A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THÍCH LUẬN
Tác giả: Tôn giả Bà Tẩu Bàn Đậu (Thế Thân)
Hán dịch: Đời Trần, Tam Tạng Chân Đế
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 13
Phẩm thứ 4: PHÂN BIỆT NGHIỆP, phần 4
Do phân biệt an lập nghiệp đạo. Trong đây nghĩa này nên nêu rõ.
Có bao nhiêu thứ nghiệp đạo cùng với cố ý kia tương ưng, cùng khởi?
Kệ nói:
Cố ý cùng cho đến
Cùng tám nghiệp đạo ác.
Giải thích: Có khi cố ý cùng với một nghiệp đạo ác cùng khởi, lìa nghiệp đạo khác, nếu tham dục v.v… khởi hiện tiền. Như người tâm không nhiễm ô, do trước đã bảo người khác tạo ra nghiệp đạo có sắc, lúc thuận theo một nghiệp đạo thành tựu.
Cùng với hai nghiệp đạo ác cùng khởi: Nghĩa là nếu người khởi tâm giận dữ khi sát sinh, hoặc tâm đã nhiễm tham dục, khi hành trộm cắp và tà dâm, hoặc nói lời không thích hợp (phi ứng ngữ).
Cùng với ba nghiệp đạo ác cùng khởi: Nghĩa là nếu người khởi tâm giận dữ đối với chúng sinh khác cùng lúc sát sinh, trộm cắp.
Nếu như vậy, vào lúc ấy trộm cắp không do tham dục tạo thành. Hoặc tâm người không khác với lúc nghiệp đạo hoàn thành, nên biết là do nghĩa quyết định ở trước. Nếu người lúc bị tham dục
v.v… cấu nhiễm, do bảo người khác, thì hai nghiệp đạo có sắc đã thành tựu.
Những nghiệp đạo như thế là cùng với ba, cùng với bốn cùng khởi. Nghĩa là nếu người có ý muốn phá bỏ sự hòa hợp của người khác, nên nói dối, nói lời xấu ác ở đây, nghiệp đạo của ý thuận theo một, nghiệp đạo của miệng có ba. Có lúc do tham dục v.v… cấu nhiễm, do khi bảo người khác, thì ba nghiệp đạo riêng đã thành tựu. Năm, sáu, bảy nghiệp đạo còn lại nên biết là hợp với nghĩa như thế.
Cùng với tám nghiệp đạo ác cùng khởi. Nghĩa là nơi sáu nghiệp đạo bảo người khác và tự mình hành tà dâm. Nếu người kia cùng một thời cùng thành, do nghĩa của nghiệp đạo ác ở đây là tột cùng.
Kệ nói: Nếu thiện cho đến mười.
Giải thích: Nếu luận về cố ý cùng với nghiệp đạo thiện tương ưng không tương ưng, cho đến được cùng với mười nghiệp đạo tương ưng là đã tạo ra thuyết chung như vậy. Vì phân biệt, lựa chọn thuyết chung ấy, nên lại tạo ra thuyết riêng.
Kệ nói: Không chung một, tám, năm.
Giải thích: Cố ý không có nghĩa cùng với một, tám, năm nghiệp đạo tương ưng. Ở đây cùng với hai tương ưng: Như lúc ở nơi năm thức thiện khởi, khi nhập định vô sắc, khi tận trí, vô sinh trí khởi. Cùng với ba tương ưng: Nghĩa là khi ý thức khởi, cùng với chánh kiến tương ưng.
Cùng với bốn tương ưng: Nghĩa là khi tâm ác, tâm vô ký khởi, chánh thọ hộ Ưu-bà-tắc và hộ Sa-di.
Cùng với sáu tương ưng: Nghĩa là vào lúc năm thức thiện khởi, thọ hai hộ trước.
Cùng với bảy tương ưng: Nghĩa là khi ý thức thiện khởi, thọ hai hộ trước, hoặc vào lúc tâm ác, hoặc tâm vô ký khởi, thọ hộ Tỳ-kheo.
Cùng với chín tương ưng: Nghĩa là lúc năm thức thiện khởi, thọ hộ Tỳ-kheo.
Nếu ý thức cùng với tận trí, vô sinh trí tương ưng, là tâm tương ưng với tận trí, vô sinh trí và cùng với định tương ưng.
Cùng với mười tương ưng: Khác với đây, ở nơi xứ khác, khi ý thức thiện khởi, thọ hộ Tỳ-kheo. Tất cả hộ định, hộ vô lưu, tương ưng với cố ý, lìa tận trí, vô sinh trí. Nếu cùng với phi hộ gồm thâu thì cũng được cùng với một nghiệp đạo tương ưng.
Nếu người khác với tâm, thọ một phần xa lìa, thì cũng được cùng với năm, tám nghiệp đạo tương ưng.
Nếu người khi ý thức thiện khởi, thì trong một lúc thọ hai phần xa lìa, hoặc thọ năm phần xa lìa.
Lại đối với đạo nào có bao nhiêu nghiệp đạo hoặc ác hoặc thiện, do hiện tiền và đắc đến đều cùng khởi? Kệ nói:
Phi ứng ngữ, ác ngữ Sân ở địa ngục, hai.
Giải thích: Ba thứ nghiệp đạo này ở nơi địa ngục do hai thứ nghĩa nên có: (1) Do hiện tiền nên có. (2) Do đắc đến nên có.
Do xót thương, khóc lóc nên có phi ứng ngữ. Do cùng nhau mạ lỵ nên có ác ngữ. Do phiền não nối tiếp đều cùng ghét bỏ nên có sân giận.
Kệ nói: Do đắc đến tham dục, tà kiến.
Giải thích: Nếu do đắc đến hữu tham ái, tà kiến, thì không do hiện tiền nên có. Vì không có trần (cảnh) đáng yêu thích, vì chứng biết quả của nghiệp. Do nghiệp hết thì chết, nên không có sát sinh. Không gồm thâu của cải và vợ, nên không có trộm cắp, tà dâm. Vì vô dụng nên không có nói dối. Vì luôn tự mình không có hòa hợp, nên không có phá ngữ.
Kệ nói: Châu Bắc ba.
Giải thích: Do đắc đến nên lời nói được nối tiếp. Tham dục, giận dữ, tà kiến, không do hiện tiền nên có. Không có ngã sở vì không có gồm thâu. Do tiếp xúc thuận hợp luôn nối tiếp. Vì không có cảnh của loại giận dữ, vì không có ý ác.
Kệ nói: Thứ bảy kia tự có.
Giải thích: Phi ứng ngữ nơi kẻ kia do hiện tiền nên có. Vì sao? Vì người kia có lúc khởi tâm nhiễm ô, ca hát, nhưng không có ý ác, nên không có sát sinh v.v… Vì thọ mạng an định, nên không gồm thâu của cải và vợ. Do vô dụng.
Người kia làm thế nào tạo tác phi phạm hạnh?
Người châu Bắc nếu muốn cùng với người nữ này hòa hợp vui đùa, tức cầm tay cô gái kia, cùng đi đến bên dưới tàng cây. Cô gái này nếu ưng chịu, cây tức thì che phủ kín, cả hai cùng hành dâm. Nếu cô gái không ưng chịu, thì cây không che phủ, cả hai liền cùng chia tay.
Kệ nói: Nơi dục khác, mười ác.
Giải thích: Tự có lời nói nối tiếp. Trừ địa ngục và châu Bắc, ở các xứ còn lại thì mười thứ nghiệp đạo ác do hiện tiền nên cũng có. Ở trong các nẻo súc sinh, quỷ thần, các trời đều có nghiệp đạo phi bất hộ (phi bất luật nghi). Nghiệp đạo nên thuộc về bất hộ (bất luật nghi) ở trong nẻo người cũng có. Nếu các trời không thể giết hại trời khác, nhưng có thể giết hại chúng sinh của nẻo khác. Chư thiên nếu bị chặt đầu, chặt lưng, tức xả bỏ thọ mạng.
Đã nói về nghiệp đạo ác xong.
Kệ nói:
Ba sau tất cả có
Vì hiện tiền đắc đến.
Giải thích: Ở năm nẻo và ba cõi, tất cả xứ đều có không tham, không giận, cùng chánh kiến, do hiện tiền và đắc đến đều có.
Kệ nói:
Trời Vô tưởng, vô sắc Do đắc đến bảy.
Giải thích: Bảy nghiệp đạo thiện của thân, miệng ở trong cõi vô sắc và trời Vô tưởng chỉ do đắc đến nên có. Thánh nhân đã sinh nơi cõi vô sắc, cùng với đắc đến của hộ vô lưu ở quá khứ, vị lai tương ưng. Trời Vô tưởng thì cùng với đắc đến của hộ định tương ưng, thuận theo địa của đối tượng nương dựa. Hộ vô lưu của Thánh nhân đã sinh khởi, đã xả bỏ, nếu sinh nơi cõi vô sắc thì cùng với hộ quá khứ này tương ưng. Cùng với hộ vị lai dựa nơi năm địa cũng tương ưng.
Kệ nói:
Khác
Do hiện tiền cũng có
Trừ địa ngục, châu Bắc.
Giải thích: Khác: Nghĩa là cõi riêng. Nẻo riêng. Ở trong cõi khác, nẻo khác là bảy thứ nghiệp đạo thiện, do hiện tiền cũng có, trừ địa ngục và châu Bắc.
Là khác: Nghĩa là nẻo súc sinh, quỷ thần, trong ấy chỉ có phi hộ (phi luật nghi). Ở cõi sắc chỉ thuộc về hộ giới. Nơi xứ khác thì có đủ cả hai thứ.
Lại nữa, mười thứ nghiệp đạo ác này cùng nghiệp đạo thiện.
Kệ nói:
Tất cả đều hay cho
Quả báo lưu tăng thượng.
Giải thích: Nay lại luận về ác. Do tất cả sự của mười điều ác đã hành tác thường khởi, nên sinh vào địa ngục, đó gọi là quả quả báo. Nếu thọ báo của địa ngục xong, tức được loại như thế. Nghĩa là tu đồng phần nơi nẻo người v.v…, do đoạn trừ mạng sống của các chúng sinh, nên thọ mạng ngắn ngủi. Do trộm cắp, nên của cải vật dụng luôn có chướng nạn. Do tà dâm, nên bị nhiều sự oán ghét, đối với thê thiếp thường bị chướng ngại. Do nói dối, nên bị nhiều thứ chê bai. Do phá ngữ, nên bạn thân không hòa thuận. Do lời nói thô ác, nên luôn nghe tiếng không đáng yêu thích. Do hành phi ứng ngữ, nên tuy nói lời thật, có lý, người khác vẫn không tin thọ. Do tham dục, nên có nhiều tham dục trầm trọng. Do giận dữ, nên có nhiều giận dữ nặng nề. Do tà kiến, nên tâm trí ám độn, đa nghi, vì kiến văn này có nhiều vô minh. Đó gọi là quả đẳng lưu của mười ác.
Ở trong nẻo người, thọ mạng nếu ngắn ngủi cũng là quả của nghiệp thiện. Ở đây vì sao nói là quả đẳng lưu của sát sinh?
