A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THÍCH LUẬN
Tác giả: Tôn giả Bà Tẩu Bàn Đậu (Thế Thân)
Hán dịch: Đời Trần, Tam Tạng Chân Đế
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 21

 Phẩm thứ 8: PHÂN BIỆT TAM MA BẠT ĐỀ

Do nương dựa nơi tất cả công đức của trí tuệ, nghĩa là đã phân biệt về chủng loại của trí tuệ để nêu bày xong. Về công đức của loại tánh riêng nay sẽ phân biệt nói.

Vì thế đầu tiên dựa nơi định, nên tạo phân biệt để nói, do tất cả công đức đều dựa nơi định kia.

Kệ nói: Bốn định có hai thứ.

Giải thích: Nếu lược nói thì định có hai thứ: Do định sinh đắc và định tu đắc có sai biệt. Lại nữa, định này chỉ có bốn thứ, nghĩa là định thứ nhất, thứ hai, thứ ba và thứ tư. Ở đây, định trong thọ sinh, không nên nói lại vì đã nêu trong phẩm Phân biệt thế gian.

Kệ nói: Định sinh đắc đã nói.

Giải thích: Vì sao nói? Mỗi mỗi định có ba địa, bốn định có tám địa. Vì định tu đắc tất định nên nói rõ, nên nói như thế.

Kệ nói: Tu định một loại thiện.

Giải thích: Nếu không phân biệt, chỉ một loại tâm thiện gọi là định, là tánh của Tam-ma-đề.

Kệ nói: Cùng loại bạn năm ấm.

Giải thích: Nếu phân biệt các định, thì cùng tùy pháp tương ưng của hành, nên biết lấy năm ấm làm tánh.

Pháp nào gọi là một loại? Nghĩa là một cảnh v.v…

Nếu như vậy thì chỉ tâm nơi một cảnh là thành định, không phải tâm pháp của loại riêng thành định. Không nói các tâm là định. Do các tâm của pháp kia thành một loại, nên nói pháp kia là định. Pháp kia gọi là một loại. Là không như thế chăng?

Vì tất cả tâm nơi sát-na, sát-na diệt, nên đều là một loại. Nếu ông nói tâm thứ hai từ cảnh này không phân tán, nên là một loại, thì nghĩa này không đúng. Vì ở trong pháp tương ưng đại địa của định tức nên không có công dụng, do đấy là Tam-ma-đề. Vì thế các tâm cùng duyên nơi một cảnh. Vì sao ông không thừa nhận nghĩa này?

Nếu nói do đại địa của định, nên các tâm thành một loại, tức nên lập tất cả tâm đều thành một loại, thì việc ấy cũng thành lỗi, vì nghĩa ấy không đúng. Do uy lực của định ấy yếu kém, Sư Kinh Bộ nói. Tâm này đồng một loại nên gọi là định. Vì sao? Vì Tam-ma-đề nghĩa là dựa vào tâm học, tâm thanh tịnh là hơn hẳn. Trong kinh gọi là bốn định. Sư khác cho: Định như thế gọi là Trì-ha-na.

Trì-ha-na là nghĩa gì?

Do đấy được biết, được thấy nên gọi là Trì-ha-na. Vì sao? Vì nếu tâm được định, tức có thể thấy biết như thật. Tên gọi này lấy xét lường làm nghĩa. Tư duy tức là Bát-nhã. Tất-đàn này nêu bày như thế. Nếu vậy tất của Tam-ma-đề đều nên gọi là Trì-ha-na, do một loại có thể khiến thấy biết đúng như thật. Nghĩa này không hợp lý, vì ở trong loại hơn, lập tên Bát-nhã kia. Ví như tạo ánh sáng gọi là trắng. Trong đây cùng với loại pháp nào vượt hơn tương ưng? Nếu định cùng với phần tương ưng, thì định ấy cùng với loại hơn tương ưng. Vì sao? Vì Xa-ma-tha (Chỉ) và Tỳ-bát-xá-na (Quán) chung với phần này, sinh khởi song song, nên gọi là hiện pháp an lạc trụ cùng hành an lạc chậm, nhanh. Do Bát-nhã ấy rất sáng rõ, luôn xét lường, nên pháp kia là loại vượt hơn.

Nếu một loại thiện gọi là Trì-ha-na thì có ô nhiễm, vì sao lại gọi là Trì-ha-na?

Do tư duy tà vạy.

Nếu như vậy tức có lỗi lầm lớn, vì nghĩa ấy là không hợp lý. Ở trong chỗ tương tợ do chỉ lập danh. Ví như hạt giống đã mục nát, nên Đức Phật, Thế Tôn cũng nói pháp ác là Trì-ha-na.

Lại nữa, một loại thiện này có tướng gì gọi là định thứ nhất? Cho đến một loại thiện này có tướng gì gọi là định thứ tư?

Kệ nói: Có quán cùng hỷ lạc.

Giải thích: Một loại thiện tương ưng với giác quán hỷ lạc gọi là định thứ nhất. Do nêu về quán giác, tức hỷ lạc kia nói là giác quán. Như lửa và khói, vì hành tương ưng, do có lìa nhau, không lìa nhau, nên không có quán, có hỷ lạc cùng với giác lìa nhau. Ba định còn lại:

Kệ nói: Trước trước phần đã lìa.

Giải thích: Một loại thiện gọi là lưu. Giác quán đã lìa, chỉ có hỷ lạc là định thứ hai. Giác quán hỷ đã lìa, chỉ có lạc là định thứ ba. Giác quán hỷ, lạc đã lìa chỉ có xả là định thứ tư.

Như nói bốn định:

Kệ nói: Vô sắc vậy.

Giải thích: Vô sắc có bao nhiêu thứ, nghĩa cùng với định đồng? Vô sắc kia cũng có hai thứ: Do tu đắc và sinh đắc. Cũng có bốn thứ, do tưởng tổn giảm, nên là sinh đắc kia. Ở trước đã nói, nghĩa là không xứ của cõi vô sắc. Do sinh có bốn thứ tu đồng phần và mạng. Dựa vào sự nối tiếp của tâm này tu đắc định vô sắc. Nếu không phân biệt, thì chỉ dùng một loại thiện làm tánh. Do nghĩa này, nên định vô sắc cùng với bốn định đồng.

Kệ nói: Bốn ấm.

Giải thích: Nếu phân biệt các định thì cùng tùy theo pháp tương ưng của hành, nên biết dùng bốn ấm làm tánh, không tùy thuộc sắc của hành.

Kệ nói: Tịch lìa địa dưới sinh.

Giải thích: Không biến nhập từ tịch tĩnh lìa định thứ tư sinh. Thức biến nhập thì từ tịch tĩnh lìa không biến nhập sinh. Vô sở hữu biến nhập từ tịch tĩnh lìa thức biến nhập sinh. Phi tưởng phi phi tưởng biến nhập từ tịch tĩnh lìa vô sở hữu biến nhập sinh. Định vô sắc do đấy nên thành bốn.

Pháp nào gọi là tịch lìa?

Do đạo này tạo cho địa khác được giải thoát nên nói đạo ấy là tịch lìa. Vì định kia dẫn đến lìa dục, nên là bốn định vô sắc.

Kệ nói:

Chế phục danh tưởng sắc Cùng ba thứ cận phần.

Giải thích: Định cận phần của không biến nhập duyên nơi định thứ tư làm cảnh giới, nên chưa thể chế phục danh của tưởng sắc. Vì sao? Vì trong ấy chế phục tưởng sắc chưa trọn, chưa được diệt lìa. Trước đã nói cõi vô sắc chỉ có bốn ấm. Lời nói này không thành tựu, tức cho là nơi cõi vô sắc không có sắc.

Nếu cõi vô sắc có sắc, thì vì sao gọi là cõi vô sắc?

Do sắc vi tế. Ví như A-tân-già-la thừa nhận về phần sắc hiện có kia thì tướng ấy là thế nào?

