BƯỚC ĐẦU HỌC LUẬT

Sa môn Tự  Tổ hiệu Nguyên Hiền
ở đất Cổ Sơn Phúc Châu thuật vào đời nhà Minh.
Thích Thiện Phước dịch

 

LỜI TỰA BƯỚC ĐẦU HỌC LUẬT

Mùa Đông năm Bính Tuất, tôi đã soạn xong bộ Giới Bổn Ước Nghĩa. Có vị khách Tăng đem bộ Luật Học Yết Yếu đến xin ý kiến, đa phần những điều tôi được xem qua, không thấy có trong luật học mà chỉ thấy nhặt lấy từ  những sách khác. Thật là gom nhặt theo lối học trò của Thủy Lạo Hạc. Nhân thế mới soạn ra bộ Luật Học Phát Dẫn (Bước Đầu Học Luật) nầy để nêu bày. Nói “phát dẫn” nghĩa là chỉ bày thật cẩn thận lúc ban đầu.

Phàm muốn đi xa ngàn dặm thì phải phát xuất từ bước ban đầu, bước đầu một khi lầm lẫn thì muôn dặm uổng công. Cho nên người mới học không thể không cẩn thận. Nếu như tin nhầm theo người quấy, học tập sai lầm rồi nói xằng nói nhảm, dù có học trọn  đời đi nữa mà vẫn không biết là điều sai, truyền trao trải qua nhiều đời rồi cho rằng là đúng, để lại sự tai hại có thể tính kể được ư? Những điều gom nhặt nầy, ngõ hầu nêu bày đầu mối quan trọng của các giới, khiến cho người học sau biết chỗ hướng về. Tuy chưa đạt đến chỗ tột cùng rộng rãi tinh vi, nhưng hễ ngay nơi đó mà truy cầu thì đều được gọi là rộng rãi tinh vi, điều chắc chắn là không thể vượt ra bản nầy. Như khi đi khỏi cửa phải đem mỡ bôi vào trục xe, mà lại bôi vào vết xe, thì sẽ không thể đi xa đến nơi vậy. Cho nên sách nầy tuy kém cõi, nhưng chỗ liên quan rất lớn. Vì thế tôi không ngại từ chối sự chê cười cho là chuyện vụn vặt mà tập hợp thành. Nếu bậc cao minh nào tự có thể xem trọn luật tạng thì có thấm thía gì ở bộ sách nầy.

 

QUYỂN THƯỢNG

DUYÊN KHỞI CỦA LUẬT BỘ

 Thuở xưa, đức Thế tôn cùng 500 vị Tỳ kheo, khi an cư ba tháng hạ  trong trú xứ của Bà La Môn Tỳ Lan Nhã. Tôn giả Xá Lợi Phất ở nơi nhàn tĩnh, nghĩ rằng: “Vị Đẳng Chánh Giác nào có phạm hạnh tu tập, Phật pháp được tồn tại lâu dài? Vị Đẳng Chánh Giác nào có phạm hạnh tu tập, Phật pháp không được tồn tại lâu dài?”. Rồi ngài đến hỏi Phật. Phật dạy: “Đức Phật Tỳ Bà Thi, đức Phật Thức Khí, đức Phật Câu Lưu Tôn, đức Phật Ca Diếp, các đức Phật này có phạm hạnh tu tập, chánh pháp được tồn tại lâu dài. Đức Phật Tỳ Xá La, đức Phật Câu Na Hàm có phạm hạnh tu tập, chánh pháp không được tồn tại lâu dài”. Tôn giả hỏi: “Vì cớ sao?”. Phật dạy: “Các Đức Phật Câu Na Hàm, Tỳ Xá La không rộng nói mười hai bộ kinh cho các đệ tử, nhẫn đến không kết giới, cũng không thuyết giới, cho nên các đệ tử  mệt mỏi nhàm chán, do đó chánh pháp không tồn tại lâu dài. Các Đức Phật Tỳ Bà Thi… rộng nói mười hai bộ kinh cho các đệ tử, nhẫn đến kết giới, thuyết giới, cho nên chánh pháp được truyền bá khắp đến đời sau, không để cho mau diệt mất”. Tôn giả liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa oai nghi bạch Phật: “Vậy thì kính xin đức Thế Tôn kết giới, thuyết giới cho các tỳ kheo, khiến chánh pháp được tồn tại lâu dài”. Phật dạy: “Thôi đi! Ta tự biết thời”.

Về sau, vì các Tỳ kheo phát sanh pháp hữu lậu, Ngài bèn theo từng việc mà kết giới. Kết giới tóm lược có mười nghĩa:

1/ Nhiếp thủ đối với Tăng.

2/ Khiến Tăng hoan hỉ.

3/ Khiến Tăng an lạc.

4/ Khiến người chưa tin sanh lòng tin.

5/ Người đã tin thì khiến cho tăng trưởng.

6/ Người khó điều thuận khiến cho được điều thuận.

7/ Khiến người hổ thẹn được an lạc.

8/ Dứt trừ nghiệp hữu lậu trong hiện tại.

9/ Dứt trừ nghiệp hữu lậu trong vị lai.

10/ Khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài.

Sau khi Phật thành đạo, năm ba mươi tám tuổi, Ngài đến thành Vương Xá, Quốc vương thiết trai cúng dường, Ngài thọ thực xong, bảo La Vân rửa bát, Tôn giả sảy tay bát rơi xuống đất và vỡ thành năm mảnh. Phật dạy: “Đây là biểu hiện điềm, sau khi ta diệt độ 500 năm đầu, các tỳ kheo ác hạnh chia tạng Tỳ Ni ra làm năm bộ. Về sau tổ thứ tư là tôn giả Cúc Đa có năm người đệ tử, ai nấy đều chấp lấy tri kiến của mình, nên quả nhiên chia tạng Tỳ Ni ra làm năm bộ: 1/ Bộ Đàm Vô Đức. Trung Hoa dịch là Pháp Mật, Pháp tên là Tứ Phần; 2/ Bộ Tát Bà Đa. Trung Hoa dịch là Nhất Thiết Hữu, Pháp tên là Thập Tụng; 3/ Bộ Di Sa Tắc. Trung Hoa dịch là Bất Trước Hữu Vô Quán, Pháp tên là Ngũ Phần; 4/ Bộ Ca Diếp Di. Trung Hoa dịch là Trùng Không Quán, Pháp tên là Giải Thoát; 5/ Bộ Bà Thô Phú La. Trung Hoa dịch là Trước Hữu Hành cũng gọi là Độc Tử. Bộ này Cựu luật gọi là: Ma Ha Tăng Kỳ, Trung Hoa gọi là Đại Chúng. Tăng Kỳ là căn bản, chia ra làm năm bộ. Hiện tại bộ Luật Độc Tử này chưa truyền sang Trung Hoa, còn Ca Diếp Di chỉ có một quyển Giải Thoát Giới Bổn, còn ba bộ kia hoàn toàn đầy đủ.

Nói đến duyên khởi chia ra năm bộ, các Luật sư ở Trung Hoa truyền thọ cũng đều nói như thế, nhưng theo bộ “Xá Lợi Phất Vấn Kinh” đã ghi lại về sự huyền ký của Phật so ra có phần khác xa, nay xin chép lại  như sau:

Xá Lợi Phất Vấn Kinh chép: “Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: Vì sao Thế tôn nói ra giới luật cho các Tỳ Kheo, hoặc khai hoặc ngăn, đời sau này Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, phụng trì bằng cách nào? Phật dạy: Như ta đã nói: Đó là tùy thời, ở trong thời gian này nên vâng làm theo lời nói này, ở trong thời gian khác là nên vâng làm theo lời nói khác vì để lợi hành, vậy tất cả đều nên phụng trì. Sau khi ta Niết Bàn, Đại Ca Diếp… nên cùng phân biệt để cho các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni nương theo, như ta còn ở đời không khác. Ca Diếp truyền trao cho A Nan, A Nan lại truyền cho Mạt Điền Địa, Mạt Điền Địa lại truyền cho Xá Na Bà Tư, Xá Na Bà Tư lại truyền cho Ưu Ba Cấp Đa. Sau Ưu Ba Cấp Đa có vua Khổng Tước Luân Kha hoằng truyền kinh Luật ở đời, cháu ông tên là Phất Sa Mật Đa La, tiếp nối ngôi vua tin theo tà thuyết, thống lãnh binh chúng phá tháp giết tăng, máu chảy thành sông, 500 La Hán chạy trốn vào hang núi, kế đến là thiêu đốt kinh điển. Bồ tát Di Lặc dùng sức thần thông mang kinh luật ta lên tận cõi trời Đâu Suất.