Không nói thọ mạng của con người là quả đẳng lưu. Do nghiệp ác khiến cho thọ mạng của con người giảm thiểu, còn sát sinh là nhân chướng ngại của thọ mạng nơi nẻo người. Nghĩa này nên biết.
Quả tăng thượng: Do sự việc sát sinh đã hành tác thường khởi, nên tất cả vật dụng nuôi sống bên ngoài không còn có uy thế hương vị.
Do trộm cắp, nên các thứ lúa thóc hoa màu hay bị mưa gió sấm sét làm hại, hoặc có nhiều bụi bặm. Do tà dâm, nên nhiều trần cấu. Do nói dối, nên phần nhiều bị hôi thối uế tạp. Do phá ngữ, nên khí thế giới bên ngoài có cao sâu. Do lời nói thô ác, nên đất đai có nhiều vị xấu ác, cao khô trái nhau, không thích nghi tất cả. Do phi ứng ngữ nên thời tiết không điều hòa, thuận hợp, bốn đại đổi khác, không bình đẳng. Do tham dục, nên tất cả trái cây đã trồng đều không chắc hạt, ít kém. Do giận dữ, nên hầu hết nơi chốn sinh sống đều gặp hiểm nguy, khổ sở. Do tà kiến, nên tất cả các thứ nuôi sống con người hoặc ít quả, hoặc không có quả.
Như thế gọi là quả tăng thượng của mười điều ác. Là do nghiệp ấy, nên thọ mạng của đời nay ngắn ngủi, tức do nghiệp dị biệt.
Có Sư khác nói: Tức là nghiệp này. Vì sao? Vì thời xưa nhận quả quả báo của nghiệp này rồi, trở thành thời nay là quả đẳng lưu.
Có Sư khác cho: Thời xưa là do phần trước. Thời nay là do căn bản. Do nắm giữ cùng loại bạn nên đã nói như thế.
Quả đẳng lưu của sát sinh v.v… không phải là chủng loại của đẳng lưu, nhưng do sự sai biệt tương tợ nên nói như vậy.
Lại nữa, thế nào là mười nghiệp đạo có ba thứ quả sinh? Nếu người gây tạo việc sát sinh, thì chúng sinh bị giết kia là khổ. Vì đã đoạn mạng của chúng sinh, vì đã trừ bỏ uy thế, hương vị của các chúng sinh kia. Thế nên kệ nói:
Do khốn khổ trừ mạng Diệt quả vị thế, ba.
Giải thích: Do gây khốn khổ cho người khác, nên có quả quả báo, ở nơi địa ngục thọ nhận khốn khổ bức hại.
Do hành sát sinh nên có quả đẳng lưu. Thọ mạng đáng yêu thích của đời này chỉ ngắn ngủi. Do hủy diệt uy thế hương vị của người khác, nên có quả tăng thượng. Uy thế hương vị như cỏ thuốc v.v… bên ngoài, hoặc không có, hoặc thua kém. Ba quả của nghiệp đạo còn lại nên biết cũng như thế. Ba quả của nghiệp đạo thiện nên biết cũng như vậy.
Đức Phật, Thế Tôn đã nói: Có tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng.
Có tà mạng nào khác với hai thứ ấy, không khác với hai thứ ấy?
Kệ nói:
Nghiệp thân, miệng tham sinh
Lập riêng là tà mạng.
Giải thích: Nếu đối với chúng sinh, từ giận, si sinh khởi hai nghiệp thân, miệng, gọi là tà ngữ, tà nghiệp. Khác với hai thứ tà này thì lập riêng làm tà mạng.
Kệ nói: Khó trị.
Giải thích: Pháp tham dục dẫn khởi chung các chúng sinh. Thế nên từ nơi tham dục kia đã sinh khởi nghiệp trung tâm là khó có thể ngăn cấm, phòng giữ. Thế nên chánh mạng không dễ có thể đối trị. Ở đấy vì sinh tâm ân cần, tôn trọng người khác, nên chia hai tà này lập làm loại thứ ba. Trong đây nói kệ:
Tại gia kiến khó trị
Luôn chấp vô số kiến
Tỳ-kheo mạng khó trị
Nuôi sống thuộc người khác.
Kệ nói: Tự tham sinh, nếu chấp.
Giải thích: Nếu có người cho tư lương của mạng là do tham dục đã sinh hai nghiệp thân, miệng, gọi là tà mạng, không phải thứ khác. Vì sao? Vì như tự thân dạo chơi ở nơi chốn ca múa v.v…, không lập là tư lương của thọ mạng.
Kệ nói: Do phi kinh.
Giải thích: Nghĩa này không hợp lý. Vì sao? Tức do kinh nói: Như trong Kinh Giới Tụ nói: Việc xem đấu voi v.v… Đức Phật, Thế Tôn đã an lập trong tà mang. Vì sao? Do thọ dụng tà về ngoại cảnh. Nghĩa này đã nêu xong.
Nơi phần trước đã nói về năm thứ quả, trong đó nghiệp nào do bao nhiêu quả nên có quả?
Kệ nói:
Nơi diệt, đạo, có cấu
Nghiệp có quả do năm.
Giải thích: Vì được diệt nên tu đạo này. Lại, do đạo này nên các Hoặc bị diệt, gọi là diệt đạo. Nghĩa là đạo thứ lớp, đạo này nếu là hữu lưu, ở đấy hiện có nghiệp, có năm thứ quả là quả. Vì sao? Vì nghiệp này ở trong địa của mình đã được quả khả ái, đó gọi là quả quả báo (Quả dị thục). Thời gian sau có pháp tương tợ hoặc bằng, hoặc hơn, là quả đẳng lưu.
Quả tương ly (Quả ly hệ): Nghĩa là tâm trạch diệt lìa các kiết.
Quả công sức (Quả sĩ dụng): Đạo này đã dẫn sinh các pháp, nghĩa là đạo giải thoát và cùng khởi các pháp, vị lai nên được pháp khác cùng với trạch diệt này.
Quả tăng thượng: Nghĩa là pháp hữu vi còn lại khi đã lìa tự tánh, trừ đời trước.
Kệ nói: Nơi vô cấu do bốn.
Giải thích: Ở trong diệt, đạo vô lưu, nghiệp do bốn quả nên có quả, tức trừ quả quả báo.
Kệ nói: Thiện ác khác hữu lưu.
Giải thích: Nếu là nghiệp hữu lưu thiện thì khác với diệt, đạo và nghiệp ác. Hai pháp này do bốn quả nên có quả, tức trừ quả tương ly.
Kệ nói:
Nghiệp vô lưu còn lại Là do ba vô ký.
Giải thích: Nghiệp vô lưu hiện có, nếu khác với diệt, đạo và nghiệp vô ký, thì do ba quả nên có quả, tức trừ quả quả báo và quả tương ly.
Kệ nói:
Bốn, hai và ba khác
Nghiệp thiện cùng quả thiện.
Giải thích: Nghĩa này nên nhận biết về thứ lớp (Phần sau sẽ nói). Có khi nghiệp thiện dùng pháp thiện làm quả, tức có bốn quả, trừ quả quả báo. Nếu lấy pháp ác làm quả, tức có hai quả, là quả công sức, quả tăng thượng. Nếu dùng pháp vô ký làm quả, tức có ba quả, là trừ quả đẳng lưu và quả tương ly.
Kệ nói:
Nếu hai thứ thiện ác
Ba, bốn, như thứ lớp.
Giải thích: Nghĩa này nên nhận biết về thứ lớp. Nếu nghiệp ác dùng pháp thiện làm quả, thì có hai quả, là quả công sức và quả tăng thượng. Nếu lấy pháp ác làm quả, thì có ba quả, tức trừ quả quả báo và quả tương ly. Nếu dùng pháp vô ký làm quả, thì có bốn quả, trừ quả tương ly.
Quả đẳng lưu thì thế nào? Nghĩa là thân kiến, biên kiến vô ký. là do kiến khổ đế diệt trừ các Hoặc biến hành bất thiện, là quả đẳng lưu.
Kệ nói:
Vô ký có hai, ba
Ba lại ở nơi thiện.
Giải thích: Nếu nghiệp vô ký lấy pháp thiện làm quả, tức có hai quả, là quả công sức và quả tăng thượng. Nếu dùng pháp ác làm quả, thì có ba quả, tức trừ quả quả báo và quả tương ly.
Vì sao như thế?
Hoặc bất thiện do kiến khổ đế đã diệt trừ, là quả đẳng lưu của hai kiến, vô ký. Nếu dùng pháp vô ký làm quả thì có ba quả.
Kệ nói: Quá khứ, tất cả bốn.
Giải thích: Tất cả: Nghĩa là pháp ba đời. Pháp này nếu là quả của nghiệp quá khứ, thì đều có bốn quả, trừ quả tương ly.
Kệ nói: Tức nghiệp giữa, quả tiếp.
Giải thích: Nếu nghiệp hiện đời dùng pháp vị lai làm quả, thì có bốn quả, như trước đã nói.
Kệ nói: Quả giữa hai.
Giải thích: Nếu pháp hiện đời là quả của nghiệp hiện đời, thì chỉ có hai quả, là quả công sức và quả tăng thượng.
Kệ nói:
Nghiệp nối
Quả vị lai có ba.
Giải thích: Nếu nghiệp vị lai dùng pháp vị lai làm quả, thì có ba quả, tức trừ quả đẳng lưu và quả tương ly.
Kệ nói: Pháp đồng địa có bốn.
Giải thích: Trừ quả tương ly, quả còn lại đều có.
Kệ nói: Ba, hai, nếu địa khác.
Giải thích: Nghiệp của địa khác, nếu vô lưu thì có ba quả, trừ quả quả báo và quả tương ly, do không rơi vào cõi. Nếu là hữu lưu thì có hai quả, tức quả công sức và quả tăng thượng.
Kệ nói: Hữu học học có ba.
Giải thích: Nếu nghiệp hữu học dùng pháp hữu học làm quả thì có ba quả, trừ quả quả báo và quả tương ly. Nếu dùng pháp vô học làm quả cũng nghiệp. Nếu dùng pháp phi học phi phi học làm quả thì có ba quả, trừ quả quả báo và quả đẳng lưu. Kệ nói:
Nghiệp vô học cùng học
Các pháp chỉ một quả
Hoặc ba quả cùng hai.
Giải thích: Nếu nghiệp vô học dùng pháp hữu học làm quả, tức có một quả, là quả tăng thượng. Nếu dùng pháp vô học làm quả, thì có ba quả, là trừ quả quả báo và quả tương ly. Nếu dùng pháp phi học phi phi học làm quả, thì có hai quả, là quả công sức và quả tăng thượng.
Kệ nói:
Khác với đây hai học v.v… Hai, hai và năm quả.
Giải thích: Nghiệp khác với học vô học, nghĩa là nghiệp phi học phi vô học. Nếu dùng pháp hữu học làm quả, tức có hai quả, là quả công sức và quả tăng thượng. Nếu dùng pháp vô học làm quả cũng như vậy. Nếu dùng pháp phi học phi vô học làm quả, thì có năm quả.
Kệ nói:
Ba bốn quả và một
Nghiệp do kiến đế diệt.