Nếu chỉ có thân miệng hộ sắc nhưng thân miệng đã không thì làm sao có được thân miệng hộ sắc?

Nếu không có bốn đại mà nói có sắc do bốn đại tạo ra, thì không có nghĩa như thế.

Nếu ông nói như hộ vô lưu, tức nghĩa này không đúng. Do hữu lưu nên bốn đại có. Ở trong phần nói về Tam-ma-bạt-đề kia, cho đến có lời bác bỏ, nghĩa là các tưởng như vô sắc v.v… Nếu cõi vô sắc kia có thân, tất định có sắc căn, vì sao cho cõi ấy có sắc vi tế?

Nếu ông cho do lượng của thân rất vi tế nên nói là không sắc, thì đối với loài trùng trong nước, không thể trông thấy sắc, tức nên thành không sắc?

Nếu ông cho sắc kia rất tịnh, nên nói là không sắc, thì ở trung ấm và cõi sắc cũng nên lập làm vô sắc?

Nếu ông cho do không vượt hơn, nên sắc tịnh kia nói là vô sắc, thì chỉ nơi xứ Hữu đảnh thành vô sắc, còn các cõi khác là không phải. Vì sao? Vì như tu Tam-ma-bạt-đề, Tam-ma-bạt-đề sinh có sai biệt cũng như vậy. Định kia sinh sắc, do không phải là căn của địa dưới đã nhận lấy, nên đối với sắc ấy thì có khác biệt gì?

Nếu ông nói tên của hai cõi tùy theo nghĩa mà lập, thì tên của cõi thứ ba không phải tùy theo nghĩa lập. Vậy ở đấy dùng đạo lý gì làm chứng?

Do nói thọ mạng tương ưng với xúc noãn, như hai bó lau cùng nương dựa, gìn lấy. Danh sắc và thức, do đấy nói là hỗ tương nương dựa, nên ở trong mười hai duyên sinh nói dựa vào thức, danh sắc sinh và dựa vào danh sắc, thức sinh. Lại có chứng riêng, lìa sắc cho đến lìa hành. Do bác bỏ việc đi đến của thức, thế nên ở cõi vô sắc, nghĩa có sắc thành. Nghĩa này không hợp lý, phải nên xét lường lại. Nghĩa này tất định nên cùng suy xét, nghĩa là nói về nghĩa tương ưng của xúc noãn với thọ mạng.

Lời nói này là dựa vào thọ mạng của cõi dục để nói hay dựa và tất cả thọ mạng để nói?

Dựa vào danh sắc và thức nương dựa lẫn nhau để nói. Hay là dựa vào thức của cõi dục, cõi sắc để nói? Là dựa vào tất cả thức để nói.

Nói danh sắc dựa vào thức sinh, hay là nói thức dựa vào danh sắc sinh?

Ở đây là tất cả thức dùng danh sắc làm chỗ nương dựa, hay tất cả danh sắc dùng thức làm chỗ nương dựa, hay là không đều như vậy?

Trong ấy, nói là lìa sắc v.v…, bác bỏ việc đi đến của thức để nói, hay là lìa tất cả sắc, bác bỏ nghĩa đi đến của thức, hay là tùy theo chỗ lìa một thứ?

Nếu ông nói do Đức Phật không phân biệt, nên không thể tự phân biệt, xét lường, thì nghĩa này không đúng. Vì có lỗi lớn. Tức xúc noãn bên ngoài ấy không nên thành cùng với thọ mạng lìa nhau.

Lại nữa, sắc ngoài nên nương dựa vào danh do không phân biệt để nói, do Đức Phật nói bốn thức trụ và bốn cách ăn. Ở cõi sắc, vô sắc tức nên có đoạn thực và sắc thức trụ.

Nếu ông cho: Nói vượt quá chỗ dùng đoạn thực nơi chư thiên hay là cùng nói chư thiên hỷ thực? Do lời nói này nên không có lỗi lầm lớn, thì ở cõi vô sắc cũng nên như vậy, không nên lập có sắc. Do Đức nói không sắc là xuất ly tất cả sắc. Như kinh nói: “Giải thoát tịch tĩnh ấy vượt quá tất cả sắc, là không sắc”.

Lại có thuyết nói: Có chúng sinh không sắc.

Lại có thuyết cho: Do vượt quá tất cả tưởng về sắc cùng tưởng có ngăn ngại, nên biết trong cõi vô sắc không có sắc. Vì sao? Vì nếu ở cõi vô sắc kia thật sự có sắc, thì cõi ấy tất định nên sinh tưởng phân biệt về tự sắc.

Nếu ông cho quán sắc thô ở địa dưới, nên nói là không sắc, thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì ở trong đoạn thực, nghĩa này nên đồng. Vì bốn định xuất ly địa dưới, tức ở đó nên lập vô sắc.

Vì sao không nói vô sắc kia là xuất ly thọ v.v…? Do thọ v.v… của địa dưới là xuất ly nên ở cõi vô sắc kia đã vượt qua tất cả chủng loại sắc, không vượt qua tất cả chủng loại thọ v.v… Thế nên nói cõi vô sắc kia chỉ là xuất ly sắc, không phải thọ v.v…

Do hữu không nói xuất ly hữu: Nghĩa là do hữu không thể xuất ly hữu, nên không thể xuất ly tất cả hữu, cùng vĩnh viễn xuất ly hữu.

Lại nữa, Đức Phật, Thế Tôn ở trong định sắc gọi là ở trong định sắc. Nếu có loại sắc, cho đến loại thức, thì ở trong định vô sắc gọi là ở trong định vô sắc. Nếu có loại thọ, cho đến loại thức, thì ở nơi cõi vô sắc, như có loại sắc, vì sao không nói như đã nói có sắc? Thế nên:

Kệ nói: Định vô sắc không sắc.

Giải thích: Do hai chứng cứ này, nên biết ở cõi vô sắc tất định không có sắc. Nói có sắc, đây là lời nói sai lạc, vì cùng với lý là trái nhau.

Nếu như vậy ở trong cõi vô sắc kia, vô lượng kiếp sắc nối tiếp nhau đã đoạn tuyệt. Về sau khi từ cõi vô sắc kia thoái chuyển thì sắc làm sao sinh trở lại?

Kệ nói: Sắc sinh lại từ tâm.

Giải thích: Sắc từ tâm sinh trở lại. Thời xưa, vì nhân của báo sắc đã huân tập, nên tâm này có công năng sinh ra sắc hiện nay. Nếu không nương dựa ở sắc thì tâm này làm sao được sinh khởi?

Thế nào là không được sinh khởi?

Ở đây, không phải là chỗ từng thấy.

Nếu như vậy thì lìa đoạn thực, ở trong cõi sắc cũng không thể được sinh khởi. Vì sao? Vì trong ấy không phải là chỗ đã từng thấy.

Trước đã nói sự nương dựa này có khả năng khiến cho tâm kia nối tiếp sinh khởi.

Đã nói nghĩa ấy xong. Lại nữa, nghĩa này nay sẽ nêu bày.

Vì không vô biên nhập v.v… tất định là dùng không v.v… làm cảnh giới, nên nói không vô biên do đấy được tên gọi. Vì không như vậy tức là không phải.

Ở đây thế nào là ba thứ trước?

Kệ nói:

Không vô biên cùng thức Vô biên vô sở hữu.

Do gia hạnh lập danh.

Giải thích: Không vô biên, thức vô biên và vô sở hữu, người kia tạo ra tư duy như thế để có thể tu hành quán. Nhân nơi gia hạnh này, nên cõi kia như thứ lớp được ba tên gọi này.

Kệ nói: Tối nên phi phi tưởng.

