về hệ.

Nay, dựa vào thân, tâm, đều có bốn thứ vui: Hỷ lạc; lạc lạc; an lạc; xã lạc. Cho nên bốn tĩnh lự được gọi là lạc trụ. Cõi Dục không có hai thứ vui sau; cõi Vô Sắc không có hai thứ vui đầu, cho nên dù niềm vui hiện tiền, vẫn không gọi là Lạc trụ.

Lại hỷ lạc, là niềm vui của Sơ thiền, Nhị thiền. An lạc, là niềm vui của đệ Tam thiền. Thân, tâm lạc, nghĩa là phân biệt lý do phi lạc trụ của cõi Vô Sắc.

Vấn nạn thứ tư có xã thọ. Xả thọ gọi là xã lạc. Bốn Không có xã thọ, lẽ ra cũng gọi là xã lạc?”

Cho nên, nay giải thích: “xã lạc kia chỉ có tâm vui, đây là có niềm vui của thân tâm, cho nên chỉ xã lạc này gọi là lạc trụ, chứ chẳng phải Bốn Không.

Bí-sô A-luyện-nhã (A-lan-nhã) bèn chê bai nói: “Nay, ta hỏi: Siêu Sắc, Vô Sắc, vắng lặng, giải thoát, mà không thể ghi nhận, v.v… ” Ý này nói: “Định Vô Sắc gọi là siêu sắc; định vô lậu, gọi là siêu Vô Sắc. Hai định này gọi là vắng lặng giải thoát. Nay là nói định của cõi Vô Sắc chẳng phải lạc trụ. Bốn tĩnh lự cõi Sắc, gọi là vắng lặng, giải thoát là hiện pháp lạc trụ.”

Có giải thích: “Siêu sắc, Vô Sắc. Nghĩa là chẳng phải ngoài sự vượt qua, nên nói là Siêu. Vì chỗ rất cùng tột, nên nói là Siêu. Như hỷ là đẳng cấp cùng tột của Nhị thiền, vì dứt một phần phiền não, vì chẳng quyết định, nên gọi là phần kia.

Niết-bàn, nghĩa là định tịnh, vị định vô lậu, định gọi là một phần.

dứt vị định kia, gọi là vì dứt một phần của các phiền não. Có nghĩa vắng lặng, gọi là Niết-bàn. Do hữu vi này nhanh chóng động, chẳng phải là vô vi quyết định, vắng lặng, gọi là phần Niết-bàn kia. Tịnh và thể vô lậu là hữu vi, thật chẳng phải Niết-bàn, chỉ vì y cứ không có “hoặc”, phần ít giống với Niết-bàn kia, vì chẳng quyết định, nên gọi là phần Niết-bàn kia. Hoặc tịnh hiện hành của bốn tĩnh lự, vì dứt một phần phiền não, nên hạt giống chưa dứt. Về sau trở lại vì lui sụt nẩy sinh phi quyết định, nên gọi là Niết-bàn của phần kia.

Vì lời nói chẳng phải rốt ráo, nên gọi là Niết-bàn sai khác. Nghĩa là do lìa phiền não, tùy từng phần vắng lặng, giả nói là Niết-bàn, hẳng phải rốt ráo vắng lặng, nên nói là Niết-bàn sai khác.

Tên thứ năm, trong sự phát ra các thọ có bốn:

  1. Nêu bốn, dẫn kinh để chứng thành.
  2. Với năm cõi thuận xuất ly, xoay vần nhiếp thuộc nhau.
  3. Nhân giải thích về sáu kinh Xuất Ly Giới.
  4. Giải thích lìa các lỗi, gọi là xuất ly y.

Trong phần đầu có ba: a. Nêu bốn xuất ly.

  1. Giải thích kinh xuất ly.
  2. Hỏi đáp, nói về xuất ly có ba nghĩa: một là nghĩa bất hành, hai là nghĩa diệt thô trọng, ba là nghĩa lìa nhiễm.

Sơ định lìa ưu, đủ ba nghĩa này. Nhị định lìa khổ, chỉ có nghĩa diệt thô nặng về nhiễm, đầu tiên đã xã, về sau cũng còn hiện hành. Ba thứ lìa sau, diệt đủ thô nặng và nghĩa lìa nhiễm. Vô tướng lìa xã, chủ yếu là địa vị vô học. Sự phân ly của địa vị khác không được gọi là lìa.

Giải thích trong kinh Xuất Ly có hai:

  1. Giải thích kinh Ly Ưu.
  2. So sánh với các kinh lìa khác.

Như thế, đối với kinh lìa khác, tùy thích hợp, phải biết văn.

Biết nêu: Nêu là căn do, tướng năng phát, nghĩa là căn cảnh, v.v…

Hạt giống vô tri. Nghĩa là vì người không có biết, phần nhiều khởi ưu, đây đều gọi là nêu. Nếu chẳng phải nhiễm ưu, cũng nói là do si khởi. Lại, hạt giống phiền não đều năng khởi ưu. Vô tri là gốc, chỉ nói hạt giống phiền não kia là do tánh của ưu căn bất thiện này. Do si bị hao hụt, lìa dục thì phải xã. thứ khác cũng vì tùy theo không có vô tri diệt. Giả sử có “phân biệt”, mà chẳng phải “câu sinh”, lìa dục cũng xã, vì loại bạn của ưu căn “câu sinh”đã xã.” Trong hỏi đáp có ba:

  1. Tướng các căn.
  2. Nói về khổ căn.
  3. Giải thích vô tướng.

Khổ căn trong sở tĩnh lự, thô nặng, cũng chưa dứt. Nghĩa là do các ưu căn, vô tri đẳng dẫn. Lúc sơ tĩnh lự kia lìa nhiễm, tất cả không hành thô nặng cũng xã.

Nếu đối với pháp vô thượng, mong cầu, kính mến buồn rầu, cũng do vô tri dẫn phát, nên lìa dục, xã mà do các khổ căn mà có, không do si dẫn phát, lìa dục vẫn còn hiện hành. Cho nên, vì sự thô nặng kia không có tánh chịu đựng gánh vác, nên hai định mới diệt.”

Hỏi: “Khổ căn do lìa dục khởi, hai thiền thô nặng diệt, hỷ, lạc lìa xã địa dưới; địa trên trừ thô nặng?”

Đáp: “(Đối tượng nương tựa của khổ căn) khổ căn đã nương tựa và vì tầm, từ có ở sơ định, nêu hai thiền diệt. Vì đối tượng nương tựa của hỷ, lạc không có dẫn phát riêng, nên khi lìa nhiễm, thô nặng mất. Nếu tĩnh lự đã dứt khổ căn thì tức là hành gỉa nhập sơ tĩnh lự và, thời gian thứ hai sè tiếp nhận sự sai khác của đối tượng tác, trụ, lẽ ra không có ngang đồng? Ý này nói: “sơ định diệt ưu; hai định diệt khổ. Do việc này, nên dù có hiện pháp lạc trụ, vẫn trở thành sai khác.

Nếu đã diệt khổ trong sơ định, thì hai định sẽ không có hiện pháp lạc trụ riêng, lẽ ra không có khác nhau?

Kinh nói; “Tĩnh lự do thọ sai khác, nên trụ trở thành sai khác. Lại, vì đoạn thọ có sai khác này, nên tầm từ của sơ định không vắng lặng, sự thô nặng không đoạn diệt. Trong hai định có vắng lặng thì thô, năng mới đoạn diệt. Nếu khổ căn trong sơ định đã đoạn thì sự thô nặng này lẽ ra không có riêng.

Lại, vô tướng, nghĩa là “đẳng”, Luận sư Cảnh nói: “tâm định vô lậu của người Vô học “duyên”cảnh chân như, gọi là vô tướng. Do phiền não tương ưng với xã căn, là phiền não tạp nhạp; hoặc lìa phiền não “duyên”trói buộc, đều là thô nặng trên thể của xã căn.

Nay, nói chủ thể trói buộc hạt giống “hoặc”của xã căn, gọi là tùy miên. Diệt hạt giống “hoặc”đó trong định vô tướng, gọi là diệt tùy miên, chứ chẳng phải diệt hiện thọ, gọi là diệt xã căn, vì trong định vô tướng, gọi là diệt tùy miên, chứ chẳng phải diệt hiện thọ, gọi là xã căn, vì trong định vô tướng tất nhiên đã có thọ. Do thọ chẳng phải tánh phiền não, nên hạt giống của các thọ không gọi là tùy miên. Cho nên nói rằng: “Chẳng phải các thọ kia được có tùy miên, mà “duyên”xã thọ, vì phiền não đoạn, nên nói xã thọ đoạn. Sự thô nặng của phẩm phiền não kia được gọi là tùy miên.”

Pháp sư Thới nói; “Người vô học lúc quán “không”, lấy tướng hạt giống của xã căn diệt hẳn. Triền cứng của tùy miên, gọi là thô nặng. Vì thô nặng không có đoạn khác, nên gọi là diệt hiện hạnh. Vì sao? Vì trụ định vô tướng, tất nhiên, có “duyên”xã nhau. Nay, xã hạt giống của triền hiện khởi, gọi là tùy miên là vì giả gọi là, chứ chẳng phải các thọ của hỷ lạc kia có được tùy miên thô nặng. Vì dứt phiền não tạp nhạp kia, nên gọi là đoạn. Hạt giống các thọ của phẩm phiền não kia, gọi là tùy miên.”

Pháp Sư Khuy Cơ nói; “Hữu lậu xã hạt giống là phiền não trói buộc, giả gọi là tên tùy miên là thô nặng. Nhập vào định này nói là đoạn. Vô lậu hiện hành xã, giả gọi là hiện triền ở định vẫn khởi, chẳng phải các thọ kia là do nhiễm phiền não, mà có được tùy miên, tức tùy miên này được gọi là thô nặng, chứ chẳng phải thọ vô lậu mà không có hạt giống.”

Có giải thích: “Chẳng phải diệt hiện triền. Nghĩa là chẳng phải diệt tương ưng với “duyên”phiền não ràng buộc đã ràng buộc thể của xã căn. Đây là nêu khả năng tương ưng với phiền não, v.v… mà lấy xã căn bị ràng buộc, gọi là hiện triền này.

Lại, xã căn này thật sự chung cho cả chín địa. Nay, y cứ chỉ địa xã, nên nói năm địa.

Thứ hai, thuận với năm xuất ly, xoay vần gồm thâu nhau. Văn có ba:

  1. Nhắc lại giải thích lời nói xuất ly.
  2. Giải thích vấn nạn gây trở ngại.
  3. Tạp giải thích kinh.

Do dục, nhuế, hại xuất ly, tức nói cho đến lạc căn xuất ly. Nghĩa là đầu tiên, dục xuất ly tức quán bất tịnh. kế đến nhuế xuất ly, tức là từ quán. Sau, hại xuất ly, tức là bi quán.

Ba xuất ly này tức là bốn căn xuất ly: Ưu; khổ; hỷ; lạc, do từ, bi thông suốt ở bốn tĩnh lự mà được từ, bi trong tĩnh lự, thứ tư tức bốn thọ xuất ly, do xuất ly cõi Sắc tức là nói xuất lìa xã căn của định thứ tư.

Do Tát-ca-da (thân kiến) diệt, tức định vô tướng, lúc lìa hết nhiễm ba cõi sau cùng, nói là xuất lìa xã căn của cõi Vô Sắc. Hai thứ sau này đều gọi là xuất lìa xã căn.

Thuận với lời nói xuất ly có những gì?

Do người tru quán này vì khả năng xuất ly, nên gọi là người thuận với xuất ly. Người trụ quán này là người vô học, thuận theo quán này, gọi là thuận xuất ly. Không nói là do đây mà xuất ly kia. Nghĩa là không nói người học phàm phu do năm quán này xuất ly tham, nhuế, hại, v.v… kia.

Nói là người lìa dục, là nói người của cõi này, có nghĩa là đã lìa người dục của ba cõi, nói năm thứ quán này thuận với cõi xuất ly.”

Giải thích trong vấn nạn: “Các xuất ly kia dù lại đồng thời, v.v… Nghĩa là ba thứ dục, nhuế, hại dù đồng thời đoạn, nhưng y cứ ở phương tiện tu riêng ba thứ đối trị lập riêng.

Dưới đây, y cứ ba người tu riêng ba quán, lập ba xuất ly:

Tùy theo phiền não thêm riêng của ba người kia, mỗi người đều khởi một quán, hoặc từ, hoặc bi.

Chủ thể xuất lìa dục, nhuế, hại, v.v… trên đây vì chỉ có một loại đối trị, nên xuất ly sau không có sai khác. Nghĩa là xuất ly của cõi Sắc thứ tư, dựa riêng không xứ, đều là một loại đối trị của quán không cõi Sắc.

Phần thứ năm, đối với thân bốn uẩn, tu riêng một loại đối trị của quán không vô lậu. Đối trị trước, sau khác nhau, không đồng với ba người trước, sự sai khác của xuất ly đồng thời, được chia ra nhiều. Cho nên nói rằng: “không có sai khác.”

“Thế nào là kiến mạnh mẽ nhạy bén, v.v…” trở xuống, là giải thích trong kinh có hai mươi tám câu:

Mười ba câu đầu, nói về đạo phương tiện lìa dục, các câu sau trái với đây. Mười lăm câu dưới, là nói về đạo lìa dục.

Ý kinh này chỉ bày rõ ràng, do gia hạnh trước, đạo lìa dục sau, thân A-la-hán, nhiễm thọ không hiện hành, các “hoặc” không khởi. Như hoa sen hồng không dính nước. Cho nên khởi năm quán, gọi là thuận xuất ly.

Một câu đầu trong mười ba câu đầu, là nêu chung, người kia cho rằng, kiến mạnh mẽ nhạy bén.

Mười hai câu kế, giải thích riêng về quán kia.

Trong phần đầu cho rằng, do tác ý quán sát. Nghĩa là tác ý quán sát trong bảy tác ý, Hán dịch là tổng.

Về tác ý thắng sự. Nghĩa là giải thích đẳng tùy niệm, dục.

Tác ý của công dụng mạnh mẽ, nhạy bén: Là giải thích kiến chấp mạnh mẽ nhạy bén. Thế nào là các dục trở xuống, là giải thích riêng trong mười hai câu: Tám câu đầu quán không dính mắc dục; bốn câu sau quán dục nhàm chán.”

Hỏi: “Vì sao văn chỉ nói tác ý quán sát, mà không nói tác ý rõ tướng?”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Nay, nói A-la-hán rốt ráo lìa dục ba cõi, vì thực hành năm thứ quán, nghĩa là lìa nhiễm Vô Sắc, tác ý rốt ráo gia hạnh. Đạo gia hạnh trước là tác ý quán sát.”

Y cứ trong đạo chánh đoạn của văn sau đây, giải thích về thiện thệ của tâm kia. Thế nào là trụ tác ý của gia hạnh rốt ráo?

Trong mười lăm câu sau, bốn thứ như tác ý thú nhập, v.v… mỗi thứ đều trái với trước.

Tướng của văn rất dễ hiểu. Nghĩa là người trụ tác ý gia hạnh rốt

ráo là lìa tác ý gia hạnh rốt ráo nhiễm Vô Sắc. Bấy giờ, chính thức dứt các “hoặc”sẽ được tâm rốt ráo mầu nhiệm đến với đạo, gọi là thiện thệ, nghĩa là vì khéo tu tập tác ý khác, nghĩa là khéo tu tập các tác ý, quán sát v.v…”

Luận sư Cảnh lấy chung năm tác ý trước, gọi là “khác”. Đây là nói địa vị đoạn và địa vị của đạo phương tiện đoạn, nghĩa là tổng kết chỉ bày rõ về địa vị Vô gián đạo đoạn của tác ý rốt ráo gia hạnh và địa vị phương tiện đạo đoạn của tác ý, v.v… quán sát.

Giải thích: Tức giải thoát sự ràng buộc thô nặng. Thoát, tức cõi thoát tướng ràng buộc, đều là hiện hành, lìa trói buộc, nghĩa là lìa hạt giống của hai buộc ràng ở trước.

Từ các dục “duyên”đối tướng sinh các lậu, trừ tham dục nghĩa là như thứ lớp trước, giải thoát các triền, tùy miên, đối tượng duyên (sở duyên)

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Giải thoát triền gọi là siêu; giải thoát sở duyên (đối tượng duyên) gọi là xuất; giải thoát tùy miên, gọi là ly hệ (liả trói buộc).”

Nay, giải thích: “Ở kia, nghĩa là chỉ những việc hữu lậu, nghèo khổ, đốt cháy, bức não, v.v… đã nói ở trên.

Giải thoát siêu xuất, lìa trói buộc. Nghĩa là như thứ lớp ở trước:

Giải thích các triền gọi là giải thoát Cởi bỏ tướng sở duyên, gọi là siêu xuất. Giải thoát tùy miên, gọi là lìa trói buộc. Nghĩa là sắp được, chính được, tùy niệm các cảnh dục, v.v… Tức vị lai, hiện tại, quá khứ, Các cảnh giới dục như thứ lớp đó.

Thứ ba nhân, giải thích sáu cõi xuất ly, văn kinh có bốn:

  1. Dẫn chứng kinh, giải thích.
  2. Nói hành tướng đối trị riêng.
  3. Giải thích vấn nạn trở ngại.
  4. Giải thích năm, sáu cõi sai khác.

“Cho nên từ, v.v… đối với nhuế, hại, v.v…, chẳng phải chính thức đối trị. Nghĩa là chứng tỏ người mới tu hành, cũng cò khởi ngã mạn, nghi “hoặc”chưa dứt, vì muốn cho họ chế ngự phục, bỏ các tà chấp, nên kiến lập cõi này.

Trong hành tướng đối trị riêng có hai:

  1. Y cứ ba loại để đối trị.
  2. Y cứ sáu hành để trị riêng.

Vì quán sát rốt ráo lý chánh đạo, nên kiến lập thứ sáu: Nghĩa là chỉ có đế nhân quả, thật chấp ngã không, gọi là chánh đạo lý. Vì quán sát đạo lý chân chánh này, nên mạn, nghi bị tiêu diệt.

1/ Nhuế. 2/ Hại. 3/ Tật. / Si, tham, nhuế. Bồ-tát địa nói: “Như thứ lớp dù là bốn thứ đối trị: Từ, bi, hỷ, xã. Nay nói hỷ trị không vui, tức là ganh tị. Xả trị tham, nhuế, không nói si, là vì cảnh yêu ghét chẳng phải bình đẳng, đều đối với trong đây mà khởi hành xã, chỉ nói đối trị hai cảnh giữa thuận với xã, lược qua không nói đến, thật ra thì cũng trừ si.

“Nếu là ngã mạn, đối với nhân giải thoát, v.v… Nghĩa là không chấp ngã mạn, lìa mạn, chấp ràng buộc, gọi là giải thoát. Trong thật đế, v.v… đã chứng tức là không nghi ngờ.

Giải thích vấn nạn gây trở ngại rằng các xuất ly này nhất định xuất ly tất cả nhuế, v.v… Nghĩa là có người vấn nạn rằng: “tu sáu từ, v.v… nhất định lìa sáu thứ đối tượng trị (sở trị) như nhuế, v.v… Vì sao ở trước nói: “Cho nên từ, v.v… không phải chánh đối trị với nhuế, hại, v.v… ?”

Nay, giải thích các xuất ly này, tu tập địa vị viên mãn, nhất định sẽ xuất ly tất cả nhuế, v.v… Vì lúc tiền phương tiện, không khéo tu, nên lỗi lầm của nhuế, v.v… chấp nhận có thể hiện hành. Do đó lời nói ở trước không phải chính thức đối trị.

Thuộc về bốn thứ Thiện trụ ban đầu. Luận sư Cảnh giải thích: “Theo sắp xếp trong đây, môn quán bất tịnh ở trước, từ bi vượt hơn sắc tướng là thiện trụ. Nghĩa là từ tịnh trụ sở y (đối tượng nương tựa) nói là thiện trụ, thuần túy vì nói đủ bốn vô lượng.”

Pháp Sư Khuy Cơ giải thích: “Hai thứ từ, bi dựa chung tu thiền, gọi là thiện trụ, dựa riêng vô lượng, tu, gọi là Phạm Trụ.

Phần thứ tư giải thích lìa các lỗi lầm, gọi là trong xuất ly y, có ba:

  1. Nêu xuất ly y có bốn thứ.
  2. Tùy giải thích riêng về sở do của hành tướng.
  3. Kết bốn thứ, bốn thời gian được, mất.Văn thứ hai có hai:
  4. Nêu nhân bốn người, có kiến lập riêng bốn thứ.
  5. Giải thích rộng về hành tướng.

Nhân nịnh hót người kia giả dối nói pháp, là dựa vào phisố để lấy lý thú, v.v… Nghĩa là có người nịnh hót giả dối. Chấp cho thầy mình là hơn. Xem tướng, oai nghi, rồi cho là nương tựa học.

Nay, bảo cho họ biết dựa vào pháp, không dựa vào nhân. Chủ yếu là phải biện luận với họ, phải phân biệt, quyết trạch (quyết định lựa chọn), tự mình mới chứng biết, chứ chẳng phải tiếp cận với người mà chứng biết ngay được. Tức ở trong đây, lại có sự khác nhau, nghĩa là lại giải thích, sự nương tựa ở trước:

Đức Phật thuận theo thế tục, có hai thứ ngôn từ: 1/ Người. 2/ pháp. Nay, khiến cho dựa vào pháp, không dựa vào người. Không thể nghe Phật, theo lời nói của người, tức là cũng dựa vào người. Đức Phật thuận theo lời của thế tục, không nên cố chấp.

“Pháp lại có hai thứ v.v…” trở xuống, là giải thích về y thứ hai. Nhân thuận với thế gian, nói qua văn tự để giảng rộng về nghĩa lý, không nên chỉ nghe nói thuận với văn tự đời, liền cho là rốt ráo, nên bảo cho nghĩa y. kinh do Phật nói hoặc có khi liễu nghĩa, là giải thích nương tựa thứ ba. Dù bảo y nghĩa, nhưng không được cho kiến thức của mình là vượt hơn, cho nên y kinh liễu nghĩa. (Liễu nghiã có bốn lớp tướng, như chỗ khác đã nói)

Đức Thế tôn đôi khi giảng nói dựa vào lý thú, v.v… là giải thích về nương tựa thứ tư:

Người, trời do nói thức niết-bàn, nhân nói trí. Trong kinh liễu nghĩa, vì người mới tu, mà nói thức; vì người tu lâu, nói trí. Có người nghe nói mới tu, bèn chấp là cùng tột.

Nay, vì ngăn ngừa những hạng người này, nên nói y trí, chấp là rốt ráo.

Trong kết thứ ba, đại khái dựa vào bốn thời gian, vì mất, không mất, nên đồng. Nghĩa là lúc được pháp, dựa vào pháp trí sinh, không dựa vào người.

Lúc gìn giữ, nghĩa có thể do văn gìn giữ, nghĩa chẳng phải Văn nghĩa trì Đà-la-ni.

Lúc quán sát nghĩa, dựa vào liễu nghĩa, chứ chẳng phải bất liễu nghĩa, vì nghi trí sinh.

Lúc pháp tùy hành. Pháp nghĩa là diệt đế. Tùy pháp nghĩa là đạo đế.

Lúc tu đạo xuất ly, dựa vào trí, chẳng phải thức. Bốn y trên đây, từ sơ hành đến hậu hành, từ tu tập thô đến tu tập tế, rốt ráo hoàn thành viên mãn, theo thứ lớp như thế. Lại nữa đã nói an lập, phải biết ngay đồng với đây.

Năm môn của bài tụng trước nói: “Nêu chung với an lập sự sai khác của tướng tác ý, gồm thâu các nghĩa tạp nhạp sau cùng của tông yếu các kinh.

Đã giải thích nêu chung an lập.

Từ đây trở xuống, là đoạn thứ ba, văn kết hợp giải thích tác ý và hai môn tướng.

Đối tượng duyên (sở duyên) trong đây tức là tướng, văn chia làm ba:

  1. Nêu khởi.
  2. Giải thích riêng lẻ.
  3. Nói chung.

“Tác ý sai khác” trở xuống: là giải thích riêng, trước giải thích tác ý. Sau giải thích đối tượng duyên (sở duyên).

Trong phần đầu có ba:

  1. Nêu, ra bảy tác ý, tên của bốn mươi tác ý.
  2. Giải thích riêng hành tướng của bốn mươi tác ý.
  3. Do bảy tác ý và bốn mươi tác ý thu nhiếp nhau.

Thể của tác ý, tức số lượng biến hành. Lúc tu định tuệ, vì dụng của tác ý tăng, nên luận Đối Pháp nói: “tác ý tăng trưởng lợi ích. Nghĩa là vì khéo thuận với xa-ma-tha, tỳ-bát-xá-na, nhưng nói bảy tác ý, chỉ y cứ ở địa định, tán, mà phần nhiều vì dựa vào địa vị kia để tu, nên nói về địa đẳng dẫn.

Về tướng của tác ý, như dưới đây:

Quyển bốn mươi ba nói có ba lần “lại nữa”, giải thích rộng tướng tác ý và bốn đối trị gồm thâu nhau. Quyển thứ chín Đối-Pháp cũng thế.

Quyển hai mươi tám, 29 nói bảy tác ý và bốn tác ý, ba thứ Du-già v.v… gồm thâu nhau; đều nói rộng như các quyển kia.

Nay, nói lược về bảy môn:

1. Môn ba tuệ. Luận sư Cảnh giải thích: “Tướng hiểu rõ chung ở cả ba tuệ; sáu tướng sau chỉ cho tu tuệ”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Một tướng liễu chung cho cả văn tuệ, tu tuệ. Sáu tướng còn lại chỉ có tu; hoặc bảy đều tu tuệ.

2. Duyên danh nghĩa. Tướng liễu “duyên”chung danh nghĩa, sáu tướng còn lại chỉ “duyên” với nghĩa.

3. Lậu, vô lậu. Quyển 80 nói: “đều chung cả hữu lậu.”

4. Môn ba học. Quả rốt ráo gia hạnh của tướng liễu, tác ý chung cả ba học. Năm tướng còn lại là hữu học, kể cả “câu phi”không chung quả Vô học, trong gồm thâu nhau như dưới:

5. Môn bốn đạo. Pháp Sư Khuy Cơ giải thích rằng: “Tướng liễu, thắng giải, quán sát, tác ý, chung cho cả hai đạo phương tiện, và thắng tấn. Tác ý viễn ly, chỉ có đạo Vô gián, gồm thâu tác ý lạc, chung cả bốn đạo. Tác ý gia hạnh rốt ráo, chung cho cả đạo Vô gián, Thắng tấn.

Tác ý thứ bảy chỉ có đạo giải thoát. Đây là dựa vào Nhị thừa tu tập bốn đạo. Phẩm sau tất cả gia hành Vô gián v.v… đều là đạo thắng tấn của phẩm trước Bồ-tát thì không như vậy, sát-na, sát-na chấp nhận đủ bốn. Về nghĩa y cứ nên biết.