Kế đến Tháp Nha Xỉ, tháp thần nói rằng có thần Trùng Hành trước đây đòi con gái tôi, tôi cự tuyệt không cho. Nay thề nguyện hộ pháp, bèn đem con gái ra cho, đến nỗi trong lòng kính phục, thần Trùng Hành  vui mừng, tay bưng núi cả để đè vua và bốn binh chúng đều chết hàng loạt. Về sau có vị vua tánh rất hiền lương, Bồ tát Di Lặc hóa làm 300 đồng tử xuống nhơn gian để cầu Phật đạo, theo 500 La Hán hỏi thọ nhận giáo pháp. Bấy giờ kẻ nam, người nữ trong nước lại cùng nhau xuất gia, bốn chúng như thế lại càng đông nhiều. La Hán mới bay lên trời để tiếp thỉnh kinh Luật, đem về nhơn gian. Bấy giờ có tỳ kheo tên là Tổng Văn hỏi các La Hán và Quốc Vương, ta nên phân kinh Luật ra và lập nhiều đài quán, vì việc cầu học khó được.

Đương thời, có một tỳ kheo trưởng lão ham thích tiếng tăm danh lợi, liền đứng tranh luận: Chép sửa Luật ta, mở bày thêm rộng, Ca Diếp kết tập gọi là Đại Chúng Luật, gom nhặt những điều bên ngoài mà để lại, thật luống dối cho những người mới học, riêng tạo ra bè đảng, cùng nhau nói thị phi. Khi ấy, có tỳ kheo cầu vua phán xét, vua bèn nhóm hai bộ lại làm pháp rút thẻ trắng và đen, vua ra lệnh với mọi người rằng: “Nếu ai tin ưa theo Cựu Luật thì rút lấy thẻ đen, còn ai tin ưa theo Tân Luật thì nên rút lấy thẻ trắng”. Bấy giờ người rút lấy thẻ đen có đến vài vạn, còn người rút lấy thẻ trắng chỉ được vài trăm. Vua cho rằng tất cả đều là Phật nói nhưng sao có sự tin ưa không đồng, không được ở cùng một chỗ, người Cựu học thì nhiều. Kể từ đó mới có tên gọi là Ma Ha Tăng Kỳ vậy. Người học tân ít, nhưng toàn là những bậc thượng tòa, nên từ đó lấy thượng tòa để đặt tên là Tha Tỳ La vậy. Bộ Tha Tỳ La này, sau khi ta Niết Bàn 300 năm, vì có sự tranh luận nên lại có thêm bộ Tát Bà Đa và bộ Độc Tử. Trong bộ Độc Tử này lại chia ra: bộ Đàm Ma Ủy Đa Biệt Ca, bộ Bạt Đà La Da Ni, bộ Sa Ma Đế, bộ Sa Na Lợi Ca. Còn bộ Tát Bà Đa lại chia ra: bộ Di Sa Tắc, bộ Mục Kiền La Ưu Ba Đề Xá. Khởi duyên từ bộ Đàm Vô Quật Đa Ca, bộ Tô Bà Lợi Sư, bộ Tha Tỳ La. Lại có thêm bộ Ca Diếp Duy, bộ Tu Đa Lan Bà Đề Na. Trong 400 năm lại xuất hiện bộ Tăng Ca Lan Đề Ca, bộ Ma Ha Tăng Kỳ. Sau khi ta diệt độ 200 năm, nhân do các luận thuyết khác mà có các bộ: Bính Bà Ha Là, Lô Ca Úy Đa La, Câu Câu La, Bà Thâu Lâu Đa Kha, Bát Lạp Nhã Đế Bà Da Na. Trong 300 năm, nhân vì các dị học mà ở năm bộ này lại có thêm các bộ: Ma Ha Đề Bà, Chất Đa La, Mạt Đa Lợi, rất nhiều những bộ như thế truyền bá lâu dài về sau, hoặc đúng hoặc sai ngoài năm bộ này ra mỗi bộ đều có nêu ra sở trường.

Bộ Ma Ha Tăng Kỳ, cần học các kinh, tuyên giảng nghĩa chơn thật, để xử những việc trong trú xứ, nên đắp y vàng.

Bộ Đàm Vô Quật Đa Ca, thông đạt chơn lý, mở bày chỉ dẩn những lợi ích, nêu bày lẽ thù thắng nên đắp y màu đỏ.

Bộ Tát Bà Đa, rộng rãi thấu đáo tường tận, để dẫn dắt giáo hóa, nên đắp y màu đen.

Bộ Ca Diếp Duy, tinh cần dõng mãnh, nhiếp hộ chúng sanh nên đắp y màu vỏ cây Mộc Lan.

Bộ Di Sắc Tắc, thiền tư đến chỗ vi diệu, bàn bạc thấu đáo lẽ u mật, nên đắp y màu xanh”.        Thuyết trước thì cho rằng năm bộ phân chia cùng một lúc, thuyết sau thì cho rằng năm bộ lần lượt phân chia. Thuyết trước thì nói bộ Độc Tử, thuộc một trong năm bộ,  Tăng Kỳ chẳng được đề cập vào. Thuyết sau nói bộ Độc Tử đã lạc mất, nên tính thêm bộ Tăng Kỳ vào để đủ số năm bộ. Hai luận thuyết trên chưa xác định rõ ràng, lấy lý mà suy thì lý của năm bộ không cùng một thời và cũng không phân chia. Hơn nữa, kinh Luật của bộ Độc Tử không truyền sang nước Trung Hoa. Do đó ta có thể biết rằng bộ đó không có lưu truyền lại đời, nghĩ rằng nên căn cứ thuyết sau là sự thật. Sở dĩ nói năm bộ chia làm năm màu y chính là năm hoại sắc, chẳng phải là năm sắc chính vậy.

Có kinh ngụy tạo tên là Di Giáo Tam Muội kinh, nói rằng: “La Tuần dụ khi đi khất thực1 trở về tay không. Phật biết túc nhân, bèn sai Tăng đem Luật chia làm năm bộ, y phục cũng chia làm năm màu, khiến cho hằng ngày tùy theo mỗi một bộ trong khi đi khất thực liền được nhiều thức ăn”. Đây toàn là những lời ngụy tạo, Chuyện La Tuần Dụ chính là do Phật huyền ký, chẳng phải câu chuyện khi Phật còn ở đời. Phương chi nói rằng Phật bảo Tăng chia Luật ra làm năm bộ, màu y cũng chia làm năm. Như vậy Phật là người làm loạn đầu tiên rồi vậy, thật là sai lầm quá lắm. Bậc trí nên xem trong quyển Xá Lợi Phất Vấn Kinh sẽ tự biết vậy.

Xá Lợi Phất bạch: “Chánh pháp của Như Lai làm sao chỉ trong thời gian ngắn mà bị phân tán như thế. Đã mất bổn vị thì làm sao vâng giữ?”. Phật dạy: “Pháp vị của bộ Ma Ha Tăng Kỳ là thuần chánh, ngoài ra trong các bộ khác như thêm nước vào cam lộ, chư thiên khi uống thì chỉ uống cam lộ, còn nước lại chừa lại. Nhưng ở nhơn gian khi uống, thì  uống cả cam lộ lẫn nước, vì vậy mà có khi tiêu trừ tật bệnh, có khi gây thêm bệnh duyên. Việc đọc tụng cũng lại như vậy, người nhiều trí huệ, biết điều nào nên lấy, nên bỏ, còn những kẻ ngu si thì không thể phân biệt”.

 

TAM QUI Y

Quy y nghĩa là quay trở về, do vì xưa kia theo con dường tà vạy trái với chánh pháp, trôi dạt trong sáu nẻo, nay biết đó là điều quấy, liền xoay tà tâm kia trở về chánh đạo, do đó mới lập ra pháp tam quy. Nhất định cần phải dốc lòng quay về nương tựa, không nên lơ là.

Quy y Phật rồi thà bỏ thân mạng, trọn đời không quy y Tự Tại Thiên.

Quy y Pháp rồi thà bỏ thân mạng, trọn đời không quy y với điển tịch ngoại đạo.

Quy y Tăng rồi thà bỏ thân mạng, trọn đời không quy y với chúng tà ma ngoại đạo.

Nếu không biết như thế thì không gọi là quy y. Pháp tam quy này có năm cấp bậc không đồng nhau:

  1. Phiên tà tam quy: Chính là người ở thế tục mới biết qui hướng.
  2. Ngũ giới tam quy: Chính là người ở thế tục thọ trì năm giới cấm.
  3. Bát giới tam quy: Chính là người ở thế tục thọ trì tám giới cấm.
  4. Thập giới tam quy: Chính là người mới xuất gia làm Sa Di.
  5. Bồ Tát tam quy: Chính là người phát tâm thọ giới Bồ Tát.

Lúc ban đầu tự mình bỏ trần tục, dốc lòng theo đạo, điều chính yếu là phải nương tựa Tam bảo.

Tam Bảo cũng có nhiều bậc:

 1. Hóa tướng tam bảo: Thân vàng của Như lai một trượng sáu là Phật bảo; Bốn đế, mười hai nhơn duyên là pháp bảo; Thanh Văn, Duyên  Giác và các Thánh Hiền là Tăng bảo. Đây chính là nơi nương tựa của hàng nhị thừa.