Giải thích: Do tưởng yếu kém, tối tăm, nên gọi là phi tưởng phi phi tưởng. Vì sao? Vì tưởng kia không sáng rõ, không phải là hoàn toàn không có tưởng. Nếu ở trong xứ kia, tu hành quán như thế thì tưởng tức là bệnh, tưởng tức là ung nhọt, tưởng tức là đâm chích. Còn vô tưởng tức là lìa tối tăm, là tĩnh lặng, là đẹp đẽ. Nghĩa là phi tưởng phi phi tưởng nhập. Tuy nhiên, không do gia hạnh này để lập danh.

Thế nào là người kia cho hành quán như thế, quyết định thích ứng?

Giải thích: Do tưởng vi tế. Nghĩa này ở trước đã nói.

Kệ nói:

Định căn bản như thế Tám vật.

Giải thích: Định căn bản nếu căn cứ nơi pháp thật thì chỉ có tám vật. Nghĩa là bốn định sắc, bốn định vô sắc. Trong đây:

Kệ nói: Có ba thứ, bảy.

Giải thích: Trừ xứ Hữu đảnh, số còn lại là bảy định, mỗi định đều có ba loại.

Những gì là ba?

Kệ nói:

Hữu đạm, thanh tịnh Vô lưu.

Giải thích: Bảy định này có cùng với đạm vị tương ưng, nên có thanh tịnh, có vô lưu.

Kệ nói: Thứ tám hai.

Giải thích: Thứ tám là xứ Hữu đảnh. Định này có hai thứ: Có cùng với đoạn vị tương ưng, có thanh tịnh, không có vô lưu.

Lại nữa, trong đây:

Kệ nói:

Định tương ưng đạm vị Hữu ái.

Giải thích: Đạm vị nghĩa là tham ái vị, là công năng hiện có của định. Duyên nơi định này, khởi tâm ái dục. Ái dục là chủ thể ăn, nên nói tham ái đã làm nhiễm ô định, tức gọi là cùng với đạm vị tương ưng.

Kệ nói:

Thế gian tịnh Thanh tịnh.

Giải thích: Pháp định của thế gian nếu thiện là tánh gọi là thanh tịnh, cùng với pháp bạch tịnh như vô tham v.v… tương ưng.

Lại nữa, trong đây, định nào là thức ăn tương ưng với đạm vị?

Kệ nói: Là nhận đạm.

Giải thích: Là thức ăn được nhận lấy, tức là pháp Tam-ma-bạtđề thanh tịnh. Pháp này là đối tượng được ăn kia, tất từ một sát-na v.v… đã diệt. Nếu là đối tượng được ăn tức đã phát ra. Người kia là chủ thể ăn, tức là đã tu quán.

Kệ nói: Định xuất thế vô lưu.

Giải thích: Pháp Tam-ma-bạt-đề xuất thế đó gọi là vô lưu. Trong pháp Tam-ma-bạt-đề này, chỉ là phần có của bốn Trì-ha-na, là phần không của bốn định vô sắc.

Ở đây:

Kệ nói: Nơi đầu có năm phần.

Giải thích: Trong Trì-ha-na đầu có năm phần.

Năm phần: Kệ nói: Giác, quán, hỷ, lạc, trụ.

Giải thích: Giác, quán, hỷ, lạc, trụ là một loại thiện. Năm thứ này ở nơi định, có thể dẫn đến việc trị an. Dựa vào thể nên nói là năm phần. Trong năm phần ấy, phần thứ năm kia nói cũng là định, cũng là phần. Số còn lại chỉ là phần không phải là định. Nếu nói về thật thì như bốn phần quân. Năm phần Trì-ha-na cũng như vậy.

Kệ nói:

Sáng rõ v.v… và nội tịnh

Ở thứ hai, bốn phần.

Giải thích: Nơi Trì-ha-na thứ hai có bốn phần: (1) Bên trong lắng tịnh. (2) Sáng rõ. (3) Lạc. (4) Một loại thiện. Bốn phần này nên biết, như trước đã nói.

Kệ nói:

Thứ ba có năm phần:

Xả, niệm, tuệ, lạc, trụ.

Giải thích: Trì-ha-na thứ ba có năm phần: (1) Xả. (2) Niệm. (3) Tuệ. (4) Lạc. (5) Trụ.

Trụ tức là một loại thiện. Vì sao? Vì trụ là tên gọi khác của Tam-ma-đề. Như kinh nói: Những gì là Tam-ma-đề? Là tâm trụ nơi cảnh chánh, ở phần vị chánh. Do kinh này nên biết trụ là tên gọi khác của Tam-ma-đề.

Kệ nói:

Sau cuối có bốn phần

Trong thọ, xả, niệm, trụ.

Giải thích: Trì-ha-na thứ tư là sau cùng, trong đó có bốn phần. Nghĩa là phi khổ phi lạc thọ, xả, niệm thanh tịnh, một loại thiện thanh tịnh.

Nếu dựa vào văn như vậy, thì phần định có mười tám thứ: Định thứ nhất, định thứ ba mỗi định đều có năm phần. Định thứ hai, định thứ tư mỗi định có bốn phần. Số lượng như thế là do tên gọi lập, hoặc do vật thật?

Kệ nói: Vật thật có mười một.

Giải thích: Phần định thứ nhất có năm thứ. Ở phần thứ hai, bên trong lắng sạch tăng. Ở phần thứ ba, xả, niệm, tuệ, lạc tăng. Nơi phần thứ tư, phi khổ phi lạc thọ tăng. Do nghĩa ấy nên có mười một thứ. Nếu phần ở tại định thứ nhất thì ở định thứ hai cũng là phần chăng?

Có bốn trường hợp: Trường hợp thứ nhất: Là giác quán (Tầm tứ). Trường hợp thứ hai: Là bên trong lắng sạch. Trường hợp thứ ba: Là hỷ, lạc m một loại thiện. Trường hợp thứ tư: Trừ ba trường hợp trước là pháp còn lại.

Tất cả phần định như thế đều nên dùng bốn trường hợp để hỗ tương gồm thâu.

Vì sao ở trong định thứ ba nói lạc là vật riêng?

Do lạc này ở nơi định thứ ba thành thọ lạc.

Còn trong hai định trước: Kệ nói: Hai trước: Lạc khinh an.

Giải thích: Ở định thứ nhất, định thứ hai, khinh an gọi là lạc. Ở hai định trước là khinh an – lạc, còn ở định thứ ba là thọ lạc.

Nghĩa này vì sao thành?

Hai định trước là Trì-ha-na, cùng với lạc căn không tương ưng. Vì sao? Vì lạc đã nói nơi hai định trước, không nên thành thân lạc. Do người nhập quán, năm thức không có, nên không thể lập làm tâm lạc, tức đã gọi là hỷ. Hỷ nghĩa là tâm rất phấn khích. Hai thứ hỷ, lạc, một lúc đều cùng sinh, không có nghĩa như vậy. Hỷ, lạc hoặc ở trong định hỗ tương sinh khởi, điều này không thể chấp nhận, do nói định có năm phần.

Có Sư khác nêu: Ở trong ba định trước lạc căn của địa tâm thảy đều không có, chỉ an lập lạc căn của thân, dùng làm phần của định kia.

Nếu như vậy trong kinh vì sao nói, như kinh này nói: Thứ gì là lạc căn? Duyên có thể khởi xúc lạc nên thân tâm thọ nhận lạc. Chỗ ái vượt hơn hơn loại thọ, đó gọi là lạc căn.

Văn này không biết người nào đã thêm vào? Vì sao? Vì ở trong Nhất thiết bộ chỉ có văn nói về thân lạc. Như văn nói: Người tu quán, do thân chính thức thọ nhận lạc. Nghĩa này do từ nơi tên gọi mà nói.

Nếu ông cho do tâm nên thân thọ nhận, hoặc tạo ra thuyết này, thì được công đức gì? Ở định thứ tư, khinh an là tột bậc, nên không nói là lạc.

Hoặc ông nói: Khinh an này vì tùy thuận nơi lạc thọ, nên cũng được gọi là lạc, thì nghĩa này không hợp lý, do trong định thứ ba, vì sao không gọi khinh an là lạc?