Nay, dựa vào lìa tướng liễu của các địa, vì thắng giải nên thông suốt qua đạo thắng tấn dẫn sinh Vô gián.

Tác ý quán sát cũng có cả gia hạnh. Vô gián của phẩm sau là thắng tấn của phẩm trước, nên nói “thứ sáu cũng chung cả thắng tấn, Dựa chung chín địa và nghĩa thật tác ý của bảy môn như thế.

Quyển sáu mươi hai nói: “Tướng liễu, thắng giải, đạo gia hạnh gồm thâu viễn ly và tác ý rốt ráo gia hạnh thuộc đạo Vô gián, gồm thâu tác ý lạc. Bốn thứ đạo gồm thâu tác ý quán sát thuộc về đạo thắng tấn. Các tác ý này dựa vào sơ lìa dục nhiễm, là riêng lìa nhiễm của địa trên.

Đạo gia hành nói: “Dựa vào sự chấp nhận tham dự đạo thắng tấn, không nói Vô gián của phẩm sau là vì đạo thắng tấn trước.

Tác ý rốt ráo gia hành chỉ có Vô gián. Tác ý quán sát dựa vào Đạo tiến tu của phẩm đoạn giữa, nói là chỉ đạo thắng tấn, không nói về sau là Đạo gia hạnh, cũng không trái nhau.

Tác ý thứ bảy là đạo Giải thoát, y theo nghĩa rất dễ hiểu, nên luận không nói.

6. Do ba sư du-già thuộc nhau.

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “1/ Nghiệp tập ban đầu có hai thứ:

a.Về nghiệp tập ban đầu của tác ý, an trụ một duyên, siêng năng tu tác ý. Cho đến chưa được tác ý đã tu, chưa thể xúc chứng một tánh cảnh của tâm.

b. Tịnh phiền não nghiệp tập ban đầu. Nghĩa là đã chứng đắc tác ý đã tu, đối với các dục phiền não, thanh tịnh tâm mình, siêng năng tu tập tác ý rõ tướng.

1/ Sư đã tu hành Du-già. Nghĩa là khéo tu tập năm tác ý giữa.

2/ Sư độ tác ý du-già. Nghĩa là trụ tác ý thứ bảy, vượt qua phương tiện gia hạnh, vì đã tu quả trụ tu, y theo ba sư Du-già này.

Quyển hai mươi tám lại nói: “Thuận giải thoát phần được gọi là nghiệp tập ban đầu. Thuận quyết trạch phần, gọi là hạnh đã tập. Sau hiện quán đế, gọi là độ tác ý, tức chứng tỏ tướng liễu ở thuận giải thoát; năm tác ý kế, ở thuận quyết trạch. Tác ý thứ bảy ở sau hiện quán đế.

– Nếu nói như thế tức là với ba thứ như hữu học v.v… trong bốn mươi tác ý sẽ trái với văn nói gồm thâu nhau: Bảy thứ tác ý đều có cả hữu học. Tác ý ban đầu và thứ bảy cũng có cả Vô học. Do đó, nên biết rằng, ba sư du-già đã dựa riêng vào địa vị, phối hợp với bảy tác ý, khác với nghĩa gồm thâu nhau. Hai môn tự riêng, chẳng phải lấy ba sư du-già với bảy tác ý gồm thâu nhau, tức là chứng tỏ ba địa vị của bảy tác ý cũng thế, không thể này sinh phân biệt phóng túng ở đây. Nhưng ba sư du-già phối hợp chung bảy tác ý trong hai mươi tám tác ý, không dựa vào ba địa vị phối hợp với bảy tác ý. Như ở phi học; phi vô học đủ bảy tác ý. Ở đạo tư lương của địa vị Hữu học có đủ bảy tác ý, trước kia dựa vào đạo thế gian vì tinh tấn lìa nhiễm. Cũng có đạo tư lương không tu bảy tác ý, không tu định, trong đạo Gia hạnh mới có bảy tác ý, tiến đến xa lìa chín phẩm nhiễm của cõi Dục. Sau khi được hiện quán, cũng khỏi bảy tác ý, vì tiến tới lìa nhiễm của địa trên.

7. Môn bảy duyên giả, thật. Ba thứ tướng liễu, thắng giải của rốt ráo của gia hạnh, đều “duyên”chung giả, thật.

Dưới đây là nói ba thứ này gồm thâu chung tác ý thắng giải và tác ý chân thật. Tác ý quán sát chỉ bao gồm tác ý thắng giải, tức chỉ “duyên”giả. Ba tác ý còn lại, hoàn toàn “duyên”thật, vì đạo Vô gián chỉ “duyên”như.

Đây là y cứ ở môn trước, môn khác tùy thích hợp, sẽ phân biệt như dưới đây:

Bốn mươi tác ý là mười một loại.

1/ Hai giáo nghĩa đầu. 2/ Bốn niệm trụ. 3/ Hai giả, thật. 4/ Ba loại phàn, thánh. 5/ Dứt ba loại ban đầu, giữa, sau 6/ Bốn loại sở duyên (đối tượng duyên). 7/ Sáu loại tu chứng lìa nhiễm. 8/ Bốn đạo. 9/ Bốn địa vị tu. 10 / Bốn loại tuệ, định lìa chướng mà được tự tại. 11/ Bốn loại nhân quả của ba thừa đã có tác ý. Bốn loại ban đầu là một nhân chung; bảy loại sau chỉ là một nhân riêng ở Hữu học, Vô học.

Căn cứ giải thích riêng trong bốn mươi tác ý, “duyên”pháp, nghĩa là văn tuệ “duyên”nghĩa. Tư, tu đều dựa vào nhiều sự vượt hơn, chứ chẳng phải cảnh chỉ có thế. Vì văn v.v… “duyên”nghĩa, tu cũng “duyên”giáo.

Tác ý thắng giải. Đối-Pháp quyển mười một chép: “Hoàn toàn xuất thế gian và tác ý đã được từ đây về sau, tức bản trí và hậu trí. Trong đây đã nói: “Lấy tự tướng, cộng tướng (đã nói trong đây) để tư duy các pháp, tức là trí hậu đắc “duyên”lý chân như là trí căn bản.

Tác ý hữu học có hai:

  1. Tự tánh: Tánh là vô lậu.
  2. Ở nối tiếp nhau: căn cú vào thân để phân biệt.

Ở trong thân học, tất cả tác ý thiện, hoặc lậu, vô lậu, đều gọi là tác ý học.

Tác ý v.v… biến tri v.v… Luận sư Cảnh nói: “Hoặc có gia hạnh hậu đắc, ngoài tâm “duyên”như, gọi là là (biết khắp), vì không chứng chính đáng, nên không thể dứt “hoặc”

Tác ý chánh đoạn đều tác động hai việc. Nghĩa là biết khắp chân như, lại hay dứt “hoặc”.

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Tác ý biến tri xa đạo gia hạnh; Tác ý chánh đoạn, gần đạo gia hạnh và đạo Vô gián tác ý đã đoạn, nghĩa là hai đạo khác.

Tác ý có phân biệt, không có phân biệt ảnh tượng: Nghĩa là cảnh của thể phân biệt, tức tâm, tầm, sở của ba cõi, do phân biệt gồm thâu pháp của ba cõi. Tướng trong năm pháp, gọi là phân biệt của phân biệt. Thể của cảnh của hai tác ý này là một. Vì quán, chỉ riêng, nên chia làm hai thứ.

Luận Đối Pháp quyển 11 nói: “Có phân biệt sở duyên (đối tượng duyên) của cảnh tượng. Nghĩa là cảnh “sở duyên”của định, tuệ của tác ý chân thật. Đối tượng duyên đó,dựa vào tác ý chỉ, quán hữu lậu, gọi là có phân biệt ảnh tượng, vì thể là phân biệt luống dối. Chỉ quán vô lậu, gọi là vô phân biệt ảnh tượng, vì thể chẳng phải luống dối.

Trong đây, dựa vào cảnh “sở duyên”, gọi là thể phân biệt, chủ thể duyên (năng duyên) chỉ, quán được chia thành hai thứ, cho nên không trái nhau.

Công việc làm về biên tế của sự, đã hoàn thành.

Luận sư Cảnh nói: “Dựa vào văn dưới đây để phán quyết hai địa vị trước kia ở trước địa; hai địa vị sau ở vô học kiến, tu. Trí Vô phân biệt “duyên”chân như kia, tức là thể chung của thân, thọ, tâm, pháp đầy khắp tất cả, gọi là việc làm của việc bờ mé đã thành xong. Trong tác ý “sở duyên”, trước là y cứ vào nhân để phân biệt, vì trong nhân cũng có đạo lý tùy theo phân biệt công việc làm đã thành xong, Rằng ta tư duy như thế, như thế nghĩa là tự dứt khổ, tập trong nhân duyên, chẳng phải một lời nói lặp lại “như thế”.

Nếu ta tư duy như thế, như thế. Nghĩa là trái với tu chứng diệt, đạo trong nhân duyên. Diệt, đạo chẳng phải một lời nói lập lại “như thế”.

Sẽ có như thế, như thế. Nghĩa là lại muốn cho chúng sinh sẽ có đoạn trừ khổ, tập như thế. Khổ tập chẳng phải một lời nói lập lại “như thế”

Tu chứng diệt, đạo như thế. Diệt đạo chẳng phải một lời nói lập lại “như thế”

Kế là vì duyên theo quả,nên nói là “duyên”tác ý sở duyên thanh tịnh.

Trong gồm thâu nhau dưới đây, chỉ “duyên”trong nhân kia, sự đã làm trước kia chung cho bảy tác ý, dùng làm môn đầu, chỉ “duyên”quả Phật lấy làm môn sau, chỉ gồm thâu tác ý của quả rốt ráo gia hạnh. Đối với địa vị tu kia, lại không có cảnh riêng. “Duyên”xa, hướng về cảnh giới của ba thứ trước.

Tác ý về việc làm đã thành tựu rằng: “Ta tư duy như thế v.v… Nghĩa là dựa vào văn dưới để phán quyết, chỉ ở quả Phật vô học.

Nay, trong văn này, trước phân biệt tác ý lợi mình, lợi người trong nhân; sau, y cứ ở quả để phân tích.

Nói rằng ta tư duy như thế, như thế. Nghĩa là vì lý nhân duyên chỉ, quán của vô tướng kiến đạo, nên gọi là chung là cảnh của nêu bờ mé. Trong địa vị tu đạo, lại không có cảnh riêng, duyên xa ba cảnh trước. Lại, ba cảnh trước nếu ở Phật địa thì gọi là chung là tác ý sở duyên của công việc đã hoàn thành.”

Cơ Pháp sư giải thích: “công việc đã hoàn thành của việc bờ mé với luận Đối pháp và quyển hai sáu dưới đây trái nhau.”Sẽ giải thích về vấn đề đó:

– Nói tác ý sở duyên của việc làm đã hoàn thành của việc bờ mé: Vấn đề này có hai giải thích:

1. Giải thích đồng với Đối Pháp, nghĩa là đầu tiên là cùng tận cái có. Tánh như tánh sở hữu. Tánh cùng tận sở hữu, nghĩa là thể của các pháp uẩn, giới, xứ, vì sự chỉ có ngần ấy.

2. Như tánh sở hữu nghĩa là bốn thánh đế; Mười sáu hạnh chân như ; tất cả hành vô thường; tất cả hành khổ; tất cả pháp vô ngã, niếtbàn vắng lặng; không; vô nguyện; vô tướng. Các pháp này chỉ có đế lý. Hoặc lấy môn đế; hoặc dùng hạnh môn ; hoặc lấy môn các pháp ốt-đànam; hoặc dùng môn giải thoát. Đối với uẩn, xứ, giới trước kia, do nghĩa sai khác mà biết rõ đạo lý, gọi là “như tánh sở hữu”

Thể của việc làm đã thành tựu, tức chuyển y, tức làm sáng tỏ thể ban đầu.

Cùng tận tất cả tánh, chỉ có trí hậu đắc. Như tánh sở hữu, chung cho trí căn bản, hậu trí.

Việc làm đã thành tựu, tức hai thứ chuyển y, Bồ-đề, Niết-bàn.

Thân, thọ, tâm, pháp, đối tượng duyên (sở duyên) của việc bờ mé trong đây, tức tận cùng sở hữu và như sở hữu.

Việc đã làm được thành tựu, tức hai chuyển y. Nghĩa là ta tư duy như thế, như thế, là trí hậu đắc “duyên”tự tánh của pháp. Nếu ta tư duy như thế, như thế, thì đó là trí hậu đắc “duyên”sai khác của pháp. Sẽ có như thế, như thế, là trí căn bản chứng tự tánh. Sẽ phân biệt như thế, như thế, là trí vô phân biệt chứng sai khác, chánh trí theo đó ấn chứng. Cũng nói là hai: Hoặc ta tư duy như thế, như thế, nghĩa là nhân của trí hậu đắc. Nếu ta tư duy như thế, như thế là nhân của bản trí. Sẽ có như thế, như thế là quả của hậu trí. Sẽ phân biệt như thế, như thế là quả của bản trí.

Trên đây là nói chung chuyển y của Bồ-đề, đối tượng duyên thanh tịnh là chuyển y niết-bàn, cách giải thích này dù thuận với Đối Pháp, nhưng không thuận với bảy thứ gồm thâu nhau dưới đây.

Giải thích thứ hai: “Cách giải này so với Đối Pháp không đồng.”

Việc bờ mé Là “duyên”việc bờ mé lý của thân, thọ, tâm, pháp hiện tại.

Việc làm đã thành tựu. Nghĩa là sẽ phân biệt về sự lý của việc đã làm trong hiện tại. Vấn đề này có ba giải thích:

1/ “Ta tư duy như thế, như thế là đối tượng duyên của tâm tán. Nếu ta tư duy như thế, như thế là đối tượng duyên (sở duyên) của tâm định, vì sự tư duy của tâm tán này, nên rốt ráo sẽ có ngay quả quyết định như thế, như thế. Vì tư duy, tác động tâm định này, nên rốt ráo sẽ phân tích, quyết đoán quả ngay.”

2/ “Tư duy như thế, như thế là “duyên”tướng bản chất. Do tư duy này, nên sẽ có ngay quả quyết đoán như thế, như thế. Nếu ta tư duy như thế, như thế, là “duyên”tướng của ảnh tượng. Vì tư này, nên sẽ có ngay quả quyết đoán như thế, như thế.

3, Rằng: “Ta tư duy như thế, như thế là “duyên”tự tánh của pháp. Vì tư duy này, nên sẽ có ngay quả quyết đoán như thế, như thế. Nêu ta tư duy như thế, như thế là “duyên”nghĩa sai khác của pháp. Do tư duy này, nên sẽ có ngay quả quyết định như thế, như thế.

Trên đây là nói chung thành tựu của hữu vi, dù trái với đối pháp, nhưng về văn gồm thâu nhau của bảy tác ý ở dưới văn thuận nhau.

Và “duyên”tác ý sở duyên thanh tịnh, ở đây có hai cách giải thích:

1/ “Duyên”tác ý chân như.

2/ “Duyên”tác ý vô lậu này. Vì làm sở duyên nên nói rằng: “duyên tác ý sở duyên thanh tịnh.

Tác ý thắng giải tư trạch. Nghĩa là trước, tư duy lựa chọn các pháp, đây là tư tuệ mà xa-ma-tha đứng đầu. Nghĩa là dựa vào vị Đẳng dẫn, thắng giải, tư duy, lựa chọn.

Tác ý vắng lặng là trước hết, đặt tâm ở trong: Đây là đẳng trì an tâm của vị tư tuệ, mà Tỳ bát-xa-na là đứng đầu, nghĩa là Đẳng-dẫn mà địa vị tu tuệ đã tu. Do vì tác ý thắng giải tư duy lự chọn, nên tịnh tu tri kiến. Nghĩa là tuệ là phương tiện vì viên mãn thành tuệ. Vì do tác ý vắng lặng sinh trưởng khinh an, nên định là phương tiện, vì định hoàn thành viên mãn.

Vì tác ý tu một phần đủ phần, nên trong các uẩn, tâm được giải thoát, do vì tác ý Vô gián ân cần trân trọng, nên được giải thoát đối với các kiết.

Năm cái, chín kiết thật sự chung cả hiện, chủng. Hiện hành thêm nhau, nay nói riêng là cái. Hạt giống khó dứt vì trầm tế nhau. Nay, nói riêng là kiết. Cho nên nói là đoạn riêng.

Tác ý đối trị. Nghĩa là vì do đây, nên chính thức bỏ các hoặc, gìn giữ đoạn, chứ chẳng phải cho rằng đạo giải thoát khởi, gọi là gìn giữ.”

Cơ Pháp sư giải thích: “Tác ý đối trị, gồm thâu đạo Vô gián, giải thoát. Thuận với thanh tịnh và hai đạo thắng tấn, quán sát gần, xa. Hoặc trí thanh tịnh chẳng thuộc bốn đạo.

Sáu tùy niệm. Nghĩa là niệm Phật, pháp v.v… như Bồ-tát Địa nói.

Vận chuyển tác ý tự nhiên. Nghĩa là đối với bốn thời gian:

1. Lúc được tác ý. Trong gồm thâu nhau ở dưới, khi được tác ý thứ sáu, bảy Đạo vô-gián, giải thoát lìa nhiễm phẩm thứ chín.

2. Lúc chính thức nhập xong, nhập định căn bản. Do được hai tác ý này, nên có thể chính thức nhập tĩnh lự căn bản.

Hai thời gian trước này là phương tiện trước của kiến đạo.

3. Thời gian tu hiện quán: Do phương tiện trước, được nhập kiến đạo, Và tu đạo, tu hiện quán.

4. Thời, nghĩa là thời gian mà địa vị A-la-hán chính thức được, nghĩa là đạo Vô gián.

Đã được nghĩa là được đạo giải thoát.

Thứ ba, bảy tác ý với bốn mươi trong gồm thâu nhau, trước là nói tướng của bảy tác ý. Sau tùy theo văn, nói về sự gồm thâu nhau:

Tác ý của tướng liễu, có khả năng hiểu rõ tướng thô của địa dưới; tướng vắng lặng của địa trên. Tác ý đầu tiên này, văn và tư còn xen lẫn.

Từ đây về sau, hoàn toàn tu chứng. Thường thường tư duy tướng thô, vắng lặng này, thường khởi thắng giải, gọi là tác ý thắng giải.

Do tập thắng giải này, nên mới đoạn đạo sinh đều có tác ý kia, gọi là tác ý viễn ly.

Các phiền não trên và thô năng, đều đã dứt trừ.

Lại nữa, ưa thích đoạn của địa trên. Thấy công đức đoạn của địa trên xong, một ít phần xúc, xa lìa hỷ, lạc. Vì bỏ đi hôn trầm, thùy miên, lại thường tu tập tác ý mầu nhiệm vắng lặng, để làm vui lòng mình, gọi là gồm thâu tác ý lạc.

Hành giả như thế, vì được giúp đỡ giữ gìn của phẩm phương tiện thiện, nên khiến cho phiền não, triền nhơ thuộc phẩm giữa trói buộc cõi Dục, không còn hiện hành nữa. Do đó vì muốn xem xét phiền não dứt và chưa dứt, lại còn tác ý quán sát, tức là sinh thuận theo tướng yên tĩnh, gọi là tác ý quán sát.

Như thế hành giả thường thường quán sát tiến tu đối trị, vì muốn cho tất cả phiền não cõi Dục trong tạm thời được lìa trói buộc.

Đạo đối trị này tương ưng với tác ý, là gia hạnh sau cùng của sơ tĩnh lự.

Gọi là tác ý rốt ráo gia hạnh, do tất cả phiền não phẩm dưới của cõi Dục không hiện hành. Từ vô-gián này, chứng được tác ý đều cùng hành của tĩnh lự căn bản trước hết, gọi là tác ý của quả rốt ráo gia hạnh.

Trong đây, dứt “hoặc”phẩm thượng, mới khởi sự khó khăn, nên hai tác ý làm gia hạnh. Dứt phẩm hạ sau địa mãn, cũng khó khăn chẳng phải mới tu. Cho nên một tác ý làm gia hành.

Vô-gián của phẩm trước có thể có nghĩa gia hành của phẩm sau. Vì thế ba phẩm trong đoạn, không nói gia hạnh. Vô-gián của phẩm sau có thể có nghĩa đạo giải thoát của phẩm trước. Không nói dứt sáu phẩm trước cũng có đạo giải thoát. Dứt ba phẩm sau, Địa mãn nhập Căn bản địa, nên nói tác ý thứ bảy là đạo Giải thoát.

Đã nói về tướng của bảy tác ý xong, sẽ tùy theo văn, phân biệt về tướng liễu, gồm thâu “duyên”pháp, “duyên”nghĩa:

Pháp Sư Khuy Cơ nói: Ở đây có hai giải thích:

1/ “Vì tướng liễu có cả văn tuệ, tu tuệ nên gồm có hai thứ:

2/ Tướng liễu chỉ có tu tuệ.”

Thuyết này nói, lúc mới bắt đầu tu, vì cũng “duyên”nơi pháp, nên nói gồm thâu hai. Thuyết trước nói “duyên”pháp là văn tuệ; thuyết này nói chung cho tu tuệ, thuyết trước hẹp, thuyết sau rộng, nên không trái nhau.

Nay, nhân văn này, phân biệt về ba tuệ thiếu, đủ trong cõi Sắc:

Có nghĩa: “cõi Sắc cũng có tư tuệ, đồng với thuyết của Thành Thật, thuyết ấy nói: “Ba tuệ cõi Dục, Sắc, tất cả như cánh tay, cư sĩ sinh lên cõi trời Vô-Nhiệt, nói pháp trong cõi đó.”Nếu người nói pháp, tất nhiên tư duy nghĩa đó. Cho nên, biết cõi Sắc cũng có tư tuệ; trong cõi vô-sắc, chỉ có tu tuệ. Vì thế, văn này nói: “Tác ý của tướng liễu gồm thâu, nghĩa “duyên”. Thuyết trước nói: “Tác ý “duyên”nghĩa, nghĩa là do tư, tu mà thành tuệ, tương ưng với tác ý. Đã không nói gồm thâu duyên một phần nghĩa, chỉ nói gồm thâu “duyên”nghĩa, cho nên, biết tướng liễu có cả tư tuệ.”

Lại, luận đã nói: “Tướng liễu cũng là đối tượng xen lẫn của văn, tư, mà nói tác ý của địa định. Cho nên, biết cõi Sắc cũng có tư tuệ.”

Luận sư Cảnh nói: “Tướng liễu có cả ba tuệ, vì hòa hợp với đây rồi”Lại, Đối pháp quyển chín nói: “do tác ý thắng giải. Vì nghĩa sở cầu, phát khởi chánh phương tiện.”

Phạm sư giải thích: “Đây là giải thích lại tác ý thắng giải, là nghĩa sở cầu; là sở cầu ở dưới, nên đoạn nghĩa nên được ở trên, nói phát chánh phương tiện. Nghĩa là phát khởi phương tiện tu tuệ, dứt “hoặc”có văn tuệ tương ưng với tác ý, khác với thuyết trước. Thuyết trước không có văn, tư xen lẫn, thuyết này chỉ lấy văn tương ưng với tư. Ý sớ này nói:

“Cõi Sắc cũng có tư tuệ.”

Có nghĩa: “Cõi Sắc chỉ có văn, tu, không có tư tuệ, đồng với Tátbà-đa, nhưng văn này nói rằng “Tướng liễu gồm thâu nghĩa “duyên”, thể của “duyên” nghĩa rộng. Nếu nghĩa “duyên”ở cõi Dục, thì tác ý và tư tuệ đều có; ở cõi trên, với tu tuệ đều có. Cho nên tác ý của tướng liễu đều gồm thâu địa định. “duyên” pháp, “duyên” nghĩa, không gồm thâu cõi Dục “duyên”pháp, “duyên”nghĩa. Trong văn đã y cứ định địa nói về bảy tác ý, nghĩa là từ Sơ tĩnh lự cho đến Phi tưởng, đâu cần phân biệt duyên pháp, duyên nghĩa cõi Dục, cho nên, không nói gồm thâu một phần v.v… mà nói tướng liễu là văn xen lẫn với tư. Đây là vì văn tư cõi Dục bị gián cách. Vì do vị trí định gần gũi cõi Dục, nên hoặc xuất, hoặc nhập, xen lẫn với văn.

Từ đây trở lên siêu việt văn, tư, một bề tu tướng. Pháp sư Khuy Cơ, v.v… giải thích ba tuệ môn rằng: rõ tướng, sáu thứ còn lại chỉ có tu. Hoặc bảy tác ý đều tu, nghĩa ấy rất dễ hiểu. Ba thứ tướng liễu, thắng giải, quả rốt ráo, gồm thâu chung tác ý v.v… thắng giải chân thật, v.v…

Luận sư Cảnh nói: “Do văn này mà biết được tác ý thắng giải có cả quán giả, thật. Tác ý quán sát chỉ gồm thâu thắng giải trong bốn mươi. Ba tác ý còn lại trong bảy chỉ gồm thâu chân thật trong bốn mươi. Đây là y cứ vào môn trước. Y cứ ở môn khác, phải biết tùy thích ứng. Thứ bảy trong bốn mươi tác ý, nói về tác ý thắng giải, nghĩa là người tu tĩnh lự tùy thuộc vào đều mà họ muốn, về các sự tướng, tác ý tăng ích để làm môn trước.

Kế là quyển thứ mười chín nói: “Tác ý thắng giải tư duy, lựa chọn, nghĩa là do tác ý này, nên hoặc có tư duy lựa chọn các pháp đầu tiên. Đây là tư tuệ của cõi Dục, hoặc xa-ma-tha la đứng đầu, đây là môn sau. Nếu dựa vào môn trước, thì tác ý thắng giải chỉ quán giả tưởng. Cho nên, chỉ thuộc về tác ý quán sát trong bảy này. Nếu dựa vào môn sau, thì tác ý thắng giải có khi chẳng phải thuộc về bảy tác ý. Nghĩa là hoặc có tư duy, lựa chọn các pháp trước hết; hoặc xa-ma-tha mà đứng đầu, đều là bảy tác ý kia, cho nên nói rằng: Y cứ ở môn sau, phải biết là tùy theo thích ứng.”

Pháp Sư Khuy Cơ giải thích: “Ba thứ tướng liễu, thắng giải, quả rốt ráo, gồm thâu chung tác ý chân thật, thắng giải, nghĩa là tướng liễu chung cho ở người mới tu và Vô học. Tất cả người mới tu phần nhiều chỉ thắng giải. Vô học v.v… phần nhiều là tu chân thật. Thắng giải đã gần với đạo lý gia hạnh, chung cho giả thật. Tác ý của quả rốt ráo chung cho lý giả, thật của tất cả thời gian, phần vị trong địa căn bản.

Tác ý quát sát chỉ gồm thâu thắng giải. Nghĩa là đạo thắng tấn của ba phẩm trong đây. Giả đầu tiên, tu thắng giải không nói là có cả thật, vì lý gia hạnh sau, cũng có chân. Ba tác ý còn lại, chỉ gồm thâu chân thật, là vì đạo vô-gián phần nhiều quán chân.