 2. Biệt tướng Tam bảo: Là ba thân pháp, báo, hóa là Phật bảo; mười hai bộ kinh là Pháp bảo; Thánh hiền ba thừa là Tăng bảo. Đây là chỗ nương tựa của hàng đại thừa.

 3. Nhất thể Tam bảo: Rõ biết chơn như là Phật bảo; thể hiện được tất cả những khuôn phép hộ trì là Pháp bảo; sự lý hòa hợp là Tăng bảo. Đây chính là thật thể tam bảo của hai bậc Tam bảo trước.

  4. Trụ trì Tam bảo: Tạc tượng, vẽ hình là Phật bảo; tất cả kinh điển là Pháp bảo; cạo tóc mặc y là Tăng bảo. Đây chính là nơi gởi gắm của ba bậc trước, để lưu thông mãi mãi đến sau này vậy. Tuy có sự bất đồng về đại thừa, tiểu thừa, quyền thật, nhưng hễ quy y rồi thì đều là cửa ngõ chơn chánh để vào đạo, là nhơn duyên của sự giác ngộ, công đức thù thắng không thể nghĩ bàn.

Kinh Thiện Sanh chép: “Nếu người nào thọ trì ba pháp quy y sẽ được quả báo không thể cùng tận, như bốn kho báu lớn, nhơn dân cả nước vận chuyển ra suốt bảy năm cũng không hết. Người thọ tam quy phước đức lại hơn thế, không thể tính kể.

Kinh So Sánh Công Đức chép: “Có người suốt đời cúng dường hàng nhị thừa khắp trong bốn châu thiên hạ, cho đến xây tháp, vẫn không bằng người nam người nữ nói như thế này: “Con…. quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng…” được công đức không thể nghĩ bàn, do vì trong các loại phước điền, tam bảo là phước điền tối thắng”.

Lại chép: “Nếu có các đức Như Lai khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, nhiều như lúa mè, tre lau. Người nào cúng dường tứ sự suốt trong hai vạn năm. Sau khi chư Phật diệt độ, xây dựng các tháp báu, lại dùng hương hoa cúng dường, phước ấy tuy nhiều, nhưng không bằng công đức người đem lòng thanh tịnh quy y Phật, Pháp, Tăng Tam bảo”.

Kinh Mộc Hoạn Tử chép: “Vua Ba Lưu Ly bạch Phật: Trong  nước con thường xảy ra hỏa hoạn khiến con rất lo nhọc, cúi xin Thế Tôn ban cho con pháp cốt yếu dễ tu hành. Phật bảo vua rằng: Nếu muốn diệt trừ được phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng thì nên xâu 108 hạt của trái cây mộc hoạn tử thường đem theo bên mình, trong lúc đi đứng nằm ngồi, luôn luôn nhất tâm không tán loạn, xưng niệm Phật, Pháp, Tăng rồi thì lần qua một hạt, như thế lần lượt đến số hoặc 10, 20, 100, 1000, cho đến 100 ngàn vạn ức. Nếu niệm đủ 20 vạn biến, thì thân tâm không tán loạn, không có các siểm khúc… khi bỏ thân mạng được sanh lên cõi trời Diệm Ma thứ ba. Nếu niệm đủ 100 vạn biến sẽ được đoạn trừ 108 nghiệp kết sử phiền não, thế mới gọi là lội ngược dòng sanh tử, đạt thẳng đến bến Niết Bàn, dứt trừ gốc rễ phiền não, chứng được quả mầu vô thượng.

Phật lại bảo vua: Tỳ kheo Sa Đấu, do xưng tụng hồng danh tam bảo, trải qua 10 năm bèn chứng được quả Tư  Đà Hàm, rồi theo thứ lớp tu tập đạo hạnh, nay đang làm vị Bích Chi Phật ở thế giới Phổ Hương”.

Kinh Chiết Phục La Hán chép: “Xưa kia có vị trời Đao Lợi biết thọ mạng sắp hết, năm tướng suy hiện, ông quán xét sau khi mạng chung sẽ đọa vào thai heo, rồi buồn bã không vui. Có vị trời mách: Bây giờ thì chỉ có Phật mới có thể cứu thoát tội báo của ông thôi! Do đó, ông liền đến chỗ Phật, làm lễ bạch Phật. Phật bảo: Muốn thoát khỏi thai heo phải nên tụng pháp tam quy. Ông liền vâng theo lời Phật dạy, sớm tối tự quy y, bảy ngày sau bèn thọ chung, sanh làm con của ông trưởng giả nước Duy Da Ly, gặp Xá Lợi Phất, thỉnh Phật thuyết pháp liền đắc A Duy Việt trí”.

Kinh Đại Phương Tiện chép: “Lấy tam bảo làm chỗ qui hướng tức là lấy sự cứu hộ làm nghĩa. Ví như người mắc tội với vua, trốn đến nước khác để cầu sự giúp đỡ. Vua khác bảo rằng: Ngươi đã đến đây thì đừng sợ hãi, nhưng không được ra khỏi nước ta, chẳng nên trái lời ta dạy nhất định sẽ được cứu hộ. Chúng sanh cũng vậy, hệ thuộc nơi ma, có tội sanh tử nên qui hướng tam bảo để được cứu hộ. Nếu thành tâm quy y, lại không theo nẻo khác, chẳng trái lời Phật dạy thì những ma vương tà ác kia chẳng làm gì được”.

Người thọ tam quy cũng gọi là Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Thượng phẩm quy y là tâm khế họp ở một thể tánh, tam bảo và các giới tự nhiên đầy đủ; trung phẩm quy y là phải như tỳ kheo Sa Đấu, trì tụng hồng danh tam bảo, hoặc một danh hiệu Phật, lâu ngày không thoái chuyển thì được thành thánh quả; hạ phẩm quy y là còn ăn ngũ tịnh nhục, không làm bạn với những kẻ tà ác như: Buôn thịt, bán rượu, ngục tốt, kỹ nữ… chẳng nên quan hệ qua lại. Vào sáu ngày trai, ba tháng trai, cũng phải đình chỉ việc uống rượu, ăn thịt, ăn ngũ tân. Hành trì như thế, thì ở hội ban đầu của Phật Di Lặc liền được giải thoát.

Ngũ tịnh nhục là:

  1. Không vì mình giết.
  2. Không thấy giết.
  3. Không nghe giết.
  4. Vật tự chết.
  5. Chim thú ăn còn thừa.

Ba tháng trai là tháng giêng, tháng năm và tháng chín. Chính là những tháng mà Tỳ Sa Môn Thiên Vương chấn giữ Nam Thiệm Bộ Châu này.

Sáu ngày trai là mồng tám, hai mươi ba, sứ giả của thiên vương đi tuần tra nhơn gian; mười bốn, hai mươi chín là thái tử của thiên vương tuần tra nhơn gian; rằm, ba mươi là thiên vương đích thân đi tuần tra nhơn gian.

NGŨ GIỚI 

Ngũ giới là:

  1. Không sát sanh.
  2. Không trộm cắp.
  3. Không tà dâm.
  4. Không nói dối.
  5. Không uống rượu.

Bốn giới trước, pháp ở thế gian và pháp của chuyển luân thánh vương cũng đều không chấp nhận, chỉ một giới sau là riêng Phật ngăn cấm. Vì rượu làm loạn tâm, tăng trưởng sự buông lung, bốn giới trước cũng do đó mà tan vỡ, cho nên Phật mới riêng ngăn cấm vậy. Giới này tướng tuy dón gọn, nhưng có phạm vi rất sâu rộng, nếu có ai nương theo thọ trì thì công đức khó lường. Người giữ gìn thượng phẩm thì được thánh đạo, giữ gìn trung phẩm thì được thiên đạo, giữ gìn hạ phẩm thì được nhơn đạo.

Lại nữa, năm giới tuy hạn cuộc cho người tại gia nhưng thông suốt đến người xuất gia, vì giới này là nền tảng của giới sa di và tỳ kheo, cũng là gốc rễ của giới Bồ tát. Nếu có ai tinh tấn thọ trì, suy rộng ra thì không việc gì không nhiếp phục, không cảnh giới nào không đạt đến. Do đó, người lãnh thọ chẳng nên xem thường.

Nếu người thọ trì ba pháp quy y rồi, thọ một giới gọi là được một phần Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di; thọ hai giới gọi là được ít phần; thọ ba, bốn giới gọi là được nhiều phần; thọ năm giới thì gọi là được trọn phần.

Lại tùy theo ý của mình cảm thọ sự an lạc, đều được phước báu thù thắng, trọn thành Phật quả, nếu ai không thọ trì qui giới thì sẽ đọa lạc trong ba đường, dứt tuyệt nẻo nhơn thiên.