Như ông cho: Do xả bỏ đối tượng bị tổn hại, thì nghĩa này không đúng, vì xả kia là tăng tiến, vì phẩm loại vượt hơn hai phần trước. Lại nữa, do kinh nói khinh an cùng với lạc có sai biệt. Như kinh nói: Lúc ấy, đệ tử Thánh từ khinh an sinh hỷ. Do thân chứng đã sinh khởi, tức hỷ này đã dừng trụ trong đó.

Ở trong kinh này, do nói riêng về khinh an và lạc, thế nên biết khinh an không phải là lạc.

Nếu ông nói: Người đang nhập quán thì thân thức làm sao sinh?

Điều này không trái nhau. Vì sao? Vì có gió từ Tam-ma-đề sinh, gọi là khinh an cùng với lạc thọ là cùng phù hợp, dựa vào bên trong khởi đầy khắp nơi thân.

Nếu ông cho: Do bên ngoài tán loạn, tức là định thoái chuyển. Nghĩa này không đúng, vì từ định sinh, dựa vào bên trong thân khởi. Do lạc của thân này cùng thuận theo với định, nên không có nghĩa thoái chuyển.

Nếu ông nêu bày: Lúc thân thức khởi, người hành quán liền xuất định, nghĩa này không hợp lý, do lời nói trước đã thành.

Nếu ông nói: Thân căn được sinh do cõi dục, xúc tương ưng với cõi sắc, thì thức không thể được sinh. Nghĩa này không đúng, vì từ khinh an thức sinh.

Nếu như vậy thì xúc do thân căn nhận lãnh cùng thân thức nên thành vô lưu. Chớ nên cho có một phần hữu lưu, một phần vô lưu. Do nói thân khinh an là phần giác nên về nghĩa này có thể đúng.

Như ông cho: Do tùy thuận phần giác nên nói là phần giác, nghĩa vô lưu cũng nên như thế.

Hoặc ông nói: Giải thích này cùng với kinh là trái nhau. Như kinh nói: Những gì gọi là pháp hữu lưu?

Là tất cả nhãn căn cho đến xúc trần, thế nên là trái nhau. Nghĩa này là không đúng, do dựa vào xúc riêng, thân thức cùng ý thức riêng để nói.

Nếu ông cho: Đối với pháp vô lưu không có một phần hữu lưu, một phần vô lưu, thì nghĩa này cũng không hợp lý. Vì không cùng lúc khởi, ở đây lại có lỗi gì?

Hoặc ông nói: Vì lạc và hỷ đều không cùng khởi, vậy định thứ nhất tức nên không có năm phần. Nghĩa này cu4ng không hợp lý. Vì dựa vào nghĩa nên có để nói. Ví như nói về giác quán.

Hoặc ông cho: Nghĩa này chưa thành, do thí dụ không thành tựu, thì nghĩa ấy cũng không đúng, do hai tâm thô, tế cùng một lúc trái nhau. Do ông không nói trong nghĩa này có lỗi lầm, thế nên ở trong năm phần của định thứ nhất do giảm hai, ba, bốn phần để an lập định thứ hai v.v… Vì nghĩa này nên ở định thứ nhất nói có năm phần. Vì muốn giảm định trước, an lập định sau, do đấy tưởng v.v… không giảm. Nếu không thế thì vì sao chỉ là năm phần?

Nếu ông nói: Do có ích nên lập phần riêng, thì nghĩa này không đúng. Vì hai pháp giác quán, ở trong niệm tuệ là rất có ích.

Có Sư của các Bộ đã tạo những tranh luận như thế: Các Sư kỳ cựu không nêu bày như vậy. Tức có thể biết pháp hiện có được lập làm phần định. Thế nên lối giải thích kia cần phải xét lường.

Pháp nào gọi là bên trong lắng sạch, vì giác quán đã tán động, diệt lìa?

Lưu thanh tịnh nối tiếp được gọi là bên trong lắng sạch. Vì sao? Vì như sông có sóng. Do giác quán tán động nên giác quán này nối tiếp sinh khởi, không được thanh tịnh.

Nếu như vậy giác quán này không phải là vật riêng, vì sao do phần định của vật thật này có mười một thứ?

Thế nên: Kệ nói: Tín căn nội tịnh.

Giải thích: Có vật riêng nghĩa là tín căn. Người này do được địa của định thứ hai, nên ở trong địa tịch tĩnh xuất ly sinh khởi tâm tín quyết định. Tín căn nói ở đây là bên trong lắng sạch.

Có Sư khác nói: Tam-ma-đề có giác quán là bên trong lắng sạch đều không phải là vật riêng. Nếu Tam-ma-đề kia không phải là vật riêng thật, làm sao thành phần vị tâm, tâm pháp có sai biệt. Có lúc nói là tâm pháp, do tâm tạo thành. Tất-đàn của A-tỳ-đạt-ma không nói như thế, nhưng là điều ông đã nói. Hỷ: Là tâm ưa thích.

Nghĩa này làm sao có thể nhận biết?

Nếu không như vậy thì muốn dùng pháp nào làm riêng? Như bộ phái khác đã thừa nhận.

Bộ khác thừa nhận như thế nào?

Bộ khác kia cho có tâm pháp riêng khác gọi là tâm hỷ, hợp ý, là lạc trong ba định.

Nếu không phải là lạc trong ba định thì nên thành tâm ưa thích.

Kệ nói: Hỷ. Tâm thích do hai chứng.

Giải thích: Đức Phật, Thế Tôn ở trong Kinh Tỳ Ba Lợi Đa nói: Định thứ ba được rồi, trong đó, trước sinh tâm ưa thích và căn diệt tận hoàn toàn. Ở nơi định thứ tư lạc căn diệt tận rốt ráo. Trong kinh khác Đức Phật lại nói: Do lạc căn, khổ căn diệt, nên ưu căn ở trước, căn của tâm ưa thích diệt. Nói rộng như kinh.

Do hai chứng cớ này, nên ở trong định thứ ba, tất định không có căn của tâm ưa thích. Thế nên hỷ căn tức là căn của tâm ưa thích, không phải là lạc. Như phần đã nói trong định thanh tịnh.

Nơi định nhiễm ô là có hay không có? Phần nào ở nơi định nhiễm ô kia là không có?

Kệ nói:

Nhiễm ô, không hỷ lạc Niệm, tuệ nội lắng sạch

Cùng xả niệm thanh tịnh.

Giải thích: Nếu định có nhiễm ô thì định thứ nhất không có tĩnh lặng, đạt ly sinh hỷ lạc, không thể tịch, lìa Hoặc. Định thứ hai không có bên trong lắng sạch, do Hoặc đã làm nhiễm đục. Định thứ ba không có niệm tuệ, vì lạc bị nhiễm ô đã tán loạn. Định thứ tư không có xả, niệm thanh tịnh, do tương ưng với Hoặc.

Có Sư khác cho: Chỉ là như thế.

Kệ nói: Thuyết khác không khinh xả.

Giải thích: Có Sư khác nói: Định thứ nhất, định thứ hai, nếu có nhiễm ô tức không có khinh an. Định thứ ba, định thứ tư nếu có nhiễm ô thì không có xả.

Do hai pháp này là đại địa thiện, nên Đức Phật, Thế Tôn nói: Ba định có động biến, do có lỗi lầm.

Kệ nói:

Vì lìa tám lỗi lầm

Nói thứ tư bất động.

Giải thích: Những gì là tám lỗi lầm?

Kệ nói:

Giác quán củng hai thở

Bốn thứ như lạc khác.

Giải thích: Giác, quán, lạc, khổ, hỷ, ưu, hơi thở ra, hơi thở vào, tám thứ ấy là lỗi lầm của các định. Trong tám lỗi lầm này, tùy theo một lỗi lầm, ở trong định thứ tư không có. Thế nên chỉ nói định thứ tư là không động. Giác, quán, hỷ, lạc v.v… đã không thể làm động biến. Nên trong kinh nói: Định thứ tư là bất động. Ví như bên trong ngôi nhà kín không có gió, đèn sáng.