Giải thích: Nếu nghiệp do kiến đế diệt dùng pháp do kiến đế diệt làm quả, tức có ba quả, là trừ quả quả báo và quả tương ly. Nếu dùng pháp do tu đạo diệt làm quả, thì có bốn quả, tức trừ quả tương ly. Nếu dùng pháp không diệt làm quả, thì có một quả, là quả tăng thượng.
Kệ nói:
Hai quả, bốn cùng ba
Nghiệp do tu đạo diệt.
Giải thích: Nếu nghiệp do tu đạo diệt dùng pháp do kiến đế diệt làm quả, thì có hai quả, là quả công sức và quả tăng thượng. Nếu dùng pháp do tu đạo diệt làm quả, tức có bốn quả, là trừ quả tương ly. Nếu dùng pháp không diệt làm quả, thì có ba quả, tức trừ quả quả báo và quả đẳng lưu.
Kệ nói:
Nghiệp phi diệt kia một Hai, bốn quả thứ lớp.
Giải thích: Nghiệp không phải diệt, nếu dùng pháp do kiến đế diệt làm quả, thì có một quả, là quả tăng thượng. Nếu dùng pháp do tu đạo diệt làm quả, thì có hai quả, là quả công sức và quả tăng thượng. Nếu dùng pháp không phải diệt làm quả, thì có bốn quả, tức trừ quả quả báo.
Lại nêu rõ về lời nói thứ lớp: Tức nên biết đối với trước giữa sau, vì hiển bày nhân quả, nên nói lần nữa về các nghĩa, do phân biệt nghĩa tương ưng của nghiệp. Về thể tướng của nghiệp này cũng nên nêu câu hỏi:
Trong Tạng A-tỳ-đạt-ma nói có ba nghiệp, là phi lý tác, như lý tác và phi lý phi phi lý tác.
Tướng của nghiệp này là thế nào?
Kệ nói:
Phi lý tác có nhiễm Khác nói không phương lớp.
Giải thích: Nếu nghiệp có nhiễm ô thì gọi là phi lý tác, vì từ tư duy không đúng sinh.
Sư khác nói như vầy. Hoặc có Sư nói: Mất thứ lớp của phương tiện gọi là phi lý tác.
Nếu người nên hành như thế, nên trụ như thế, nên ăn uống như thế, nên mặc y phục như thế. Những sự việc như thế v.v…, nếu hành tác không như vậy, thì đấy gọi là phi lý tác. Nghiệp này được tạo tác do không hợp lý, nên đều gọi là phi lý tác. Tất cả nghiệp thiện đều gọi là như lý tác. Do không mất thứ lớp của phương tiện, nên cũng gọi là như lý tác. Khác với hai nghiệp này, gọi là nghiệp phi lý phi phi lý tác.
Là một nghiệp dẫn một đời hay là một nghiệp dẫn nhiều đời? Lại nữa, là nhiều nghiệp dẫn một đời hay là một nghiệp dẫn một đời? Nếu căn cứ theo Tất-đàn này nên nói như vậy.
Kệ nói: Một nghiệp dẫn một đời.
Giải thích: Chỉ một đời, chỉ một nghiệp có thể dẫn, không thể dẫn nhiều đời. Đời: Là tên gọi của tụ đồng phần. Nếu được tụ đồng phần kia thì gọi là đời.
Nếu như vậy vì sao Đại đức A-ni-lâu-đà nói: Tôi nay do quả báo của sự việc đã thí cho một bữa ăn vào thời xưa, nên đã bảy lần sinh nơi trời Ba mươi ba, bảy lần làm Chuyển luân vương xong cho đến hiện nay cũng được sinh vào tộc họ Thích Ca phú quý.
Do quả báo của nghiệp này đạt được quả giàu lớn, cùng được nhớ giữ sự việc nơi đời trước. Lại sinh nghiệp dị biệt, vì muốn làm rõ công năng của nghiệp nên nói lời ấy. Ví như có người do một đồng tiền vàng, nhờ công sức nên tạo được ngàn tiền vàng, mới nói lời này: Tôi nay do một đồng tiền vàng nên được giàu có.
Lại nói người này do vào thời ấy đã thí thức ăn làm chỗ nương dựa. Các thứ cố ý nối tiếp sinh khởi rất là lớn lao lâu dài. Trong ấy có các cố ý có thể dẫn thâu quả báo. Không được nói là nhiều nghiệp chiêu cảm một đời. Chớ cho do phần phần đã dẫn dắt tụ đồng phần để thành tụ đồng phần này, mà là do một nghiệp đã dẫn khởi đến nghiệp khác.
Kệ nói: Nhiều nghiệp hay viên mãn.
Giải thích: Ví như họa sư, do một màu sắc vẽ ra hình tướng của con người, rồi dùng nhiều màu sắc tô điểm cho viên mãn. Vì sao? Vì ở trong thế gian có chúng sinh đồng với tụ đồng phần của con người. Tức có đầy đủ căn thân cùng các tướng của phần thân như sắc tướng, hình dạng, lượng lực, đoan nghiêm, viên mãn, ở trong tụ con người là rất phân minh, khả ái. Có người khác ở trong số ấy không đủ phần.
Không những chỉ nghiệp có thể dẫn sinh, mà còn làm sao để có pháp của quả báo còn lại. Nếu là tất cả chủng loại.
Kệ nói:
Hai định không thể dẫn
Vô tâm cùng đắc đến.
Giải thích: Hai định vô tâm cũng có quả báo, nhưng không thể dẫn sinh tụ đồng phần. Vì cùng với nghiệp không cùng khởi. Về đắc đến cũng như vậy, vì cùng với nghiệp không đồng quả. Đức Phật, Thế Tôn nói: Chướng có ba thứ. Nghĩa là nghiệp chướng, phiền não chướng, quả báo chướng.
Thể tánh của ba chướng này là thế nào?
Kệ nói:
Nghiệp nặng như vô gián
Nhiễm trụ hoặc nẻo ác
Châu Bắc trời Vô tưởng
Nói đây gọi ba chướng.
Giải thích: Có năm nghiệp vô gián v.v…, đó gọi là nghiệp chướng. Nghĩa là giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, cố ý hại thân Như Lai chảy máu. Những điều ấy gọi là nghiệp chướng.
Hoặc nhiễm trụ gọi là phiền não chướng. Hoặc có hai thứ: (1) Nhiễm trụ, nghĩa là luôn hiện hành. (2) Mạnh mẽ sắc bén. Nghĩa là phẩm trọng.
Ở đây: Hoặc nhiễm trụ gọi là phiền não chướng. Ví như hoặc của hạng hoàng môn v.v… Hoặc mạnh mẽ, sắc bén không phải là chướng. Vì sao? Vì nếu Hoặc do phẩm trọng nên mạnh mẽ sắc bén, thì hoặc ấy có lúc khởi không thường xuyên, nên có lúc có thể diệt. Không phải Hoặc của phẩm khinh luôn khởi. Vì sao? Vì nếu Hoặc luôn khởi bị diệt, tức Hoặc này không được thời gian, công sức của con người. Hoặc này đã dựa nơi phẩm khinh để thành phẩm trung, dựa nơi phẩm trung thành phẩm thượng. Hoặc này là chánh chướng.
Ba thứ nơi nẻo ác gọi là quả báo chướng. Một phần của nẻo thiện cũng như vậy. Nghĩa là người châu Bắc và trời Vô tưởng.
Ba chướng ấy chướng ngại nơi pháp nào?
Có thể chướng ngại Thánh đạo cùng chướng ngại căn thiện gia hạnh của Thánh đạo.
Lại có nghiệp khác đối với định báo của nẻo ác v.v… Nghĩa là đối với noãn sinh, thấp sinh, sinh thân người nữ, sinh trong định của hữu thứ tám, cũng nên nói là nghiệp chướng. Nếu nghiệp do năm thứ nhân có thể hiểu rõ, có thể nêu bày, thì lập nghiệp này làm chướng. Năm thứ nhân là: (1) Do nương dựa. (2) Do quả. (3) Do đạo. (4) Do sinh. (5) Do con người.
Thế nên chỉ nói năm nhân. Trong đó, hoặc chướng (phiền não chướng) là rất thô. Nghiệp chướng là thô ttei. Vì sao? Do hai thứ này là ở nơi đời thứ hai, là người không thể đối trị.
Sư Tỳ-bà-sa nói: Vì càng về sau thì có thể nhân nơi đấy nên nói theo thứ lớp.
Vô gián là nghĩa gì?
Ở trong sự việc sinh quả báo, không có nghiệp riêng cùng quả sinh riêng có thể ngăn ngại.
Lại nữa, người tạo nghiệp này, nếu xả bỏ thọ mạng, vô gián sinh quả của địa ngục, thì không có pháp nào có thể ngăn ngại. Người này do cùng với pháp ấy tương ưng, vì sinh trong địa ngục là không gián đoạn, nên nói là vô gián. Ví như Sa-môn.
Lại nữa, ba thứ chướng ấy nên biết là ở trong nẻo nào có?
Nếu quyết định: Kệ nói: Ở ba châu: Vô gián.
Giải thích: Ở châu Bắc và nẻo khác đều không có, huống chi là cõi khác. Ở trong nẻo người, hai người nam nữ là có thể tạo ra nghiệp ấy.
Kệ nói: Hoàng môn cùng không thuận.
Giải thích: Nhân nào khiến người hoàng môn kia không có? Nhân hộ, tức là nhân này.
Lại có nhân riêng. Kệ nói: Ít ân, ít hổ thẹn.
Giải thích: Theo thứ lớp, cha mẹ đối với kẻ kia, kẻ kia đối với cha mẹ. Cha mẹ đối với kẻ kia là ít ân, do phần thân không đủ làm tăng thượng. Vì ái niệm ít, nên những kẻ ấy đối với cha mẹ không khởi hổ thẹn của phẩm trọng. Do phá bỏ pháp hổ thẹn này, nên tội vô gián có thể gây tạo. Do nhân ấy, nên trong nẻo súc sinh, quỷ thần không có nghiệp vô gián.
Đại đức nói: Nếu có trí tuệ sáng rõ, cũng có nghiệp năm vô gián. Ví như loài ngựa thông tuệ. Nếu người giết cha mẹ của hàng phi nhân thì không có nghiệp vô gián.
Nói về nghiệp chướng xong.
Kệ nói: Chướng khác ở năm nẻo.
Giải thích: Những gì là khác? Nghĩa là Hoặc chướng (phiền não chướng), quả báo chướng. Quả báo chướng: Ở trong nẻo người là người của châu Bắc. Ở trong nẻo trời là trời Vô tưởng.
Thể tánh của nghiệp vô gián này là thế nào?
Bốn thân nghiệp làm thể. Một khẩu nghiệp làm thể. Ba sát sinh làm tánh. Một nói dối làm tánh. Phần trước của một sát sinh làm tánh. Chư Phật, Như Lai không thể sát hại làm pháp. Ở nơi nhân lập tên gọi của quả.
Nói phá hòa hợp Tăng là nghiệp vô gián. Là Tăng do nhân này phá, nên nhân được mang tên là phá.