Kinh Ngũ Giới Oai Nghi chép: “Phật sắp Niết Bàn, liền bảo bốn đại Thanh Văn và sáu Ứng Chơn (A La Hán) rằng: Sau khi ta diệt độ, hai chúng tại gia tùy theo mình có khả năng nhiều ít mà thọ trì những giới trên, hoặc tạo những đồ dùng trong sinh hoạt như: Phòng xá, giường nệm, y phục, đồ ăn uống, tất cả đều hợp với lẽ đạo, cúng dường bốn phương tăng và các hiền thánh, các ông phải nên nhận thỉnh, nếu không nhận thì mắc tội. Do đây mà xem xét, các bậc hiền thánh không cách xa, có cảm thì tất nhiên ứng hiện”.

Kinh Di Lặc vấn chép: “Năm giới gọi là năm đại thí, nghĩa là nhiếp thủ vô lượng chúng sanh, thành tựu sự an lạc cho vô lượng chúng sanh để tăng trưởng các món công đức”.

Người thọ trì năm giới có thể được thọ trong vòng năm ngày, mười ngày, một năm, hai năm, tùy ý thọ thời gian bao nhiêu cũng được! Sau khi thọ năm giới, nếu  không có khả năng giữ gìn trọn vẹn thì có thể được trả lại bất kỳ giới nào. Chỉ cần đến trước bổn sư, hoặc trước tỳ kheo thanh tịnh nói rằng: “Con tên là… từ nay không thọ trì giới…”. Nói như vậy ba lần, gọi là trả lại giới pháp.

Người muốn thọ năm giới, trước hết cần phải không ăn thịt. Ở trong các kinh, Phật nói vô lượng nhơn duyên, quở trách và cấm ngăn việc ăn thịt. Bởi vì ăn thịt chúng sanh làm tổn thương đến lòng từ bi, liền bị ma quân thu nhiếp, huống chi ăn từng thân phần của loài vật, chẳng phải là điều  loài vật mong muốn, do vậy mà trở thành nghiệp trộm, cũng thành nợ nần, theo lý nhất định phải đền trả, đó là nhân súc sanh vậy.

Phàm người thọ tam quy ngũ giới, cần phải phát nguyện, như trong luật chỉ dạy, bạch rằng: “Nguyện đem công đức quy giới này, không đọa vào ác thú, tám nạn biên địa, công đức trì ngũ giới này nhiếp thủ tất cả những nghiệp của chúng sanh. Có bao nhiêu công đức đều hồi hướng cho tất cả, khiến được thành đạo vô thượng chánh chơn. Cũng khiến cho tương lai được ở trong ba hội của Phật Di Lặc, thoát khỏi sanh lão bệnh tử”.

Nếu như chỉ phát nguyện hồi hướng về Tây Phương cũng được.

Kinh Ưu Bà Tắc giới chép: “Nếu có ai sau khi thọ quy giới, vì để giữ gìn nhà cửa và thân mạng mà cúng tế quỷ thần, thì không mất giới. Còn ai dốc lòng lễ bái ngoại đạo quỷ thần mới gọi là mất giới. Giả như, có làm việc cúng tế thì không được sát sanh”.

Năm giới gồm nhiếp với mười thiện nghiệp, ba giới sát đạo dâm đối nhiếp nơi thân, về việc cứu hộ chúng sanh, bố thí, phạm hạnh. Một giới không nói dối, đối nhiếp nơi miệng, về lời thành thật, lời chất trực, lời hòa hợp, lời nhu nhuyến. Một giới không uống rượu đối nhiếp nơi ý, về pháp quán bất tịnh, quán từ bi, quán nhân duyên.

Tuy nhiên, riêng Vĩnh Giác nầy  thì cho rằng ý  ba nhiếp đều ở ngay một giới uống rượu vậy. Năm giới tuy chế ngăn thân, khẩu. Nhưng thực ra thân khẩu mà phạm, hẳn nhiên là do ý ba nhiếp phát khởi. Nếu chỉ ngăn thân khẩu thì chẳng phải là người khéo giữ năm giới, người trì giới nên biết rõ.

Năm giới liên quan với ngũ thường:

Không sát sanh liên quan đến Nhân.

Không trộm cắp liên quan đến Nghĩa.

Không tà dâm liên quan đến Lễ.

Không nói dối liên quan đến Tín.

Không uống rượu liên quan đến Trí.

Kinh Thiện Sanh chép: “Nếu có kẻ thiện nam tín nữ nào bố thí cho chúng sanh khắp cả bốn châu thiên hạ, cúng dường bốn món, suốt 100 năm không bằng công đức giữ gìn năm giới trong một ngày một đêm”.

Đại trí độ luận chép: “Nếu có ai xả bỏ giới này, dù có ở rừng núi tu khổ hạnh, ăn rau quả uống thuốc, khác gì loài cầm thú. Nếu có người tuy ở nhà cao điện lớn, thích mặc áo đẹp,  ăn thức ăn ngon mà dốc lòng trì giới thì được sanh về thắng thiện xứ và thành tựu đạo quả.

BÁT QUAN TRAI

Bát quan trai tổng cộng có 9 chi:

  1. Không sát sanh.
  2. Không trộm cắp.
  3. Không tà dâm.
  4. Không nói dối.
  5. Không uống rượu.
  6. Không đeo tràng hoa và thoa sức dầu thơm vào mình.
  7. Không ca múa hát xướng và đến xem nghe.
  8. Không ngồi trên giường cao rộng.
  9. Không ăn phi thời.

Tám chi trước gọi là quan, ý nói đó là cửa ngõ đóng chặt 8 điều ác, khiến cho các lỗi lầm không sanh khởi. Còn một chi sau gọi là trai, ý nói qua giờ ngọ thì không ăn, đồng với pháp ăn của chư Phật. Hai chúng tại gia nếu trong ba tháng lành, sáu ngày trai và lúc sanh nhật, ngày húy kỵ cha mẹ, ngày làm các việc lành, nên đến trong Tăng cầu thọ giới này. Nếu không có người truyền thì chỉ tâm niệm miệng nói cũng được thành pháp thọ.

Luận Câu Xá chép: “Nếu trước có mống ý sẽ thọ vào ngày trai, dù sau khi ăn cũng được thọ, người thọ giới phải dốc lòng chắp tay nói theo lời người truyền giới, chớ nên nói trước nói sau, nếu trái thì không thành”.

Luận Thành Thật chép: “Năm giới, tám giới tùy theo ngày tháng dài ngắn hoặc một tháng, một năm, cho đến nửa ngày nửa đêm, thọ nhiều thọ ít đều được”.

Luận Tát Bà Đa chép: “Nếu người thọ giới nên nói một ngày, một đêm… nói cho dứt khoát rõ ràng, chớ khiến cho lẫn lộn với giới tướng trọn đời”.

Kinh Tăng Nhất A Hàm chép: “Nếu người thọ tám giới trước phải sám  hối tội lỗi rồi sau mới lãnh thọ”.

Kinh A Hàm chép: “Nếu có người nào ở trong sáu ngày trai, một ngày một đêm vâng giữ tám giới, thì phước đức không thể tính kể”.

Luận chép: “Nếu có người tại gia, kẻ nam người nữ trọn đời thọ trì, cuối cùng sẽ được giác ngộ, cho đến một ngày một đêm thọ trì tám giới thì công đức liền vượt trội hơn người suốt đời giữ năm giới. Vì cớ sao? Vì giữ được nhiều giới vậy”.

Kinh Bồ Tát Xử Thai chép: “Tám giới quan trai là cha mẹ của chư Phật”.

Luận Trí Độ chép: “Thời kiếp sơ thánh nhơn dạy giữ gìn trai giới, tu hành nghiệp lành, để lánh những điều hung ác, suốt một ngày không ăn là trai. Sau khi Phật xuất thế dạy người giữ tám giới, qua giờ ngọ không ăn, công đức đó đưa người đạt đến diệu quả Niết Bàn”.

Giới này tuy tạm thời nhưng có công đức rất lớn, do vì mỗi giới đều nói như chư Phật, thì chẳng phải năm giới có thể sánh vậy. Cho nên các kinh luận có chỗ nói nhất định sẽ được giác ngộ, có chỗ nói là cha mẹ của chư Phật, có chỗ nói đưa người đến diệu quả Niết Bàn, người thọ trì nên biết ý này.

ƯU BÀ TẮC GIỚI

Giới này chép ra từ Ưu Bà Tắc giới kinh, cũng gọi là Bồ tát giới, gồm thâu ở trong tại gia Bồ Tát Phạm Võng. Giới pháp này được chép ra từ Đại Thừa. Trên coi như là Phạm Võng cố nhiên là khó rõ ràng, dưới coi là năm giới thì thật là cao xa dịu vợi vậy.

Nếu ai muốn thọ giới này, nên khiến cho họ suốt sáu tháng phải thân cận thừa sự các bậc xuất gia, các bậc trí. Rồi sau mới cần cầu hai mươi vị Tăng hòa họp, tác bạch yết ma cho họ thọ giới Ưu Bà Tắc.

* Sáu trọng tội của giới Ưu Bà Tắc:

  1. Giới sát sanh: trên từ trời, người; dưới đến loài kiến.
  2. Giới trộm cắp: nhẫn đến một tiền.
  3. Giới nói dối: nói ta được pháp quán bất tịnh, được quả A Na Hàm.
  4. Giới tà dâm.
  5. Giới  nói lỗi của bốn chúng.
  6. Giới bán rượu.