Sư khác nêu bày như thế. Ở nơi hai định trước nói có tâm ưa thích thọ nhận. Do cùng với hỷ tương ưng nên thứ ba là lạc, thứ tư là xả.

Như thọ trong tu quán định, thọ ở trong định sinh đắc là như vậy chăng?

Không phải.

Điều ấy là thế nào?

Kệ nói:

Hỷ thọ, lạc xả thọ

Xả thọ cùng hỷ lạc

Lạc, xả và xả thọ

Các thọ, định sinh đắc.

Giải thích: Ở trong định sinh đắc đầu tiên có ba thọ: (1) Lạc thọ cùng với ba thức đều cùng khởi. (2) Hỷ thọ lấy ý thức làm địa. (3) Xả thọ cùng với bốn thức tương ưng khởi.

Ở trong định sinh đắc thứ hai có hai thọ là hỷ và xả. Hai thọ này lấy ý thức làm địa, không có lạc, thức khác không có.

Ở trong định sinh đắc thứ ba có hai thọ là lạc và xả. Hai thọ này lấy ý thức làm địa.

Ở trong định sinh đắc thứ tư chỉ có xả thọ.

Do nghĩa như thế, nên thọ của định sinh đắc cùng với thọ của định tu đắc là không đồng.

Ở định thứ hai v.v…, nếu không có ba thức và giác (tầm), thì chúng sinh kia làm sao được thấy, nghe, chạm xúc? Chúng sinh kia lại làm sao có thể khởi nghiệp thân, miệng hữu giáo? Ở đây không nói về nhãn thức v.v… của chúng sinh ở nơi địa nơi định kia thọ sinh là không có. Tuy có nhưng không thuộc về địa của hai định v.v…

Sự việc này là thế nào?

Kệ nói:

Ba thức nhãn nhĩ thân

Nghiệp thân miệng duyên khởi

Hai cùng định một được.

Giải thích: Ba thức như nhãn v.v… và thức có thể khởi nghiệp hữu giáo, ở nơi thứ hai tuy không có, nhưng ba thức kia có thể khiến hiện tiền. Ví như tâm biến hóa, tâm kia do thức này nên có thể thấy, nghe, chạm xúc cùng có thể khởi nghiệp hữu giáo.

Kệ nói: Đây không nhiễm, vô ký.

Giải thích: Bốn thức này không có nhiễm ô, cũng vô ký. Chúng sinh ở địa thứ hai v.v… đã dẫn phát bốn thức khiến hiện tiền. Bốn thức này, nên biết đã dùng định thứ nhất làm địa, không phải có nhiễm ô. Do bốn thức kia đã lìa dục ở địa dưới, nên không phải là phẩm thiện thấp kém.

Nói về sự của định xong. Lại nữa, bốn định sắc như thanh tịnh v.v… cùng với bốn định vô sắc đã đạt được như thế nào?

Kệ nói:

Thanh tịnh không được, được

Do lìa dục cùng sinh.

Giải thích: Nếu người không đạt được phần chí đắc kia, người ấy có thể đạt được bốn định sắc thanh tịnh và bốn định vô sắc. Điều này hoặc do nơi địa dưới đã lìa dục, hoặc do ở nơi địa dưới thọ sinh, trừ xứ Hữu đảnh. Vì sao? Vì thanh tịnh nơi xứ Hữu đảnh không do thọ sinh đạt được.

Không đạt được, lời nói này là thế nào?

Nếu người chưa từng được cùng xả bỏ phần chí đắc, do gia hạnh nên có thể đạt được thanh tịnh, hoặc được phần quyết trạch thanh tịnh. Do thoái chuyển nên được định của phần thoái chuyển. Vì thế trong Tỳ-bà-sa đã nói lời ấy.

Là có như thế chăng?

Hoặc do lìa dục được định thanh tịnh chí đắc. Hoặc do lìa dục lìa bỏ định thanh tịnh. Do thoái đọa cùng thọ sinh cũng như vậy. Thuyết nói có căn cứ nơi định thứ nhất của phần thoái đọa, nhằm luận về sáu nghĩa này. Vì sao? Do lìa dục nên đạt sáu nghĩa ấy. Do lìa dục nơi xứ Đại phạm nên lìa bỏ xứ này. Do thoái đọa nơi xứ Đại phạm là do lìa dục nên đạt xứ này. Do thoái đọa, lìa dục nơi cõi dục nên lìa bỏ cõi này. Do ở nơi xứ Đại phạm trên thọ sinh nên được xứ ấy. Do từ chỗ thoái đọa này, thọ sinh nơi cõi dục, nên lìa bỏ cõi ấy.

Kệ nói: Vô lưu do lìa dục.

Giải thích: Không được, được, đây nói là lưu. Nếu người đã từng được, do tận trí lại được vô học vô lưu.

Nếu do tu đạo luyện căn, hoặc được hữu học, hoặc đắc vô học, là không như đây chăng?

Do nhập tụ chánh định, trước hết là được vô lưu. Theo thứ lớp, người tu quán không cần định, do chưa từng được mà đạt được định vô lưu này. Như tất định nên được, là điều hiện đã nói.

Kệ nói: Nhiễm ô thoái sinh đắc.

Giải thích: Không được, được, đây nói là lưu. Do thoái chuyển đạt được. Nghĩa là nếu người thoái chuyển nơi sự lìa dục này, trở lại đạt được pháp ấy. Do thọ sinh đắc: Là từ địa trên lại sinh nơi địa dưới.

Lại nữa, từ nơi pháp định nào, về sau có bao nhiêu thứ định theo thứ lớp được sinh?

Từ định thứ nhất vô lưu, về sau có sáu định vô gián được sinh. Định thanh tịnh nơi địa mình và định vô lưu là hai thứ. Ở nơi định thứ hai, thứ ba cũng đều có hai thứ. Từ nơi vô sở hữu nhập, sau đấy theo thứ lớp sinh có bảy thứ. Ở nơi tự địa thanh tịnh vô lưu là hai thứ. Thức vô biên nhập, không vô biên nhập cũng đều có hai thứ. Nơi xứ Hữu đảnh chỉ có thanh tịnh, không có vô lưu. Từ định thứ hai, sau đấy theo thứ lớp sinh có tám thứ. Ở nơi tự địa thanh tịnh vô lưu là hai thứ. Nơi định thứ ba, thứ tư và định thứ nhất cũng đều có hai thứ. Từ thức vô biên nhập, sau đấy theo thứ lớp sinh có chín thứ. Tự địa có hai thứ. Không vô biên nhập và định thứ tư có bốn thứ. Vô sở hữu nhập và xứ Hữu đảnh có ba thứ. Do phương sở như thế, nên định sắc, vô sắc còn lại theo thứ lớp có mười thứ. Pháp của mười định nên biết như vậy.

Trong đây là lược gồm thâu.

Kệ nói:

Từ trên dưới thứ ba

Sau vô lưu thiện sinh.

Giải thích: Do nói tánh thiện thanh tịnh và vô lưu, đều do vô lưu kia gồm thâu, vì đồng là tánh thiện. Sau pháp của định vô lưu, theo thứ lớp hoặc dựa vào hai thứ pháp của định nơi tự địa sinh, nghĩa là thanh tịnh vô lưu. Hoặc địa trên, địa dưới, cho đến định thứ ba cũng như vậy.

Vì sao? Vì người tu quán siêu vượt qua xứ thứ ba, mong siêu vượt không được thành. Vì sao như thế?

Do vượt quá xa. Từ loại trí theo thứ lớp có thể tu quán nơi định vô sắc. Từ pháp trí theo thứ lớp thì không được như vậy, vì nương dựa nơi địa dưới làm cảnh giới. Như nói: Từ vô lưu thứ lớp sinh các định, các pháp còn lại nên biết cũng như vậy.