Sự phá này, nghĩa ấy là thế nào?
Kệ nói:
Tăng phá không hòa hợp
Tánh không pháp tương ưng
Pháp vô ký không nhiễm.
Giải thích: Hòa hợp: Nghĩa là cùng với tâm bất tương ưng hành là vô phú vô ký. Phá Tăng cũng như vậy.
Phá Tăng này vì sao thành nghiệp vô gián?
Người có thể phá cùng với Tăng này không tương ưng.
Vì sao như thế?
Kệ nói: Chúng cùng đây tương ưng.
Giải thích: Vì sao? Vì phá này thuộc về đối tượng bị phá, không thuộc về chủ thể phá.
Nếu như vậy thì chủ thể phá cùng với pháp nào tương ưng?
Kệ nói:
Dựa tội nói dối này
Chủ thể phá tương ưng.
Giải thích: Người có thể phá cùng với tội phá hòa hợp Tăng tương ưng. Tội này nghĩa là tội nói dối.
Lại nữa, sự nói dối ấy cùng với phá hòa hợp Tăng đều cùng khởi hữu giáo, vô giáo. Chủ thể phá cùng với tội này là tương ưng.
Kệ nói: Tỳ chỉ một kiếp thục.
Giải thích: Quả báo của một kiếp riêng ở nơi đại địa ngục A-tỳchỉ đã thành thục. Nghiệp vô gián còn lại thì không quyết định. Ở nơi đại địa ngục A-tỳ-chỉ đã thành thục. Nếu người tạo ra nhiều nghiệp vô gián, thì đa số nghiệp này đều là vô gián thành thục.
Do nghiệp này là sở đắc nào của con người?
Kệ nói: Như tăng khổ thọ tăng.
Giải thích: Người này do nhiều nghiệp vô gián thành thục ở địa ngục A-tỳ-chỉ, được chỗ nương dựa rất lớn, rất dày, thân mềm mại, là sự việc khổ não rất nhiều thứ, thật khó chịu đựng. Khởi do hai nhân này đã thọ nhận khổ thọ, tăng hai, ba, bốn, năm phần.
Người nào có thể phá hòa hợp Tăng?
Kệ nói: Tỳ-kheo kiến ưa hành: Phá.
Giải thích: Người tại gia không thể phá. Tỳ-kheo-ni v.v… cũng không thể phá. Nhưng là Tỳ-kheo nhiều kiến hành, không phải tham ái hành. Trụ nơi chánh hành, do hành không thể chê trách. Tà hành không thể phá. Vì sao? Vì người này chỉ dẫn không thể tin nhận.
Ở xứ nào có thể phá?
Kệ nói: Xứ khác.
Giải thích: Nếu Đức Thế Tôn ở nơi xứ này, vì khác với xứ này, nên bị phá. Vì không được thân cận đối trước Thế Tôn, vì chư Phật Như Lai không thể xem thường, bức bách, nên ngôn giáo rất đáng tin nhận.
Nếu phá thì phá người nào?
Kệ nói: Phàm phu.
Giải thích: Chỉ phá tăng phàm phu hòa hợp, không thể phá Thánh nhân, vì Thánh nhân đã tự chứng kiến pháp chánh lý. Phàm phu này chưa đạt được nhẫn trước. Sư khác nói như thế.
Do số lượng bao nhiêu Tăng thì có thể phá?
Kệ nói:
Sư riêng, lúc đạo nhẫn Đã phá.
Giải thích: Là thời gian Tăng kia nhẫn thọ sự riêng khác với Đức Như Lai, cùng tín thọ đạo khác, khác với chánh đạo do Đức Như Lai đã giảng nói. Do lượng này, nên nói là Tăng đã phá.
Phá rồi thì trải qua bao nhiêu được trụ?
Ngay đêm này.
Kệ nói: Không trụ đêm.
Giải thích: Đại chúng đã bị phá, không qua đêm này, tất định lại hòa hợp, là đã nói phá hòa hợp Tăng.
Kệ nói: Nói đây gọi phá luân.
Giải thích: Vì sao? Vì thời này, pháp luân của Phật, Thế Tôn đã bị phá, có thể tạo chướng ngại cho Thánh đạo sinh khởi, nên gọi là phá luân, hoặc nói phá Tăng.
Phá luân này ở nơi xứ nào được thành?
Kệ nói: Châu Diệm-phù.
Giải thích: Chỉ ở nơi châu Diệm-phù là có phá. Xứ khác thì không có.
Do bao nhiêu người thì được phá?
Kệ nói: Chín người v.v…
Giải thích: Nhất định lấy chín người để phá. Quá số này thì không nhất định. Tám Tỳ-kheo đó gọi là Tăng. Vị thứ chín là chủ thể phá. Vì sao? Vì Tăng tất định nên trụ ở trong hai tụ, hai hỗ trợ.
Nếu như vậy thì được phá, có riêng Tăng phá?
Từ phá yết ma thành. Nếu đối với một trú xứ riêng không hòa hợp, tác yết-ma, đó gọi là phá yết-ma.
Phá này: Kệ nói: Ba châu có nghiệp phá.
Giải thích: Ở nơi ba châu v.v… nếu có chánh giáo của Như Lai.
Ở đây, do bao nhiêu Tỳ-kheo thành?
Kệ nói: Đây do tám cùng khác.
Giải thích: Trong đây, chỉ tác yết-ma, không lập mười bốn pháp của loại phá, nên dùng tám là số nhất định. Phá luân này ở nơi sáu thời không được thành.
Kệ nói:
Đầu, sau, trước Át-phù
Cùng trước lúc sư diệt
Lúc chưa kết biệt trụ
Phá luân không được thành.
Giải thích: Đầu, nghĩa là chuyển pháp luân chưa lâu. Sau, nghĩa là thời gian Đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn. Trong hai thời ấy, đại chúng cung kính tu tập. Vì đồng một vị nên không có phá. Ở trung gian, trước Át-phù-đà, Tăng không phá. Trong chánh pháp, cho đến khi giới Át-phù-đà, kiến Át-phù-đà chưa khởi. Ở trước hai thứ cũng không phá, cho đến lúc hai pháp Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xa-xa của hai đệ tử chưa khởi. Do đã phá không trải qua đêm, nên do hai khiến lại hòa hợp. Nếu khi bậc Đại sư đã nhập Niết-bàn, vì không có cùng đối lập nên không có phá. Cho đến thời gian chưa kết biệt trụ cũng không có phá. Vì sao? Vì nếu cùng một biệt trụ, an lập hai hỗ trợ, tức gọi là Tăng phá. Nơi sáu thời này, phá luân không thành. Không phải tất cả Phật đều có phá luân này. Vì sự việc ấy đã dựa nơi nghiệp mà thành.
Vì sao trong sự việc như giết mẹ v.v… có nghiệp vô gián, còn nơi xứ khác không có?
Kệ nói:
Có ân ruộng công đức
Do lìa bỏ dứt trừ.
Giải thích: Ở trong sự việc giết cha, mẹ, là do bỏ người có ân.
Thế nào là cha mẹ kia là có ân?
Vì là gốc sinh ra thân mình.
Thế nào là bỏ song thân kia?
Nghĩa là trừ bỏ mạng căn của hai người.
Ruộng công đức: Nghĩa là A-la-hán. Thân A-la-hán là trạch diệt Hoặc của ba cõi và vật chứa đựng của ấm như giới v.v…, nên gọi là ruộng công đức. Do trừ bỏ thân A-la-hán này, nên thành nghiệp vô gián.
Nếu cha mẹ chuyển căn là ở trong một chỗ nương dựa ấy.
Kệ nói: Chướng căn riêng cũng có.
Giải thích: Thế nên trong kinh nói: Vì có như vậy, nên không khiến người nam lìa mạng căn, không phải cha, không phải A-la-hán, nhưng là tội vô gián đã gây tạo chăng?
Có.
Nếu mẹ chuyển căn, khiến người nữ lìa mạng căn, không phải mẹ, không phải A-la-hán, nhưng là tội vô gián đã gây tạo chăng?
Có.
Nếu cha chuyển căn, có người nữ là kha la lạ đọa, có người nữ riêng, liền nhận lấy an trí trong sản môn. Người này nên chọn người nữ nào làm mẹ? Nếu giết người nữ nào thì thành nghiệp vô gián?
Kệ nói: Từ máu sinh là mẹ.
Giải thích: Nếu từ máu của người nữ ấy hình thành thân người này, thì người nữ ấy là mẹ sinh ra người kia, tức ở nơi người nữ thứ hai.
Trong tất cả sự đều nên nghe, hỏi. Vì sao? Vì người nữ này có thể cho đứa trẻ ấy bú sữa cùng có thể nuôi lớn, dạy dỗ về điều phải trái.
Nếu người đối với mẹ, hành phương tiện sát hại, nhưng giết lầm người khác, thì không có nghiệp vô gián. Nếu không tạo phương tiện giết hại đối với mẹ mình, nhưng lại giết lầm mẹ mình, cũng không có nghiệp vô gián. Nhân người con định dùng phương tiện giết mẹ, người mẹ núp dưới giường, người cha chạy ra nơi chốn khác nên bị giết chết, người con ấy thành nghiệp vô gián.
Nếu người thực hiện một sự việc sát hại, nhưng giết mẹ và giết người khác, thì hai nghiệp vô giáo cùng khởi chỉ hữu giáo là nghiệp vô gián, do sức của nghiệp vô gián này là mạnh. Đại đức Cù Sa nói: Vì Lân hư đã thành, nên hữu giáo cũng có hai thứ. Nếu không tưởng là A-la-hán mà giết A-la-hán, thì có nghiệp vô gián. Ta nay tất giết, ở nơi nương dựa này ý đã quyết định. Nếu người giết cha, người cha là A-la-hán, thì người này chỉ phạm một nghiệp vô gián, do chỗ nương dựa là một.
Nếu như vậy kinh A Bà Đà Na này nói làm sao thông hợp? Như kinh nói: Này Thủy Khán Trì! Ông nay đã tạo hai nghiệp vô gián. Do ông nên khiến cha ông lìa mạng căn, cũng khiến cho A-la-hán lìa mạng căn. Đây là làm rõ nghiệp vô gián này do hai nhân duyên tạo thành, nên nói lời ấy. Lại nữa, do hai môn ấy, do quở trách người kia, nên nói như thế.
Vì quyết định ở bên Đức Như Lai khởi tâm ác, khiến thân Như Lai chảy máu, thì có nghiệp vô gián hay không?
Nếu do cố ý giết thì có nghiệp vô gián.
Kệ nói: Nơi Phật ý đánh không.
Giải thích: Nếu người chỉ có cố ý đánh nhưng làm cho thân Phật chảy máu, thì không có nghiệp vô gián. Nếu người thực hiện việc sát hại đối với vị chưa là A-la-hán, sau khi bị hại, người kia thành A-la-hán, thì có thành nghiệp vô gián không?
Kệ nói: Sau hại, vô học, không.
Giải thích: Đối với người này không có nghiệp vô gián. Vì sao? Vì phương tiện giết hại ấy không ở nơi A-la-hán khởi.