* Hai mươi tám tội khinh của giới Ưu Bà Tắc:

1/ Giới không cúng dường cha mẹ, sư  trưởng.

2/ Giới đam mê uống rượu.

3/ Giới có tâm ác không chăm sóc người bệnh khổ.

4/ Giới có người đến xin không thể cho ít phần, đuổi họ trở về không.

5/ Giới thấy bốn chúng không đón tiếp lễ bái thăm hỏi.

6/ Giới thấy bốn chúng hủy phạm những giới đã thọ, sanh lòng kiêu mạn.

7/ Giới  sáu ngày trai trong tháng, không thọ tám giới cúng dường Tam bảo.

8/ Giới có chỗ giảng pháp trong phạm vi 400 dặm, không đến để nghe.

9/ Giới nhận ngọa cụ, sàng tòa của chiêu đề Tăng.

10/ Giới nghi nước có trùng mà cố uống.

11/ Giới chỗ hiểm nạn đi một mình không có bạn.

12/ Giới ngủ một mình ở chùa ni.

13/ Giới vì tài mạng mà đánh mắng nô tỳ, tôi tớ người ngoài.

14/ Giới đem thức ăn dư thí cho bốn chúng.

15/ Giới nuôi mèo chồn.

16/ Giới nuôi những loài thú như voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, lừa…

17/ Không được chứa Tăng Già Lê y bát tích tượng dư.

18/ Nếu cần làm ruộng mà không tìm nơi nước sạch và chỗ đất liền.

19/ Vật thỏa thuận giá xong, bỏ  xấu đi mua tốt, khi đong lường cân vật, không công bình.

20/ Giới hành dục không đúng thời, đúng chỗ.

21/ Giới lừa dối trốn thuế quan.

22/ Giới phạm pháp của Nhà nước.

23/ Giới đươc lúa mới, quả dưa, rau, củ, không đem cúng tam bảo trước, mà tự thọ dùng.

24/ Giới Tăng không cho nói pháp, tán thán bèn tự bàn nói.

25/ Giới trên đường đi trước Sa di, Tỳ kheo.

26/ Giới dâng thức ăn trong Tăng, hễ có tâm thiên về vị thầy nào bèn chọn lựa thức ăn ngon, quá phần để cúng.

27/ Giới nuôi tằm.

28/ Giới trên đường đi gặp người bệnh không chăm sóc vì họ làm phương tiện, ở nơi đó mà phó chúc.

Kinh chép: “Giới Ưu BàTắc không thể nghĩ bàn vì cớ sao? Người thọ giới này rồi, tuy thọ ngũ dục nhưng không thể trở ngại quả Tu Đà Hoàn đến A Na Hàm, thế cho nên gọi là không thể nghĩ bàn”.

Lại nói: “Giới Ưu Bà Tắc gọi là Anh Lạc, gọi là trang nghiêm, hương thơm vi diệu xông ướp khắp nơi, ngăn các pháp bất thiện, là pháp luật tốt, tức là kho báu mầu nhiệm vô thượng, là dòng họ bậc thượng ở nơi tịch tĩnh, là vị cam lồ sanh ra thiện pháp, ngay trong lúc phát tâm đó còn được vô lượng lợi ích, huống chi lại nhất tâm thọ trì không hủy phạm”.

Kinh chép: Có bốn pháp không nên làm:

– Nhân duyên tham không nên luống dối làm.

– Nhân duyên sân không nên luống dối làm.

– Nhân duyên si không nên luống dối làm.

– Nhân duyên sợ hãi không nên luống dối làm.

Có 2 việc không nên làm:

1/ Đánh sưu bồ, cờ vây, cờ lục bát.

2/ Các thứ ca múa kỹ nhạc.

Có 4 hạng người không nên thân cận:

1/ Cờ bạc.

2/ Uống ruợu.

3/ Dối trá.

4/ Bán ruợu.

Có 4 hạng người ác thường nên xa lìa:

1/ Ưa nói lỗi người.

2/ Ưa nói tà kiến.

3/ Miệng thì mềm mỏng, tâm thì ác độc.

4/ Nói nhiều làm ít.

GIỚI SA DI

Sa Di Trung Hoa dịch là Cần Sách, cũng gọi là Tức từ, là tên gọi dành cho người mới nhập đạo. Từ bảy tuổi đến mười ba tuổi gọi là Khu Ô Sa Di; từ mười bốn tuổi đến mười chín tuổi gọi là Ứng Pháp Sa Di. Ứng Pháp lại có hai: Chưa thọ mười giới gọi là Hình Đồng Sa Di, đã thọ mười giới gọi là Pháp Đồng Sa Di. Từ hai mươi tuổi trở lên mà chưa thọ giới gọi là danh tự Sa Di, từ bảy mươi tuổi trở lên không cho thọ cụ giới, gọi là lão Sa Di. Mười giới của Sa Di là:

1/ Suốt đời không được sát sanh.

Trên từ La Hán, sư Tăng, cha mẹ, dưới đến loài bò bay cựa động, hễ loài có mạng sống thì không được cố giết, hoặc tự giết, hoặc bảo người giết, hoặc thấy giết mà vui theo, đều phạm tội sát sanh. Nếu vì nhầm lẫn làm tổn thương thì không phạm.

2/ Suốt đời không được trộm cắp.

Vật quý như vàng bạc, cho đến cây kim ngọn cỏ, nếu người khác không cho thì không được lấy, hoặc đọat lấy, hoặc trộm lấy, hoặc dối lấy, cho đến trốn thuế dối đò… đều phạm tội trộm.

3/ Suốt đời không được dâm dục.

Hễ phạm với tất cả nam nữ ở thế gian cho đến loài súc sanh đều gọi là phá giới.

4/ Suốt đời không nói vọng.

Nói vọng có bốn:

1/ Nói dối nghĩa là thấy nói không thấy, không thấy nói thấy.

2/  Nói thêu dệt nghĩa là trau chuốt lời nói cho hoa mỹ, làm mê hoặc tâm mắt người.

3/ Nói lời ác nghĩa là nói lời thô ác mắng nhiếc.

4/ Nói hai lưỡi nghĩa là tới đằng này nói xấu đằng kia, tới đằng kia nói xấu đằng này, xoi mói xúi dục khởi lên tranh đấu… cho đến trước khen sau chê, trước mặt nói phải, sau lưng nói trái, nói mình chứng chứng quả, nói bày chuyện dở xấu của người, đều gọi là vọng ngữ. Nếu chính tự mình nói chứng thánh, được pháp thượng nhơn thì tội ấy rất nặng, còn phương tiện tạm nói vì để cứu người thì không phạm.

5/ Suốt đời không uống rượu.

Tất cả các loại rượu đều không được uống, cho đến không được nếm rượu, ngửi rượu, đem rượu cho người uống, nếu dùng để trị bệnh thì không phạm.

6/ Suốt đời không được đeo tràng hoa và sức dầu thơm vào mình.

Tràng hoa: là người ở Tây Vực kết hoa làm tràng để trang điểm trên thân mình. Trung Hoa thì dùng loại nhung gấm thêu thùa, vàng báu may thành khăn mũ để trang sức. Dầu thơm thoa thân mình là những người qúi phái ở Tây Vực dùng bột hương để tẩm vào y phục, thoa vào thân. Lại dùng hoa ướp dầu thoa vào thân. Quốc độ này (Trung Hoa) thì dùng các loại hương đeo, hương xông, son phấn. Người xuất gia mặc y hoại sắc đâu nên làm như thế.

7/ Suốt đời không được ca múa hát xướng và đến xem nghe.

Ca là miệng thốt ra âm thanh. Múa là thân làm trò vui đùa múa máy. Hát xướng là không được sử dụng các loại đàn cầm, đàn sắt, ống sáo, cũng không được xem nghe người khác làm, đến như các loại cờ vây, cờ lục bát, ném sưu bồ, thảy đều không nên.

8/ Suốt đời không ngồi giường cao rộng lớn.

Phật dạy làm giường dây cao không quá tám ngón tay của Đức Như Lai, nếu quá thì phạm, cho đến chạm trỗ, sơn màu lòe loẹt và cũng không nên dùng các loại tơ lụa làm màn nệm.

9/ Suốt đời không ăn phi thời.

Phi thời là quá giờ ngọ, chẳng phải là thời gian ăn của chúng Tăng vậy. Kinh chép: “Chư Thiên ăn buổi sáng, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỉ ăn ban đêm”. Phàm làm tăng sĩ nên học theo Phật, đoạn trừ nhân sáu nẻo, cho nên quá ngọ không được ăn. Thời nay, cơ thể người yếu đuối, hoặc bệnh hoạn, đa phần không thể thọ trì được, cần phải tự biết hổ thẹn, không nên ăn nhiều, ăn ngon, không an lòng để ăn, phải như thế mới được vậy.