Kệ nói:

Từ tịnh sinh cũng thế

Luôn nhiễm ô địa mình.

Giải thích: Trong ấy: Sinh định nhiễm ô của tự địa tăng trưởng so với trước. Ở đây từ sau định thanh tịnh theo thứ lớp được sinh. Các nghĩa còn lại như vô lưu.

Vì sao? Vì sau định vô lưu, nhiễm ô không thể sinh.

Kệ nói:

Từ nhiễm, tự địa tịnh. Nhiễm.

Giải thích: Từ sau định nhiễm ô, theo thứ lớp ở nơi tự địa, tịnh thanh tịnh cùng nhiễm ô được sinh.

Kệ nói: Một địa dưới tịnh.

Giải thích: Như người bị Hoặc bức bách, nếu địa dưới thanh tịnh, tức ở đó cũng sinh tôn trọng. Nếu người đã phân biệt nhận biết định này, nghĩa là hành nhiễm ô của định ấy đối với định của địa dưới, thì từ hành thiện nơi việc thiện, không từ nhiễm ô.

Nếu không phân biệt làm sao có thể hành định thanh tịnh ở địa dưới?

Do sức của tâm đã dẫn phát ở trước. Vì sao? Vì người này, từ trước đã có dục lạc như thế. Nghĩa là thà đạt được thanh tịnh ở địa dưới, không cần được nhiễm ô của địa trên. Tức trước ý muốn chúng sinh được nối tiếp nên cũng có thể theo đuổi. Ví như người trước phát nguyện rồi mới đi ngủ, thì đúng vào thời gian là kỳ hạn liền thức dậy. Nếu vô lưu từ sau nhiễm ô, thì tất cả thứ loại theo thứ lớp không được sinh. Lời này là căn cứ vào thời tu quán để nói. Nghĩa là từ định thanh tịnh cùng định nhiễm ô, sau đấy theo thứ lớp, từ định nhiễm ô của địa mình sinh, không phải ở địa khác.

Kệ nói:

Khi thoái từ tịnh nhiễm. Tất cả.

Giải thích: Khi thoái đọa do chết từ định thanh tịnh sinh đắc, sau đấy theo thứ lớp, định nhiễm ô của tất cả địa sinh.

Kệ nói: Nhiễm không trên.

Giải thích: Từ nhiễm ô nơi bốn định sắc, bốn định vô sắc, sau đấy khi thoái đọa do chết, theo thứ lớp định nhiễm ô của địa mình, địa dưới sinh, không phải là địa trên.

Lại nữa, không phải từ sau tất cả định thanh tịnh, định vô lưu sinh.

Nếu như vậy nghĩa này là thế nào?

Kệ nói:

Định thanh tịnh có bốn

Phần thoái chuyển v.v…

Giải thích: Phần thoái chuyển, phần an trụ, phần tăng tiến, phần quyết trạch. Định thanh tịnh có bốn thứ này. xứ Hữu đảnh có ba thứ, trừ phần quyết trạch.

Bốn thứ này tướng của chúng là thế nào?

Kệ nói:

Thứ lớp

Hoặc sinh từ địa trên

Vô lưu tùy thuận được.

Giải thích: Nếu công năng của định này, tùy theo phiền não sinh, gọi là phần thoái chuyển. Nếu công năng của định này tùy thuận nơi tự địa, gọi là phần an trụ. Nếu công năng của định này tùy thuận nơi địa trên, gọi là phần tăng tiến. Nếu công năng của định này tùy thuận nơi vô lưu, gọi là phần quyết trạch. Thế nên nói định này gọi là vô lưu.

Trong bốn thứ định ấy có bao nhiêu định, từ sau bao nhiêu định theo thứ lớp sinh?

Kệ nói:

Hai, ba, ba cùng một

Theo thứ lớp như thoái.

Giải thích: Định của phần thoái chuyển, sau đấy theo thứ lớp hai định được sinh, tức là phần thoái chuyển và phần an trụ. Định của phần an trụ, sau đấy theo thứ lớp ba định được sinh, trừ phần quyết trạch. Định của phần tăng tiến, sau đấy theo thứ lớp ba định được sinh, trừ phần thoái chuyển. Các phần còn lại theo thứ lớp được sinh. Định của phần quyết trạch, sau đấy theo thứ lớp một định được sinh là định của phần quyết trạch. Tu vượt quán định làm sao có thể thành?

Kệ nói:

Đi đến nơi hai loại

Tám địa ngầm vượt một

Tu vượt các quán định

Hành không cùng phân ba.

Giải thích: Đi: Nghĩa là tu quán theo thứ lớp. Đến: Là tu quán theo hướng ngược. Nơi hai loại: Là hữu lưu, vô lưu. Tám địa: Là bốn định sắc và bốn định vô sắc. Ngầm: Là thứ lớp dưới, trên.

Vượt một: Là vượt qua mỗi mỗi địa. Trước hết, ở nơi tám địa hữu lưu, tu quán hoặc thuận, hoặc nghịch. Tu quán thành thục rồi, tiếp theo nơi bảy địa vô lưu tu quán cũng như vậy. Tu quán thành thục xong, thời gian sau là thành tựu.

Đối với việc tu tập tự tại: Từ định thứ nhất hữu lưu, vượt nhập nơi định thứ ba hữu lưu. Từ định thứ ba hữu lưu vượt nhập nơi không vô biên nhập. Từ không vô biên nhập vượt nhập nơi vô sở hữu nhập. Tiếp theo lại vượt nhập nghịch như thế. Nếu sự tu tập này đã thành thục, về sau đối với định vô lưu tu thuận nghịch, siêu vượt một cũng như vậy. Nên theo thứ lớp như thế, tu quán thuận nghịch là siêu vượt gia hạnh của định. Vào thời này, nếu từ định thứ nhất hữu lưu, thì có thể nhập định thứ ba vô lưu. Từ định thứ ba vô lưu có thể nhập không vô biên nhập hữu lưu. Từ không vô biên nhập hữu lưu có thể nhập vô sở hữu nhập vô lưu.

Tiếp theo tu siêu vượt nghịch cũng như vậy. Lúc này, không phải cùng phần đi đến trong định thứ ba là thành, nên tu siêu vượt định được thành. Do rất xa nên định thứ tư không thể tu siêu vượt. Tu này ở trong ba châu là A-la-hán phi thời giải thoát. Vì đối tượng tu đắc là Hoặc đã được diệt tận, nên ở nơi định có tự tại, nên là Thánh nhân kiến chí. Căn của người kia tuy là lợi, hơn, đối với định có tự tại, nhưng do Hoặc kia chưa diệt hết, nên không thể tu A-la-hán thời giải thoát, tuy Hoặc đã hết, nhưng ở nơi định không được tự tại, nên cũng không thể tu.

Do chỗ nương dựa nào, có bao nhiêu định sắc, định vô sắc có thể khiến hiện tiền?

Kệ nói:

Tu địa dưới

Nương dựa sắc, vô sắc.

Giải thích: Định Hữu đảnh, ở nơi xứ Hữu đảnh có thể tu khiến hiện tiền. Ở địa dưới, cho đến cõi dục đều có thể tu khiếnho hiện tiền. Như nhận xét về xứ Hữu đảnh, các định còn lại, đối với địa mình và địa dưới đều được tu khiến hiện tiền.

Vì sao như thế?

Nếu người sinh ở địa trên thì không thể khiến các định của địa dưới được hiện tiền. Vì sao? Vì đối với người này:

Kệ nói: Không dưới.

Giải thích: Người sinh nơi địa trên thì định của địa dưới đối với họ không có tác dụng mảy may nào. Do thấp kém nên bị xem thường.

Nói về nghĩa chung xong. Ở đây lại nói đến nghĩa riêng.