Nếu người đã tạo phương tiện vô gián, khi chưa thay đổi phương tiện, vì trước đã được lìa dục cùng quả Thánh không?
Kệ nói:
Người trước hành vô gián
Không lìa dục cùng quả.
Giải thích: Nếu người tạo nghiệp vô gián, phương tiện tất định nên thành. Phương tiện này là trong khi hành nên không lìa dục và được quả Thánh. Nếu không quyết định tức không như vậy.
Nếu người đối với nghiệp đạo khác, tạo ra phương tiện trước khi đạo sinh, thì được lìa dục cùng Thánh quả nghiệp đạo sau thì không sinh. Vì sao? Vì chỗ dựa hiện nay cùng với nghiệp kia là hoàn toàn trái nhau.
Trong năm nghiệp vô gián, tội của nghiệp vô gián nào là nặng hơn hết?
Kệ nói:
Nói dối phá hòa hợp
Cho tội nặng hơn hết.
Giải thích: Người phân biệt rõ pháp phi pháp, nói dối để phá hòa hợp Tăng. Vì nhân rõ ràng trái ngược với lý, nên đối với tất cả tà hành là tội rất lớn nặng. Vì sao? Vì có thể hại Pháp thân của các Như Lai, có thể làm chướng ngại thiên đạo của thế gian cùng đạo Niếtbàn. Vì sao? Vì khi đại chúng chính thức bị phá, thì thế gian nhập tụ chánh định, chứng quả, lìa dục lưu tận v.v…, thảy đều bị ngăn chận. Tu định, đọc tụng, tất cả sự việc chánh tư đều không được khởi. Tất cả thế gian và người trời đều phân vân, sinh tâm nhiễu loạn, lo buồn. Sự việc này diễn biến cho đến khi Tăng chưa hòa hợp lại.
Lại nữa, do nghiệp báo này, tức ở nơi địa ngục A-tỳ-chỉ thành thục đủ một kiếp, nên nói là nặng nhất. Các nghiệp vô gián khác, theo thứ lớp nên biết: Thứ năm, thứ ba, thứ nhất là nặng. Trong tất cả nghiệp ấy, thứ hai là nhẹ nhất.
Nếu như vậy Đức Phật, Thế Tôn đã nói: Trong ba thứ trị phạt, trị phạt ý là rất nặng. Lại nói: Trong tất cả tội, tà kiến là hơn hết. Ở trong nghiệp vô gián, phán định phá Tăng là tội rất nặng.
Lời nói này là thế nào?
Nếu căn cứ ở một kiếp quả báo của vô gián, thì không vượt hơn tội vọng ngữ phá hòa hợp Tăng. Nếu phán định về ba nghiệp, thì trị phạt ý là rất nặng. Trị phạt khác tùy theo trị phạt này. Nếu phán định về các kiến, thì tà kiến là rất nặng, nhưng không phải là bác bỏ cảnh giới của các kiến kia.
Lại nữa, dựa nơi quả báo lớn, căn cứ vào việc sát hại nhiều chúng sinh và dựa nơi sự đoạn trừ căn thiện, nên nói lời này. Theo thứ lớp nên biết.
Ở trong các hành thiện, thì hành thiện nào có quả báo lớn hơn hết?
Kệ nói:
Thế: cố ý Hữu đảnh
Trong thiện quả rất lớn.
Giải thích: Ở trong nghiệp thiện, thì cố ý của phi tưởng phi phi tưởng xứ là có quả báo rất lớn. Vì sao? Vì sự tịch tĩnh vi diệu nơi tám vạn kiếp là quả báo của xứ phi tưởng phi phi tưởng kia. Lời nói này là căn cứ theo quả quả báo để nói. Nếu căn cứ theo quả tương ly, thì sự cố ý của Tam-ma-đề kim cang là quả tối đại ở trong tất cả, vì hết thảy được kiết diệt hết là quả. Thế nên nói ở nơi thế gian là do nghiệp vô gián, nên đối với địa ngục tức có vô gián sinh, là cũng do đồng loại vô gián hay là do hai thứ này?
Có Sư khác nói: Chỉ do nghiệp vô gián, tất định có vô gián sinh, vì đồng loại không nhất định.
Thế nào là đồng loại vô gián?
Kệ nói:
Ô mẹ A-la-hán
Giết Bồ-tát địa định
Cùng Thánh nhân hữu học
Đoạt duyên hòa hợp Tăng
Là đồng loại vô gián
Năm phá chi đề Phật.
Giải thích: Năm nghiệp như thế cùng với năm nghiệp vô gián nên biết theo thứ lớp là đồng loại vô gián.
Nếu người làm ô hoại mẹ mình là A-la-hán, do hành phi phạm hạnh.
Nếu người giết Bồ-tát trụ địa định, hoặc giết Thánh nhân hữu học, hoặc đoạt nhân duyên hòa hợp của đại chúng, hoặc khởi tưởng về Chi-đề Phật, phá bỏ tháp Phật, thì các nghiệp này được gọi là đồng loại vô gián.
Có nghiệp khác, nếu có quả báo, ở trong ba thời đã dấy khởi chướng rất nhanh gấp.
Những gì là ba thời?
Kệ nói:
Nhẫn Na-hàm, La-hán
Nghiệp trong vị khởi chướng.
Giải thích: Nếu người từ Đảnh tư tưởng Nhẫn, bấy giờ, tất cả nghiệp dẫn đến quả báo của nẻo ác, đều khởi làm chướng, do ứng hợp qua địa của quả báo kia. Ví như có người phải lìa bỏ quốc độ mình, thì tất cả chủ nợ đều dấy khởi. Các nghiệp cũng như vậy.
Nếu người tức nên đạt đến quả A-na-hàm, thì tất cả nghiệp xen tạp của cõi dục đều khởi làm chướng, chỉ trừ nghiệp hiện báo.
Hoặc người đạt đến quả A-la-hán, thì tất cả nghiệp của cõi sắc, cõi vô sắc đều khởi làm chướng, như trước đã nói.
Nếu người giết Bồ-tát địa định?
Kệ nói: Bồ-tát từ vị nào?
Giải thích: Lấy vị nào nên nói đaay là Bồ-tát?
Kệ nói: Từ lúc nghiệp tạo tướng.
Giải thích: Từ thời gian tu hành có thể chiêu cảm nghiệp của quả báo là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy tướng. Vì sao? Vì người này ở trong thời gian ấy đã nhập vị chánh định của Bồ-tát.
Vì sao như thế?
Người này từ nơi thời gian ấy, hướng về sau, luôn như thế.
Kệ nói:
Nẻo thiện, nhà quý, đủ
Nam nhớ trước không thoái.
Giải thích: Nẻo thiện: Vì là hơn hết đáng khen ngợi, nên gọi là nẻo thiện, do sinh ở trong nẻo người, trời. Lại ở trong nẻo thiện, sinh vào chủng tánh Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Đại Trưởng giả. Ở đây là sinh nơi nhà Ma-ha-bà-la, người này đã sinh vào nhà hiền quý. Có người nhà hiền quý gồm đủ căn, không gồm đủ căn. Căn này có hai thứ là sắc căn, pháp căn. Nếu không đủ căn này, là từ sáng hướng đến tối. Nếu đủ căn này, là từ sáng hướng đến sáng. Luôn được thân trượng phu, không phải thân người nữ, huống chi làm hoàng môn v.v… Người ấy nhớ lại tất cả sự việc đã xảy ra nơi đời trước, trong hết thảy đời do hai tuệ văn tư đều viên mãn. Ở trong sự việc tạo lợi ích an lạc cho chúng sinh, do tất cả phẩm khổ, do hết thảy sự việc xấu ác, trái ngược của kẻ khác, nhưng đều không chán bỏ. Là như thế gian đã nói. Không phải mua ngay được Đà-bà, nên biết là Bồ-tát. Vì sao? Vì các Đại sĩ này đã đạt đến tất cả thắng đức nơi phần vị của phẩm tối thượng thượng. Không có nhân duyên khác, chỉ do hệ thuộc nơi đại bi, nên đối với hết thảy chúng sinh đã an lập tự thân giống như hàng nô bộc của họ. Do không có kiêu mạn, nên có thể nhẫn thọ tất cả sự việc rất khó mong cầu của hết thảy chúng sinh. Các vị luôn muốn gánh vác tất cả sự việc khổ hạnh. Do còn ngăn ngại người khác, nên không lập sự việc của mình. Vì thế nói không phải mua ngay được, tức là điều đã nói.
Nghiệp có thể chiêu cảm quả báo là tướng.
Kệ nói:
Trượng phu châu Diệm-phù
Đối Phật, Phật cố ý
Loại tư tuệ trăm kiếp
Nơi khác được dẫn đây.
Giải thích: Chỉ ở châu Diệm-phù, Bồ-tát tu dẫn nghiệp của báo tướng, không phải ở châu khác. Vì sao? Vì người châu Diệm-phù căn trí rất nhanh nhạy. Chỉ là trượng phu không phải người nữ, vì đã vượt qua phần vị người nữ.
Tu dẫn nghiệp này là vào thời gian nào?
Thời gian bậc Đại sư đang hiện tiền. Do Bồ-tát cố ý duyên nơi Phật làm cảnh. Nghiệp này là loại tư tuệ, không phải văn, tu tuệ. Vào thời khác, nghĩa là lượng của trăm đại kiếp, không phải đối với số nhiều khác. Tất cả chư Phật đều như thế. Chỉ mỗi Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, do sức chánh cần là vô cùng dũng mãnh, nên có thể siêu vượt chín kiếp. Tức nơi chín mươi mốt kiếp đã dẫn khởi nghiệp tướng còn lại. Thế nên Đức Như Lai nói với người chủ đất: Ta từ trước đời này, đã trải qua chín mươi mốt kiếp, không nhớ lại, không thấy, vào thời kỳ xa xưa, sinh trong một gia đình, nhân thí cho một thứ thức ăn chín còn có gián đoạn, có hao tổn, huống chi là đại sư. Từ thời này, vì tự tánh nhớ nghĩ đến nơi chốn cư trú ở đời trước, Ta đã ra khỏi A-tăng-kỳ thứ nhất, nơi địa Bồ-tát đã diệt trừ bốn thứ lỗi lầm, luôn được hai thứ đức tối thắng.
Sư kỳ cựu đã nói như thế. Đối với các tướng của Bồ-tát:
Kệ nói: Mỗi mỗi trăm phước sinh.
Giải thích: Lượng phước này là thế nào? Trừ Bồ-tát cận hành, tất cả chúng sinh khắp mười phương đều có thể chiêu cảm nghiệp giàu vui lấy đó làm lượng. Sư khác nói như vậy.
Như duyên nơi nghiệp của chúng sinh tăng thượng, có thể chiêu cảm sự sinh của ba ngàn đại thiên thế giới, dùng như thế làm lượng. Sư Tỳ-bà-sa đã nói như thế.
Có Sư khác cho: Chỉ có chư Phật mới có thể nhận biết số lượng của nghiệp này.