10/ Suốt đời không được cầm giữ sanh tượng vàng bạc, vật báu.

Tiếng Phạn gọi là sanh tượng, Trung Hoa dịch là vàng bạc. Hoa, Phạn đều nêu bày cho nên gọi là sanh tượng vàng bạc. Vật báu là bảy món báu. Khi Phật còn tại thế, chư Tăng không được cầm giữ, phần nhiều sai tịnh nhơn giữ gìn. Thời nay không được như thế, cần phải tự biết mà sanh lòng xấu hổ, không mưu cầu, không chứa để, như thế mới được.

Có 12 điều Sa Di không được phạm:

1/ Không phân biệt y.

2/ Lìa y ngủ.

3/ Tiếp xúc với lửa.

4/ Ăn đủ rồi lại ăn nữa.

5/ Hại mầm sống.

6/ Trên cỏ tốt đổ vật bất tịnh.

7/ Luôn luôn ở trên cây cao.

8/ Tiếp xúc với vật báu.

9/ Ăn thức ăn cách đêm.

10/ Làm hoại đất.

11/ Không nhận thức ăn.

12/ Làm tổn hại mầm sống.

Kinh Thỉnh Tăng Phước Điền chép:

Có 5 đức người làm Sa Di nên biết:

1/ Phát tâm xuất gia, quí mến thánh đạo.

2/ Hủy bỏ hình đẹp, mặc đúng pháp phục.

3/ Cắt đứt thân ái, chẳng còn thân sơ.

4/ Xem thường thân mạng, tôn sùng chánh pháp.

5/ Chí cầu đại thừa, cứu độ chúng sanh.

Luật Ma Ha Tăng Kỳ phải vì mười số.

1/ Là nhất thiết chúng sanh đều nương theo ăn uống.

2/ Danh và sắc.

3/ Ngứa, đau, tưởng.

4/ Bốn chân đế.

5/ Năm ấm.

6/ Sáu nhập.

7/ Bảy giác chi.

8/ Tám thánh đạo.

9/ Chín cõi chúng sanh.

10/ Mười nhất thiết nhập.

Đây là kể ra con số, còn việc giải thích tướng đối trị hiển chánh  tất cả đều rộng như trong bộ Hành Sự Sớ Sao đã nói.

Sa Di phạm bốn giới trọng trước đều mắc tội Đột Kiết La diệt tẩn, khởi ác kiến ba lần can gián, nếu không xả cũng diệt tẩn, ngoài ra phạm những lỗi khác đều sám hối tội Đột Kiết La.

Sa Di Ni kết tội giống với Sa Di, nay không phiền kể ra.

GIỚI THỨC XOA MA NA

Thức Xoa Ma Na Trung Hoa dịch là Học giới nữ. Phàm người làm Sa Di Ni muốn tiến cụ cần phải trải hai năm học giới. Nếu là đồng nữ mười tám tuổi thì cho hai năm học giới, hoặc là người nữ đã có chồng năm mười tuổi thì cũng cho hai  năm học giới. Hai  năm học giới  là để cho biết người nữ đó có thai hay không. Cho nên nói rằng hai năm để thanh tịnh thân mình và sáu pháp làm sạch tâm.

Thức Xoa Ma Na có ba điều nên học:

1/ Học bốn giới trọng tức dâm, sát, đạo, vọng.

2/ Học sáu pháp nghĩa là: tâm nhiễm ô xúc chạm với thân người nam, trộm bốn tiền trở xuống, giết súc sanh, tiểu vọng ngữ, ăn phi thời, uống rượu.

3/ Học các giới và các oai nghi của Ni, chỉ trừ giới ăn quá ngọ của đại ni và tự nhận thức ăn để ăn.

Phạm bốn giới trọng là phải diệt tẩn, phạm sáu pháp thì phải sám hối tội Đột Kiết La, phải cho hai năm học giới trở lại, hễ phạm các giới của đại Ni đều mắc tội Đột Kiết La.

TỲ KHEO GIỚI

Tỳ kheo còn gọi là Bí Sô, Trung Hoa dịch là khất sĩ. Ý nói trên xin giáo pháp của chư Phật để nuôi pháp thân huệ mạng, dưới xin thức ăn của chúng sanh để nuôi dưỡng sắc thân. Lại gọi là phá ác, nghĩa là hay phá trừ được hai hoặc kiến tư  vậy. Lại gọi là bố ma, nghĩa là tỳ kheo ba lần làm chấn động cung điện của ma vương vậy. Sa Di đúng hai mươi tuổi muốn cầu thọ cụ túc giới thì phải xét hỏi, nếu không có các già nạn, sắm cho đủ y bát, thỉnh thập sư. Trong thập sư, thỉnh một người làm thầy yết ma, một người làm thầy giáo thọ và Hòa thượng bổn sư gọi là tam sư. Còn lại bảy vị làm tôn chứng sư. Nhóm họp chúng Tăng đăng đàn xét hỏi già nạn rồi sau mới bạch tứ  yết ma trao cho giới cụ túc, kế đến nói cho nghe về danh tướng của bốn giới trọng, và truyền pháp tứ y. Đây gọi là thành tựu như pháp.

Già nạn để thọ giới tỳ kheo có cả thảy hai mươi bảy việc.

1/ Lúc còn làm Sa Di phạm bốn tội nặng, hoặc đã từng thọ giới tỳ kheo, phạm tội nặng bị diệt tẩn, nay đến để cầu xin thọ giới thì không cho thọ.

2/ Lúc còn làm bạch y từng phá hư hạnh thanh tịnh của tỳ kheo ni, không cho thọ.

3/ Lúc còn làm bạch y, sa di, trộm nghe đại Tăng yết ma nói giới, dối trá xưng là đại Tăng, cùng Tăng làm pháp sự, cốt ý là để mưu cầu cơm áo, gọi là kẻ giặc trong Phật pháp, không cho thọ.

4/ Trước từ trong ngoại đạo đến thọ cụ túc giới, sau xả giới trở về ngoại đạo, nay lại đến để xin thọ Phật giới, gọi là phá nội ngoại đạo, không cho thọ.

5/ Sanh, kiền, đố, biến, bán và tự chặt, các loại bất nam, không cho thọ.

6/ Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa họp Tăng, làm thân Phật ra máu, gọi là phạm năm tội nghịch, không cho thọ.

7/ Chư Thiên, A Tu La và các loài quỉ thần biến làm người đến xin thọ giới, không cho thọ.

8/ Các súc sanh biến làm hình người đến xin thọ giới, không cho thọ.

9/ Thân có đầy đủ hai căn nam và nữ, không cho thọ.

10/ Hỏi tên hòa thượng  không đáp, hỏi tên mình cũng không đáp, không cho thọ.

11/ Chưa đủ hai mươi tuổi không cho thọ.

12/ Y bát không đủ, không cho thọ.

13/ Cha mẹ không cho đi xuất gia, không cho thọ.

14/ Vì mắc nợ người mà đến xin thọ giới, không cho thọ.

15/ Làm tôi tớ cho nhà người khác, chủ chưa cho mà đến xin thọ giới, không cho thọ.

16/ Làm quan trong triều đình có bổng lộc, có địa vị, không cho thọ.

17/ Đã bảy mươi tuổi, chẳng phải là ngôi trượng phu, không cho thọ.

18/ Thân có bệnh tật như bệnh ghẻ lở, bệnh hủi, bệnh ung thư, bệnh khô gầy, bệnh điên cuồng, không cho thọ.

Lại nữa thêm sáu căn không đủ, hình tướng quái dị xấu xa, hoặc bị các thứ bệnh xấu ác, có ảnh hưởng xấu cho pháp môn thì Phật đều không cho thọ.

        Giới cụ túc tổng cộng có 250 việc.

Ba La Di bốn pháp, Tăng Già Bà Thi Sa mười ba pháp, Bất Định hai pháp, Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề ba mươi pháp, Ba Dật Đề chín mươi  pháp, Ba La Đề Đề Xá Ni bốn pháp, điều cần nên học một trăm pháp, Diệt Tránh bảy pháp.

PHÁP TỨ Y

1/ Nương vào y phấn tảo, nếu được nhiều lợi dưỡng, đàn việt thí y, y cắt rọc  thì được thọ.

2/ Nương vào khất thực, nếu được nhiều lợi dưỡng hoặc tăng sai khất thực, đàn việt cúng thức ăn ngày mồng một, mồng tám, rằm; hoặc theo phép thọ thực thường ngày của tăng, đàn việt thỉnh cúng thức ăn thì nên nhận.

3/ Nương ở gốc cây mà ngồi, nếu được nhiều lợi dưỡng, hoặc ở phòng riêng, phòng nóc nhọn, phòng nhỏ, hang đá, hai phòng chung một cánh cửa thì được thọ.

4/ Nương vào thuốc hũ lạn, nếu được nhiều lợi dưỡng tô, du, sanh tô, mật, đường phèn được thọ.

Tỳ kheo có bốn nghĩa cụ túc:

1/ Thọ nhận cụ túc, nghĩa là bạch tứ yết ma.