Kệ nói:

Thánh hiện vô sở hữu

Nhập Hữu đảnh lưu tận.

Giải thích: Nếu Thánh nhân đã sinh nơi xứ Hữu đảnh, do tu vô sở hữu nhập vô lưu đã hiện tiền, dẫn đến lưu diệt hết.

Vì sao đã sinh nơi xứ Hữu đảnh lại có thể tu vô sở hữu nhập vô lưu hiện tiền?

Ở nơi địa mình không có, nên sự thành thục này là chỗ tất yếu, do vậy có thể tu hiện tiền. Lại nữa, đối tượng duyên của định sắc, định vô sắc là cảnh nào?

Kệ nói: Hữu ái tự có cảnh.

Giải thích: Nếu định cùng với đạm vị tương ưng gọi là hữu ái, duyên nơi hữu của địa mình khởi. Nói hữu là hiển bày sự giữ lấy cảnh hữu lưu. Không thể duyên nơi địa dưới, vì đã lìa dục. Không thể duyên nơi địa trên, do tham ái của các địa đều ngăn cách. Không thể duyên nơi vô lưu làm cảnh để thành thanh tịnh.

Kệ nói: Định thiện có cảnh khắp.

Giải thích: Nếu định lấy thiện làm tánh, nghĩa là thanh tịnh và vô lưu, thì định ấy dùng tất cả pháp làm cảnh. Vật có thật của cảnh kia, là hữu vi, vô vi.

Kệ nói:

Sắc, vô sắc gốc thiện

Không cảnh dưới hữu lưu.

Giải thích: Định sắc căn bản là thanh tịnh và định vô sắc nơi pháp hữu lưu của địa dưới không phải là cảnh giới của định kia, vì duyên nơi địa mình và địa trên làm cảnh giới. Nếu lấy vô lưu làm cảnh giới, thì tất cả chủng loại của loại trí là cảnh giới của định kia, không phải là chủng loại của pháp trí, cũng không phải là diệt của địa dưới. Nếu định cận phần và đạo vô gián thì dùng địa dưới làm cảnh giới.

Trong ba thứ định sắc, định vô sắc này, định nào có thể diệt trừ Hoặc?

Kệ nói: Do vô lưu diệt Hoặc.

Giải thích: Diệt Hoặc không do định thanh tịnh, huống hồ là do định nhiễm ô. Do Hoặc của cõi dưới ấy không thể diệt, vì ở cõi dưới chưa lìa dục, nên tự mình không thể tự đối trị, do đó không thể diệt Hoặc của địa mình, vì là hơn hẳn, nên không thể diệt Hoặc của địa trên. Chỉ do định vô lưu có thể diệt. Lại nữa:

Kệ nói: Cùng các định cận phần.

Giải thích: Do định cận phần của cõi sắc, vô sắc là thanh tịnh, nên các Hoặc cũng được diệt. Đây là sự đối trị của địa dưới.

Định cận phần này có bao nhiêu thứ?

Kệ nói: Định cận phần kia: Tám.

Giải thích: Tùy nơi mỗi mỗi định cận phần cũng như thế. Dựa vào cận phần là được nhập nơi căn bản.

Cận phần là như căn bản có ba thứ chăng? Thọ của cận phần là như thọ của căn bản chăng?

Không phải.

Kệ nói: Thanh tịnh, không khổ, vui.

Giải thích: Định cận phần kia chỉ là một loại thanh tịnh, cùng với xả thọ tương ưng. Do công dụng đã dẫn dắt, nên chưa lìa sự chán sợ của địa dưới, lấy lìa dục làm quả. Thế nên chỉ là xả thọ, không có đạm vị (Tham đắm vị).

Kệ nói: Thánh đầu.

Giải thích: Định cận phần trước tiên gọi là định phi chí. Định này có hai thứ: có thanh tịnh và có vô lưu. Nếu do tâm cận phần kết sinh, tức có nhiễm ô. Nếu nhập quán, tất không nhiễm ô, vì trước đã ngăn trừ.

Kệ nói: Thuyết khác: ba.

Giải thích: Có Sư khác nói: Định cận phần phi chí cũng cùng với đạm vị tương ưng. Trong ấy có thuyết gọi là định cận phần, có thuyết gọi là định trung gian. Hai tên gọi này là một nghĩa hay là có nghĩa khác?

Có nghĩa khác. Vì sao? Vì cận phần là đạo lìa dục.

Kệ nói: Định trung gian không giác.

Giải thích: Định này cùng với giác không tương ưng, nên gọi là định trung gian. Vậy hai định là có khác. Do vượt hơn định thứ nhất nên ở trong định thứ nhất không lập. Nơi định thứ hai cũng không phải là chốn được lập, vì không có loại hơn.

Lại nữa, định trung gian này có bao nhiêu thứ? Có bao nhiêu thứ thọ?

Kệ nói: Ba thứ, không khổ lạc.

Giải thích: Định này hoặc cùng với đạm vị tương ưng, hoặc là thanh tịnh, hoặc là vô lưu, là không có khổ thọ, không có lạc thọ. Vì cùng với xả căn tương ưng, nên không tương ưng với hỷ căn. Do công dụng lớn dẫn khởi, nên gọi là khổ trì tốc hành.

Quả của định trung gian này sai biệt như thế nào?

Kệ nói: Đại Phạm vương là quả.

Giải thích: Nếu người tu tập định trung gian phẩm thượng thì thọ nhận báo của Đại Phạm vương. Lại nữa, gồm thâu tất cả các định, trong kinh nói có ba định: (1) Tam-ma-đề có giác có quán. (2) Tam-ma-đề không giác có quán. (3) Tam-ma-đề không giác không quán.

Ở đây định trung gian tức là Tam-ma-đề không giác có quán. Do phần thứ hai của kinh này nói về chứng cứ, nên từ định này chỉ ngăn chận giác.

Kệ nói: Dưới này có giác quán.

Giải thích: Từ đây hướng xuống dưới, các định hiện có đều gọi là có giác có quán. Nghĩa là định thứ nhất và định khác dựa nơi định thứ nhất.

Kệ nói: Trên đấy, định không hai.

Giải thích: Ở trong phần kia không hai. Nghĩa là vượt qua định trung gian, hướng lên các định khác ở trên, không có hai thứ giác quán. Từ cận phần của định thứ hai, cho đến xứ Hữu đảnh đều không có hai thứ giác quán. Lại nữa, trong kinh nói: Tam-ma-đề có ba thứ, nghĩa là định không, định vô nguyện, định vô tướng. Ở đây:

Kệ nói: Tướng tĩnh, không tương ưng.

Giải thích: Định cùng với hành tướng của diệt đế tương ưng, gọi là định vô tướng. Định này có bốn hành tướng.

Vì sao? Vì Niết-bàn là do lìa mười tướng nên gọi là vô tướng.

Định này dùng Niết-bàn làm cảnh, nên gọi là vô tướng. Mười tướng: Nghĩa là năm trần (cảnh), nam, nữ, và ba tướng hữu vi.

Kệ nói: Định không, vô ngã không.

Giải thích: Định cùng với hai hành tướng không, vô ngã tương ưng, gọi là định không. Định này có hai hành tướng.

Kệ nói:

Định còn lại: Vô nguyện

Tương ưng với tướng đế.

Giải thích: Định còn lại cùng với hành tướng của các đế tương ưng gọi là định vô nguyện. Định này có mười hành tướng. Vì sao? Vì đối với vô thường, khổ và nhân của các thứ ấy, sinh tưởng nhàm chán dứt bỏ. Nên đối với đạo dùng nghĩa dụ về chiếc bè, tất định nên từ bỏ. Người tu hành quán đối với vô thường, khổ kia sinh khởi ý vượt qua, từ bỏ, nên người ấy không thể nguyện dùng các thứ kia làm cảnh. Vì vậy gọi là vô nguyện. Ở trong không, vô ngã không có nghĩa chán bỏ, do cùng với Niết-bàn là tương tợ. Ba định này có hai.