Lại nữa, Đức Thế Tôn hiện nay, xưa kia ở trong địa Bồ-tát đã phụng sự bao nhiêu chư Phật? Nơi A-tăng kỳ thứ nhất đã phụng sự bảy mươi lăm ngàn vị Phật. Ở A-tăng-kỳ thứ hai đã phụng sự bảy mươi sáu ngàn vị Phật. Đến A-tăng-kỳ thứ ba, Bồ-tát đã phụng sự bảy mươi bảy ngàn vị Phật.
Vào thời kỳ sau cùng của mỗi mỗi A-tăng kỳ như vậy, có chư Phật Thế Tôn nào xuất thế?
Do ngược theo thời gian nên nhận biết về thứ lớp.
Kệ nói:
Sau ba tăng kỳ xuất Tỳ-bà-thi, Nhiên Đăng Bảo Quang.
Giải thích: Đối với Đức Phật Thế Tôn Thích Na Thi Khí, A-tăng kỳ thứ nhất đã hoàn thành, rồi đến Đức Phật Thế Tôn Nhiên Đăng là A-tăng kỳ thứ hai đã xong. Đức Phật Thế Tôn Tỳ Bà Thi là sau cùng của A-tăng kỳ thứ ba. Đối với tất cả chư Phật:
Kệ nói: Trước Thích Ca.
Giải thích: Có Đức Phật, Thế Tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni, khi xưa đã xuất thế, ở trụ xứ của Đức Thế Tôn này. Phật Thế Tôn hiện nay đã cầu tu hành Bồ-tát. Đầu tiên phát nguyện Bồ-đề: Nguyện tôi thành Phật, đều đồng như tướng này.
Đức Thế Tôn của thời xưa, như hiện nay, sinh vào thời kỳ của đời cuối, cho đến Đức Thế Tôn an trụ nơi chánh pháp, chỉ trong một ngàn năm.
Bồ-tát ở nơi phần vị nào đã hành viên mãn Ba-la-mật?
Kệ nói:
Khắp xứ thí tất cả
Do đại bi thí đủ.
Giải thích: Vào thời này, đối với tất cả chúng sinh, Bồ-tát luôn bố thí bình đẳng đối với tất cả loại nên đáng thí cho: Hoặc cho của cải vật dụng, cho đến thí cả mắt cùng xương tủy. Hoặc thí cho pháp bí mật vô sư. Hoặc thí cho sức vô úy, cứu giúp cả hai đời hiện tại, vị lai, chỉ có tâm đại bi không mong cầu.
Do lượng thí này, nên bố thí Ba-la-mật được viên mãn.
Kệ nói:
Phân xẻ thân, không ngại
Có dục, giới nhẫn thành.
Giải thích: Như vào thời ấy, Bồ-tát chưa được pháp lìa dục, hoặc bị chém chặt thân hình đứt thành từng phần đoạn, nhưng vì đối với mình và người khác không còn có yêu ghét nên tâm rất nhẹ nhàng, cũng không hề khởi kinh ngạc. Chính trong lúc này, cả hai thứ giới, nhẫn Ba-la-mật đều cùng viên mãn.
Kệ nói: Khen Để Sa tinh tấn.
Giải thích: Xưa có Đức Như Lai, hiệu là Để Sa, trụ trong hang Bảo Sơn, nhập định hỏa giới. Đức Phật, Thế Tôn hiện nay, xưa ở tại vị Bồ-tát, do ý riêng nên du hành đến gặp Đức Như Lai này. Bồ tát một chân thì sát đất, một chân thì chưa chạm đất, trải qua bảy ngày bảy đêm tụng một bài kệ tán thán Đức Phật xong mới ngồi xuống. Kệ nêu:
Trời, đất, xứ Phạm tĩnh đều không
Ba đời, mười phưong chưa từng có
Đi khắp tìm núi rừng đất này
Người nào bằng Tôn, do ba đức?
Bấy giờ, tinh tấn Ba-la-mật đã viên mãn. Nơi chín đại kiếp, Bồtát đã hoàn toàn vượt qua.
Kệ nói: Định, tuệ, giác, không dứt.
Giải thích: Trước là Bồ-đề vô thượng, trì Ha-na Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật đã viên mãn, ở nơi vị Tam-ma-đề kim cang.
Sáu pháp này vì sao gọi là Ba-la-mật-đa?
Do đạt đến biên vực đức viên mãn của chính mình. Lại nữa, Bala-ma nghĩa là phẩm tối thượng của Bồ-tát, là chánh hành của Bồ-tát ấy, gọi là Ba-la-mí. Là tụ chánh hành của Bồ-tát nên gọi là Ba-la-míđa, vì cùng không lìa nhau.
Trong kinh nói có ba loại phước nghiệp: (1) Loại phước nghiệp của tánh thí. (2) Loại phước nghiệp của tánh giới. (3) Loại phước nghiệp của tánh tu.
Ba thứ này vì sao gọi là loại phước nghiệp?
Kệ nói:
Phước nghiệp, loại phước nghiệp
Ba này như nghiệp đạo.
Giải thích: Ba thứ như thí v.v… này cũng là phước, cũng là nghiệp, cũng là loại, như ứng hợp theo thứ lớp. Ví như nghiệp đạo, nghiệp đạo kia cũng là nghiệp, cũng là đạo, chỉ tạo của nghiệp gia không phải là nghiệp, nên nói là nghiệp đạo. Ba pháp này cũng như thế. Trong loại phước nghiệp của tánh thí, nghiệp thân miệng có đủ ba thứ, do có thể phát khởi, ý có hai: Cũng là phước, cũng là nghiệp. Các pháp khác cùng với ý kia đều cùng khởi, chỉ là phước, không phải là nghiệp, không phải là loại. Ở trong tánh giới, chỉ là nghiệp thân, miệng, nên chỉ có ba thứ.
Ở trong tánh tu thì tu từ vô lượng, chỉ là phước, cũng là phước nghiệp loại. Hành cố ý cùng với đây tương ưng, do môn từ đã sinh khởi, vì cùng với quán này đều cùng khởi. Hành cố ý và giới cũng là phước, cũng là nghiệp. Pháp tương ưng như tín v.v… còn lại chỉ là phước, không phải là pháp khác.
Lại nữa, tạo tác phước, gọi là phước nghiệp. Nghĩa là hành phần trước của phước. Ba thứ này là loại nương dựa của phần trước. Vì thành tựu ba thứ ấy, thế nên tạo phước là phước nghiệp chân thật, chỉ là hành cố ý. Ba pháp này là loại phước nghiệp nơi đối tượng duyên của hành cố ý. Sư khác đã nói như thế.
Thí là pháp gì? Hoặc nói về đối tượng thí gọi là thí.
Trong ba thứ này:
Kệ nói: Do thí này là thí.
Giải thích: Nếu do nhân này nên sự thí được thành, thì nói nhân này là thí. Do sợ hãi nên cầu được ái dục v.v…, thì sự thí cũng thành. Trong trường hợp này không thừa nhận sự việc kia là nhân của thí. Vì phân biệt về sự việc kia nên nói lời ấy.
Kệ nói: Muốn cúng dường lợi ý.
Giải thích: Đối với người khác, do muốn tạo cúng dường và sự việc lợi ích, nên hành thí. Vì thế hai sự việc này là nhân của thí.
Nếu như vậy thì thí chỉ là nhân không phải là nghiệp. Tuy nhiên, nếu chính do pháp này khởi nên sự thí được thành, thì đây chính là thí.
Pháp này có tướng gì?
Kệ nói: Thân, miệng cùng duyên khởi.
Giải thích: Duyên khởi là pháp gì? Là tụ pháp có thể sinh khởi nghiệp thân, miệng, thì đấy gọi là duyên khởi. Trong đây, nói kệ:
Người tuệ do tâm thiện
Nếu bỏ của cho người
Ấm thiện sát-na này
Nói đây gọi nghiệp thí.
Kệ nói: Giàu lớn này là quả.
Giải thích: Loại phước nghiệp của tánh thí này có thể đạt được quả báo giàu, vui lớn.
Thí này lại vì mục đích gì?
Kệ nói:
Vì hai lợi mình, người
Không vì hai, nên thí.
Giải thích: Ở đây, nếu Thánh nhân chưa lìa dục và phàm phu cũng chưa lìa dục, đối với vật thí nơi Chi-đề, thì thí này chỉ đem lại lợi ích cho tự thân, không vì lợi tha. Người khác do đấy không có lợi ích. Nếu Thánh nhân đã lìa dục, đem vật thí cho các chúng sinh khác, trừ nghiệp hiện báo, thì thí này chỉ là lợi tha. Người khác do đấy nên được lợi ích, không vì tự thân. Nghiệp này là địa của quả báo, vì vĩnh viễn đã qua. Nếu Thánh nhân chưa lìa dục cùng phàm phu cũng chưa lìa dục, dùng vật thí cho các chúng sinh khác, thì sự thí này vì hai lợi ích. Nghĩa là tự, tha. Nếu là Thánh nhân đã lìa dục, đối với vật thí nơi Chiđề, trừ nghiệp hiện báo, thì nghiệp ấy không vì hai lợi ích, là mình và người khác. Sự thí này chỉ vì cung kính, biết ân nên thí. Nếu căn cứ theo nghĩa chung để nói, thì sự thí này lấy giàu vui lớn làm quả báo.
Kệ nói:
Riêng thắng do chủ thí
Loại thí do vượt hơn.
Giải thích: Ở đây, chủ thể thí là thù thắng.
Kệ nói: Do người tín cùng hơn.
Giải thích: Do các đức như tín, giới, văn v.v… là tương ưng, nên là hơn hẳn. Người này đã hành thí, do thí chủ có thắng đức nên đối với việc cho quả là tối thắng.
Nếu thí chủ có đức như vậy:
Kệ nói: Do kính trọng nên thí.
Giải thích: Nếu tâm kính trọng hành thí, tự tay hành thí, đúng thời hành thí, không tổn não hành thí, thế nên:
Kệ nói:
Được tôn trọng, vui lớn
Hợp thời và khó đoạt.
Giải thích: Nếu thí chủ có thể hành bốn đức thí, tức theo thứ lớp được bốn thứ quả thù thắng khả ái. Nghĩa là được người khác cung kính tôn trọng. Đối với cảnh đáng yêu thích rất thù thắng khởi ý lạc thọ dụng. Lúc nên thọ dụng, liền được của cải vật dụng, không thọ dụng quá thời. Của cải vật dụng đã được, không thể xâm đoạt, nghĩa là kẻ oán, người thân, thủy tai, hỏa tai v.v… đều không xâm đoạt.
Đã nói về nghĩa thắng đức của thí chủ xong. Do thí chủ có thắng đức, nên sự thí có loại thù thắng.
Lại nữa, vật được thí có thắng đức là thế nào?
Kệ nói: Vật thắng đức như sắc v.v…
Giải thích: Hoặc vật được thí có các đức như sắc, hương, vị, xúc v.v… tùy theo một thứ tương ưng, thì vật này do đức ấy nên là hơn hẳn.
Nếu thí vật có đức như vậy, thì sự thí ấy vì sao có thứ lớp nên biết?
Kệ nói:
Tiếng tăm tốt, sắc đẹp
Trơn, mềm, tướng đáng yêu
Theo thời, ưa chạm thân.