2/ Tùy cụ túc, nghĩa là từ đây đến sau này luôn luôn hộ trì tất cả các giới.

3/ Hộ tha tâm cụ túc, nghĩa là một phần oai nghi đầy đủ, không bị mọi người chê gièm.

4/ Thủ giới cụ túc, nghĩa là tuy rằng tội nhỏ đi nữa cũng không phạm, nếu lỡ có phạm nên phải phát lộ.

TỲ KHEO NI GIỚI

Tỳ kheo Ni: Trung Hoa dịch là khất sĩ, Sa di ni sau hai năm học giới xong, không có các lỗi thì mới có thể tiến cụ, hòa thượng ni nên chuẩn bị đầy đủ y bát, thỉnh thập sư ni để truyền giới. Trước hết xét hỏi già nạn, bạch tứ yết ma để trao cho giới, kế đó thập sư ni đưa Sa di ni này đến đại Tăng để thỉnh Tăng trao lại giới, trong tăng cũng nhóm thập sư đăng đàn xét hỏi già nạn, bạch tứ yết ma xong, nói cho họ nghe về danh tướng của “bát kỉnh pháp”, kế đến nói cho họ pháp tứ y, đó gọi là thành tựu như pháp.

Phật dạy Ni phải thọ giới từ hai bộ Tăng Ni, sau truyền đến Trung Hoa, Ni không thể trao cho cụ giới, chỉ theo đại Tăng mà thọ. Những năm gần đây giới sư hoàn toàn không biết gì về phương pháp truyền trao, cẩu thả làm càn, để cho lẫn lộn với phép thọ của tỳ kheo, là người nữ mà thọ nam giới, dối mình gạt người, tội chẳng lớn sao?

Tỳ kheo ni có cả thảy hai mươi chín việc già nạn.

– Từng làm Sa di ni, Thức xoa ma na rồi phạm bốn tội nặng, cho đến thọ đại giới phạm tám tội trọng, hoàn tục xong, lại đến xin thọ, đây gọi là biên tội, không cho thọ.

– Lúc còn làm bạch y từng phạm tịnh hạnh của tỳ kheo, không cho thọ.

– Từng trộm nghe đại Tăng nói giới, yết ma, dối xưng là tỳ kheo ni để mưu cầu lợi dưỡng, đây gọi là vào đạo với tâm tặc, không cho thọ.

– Từng làm ngoại đạo, sau xin vào trong Tăng, xong lại trở về ngoại đạo, nay lại đến nữa, đây gọi là phá nội ngoại đạo, không cho thọ.

– Có loa, cân, cổ, giác, mạch, thuộc năm loại bất nữ, không cho thọ.

– Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa họp Tăng, làm thân Phật ra máu, đều không cho thọ.

– Có chư thiên nữ, A Tu La nữ, quỉ thần nữ biến hình mà đến thọ giới, không cho thọ.

– Có các súc sanh cái  biến làm hình người nữ đến để thọ giới, không cho thọ.

– Trong thân có đầy đủ hai căn nam và nữ, không cho thọ.

– Hỏi tên mình không đáp, hỏi tên hòa thượng cũng không đáp, dạy đến xin giới mà chẳng xin,  đều không cho thọ.

– Đồng nữ chưa đủ hai mươi tuổi, có chồng chưa đầy mười hai tuổi, không cho thọ.

– Y bát không đầy đủ, không cho thọ.

– Cha mẹ, phu chủ (chồng) không cho xuất gia, lại cố đi, không cho thọ.

– Vì thiếu nợ người mà đi, không cho thọ.

– Làm nô tỳ cho nhà người khác, chủ chưa cho mà đi, không cho thọ.

– Người nữ đã bảy mươi tuổi không thể kham thọ đại giới của Ni, không cho thọ.

– Người nữ có bệnh ghẻ lở, bệnh hủi, ung thư, bạch lại, gầy còm, điên cuồng, hai hình, hai đường họp một, nước tiểu thường rịn ra, đại tiểu tiện, nước mũi luôn luôn chảy ra, không cho thọ.

– Sáu căn không đầy đủ, tướng mạo quái lại có các thứ bệnh xấu, làm ảnh hưởng đến pháp môn, Phật đều không cho thọ.

Tỳ kheo ni có cả thảy 348 giới.

Ba La Di tám giới (dâm, trộm, sát, nói dối, xúc chạm, tâm nhiễm ô 8 việc, che giấu tội nặng của người, không thuận theo tăng khi bị cử tội).

Tăng Già Bà Thi Sa mười bảy giới.

Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề ba mươi giới.

Ba Dật Đề một trăm bảy mươi tám giới.

Ba La Đề Đề Xá Ni tám giới.

Đột Kiết La một trăm giới.

Diệt tránh bảy giới.

Ni không có pháp bất định, còn pháp tứ y hoàn toàn giống như bên đại Tăng, nay không nhọc kể ra.

Ni phải thực hành “bát kỉnh pháp”.

1/ Không được mắng chửi tỳ kheo.

2/ Không được cử tội tỳ kheo nhưng tỳ kheo được cử tội Ni.

3/ Phải theo đại Tăng thọ cụ túc giới.

4/ Phạm Tăng tàn, nửa tháng phải ở hai bộ tăng hành pháp Ma Na Đỏa.

5/ Mỗi nửa tháng phải đến trong Tăng thỉnh thầy giáo giới.

6/ Không nên an cư kết hạ ở chỗ không có Tỳ kheo.

7/ Hạ xong nên đến trong Tăng để cầu tự tứ.

8/ Ni một trăm tuổi phải lễ tỳ kheo mới thọ cụ túc.

BỒ TÁT GIỚI

Bồ tát giới tức là Bồ tát muôn hạnh, chính là con đường tiến đến giác ngộ, là đại đạo để trang nghiêm pháp thân, giới này bao gồm khắp cả 9 cõi, tột đến đời vị lai, chẳng thể dùng số để suy lường, chẳng thể dùng danh tướng để nêu bày, đại khái chia làm ba tụ:

1/ Nhiếp luật nghi giới: Đoạn tất cả các điều ác.

2/ Nhiếp thiện pháp giới: Làm tất cả việc lành.

3/ Nhiếp chúng sanh giới: Độ hết tất cả chúng sanh.

Vì hàng phàm phu mê muội, mờ tối ở việc tiến tu, mới có bộ kinh Phạm Võng này, lược nêu bày vắn tắt, khiến cho ai nấy đều biết được noi theo; song cũng như giọt nước trong đại hải mà thôi, dẫn ra để nêu bày, tùy loại mà phân tích, là ở nơi người trí vậy.

Mười tội Ba La Di trong kinh Phạm Võng.

1/ Giới sát.

2/ Giới trộm.

3/ Giới dâm.

4/ Giới nói dối.

5/ Giới bán rượu.

6/ Giới nói lỗi bốn chúng.

7/ Giới khen mình chê người.

8/ Giới bỏn xẻn thêm hủy nhục.

9/ Giới lòng giận hờn không chịu hối cải.

10/ Giới hủy báng Tam bảo.

Bốn mươi tám tội khinh trong kinh Phạm Võng.

1/ Giới không kính thầy bạn.

2/ Giới uống rượu.

3/ Giới ăn thịt.

4/ Giới ăn ngũ vị tân.

5/ Giới không dạy người sám hối tội lỗi.

6/ Giới không cúng dường thỉnh pháp.

7/ Giới biếng nhác không chịu nghe pháp.

8/ Giới bỏ đại thừa theo tiểu thừa.

9/ Giới không chăm sóc người bệnh.

10/ Giới chứa khí cụ sát sanh.

11/ Giới đi sứ cho một nước.

12/ Giới buôn bán phi pháp.

13/ Giới hủy báng.

14/ Giới châm lửa thiêu đốt.

15/ Giới dạy giáo lý tiểu thừa.

16/ Giới vì lợi dưỡng mà giảng pháp đảo lộn.

17/ Giới cậy thế lực xin cầu.

18/ Giới không hiểu mà làm thầy.

19/ Giới hai lưỡi.

20/ Giới không thực hành pháp phóng sanh.

21/ Giới vì sân hận đánh trả thù.

22/ Giới kiêu mạn không thỉnh pháp.

23/ Giới kiêu căng, ngạo mạn nói pháp tiểu thừa.

24/ Giới không tập học Phật.

25/ Giới không khéo tri chúng.

26/ Giới riêng thọ lợi dưỡng.

27/ Giới thọ biệt thỉnh.

28/ Giới biệt thỉnh Tăng.

29/ Giới nuôi sống mình bằng cách tà mạng.

30/ Giới không tôn kính thời vận tốt.

31/ Giới không thực hành pháp cứu hộ mua chuộc.

32/ Giới tổn hại chúng sanh.

33/ Giới tà nghiệp giác quán.

34/ Giới tạm nhớ nghĩ tiểu thừa.

35/ Giới không phát nguyện.

36/ Giới không phát thệ.

37/ Giới du hành ở chỗ hiểm nạn.