“Đây là y cứ môn trước. Y cứ môn khác, phải biết là tùy theo sự thích ứng: Đây là y cứ bảy tác ý của thuyết trước với hai gồm thâu nhau. Y cứ ở tưởng của nghĩa riêng, phần nhiều chỉ có thắng giải, vì mới khởi sự tu, vì quả rốt ráo chỉ đạo giải thoát chân thật.

Tác ý quán sát có cả thắng giải chân thật, vì có thể là đạo thắng tấn, gia hạnh, bốn tác ý còn lại như trước. Cho nên nói: “Y cứ môn khác, phải biết tùy thích hợp. Không nói bảy thứ đều khác với trước.”

Có giải thích rằng: “Văn trước giải thích về tướng tác ý chân thật. Nghĩa là lấy tác ý tự tướng (cụ thể); cộng tướng (khái niệm) và tướng chân như, như lý tư duy các pháp. Nay, văn này lấy “duyên”tự, cộng tướng làm môn trước, vì nói chung theo ba thừa, nên lấy “duyên”chân như làm môn khác, vì chỉ Bồ-tát. Nếu y cứ môn khác, thì chẳng phải tưóng liễu đều là chung cho chân thật. Cho nên nói rằng: Tùy theo sự thích ứng.

Hai thứ tác ý cũng gồm thâu tác ý Vô học: Đây là dựa vào đắc quả xong, vì thường sinh nhàm, lìa, nên có tướng liễu. Dựa vào đạo dứt phiền não, nói năm tác ý giữa. Vì Vô học đã không có tác ý, cho nên không nói có.

Quán sát gồm thâu biến tri. Nghĩa là quán sát cũng có cả đạo Gia Hạnh. Quán sát chỉ thuộc có phân biệt. Nghĩa là phần nhiều khởi Tuệ trong đạo Thắng tấn. Do đây nói riêng, chẳng phải không có vô phân biệt.

Tác ý sở duyên của việc bờ mé gồm thâu khắp tất cả. Luận sư Cảnh giải thích: “Xa lìa trong bảy tác ý gồm thâu ưa quả rốt ráo gia hạnh của gia hạnh rốt ráo.

Ba tác ý trước trong bốn tác ý này là đạo Vô-gián, nhất định “duyên”chân như. Quả rốt ráo gia hạnh là đạo giải thoát cũng “duyên”chân như, đều gồm thâu tác ý sở duyên của việc bờ mé. Tác ý khác có tướng liễu là tác ý quán sát thắng giải. Hoặc là đạo phương tiện tương ưng với trí gia hạnh, cầu chứng chân như. Hoặc ở đạo Thắng tấn tương ưng với hậu trí, lại “duyên”chân như đã chứng trong quán sát. Dù ngoài tâm thấy như, cũng được gọi là “duyên”cảnh của việc bờ mé, nên bảy tác ý đều gồm thâu tac ý của sở duyên việc bờ mé, việc làm đã thành tựu. Nếu y cứ môn đầu gồm thâu khắp tất cả. Y cứ môn thứ hai chỉ thuộc về tác ý của quả rốt ráo gia hạnh.

Ở trên, nói về tác ý sở duyên của việc đã thành tựu. Nghĩa là tu tư duy như thế, như thế v.v…. Đây là môn đầu y cứ trong nhân, để phân biệt tác ý về việc đã hoàn thành này, nên gồm thâu bảy tác ý. Đây là y cứ vào bảy tác ý tùy phần thành xong. Kế là nói rằng: “Và duyên tác ý sở duyên thanh tịnh, căn cú môn thứ hai này, chỉ y cứ quả, để nói việc làm đã hoàn thành, cho nên chỉ thuộc về tác ý của quả rốt ráo gia hạnh.

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Môn đầu dựa vào tu quả hữu vi đã thành tựu, nên chung thuộc về bảy tác ý. Y cứ môn thứ hai chỉ thuộc về quả rốt ráo gia hạnh. Nghĩa là phần thứ hai ở trước, duyên tác ý sở duyên thanh tịnh chỉ ở quả Phật, chuyển y vô vi, vì rốt ráo hoàn thành.

Trước là tác ý thắng giải, tư duy lựa chọn đều là đối tượng không gồm thâu. Nếu xa-ma-tha thì đứng hàng đầu, gồm thâu tất cả. Nghĩa là trước kia nói rằng: “Tác ý thắng giải tư duy lựa chọn. Nghĩa là hoặc có người tư duy trước hết lựa chọn các pháp; hoặc xa-ma-tha là đứng đầu, tác ý thắng giải tư duy lựa chọn, tức là vì muốn tư tuệ thiện, chẳng phải thuộc bảy tác ý cõi Sắc. Nếu dựa vào Xa-ma-tha của cõi Sắc, khởi tác ý thắng giải tư duy lựa chọn kia, tức thuộc về bảy tác ý.”

Văn trước lại nói: “Tác ý vắng lặng. Nghĩa là do tác ý này, nên hoặc có người đặt tâm trước hết ở trong, hoa tỳ-bát-xá-na là đứng đầu.”Nay, nói rằng: “Nếu trước hết vắng lặng, hoặc tỳ-bát-xá-na là đứng đầu, phải biết cũng thế, tức trước nói rằng: “Hoặc có người đặt tâm trước hết ở trong. Nếu đầu tiên dựa vào tâm cõi Dục, an trụ cảnh trong, gọi là tác ý vắng lặng, tức chẳng phải thuộc về bảy tác ý. Nếu dựa vào tu tuệ, Tỳ-bát-xa-na khởi tác ý vắng lặng, gọi là thuộc về bảy tác ý.

Sáu tác ý trước, gồm thâu chung một phần và phần tu v.v….”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Có tuệ giải thoát tu tuệ, chẳng phải định phàm phu. Được định căn bản, chưa chẳng tu tuệ.

Tác ý quả rốt ráo y cứ ở vượt hơn, nghĩa là nói gồm thâu đủ phần tu. Đều là giải thoát, vì tu đủ phần.

Tác ý thuận theo, vì nhàm hoại đối tượng duyên, nên thuộc hai tác ý đầu.

Tác ý đối trị là vì đạo vô-gián, nên gồm thâu xa lìa, gia hạnh, rốt ráo và gồm một phần lạc. Gồm thâu tác ý lạc vì chung cả bốn đạo, nên thuận với tác ý thanh tịnh, chỉ thuộc gồm thâu một phần lạc.

Luận sư Cảnh nói: “Cách giải thích ở trước là thuận với tác ý thanh tịnh, nghĩa là do tác ý này, nên tu sáu tùy niệm, hoặc lại tư duy từ một sự mầu nhiệm. Trong tác ý gồm thâu lạc đó có đủ bốn đạo, còn tác ý thanh tịnh, thì chỉ gồm một phần đạo thắng tấn. Tu đạo lý sáu tùy niệm v.v… cũng gồm thâu chung tác ý quán sát kia, do đồng là đạo thù thắng và vì dễ biết, cho nên không nói. Cũng có thể tu sáu tùy niệm, hoặc tùy “duyên” một sự mầu nhiệm, chẳng phải dứt “hoặc”, vì thuộc về bốn đạo, chỉ là một phần tác ý nhiếp lạc kia, vì chẳng phải đạo Thắng tấn, không gồm thâu tác ý quán sát, thắng giải, tướng liễu kia, nên biết tác ý lạc gồm thâu chung bốn đạo và chẳng phải bốn đạo.”

Lại giải thích: “Nói thuận với tác ý, quán sát đoạn, chưa dứt, chỉ thuộc về tác ý quán sát. Đây là y cứ thuộc về đoạn đối trị. Nếu y cứ đạo khác thì tùy thích hợp phải biết, nghĩa là ở trước giải thích thuận với tác ý quán sát, là do tác ý này nên quán các phiền não dứt và chưa dứt. Hoặc lại quán sát bản thân mình đã chứng và đối tượng chứng ở trước, tác ý quán đạo lý các pháp v.v… Hoặc dựa vào quán các phiền não dứt và chưa dứt.

Giải thích thuận với tác ý quán sát, tức thuận với quán sát, chỉ gồm thâu tác ý quán sát, trong bảy chỉ có hai đều đồng với đạo đoạn đối trị làm phương tiện, cho nên nói rằng: “đây là nói theo đoạn đối trị”. Nếu dựa vào giải thích kế nói rằng “hoặc lại quán sát bản thân mình đã chứng và trước đó đã quán đạo lý v.v… các pháp”văn giải thích thuận với tác ý quán sát, tức thuận với tác ý quán sát tướng liễu riêng, chung, thắng giải quán sát và quả gồm thâu bốn tác ý, chứ chẳng phải chỉ thuộc về tác ý quán sát kia, cho nên nói rằng: “Nếu y cứ tác ý khác thì tùy theo sự thích ứng nên biết”.

Pháp Sư Khuy Cơ giải thích: “Đây là nói theo đoạn đối trị, y theo đạo khác thì tùy theo sự thích ứng, nên biết”, vấn đề này có hai giải thích:

1/ “Chỉ giải thích thuận với tác ý quán sát dứt và chưa dứt, chỉ thuộc về tác ý quán sát, vì dựa vào đạo thắng tấn dứt đối trị của phẩm giữa ở trước. Nếu y cứ ở đạo khác, thì gia hạnh của đạo Vô gián sau cũng là gồm thâu tướng liễu, thắng giải, gồm thâu ba lạc. Nếu nói theo đoạn đối trị của phẩm hạ thì cũng thuộc về tác ý rốt ráo của quả gia hạnh, nên nói là: “tùy theo sự thích ứng”.

2/ “Nói chung, bốn tác ý ở trước thuộc về từ trên đến đây, nói theo nghĩa dứt riêng ba phẩm, dứt đối trị tăng thượng. Dựa vào nghĩa đủ khác, tùy ý tùy thuận sơ, nhị và gồm thâu quán sát lạc. Gồm thâu quán sát cũng có cả gia hạnh sau. Cho nên thuận với tác ý thanh tịnh, cũng thuộc về quán sát, thuận với tác ý quán sát dứt và chưa dứt, cũng gồm chung cả lạc, thuộc về quả rốt ráo gia hạnh. Vì nghĩa như trước đã nói, nên nói là tùy theo sự thích ứng.

Tác ý cố gắng đều không gồm thâu: Theo giải thích ở trước, tác ý sức cố gắng nghĩa là tu chủng nghệp chưa được tác ý. Tất cả tác ý, nghĩa là với sức cố gắng trong tâm cõi Dục này, vì mới tu nên chưa được các tác ý trong định vị chí. Thế nên tác ý của sức cố gắng này chẳng thuộc về bảy tác ý của địa định.

Tác ý hữu quán có công dụng vận chuyển, cho đến thuộc về tác ý lạc. Luận sư Cảnh nói: “Hữu quán vận chuyển, có công dụng vận chuyển, hai tác ý này chỉ thuộc về bốn tác ý trước trong bảy. Nghĩa là tướng liễu, thắng giải, viễn ly, nhiếp lạc, cho nên nói rằng: “Cho đến thuộc về tác ý nhiếp lạc.

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Về tác ý hữu gián, quyển hai mươi tám chép: “Văn, tư thuộc về tướng liễu vì gián cách.”Tác ý có công dụng, quyển hai mươi tám chép: “Văn, tư thuộc về năm tác ý kế, vì đều khởi công dụng.”Trong đây do tác ý nhiếp lạc có cả đạo thắng, tấn, nên lược qua không nói, vì quán sát thắng tấn đồng, do tác ý rốt ráo gia hạnh được vận chuyển tự nhiên, nên gọi là tự nhiên vận chuyển, chẳng phải đương thời đã có thể tự nhiên vận chuyển.”Quyển hai mươi tám chép: “Chỉ quả gia hạnh không có công dụng vận chuyển. Trong quyển hai mươi tám có công dụng, gọi là vô-gián, vì đối lập với Hữu gián ở trước.

Tự nhiên chuyển, gọi là không có công dụng, đối với thế lực có công dụng ở trước.

Tác ý tư duy lựa chọn thuộc về tướng liễu. Nghĩa là dựa vào môn mới tu, vì phần nhiều khởi tuệ, nên chẳng phải không gồm thâu tác ý còn lại.

Tác ý nhiếp nội, gồm thắng giải: dựa vào sáng lập môn nội duyên vô-gián, chẳng phải không gồm thâu môn khác.

Tác ý tịnh chướng thuộc về quán sát. Nghĩa là y cứ ở tác ý quán sát, quán sát phiền não dứt và chưa dứt, vì thuận với thuận chướng, chẳng phải thật sự thuộc về tịnh chướng kia, vì chẳng phải chính là đạo Vô Gián.

Tác ý rộng lớn đều đã không gồm thâu. Nghĩa là niết-bàn vô trụ, bi trí kiến lập, hai lợi vận hành rộng, vì chẳng phải gồm thâu bảy, vì bảy chỉ lợi mình, chẳng phải thực hành rộng rãi.

Tác ý sơ biến hành, thuộc về quả rốt ráo. Nghĩa là trong biến hành trước có hai:

1. Nghĩa là vì Phật, Thế tôn là thuộc về quả.

2. Tất cả gồm thâu. Nghĩa là các Bồ-tát đã có phương tiện khéo léo đối với ba thừa và năm minh xứ, là công hạnh tự lợi, thuộc về bảy tác ý kia. Lại, tác ý tướng liễu, cho đến chuyển thành “duyên” kia, đây là giải thích lại.

Nói tướng liễu, thuộc người khác đã kiến lập, nghĩa là do nghe tiếng người khác và tự tác ý, nhất định là “duyên” kia:

1. Tướng: “liễu vì chung cho văn, tu, nên thuộc về người khác đã kiến lập.

2. “Dù chỉ tu tuệ làm tánh, nhưng cũng duyên giáo ngoại sinh, nên thuộc về người khác đã kiến lập. Đây chính là tác ý tướng liễu của Thanh Văn.

Tác ý tướng liễu, thuộc nội tăng thượng thủ, chỉ lấy tư lương phước, trí ở trước làm duyên. Không có, tức là tự ngộ, tức là Độc giác và các Bồ-tát đã có tác ý tướng liễu. Ngoài ra, sáu thắng giải v.v… do tác ý trước nảy sinh tác ý sau.

Phần thứ hai, là giải thích riêng trong sở duyên sai khác được chia làm hai:

  1. Vì duyên, tức là tướng.
  2. nói riêng về tướng.

Do sở duyên (đối tượng duyên) này là cảnh của các tác ý. Sở dĩ tức tướng là vì đều là cảnh định v.v…

Trong phần nói riêng về tướng, ttrước là nói về bốn tướng, ba mươi hai tướng. Sau nói thuộc về tướng gốc ngọn.

Tướng sở duyên. Nghĩa là sự sở tri, thể, tướng phân biệt. Thể phân biệt là tâm, tâm sở (năng duyên, sở duyên).

Tướng phân biệt là tướng phần sở duyên (đối tượng duyên). Tâm định lấy kiến phần, tướng phần này làm sở duyên.

Tướng nhân duyên. Là tư lương của định, nghĩa là các nhân không có ăn năn, vui mừng, an ôn, v.v…

Không giữ bốn thứ như căn môn v.v… Như trước đã nói: 1/ Không giữ căn môn. 2/ Ăn không biết lượng. 3/ Đầu hôm gần sáng không thường thức giấc, siêng tu quán hạnh. / Trụ bất chánh tri (địa Thinh Văn dưới đây sẽ nói rộng). Tướng hôn trầm điệu cử, tán loạn, như tên gọi tức là chúng.

Thể của chấp tướng là vô minh làm tánh. Hoặc là tánh ái, hoặc tất cả tánh phiền não như kiến, nghi v.v…

– “Thế nào là tướng sở y (đối tượng nương tựa) trong ba mươi hai tướng?” Đó là thể, tướng phân biệt, v.v… Nghĩa là năm uẩn trong và hạt giống, tức là kiến phần, tướng phần, gọi là “sở y”. Sáu xứ như sắc, v.v… gọi là tướng sở y.

– Thế nào là tâm khởi tướng v.v… ? Đây có 2 tướng:

1/ Tất cả tâm khởi tướng, tức kế thuyết trước nói: “Tác ý là 1 tướng, vì tất cả tâm sinh đều do tác ý.

2/ Tâm đệ bát khởi tướng, nghĩa là tâm trong mười hai chi “duyên” theo hành, cũng “duyên”danh sắc mà sinh.

– Thế nào là tự tướng? Tướng, nghĩa là tự loại, tự tướng v.v…

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Tự tướng của tự loại, nghĩa là loại năm uẩn, mỗi uẩn đều có tự tướng riêng, vì tự tướng của mỗi uẩn như nhau, v.v… khác nhau.”

Có giải thích: “Tự loại, nghĩa là tự tướng của xứ. Đều riêng, nghĩa là tự tướng của xứ.”

Trong đây, đã xuất ly đoạn, không tu phuơng tiện, nghĩa là quán hữu tham v.v….

Luận sư Cảnh nói: “Đây là kết mười cặp không có tâm nhiễm, nghĩa là vô tham, sân, si, cho đến tâm đã giải thoát, quán hữu tham v.v….

Tu phương tiện, nghĩa là quán lược, thấp v.v…. mười cặp kiết này có tâm nhiễm ô. Nghĩa là có tâm tham, sân, si, thấp, tâm lược, cho đến tâm không giải thoát. Tâm có tham, không có tham; có sân, không có sân; có si, không có si, tâm ít, tâm nhiều; tâm lược, tâm rộng; tâm thấp; tâm cao cử, cho đến tâm nên tu, không nên tu, có giải thoát, không giải thoát.”

Pháp sư Thới, Pháp sư Cơ đồng nói: “Các người xuất gia gọi là đã xuất ly. Ở đây có hai loại:

Một loại không tu phương tiện niết-bàn, nghĩa là quán có tham, không tham; sân, không sân; có si, không si v.v…

Một loại tu phương tiện niết-bàn, nghĩa là quán tâm lược, tâm rộng, tâm thấp, tâm cao, cho đến tâm thiện giải thoát, tâm bất thiện giải thoát. Quán ba đôi trước về tướng không nhiễm ô, vì chẳng phải nhất định thuận với xuất thế, vì bảy cặp sau thuận với xuất thế.”

Pháp Sư Khuy Cơ lại giải thích: “Hoặc thuận với định, gọi là tu phương tiện, không thuận với định là không tu phương tiện, chẳng nhất định xuất thế.”

Lại giải thích: “Người không tu phương tiện, là người vô học, đã được xuất ly, lại vì không tu phương tiện, nên chỉ quán tâm ba cặp như có tham v.v…. Nếu ngươi tu phương tiện, nghĩa là người hữu học, quán tâm bảy đôi như lược thấp v.v…, vì thuận với xuất ly của Vô học.

– Thế nào là tướng sáng suốt? Nghĩa là có bóng tối đối trị với ; pháp sáng suốt, nghĩa là trong cái thức ăn trước nói có ba thứ ánh sáng. Pháp sáng suốt này chính là hai thứ đầu.

Trụ quán ở ngồi v.v…, nghĩa là nhắc lại ba câu kinh mà giải thích riêng.

Luận sư Cảnh nói: “Đứng là hiện tại, ngồi là vị lai. Hoặc đi ở sau quán sát trước. Nghĩa là lấy sau sau, hay lấy quán trước trước. Pháp năng lấy (chủ thể lấy), tức lấy tâm sau quán sát tâm trước.”

Pháp Sư Khuy Cơ lại nói: “Vị lai gọi là ngồi, hiện tại gọi là đứng. Từ ngồi vị lai, vì đứng dậy là hiện tại, tức hiện tại này cũng gọi là ngồi. Quá khứ gọi là nằm, vì ngồi mới nằm.Vì quá khứ thôi diệt, nên đặt tên là nằm.”

_ “Sao tướng nhập định cho là do nhân duyên” v.v…? Trừ tướng nên xa lìa trong bốn tướng ở trước, vì ba tướng này thuận với nhập định.

– “Sao tưóng xuất định lại cho là thể phân biệt? Đối tượng không gồm thâu tướng của địa bất định?”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Dù tâm định, tâm tán loạn, nhưng thể vẫn có cả phân biệt, thể của tâm tán này không thuộc về định, tướng của địa bất định, gọi là tướng xuất định, hoặc thể của phân biệt là định vô lậu, đối tượng không gồm thâu.

Tướng của địa bất định, gọi là tướng xuất định.”

Nay, lại giải thích rằng: “Tâm tán gọi là phân biệt, thể không thuộc về định, nên gọi là tướng của địa bất định.”

– “Thế nào là tưóng dẫn phát?” Nghĩa là đạo có khả năng dẫn các văn cú nghĩa lược rộng. Đây là thông tự tại của thánh. Dùng trí tiếng nói tự tại, gồm thâu các văn cú rộng, hội nhập trong một chữ. Do một chữ này gồm thâu vô lượng nghĩa của văn cú.

Thông này dựa vào định dẫn phát, gọi là tướng dẫn phát, cho đến dẫn phát tất cả công đức, (tướng gồm thâu rất dễ hiểu).

 

(Phần Cuối)

BẢN LUẬN QUYỂN 12

Trong giải thích về sở duyên của tác ý. Từ đây trở xuống, là thứ ba, là nói chung, Văn có làm bảy phần:

  1. Lý do tu tập tác ý.
  2. Bốn duyên nhập Đẳng chí.
  3. Bốn người được định.
  4. Sự sai khác của vị tịnh định v.v….
  5. Bốn phần định khác nhau.
  6. Thứ lớp siêu việt nhập xuất.
  7. Huân tu sai khác.

Nghĩa là tức đối với các tướng kia của tác ý kia, cho đấn chủ thể tác (năng tác) bốn việc, v.v….

Luận sư Cảnh giải thích: “Nghĩa là tác ý, tư duy trong bốn tướng: Như tướng sở duyên (đối tượng duyên), tướng nhân duyên v.v… có khả năng làm bốn việc:

  1. Tức tu tập tác ý như thế.
  2. Khả năng xa lìa phiền não đối trị kia.
  3. Khả năng tôi luyện tác ý này và ngoài ra còn giúp trở nên sáng suốt rực rỡ:
  4. Nhàm chán đối tượng duyên, khiến cho phiền não không nối tiếp.”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Lại, chính lúc tu tập tác ý này, nhàm chán, hủy hoại đối tượng duyên, (sở duyên) là đạo gia hạnh. Xả các phiền não là đạo Vô gián. Gìn gửi, đoạn diệt là đạo giải thoát, khiến cho các phiền não xa lìa nối tiếp nhau là đạo Thắng tấn.

Trong bốn nhân duyên Đẳng chí, sức nhân, nghĩa là đời trước đã, nhập định dùng làm sức nhân. Đây là thuận với giáo lý Tiểu thừa để lập ra lý luận phân biệt này. Đại thừa chính thức dùng hạt giống định để làm sức nhân, cũng có thể y cứ vào thời gian gần gũi nhập tĩnh lự, sau

phát công năng của hạt giống định được tăng trưởng, sinh ra định vào thời nay, là do sức của nhân đó.

Trong bốn người được định, Luận sư Bị nói: “Ái v.v… là “hoặc”của điạ trên, chẳng phải cõi Dục, do chế phục dục tham v.v…, mới nhập định.”

Nghĩa này không đúng, vì thức luận nói: “Chủ yếu là người được định căn bản kia, vì phiền não của địa đó chấp nhận hiện tiền. Người chưa khởi định này đâu chấp nhận trước khởi ái v.v… của địa trên?”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Bốn căn vô ký này, bốn người được định khởi bốn thứ này, tất nhiên chẳng phải một người có thể khởi đủ bốn. Ái tức số tham; kiến là kiến thủ; mạn là ngã mạn; nghi là nghi si. Trong đây, trước nghe mà khởi là chưa được định, trước khởi bốn căn, thì chẳng phải chỉ có tánh vô ký, vì cõi Dục có cả bất thiện, hoặc sau khi được định xong, khởi bốn thứ, mới là vô ký.”

Luận sư Cảnh giải thích: “Thấy tĩnh lự trên nói: “Trước dựa vào tà giáo, khởi lên thường kiến”, kế là nói “phương tiện như thế, người nhập sơ tĩnh lự v.v… có thể được thanh tịnh v.v….”

Sư kia lại bảo: “Nếu người nhập tám định như thế, sẽ được thường, ngã, thanh tịnh, giải thoát v.v….”

Lại, dựa vào lời dạy ấy rồi sinh kiến thủ. Người đó dựa vào thường kiến, kiến thủ, tu tinh tấn mạnh mẽ, nhập sơ định, hoặc định khác v.v…. Lại, nhờ sức định, thấy được việc trong quá khứ, lại nẩy sinh thường kiến. Kế là nói, nhờ dựa vào kiến, tu được tĩnh lự. Sau đó, nương tựa súc định, biết chuyện trong quá khứ, lại sinh thường kiến. Vào thời gian sau, dựa vào thường kiến, lại sinh kiến thủ.”

Pháp Sư Khuy Cơ giải thích: “Như thế nhập định rồi, có thể nhớ nghĩ đến nhiều kiếp quá khứ, rồi nảy sinh kiến v.v… này. Do được định rồi, khởi lên bốn thường kiến, duyên chung thế gian, chẳng phải chỉ vì y cứ ở định, nên chẳng phải kiến thuộc về tĩnh lự trên. Chấp kiến này không bỏ, gọi là kiến thủ. Nhưng trong văn này chỉ nói là năng được tịnh, không nói thể thù thắng, sự thật thì khó chỉ bày rõ. Vì được vượt hơn thì dễ. Cho nên định v.v… là đối tượng nương tựa (sở y) của thường kiến, vì uẩn cũng là cảnh của kiến thủ.

Trong đây, ái duyên địa trên, Duy Thức giải thích đầy đủ trước khi chưa được định, ngã mạn “duyên”địa này sinh, đồng địa mà chấp. “duyên”chung năm uẩn rồi mới có thể. Cho nên sau khi được định, mạn “duyên”địa kia khởi, vì cũng đồng địa, không duyên riêng ngã mạn, “duyên”địa khác sinh.

Duyên chung thì có thể như thế. Như Duy Thức nói: “Một pháp nghi kia, xem thế văn đó, chỉ người tu xuất thế, khởi nghi “duyên”thánh đế, y cứ vượt hơn, nghĩa là nói thông suốt qua cái khác có. Đối với định vượt hơn khác, cũng khởi nghi, cho nên, trước khi chưa được định thì tánh có cả bất thiện. Nếu được định về sau, gọi là vô ký căn. Phiền não định này là căn bản, nên khởi sinh phiền não.

Trong định ái vị, Pháp Sư Khuy Cơ nói hai nghĩa:

Thông suốt qua hữu vị chí, y theo tác ý tướng liễu ở trên đã chung cho văn tuệ, tâm tán của địa vị chí, nào ngại gì tâm nhiễm, có ở địa vị chí, cần phải được định căn bản, được tự tại rồi mới khởi hiện tiền.