Giải thích: Nếu thí vật có đức sắc, tức được báo của sắc đoan nghiêm khả ái. Nếu thí vật có đức hương, thì được tiếng tăm tốt đẹp nhất, như mùi hương nơi bốn phương, tiếng tăm hiện bày khắp. Nếu thí vật có đức vị, tức được báo như vị ngon nhất, được tất cả thế gian yêu thích. Nếu thí vật có đức xúc, thì được thân mềm mại, mịn màng, lại được tùy lúc thân tiếp xúc an vui. Ví như nữ báu (Thuộc Chuyển luân Thánh vương), thân ruộng, đức nào là hơn?
Kệ nói:
Do đạo khổ, ân đức
Ruộng thí có đức hơn.
Giải thích: Như Đức Thế Tôn nói: Nếu thí vật cho súc sinh, tức nên thọ nhận quả báo gấp trăm lần. Nếu thí vật cho chúng sinh phá giới ở nẻo người, tức nên thọ nhận quả báo gấp ngàn lần.
Do khổ có sai biệt, ruộng có thắng đức: Nghĩa là như có người gồm thâu trong loại phước nghiệp nói: (1) Hành thí đối với bệnh nhân. (2) Hành thí đối với người nuôi bệnh, chữa trị bệnh nhân. (3) Hành thí lúc thời tiết lạnh. Nói các thí như thế v.v…
Lại nói: Nếu cùng với thí này có gồm thâu bảy thứ loại nghiệp phước tương ưng, thì người thiện nam, thiện nữ có tâm tin, tức phước đức đạt được là không thể so sánh, xét lường.
Do ân có sai biệt, ruộng có thắng đức: Như cha mẹ và người có ân khác, ví như Kinh Bi Lộc Bản Sinh nói.
Do đức có sai biệt, rộng có thắng đức: Như kinh nói: Nếu thí vật nơi người có giới, tức nên thọ nhận quả báo gấp trăm ngàn lần. Như thế v.v… ở trong tất cả thí:
Kệ nói: Người thoát thí thoát thắng.
Giải thích: Nếu người lìa dục, thí vật cho người lìa dục, thì thí này ở trong tất cả tài thí, Đức Phật Thế Tôn nói là hơn hết.
Kệ nói: Bồ-tát.
Giải thích: Bồ-tát đã hành thí, thì thí này là nhân của sự việc tạo lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh.
Thí này nếu không phải là người lìa dục đã hành, cùng không thí cho người lìa dục, thì thí ấy đối với tất cả thí là hơn hết, trừ thí cho của Bồ-tát.
Đức Phật Thế Tôn đã nói về tám thứ thí ấy. Ở đây:
Kệ nói: Cùng thứ tám.
Giải thích: Những gì là tám thứ thí tối thắng? Đó là: (1) Thí đã đến. (2) Thí vì sợ hãi. (3) Đã thí, ta thí. (4) Sẽ thí, ta thí. (5) Xưa đã thí nên thí. Nghĩa là cha và tổ tiên v.v… (6) Thí vì được nẻo trời. (7) Thí vì được tiếng tăm tốt. (8) Thí vì trang nghiêm tâm. Thí vì tạo tư lương cho tâm. Thí vì ứng hợp với các lý. Thí vì được lợi mình với phẩm tối thượng.
Thí đã đến: Sư kỳ cựu giải thích: Đối với người đã đến và người thân cận đã hành thí.
Thí vì sợ hãi: Người này thấy của cải vật dụng hiện tiền sắp bị diệt hoại, nếu thí cho thì hơn là để chúng tự diệt hoại. Do ý này nên hành thí.
Các thứ thí còn lại vì dễ hiểu nên không phân biệt.
Nếu thí vật cho người hướng Tu-đà-hoàn, thì quả báo của thí này là không thể lường tính. Nếu thí vật cho bậc Tu-đà-hoàn, thì quả báo gấp trăm lần vô lượng. Nói rộng như thế, nên biết như nơi kinh đã nêu.
Lại nữa: Kệ nói:
Cha mẹ, bệnh, thuyết pháp
Người Bồ-tát đời sau
Tuy thí trong phàm phu
Quả báo vô số lượng.
Giải thích: Năm người này nếu đều là phàm phu, đối với việc hành thí kia, căn cứ theo quả báo là vô số vô lượng. Ở đây, Bồ-tát đời sau cùng, người thuyết pháp, ở trong bốn thứ ruộng thù thắng, an lập nơi ruộng nào?
Nhập thuộc về ruộng ân đức. Vì sao? Vì người này là thiện tri thức. Thế gian bị mù tối do vô minh, người này có thể thí cho tuệ nhãn, có thể hiển bày chỉ rõ về bình đẳng, bất bình đẳng, có thể sinh khởi pháp thân vô lưu. Nếu lược nói thì người này có thể tạo tác sự nghiệp Đức Phật đã làm.
Nếu người muốn nhận biết tướng nhẹ, nặng của các nghiệp, thì lược nói nên biết có sáu thứ nhân.
Kệ nói:
Phần sau ruộng cùng dựa
Nguyện cố ý phần trước
Vì phẩm thượng hạ này
Nên nghiệp có thượng hạ.
Giải thích: Phần sau: Nếu đã gây tạo nghiệp ấy rồi, lại còn thường xuyên tùy tạo.
Ruộng: Là nơi chốn hành tổn hại, hành ích lợi.
Nương dựa: Là nghiệp đạo.
Phần trước: Là được nghiệp đạo cố ý của thân miệng. Nếu do nghiệp đạo này nên hoàn thành.
Cố ý: Là như thế như thế ta nên làm. Như thế như thế ta đang làm.
Nguyện: Là cầu dụng của vị lai. Có người do thuộc về phần sau, nên thành nghiệp của phẩm nặng, nhất định an lập quả báo. Lại có người do thuộc về ruộng, nên nghiệp thành phẩm nặng. Đối với ruộng, do thuộc về nương dựa, nghiệp này thành phẩm nặng, không do nhân khác. Nương dựa nghĩa là nghiệp đạo. Ví như cha mẹ và chúng sinh khác. Do sát sinh nương dựa nên nặng, không do trộm cắp v.v… nên nặng. Nghiệp khác nên biết cũng như vậy. Nếu người tạo nghiệp, tất cả sáu nhân này đều là phẩm thượng, nên biết nghiệp ấy là phẩm rất nặng.
Nếu người tạo nghiệp, tất cả sáu nhân này đều là phẩm hạ, nên biết nghiệp ấy là phẩm rất nhẹ.
Trong kinh nói nghiệp có hai thứ: (1) Đã tạo tác. (2) Đã tăng trưởng.
Thế nào là nghiệp đã tăng trưởng?
Do năm thứ nhân.
Kệ nói:
Cố ý tạo gồm đủ
Không ưu hối đối trị
Do quả báo loại bạn
Nói nghiệp đã tăng trưởng.
Giải thích: Thế nào là do cố ý tạo? Nghiệp này do cố ý nên đã tạo tác, không phải là vô ý, vì trước không phải bỗng nhiên mà làm vội vã, phải tìm tòi, lựa chọn kỹ, sau đấy mới làm.
Thế nào là do gồm đủ? Có người do một hành tà nên bị đọa vào nẻo ác. Có người cho đến do ba hành tà. Có người do một nghiệp đạo bị đọa vào nẻo ác. Cho đến có người do mười nghiệp đạo bị đọa vào nẻo ác. Trong đây: Nếu người do lượng của nghiệp này nên đọa vào nẻo ác thì lượng này chưa gồm đủ. Nghiệp ấy chỉ là đã tạo tác, chưa phải là đã tăng trưởng. Nếu đã gồm đủ thì mới là đã tăng trưởng.
Thế nào là do không ưu hối đối trị? Nếu người tạo nghiệp, ở đấy tâm không ưu hối (lo lắng, hối hận), không thọ nhận hành thiện để đối trị.
Thế nào là do loại bạn? Hoặc tạo ác, lấy ác làm loại bạn.
Thế nào là do quả báo? Nghiệp này đã quyết định là có thể cho quả báo. Nghiệp thiện cũng nên tư duy như vậy. Nếu khác với nghiệp đã tạo tướng này, thì chỉ là tạo tác, không phải là tăng trưởng, như trước đã nói.
Người chưa lìa dục, đối với vật thí nơi Chi đề, thì thí này chỉ là tự lợi, không là lợi tha.
Ở đây, nếu không thể thọ dụng vật thí, làm sao nghiệp này thành phước?
Phước nghiệp có hai thứ: (1) Xả bỏ làm loại: Nếu do xả bỏ vật, thì phước nghiệp này sinh. (2) Thọ dụng làm loại: Nếu do thọ dụng vật đã thí, thì phước nghiệp này sinh.
Trong ấy: Kệ nói: Phước Chi-đề loại xả.
Giải thích: Ở đây: Không có phước của loại thọ dụng.
Nếu người kia không thọ nhận làm sao có phước? Nhân nào làm chứng?
Nếu có thể thọ nhận tất có phước. Nếu không thể thọ nhận thì không phước. Vì tùy thuộc một hành không lợi ích, nên nhân này không thành chứng. Vì sao? Vì nếu phước do lợi tha thì thành tu vô lượng như Từ v.v… cùng chánh kiến, ứng với không phước. Vì thế nên thừa nhận nghĩa này: Đối với phước của Chi-đề, chỉ xả bỏ làm loại.
Kệ nói: Như Từ tuy không thọ.
Giải thích: Ví như ở trong quán Từ bi v.v… tuy không thể thọ nhận cùng tạo lợi ích cho người khác, nhưng vẫn có vô lượng phước sinh, do từ tự tâm khởi. Như vậy nếu người có đức đã diệt, tâm kính sự đã tạo, thì từ tự tâm khởi phước.
Nếu như vậy các nghiệp như cung kính thí v.v… tức nên thành không có quả chăng?
Nghĩa này không hợp lý. Vì sao? Vì nghiệp sinh tâm duyên nơi sự cung kính là hơn hết. Ví như có người định giết kẻ oán đối, nhưng kẻ oán đối kia trước đó đã chết. Người này cũng còn tưởng về kẻ oán đối, nên khởi cố ý tạo nghiệp thân miệng, sinh nhiều phi phước, không chỉ do ý muốn giết. Như bậc Đại sư này đã lìa bỏ thế gian.
Nếu người do tâm kính sự khởi sự việc cung kính thí v.v…, tức sinh rất nhiều phước, không phải chỉ do tâm kính sự. Nếu ở nơi ruộng thiện hành thí, cùng khởi chủng tử của nghiệp cung kính v.v…, tức được quả báo đáng yêu thích. Nếu ở nơi ruộng xấu ác, tức nên được quả báo không đáng yêu thích.
Kệ nói:
Ruộng xấu có quả tốt
Chủng loại quả thuận hợp.
Giải thích: Nơi ruộng xấu thấy quả, do từ hạt giống thuận hợp. Nghĩa là từ hạt giống Bồ-đào, chỉ sinh ra quả Bồ-đào, vị nó ngon ngọt. Từ hạt giống Duy-bà, chỉ sinh ra quả Duy-bà, vị nó rất đắng.