38/ Giới trái thứ tự tôn ty.

39/ Giới không tu phước huệ.

40/ Giới không bình đẳng truyền giới.

41/ Giới vì lợi mà làm thầy.

42/ Giới nói giới cho người ác.

43/ Giới không hổ thẹn nhận của bố thí.

44/ Giới không cúng dường kinh điển.

45/ Giới không hóa độ chúng sanh.

46/ Giới nói pháp không đúng pháp.

47/ Giới chế hạn phi pháp.

48/ Giới phá Phật pháp.

Có mười tám vật mà người thọ giới Bồ tát thường mang theo bên mình: cành dương, nước tro, ba y, bình bát, tọa cụ, tích trượng, lư hương, cái hộp, túi lọc nước, khăn tay, con dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh, luật, tượng Phật, tượng Bồ tát.

Kinh nói mười tám món này phải luôn mang theo bên mình. Nếu chẳng đủ thì phải sắm sửa đầy đủ mới gọi là Bồ tát.

Người đời nay khi thọ giới Bồ tát, chỉ chú trọng ở nơi mười tám vật cho là xong, gánh vác theo bên mình cho là xong chuyện, mà luôn có liên quan đến việc trau dồi oai nghi, đại nghĩa ấy không nên quên, phép lớn trên cầu hạ hóa, đâu chỉ có thế mà thôi ư!

Kinh Phạm Võng chép: “Chúng sanh thọ giới Phật liền vào trong ngôi vị Phật. Nếu không thọ giới này, kẻ ngoại đạo tà kiến, súc sanh cùng thảo mộc bình đẳng không có khác”.

Thế mới biết, người không thọ giới Bồ tát, dù có học pháp Phật, siêng năng tu khổ hạnh, trải qua ngàn muôn kiếp cũng gọi là chúng sanh. Cho dù muốn thoát nghiệp sanh tử, phá tan nghiệp chướng, thành tựu quả bồ đề, trọn chẳng có lẽ này. Tuy có người thọ rồi hủy phạm giới, lại là đệ tử Phật; nếu như không thọ thì gọi là ngoại đạo, cho nên kinh chép: “Hoa Chiêm Bặc tuy héo nhưng vẫn thù thắng hơn các loài hoa, tỳ kheo phá các giới vẫn hơn các ngoại đạo”.

Trong tam tụ tịnh giới, người thọ giới Bồ tát này sẽ được quả báo tròn đầy Phật quả, tướng tốt vô biên, tam đạt, ngũ nhãn, thập lực vô úy, tất cả công đức thảy đều đầy đủ, ngay trong một niệm của thân này mãi đến khi thành Phật tròn đầy tám món công đức thù thắng.

 1/ Nẻo đạo thù thắng: Nên biết người thọ giới Bồ tát này giống như chim đại bàng cất cánh bay cao, có thể đến 10 vạn 9000 dặm. Bồ tát phát tâm thọ giới này vượt qua được sáu nẻo hai thừa, cũng là nẻo tắt để đi đến vô thượng Bồ Đề, ngồi ở chốn đạo tràng.

2/ Phát tâm thù thắng: Nếu có người ở trong một niệm phát lòng đại bi đại trí thọ giới Bồ tát, liền vượt qua cảnh giới nhị thừa. Xưa có Sa Di theo hầu một vị A La Hán, khi đi chợt phát tâm bồ đề, muốn thọ giới Bồ tát, vị A La Hán này lại sanh lòng cung kính, Ngài tự  mang y bát nhường đường cho Sa Di Di.

 3/ Phước điền thù thắng: Giả sử có người cúng dường những vị đại A La Hán đầy khắp cả cõi Diêm Phù Đề, không bằng cúng dường một người phát tâm thọ giới Bồ tát, do vì người kia vận tâm rộng lớn.

4/ Công đức thù thắng: Nếu có người thọ giới tiểu thừa giống như ánh sáng đom đóm chỉ có thể tự soi sáng. Người thọ giới Bồ tát giống như ánh sáng mặt trời đúng ngọ, chiếu soi khắp tất cả.

 5/ Diệt tội thù thắng: Kinh chép: Sau khi thọ giới mà phá giới vẫn còn hơn những ngoại đạo tà kiến chìm đắm mãi trong đường ác không có kỳ ra khỏi. Người phá giới, do nhờ vào oai lực của giới, dù ở trong ác đạo chịu tội vẫn nhẹ; nếu đọa trong địa ngục thì làm vua  trong địa ngục; nếu đọa trong loài súc sanh thì làm vua  trong loài súc sanh; nếu đọa vào ngạ quỉ thì làm vua  trong loài ngạ quỉ, nơi thác sanh vẫn không mất ngôi vua. Kinh chép: Có người phạm gọi là Bồ tát, vì có giới để phá. Không phạm gọi là ngoại đạo vì không có giới để phá.

 6/ Thọ thai thù thắng: Người thọ giới nếu ở trong bào thai thường được trời, rồng, thiện thần cùng ủng hộ.

7/ Thần thông thù thắng: Người thọ giới do vì oai lực trì giới nên hay khuấy nước sông thành tô lạc, biến đại địa thành vàng rồng,  ở trong một niệm vượt khỏi một ngàn đời, ở trong một ngày độ vô số chúng sanh.

 8/ Quả báo thù thắng: Người thọ giới tức là Bồ tát, sẽ sanh vào trong biển tánh liên hoa tạng, thọ thân pháp tánh, một khi chứng được chơn thường thì mãi mãi không còn thối chuyển.

Người thọ giới Bồ tát nên lấy việc phát tâm Bồ đề làm đầu, tâm Bồ đề là bốn lời thệ nguyện rộng lớn vậy. Nếu dốc lòng phát ra những lời nguyện này lại đem tâm chí thành kính ngưỡng đại giới thì sẽ phát sanh ra vô tác giới thể, đó gọi là đắc giới. Sau khi đắc giới này rồi, giả như gặp duyên phá phạm cũng tự có công đức thù thắng, cho nên nói rằng các tỳ kheo phá giới vẫn hơn các ngoại đạo. Lại nói sanh ở  nơi nào cũng không mất ngôi vua, nếu không phát tâm rộng lớn chơn thật như đây mà chỉ trông mong công đức sau khi phá, người xem thường việc cầu thọ giới thì quyết không được đắc giới, giới đã không đắc thì sau khi phá có công đức gì? Người cầu thọ giới nên biết ý này.

Giới thể này không phát thì thôi, phát tức là tánh, cho nên gọi là vô tác. Tiểu thừa nói rõ về quan điểm này, riêng có một điều thiện chế định được Phật pháp, nương nhờ vào thầy truyền thọ mà phát khởi cho đến suốt đời, hoặc nương theo định, nương theo đạo mà phát sanh, đều do tâm lực thù thắng, hễ có điều này thì sự cảm ứng phát sanh.

Thành Thật Luận chia làm nhóm phi sắc phi tâm. Luật sư phần nhiều nương vào vấn đề này để nói, nhưng chưa diễn đạt hết được ý nghĩa của nó, còn đại thừa thì nói rõ giới là thuộc nhóm sắc, ý nói đại thừa cầu mong quả vị cao tột, nương vào vị giới sư một lần truyền thọ thì mãi đến khi thành đạo bồ đề, tùy theo định, tùy theo đạo mà thề tu các điều thiện, thệ độ loài hàm thức, cũng đem tâm lực rộng lớn mà riêng mở bày giới lành làm nhân duyên cho hành giả dứt hết các điều ác.

Đại Luận chép: Cho dù có tội hay không tội, không thể giữ được giới trọn vẹn, đây là giới vượt qua chánh thể, do tâm sanh ra lời nói, từ nay thọ  trì thì dứt trừ được pháp ác của thân và miệng, đó gọi là giới, tức là vô tác vậy. Vô tác này tuy không có sắc tướng nhưng có năng trì và sở trì, có được có mất, cũng tựa như có sắc tướng, cho nên gọi là giả sắc vậy, cũng gọi là vô biên sắc.

Bộ Thọ Giới Yết Ma chép: Khi tác pháp yết ma lần đầu, mười phương giới pháp diệu thiện thảy đều chấn động. Lúc tác pháp yết ma lần thứ hai, các giới pháp diệu thiện đều nhóm ở trong hư không như mây, như lộng che trên đảnh của ngươi. Tác pháp yết ma lần thứ ba, thì các giới pháp diệu thiện này từ trên đảnh môn ngươi rót vào thân tâm, đầy đủ chánh báo, thân tâm ngươi, tức là nơi chứa nhóm vô lượng vô biên công đức.

Văn này chính là hình dung, không thể biểu hiện ra ngoài hình sắc, tuy chẳng thật có giới từ bên ngoài đến, nhưng cũng không thể gọi là ở nơi tự tâm vốn sẵn đủ, lại cũng không có gì là được và không được. Bởi do lý tuy đầy đủ nhưng phải nương nhờ vào nhơn duyên cho nên mới phát khởi vậy.

Pages: 1 2 3