Địa Vị Chí không có nhiễm. Tướng liễu cũng chẳng phải chung cho văn tuệ. Vị được ái kia sẽ nói là đã phát ra vị năng ái, sẽ nói là người chính thức nhập định. Trước kia nói là đã được định rồi, tức là sinh vị ái, e rằng người nghi ở trong định tĩnh khởi lên vị ái này?

Nay, nói vị sỡ ái, định thanh tịnh đã xuất, tâm “năng ái”phải nói là chính nhập. Pháp sư Khuy Cơ nói, định thanh tịnh đã nhập quá khứ ra khỏi hiện tại, vị định ở hiện tại nên nói là chánh nhập

Tĩnh lự thanh tịnh, nghĩa là có phiền não, hành, bạc trần hành của trung căn, lợi căn v.v…, mới có thể tu nhập. Không nói hạ căn và ba độc, thêm riêng tu được tịnh định. Ở cõi cam lộ, buộc niệm tư duy như thế, mới nhập định vô lậu. Hoặc quán Bốn đế; hoặc quán hai không, được hiển bày chân như, là tiền phương tiện, nhập định vô lậu, gọi là cõi Cam lộ. Thuận với thời phần định, nghĩa là có độn căn. Thuận với trụ phần định, Nghĩa là có trung căn, hoặc người tánh v.v… lợi căn.

Trong đây, chỉ dựa vào bốn người, vì thành lập bốn. Nói căn ở đây, chẳng phải dựa vào một người mà thành bốn thứ. Quyển mười ba ở dưới sẽ nói, kinh Tứ Kiểm Hành nói: “Dựa vào một người, vì theo thứ lớp tu. Về đạo lý cũng có người thượng căn mà lui sụt tu hạ căn; cũng có người hạ căn, mà tu thượng căn không lui sụt. Lui sụt kia là lui sụt phần định. Trụ kia là phần với tâm nhiễm, sai khác nhau. Đã không thắng tấn, cũng không lui sụt. Thuận với phần định vượt hơn, y cứ nhất định người riêng để tu định, là người lợi căn, không với tâm nhiễm mà sai khác nhau.

Quyển mười ba chép: “Thuận với thắng phần định trong kinh Tứ Kiểm Hành, chẳng phải thối, chẳng phải trụ chỉ là thắng tấn, chẳng phải thu hướng quyết trạch. Quyết trạch tức phần, gọi là hai quyết trạch phần, phần là nói nghĩa chi, nghĩa loại. Giống như cái bình ngọc v.v… của thế gian, đã khéo phân biệt đã là bậc thánh, phân biệt, chọn lựa, nhập vào phần hơn hết, gọi là phần quyết trạch. Như chiếc bình ngọc của thế gian đã khéo phân biệt được tinh ròng. Cho nên gọi là giản trạch phần.

Bốn thứ định này, đại khái dùng sáu môn để nói:

1. Nói về hành tướng như văn.

2. Nói về tánh, chỉ có thiện hữu lậu.

3. Dựa vào địa chung cho Sắc, Vô Sắc, Hữu đảnh cũng có thể sinh tâm vô lậu. Nhưng lấy nghĩa chuẩn xác, thì không có phần thứ tư trong bảy cận phần của địa trên không thấy với tâm vô lậu khác nhau. Mới khởi thì không thế, sau khởi có thể được. Cho nên đều có bốn phần, vì không có văn ngăn ngại.

4. Sơ có thể sinh hai: Tự và trụ phần. Trụ phần sinh ba, trừ thứ tư, thứ ba cũng sinh ba, trừ phần thối; thứ tư sinh một, nghĩa là tự loại.

5. Chỉ rõ loại khác. Thuận với phần thối; thuận với phiền não; thuận với trụ phần; thuận với tự địa, thuận với phần vượt hơn là thuận với địa trên. Thuận quyết trạch phần là thuận với vô lậu.

6. Dựa vào mà khởi. Cõi dưới, khởi bốn; hai cõi trên chỉ ba, không có sơ, vì không lui sụt.

Vô gián nhập vào Đẳng chí, ba thứ lậu, vô lậu thuần túy, tạp nhạp, đều có bốn loại:

  1. Thuần túy hữu lậu
  2. Thuần túy vô lậu.
  3. Hữu, vô lậu xen lẫn.
  4. Loại.Có bốn:

a. Thuận nhập. b. Nghịch nhập. c. Thuận nghịch nhập. d. Nghịch, thuận nhập.

Trong đây, chỉ có sơ nhị, siêu việt nhập vào Đẳng chí, ba loại: Hữu lậu, vô lậu, thuần túy tạp nhạp siêu vượt đều cũng có bốn. Trong đây nói chỉ có sơ nhi, vì lời văn, là chung.

Như thế gồm có hai mươi bốn câu. Trên nói về loại khác nhau: Người nào năng siêu vượt? ở đây nói người siêu vượt phải là vô học, không thể Hữu học, phải là lợi căn, chẳng thể độn căn.

Dựa vào giới: Chỉ có cõi Dục, chẳng phải hai cõi trên. Trong đây Luận sư Cảnh nói: “Thừa nhận thân ở địa dưới, được khởi tâm sinh đắc thiện của địa trên, nghĩa là được thành hai mươi bốn câu. Người xưa chứng rằng: “Y theo văn của tâm rộng, nghĩa là từ tâm phương tiện được nhập tâm không ẩn mất tâm vô ký, do tâm xuất sinh bất động cầu, không ẩn mất tâm vô ký, bất tâm phương tiện thiện vì yếu kém, nên từ tâm định tĩnh nhập thiên nhãn, nhĩ thức. Thiên, nãn, nhĩ, thức không được khước từ nhập định tịnh. Nếu nhân ở cõi Dục không khởi sinh đắc thiên của cõi trên, thì từ thiên nhãn, nhĩ xuất sẽ ở tâm nào? Lại, La-Hán ở cõi Dục, khởi “hoặc”của hai cõi trên, nếu không khởi tâm sinh đắc thiện của cõi trên, thì sẽ từ những tâm nào nhập phiền não kia?

Lại nữa, Lúc A-la-hán vượt qua định, nếu không được tâm sinh đắc thiện của Phi tưởng, thì không thành số câu. Nay, trong Đại thừa, dựa vào văn Đối-Pháp nói là hễ sinh vào bất cứ địa nào, thì đều được thành thục tâm thiện của địa đó. Y cứ được hiện khởi gọi là thành thục. Văn này tức nói thân ở địa dưới, chỉ khởi tâm sinh đắc thiện của địa dưới.

Hội với ba chứng trước. Nghĩa là các thuyết dựa vào kinh, luận mới phiên dịch, nói là năm thông kia, và tâm biến hóa đều gọi là quả thông. Thuận với chánh lý, đều nói lên phán quyết này, như lúc tu thông, chẳng có trở ngại cho việc cắt dứt mọi che lấp của thông xong, kế là thành thục trí tuệ của ý địa là thể của thông kia. Từ đây sinh năm thông và tâm biến hóa đều gọi là quả của thông, xuất nhập với tướng định. Cho nên, thiên nhãn, nhĩ từ định xuất, trở lại nhập định. Lại, người Vô học khi lui sụt khởi “hoặc”của địa trên, từ trụ phần định khởi “hoặc”đương địa. Như khi ngăn lỗi của địa trên, được từ phiền não của địa trên, nhập trụ phần tịnh định của địa dưới. Lúc Vô Học lui sụt, do không có phần lui sụt từ trụ phần kia mà nhập phiền não. Đã biết sinh xuống địa dưới, chưa khởi tâm thiện sinh đắc của địa trên. Đây là thuận, nghịch, siêu, thứ, lúc nhập tám định, không thành nhiều câu (câu: Trường hợp), đều có sáu trường hợp:

  1. Hữu lậu thuận, nghịch, đều, thứ lớp nhập vào tám định.
  2. Vô lậu, thuận, nghịch, đều, thứ lớp nhập bảy định.
  3. Hữu lậu thuận, nghịch, gian, thứ lớp nhập tám định.
  4. Hữu lậu, thuận, nghịch đều siêu, nhập vào tám định.
  5. Vô lậu thuận, nghịch, đều, siêu, nhập bảy định.
  6. Lậu, vô lậu, thuận,nghịch, gian, siêu, nhập vào tám định.

Nếu siêu vượt tâm cõi Sắc, xuất, có thể có tâm của văn tuệ dịthục sinh, và tâm của thông quả.

Nay, lấy tâm của Phi tưởng xuất, thì xuất ở tâm nào? Oai nghi khéo léo của tuệ Vô gián kia và tâm của thông quả chẳng phải địa khác khởi tâm thiện sinh đắc, mà là nghiệp của quả tâm dị-thục sinh không là địa khác khởi.

Y theo định diệt tận mà xuất, “duyên” ba thứ cảnh xúc, ba thứ

xúc thừa nhận “duyên”uẩn hữu vi trong, ngoài sinh, đâu ngại gì cõi Dục khởi tâm dị thục sinh của địa Hữu Đảnh, chẳng phải quả nghiệp? Nhưng về tướng thì khó biết.

Do đây, lẽ ra nói là hữu lậu, vô lậu phát ra ở các loại khác, gọi là tâm xuất, chứ chẳng phải cận phần vị tán.

– Nếu vậy hữu lậu, vô lậu gian nhập v.v… sao lại trụ ở loại khác?

Nay, nói trụ loại khác của hành tướng khác, gọi là xuất. Hoặc được khởi tâm vô ký, vẫn chưa trái lý, vì quá xa, nen không có khả năng vượt qua Đẳng chí thứ ba, chỉ trừ Như -lai đẳng. Đây là y cứ ở tự tại vượt qua tất cả địa mà nói. Nếu bảy địa trở xuống và ba-la-mật-đa thanh-văn cũng có thể vượt qua hai địa, cho đến bảy địa. Đức Mục-kiền-liên nhập định vô sở hữu xứ, nghe tiếng voi kêu v.v…, liền xuất định, vưột qua nhiều địa (trong quyển sáu mươi ba có nói về việc kiện này).

Lại, dựa vào tự tại vượt qua tất cả địa, đó là Đức Phật và Bồ-tát bất thối. Với người khác dù cũng vượt qua, nhưng không thể nhiều địa. Nếu là người nhậm vận khởi, chẳng phải khởi thiền, thì tất cả đều được, như chuyển sinh chín địa và ngài Mục-kiền-liên, cho nên ở đây không nói.

Trong huân tu, văn có hai:

  1. Nói về hai nghĩa tạp tu.
  2. Nói về tu sinh sai khác.

Huân có năm thứ:

1. Huân tu định thuần hữu lậu. Nghĩa là sinh bốn tĩnh lự của địa dưới, trừ năm Tịnh cư. Như từ đây trở xuống, nói là vì tu phẩm nhuyến trung, thượng, nên thọ quả của ba địa.

2. Huân tu định thuần vô lậu, nghĩa là tám địa trở lên, còn biến dịch sinh tử, định hữu lậu đã hết.

3. Tạp tu hữu lậu, vô lậu, tức lối tu đã nói ở đây là được tự tại đối với Đẳng chí, và vì thọ quả tự tại của Đẳng chí, nên tu tập xen lẫn, sinh lên nămTịnh cư v.v…

4. Tạp Huân tu định, tán hữu lậu, nghĩa là A-la-hán xã quả phước của phước mạng, hành tư mạng.

5. Tạp huân tu định, tán vô-lậu, nghĩa là người Nhị thừa và biến dịch sinh tử của Bồ-tát từ bảy địa trở xuống.

Trong tạp tu thứ ba này, hữu lậu là hai bên, một sát-na vô lậu ở giữa, gọi là tu thành mãn, như thân phàm phu tạo nghiệp năm Tịnh cư. Gieo trồng nhậm vận (tự tại) ở trong thân, chỉ có thể cảm thiên xứ cõi dưới. Do khởi mong muốn, huân tu thành tựu, viên mãn. Với sức định vô lậu, giúp cho hạt giống nghiệp xưa, khiến cho thế lực thù thắng, sinh lên năm Tịnh cư. Cho nên chẳng phải hữu lậu, mà là ở giữa, vì thể lực yếu kém, tức không đồng với tạp tu của Tiểu thừa. Nghĩa là Tỳ-đàm v.v… nói rằng: “Trước, khởi mười sáu hạnh quán vô lậu, nhiều niệm nối tiếp nhau. Kế là nhập mười sáu hạnh quán hữu lậu, cũng nhiều niệm tiếp nối nhau.

Như thế, xoay vần dần lược hạnh duyên, cho đến vô lậu, hữu lậu đều có hai sát na, gọi là phương tiện thành tựu. Sau đó, lại khởi một niệm vô lậu, rồi lại khởi một niệm hữu lậu, là đạo Vô gián. Kế lại khởi một niệm vô lậu, là đạo giải thoát, gọi là huân thành năm phẩm. Tên huân tu có ba tâm, tức dùng hai đầu, huân tu vô lậu, vì hữu lậu ở khoảng giữa.

Lại nữa, một niệm hữu lậu đầu tiên là đạo gia hạnh dẹp bỏ chướng định. Niệm vô lậu tiếp theo là đạo Vô gián chính là diệt trừ chướng định. Lại một niệm hữu lậu kế là đạo giải thoát. Cho nên huân tu viên mãn. Nếu lấy hữu lậu làm khoảng giữa, vô lậu là đầu, sau, thì ha lấy vô lậu làm gia hạnh hữu lậu làm đạo Vô gián được ư? Kế là giải thoát ở sau cuối, vì là năng giúp đỡ, nên được giúp đỡ thuận nhau.

“Như có một người đã được hữu lậu và bốn tĩnh lự vô lậu, v.v… Người huân tu định, phải có được bốn thứ định tĩnh lự hữu lậu, vô lậu, mới bắt đầu huân tập trước, dùng định vô lậu thứ tư, để huân tu hữu lậu của đương địa. Kế là nhập định vô lậu thứ ba, huân tu hữu lậu của đương địa, cho đến Sơ định. Từ thượng lưu chảy xuống địa dưới, nên nói như thế.

Theo thứ lớp văn dưới đây, huân tu định có năm:

  1. Đẳng chí được tự tại.
  2. Được thọ quả tự tại của Đẳng chí, hiên pháp lạc trụ.
  3. Vì được đạo bất thối kia.
  4. Vì được tu đạo đối trị dẫn sinh công đức.
  5. Vì được sinh Tịnh cư.

Nay, trong văn này lược nếu hai định trước: Nếu đối với nơi chốn này, thời gian này, sự việc này, người muốn nhập các định v.v… Thới Luận sư nói: “Thân sở y, danh, xứ v.v….”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Thân được trụ dựa vào danh, xứ, khởi định sáng, tối, v.v… thời tiết, v.v… danh, thờiđiểm, tùy theo “duyên” bất cứ cảnh nào, đều gọi là sự.

“Nếu có thủ khác”. Nghĩa là chi thủ có nghiệp tàn dư nhuận sinh, mà chết đi tức là sinh Tịnh cự.

Quả của Đẳng chí có hai:

  1. Được quả công đức.
  2. Sinh quả Tịnh cư.

Trong sự sai khác của tu sinh có bốn:

  1. Sinh nhân.
  2. Nhiễm lùi, thiện tiến tới.
  3. Chỗ tu nhân.
  4. Nói về sự sai khác.

Đã sinh Tịnh cư kia xong, nếu khởi vị ái, tức là lui sụt mất, nghĩa là chẳng phải là định trong địa trên, có thể có lui sụt, mà do nhiều vị ái làm hao hụt bớt mạng sống lâu, gọi là “tức là sụt mất”, đây là lui sụt sinh.

Năm môn của địa này, đã phân biệt rộng trung, thượng xong; Ba đoạn giải thích về bốn môn xong. Đoạn thứ tư dưới đây, sẽ giải thích về cương yếu tông chỉ của các kinh. Sau cùng, nói về các nghĩa.

Văn chia làm hai:

1. Giải thích tông yếu, tức giải thích thuyết trước, nêu chung bốn môn. Ba thứ sau trong tĩnh lự; giải thoát, đẳng trì, Đẳng chí, do bốn tĩnh lự trước đã giải thích.

2. Quyển mười ba sẽ giải thích về các nghĩa:

Hai đoạn này, đều giải thích nghĩa của các môn trong kinh, vì mỗi môn đều có riêng, nên chia thành hai thứ:

Trong thứ đầu, chia làm ba:

  1. Nêu thuyết dưới.
  2. Tùy từng thuyết, giải thích riêng.
  3. Kết chung.

Trong giải thích riêng có ba: a. Giải thích về giải thoát. b. Giải thích về đẳng trì. c. Tam-ma-địa trở xuống.

3. Giải thích Đẳng chí, 5 hiện thấy Tam-ma-bạt-để trở xuống.

Môn đầu có bốn:

1. Giải thích danh từ giải thoát. 2. Giải thích thắng xứ 3. Giải thích biến xứ. 4. Phân biệt chung.

Dù thắng xứ, biến xứ nhưng y theo phần nêu ở trước mà nói thì đều tồn tại ở môn Đẳng chí.

Nay, vì dựa vào thứ lớp của tu sinh, nên kế đây sẽ nói về giải thoát.

Ở trước, do tùy theo người khác mà tạp khởi dẫn sinh, hoặc vì tùy theo nghĩa vượt hơn, nên lìa giải thoát, nhập môn Đẳng chí. Vì giải thoát, trừ chướng có công dụng hơn hết, nên nêu môn riêng.

Nay, vì đầu tiên tu thứ lớp, tất nhiên là như thế, cho nên nói về môn không trái nhau.

Tám giải thoát, dùng chín môn để nói. Trong văn có hai:

  1. Nêu số, giải thích danh.
  2. Nói về hành tướng của số, nêu số giải thích danh:

Hữu sắc quán các sắc giả thoát, cho đến diệt tận, thân giải thoát tác chứng đầy đủ là trụ.

Theo luận Câu-xá quyển 29 nói: “Đầu tiên gọi là trong có tưởng sắc, quán tưởng giải thoát sắc ngoài. Vì quán thêm nên đặt tên là quán tưởng.

Trong chưa dẹp bỏ kiến, nghĩa là tưởng sắc gọi là trong có sắc, chỉ quán cảnh ngoài, gọi là quán sắc ngoài. Đại thừa thì không thế, chưa lìa dục cõi Sắc, dù là người đã lìa kiến, nhưng tưởng sắc được an lập hiện tiền, gọi là hữu sắc. Quán chung trong ngoài, gọi là quán các sắc.”

Hỏi: “Luận Hiển-Dương v.v… gọi là trong có sắc giải thoát của tưởng sắc, vì sao trong đây không nói chữ “nội”, chỉ nói “có sắc”

Ngài Tam-tạng nói: “Kinh luận bản Phạn, “nhã nhã đại”, đều không có chữ “nội”. Người dịch thêm chữ “nội”, về nghĩa cũng không ngại.”

Luận sư Bị nói: “Đâù tiên chỉ giải thoát về thể của cảnh, chưa giải thoát loại của cảnh. Sắc nghĩa là sắc của cõi Sắc, thể loại trong giải thoát thứ hai đều thoát, nên gọi là ngoài.”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: xưa nói: “Trong có tưởng sắc quán sắc ngoài”ở đây, cho là không đúng. Vì rằng có sắc chẳng phải chỉ ở trong; các sở quán (đối tượng quán) chẳng phải chỉ ở ngoài.

Nay, theo luận Hiển Dương, có tưởng sắc nghĩa là dựa vào định có sắc, vì ý giải tư duy, các sắc là quán các sắc trong ngoài.

Nói “không có tưởng sắc, nghĩa là dựa vào định không có sắc, ý giải tư duy.

Ngoài, nghĩa là trừ các căn như nhãn v.v…, vì ý giải tư duy sắc khác. Y theo sự thật, hai môn đầu quán chung trong, ngoài mà có kiêm chánh, chỉ vì muốn chỉ bày rõ môn giải thoát thứ hai vì đã lìa dục sắc, nên nêu riêng trong không có tưởng sắc, vì giải thoát đầu tiên kia chưa lìa sắc dục, trong ngoài đều có sắc, nên chỉ nói có sắc. Gọi là trong có sắc, về lý đâu có hại gì?

Trong không có tưởng sắc, quán các sắc ngoài. Nghĩa là Tiểu thừa kia nói: “Trong đã dẹp bỏ tưởng sắc. Chỉ quán cảnh ngoài, gọi là quán sắc ngoài.”

Hai môn giải thoát trên được nói là quán, vì trong các sắc đã được biến hóa tự tại, vì ý giải tư duy, chỉ bày rõ ràng tưởng kia.

Giải thoát, nghĩa là khả năng giải thoát làm thay đổi các chướng ngại.

Theo luận Đối-pháp nói: “Trong, nghĩa là thân trong, đã dựa vào định Vô Sắc, dẹp bỏ kiến, nghĩa là tưởng sắc, gọi là trong không có sắc”, không đồng với luận này.

Ở đây Luận sư Bị nói: “Khi chưa lìa dục, tự thấy, gọi là sắc trong; thấy phi tình khác, gọi là ngoài. Nhưng khi đã được lìa tham dục của cõi Dục rồi, ở trong định cõi Sắc đều quán về sắc của cõi Dục, cõi Sắc, cho nên, sặc tự, tha hợp gọi là sắc ngoài.”

Luận sư Thới nói: “Sắc dụ trên sắc của hai cõi chưa lìa, gọi là trong có sắc. Nếu đối với thân trong này, khi đã được lìa dục, tức nói là thân trong, gọi là sắc ngoài, vì không có sắc dục, không chỉ quán sắc ngoài thân, gọi là ngoài.

Thân Tịnh giải thoát, tác chứng cụ túc trụ: Tịnh, nghĩa là lìa tám thức chướng trong tĩnh lự thứ tư. Xả niệm viên mãn trong sạch, gọi là tịnh. Quán này quán chung cảnh tịnh, bất tịnh. Luận Hiển Dương chép: “Tịnh nghĩa là hoàn toàn ý giải tư duy sắc mầu nhiệm tịnh.”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Môn tùy chuyển lý, hoặc dựa vào quán tịnh, bất tịnh kia, vì đối đãi nhau, thể nhập vào nhau, nên về sau, trở thành một vị sắc tịnh là luận.”

Luận Đối-Pháp nói: “Sắc tịnh bất tịnh ở trong, xoay vần đối đãi nhau v.v…

Giải thoát; là chủ thể giải thoát (năng giải thoát) tịnh, bất tịnh, biến hóa, sinh khởi phiền não chướng. Đây là công dụng gia hạnh khi biến hóa, gọi là phiền não chướng ngại tâm. Cho nên hai giải thoát trước tùy theo đối với chướng của một sự biến hóa. Trong đối tượng giải thoát tịnh, bất tịnh này đã có chướng rất tự tại của công dụng gia hạnh của biến hóa Thân, là thân ý, tác chứng, là do đối với trí đoạn, được tác chứng. Các căn được cảnh, chỉ có thân căn, hợp gần thân và chứng ý giải tư duy của hai môn giải thoát trước hãy còn xa, cho nên gọi là quán.

Môn giải thoát thứ ba này, trừ chướng trên hết, gọi là thân tác chứng.

Đối-Pháp nói: “Tám thứ này gọi là thánh trụ, vì là chỗ các thánh ở. Tuy nhiên các bậc thánh phần nhiều trụ ở thứ ba thứ tám, vì hai xứ này vượt hơn, nên đều ở một bên trong hai cõi.

Trong kinh Thế Tôn nói: “Thân tác chứng đối với cõi Sắc, Vô Sắc chướng đã dứt không còn thừa, chứng được “chuyển y”vượt hơn sáu cõi còn lại.

Cụ túc trụ, là căn bản viên mãn của tĩnh lự thứ tư. Thứ tám cũng thế. Hữu đảnh viên mãn, tên khác có thể hiểu.

Nay, trong văn này chỉ giải thích tên chung bảy giải thoát ở trước, đối với đã giải thoát, sinh ra thắng giải nghĩa là bảy pháp sở quán phải lìa nhiễm phiền não chướng của địa kia, mới bắt đầu tu, được gọi là đã giải thoát.

Nay, quán cảnh kia được trừ chướng của định, khởi công đức thần thông mà sinh thắng giải, nên gọi là giải thoát.

Giải thoát thứ tám, trái bỏ tưởng thọ. Nghĩa là trước kia, xa đạo Vô gián, dù đã diệt chướng của tưởng, thọ, nay, mới được gọi là giải thoát. Lúc chính thức khởi giải thoát, chỉ tạm trái bỏ tưởng, thọ, gọi là giải thoát chướng định, chẳng phải thế gian, nơi chốn mới giải thoát chướng định mà trước đó đã lìa.

Thứ hai trong phần nói về tướng, chỉ nói bảy giải thoát. Về sau đến môn Đẳng chí, mới giải thích thứ tám.

Nói người sinh cõi Dục v.v…. giải thích nghĩa có sắc. Ở đây nói người mới tu, chưa lìa nhiễm sắc. Nếu người đã lìa, người thấy tưởng sắc an lập hiện tiền, gọi là hữu sắc.

Người kia trong đối tượng giải thoát như thế, đã được giải thoát, là giải thích về nghĩa giải thoát.

Sắc sở quán kia, vì đã được giải thoat trong giải thoát dục ở cõi Dục, tức đối với các sắc cõi Dục, do có tác ý tư duy v.v… tướng sáng suốt. Đây là nói về nghĩa quán, không đồng với khởi tưởng bất tịnh của tông Tiểu thừa.

Nay, vì ở đây nói quán tưởng sáng suốt, nên có hai nhân duyên, gọi là có sắc:

  1. Vì sinh cõi Dục, được định cõi Sắc.
  2. Vì đối với ánh sáng mà làm thắng giải.

“Các sắc cõi Dục bị chế ngự một ít sắc v.v… đối với các thắng xứ”. Đây là đáp sắc sở quán, tức cảnh thắng xứ, lý do thắng giải đầu tiên do tưởng mà quán.

“Hoặc tốt, hoặc xấu v.v… ”. Đây là đáp về hành tướng.

Ba giải thoát trước, dẫn thắng xứ; biến xứ. Thần thông của các thánh, bốn giải thoát sau, tùy thích ứng, có thể dẫn công đức vô tránh v.v…, nghĩa là người sinh cõi Dục, đã lìa dục cõi Sắc. Đây là giải thích nghĩa “trong không có tưởng sắc”. Ở trước kia dựa vào định của Không xứ, vì đã lìa nhiễm cõi Sắc, nên định của cõi Vô Sắc không hiện ra. Đây là giải thích nghĩa quán các sắc ngoài. Vì Vô Sắc không thể quán các sắc, dựa vào định cõi Sắc,vì hiện quán các sắc ngoài, nên định Vô Sắc không hiện trước.

Trên nói chưa được định Vô Sắc, chưa lìa dục cõi Sắc, quán các sắc ngoài, gọi là giải thoát ban đầu.