Như thế ở nơi ruộng xấu ác, do ý nhằm đem lại lợi ích an vui cho người khác, nên đã sinh ra chủng tử của nghiệp thí, tức chỉ là quả báo khả ái sinh, không phải là chẳng khả ái. Hành ác cũng như vậy. Do lỗi lầm của ruộng, nên hạt giống này hoặc có ít quả, hoặc không có quả.
Đã nói loại phước nghiệp của tánh thí cùng có lập phá xong. Về tánh giới nay sẽ nói.
Kệ nói:
Giới tà, tức sắc xấu
Giới chánh lìa hai ấy.
Giải thích: Sắc của tánh ác, nghĩa là nghiệp thân miệng, gọi là giới ác. Xa lìa nghiệp này, nói là giới thiện. Giới xa lìa này có hai thứ: Nghiệp thân, miệng hữu giáo. Vì có thể xa lìa ác, gọi là giới hữu giáo. Chỉ xa lìa loại tánh, gọi là giới vô giáo. Hoàn toàn xa lìa giới ác, gọi là giới thiện. Vì sao?
Kệ nói: Cùng là Phật già chế.
Giải thích: Nghiệp này tuy không phải là giới ác của tự tánh, nhưng vì giữ gìn người và chánh pháp nên Đức Phật, Thế Tôn lập giới già chế (ngăn cấm), như ăn phi thời v.v… Xa lìa các thứ đã ngăn cấm, gọi là giới thiện. Giới này có hai thứ. Nghĩa là hữu giáo, vô giáo. Nếu người thọ giới ấy, do sự việc phạm nên đắc tội phá giới.
Nếu do nghĩa lược thì về giới tánh như đã nói.
Kệ nói: Bốn đức thanh tịnh này.
Giải thích: Nếu đủ bốn đức gọi là giới thanh tịnh. Nếu trái với bốn đức gọi là giới nhiễm ô.
Thế nào là đủ bốn đức?
Kệ nói:
Chẳng giới tà nhân nhiễm
Dựa tĩnh lặng đối trị.
Giải thích: Không phải giới tà đã nhiễm ô: Như trước đã nói: Tướng phá giới tùy theo một chỗ không hủy phạm. Các phiền não như tham v.v… và nhiễm ô như lợi v.v… đều là nơi chốn không tiếp xúc, là chỗ nương dựa của giới này.
Đối trị phá giới, nghĩa là dựa nơi niệm xứ v.v…, nên giới này nương dựa nơi tịch diệt khởi, không nương dựa nơi nẻo thiện, theo loại sinh thắng khởi. Vì được nơi chốn hồi hướng là Niết-bàn.
Có Sư khác cho: Do năm nhân nên được thanh tịnh: (1) Do nghiệp đạo căn bản thanh tịnh (2) Do phần trước thanh tịnh. (3) Do không bị giác quán tà xâm phạm. (4) Do được bốn niệm xứ thâu giữ. (5) Do được hồi hướng nơi Niết-bàn.
Có Sư khác nêu: Giới có bốn thứ:
1. Giới do sợ hãi: Vì không có tư lương, bị ưu não, sợ hãi về sự trừng phạt nặng của nẻo ác mà được giới.
2. Giới mong được: Nghĩa là do các thứ tạo an vui trong sinh tử và được người khác cung kính, có được lợi dưỡng, ưa danh, tham dục mà được giới.
3. Giới thuận giác phần: Nghĩa là có thể dẫn đến giải thoát, người có chánh kiến, chán lìa các thứ tai hại nơi sinh tử, cầu xuất ly nên được giới.
4. Giới vô lưu: Có thể đối trị các Hoặc, là thanh tịnh không cấu nhiễm.
Nói về giới tánh xong. Loại phước nghiệp của tánh tu nay sẽ nói.
Kệ nói: Địa tịch tĩnh tu nghiệp thiện.
Giải thích: Tịch tĩnh là pháp gì? Nghiệp cùng với pháp tự tánh của địa định cùng khởi.
Vì sao nói pháp này gọi là tu?
Kệ nói: Hay huân tập tâm.
Giải thích: Thế nào là huân tập? Nghiệp thiện của địa tịch tĩnh này là tột cùng, có thể huân tập tâm, có thể khiến tâm cùng với đức thành một tánh, và sự nối tiếp cũng như vậy. Ví như dùng hoa để ướp hạt mè, như trước đã nói. Sự thí này lấy giàu vui lớn làm quả báo.
Tu giới là thế nào?
Kệ nói:
Do giới thắng cảm trời
Tu cảm quả tương ly.
Giải thích: Thí cũng có thể chiêu cảm nẻo trời. Giới do thù thắng tức có thể chiêu cảm nẻo trời, cũng có thể chiêu cảm quả tương ly. Tu do thù thắng nên có thể chiêu cảm quả tương ly, cũng có thể chiêu cảm nẻo trời v.v…
Trong kinh nói: Có bốn người có thể sinh phạm phước nghiệp.
Pháp nào gọi là Phạm phước?
Sư Tỳ-bà-sa nói: Vì so sánh, xét lường, có thể chiêu cảm nghiệp cùng báo, nên nói là phạm phước nghiệp. Tùy theo một nghiệp do Bồ-tát đã tu, có thể khiến đạt được một tướng trong các tướng, nên lượng của nghiệp này được gọi là Phạm phước. Các Sư kỳ cựu đã nêu: Kệ nói:
Bốn nghiệp gọi phạm phước Kiếp sinh thiện an lạc.
Giải thích: Thuận theo lượng phước nghiệp có thể chiêu cảm một kiếp sinh nơi nẻo trời cùng quả báo an lạc, nên nghiệp này gọi là Phạm phước. Nói nghiệp ấy có bốn thứ:
1. Nếu xứ của địa này chưa trải qua sự việc kiến lập Chi-đề của Như Lai thì ở đấy nên tạo lập tháp của Như Lai.
2. Nếu xứ của địa này chưa trải qua sự việc kiến lập Tăng-giàlam, thì ở đấy nên tạo lập Tăng-già-lam.
3. Chúng đệ tử của Đức Thế Tôn đã bị phá, có thể lại thâu dẫn khiến hòa hợp.
4. Đối với chúng sinh mười phương quán tu bốn tâm vô lượng.
Bốn hạng người này, như thọ lượng của trời Phạm tiên hành, sinh trong nẻo trời thọ nhận báo hỷ lạc. Thọ lượng của trời Phạm tiên hành là một kiếp. Đức Phật nói nghiệp của người này là đồng với phước nghiệp của trời kia.
Ở trong bộ khác, Sư kia nói kệ này:
Người có tin, chánh kiến
Nếu tu mười thắng hành
Tức sinh nghiệp phạm phước
Kiếp sinh thiên an lạc.
Nói về tài thí xong, pháp thí nay sẽ nói.
Kệ nói:
Pháp thí, lý như thật
Không nhiễm, nói như kinh.
Giải thích: Mười hai bộ như Tu-đa-la v.v… là đạo lý như thật của chánh giáo. Không có tâm nhiễm ô để giải thích làm rõ về nghĩa văn, đó gọi là pháp thí.
Thế nên người này nếu tự tạo phước của mình thật rộng lớn, tức giảm bớt cùng làm hao tổn phước của người khác. Nếu người thuyết pháp điên đảo, hoặc có tâm nhiễm ô, vì cầu lợi dưỡng, sự cung kính, tiếng tăm nên thuyết pháp, thì người này cũng như thế.
Nói về sự sai biệt của phước nghiệp xong. Lại có ba thứ loại nghiệp sai biệt.
Kệ nói:
Phước giải thoát, quyết trạch
Chiêu cảm thiện có ba.
Giải thích: Lại có ba thứ loại nghiệp riêng có sai biệt:
1. Công năng của phần phước đức: Như nghiệp này có thể chiêu cảm quả báo đáng yêu thích nơi nẻo người, trời.
2. Công năng của phần giải thoát: Nếu nghiệp đã khởi, thời gian sau, người này tất định dùng Niết-bàn làm pháp. Nếu người ấy lắng nghe các pháp nói về lỗi lầm của sinh tử, nói về công đức của vô ngã, Niết-bàn, tương ưng với ân đức của chư Phật, đang được thuyết giảng khiến lông thân dựng ngược, rơi lệ, thương cảm, ca ngợi v.v…, tức người này xưa kia đã có căn thiện của công năng nơi phần giải thoát, nên mới có quyết định như vậy. Ví như nơi tháng mùa hạ, do thấy mầm nhô ra, nên nhận biết nơi đất, trong chỗ lõm xuống, nứt ra trước đấy đã có hạt giống.
3. Công năng của phần quyết trạch. Ở nơi vị như noãn v.v…có bốn thứ, phần sau sẽ nói, là điều thế gian đã nói. Nghĩa là chữ, in, tính toán, văn chương, số.
Thể tướng của năm thứ ấy là thế nào?
Kệ nói:
Như lý đã thành nghiệp
Cùng duyên khởi có ba
Chữ, in, cùng lường tính
Văn chương, số, thứ lớp.
Giải thích: Như lý đã thành: Là chánh phương tiện đã sinh. Có ba: Là nghiệp thân, miệng, ý.
Ở đây, chữ, in nếu do phương tiện thù thắng tạo ra, thì thuộc về thân nghiệp, là cùng duyên khởi.
Tính toán, văn chương, nếu do phương tiện thù thắng tạo ra, thì thuộc về khẩu nghiệp, cũng là cùng duyên khởi. Bốn thứ này dùng năm ấm làm tánh.
Số: Nêu do phương tiện thù thắng tạo ra, thì thuộc về ý nghiệp, cũng là cùng duyên khởi, dùng bốn ấm làm tánh. Số này tức là tâm tư duy.
Những danh của các pháp nay sẽ nêu bày.
Kệ nói:
Có trách, giấu: Tánh thấp Nhiễm ô.
Giải thích: Nếu pháp có nhiễm ô, tức có lúc nói là có chê trách, hoặc nói là có che giấu, hoặc nói là tánh thấp kém.
Kệ nói: Thiện vô lưu: Tốt đẹp.
Giải thích: Nếu thiện vô lưu gọi là tốt đẹp, khác với tánh thấp kém cùng pháp tốt đẹp, nên biết những thứ này gọi là giữa.
Kệ nói: Thiện hữu vi ứng sự.
Giải thích: Nếu thiện hữu vi thì pháp này gọi là ứng sự. Pháp còn lại là không ứng sự, nghĩa này tự thành.
Vì sao vô vi là không ứng sự?
Vì vô vi không thể thường tập, tăng trưởng. Lại không có quả, còn tất cả sự đều là được quả.
Tất cả pháp khác đều là hữu thượng, riêng pháp nào là vô thượng?
Kệ nói: Thoát: vô thượng.
Giải thích: Niết-bàn là xuất ly nơi tất cả pháp sinh tử nên gọi là giải thoát. Pháp này đối với tất cả pháp là không gì bằng. Vì sao? Vì là thiện, chân thật, thường trụ, hãy còn không có pháp nào bằng Niết-bàn, huống chi là hữu thượng.
HẾT – QUYỂN 13