Đã được định Vô Sắc; nghĩa lìa dục cõi Sắc, quán các sắc ngoài, gọi là giải thoát thứ hai: Đây là dựa vào nghiệp đầu tiên mà nói. Do đều giải thoát (câu giải thoát), nghĩa là vì nhất định được sơ giải thoát. Nếu trước không nhập định Vô Sắc, thì chưa dẹp bỏ kiến là tưởng sắc, tạo ra tướng ánh sáng mà quán các sắc là sơ giải thoát. Nếu trước kia nhập định Vô Sắc, đã dẹp bỏ kiến là tưởng sắc, tạo ra tướng ánh sáng mà quán các sắc là sơ giải thoát. Nếu trước kia nhập định Vô Sắc, đã dẹp bỏ kiến là tưởng sắc, không tư duy tướng ánh sáng, chỉ quán tốt, xấu v.v… trong sắc ngoài là giải thoát thứ hai. Cho nên trong đây nói: “lại không tư duy tướng ánh sáng của đối tượng tưởng kia, vì quán thành tựu dần, nên chỉ sinh thắng giải đối với sắc ngoài.

Do “câu giải thoát”này, nghĩa là cũng thành mới giải thoát.

Đối-pháp giải thích sơ giải thoát: “Ở trong chưa kịp trừ kiến, là tưởng sắc, tức sơ tập nghiệp, Nghĩa là hoặc hiện an lập kiến là tưởng sắc, tức mãn nghiệp. “Câu giải thoát”v.v… đã khởi giải thoát. Ở thân trong kia, dù đã xa lìa dục, an lập tưởng sắc mà thể hiện ở trước, vì quán sắc ngoài.”

Luận Đối-Pháp giải thích giải thoát thứ hai, rằng: Trong đã chế phục kiến là tưởng sắc, là sơ nghiệp, nghĩa là hoặc hiện an lập kiến, là tưởng Vô Sắc, là mãn nghiệp, “câu giải thoát”, là nghĩa đã khởi giải thoát, y như thuyết trước nói. Lại không tư duy tưởng ánh sáng của tưởng kia, chỉ tác thành thắng giải đối với sắc ngoài, là giải thích về nghĩa quán.

Nếu đối với sắc này, đã được lìa dục, nói sắc kia là ngoài, thì chính sắc đã lìa nhiễm này, do ra khỏi nhiễm, nên gọi là ngoài. Quán tất cả các sắc này là cảnh, gọi là quán sắc ngoài, không chỉ quán trần ngoài, gọi là quán sắc ngoài. Nếu y cứ theo Đối-pháp thì thân trong gọi là nội, trần ngoài gọi là ngoại. Quán trần là cảnh, gọi là quán sắc ngoài. Thuyết kia nói hai nghĩa nội ngoại, vừa đồng với tông Tiểu thừa. Vì dựa vào định Vô Sắc, lìa nhiễm sắc trong, khác với tiểu thừa kia.

Hai giải thoát trên, theo Câu-xá nói: “Sơ Tĩnh lự, nhị tĩnh lự có thể diệt trừ hiển sắc tham trong sơ tĩnh lự cõi Dục. Quán Bất tịnh kia có thể tạo nên thuyết này.

Nay, tạo nên tướng ánh sáng v.v…, luận Hiển Dương quyển 20 chép: “Hai giải thoat này dứt trừ chướng của biến hóa, vì được tự tại đối với biến hóa, nên tu hai giải thoát. Vì biến hóa đã thông suốt quả hữu của bốn tĩnh lự, nên hai giải thoát đầu dựa chung bốn tĩnh lự, đồng với luận Thành Thật: vẫn ở căn bản, chứ chẳng phải ở các địa cận phần. Tiểu thừa kia ưa hướng đến tu, đều không có quả chung. Đây là chấp nhận Dự tu vì có quả chung, nên trong tịnh giải thoát đã được xã niệm viên mãn, thanh tịnh. Đây là giải thích nghĩa “Tịnh”. Lìa lỗi trong một sát-na, gọi là “thanh”lìa lỗi nối tiếp nhau, gọi là “Bạch”. Do tịnh giải thoát này mà được nương tựa, tu tập hạnh thánh thanh tịnh, viên mãn gọi là người tịnh giải thoát. Đây gọi là định thứ tư, đối với bốn màu như xanh v.v… hễ tùy quán một sắc tạo thành kiến giải thanh tịnh. Cũng có thể quán chung cả bốn sắc tạo nên kiến giải thanh tịnh như quán hoa, cây. Về sau, trong thắng xứ, mới quán riêng bốn sắc.

Trong đây nói vì được xã niệm thanh tịnh, nên dưới đây lại dùng ba nghĩa để giải thích về tên thanh tịnh này:

1. Nghĩa là vì đã vượt qua các khổ, vui, nên loạn động, yên tĩnh, sẽ mòn dần. Cho nên tịnh giải thoát chỉ ở căn bản thứ tư, chứ chẳng phải cận phần. Tịnh giải thoát này trong cũng không có sắc, mà quán sắc ngoài, vì trước đã nói, nên ở đây lược qua.

2. Kế là giải thoát của bốn Vô Sắc, đều đã lìa dục của địa mình, dựa vào địa căn bản, quán lại cảnh của mình với tư duy thắng giải, sao cho chướng càng xa, dẫn sinh công đức thù thắng, gọi là giải thoát. Nhưng nay văn luận nói, hai giải thoát của không, thức được gọi là lìa dục của mình, là vì ảnh lược trong thân Vô học mà nói. Theo thuyết trước, nên nói lìa tự dục. Nếu dựa vào hữu học v.v… mà được, thì không cần phải lìa nhiễm, nên ở đây không nói.

Lại, không Thức xứ nói là tư duy địa mình, do hai thứ đó gọi là tự địa.

Vô sở hữu xứ lấy thức không có làm tên cho tự địa, nên tư duy thắng giải ở thức xứ. Giải thoát Hữu Đảnh cũng thế.

Ba địa dưới gọi là tưởng sinh xứ: Tư duy, thắng giải cùng khắp xứ này, chỉ ở căn bản, chẳng phải ở địa cận phần.

Trên, đã dựa vào hai môn luận để phân biệt.

3. Nêu ra thể tánh, quyển bảy mươi ba chép: “Thế gian, xuất thế gian trong năm pháp, thì chánh trí là tự tánh. Hữu lậu, thuộc về chánh trí thế gian trong phân biệt. Vô lậu tức trí vô phân biệt, thuộc trí hậu đắc, chỉ lấy tuệ làm tánh “duyên”sắc, phi sắc và cảnh chân như, lìa các chướng của định, dẫn sinh thắng đức, các trí khác chẳng thể được.

Nếu tương ứng với thể, thì bảy giải thoát đầu là tánh của bốn uẩn, tánh của năm uẩn quyến thuộc; hai mươi hai pháp định Diệt tận của giải thoát tứ tám, vì trước kia đã hun đúc hạt giống của tâm nhàm chán làm tự thể.

4. Các duyên cảnh: Nghĩa là hai giải thoát đầu lấy tướng hiển sắc và tướng chân như làm cảnh sở duyên. Giải thoát thứ ba lấy tướng nhiếp thọ và tướng chân như làm cảnh sở duyên.

Tướng nhiếp thọ. Nghĩa là với sắc tịnh, bất tịnh bên trong lần lượt đối đãi nhau, lần lượt hội nhập nhau, lần lượt là một vị. Như Đối-Pháp nói: “Bốn giải thoát kế, mỗi giải thoát đều lấy tự tướng và chân như làm cảnh. Bốn giải thoát kế chỉ Vô Sắc làm cảnh, vì dứt chướng này, khởi quán hạnh này. Giải thoát thứ tám không có đối tượng duyên.

5. Phàm, thánh được phân biệt Có nghĩa nói: “Bảy giải thoát đầu thì phàm thánh đều được, giải thoát thứ tám chỉ có bậc thánh được, vì chỉ có vô lậu. Quyển bảy mươi ba chép: “Phàm phu, bậc thánh đồng được ba giải thoát đầu, nhưng có sai khác. Thông của hai đạo nội, ngoại được không có sai khác, trừ chướng biến hóa vì được tự tại. Nhưng DuGià quyển thứ mười lăm cho rằng: “Ba giải thoát đầu vì được tự tại đối với tất cả sắc, nên có thể dẫn phát thần thông các bậc thánh, không chung với tất cả phàm phu”.

Luận đó tự nói là việc của Bất hoàn A-la-hán làm, không nói phàm phu không thực hiện ba giải thoát đầu.

Bốn giải thoát kế: Luận Đối pháp nói: “Sở đắc của đệ tử bậc thánh, nếu được đắc ý, nghĩa là đệ tử bậc thánh, thì phàm phu cũng được”.

Có nghĩa: “Chỉ ba thông trước, nội đạo, ngoại đạo, phàm, thánh đều được. Luận chỉ nói phàm phu được. Năm thông sau, chỉ bậc thánh được. Luận nói đệ tử bậc thánh không nói phàm phu.

6. Sự sai khác của việc lìa chướng. Luận Hiển Dương quyển hai mươi chép: “Đối trừ sáu chướng:

1/ Chướng biến hóa. Đối tượng trừ của hai giải thoát đầu, chủ thể biến, chủ thể hóa, do quán ánh sáng, mầu nhiệm đặc biệt, vô ngại và được ít nhiều v.v…, vì được tự tại.

2/ Chướng tột độ hiện pháp lạc trụ.

3/ Đối tượng dứt trừ. Luận Đối-Pháp chép: “Chướng chủ thể đoạn sắc tịnh, bất tịnh, biến hóa, và phiền não ở trong đây sinh khởi chướng, tức công-dung-gia-hạnh đối với sắc tịnh, biến hóa, với sắc bất tịnh, thì biến hóa mâu thuẫn nhau.

Thể tức tánh vô ký cứng, nhám gọi là phiền não. Ba chướng qua, lại, đối tượng dứt trừ của giải thoát thứ tư. Do các sắc là không, chẳng có chướng ngại, là phương tiện đã nhập Địa căn bản của bốn định cõi Sắc, qua, lại tự tại.

4/ Chướng công đức thù thắng của dẫn vô tránh v.v… do đối tượng trừ của thức, một thể của các côntg đức vượt hơn kia chính là Thức. Đây là phương tiện khởi tĩnh lực thứ tư, phát các công đức.

5/ Chướng các lậu và hữu. Lậu, nghĩa là “hữu” phiền não, nói là Hữu-Đảnh. Phiền não này tức hai pháp “hoặc”, “khổ”, được dứt trừ do giải thoát thứ bảy, thứ sáu. Giải thoát thứ sáu chính là chủ thể dứt trừ. Giải thoát thứ bảy dứt trừ chúng, khiến cho lìa hẳn.

6/ Chướng sáu vắng lặng, tối cực trụ, vì Diệt định, vắng lặng, trụ rất vượt hơn là đối tượng dứt trừ của giải thoát thứ tám.

Quyển mười lăm chép: “Năm giải thoát sau, chỉ nói chủ thể dẫn tưởng, thọ, diệt, Đẳng chí. Nghĩa là dựa vào địa vị thành tựu viên mãn, cũng không trái nhau.

7/ Dựa vào thân khởi: Thân ba cõi khởi năm giải thoát sau, vì cho rằng cõi Vô Sắc khởi diệt định.

Ba giải thoát đầu, nghĩa “hiểu” chỉ khởi ở cõi Dục, vì sức giáo. Luận quyển này nói: “Do hai nhân duyên gọi là hữu sắc, nghĩa là vì sinh cõi Dục”.

Nghĩa “Hữu” không đúng, vì khởi ở cả hai cõi. Đầu tiên tu giải thoát, Biến Xứ là quả, tất nhiên ở cõi Dục, như đạo lý ở trước. Về sau, khi được thành mãn, Biến Xứ là nhân, giải thoát là quả, đâu ngại gì cõi Sắc cũng được khởi sau? Há sinh cõi Sắc, không được gọi là “hữu sắc” mà chẳng tu chung ư?

8/ Hai được: Nghĩa là trong thân Phật và Độc-giác vì đều là lìa dục đắc, nên ở trong thân đều là gia hạnh đắc, vì phải lìa nhiễm của Địa đó, rồi về sau, mới tu đắc.

Chín “hữu”vô lậu. Ở thân Phật đều vô lậu; Thứ tám trong thân

khác chỉ có vô lậu, bảy còn lại có cả Hữu lậu, Vô lậu. Thông, là vì lấy hai trí thế gian, xuất thế gian làm thể. Thứ mười lăm ở dưới lại nói rộng.

Kế là tám Thắng xứ, dùng ba môn để nói: 1/ Giải thích danh: Trước, nêu sau, giải thích.

a/ Trong có tướng sắc, quán sắc ngoài ít, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc kém, hoặc hơn. Đối với các sắc kia, biết vượt hơn, thấy vượt hơn hoặc tưởng như thật.

b/ Trong có tưởng sắc, quán sắc ngoài nhiều.

c/ Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài ít.

d/ Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài nhiều. Ba thứ sau này hoặc tốt, hoặc xấu v.v…, đều nói như thuyết đầu.

Bốn Thắng xứ sau đều trong không có tưởng sắc, nhưng quán sát sắc ngoài, bốn thứ xanh, vàng, đỏ, trắng có khác nhau.

Trong đây nói, trong có tưởng sắc, trong không có tưởng sắc v.v… như đã nói trong giải thoát.

Hữu sắc trong giải thoát ở trước không nói là “nội”. Nay, nói “nội”, ở trước giả thiết rằng, dù ở thân trong thấy có tưởng sắc, là vì tất cả nhiễm sắc đều chưa lìa, chỉ nói có sắc mà không nói “nội”, tức lấy tất cả sắc này để làm cảnh giới. Vì khởi tướng ánh sáng, chưa xuất ly nhiễm sắc, nên gọi là quán các sắc. Hoặc quán các sắc trong ngoài, không thể gọi là quán sắc ngoài.

Nay, Thắng Xứ này chỉ quán chẳng phải sắc căn, không quán sắc căn. Vì trong có sắc căn, nên gọi là trong có sắc, khác với thuyết trước nói.

2/ Nêu ra thể: -Đối pháp, Hiển-Dương đều nói rằng: “Hai Thắng Xứ đầu, là do giải thoát đầu tiên phát ra; hai Thắng Xứ kế là do giải thoát thứ hai phát ra; bốn Thắng Xứ sau, là do giải thoát thứ ba phát ra.

Hai tưởng tịnh và bất tịnh đầu trong tịnh giải thoát, xoay vần đối đãi nhau, xoay vần hội nhập nhau.

Sự lần lượt như thế, tổng hợp tất cả sắc làm thành một vị. Vì tưởng thanh tịnh được giải thích là xoay vần một vị.

Bốn Thắng Xứ sau, là do giải thoát thứ ba phát ra. Tám thể này chính là ba giải thoát trước.”

Hỏi: “Nếu vậy, thì ba giải thoát trước có gì khác với tám Thắng Xứ?”

Luận Câu-xá chép: “Trước, tu giải thoát chỉ có thể trái bỏ, sau, tu Thắng-Xứ, có công năng chế ngự sở duyên. Tùy đối tượng lạc mà quán, 636 hoặc tu không khởi.

Nay giải thích: “Trước là tu ba giải thoát trước, dứt trừ hai thứ chướng. Do đây, có thể sinh ra sự nhận biết vượt hơn, thấy vượt hơn, gọi là Thắng-Xứ.

Tu thành mãn. Nghĩa là do tám Thắng-Xứ được khuất phục vượt hơn đối tượng duyên, khiến cho ba giải thoát đầu được thanh tịnh, đây là sự sai khác của giải thoát Thắng-Xứ”.

Hỏi: Vì sao giải thoát biến xứ có cả quán phi sắc? Trong tám thắng xứ chỉ có quán các sắc?

Đáp: “Lìa chướng, quán khắp sắc, phi sắc v.v… Lúc chế phục cảnh vượt hơn, tướng sắc khó chiết phục vượt hơn, vì tốt, xấu khó khuất phục hơn. Khuất phục vượt hơn sắc rồi, vì đối với Vô Sắc cũng được tự tại, nên từ khó chế ngự vượt hơn, chỉ lập Thắng-Xứ sắc.

3/ Dựa vào cảnh phân biệt. Bốn Thắng-Xứ sau, chỉ “duyên” Hiển sắc của sắc, vì hình sắc kia không có tự thể, vì thuôc về Hiển sắc. Giả hiển không có tự thể, chỉ vì bốn thật, nên chỉ quán bốn.

Bốn đối tượng duyên trước: Thinh, hương, vị, xúc đã được dựa vào nhóm sắc. Dùng hai giải pháp đầu để “duyên” tướng ánh sáng và vì kém, hơn, tức bốn Thắng-Xứ đầu, quán ánh sáng của sắc giả, chính là Hiển sắc giả.

Do thể thanh tịnh vì thuận với biến hóa, nên quán riêng, sắc, vì giải thoát thứ hai “duyên” tất cả Xứ sắc, nên Thắng-Xứ thứ ba, thứ tư cũng quán Xứ sắc kia hoặc ít, nhiều… Nhưng vì hình lượng của hữu tình, phi tình có nhỏ, lớn, trong, ngoài, khác nhau, nên chia thành ít, nhiều.

Dựa vào Hữu sắc và Vô Sắc đều, “duyên” hai cảnh, được chia thành bốn thứ. Vì các Thắng-Xứ không bớt, không thêm, nên luận Đối Pháp chép: “Sắc ít nghĩa là sắc của số hữu tình, vì lượng của chúng nhỏ.

Sắc nhiều, nghĩa là sắc của số phi tình, vì lượng của chúng lớn”.

Trong luận Hiển Dương, chỉ dựa vào dụng cụ tiền của, chẳng phải dụng cụ tiền của để chia thành nhiều ít”.

Nay, ở đây, lấy hữu tình và dụng cụ tiền của hợp gọi là ít; cung điện v.v… gọi là nhiều, vì số lượng riêng, nên mỗi số lượng đều y cứ vào một nghĩa cũng không trái nhau. Tốt xấu, hơn kém v.v… đều dựa vào sự khác nhau của sắc ít, nhiều, cho nên, không lập riêng. Tuy nhiên bốn Thắng-Xứ đầu ở cõi Dục quán đủ bốn trần đống với nhóm sắc xứ. Trong cõi Sắc, chỉ quán thinh, xúc, đồng với nhóm sắc xứ. Theo hai giải thoát đầu vì quán trần sắc, nên trong bốn Thắng-Xứ đầu, quán đủ cảnh sắc.

Luận nói sắc kém. Nghĩa là thinh, hương, vị, xúc.

Sắc không vừa ý. Ở đây nói cõi Dục có sở y (đối tượng nương tựa) của thinh v.v… đồng với nhóm sắc xứ, gọi là sắc kém v.v…, là bốn sở quán (đối tượng quán) đầu; vì bốn thứ như thinh v.v… là cảnh của Thắng-Xứ. Luận này nói: “Bốn hiển sắc này bao gồm: Tiền của, dụng cụ, cung điện v.v… của hữu tình, nghĩa là bốn sắc tốt, xấu, kém, hơn, gọi là Hiển sắc, tức số lượng ít, nhiều ở trước là sắc của tình v.v…, nên chẳng phải thinh v.v…. Do đối với Sắc Xứ dẹp bỏ tự tại, đối với bốn trần khác, cũng không biến hóa. Hoặc hai giải thoát đầu, dù chỉ mới quán sắc dẫn sinh bốn Thắng-Xứ, nhưng Thắng-Xứ khởi về sau, quán bốn trần, dẹp bỏ tự tại, dẫn sinh giải thoát. Giai vị thành mãn sau, lại chỉ quán cảnh ánh sáng v.v… của sắc, có thể làm biến hóa. Cho nên, luận Hiển Dương chép: “Vì do ba giải thoát, nên được định vượt hơn tự tại. Do được định đó rồi, mới nói sắc vượt hơn tự tại, thành tựu. Đây là lấy Thắng-Xứ làm nhân, giải thoát làm quả, vì đầu tiên tu, về sau mới mãn, có khác nhau, nên luận chỉ nói bốn Hiển. Sắc này chứ chẳng phải sắc xứ hiển. Nghĩa là sắc kém hơn chữ thinh, hương, vị, xúc.

Sở quán (đối tượng quán) sáng suốt, rõ ràng, gọi là Hiển sắc. Chẳng những lấy sắc mà cũng lấy chân như làm sở duyên. Quyển bảy mươi hai chép: “Vì tư duy về tưởng của sắc, chân như, nên được sự thấy biết, vượt hơn. Phàm phu thì không như thế.

Nói lược về nghĩa xong, văn chia làm hai:

1/ Giải thích danh từ Thắng-Xứ.

2/ Giải thích riêng về nghĩa ít, nhiều v.v…. Xứ, là sở duyên (đối tượng duyên). Thắng, là “năm duyên” (chủ thể duyên).

Văn đầu tiên có ba:

1/ Nêu.

2/ Phân biệt.

3/ Chỉ rõ sự sai khác.

Biến Xứ thứ ba, dùng bốn môn để nói:

1/ Giải thích tên. Truớc, là giải thích tên chung, sau là tên riêng.

Về sự của thắng giải. Nghĩa là giải thích về nghĩa “Xứ”. Vì tùy đối tượng thích ứng,tức cảnh giải thoát ở trước.

Sinh thắng giải khắp. Nghĩa là giải thích nghĩa “Biến”, đây là thắng giải giả tác động tưởng khắp, đây là giải thích tên chung.

Nêu danh. Nghĩa là đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, không xứ, khức xứ. Như kinh nói: “Nghĩa là Biến xứ đất. 1/ có thể giải 638 thích rõ trên, dưới và bên cạnh không có hai vô lượng. Như thế, cho đến Thức biến trên, dưới và bên cạnh không có hai vô lượng v.v….

Trong đây chỉ giải thích không có hai vô lượng. Ngoài ra, như luận Hiển Dương quyển tư nói:

2/ Nếu thể tánh: Câu-xá nói: “Tám Biến-Xứ đầu chỉ được phát ra từ giải thoát thứ ba. Hai Biến-Xứ sau, tức hai giải thoát của Không, Thức kia.

Nay, tám Thắng-Xứ ban đầu lấy Tuệ, hai Thắng-Xứ sau, bốn uẩn làm tự tánh. Tám Biến-Xứ đầu vì thiện, thanh tịnh, nên năng dẫn thần thông, Thắng giải của Hiền, Thánh và chuyển biến thần thông. Dù hai thông dựa vào bốn địa mà có, nhưng không thể tùy theo sự thích ứng.

Từ hai giải thoát ban đầu mãn, vì chỉ có thứ ba. Luận này nói: “Các Biến-Xứ hữu sắc như thế, vì nhất định biên sau của cõi Sắc, nên được phát ra từ giải thoát thứ ba. Về mặt lý, thì đồng với trường hợp chung mà Câu-xá đã nói.

3/ Phế lập: Luận tự giải thích. Du-già lại nói: “Nhưng do chân như “sở y” (đối tượng nương tựa) đầy khắp, “năng y” (chủ thể nương tựa) sắc, phi sắc, cũng lại đầy khắp trong chủ thể nương tựa. Vì tạo sắc “sở y” đầy khắp, nên tạo sắc “năng y” cũng đầy khắp. Chỉ nói Hiển sắc thật trong chủ thể nương tựa đầy khắp, không nói xúc giả “năng y” cũng đầy khắp.

Đã nói sắc cảnh “sở quán” (đối tượng quán), đầy khắp hư không, cũng nói cảnh thức “năng quán” (chủ thể quán) đầy khắp. Đối tượng khác thì chẳng phải đầy khắp, nên chẳng phải Biến-Xứ. Nhưng quyển kinh Niết-bàn ba mươi mốt nói: “Trừ Vô sở Hữu Xứ chấp lửa. Ngoại đạo thờ lửa, cho lửa là trời, họ nói thể của lửa tăng khắp”.

Vì lối chấp đó của họ, nên đối với cơ nghi của họ, dứt trừ Biến-Xứ lửa. Lúc vô sở Hữu Xứ có quán sát, quán thức khắp, không có chút sở hữu, đã không có cảnh khắp, cũng gọi là Biến-Xứ.

Nay, trong các luận đều dựa vào tự tại cùng cực, mới tu BiếnXứ, quán không có chút cảnh sở hữu, vì chẳng phải nhất định quán đối tượng không có thức khắp tất cả, nên không lập Biến-Xứ. Phật vì đối với tên giả kia để nói lên cái thật này”.

Hỏi: “Thắng-Xứ dẫn sinh, Biến-Xứ mới khởi. Vì sao Thắng-Xứ không có hai nhân sau, bốn nhân đầu?”

Đáp: “Vì chế phục vượt hơn “sở-duyên”, mới sinh quả khắp; vì pháp quả vượt hơn, nên thêm sáu thứ nhân, Thắng-Xứ chỉ dựa vào sự chế phục cảnh thù-thắng, không nói cảnh khác.

Dụng của Biến-Xứ vượt hơn. Văn dưới đây nói về dẫn sinh thần thông v.v….

Thắng-Xứ kém. Nghĩa là chỉ chiết phục vượt hơn đối tượng duyên, không có công năng dẫn sinh công đức rộng. Quyển sáu mươi hai chép: “Tu mười Biến-Xứ, có thể vì năm việc nói rộng như kia.

4/ Cảnh sở duyên: Quyển bảy mươi hai nói: “Lại, mười Biến-Xứ do sức “sở duyên” vượt hơn, nên biết.

Sự khác nhau của tướng Biến-Xứ. Dụng đại chủng này và tưởng chân như là đối tượng duyên. Nếu không như thế, thì “sở duyên” sẽ không khắp, “năng y” lẽ ra cũng không thành đầy khắp. Vì cảnh chân như đầy khắp, nên chủ thể nương tựa cũng được thành tên Biến-mãn.

Lại, tưởng của Không, Thức và Chân-Như là đối tượng duyên, không những chỉ lấy hữu vi làm cảnh, mà nay lại còn lấy Sắc Xứ, Xúc Xứ bốn uẩn và Chân Như làm đối tượng duyên!

Trong phân biệt chung thứ tư có ba:

1/ Giải thích thứ lớp giải thoát, Thắng-Xứ, Biến-Xứ.

2/ Giải thích tác dụng của Biến-Xứ.

3/ Dùng ví dụ để làm rõ thứ lớp của Ba pháp. Về thứ lớp của pháp này đại khái có ba nghĩa:

1/ a/ Một môn tùy chuyển lý, tức môn này. b/ Môn dựa vào lý chân thật.

Quyển sáu mươi ba chép: “Thắng-Xứ, Biến-Xứ là đạo năng thanh tịnh của các giải thoát”.

Luận Hiển Dương Quyển tư chép: vì “sở duyên” vượt hơn các Thắng-Xứ; vì đối tượng duyên khắp của các Biến-Xứ, nên có khả năng làm cho giải thoát được thanh tịnh, nên biết.

2/ Trong lý chân-thật, a/ Môn mới tu hành tức văn này. b/ Môn sau thành mãn, tức văn khác.

3/ a/ Môn Như-lượng trí tu, tức văn này.

b/ Môn y như lý trí tu, tức văn khác.

Trước, dựa vào trí thế tục khởi tri, kiến vượt hơn rồi, kế là dựa vào trí như lý nhập Biến-Xứ giải thoát.

Thắng giải thần thông. Nghĩa là tùy theo ý giải, đều có khả năng thích hợp. Tác động xa, hiểu gần, thế gian khoảng cánh tay co duỗi là đến Sắc rốt ráo v.v….

Chuyển biến thần thông: Đổi thay thân hình cũ, rồi tạo ra tướng khác lạ.

Lại, Thắng giải thần thông, ý giải tư duy, chuyển biến thần thông, có thể trở thành sự thật.

Trong phần giải thích riêng về tông yếu của kinh, phần giải thích riêng ở trước có mười một; dưới đây, giải thích về mười môn, thiếu môn thứ mười một, như trước đã giải thích.

Văn trong ba Tam-ma địa được chia ra làm ba:

1/ Thuyết-minh riêng về tuớng riêng của Hạnh, Cảnh Tam-ma địa.

2/ Thuyết-minh về tướng hạnh riêng, cảnh đồng của Tam-mađịa.

3/ Giải thích thứ lớp trước, sau, vấn nạn trở ngại.

Môn thứ nhất, an lập Đế-hạnh. Môn thứ hai, phi an Lập-hạnh. Một môn đầu, Hành của tướng riêng lẻ. Một môn kế, hành của tướng chung, đây là sự khác nhau.

Y theo văn đầu, trước là nêu hành tướng của Không tam-ma-địa, nên biết.

Tánh “Không”, đại khái có bốn thứ trở xuống, là giải thích chung về sự sai khác của tánh “Không”.

Luận Hiển Dương Quyển hai nói: “Không” có hai thứ:

1/ Hai trí của sở tri. Sở-tri, nghĩa là chúng sinh và pháp. Hai thứ này không có tánh trong tánh Biến Kế Sở chấp. Và cái Vô Ngã khác kia có tánh. Tánh chấp trong các pháp “không”, chính là tánh Vô Ngã “có”. Tánh Vô Ngã “có”, tức là tánh sở chấp (đối tượng chấp của tánh) “không”. Tức lấy tánh “có” trong Vô Ngã này và chẳng phải có không có hai, gọi là “Sở Tri Không”.

Trí không. Nghĩa là “duyên”cảnh sở tri kia nhận biết một cách rõ ràng như thật.

Y của luận Hiển Dương kia nói: “Pháp bị chấp, Hữu tình “không” và chân như tánh “không”, đều gọi là “Sở tri không” vì khi quán kia không thì ở đây có, nên lúc chứng ở đây có, sẽ thấy kia là không. “Hữu”, “không” chẳng phải hai, đều gọi là “cảnh không”. Đây là nói Hạnh không, đối tượng chứng (sở chứng) đối tượng không (sở không).

Chủ thể quán (năng quán) tâm kia, tức là Trí-không, trong đây nói về sự xa lìa mạng hữu-tình v.v… tức cảnh “không”của đối tượng “không” trong đối tượng quán (sở quán). Tâm dừng ở một “duyên”, tức trí “không” kia. Đây là dựa vào đối tượng quán “không” (sở quán không) chung của ba thừa. Chỉ nói xa lìa mạng hữu tình, là đồng chỉ nói “Nhân không”, chẳng nói pháp; chỉ nói “sở không”, không nói sở chứng không (đối tượng chứng không).

Luận kia nói không hai, hữu vô đều hiển bày. Ở đây nói đối tượng đều biện biệt, vì chân có, nên không trái nhau.

Trong giải thích chung về không sai khác, có hai lượt giải thích:

Pháp Sư Khuy Cơ nêu rõ: “Đầu tiên, dựa vào bốn thứ tánh “không”của bậc Vô học, sau, bày tỏ sự sai khác của bốn không của người Hữu học”.

Luận sư Cảnh giải thích: “Lượt đầu tiên, quán sát “không”: Tức là người học quán chung đối với các pháp, chấp ngang trái về khổ, lạc, tịnh, ngã và ngã sở v.v…. Lượt sau, quán không có bậc vô học. Quán ở thân mình và năm trần bên ngoài đều là không, không có phiền não. Trong đó, trước tiên, quả kia là không, không có người Học, tức quán chung tự thân trong và năm dục bên ngoài trống không, không có phiền não. Quán này do quán sát trống không, được gọi là quả kia là “Không”.

Thứ ba, là nội không, thứ tư là ngoại không, tức quán riêng tự thân và năm dục bên ngoài là không, không có phiền não. Và, dẫn kinh chứng minh, như văn, rất dễ hiểu.

Lại, “người tu hành …” trở xuống, là lượt thứ hai, giải thích; tức là người mới tu hành, học thực hành pháp quán này.

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Nghĩa là các phàm, thánh Hữu học, nói là do quả kia là không, cho đến tư duy bên trong là không. Đây là người mới thực hành. Bậc Vô học quán riêng về năm dục ngoài là không, không có phiền não.

Nói do quán sát là không, đôi lúc tư duy về tánh không trong, ngoài, nghĩa là nói về người mới thực hành, đem nghĩa “không” trong, ngoài của bậc Vô học kia, so sánh quán tánh không trong, ngoài của tự thân, để quán sát chung. Do năng lực quán này, với tâm đều chứng hội tánh “không” trong, ngoài.

Giả sử nói còn những người không thể chứng hội về tánh “không” trong, ngoài này, là nói về người mới học đối với “không” trong, ngoài, không thể chứng hội, thì phải tư duy về vô thường, khổ, chẳng bị nghiêng động do “ngã” và mạn, tức là đối với hai “không” trong, ngoài đều chứng.

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Đây tức là chỉ bày về Hạnh không vô ngã gọi là “không hạnh”, vì “không” chẳng có hữu tình và pháp ngã.

Trong Vô Nguyện, cho rằng đối với năm thủ uẩn, tư duy vô thường, hoặc tư duy về khổ.

Pháp Sư Khuy Cơ chép: “Đây là pháp năm thủ uẩn của ba cõi, gọi là cảnh Vô nguyện. Tâm bám trụ “duyên”, gọi là Tam-ma-địa.

Luận Hiển Dương lại nói: “Vô nguyện có hai:

1/ Sở-tri, 2/ Trí, chính là đồng với luận này, tức lấy Vô thường và khổ, góp với bốn hạnh, gọi là Vô nguyện hạnh. Ở đây, lấy vô thường, khổ, quả, hạnh, gồm thâu nhân hạnh v.v….

Trong Vô tướng Tam-ma-địa, trước là giải thích về hành tướng, sau giải thích về kinh kia, nghĩa là đối với các thủ uẩn kia diệt, tư duy vắng lặng, là cảnh Vô tướng. Tâm trụ một “duyên” là Tam-ma-địa.

Luận Hiển Dương chép: “Vô tướng có hai thứ: 1/ Sở tri. 2/ Trí

Sở tri tức cảnh sở tri là “không”. Do tướng cảnh này nên tất cả các tướng không hiện hành. Trí, như trước đã nói: Đây là các tướng của tướng chân-như không trong cảnh “không” ở trước, không hiện hành, gọi là cảnh Vô tướng, tức là các thủ uẩn diệt trong đây. Chẳng nói: “không” sở chấp gọi là cảnh vô tướng. Ở trước nói nhân chứng nên “sở không” (đối tượng không), “sở chứng không” (đối tượng chứng không), cả hai đều cùng gọi là “không”.

Nay, chỉ nói “sở chứng không”, gọi là cảnh Vô tướng, nên khác với thuyết trước, tức diệt bốn hành, gọi là hạnh Vô tướng. Bốn hạnh của Đạo đế chẳng phải ba Đẳng-trì, vì sao Vô nguyện, Vô tướng nói là tâm, còn Tam-ma-địa “không” lại chẳng nói?”

Đáp: “Vì quán này có, nên gọi là tâm của Vô nguyện, Vô tướng kia. Vì quán kia trống không, nên tất cả đều dứt bỏ. “không” chẳng nói tâm, hai thứ còn lại nói có”.

Sau, giải thích trong kinh, văn chia ra làm ba:

1/ Giải thích: không cúi, không ngước.

2/ Giải thích về phương tiện, quả phương tiện.

3/ Giải thích về hiểu rõ, công đức, được lãnh hội rõ.

Hai tướng trái thuận vì không tương ưng. Nghĩa là “duyên” cảnh trái thì tâm cúi; “duyên” cảnh thuận, thì tâm ngước. Nay, không có hai tướng nên gọi là tâm không cúi, ngước.

Lại, hoại Thế-đế, trái với cảnh tục, gọi là cúi. Chấp tâm còn lập, thuận với cảnh chân, gọi là ngước. Hạnh Vô tướng lìa cả hai, gọi là không cúi, ngước. Đây là không làm hư hoại Thế-đế, tức không tư duy, tất cả tướng, không nhàm chán, không làm hư hoại v.v… gọi là không cúi. Đây là vì chánh tư duy đối với cõi Vô tướng, nên không thuận với chấp chặt, nên không ngước.

Phương tiện, trong quả phương tiện. Trước, giải thích về phương tiện. Sau, phương tiện kia lại thường tự khích lệ, tự cố gắng.

Tướng. Nghĩa là cảnh tướng, tướng này có hai lớp:

1/ Hữu lậu, gọi là tướng; Vô lậu, gọi là Vô tướng.

2/ Hữu vi, gọi là tướng; Vô vi, gọi là Vô tướng.

Nếu dựa vào nghĩa trước, thì các trí Hậu đắc lấy nghĩa sau, hoặc theo nghĩa đầu là hạnh bản chất, gọi là hạnh Vô tướng, tức bốn hạnh Diệt, hoặc bốn hạnh Đạo. Nếu dựa vào bốn nghĩa sau, trí Vô phân biệt gọi là hạnh Vô tướng, trái với hai tướng này gọi là hạnh Hữu tướng.

Trong phương tiện này, đối với các tướng kia, người chưa thể giải thoát vì ở giai đoạn hữu lậu, chưa giải thoát tướng hữu lậu nên tùy thuộc vào tướng, trong bất cứ lúc nào, Thức cũng luôn khuấy động tâm họ. Người này thường tư duy, lựa chọn, mới có thể nhận lấy được quả trí Vô phân biệt. Giải thoát tất cả tùy tướng hữu lậu, gọi là quả phương tiện.

Đối với giải thoát này, lại vì khéo giải thoát, nên tự tại mà trụ, gọi là cùng cực giải thoát, tức đi suốt qua hai vị, trí căn bản, Hậu đắc.

Trong hiểu rõ quả, hiểu rõ công đức, phiền não đoạn và Diệt-đế, gọi là quả hiểu rõ. Hiện pháp lạc trụ và Đạo-đế, gọi là hiểu rõ công đức. Nghĩa là đã hiểu rõ hạnh Vô tướng, tức bốn hạnh của Đạo-đế cũng là hạnh Vô tướng, hai văn trước, sau, rộng, hẹp có khác.

Luận sư Cảnh nói: “Đoạn và trụ rốt ráo: Đây là nói theo thể của hai Đế, đều gọi là quả và gọi là công đức.

“Lại nữa, Diệt, Đọan…” trở xuống, là y cứ ở Dụng, để giải thích văn kinh.

Lại, Đế hiện quán là tên của Kiến-đạo. Quả hiểu rõ, nghĩa là vì đáp lại phương tiện trước. Đức của A-la-hán viên mãn, gọi là công đức. Nếu ở chỗ này không có vật kia v.v… Đây là đoạn hai, tướng đồng, cảnh riêng của hạnh Tam-ma-địa, dựa vào một Chân-như quán đủ cả ba nghĩa, vì sao trong đây, trước nói về tánh không, v.v…

Đoạn thứ ba, giải thích ba thứ lớp. Ở đây, ý hỏi rằng: “Trong bốn hành khổ, trước nói về khổ vô thường. Sau, nói về “không” vô ngã”.

Nay, trong đây, trước nói về hạnh “không”, sau, là hạnh Vô nguyện, rồi mới nói về Vô thường v.v… ý đáp ở đây nói rằng: “không trái nhau”.

Trong mười sáu hạnh, trước là Vô thường: Tức là y cứ Kiến đạo, về trước, người mới tu gia hạnh, trước là quán Vô thường: Vì Vô thường nên khổ; vì khổ, nên Vô ngã; vì Vô ngã nên là không. Từ dễ, đến khó, quán theo thứ lớp này.

Trong đây là y cứ đầu nhập Kiến đạo, lúc quán Chân-như “không”, vì không có người, pháp, nên trước nói “không”. Từ Chân Kiến đạo, nhập tướng Kiến đạo, kế là khởi quán Vô nguyện, Vô thường, Khổ, mới được thanh tịnh. Nói nếu không có quán vô ngã, vô thường, khổ thì cuối cùng không thanh tịnh, đây là giải thích ngược lại, trong chân kiến đạo, khổ, vô ngã không nhất định, trong tướng kiến đạo quán vô thường, khổ, cuối cùng không thanh tịnh.

Nói: “Trước phải an lập tưởng Vô ngã. Từ Vô gián này mới được Vô nguyện”, đây là giải thích thuận.

Trước phải an trụ Vô ngã trong Chân Kiến đạo, từ đây vô gián nhập tướng kiến đạo mới được Vô nguyện, dưới đây là dẫn kinh chứng minh:

Cho nên, kinh nói: “Các tưởng Vô thường dựa vào tưởng Vô ngã mà được an trụ.” Nghĩa là các tưởng vô thường trong tướng Kiến đạo dựa vào tưởng “Vô ngã” của Chân Kiến đạo mà được an trụ.”

Nói: “Người kia quán Vô thường, Vô ngã xong, không sinh hy vọng mong cầu.” Nghĩa là Tướng Kiến đạo, Vô thường hành đạo, trước kia đã Vô ngã xong, đối với hữu vi, hữu lậu, vì không sinh hy vọng, mong cầu, cho nên “không”. Theo thứ lớp sinh Vô nguyện, không mong cầu hữu vi, chỉ nguyện Vô tướng, chuyên cầu xuất ly. Cho nên, Vô gián này nói lên Vô tướng, có nghĩa là từ sau Vô nguyện, mới khởi Vô tướng.”

Hỏi: “Lại vì sao trong đây, trước bày tỏ Vô nguyện, kế là nói Vô tướng?”

Luận Hiển Dương quyển hai: “Trước nói Vô tướng, sau nói Vô nguyện?”

Đáp: “Vì ở đây nói trước hết, không nguyện cầu ở ba cõi, mới trọn vẹn chứng thanh tịnh ở Vô tướng. Cho nên, trước, Vô nguyện, sau nói Vô tướng. Đầu tiên, chứng “Hai không” là không, tức thấu rõ cái “có” của “vô ngã”. Vì thế, nên sau “không”, tức là nói Vô tướng, mới giúp cho Vô nguyện chứng trọn vẹn thanh tịnh.

Ở đây, dựa vào thời gian sau, Vô tướng viên mãn. Luận Hiển Dương kia thì nương vào thời gian đầu, Vô nguyện viên mãn, cho nên không trái nhau.

Các môn phân biệt của ba Tam-ma-địa này. Là tám môn phân biệt:

1/ Danh sai khác. Quyển bảy mươi hai và luận Hiển Dương quyển hai chép: “Nếu không có sai khác thì đều là “không”; “Vô nguyện”; “Vô tướng” chung cả Văn, Tư, Tu mà trở thành tánh. Hữu lậu, Vô lậu hoặc định, hoặc tán, chỉ có thiện, chẳng có chi khác, là gia hạnh chứ chẳng phải “Sinh-đắc”.

– Nếu nói Tam-ma-địa “không”, “Vô tướng”, “Vô nguyện”, thì chỉ do tu mà thành. Hữu lậu, vô lậu, chỉ có định, chẳng phải tán.

– Nếu nói không giải thoát môn v.v… thì chỉ là Vô lậu, do tu mà thành tuệ, chứ chẳng phải văn tuệ tán, v.v….

2/ Giải thích tên riêng: “Không”, nghĩa là pháp sinh, tánh Vô ngã, chẳng thật có. Vô nguyện là không nguyện cầu. Vô tướng: Luận Phậtđịa Quyển thứ nhất chép: “Lìa mười tướng: sắc, thinh, hương, vị, xúc, nam, nữ, sinh, già, chết.”

Kinh Niết-bàn quyển mười ba nói có mười ba tưởng. Ở đây, thêm ba tưởng: khổ, lạc, xã. Về nghĩa Tam-ma-địa như ở trước đã nói.

Giải thoát: Nghĩa lìa trói buộc, hoặc do “duyên” lìa các Đế ràng buộc này, hoặc do khởi sự chứng giải thoát vô vi. Dựa vào môn giải thoát của hai nghĩa để gọi là môn giải thoát, hoặc Thể vô lậu giải thoát chính là môn.

3/ Nêu ra Thể: Chỉ lấy Đẳng-trì để làm tự thể. Dù phần vị Văn, Tư là có, nhưng trí xuất thế kia đều có, vì Đẳng-trì vượt hơn. Hoặc lấy Định, Tuệ làm tự tánh. Trong giải thoát, vì hai Định, Tuệ này vượt hơn, nên tương ứng với bốn uẩn, quyến thuộc năm uẩn.

Thuộc bốn trí: Đều cùng chung cả ba trí, vì đi suốt qua Văn, Tu, Tư, thế, xuất thế. Gia hạnh, Hậu-đắc, ba hạnh, về lý thì chung.

Kế là trong văn ở trước nói về cảnh thì đồng, hành thì khác, nên trí căn bản cũng đủ ba hạnh. Về nghĩa thì nói riêng ba, chẳng phải ba, vì thời gian khác khởi.

Gồm thâu năm mươi sáu hành tướng. Pháp sư Khuy Cơ giải thích, đại khái có tám môn không đồng:

1/ Dựa vào hai hạnh thuộc về “không” của luận Tiểu Thừa. Vô nguyện gồm thâu mười hạnh; Vô tướng gồm thâu bốn hạnh. Ở đây nói không mong cầu hữu vi.

Lại theo Quyết-trạch quyển mười một nói: “Không hạnh, Vô ngã hạnh trong chánh kiến, gọi là “không hạnh”; hạnh khác, gọi là “Vô nguyện”, một hạnh, gọi là Vô tướng. Nghĩa là Diệt đế lìa kiến trói buộc, thuận đồng với Luận Tiểu thừa.

2/ Dựa vào “không” trong quả hiểu rõ về văn kế trước của Dugià, như trước nói: Vô nguyện sáu, Vô tướng tám.

Lại, quyển bảy mươi bốn giải thích: “Trong ba tánh, do tánh Biến kế sở chấp, lập môn không giải thoát. Do tánh y-tha khởi, lập môn Vô nguyện giải thoát ”. Duy Thức cũng nói: “Tùy theo tướng, mỗi tướng 66 đều có một “không”, “Vô nguyện”, “Vô tướng” như thứ lớp, nên biết.

Lại, nói tâm vô lậu v.v… chấp nhận thuộc về hai tánh. Vì tánh duyên-sinh, nên thuộc về Y-tha. Vì không điên đảo, nên thuộc Viên thành thật. Cho nên bốn hạnh đạo cũng có cả Vô tướng.

3/ Dựa theo văn ở đầu này, chẳng thuộc ba. Quyển hai mươi tám cũng nói: “Sở-tri có hai: “có” và “chẳng có”. Dựa vào “chẳng có” để lập “không”. “Hữu” có hai thức:

a/ Hữu vi; b/ Vô vi

Bị ba cõi trói buộc, gọi là “Hữu vi y”, lập môn Vô nguyện giải thoát Niết-bàn, gọi là Vô vi y; lập môn Vô tướng giải thoát cho nên, biết Đạo bốn chẳng phải ba. Quyển năm mươi lăm cũng nói: “Hai hạnh thuộc về “không”; sáu hạnh thuộc về “Vô nguyện”; bốn hạnh thuộc về “Vô tướng”.

Các hạnh của Đạo đế là nhân thanh tịnh, chẳng thuộc về ba môn, như quyển năm mươi lăm ở trước nói: Nhưng Đạo bốn chung ba hạnh. Kia nói: “Duyên” đạo trí không, thực hành Đạo, Như hành, xuất. Đây cũng là Không hạnh “duyên” Trí. Đạo Vô tướng tác thành đạo Như hạnh, xuất hạnh. Đây cũng là Hạnh Vô tướng “duyên” Trí. Đạo Vô nguyện tác thành đạo Như hạnh, xuất hạnh. Đây cũng là Hạnh Vô nguyện.

Ý này nói rằng: “Duyên đạo “không” tác thành “không hạnh” v.v… là tức hạnh “không”, “Vô tướng”, “Vô nguyện”. Cho nên, bốn hạnh cũng là Đạo, về lý, chung cả ba môn.

5/ Dựa vào quyển bảy mươi hai nói: “Không” gồm thâu mười sáu hạnh. Nghĩa là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, đều bốn, vì đều vô ngã. Luận ấy nói: “Tướng trong năm pháp, chung cho ba thứ, vì chân như, chánh trí cũng là cảnh “không”.

“Vô nguyện” gồm thâu tám Hạnh. Khổ, Tập đều có bốn tướng chung cả ba thứ, vì tất cả hữu lậu đều là bất nguyện. Danh và phân biệt là vì cảnh của “không” “Vô nguyện”. Vô tướng gồm thâu bốn hạnh. Dù đối với tướng v.v… cũng có hạnh Vô tướng, vì chỉ quán Diệt đế, tức quển sáu mươi chín nói: “môn Không giải thoát gồm thâu tám trí. Bốn đế của Pháp loại và tận, Vô snh, Vô nguyện thuộc sáu trí: Pháp, Loại, Khổ, Tập và Tận, Vô sinh. Vô tướng thuộc năm Trí: Pháp, Loại, Diệt, Tận, Trí Vô sinh.

6/ Dựa vào quyển tám mươi sáu, mười sáu hạnh đều là “không” hạnh. Hai Hạnh Khổ là hạnh Vô nguyện, nghĩa là Vô thường, Khổ. Diệt bốn hạnh, là hạnh Vô tướng.

Thuyết ấy nói: “Do sức tăng thượng của ba môn giải thoát, kiến

lập bốn thứ pháp Ốt-Đà nẩm. Dựa vào “Vô nguyện”, lập tất cả Hạnh Vô thường, tất cả hạnh khổ. Dựa vào “không” lập tất cả pháp Vô ngã. Dựa vào Vô tướng lập Niết-bàn vắng lặng, dựa vào bốn, vì lược tập, nên nói lời này, cho nên không trái với môn khác.

Bảy “không” chẳng phải mười sáu Hạnh “duyên” hai “ngã”, vì đều “duyên” Đế. Vô nguyện gồm thâu mười hai; Vô tướng gồm thâu bốn; Vô nguyện gồm thâu tám; Vô tướng cũng tám; vì thể của hai môn y-tha, viên-thành.

Quyển Bảy mươi bốn chép: “Ba Môn giải thoát, như thứ lớp quán biến-kế sở chấp. Tám mươi sáu hạnh đều có ba Hạnh. Một nghĩa trong trí Vô phân biệt nói là mười sáu hạnh. Nghĩa nói ba môn giải thoát gồm thâu lẫn nhau, tưc ở đây trước nói hạnh riêng, cảnh đồng.

Duy Thức cũng nói: “Cảnh giới sở thành của ba môn giải thoát với ba tánh gồm thâu nhau, vì về lý, thật sự đều thông suốt.”

Như thế, lược nói tám, văn không đồng, nghĩa riêng, đối nhau, lý không trái nhau. Các người có trí lại dạy bảo văn khác lạ nên tùy từng nghĩa mà giải thích, không nhọc sức vặn hỏi.

Luận sư Cảnh giải thích: “Không vô ngã hạnh là không Tam muội. Đây là từ hạnh giải mà được tên.” Lại nói: “Tám trí gọi là “không”, nghĩa là chính thức chứng Chân-như, thật ra chẳng có “không giải”, chỉ đối với nghĩa quán “nhân” lìa pháp trong quán nói tên là “Không”, “Vô nguyện”. Hoặc chỉ Khổ, Tập, không nói Đạo, nghĩa là chẳng phải vì đáng chán, do cơ xứ chỉ diệt nói là Vô tướng. Đạo chẳng phải Vô tướng, nghĩa là diệt ly mười tướng được Vô tướng, vì gọi là Đạo có ba tướng, nên chẳng phải Vô tướng.

Có chỗ nói Đạo, gọi là Vô tướng, nghĩa là Đạo đế có tướng sinh, dị, diệt, nhưng không có năm trần và tướng nam, nữ cũng gọi là Vô tướng. Lại do Đạo đế che lấp sinh tử mà có mười tướng; dẫn đến Niếtbàn, vì không có pháp mười tướng, nên gọi là Vô tướng.”

Có chỗ nói: “Bốn hạnh của Đạo chẳng phải thuộc về ba Tam muội, vì thuận với trong kinh nói có bốn pháp. Ngoài ba giải thoát, lập riêng hạnh của Đạo để làm thứ tư.

6/ Dựa vào Địa để phân biệt: Nghĩa Hữu lậu, có mười một Địa: Sơ cận phần của cõi Dục, trung gian và tám căn bản. Bảy cận phần của định trên, chẳng có quán này, vì hạnh giải hẹp. Vô lậu, là chung cả mười Địa, trừ cõi Dục.

7/ Dựa vào thân để phân biệt. Hai mươi sáu hạnh hữu lậu, vô lậu chung cho thân của ba cõi đều chấp nhận được khởi.

8/ Trùng ba Đẳng-trì. Dù không có văn nào nói, nhưng về lý, cũng có cả “Hữu”. Nhưng chẳng phải chỉ Vô Học Bất thời giải thoát khởi mà ngay cả phàm phu Hữu học cũng có thể khởi Đẳng-trì. Vì không chỉ hữu lậu cũng thông suốt qua Vô lậu, nên, Hiển Dương quyển bốn nói: “Bốn hạnh của Đạo đế có cả ba môn giải thoát, tức hạnh “trùng duyên” của ba Đẳng-trì là Vô lậu, như lý nên biết.

Từ đây trở xuống, là thứ hai, giải thích ba thứ như có Tầm, có Từ v.v…

Đa số người phương Tây (Thiên-trúc) đều nói là Tầm, Từ ở Địa Phương tiện, không ở căn bản Sơ thiền, chỉ trừ các Tam-ma-địa vô lậu.”

Thuyết này vì cảm sinh ba Tam-ma-địa của địa trên, vô lậu bất sinh nên dứt trừ.

Thứ ba, là giải thích về vô lượng Tam-ma-địa của Tiểu thừa, Đại thừa. Văn có ba:

1/ Lược phân tích nghĩa vô lượng của Tiểu thừa, Đại thừa.

2/ So sánh, giải thích văn kinh.

3/ kiến lập riêng nghĩa của bốn vô lượng trong kinh. Văn đầu tiên có ba, rất dễ hiểu.

Từ đây trở xuống, phần thứ hai, giải thích trong kinh:

Vì có sai khác chuyển tăng sau sau của Tam-ma-địa, nên đã sinh khởi mà có sai khác, nghĩa là do chuyển tăng sau sau của Đẳng-trì có hơn kém khác nhau, nên làm cho ánh sáng đã sinh khởi có vô lượng sự sai khác hơn, kém, lớn, nhỏ.

– Thế nào là tác ý được thành chỉ hai? Nghĩa là tùy Thắng giải, vì giới hạn thi thiết Tác ý. Nói rõ hơn là khi cầu định, vì tùy theo chỗ hơn, kém, nên tác ý được thành.

Hai là, sao Tác ý chỉ có hai, hay “duyên” tu thành chỉ có hai?

– Đây là hỏi Tác ý thế nào? Chỉ hai thứ hơn kém hay là do “duyên” tu định mà thành hai? Nghĩa là tức do đáp dưới đây:

– “Do Tác ý cầu định, vì lúc đầu kém, về sau thì vượt hơn, nên đối tượng tu định có hai thứ hơn, kém.

– Thế nào là do tu chỉ hai, là “duyên” tu hạnh thành chỉ có hai hay Tĩnh lự hữu lậu hơn, kém, không có “duyên”, khiến cho hạnh bất động cũng thành hai thứ. Do hạnh bất động hai, nên cảm sinh cũng hai.

Dưới đây sẽ nói do hạnh hơn, kém mà sinh có Hữu tình, lập ra sự sai khác cao, thấp, hơn, kém. Trong đây, nói Bổ-đặc già-la đã nói hơn, kém là hai. So sánh với số trước, nói là hai. Nói hai, đều y cứ ở chỗ hơn, kém là hai.

Lại nữa, “thế nào là Kiến lập bốn định vô lượng? Trở xuống, là thứ ba, trong phần Kiến lập nghĩa Vô lượng. Văn chia làm hai:

1/ Giải thích hình tướng sai khác của bốn vô lượng trong kinh.

2/ Giải thích về sự sai khác của vô lượng.

Bốn vô lượng này, như kinh Bồ-tát Tạng quyển bảy; Kinh Niếtbàn quyển mười lăm; Kinh Thập Địa quyển năm; Du-già quyển ba mươi bốn; Hiển Dương quyển bốn; Đối Pháp quyển ba; Luận Phật Địa quyển năm đồng giải thích. Đến trong Bồ-tát địa nói rộng về nghĩa môn.

Trong ba hữu tình, khởi riêng là đầu tiên.

3/ Duyên “chung là sau? 1/ Tác ý v.v… đối với không khổ, không vui. Ba thứ Từ, Bi, Hỷ, như thứ lớp phối hợp xong.

Tổng quát là đối với ba pháp này, muốn cho vui v.v…, là vì muốn cho chúng sinh kia không phải lo nghĩ. Tác-ý không nhiễm ô. Đây là giải thích về hành tướng xã, tức lấy ba hữu tình trước làm cảnh. Hữu tình không có khổ, không có vui, vì si tăng thượng, nên phần nhiều ưa lo nghĩ, ham mến tập khổ sinh, tử, mê các cảnh giới. Trước cho vui rồi. Nay, muốn cho họ không phải lo nghĩ, ham mộ, say mê tập khổ sinh tử, vì bỏ sự ngu si kia. Có Hữu tình khổ, phần nhiều sinh sân nhuế, trước đã cứu vớt khổ cho họ xong, giờ đây, muốn cho họ không nổi lên sân nhuế nữa.

Có Hữu tình vui, phần nhiều sinh tham dục, trước không sinh tâm ganh tị, bảo họ lìa dục, vì muốn cho họ không khởi tham dục. Đối với ba hữu tình, khuyên họ bỏ ba thứ, khởi tác-ý không nhiễm ô này.

Quyển bốn mươi bốn chép: “Bồ-tát tức đối vói Hữu tình của ba thứ không khổ, không vui, có khổ, có vui. Tùy theo thứ lớp đó, phát khởi ý tăng thượng xa lìa các hoặc si, sân, tham, tăng thượng ý lạc “duyên” khắp mười phương, đây gọi là xã.”

Luận Hiển Dương nói: “Từ lấy vô sân; Bi lấy Bất hại, Hỷ lấy Bất tật.”

Kinh Niết-bàn cũng nói: “Từ bỏ sân đoạt lấy mạng sống; bi, trừ sân dùng roi gậy; Hỷ trừ bỏ không vui.”

Luận Đại Trí nói: “Ba thứ vô sân ở trước làm thể, đều đồng với từ này, đều có tánh vô sân.”

Kinh Niết-bàn lại nói: “Từ dứt trừ tham dục, nghĩa là keo kiệt ưa không cho, nói là tham dục. “Duyên” niềm vui của mình, nảy sinh cắt đứt sinh mạng chúng sinh, nói là sân.

Nay, không cắt đứt mạng sống, gọi là vô sân.

Vô tham “duyên” lạc sinh. Vô sân, “duyên” hữu tình khởi, nên người tu từ nói là dứt trừ tham, sân.

Quyển mười một ở trước, và Luận Hiển Dương, kinh Niết-bàn đều nói xã trừ tham dục, sân nhuế, lấy hai pháp vô tham, vô sân làm tánh.

Quyển mười bốn ở dưới nói: “Xả trừ tham dục.”

Luận Đại Trí Độ nói: “Tức vô tham. Vô tham này và ba thiện căn trong ba mươi bốn làm tánh.”

Luận Đại Trí Độ v.v… nói: “Vì dựa vào “duyên” ban niềm vui của mình cho người khác, nên thể là vô tham.”

Kinh Niết-bàn cũng chép: “Tự Xả kỷ, ưa thí cho người, đây gọi là Đại Xả. Hai sinh Thuận, trái, phần nhiều khổ tham khổ. Bình đẳng khuyên trừ thêm nhau, nói là Xả, lấy hai pháp của kinh Niết-bàn v.v… làm tánh. Hữu tình trong pháp giới là ba nhóm thực hành xã bình đẳng, cho nên lấy ba thiện làm tự tánh, mỗi thiện đều y cứ vào một nghĩa lý không trái nhau.”

Luận sư Bị nói: “Văn này đã nói ngay ba thứ này, nên biết xã vô lượng định, lại không tu riêng.” Kinh nói: “lấy Từ đều thực hành đẳng tâm”, là phần thứ hai, giải thích về sự sai khác của bốn vô lượng.

Văn kinh có ba:

1/ Giải thích kinh.

2/ Hỏi đáp, nói về nhân giải thích kinh riêng.

3/ Kết thành hạnh thánh.

Văn đầu có mười câu:

Lợi ích yên vui, tất cả vô lượng đã chỉ bày rõ ràng: Trong bốn vô lượng, đều có hai.

Quyển bốn mươi bốn nói: “Ba vô lượng đầu là đem lại cho chúng sinh sư yên vui, một vô lượng sau là lợi ích.” Quyển ấy còn nói: “Ba thứ đầu hiện ích cho thế gian, gọi là yên vui, một thứ sau cho ích xuất thế về sau, gọi là lợi ích. Vì thế, nên hai sai khác. Đây là dực vào bốn thứ đều có công năng cứu khổ, cho vui, vì đều có năng lực cho phước, trí, quả vị Tiểu thừa, Đại thừa, nên đều gọi là lợi ích.

Không có oán ghét, không có kẻ thù. Không có não hại, ý, ngữ, thân nghiệp, như thứ lớp phối hợp. Ví như chỗ giao lưu của các con sông lớn, dụ cho vô lượng mọi điều thiện nhóm họp chung một chỗ.”

Hỏi: “Kinh nói…” trở xuống, là phần thứ hai, hỏi đáp, nhân giải thích trong kinh riêng. Đay là nói ba thừa, ngoại đạo đều tu chung bốn vô lượng, chỉ dựa vào bốn tĩnh lự cõi Sắc, vì hành tướng rộng, nên Từ, nhớ nghĩ định thứ ba, Bi, nhớ nghĩ “Không Xứ v.v… mà tu tập, chứ chẳng phải nhập định Không Xứ v.v… để tu bốn vô lượng”.

Nếu các Bồ-tát, Thanh văn với tuệ rộng, nương tựa tâm Vô Sắc, hiểu rõ tất cả pháp, tu bốn vô lượng, về lý, dù không ngăn ngại, nhưng vẫn chưa thấy được lời nói chân thành.

Nói lấy tu Bi. Nghĩa là muốn cứu vớt nỗi đau khổ trong cõi Vô Sắc, xa lìa các khổ, các khổ đoạn hoại v.v…, vì cõi kia đều là không. Không Xứ đều không do sắc mà nảy sinh nỗi khổ cắt đứt, hư hoại v.v….

Tu tâm bi: Nghĩa là nghĩ đến chúng sinh khổ, mong sao cho họ nhanh chóng đến với không khổ và chỗ được nương tựa. Chỗ được nương tựa là “không xứ định, không có các khổ. Cho nên, nói tu Bi cùng cực ở Không Xứ.

Lại có một giải thích: “Đối tượng nương tựa là sắc thân. Không có khổ và nơi khổ nương tựa, tức là Không Xứ Định.

Tâm vô lậu của Vô sỡ hữu xứ, biên sau cùng của Địa. Địa này dựa vào sự dứt “hoặc” một cách sáng suốt, nhạy bén. Vô lậu, chẳng phải dạo chơi, vì thông suốt đến Hữu đảnh.

“Như thế, tất cả trở xuống, là phần thứ ba, kết thành Hạnh thánh. Luận sư Cảnh giải thích: “Hỏi “Người Nhị Thừa đã được bốn vô lượng là hữu lậu của họ, sao kinh nói là phần giác đều cùng vận hành?” Vì để giải thích về nghi ngờ này, nên luận nói rằng: “Như thế tất cả đều là hữu lậu, nhưng chỉ bậc thánh mới có thể tu, cho nên kinh nói rộng bốn vô lượng này, phần giác đều thực hành.”

Pháp Sư Khuy Cơ giải thích: “Dựa vào công hạnh thù thắng, chỉ có bậc thánh mới có thể tu. Nếu bậc vô lậu, thì phần giác đều cùng lúc vận hành. Nếu người hữu lậu, thì Nhị thừa đồng khởi phần giác, có công dụng trước, sau đều thực hành, dẫn đến phần giác. Đo đó, phần giác cũng được gọi là hạnh thánh.

Thứ tư là giải thích một phần, đủ phần trong tu văn có hai:

1/ Giải thích riêng hai tu.

2/ Giải thích về các khó của định.

Luận sư Cảnh nói: “Tu một phần: Nghĩa là như muốn quán sát các thắng Xứ như xanh v.v…, khi quản, đối với gia hạnh trước, hoặc chỉ nghĩ đến ánh sáng; hoặc nghĩ đến các sắc, mà nhập vào định, nói hai thứ như thế tùy theo thứ lớp, hoặc rõ biết ánh sáng, hoặc thấy các sắc. Do phương tiện thành, khi chính khi nhập định, hoặc hiểu rõ ánh sáng, hoặc thấy các sắc.

Tu đủ phần. Nghĩa là về phương tiện, tư duy đủ hai thứ, lúc được nhập định, cũng hiểu rõ ánh sáng, cũng thấy các sắc.”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Một phần đầu, tu nghĩ ánh sáng, như sự giải thoát đầu. Tư duy tướng sắc, như giải thoát thứ hai. Tư duy hai thứ, như Tịnh giải thoát lúc chưa thành tựu viên mãn.

Văn nạn định rằng, hỏi là vấn nạn ai? Tà đáp về tướng Tam-mađịa v.v…. Nghĩa là đối tượng duyên (sở duyên) của định này và vấn nạn của hai nhà về tướng nhân duyên. Định biến đổi màu xanh do là cảnh tướng lại ở sinh nơi định.

Về tướng nhân duyên, như quyển sau sẽ nói, nghĩa là tư lương của Định.

Mười một điều khó. Luận sư Cảnh nói: “Kinh dù nói đủ, nhưng trong luận này nói chỉ có tám điều khó. Nghĩa là “Trước hết trong đây, cho đến cũng lại như thế”, là một điều khó.

Từ câu: “Do không khéo gìn giữ căn môn v.v… cho đến giải thích chim yến là khó thứ hai.

“Người kia chỉ tư duy mong cầu cho đến quanh quẩn, bỗng nhiên khởi là khó thư ba.

“Người kia lúc thực hành cho đến với Định là khó, là cái khó thứ tư. Hoặc nhân định khởi mạn là nạn vấn thứ năm, hoặc nói bàn nhiều là thứ sáu, hoặc Tầm Tư lâu là thứ bảy. Hoặc nhân Định, sinhh tướng ánh sáng, tức là xã tu đế bên trong, kiêu sa sắc bên ngoài, đó là tám nạn.”

Pháp sư Thái nói: “Theo luận Thành thật quyển hai mươi hai, phẩm Định Nạn cũng có mười một điều khó, đa số đồng với luận này, thứ lớp có khác nhau. Mười một điều khó ấy là:

1/ Cái khó của định điên đảo. Vì cầu nhận biết bất thiện. Cái khó này thích hợp với định nạn thứ bảy của luận Thành Thật.

2/ Các khó về không có niệm định: Là phương tiện sau v.v… tương đương với nạn thứ sáu.

3/ Cái khó về các định như tham v.v…, vì không giữ gìn căn môn v.v…, tương đương với thứ mười một.

4/ Cái khó của định không thích hợp, vì phần nhiều giác ngộ, tương đương với thứ ba kia.

5/ Cái khó của định không bình đẳng, là hai sự tinh tấn này không đúng.

Bệnh tật, tức thân, tâm mỏi mệt tột độ. Chậm, tức không nhận lấy tướng Định, đều mất thiền định. Như bắt con chim, đều ngay sau khi quả mỏi mệt, liền bay đi, thích hợp với định nạn thứ năm kia.

6/ Cái khó của Hỷ định khô, tư duy mong cầu, cầu nhau một đắc, hai đẳng; thích hợp với định nạn thứ nhất kia.

7/ Cái khó của định sợ hãi. Khắp cả các phương, không biết rộng,

hẹp v.v… vì không tường tận sắc. Nếu hành giả biết không tường tận, thị tự diệt, tương xứng với định nạn thứ hai kia.

8/ Cái khó của định tướng khác. Người kia lúc đi, đứng, vì khởi tưởng thế gian, thích hợp với định nạn thứ tư kia.

9/ Cái khó của định có mạn. Nhờ định đã tu, vì tự đề cao, thích hợp với định nạn thứ mười kia.

10/ Cái khó của định nhiều lời. Nói nhiều, lo nghĩ v.v… lâu, thích hợp với định nạn thứ tám kia.

11/ Các khó không nhận lấy tướng định. Thấy tướng định, vì xã trong, quán ngoài, tương xứng với định nạn thứ chín kia.

Pháp Sư Khuy Cơ có tướng văn đại khái đồng với Luận sư Thái vẫn nói rằng: “Mười một điều khó của luận Thành Thật là danh tự, thứ lớp, thể tánh, hành tướng, có một ít nghĩa khác với luận này, phối hợp, nên biết.

Chim Xích yến, là chim Thủy Trát.

Các khó khăn như thế, tùy đối tượng thích hợp với sự khó khăn đó, đến tưởng nhân duyên, nghĩa là nên được thì chưa được, lui sụt. Hoặc gặp những thức này, nghĩa là đã được mà lui sụt mất.

Phần thứ năm là ba thọ đều nhất định, tùy theo Địa kia tăng, chẳng phải không có các Địa khác.

Phần thứ sáu, trong bốn tu định, Sơ định là được hiện pháp lạc trụ, đẳng trong Đạo phương tiện. Bốn tĩnh lự căn bản, gọi là Hiện pháp lạc trụ. Vì được pháp này nên tu định cận phần. Lại Địa căn bản chưa viên mãn trong sạch, tu các định căn bản, sao cho được viên mãn. Nói chung, lấy định thiện hữu lậu, vô lậu làm thể, nhằm chỉ thị bày cho những người tu tập chưa hề được định. Đây là giải thích về lời vấn nạn: “Hầu hết bốn cận phần và định căn bản đều là người mới tu định, vì sao trong kinh chỉ nói là Đạo phương tiện trước tĩnh lự đầu? Cho nên nay giải thích: “Vì chứng tỏ người tu tập chưa hề được định, bởi Hiện pháp lạc trụ đầu tiên chưa từng được. Nếu tu ba Địa trên, vì chủng loại đã từng được, nên lược qua không nói.”

Luận Câu-xá quyển hai mươi nói: “Nêu trước bày sau. Về lý thật sự có cả pháp khác. Phải biết rằng, đây là ở khả năng phát ra Đạo phương tiện trước của Thiên nhãn mà có người tu định. Tu định thứ hai này chỉ lấy bốn Địa căn bản để tu Thiên nhãn thông suốt qua Đạo Gia hạnh ở trước và Đạo Vô gián đã có tu định. Đây là chung cho cả hữu lậu lẫn vô lậu, những người có khả năng nhận biết danh tự v.v… như thế của các vị trời. Nghĩa là dựa vào cõi vượt hơn để nói, thật ra là thấy cả các đường “Hữu” cho đến nói rộng, nghĩa là được quả Dự lưu hướng của hiện quán Đế, trong Đạo phương tiện, nơi có người tu định. Quả Dự Lưu Hướng, nghĩa là Chân Kiến đạo và Tướng Kiến đạo.

Mười lăm tâm trước đều gọi là phận biệt tuệ. Vì được tuệ này, nên đã có người tu định trong đạo Gia Hạnh của các pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ nhất, vì tuệ này tu thể, chỉ hữu lậu là tánh. Hoặc ví người tu tập các vô ngại giải. Vô ngại giải đó là Phân biệt tuệ. Dựa vào bốn Tĩnh lự v.v… tu Định Phương tiện này, là thể của tu định này, chung cho hữu lậu và vô lậu, nghĩa là đã có người tu định trong Đạo phương tiện của quả La-hán. Quả La-hán, các lậu đã hết, Định Kim Cương Dụ và đạo gia hạnh là thể của tu định này. Thứ ba trong đây khác với Tông Tiểu thừa. Tông ấy nói: “Tu các gia hạnh thiện của ba cõi được phân biệt tuệ. Vì Thể của phân biệt Tuệ chung cả Văn, Tư, Tu, nên trở thành sai khác. Đầu tiên tu hiện pháp lạc trụ, là quả của định. Vì thù thắng nhất trong tám định, nên nói riêng. Vì được quả này, nên lập tu định đầu tiên.

Năm thần thông ở trước, chung cho cả phàm, Thánh đều được. Biết hơn, thấy hơn, chỉ thuộc Thiên nhãn, vì dẫn dắt sinh vượt hơn. Vì được thần thông này, nên lập tu định riêng.

Đầu tiên, nhập Địa vị Thánh, chỉ có Dự Lưu hướng. Quả Thánh viên mãn chỉ có A-la-hán. Vì được quả vượt hơn của hai thời kỳ đầu, sau, nên lập riêng tu định thứ ba thứ tư.

Quả A-la-hán tức lậu tận thông. Dù Hướng của hai quả Nhất Lai và Bất hoàn, cũng có chứng đắc Sơ quả, nghĩa là quả siêu việt, nhưng vì chẳng phải quyết tâm, nên lược qua không nói.

Thứ bảy, trong Tam-ma-địa của năm Thánh Trí có ba:

1/ Nêu dẫn kinh.

2/ Trình bày năm trí.

3/ Giải thích riêng về kinh.

Theo Bà Sa quyển ba mươi mốt cũng nói năm Trí này.

Có thuyết nói: “Đều là tánh của tám trí, trừ Diệt, Tha tâm.

Ngài Diệu Âm nói: “Đều là tánh của sáu Ttrí, trừ Khổ, Tập Diệt, Tha tâm.

Bình luận: “Tất cả đều là tánh của trí Thế tục, đều biệt sự việc có sai khác. Năm Thánh trí này đều thuộc về Xử trí lực. Hoặc luận Thành Thật cũng có nói về trí này.

Nêu danh, giải thích riêng, rất giống với luận này.

Nếu theo Thành Thật và cách giải thích từ đây trở xuống thì, phải nói một cách đầy đủ (cụ thể).

1/ Tam-ma-địa này của ta là bậc Thánh vô nhiễm, vô chấp, là tự thể trí.

2/ Tam-ma-địa này của ta chẳng phải đối tượng gần của phàm phu là đối tượng được Không-tuệ ca ngợi, là trí của Bổ-đặc-già-la.

3/ Tam-ma-địa này của ta vắng lặng, mầu nhiệm là Thanh tịnh trí.

4/ Tam-ma-địa này của ta được an ổn, chứng tâm một cõi, hiện tại an vui, Dị-thục vui sau là Trí quả.

5/ Tam-ma-địa này của ta, do chánh niệm mà nhập, chánh niệm mà xuất, là trí định nhập xuất.

Luận sư Cảnh nói: “Năm Trí này, đầu tiên khởi là gia hạnh trí, về sau thành tựu là Trí hậu đắc. Trí là chủ thể biết (năng tri); Tam-ma-địa là đối tượng biết (sở tri).

Bị Luận sư nói: “Tự thể trí, gọi là Pháp trí, Già-la trí, gọi là Loại trí, Thanh tịnh trí, gọi là Tận trí, Quả trí, gọi là Vô sinh trí, Nhập, xuất Định trí, goị Đạo trí.

Trong giải thích riêng kinh có mười bốn trường hợp:

Ba câu đầu là Tự thể trí. Ba câu kế là Bổ-đặc-già-la trí. Hai câu kế, là Thanh tịnh trí; bốn câu kế là Quả trí. Hai câu sau là Nhập, Xuất định tướng trí.

Pháp Sư Khuy Cơ giải thích: “Chứng tâm một đường vì đã được không có tầm, khôngcó Từ, nghĩa là y cứ được Địa vị mãn trí, đây là Định Vô lậu.

Vui sau, nói là Dị thục, nghĩa là gần của cải (tư chất) hữu lậu được quả Dị thục, xa được Niết-bàn. Mượn danh từ Dị thục để gọi là chung trí Dị thục, chỉ thiện Vô lậu, gọi là năm Thánh trí.

Trong đây có giải thích:

1/ Đầu tiên, ở Kiến Đạo, trước là dứt trừ phiền não sao cho định thanh tịnh.

2/ Nhập địa vị Vô tướng mà được định của bậc thánh.

3/ Định mà các bậc Nhất Lai, bất hoàn đã được. Vì tham v.v… mỏng nên dứt hết; vì “hoặc” dục, nên như thứ lớp phải biết.

4/ Chung cho Bất Hoàn và La-hán đã được định. Vì hiện pháp lạc trụ, nên Dị thục sau, cho nên như thứ lớp có thể phối hợp.

5/ Chỉ tồn tại ở địa vị Vô học, vì thường vận hành tâm Vô tướng. Cứ theo Tiểu thừa so sánh với Đại thừa. Đại thừa cũng có năm:

1/ Ở trước Địa.

2/ Sơ Địa.

3/ Bảy Địa trước.

4/ Hai Địa sau.

5/ Như Lai Địa.

Nhưng giải thích về Tự thể trí trong văn này nói rằng: “Vì vô lậu nên goị Thánh, há nói chỉ phàm phu này là nhất định ư?”

Nay, tìm kiếm tướng văn, vì cũng có thể thiện, nên gọi là Thánh, ở địa vị Thánh. Đây chẳng phải là Thánh thuần túy. Cho nên, trí thứ hai mới gọi là chẳng phải đối tượng mà phàm phu được gần.

Tam-ma-địa của năm chi Thánh thứ tám. Nghĩa là nếu dựa vào Luận Thành Thật nói rằng: “Tam-muội của năm chi thánh, nghĩa là tướng quán, tướng sáng của tâm thanh tịnh Hỷ lạc. Hỷ lạc là tướng hỷ của Sơ thiến, Nhị thiền, vì đồng, gọi là một chi. Đệ Tam thiền lấy ly Hỷ lạc, phân biệt làm một chi. Chi thứ ba của tâm thanh tịnh trong Đệ Tứ thiền.

Dựa vào ba chi, có thể sinh tướng sáng, tướng quán. Tướng sáng và tướng quán này là nhân hay hủy hoại, rã rời nam ấm. Vì quán năm ấm là không, nên gọi là quán tướng. Vì có khả năng nhập Niết-bàn nên gọi là Thánh.

Nay, văn luận này nói: “Các Hiền, Thánh trong bốn tĩnh lự, nhất định mỗi vị Thánh là bốn. Xét quán an lập dứt trừ kiết, phược tất cả Thánh định là chi thứ năm. Văn được chia làm ba:

1/ Nêu năm chi, dẫn kinh chung riêng.

2/ Riêng là dẫn năm chi, giải thích kinh.

3/ Hỏi đáp về tướng của năm chi định.

Dẫn riêng năm chi, trong giải thích kinh. Giải thích về chi ban đầu có mười sáu câu: sáu câu đầu là pháp thuyết, mười câu kế là Dụ thuyết, trong đó nói Ly sinh Hỷ lạc trong Tĩnh lự.

Dụ thuyết, Dụ chung về tướng của bốn Tĩnh lự và dụ thứ năm.

Luận Sư Khuy Cơ nói: “Một câu Ly sinh Hỷ lạc trong pháp, các Tĩnh Lự không đồng, câu khác có thể có chung. Định sinh hỷ, lạc xong, ly hỷ lạc. Thanh tịnh Tĩnh Lự là vì tánh sai khác của bốn Tĩnh lự, như trước đây đã giải thích. vì năm trường hợp khác, có thể có cả “Hữu”. Do đó, trong các văn sau, lại không có Pháp thuyết. Chỉ giải thích về Dụ thuyết có khác. Ví như trí Tuệ hay tắm gội con người, hoặc đệ tử của họ v.v…. Theo phong tục phương Tây, việc tắm gội thế tục, có người tắm gội, vì thầy và trò, nên lấy làm ví dụ.

Đồ đựng bằng đồng, dùng để đựng cáp phấn, dụ cho lìa dục sinh hỷ lạc.

Dạy bảo, truyền trao, răn dạy. Nghĩa là khi tắm gội, lấy đồ đựng bằng đồng v.v… đựng tro than để rửa đâu xay nhuyễn thành bột để tắm gội.

Nay, dùng ngôn giáo cũng như đồ đựng kia, Giáo được bày tỏ hay thuận với các tịnh hạnh thiện, xuất ly Tầm, Tư. Như tro đậu, bột nhuyễn mịn, đây tức là đạo Vô gián. Dùng nước rửa, tức là Đạo giải thoát, vì dùng tầm thanh tịnh.

Tắm gội xoa bóp. Người phương Tây (Thiên-trúc) tắm gội xong, dùng hạt cam nghiền nát đem phơi thật khô, tán thành bột, dùng mè, trộn với dầu thơm, giúp cho chất béo được thấm nhuần không cứng, và mịn màng, mới dùng để thoa mình. Lấy mùi hương thanh khiết đó để làm cho làn da được tươi nhuận, sáng sạch; cho nên phải tắm gội, dùng hạt cam khô tán nhuyễn để xoa bóp. Đây là dụ cho hành giả trước kia chưa được định, phải bỏ đi chất thô, nặng.

Kèm tân nị, là dụ cho Hỷ hòa hợp. Cây gai thơm, nghĩa là được Hỷ sau định, tư nhuận thân, như dùng dầu để trộn.

Dụ thứ hai có sáu câu:

Núi là nghĩa cao, vì xuất Sơ thiền.

Chóp đỉnh. Nghĩa là đến một vị thắng giải. Núi cao chớp đỉnh, chỉ có một chỏm: định thứ hai chỉ một ý môn (nẻo ý). Thắng giải phẩm thượng, lìa các Tầm, Từ, vì cảnh phân tán. Suối, dụ cho Nội đẳng tịnh, tuôn chảy ra các nước Hỷ, lạc. Ven sườn núi, dòng nước chảy ra, to như trục bánh xe, nên gọi là bánh xe nước. Niềm vui thấm nhuần như nước tan tác.

Giải thích như trước, nghĩa là trên nói đối tượng thấm nhuần, nghĩa là Hỷ thấm nhuần khắp là lạc. Su thấm nhuần tương ưng với ý, như xuất bên cạnh. Năm căn kế, như sự thấm nhuần ở trên.

Lại nói, vì Hỷ để lại hai định, nên nói rằng dòng chảy bên. Vì lạc ba định, nên nói rằng, vọt lên. Cũng có thể vì Hỷ trụ tâm nội, nên gọi là dòng chảy bên, vì lạc khắp thân ngoại, nên nói là vọt lên. Ở đây nói khinh an là lạc, đồng với giải thích của Tiểu thừa.

Nước trong dụ thứ ba là dụ cho ly hỷ, Định không có Tầm Từ, cho đến ví dụ, Thai tạng hoa (đài hoa) lặn ở trong nước, lời nói này với ý rõ ràng.

Định thứ hai như nước. Nhân hỷ giao động, bán tung tóc lên như hoa, vì hoa xuất thủy dụ cho Hỷ.

Nay, định thứ ba, ly hỷ không có Tầm, Từ cũng như nước. Lạc kia như Thai tạng hoa, phôi bào chưa trổ, cũng gọi là Thai tạng hoa trong nước, thuận với định, vì không giao động, vọt lên, như ở trong nước.

Trong dụ thứ tư có năm câu:

Vượt qua tai hoạn. Nghĩa là tám tai hoạn, là Tầm, Từ, bốn thọ, hai hơi thở. Đây là nói lìa sai lầm của Địa dưới.

Trắng tươi: Nói lìa lỗi lầm của địa mình. Kế là lấy bốn nghiệp của Trưởng giả dụ cho bốn công dụng của định, như thứ lớp phối hợp.

Dùng tám kinh, chín kinh để làm dụ. Nghĩa là người phương Tây dệt thảm len, cứ tám sợi chỉ, chín sợi chỉ làm thành một cọng theo đường dọc. Khi khởi sự dệt thảm len, thẻm đó sẽ chắc chắn, khít khao, liền lạc. Như xứ này chế ra thứ vải tơ lụa, phải sử dụng bốn đến năm sợi tơ, mới được chắc khít.

Thanh tịnh tươi trắng. Nghĩa là như chiếc áo không mỏng, có thể chịu đựng các thứ khổ lạnh, nóng v.v….

Cùng khắp. Nghĩa là như ở chỗ không có sương, tất cả sự tan nát, giao động không thể ép ngặt.

Trong dụ thứ năm, đối với tướng sở quán, ân cần, khẩn đảo v.v…, như trước đã giải thích.

Luận sư Cảnh nói: “Như văn trước của quyển này nói, giải trong tu định tri kiến, và ân cần khẩn đáo Thẩm tra đế mà chấp lấy các tướng để nói, đây là nghĩa chung trong đây, nghĩa là thí dụ thứ năm này. Dụ chung cho bốn định, quán như dứt trừ “hoặc”, chỉ đơn cử pháp thuyết, không nói văn thí dụ.”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Tướng quán sát thứ mười hai trong ba mươi hai tướng của quyển trước là dùng pháp thuyết để nói. Nghĩa là có Bí-sô ân cần khẩn đáo về việc thiện, nhận lấy tướng đó mà quán sát.

Dụ thuyết nói: “Trụ quán lúc ngồi, ngồi quán khi nằm, hoặc ở hạnh sau, quán sát công hạnh trước, cho nên, ở đây nói là quán sát kỹ các hành trong ba đời đến với chủ thể quán sát.

Lời nói trong hỏi đáp dựa vào duyên khởi quán sát kỹ cho các pháp trong ba đời, lại vì dứt trừ kiết, phược cõi Sắc nên kiến lập thứ năm.

Từ trên đến đây, trong bốn thí dụ sau đều nói rằng sai khác, nghĩa là vì trừ phần nói rõ đồng với thuyết trước và thí dụ riêng trước, cho nên nói thế.

Trong tướng nhất định hỏi đáp, có hai hỏi, hai đáp, nghĩa là các Hiền, Thánh đã có trong bốn Tĩnh lự một tánh cảnh của tâm. Bậc thánh đã được một tánh cảnh của tâm hữu lậu, vô lậu chung trong bốn Tĩnh lự, gọi là Thánh Tam-ma-địa. Và, đối với việc an lập, quán sát Đế Kỹ như thế, gọi là Tam-ma-địa của Thánh, nghĩa là dựa vào định mà phát trí Thánh quán sát, cũng gọi là Tam-ma-địa.

Hữu thứ chín, đủ trong chánh Tam-ma-địa của bậc Thánh. Văn có ba: Trước là hỏi, kế là riêng về tướng. Sau, “tuệ trong đây là hàng đầu dẫn đạo trở xuống, giải thích về lý do sinh khởi theo thứ lớp trước, sau.

Nói về tướng có ba:

1/ Giải thích về Thánh, phải biết là thiện, nên gọi là Thánh và, vì vô lậu, nên gọi là bậc Thánh, có nghĩa là điều thiện mà Thánh đã được là định hữu lậu, nếu định vô lậu đều gọi là chánh Tam-ma-địa của bậc Thánh.

2/ Giải thích về “Hữu nhân” và “Hữu cụ”.

3/ Giải thích về chánh Tam-ma-địa.

“Nếu trong thời gian này, bỏ tà kiến v.v… trở xuống”, là nói phần thứ hai, văn có ba:

1/ Nêu tên nhân cụ.

2/ Giải thích về lý do của nhân cụ

3/ “Thế nào là chánh kiến v.v… trở xuống, là giải thích về tướng của “nhân cụ”.

Luận sư Cảnh nói: “Nhân, nghĩa là bảy phương tiện, hạt giống giải thoát phần của tâm sinh đắc thiện trước kia, thiện căn đã khởi chánh tư duy, phải từ tâm này thọ giới, tức chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, vì xa định dẫn dắt, nên gọi là Nhân.

Cụ, tức ba tuệ đã khởi trong bảy phương tiện, là chánh kiến, Chánh Tinh tấn, Chánh niệm. Ba thứ này là sự giúp sức gần của Tam-ma-địa, lập là “cụ”.

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Y cứ tám chi Đạo thật ở địa vị sau Kiến đạo. Nếu ở trước Kiến đạo, thì cho dù gọi là Chánh Kiến nhưng chẳng phải là chi Đạo. Và, dù có hành tướng của Đạo đó mà chưa được Kiến lập, phải đến Địa vị Tu đạo, mới được gọi là chi đạo.

Nay, giai đoạn phàm phu cũng được gọi là Chánh Kiến v.v… Địa vị Kiến đạo v.v… kia dù không lập là chi Đạo, nhưng chánh Tam-mađịa của bậc Thánh, có ngay ở địa vị Kiến đạo kia. Cho nên, Chánh Kiến v.v… ở Kiến đạo kia cũng thành. Nhưng do Chánh Kiến dẫn sinh định và giúp sức cho định, nên cả hai Địa vị đều được gọi là “Nhân cụ”. Nhân khác thì không như thế.

Trong giải thích về tướng, nghĩa là trước biết rõ thế gian thật sự có chánh hạnh, chánh chí… của chân A-la-hán.

Luận sư Cảnh nói: “Khả năng hiểu rõ về nhân quả trong Sinh đắc thiện, gọi là Chánh kiến v.v…. Niệm này chính là phần giống với Tamma-địa.”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Phần” là nghĩa “loại” là phần tương tự của Tam-ma-địa. Niệm này đều cùng lúc (đồng thời) cũng có chánh Tam-ma-địa. Nhưng chưa là bậc Thánh, chính là chủ thể đoạn (năng đoạn) chủ thể mãn (năng mãn) sau, mới gọi là Chánh niệm của bậc Thánh. Vì đều có định, nên nói: “cũng kiêm”.

Trong Tam-ma-địa của Kim Cương Dụ thứ mười, nghĩa là người học Tam-ma-địa của biên sau cùng, đã nói rằng vì biên sau cùng, nên biết chỉ là một niệm chẳng phải nhiều sát-na mà Đối Pháp quyển mười một nói là lấy chung hai đạo Gia hạnh, Vô gián làm định Kim cương. Ngài Tam Tang nói rằng: “Đạo Gia hạnh sau cùng sinh hiện chủng rất vi tế giả diệt; đạo Vô gián vô cùng sinh Tùy miên sau cùng đã diệt, gọi là có công năng.

“Gọi chung hai Đạo này gọi là Kim cương” trở xuống, là dùng ba nghĩa để giải thích:

1/ Bậc nhất hơn hết, là tác dụng.

2/ Dùng để dứt “hoặc”, gom góp điều thiện, nhằm nói về quả Vô học, vì hai dạng rốt ráo.

Hai tối tôn thắng. Nghĩa là tối tôn, tối thắng trong hạnh học, gộp hai nghĩa này để giải thích về định Kim Cương dụ này.

Theo chánh nghĩa của Tát-bà-đa, thì gồm có một ngàn chín mươi sáu, nghĩa là dựa vào một trăm sáu mươi bốn định Vị Chí, cho đến định thứ tư cũng thế. Không Xứ năm mươi hai, Thức Xứ ba muơi sáu, Vô sở hữu Xứ hai mươi bốn. Nói rộng như Bà-sa quyển hai mươi tám.

Nay, Đại thừa y theo Nhị thừa dựa vào chín Địa, cõi Sắc sáu, Vô sắc bốn. Bồ-tát chỉ Tĩnh lự thứ tư. Duy Thức có hai nghĩa:

1/ Hiện ở trước này đã được bốn Trí, vì xã một lúc chủng từ “hoặc” thô nặng.

2/ Vào thời gian này, Thức Dị thục ở giai đoạn Đạo giải thoát, bốn trí mới khởi, rộng như trong ấy nói.

Từ trên đến đây, đã giải thích riêng về Tông yếu của kinh có ba.

Trong đó, giải thích hai đã xong.

Từ đây trở xuống, là phần thứ ba, giải thích Đẳng chí.

1/ Giải thích về Tam-ma Bát Để Hiện thấy, văn được chia làm bốn:

a/ Dẫn kinh, nêu lên.

b/ Giải thích nghĩa Đẳng chí hiện thấy. c/ Phát ra Thể tánh lược chung. d/ Giải thích riêng hành tướng.

Tu đạo dứt trừ phiền não, chế phục đối trị: là Đẳng Chí hiện thấy ban đầu; đoạn diệt đối trị là Đẳng chí hiện thấy thứ hai. Và, quán sát đoạn là ba Đẳng chí sau, không đồng với tông chỉ của Tiểu thừa (chủ trương của Tiểu thừa). Tiểu thừa kia nói:

1/ Quán các thứ bất tịnh thuộc ba mươi sáu vật của tự thân.

2/ Trừ máu v.v…, chỉ quán xương trắng.

Hai quán trên phàm, Thánh đều được.

3/ Quán về xương, thân thức ở trong đó, Hành vừa trụ đời nay, vừa trụ đời sau, tức hai quả đầu, vì chưa lìa dục.

4/ Quán xương, thân thức ở trong đó, Hành không trụ đời nay, chỉ trụ ở đời sau, tức quả Bất hoàn, đã lìa dục.

5/ Quán về xương, thân thức ở trong đó, Hành không trụ ở đời nay, không trụ ở đời sau, tức A-la-hán, vì lậu đã dứt hết.

Hai quán đầu tiên, gọi là Hiện thấy. Ba quán sau, do hiện thấy “duyên” mà khởi, nên cũng gọi là Hiện thấy (nói rộng như Bà sa quyển bốn mươi).

Ở đây thì cho là không đúng, vì cả năm quán đều là đối tượng mà bậc Thánh gần gũi. Vì quán sáng suốt rõ ràng, nên gọi là Hiện thấy.

Y cứ chung ở chế phục, dứt trừ mà phát ra thể của năm Hiện thấy, nên nói rằng, đây là tổng lược thể tánh.

Trong giải thích riêng thì hai quán đầu, luận có hai lượt giải thích:

1/ Đầu tiên là quán bất tịnh, là Chính Niệm Trụ; lấy phương tiện Niệm Trụ để làm y chỉ. Đây là y cứ vào duyên khởi sai khác của căn bản gia hạnh đã nương tựa để làm rõ hai quán bất tịnh.

Đầu tiên “duyên” bất tịnh, sau là bộ xương người.

Thông suốt hơn hết, nghĩa là các quán như xanh, bầm v.v… Ở đây nói quán xương trắng là nghĩa thông suốt rất cùng cực, như xanh, bầm v.v…

Về sau theo thứ lớp vượt hơn, sau cùng càng vượt qua nghĩa quán như tham v.v…

2/ Lượt thứ hai: Thì “Đầu tiên, quán bất tịnh, quán sát bên trong thân. Sau, quán bất tịnh, thông suốt pháp tánh.

Đây là dựa vào duyên khởi sai khác về sự lý cạn sâu của cảnh giới sở duyên, nhằm làm rõ hai quán bất tịnh: Cảnh bất tịnh trong quán căn bản và hai loại riêng của tánh, cho nên, trước nói đoạn diệt đối trị.

Quán thức lưu chuyển. Nghĩa là giải thích quán sát riêng để đoạn, tức ba quán sau, nghĩa là quán thức đoạn và chưa dứt. Quán sát trạng thái sinh, diệt nối nhau của Thức này là trường hợp cùng cực. Hoặc quán sinh thân, hoặc quán hai thứ chuyển thức sát-na.

Trên đây là giải thích chung về nghĩa quán sát để đoạn.

Ngày, đêm v.v… Như Câu-xá nói: “Một trăm hai mươi sát-na là một Đát-sát-na. Lạp phược bằng mười sáu Đát-sát-na này, ba mươi tu du này; ba mươi ngày đêm này, ba mươi ngày đêm là một tháng. Mười hai tháng là một năm. Mâu-hô-lật-đa, Hán dịch nói là Tu-du.

“Quán sát Hữu học chưa lìa dục” trở xuống, là giải thích riêng ba Đẳng chí, đều trụ hai đời: là hiện tại và vị lai, vì thức đều có sự ràng buộc.

Chỉ trụ đời khác. Nghĩa là chỉ đời vị lai, vì thức có sự ràng buộc.

Đều không có chỗ trụ. Nghĩa là vì hai đời, không có sự ràng buộc.

Thắng Xứ, Biến-Xứ thứ hai chỉ như trước đã nói. Nghĩa là vì trong tám giải thoát trước đã nói xong, nên ở đây không nói nữa.

Bốn định Vô Sắc, tức bốn Vô Sắc giải thoát.

Trong luận Quyết Trạch v.v… giải thích bốn Vô Sắc không khác với giải thoát, cho nên cũng không giải thích.

Thứ ba, là nói trong Đẳng chí của Vô Tưởng rằng, ở trong sinh này vừa nhập, vừa khởi. Nghĩa là nhập vô tâm, khởi có tâm. Thuyết này đối với định của Địa dưới, nói về quả. Nếu sinh ở Địa đó, thì chỉ nhập không khởi, nghĩa là Duy Thức quyển bảy lược có hai giải thích:

1/ Trong sơ sinh vô tâm, vì có tâm chưa có, nên nói là “chỉ nhập”

2/ Sơ sinh có tâm. Về sau, vì ở vị vô tâm, nên gọi là nhập. Nếu không như vậy, thì lúc mới sinh vốn chưa khởi tâm, sao gọi là nhập? Vì trước không, sau có mới gọi là nhập. Hoặc tưởng của Địa kia sinh, thì từ nơi Địa đó mất, một thuyết kia nói rằng, sau cùng là vô tâm, nếu từ Đại kia chính mất thì vẫn chưa có tâm, vì không khởi tâm nhuận sinh v.v….

Trong cõi dưới có sơ sinh, gọi là tưởng. Nếu sinh, tức là vì từ địa đó mất.

Thuyết thứ hai nói rằng sau cùng có tâm, tưởng kia nếu sinh tâm đẳng khởi nhuận sinh, thì gọi là từ kia mất.

Môn khác, như Duy Thức, luận này quyển năm mươi ba, Đối Pháp quyển bốn mươi hai và Hiển Dương quyển mười một đồng giải thích.

Trong giải thích Diệt định thứ tư, đã lìa dục Vô sở hữu, y cứ chung

đoạn trừ, chế phục, dựa vào tướng Phi tưởng xứ mà nhập định, nghĩa là đối với hai tâm nhiễm này, sinh tưởng nhàm bỏ v.v…, tâm Phi tưởng, Phi phi tưởng vốn nhàm chán Vô sở hữu xứ mà khởi. Nay, cầu Diệt định, lại nhàm chán tâm Phi tưởng, Phi phi tưởng khiến nó không khởi; tức là tâm vắng lặng. Cho nên, nói dựa vào tướng Phi phi tưởng xứ mà nhập định.

Dựa vào tướng Diệt tận mà nhập định, không tác động hiểu biết nhàm, trái, trực tiếp tác động tâm pháp, muốn tận diệt hiểu biết.

Như thế, dần dần, tâm chín phẩm diệt, tâm chán xã trước kia tức là tâm vắng lặng.

Dựa vào người mới tu chưa được tụ tại. Nay, nhậm vận (tự nhiên) tạo nên hành tướng Phi tưởng xứ. Các tâm hiểu tướng tùy ý diệt tận, vì giống với trước, nên nói “cũng thế”. Là người tu lâu, nên nhậm vận thành. Hoặc đầu tiên, “duyên” hữu vi, khởi tâm tưởng nhàm bỏ. Về sau, “duyên” hành vô vi, chán tâm tưởng xã vì nghĩa chán bỏ đồng, nên nói “cũng thế”.

Hành này có hai thứ, nghĩa là khi đi, khi đứng ngang bằng.

Luận sư Cảnh nói: “Tâm sơ định có Tầm, Từ khởi lên lời nói, nên gọi là khi đi. Nhị định trở lên, tâm vi tế dần, vì lìa Tầm, Từ, nên gọi là lúc trụ.”

Pháp Sư Khuy Cơ nói: “Sơ định có bốn thức thân, trên tâm “duyên” ngoài, như người đi ra ngoài, nên nói là lúc đi. Ba hành lúc này giống như ở đây nói thứ lớp. Nhị định trở lên, tâm không “duyên” ngoài, như đang ở trong nhà, gọi là lúc đứng. Diệt ba thứ hành, hai định diệt ngữ hành; bốn định diệt thân hành; Diệt định diệt tâm hành, nên nói là thứ lớp diệt ba thứ hành.

Thứ lớp khởi. Nghĩa là dựa vào người chưa tự tại, nói như thế này: “Được giai vị tự tại”, như văn trước nói: “Nhậm vận có thể nhập, khởi tất cả Địa.

Nhậm vận có thể nhập, nghĩa là tuy phương tiện xa, tâm có kỳ nguyện, hoặc đến lúc bấy giờ, vì nhậm vận xuất nhập, nên khi xuất định, “duyên” ba thứ cảnh Xúc.

Ba thứ Xúc. Nghĩa là hoặc dựa vào chánh lý của Bà-sa thuộc Tiểu thừa và luận Thành Thật v.v… đều nói rộng. Vả lại, dẫn Chánh Lý quyển mười hai nói rằng, như khế kinh nói: “Khi xuất Diệt định, sẽ xúc chạm ba Xúc, đó là Xúc Bất động; Xúc Vô sở hữu và Xúc Vô tướng.

Thế nào là xúc chạm ba Xúc này? Có thuyết nói: “Lúc Diệt định khởi, tâm tương ưng có ba Xúc “không”; Vô nguyện, Vô tướng. Như thứ lớp đó, khi xuất Diệt định, thì xúc chạm với ba Xúc.”

Có Sư khác nói: “Tâm Thức Xứ”, không Xứ, tương ưng với Xúc, gọi là Xúc Bất động, vì hai Xúc này thuần thức tưởng không. Tâm Vô hữu Xứ tương ưng với Xúc, gọi là Xúc Vô sở hữu, vì không có sở hữu ở trước. Phi tưởng, Phi phi tưởng tương ưng với Xúc, gọi là Xúc Vô tướng, vì tướng của Tưởng, Vô tưởng không rõ ràng, tức do tướng này, nên nói bốn Vô Sắc. Nếu định Hữu tưởng từ Diệt định khởi tâm chung cho hữu lậu, vô lậu, thì lúc Diệt định khởi, hoặc nghịch với thứ lớp, nhập các Đẳng chí. Hoặc trái với siêu việt, nhập các Đẳng chí, chấp nhận có

Khởi Diệt định, vì tâm hiện ở trước.”

Lại có Luận sư khác nói: “Chỉ y cứ Vô lậu, Hữu Xứ “duyên” Niếtbàn, lúc tâm khởi Diệt định, nói là xúc chạm với ba Xúc, do vô lậu, nên gọi là bất động. Vì thuộc về Địa Vô sở hữu Xứ, nên gọi là Vô sở hữu.

Vì “duyên” Niết-bàn, nên gọi là Vô tướng.”

Giải thích như kinh Ma-Ha Câu-hi-la nói rằng sẽ xúc”.

Ba sư này đều giải thích không đồng: Sư đầu tiên nói: “Nghĩa là Ngã, ngã sở chấp, điệu, cử, gọi là động Không vô ngã hạnh, là hạnh năng đối trị, là chủ thể phát động, nên gọi là Bất động. Bất động tương ưng với Xúc, gọi là Xúc Bất động.

Tâm tham chấp cảnh, gồm thâu làm cái có của mình. Vì có đối tượng chấp, nên gọi là “sở hữu”. Tam-ma-địa Vô nguyện dứt trừ “sở hữu”, gọi là “Vô sở hữu”. Ngoài ra, như thuyết trước đã nói.

Sinh tử có mười tướng, trong Niết-bàn, Vô vi không có tướng. Không có tướng tức là định. Vì “duyên” không có tướng, nên là Vô tướng. Các pháp khác như thuyết trước đã nói. Đây là thể tánh của ba Xúc. Lúc không có tâm, không có các Xúc này. Khi xuất định, bỗng nhiên gặp hành trong cửa môn, bỗng gặp vách v.v… đây nói là nghĩa ba Xúc.

Thuyết thứ hai nói: “Phương tiện của Thức Xứ chỉ quán về Thức. Phương tiện của Không Xứ cũng chỉ quán “không”, vì không có tưởng khác, nên gọi là Bất động. Tưởng đó tương ưng với Xúc, gọi là Xúc Bất động. Trong địa căn bản, dù chung với tướng khác, nhưng vì phương tiện mà nói, nên đều gọi là Bất động.

Vô sở hữu Xứ vì không có sở hữu thức khắp trước kia, nên gọi là Vô sở hữu.

Trong Địa Hữu Đảnh, không có Hữu tưởng, Vô tưởng, vì hai tưởng rõ ràng, nên gọi là Vô tưởng. Cho đến Hữu đảnh, không thể nói vì Vô tưởng. Bốn Vô Sắc đều gọi là Hữu Tưởng, đây nói là Thể của ba Xúc,

Khởi Diệt định, tâm có cả hữu lậu. Nếu hữu lậu, hoặc trái thứ lớp, nhập Phi tưởng đẳng chí, gọi là xúc chạm với xúc vô tướng. Nếu nghịch siêu nhập Vô sở hữu Xứ và Vô lậu, nghịch thứ lớp nhận Vô sở hữu, đều là tiếp xúc với xúc sở hữu. Nếu vô lậu nghịch siêu nhập Thức Xứ, gọi là tiếp xúc với Xúc Bất động. Dù không nhất định được nhập Không Xứ, do cả hai Xứ đều gọi là Xúc Bất động. Một tức là tên Xúc đó.

Lại giải thích: “Luận sư này chẳng phải nghĩa chánh tông của Tát-bà-đa, mà là Luận sư khác chấp từ diệt Không Xứ v.v… nên có giải thích như thế.

Thuyết thứ ba: Chỉ lấy một niệm Vô lậu Vô sở hữu Xứ “duyên” với Diệt Đế Niết-bàn, do y cứ Đế là Vô lậu, chẳng phải hữu lậu, nên gọi là Bất động. Y cứ Địa, gọi là Vô sở hữu Xứ. Y cứ đối tượng duyên, gọi là Vô tướng. Vô tướng ấy tương ưng với Xúc có ba thứ tên, khi nhập vào tâm ấy gọi là ba xúc. Nay, trong văn này có hai Luận sư giải thích; giải thích đầu này khác với chánh lý của Bà-sa, nghĩa là khi xuất định phần nhiều do ba cảnh.

1/ Duyên cảnh Hữu mà khi xuất định, Xúc chạm Vô ngã v.v…. Đây là “duyên” trong thân, tác động hạnh vô ngã mà xuất Diệt định, không bị ngã mạn v.v… làm khuynh động.

2/ “Duyên” Đạo đế. Đạo năng nhận lấy cảnh. Nay ra khỏi Diệt định, năng duyên với cảnh, Đạo đế là cảnh, gọi là chấp cảnh, chấp cảnh không sinh tham v.v…. Tiếp xúc với Xúc Vô sở hữu, do Đạo không hay tăng trưởng tham, sân v.v…. Hoặc gọi là tiếp xúc với Xúc Vô sở hữu. Vì tướng không tư duy, nên “duyên” cõi Vô tướng. Cho nên, nói là tiếp xúc với Xúc Vô tướng. Nghĩa là nếu “duyên” Diệt Đế khi xuất Diệt định, gọi là “duyên” cảnh Diệt, lìa các tướng.

Thuyết thứ hai nói: “Đây là dựa vào nghĩa chưa tự tại, nên phải theo thứ lớp. Do tâm định phát ra tiếp xúc với Xúc bất động là Đẳng Trì “không”. Xúc, với Xúc Vô sở hữu là Đẳng Trì Vô nguyện. Tiếp xúc với Xúc Vô tướng là Đẳng Trì Vô tướng.

3/ Dựa vào tự tại. Nghĩa là vượt qua tất cả Địa, tùy theo Định mà Địa đó khởi, hoặc “duyên” tản mát; “duyên” lý, “duyên” trong, duyên xúc chạm với ba thứ Xúc. Ba Xúc trong có tự Thể, gọi là cảnh “hữu”; sáu trần bên ngoài, gọi là cảnh của cảnh. Lý Vô tướng gọi là cảnh Diệt. Do nhập Diệt định, chiết phục tâm xong, phiền não không khuấy động. Ba căn không nhiễu, chẳng phải tướng bị rối loạn, chi dùng tâm thiện mà phát ra định.

Nay, xét ý văn, phần nhiều dựa vào tâm định phát ra sự xúc chạm ba thứ Xúc. Dưới đây là phần kết chung.