Kệ nói: Kia thanh tịnh, không cấu.

Giải thích: Ba định này dùng thanh tịnh và vô lưu làm chủng loại, thuộc về thế gian, xuất thế gian. Nếu là định thế gian thì dựa vào mười một địa để thành. Nếu là định xuất thế gian thì tùy thuận nơi địa của đạo vô lưu.

Kệ nói: Ba môn giải thoát tịnh.

Giải thích: Ba định này nếu là vô lưu thì gọi là ba môn giải thoát. Nghĩa là môn giải thoát không, môn giải thoát vô nguyện, môn giải thoát vô tướng, pháp kia là môn giải thoát. Do nghĩa riêng nên đối với ba định kia lại gọi tên riêng.

Kệ nói:

Không, không cùng gọi định

Lại có ba định riêng.

Giải thích: Có định không không. Có định vô nguyện vô nguyện. Có định vô tướng vô tướng. Dùng định không v.v… làm cảnh giới, nên các định kia gọi là định không không v.v…

Trong đó:

Kệ nói:

Hai định duyên vô học

Do tướng không, vô thường.

Giải thích: Có hai định riêng duyên nơi các định của bậc vô học làm cảnh. Định không không duyên nơi định không của bậc vô học làm cảnh, do hành tướng không. Định vô nguyện vô nguyện duyên nơi định vô nguyện của bậc vô học làm cảnh, do hành tướng vô thường, không do các hành tướng như khổ và nhân v.v…, vì pháp vô lưu không lấy vô thường, khổ kia làm tướng. Không do hành tướng của đạo đế, vì vô thường, khổ kia là chỗ nên chán bỏ.

Kệ nói:

Định vô tướng, vô tướng

Tướng tĩnh phi trạch diệt.

Giải thích: Định vô tướng vô tướng duyên nơi định vô tướng của bậc vô học dùng phi trạch diệt làm cảnh, do hành tướng tịch tĩnh, không phải do hành tướng diệt, diệu ly. Vì sao? Vì cùng với vô thường, diệt là đồng, vì tánh là vô ký, vì không phải vĩnh viễn xuất ly. Ba định này là hoàn toàn riêng biệt.

Kệ nói: Hữu lưu.

Giải thích: Do từ bỏ Thánh đạo nên pháp kia là hữu lưu (hữu lậu). Nếu vô lưu thì không như thế.

Định này do nơi nẻo nào đạt được?

Kệ nói: Người.

Giải thích: Ở trong nẻo người, không phải nơi các trời.

Ở trong sự nối tiếp của người nào sinh?

Kệ nói: Không hoại.

Giải thích: Chỉ bậc A-la-hán tướng không hoại là có thể đạt được định này. Do sự việc được rốt ráo, nên không phải là các A-la-hán khác.

Định này dựa vào bao nhiêu địa để sinh?

Kệ nói: Bảy cận phần đã lìa.

Giải thích: Trừ bảy định cận phần, ở nơi mười một địa sinh khởi. Nghĩa là cõi dục, định phi chí, định trung gian, bốn định sắc, bốn định vô sắc.

Lại có kinh nói: Có bốn Tam-ma-đề nên tu tập.

Kinh nói: Có Tam-ma-đề nên tu. Hoặc tu, hoặc thực hành, hoặc tập thành thì đạt được an lạc trụ nơi đời hiện tại. Nói rộng như kinh. Trong đây:

Kệ nói:

Có tu riêng bốn định

Tịnh đầu là hiện lạc.

Giải thích: Nếu định thứ nhất là loại tánh thiện, thì hoặc là thanh tịnh, hoặc là vô lưu. Tam-ma-đề này tất định có thể đạt được an lạc trụ nơi đời hiện tại.

Định thứ nhất đã như thế, các định còn lại nên biết là cũng như vậy. Định không hẳn được an lạc trụ nơi vị lai. Hoặc do thoái chuyển, hoặc sinh nơi địa trên, hoặc nhập Niết-bàn. Trong đây, an lạc trụ nơi vị lai, hoặc không thành tựu.

Kệ nói: Là tri kiến nhãn thông.

Giải thích: Tu Tam-ma-đề thứ hai: Là tu Tam-ma-đề nên đạt được tri kiến. Nghĩa là tu tập về thiên nhãn thông tuệ.

Kệ nói: Là hành tuệ riêng sinh.

Giải thích: Tu Tam-ma-đề thứ ba: Là tu Tam-ma-đề nên đạt được tuệ sai biệt. Tất cả đức thù thắng đều từ gia hạnh sinh. Nghĩa là các đức vô lưu của ba cõi. Nếu định có thể đạt được các đức này, thì nói là tu tập định ấy, là tuệ sai biệt do tu Tam-ma-đề đạt được.

Kệ nói:

Định sau kim cương thí

Tu hay diệt hữu lưu.

Giải thích: Ở nơi định thứ tư có Tam-ma-đề gọi là kim cương thí. Tu định này tức có thể diệt trừ hết tất cả các lưu (lậu). Người kia nói Đức Phật, Thế Tôn đã thuyết giảng về bốn Tam-ma-đề nên tu là dựa vào chỗ tự tu hành của Phật để nói. Nghĩa này làm sao có thể nhận biết? Do dựa vào định thứ tư, căn cứ nơi thời gian để phân biệt.

Nói về các Tam- ma-đề xong.

Tất cả đức nương dựa nơi Tam-ma-đề mà thành, gọi là thời đã đến. Thế nên nay nêu rõ.

Kệ nói: Định vô lượng có bốn.

Giải thích: Bốn định vô lượng: Nghĩa là từ, bi, hỷ, xả vô lượng. Vì dùng vô lượng chúng sinh làm cảnh giới, nên chiêu cảm vô lượng quả báo.

Vì sao lập bốn ?

Kệ nói: Do đối trị như giận v.v…

Giải thích: Chúng sinh phần nhiều hành giận dữ gây sát hại, giận dữ gây bức não, giận dữ nên ganh ghét, giận dữ khiến yêu khởi ghét.

Vì diệt trừ các hành ấy nên theo thứ lớp tu bốn định vô lượng này.

Quán bất tịnh và định về xả vô lượng, nếu cùng đối trị ái dục của cõi dục, thì có khác biệt gì?

Sư Tỳ-bà-sa nói: Đối trị sắc dục là quán bất tịnh. Đối trị dâm dục là là quán về xả vô lượng. Nếu giải thích như thế thì cùng với lý tương ưng. Đối trị dâm dục là quán bất tịnh, do có thể diệt trừ dục về hình sắc, dung mạo, dáng dấp, tiếp xúc. Đối trị dục nơi cha mẹ, con cái, người thân v.v… là xả.

Loại tánh của bốn định này là thế nào?

Kệ nói: Từ không giận cùng Bi.

Giải thích: Từ lấy căn thiện không giận làm tánh. Bi cũng như thế.

Kệ nói: Định Hỷ tức tâm thích.

Giải thích: Đối với sự việc vui thích của người khác, tâm tùy thuận theo đấy là Hỷ.

Kệ nói: Xả, không tham.

Giải thích: Xả dùng căn thiện không tham làm tánh.

Nếu như vậy làm sao đối trị sân? Vì sân là do tham ái dẫn dắt. Nếu như thế thì định này nên dùng hai căn thiện làm tánh.

Nghĩa này hợp lý.

Định vô lượng như Từ v.v… này, hành tướng là thế nào?

Kệ nói:

Hành tướng

Có lạc cùng có khổ

Được hỷ cùng chúng sinh.

Giải thích: Nếu chúng sinh an lạc là cảnh giới của định Từ. Đối với cảnh giới ấy, khởi tư duy về hành tướng, nghĩa là chúng sinh an lạc. Do đấy nên có thể tu pháp quán về Từ vô lượng.

Nếu chúng sinh có khổ, là cảnh giới của định bi. Đối với cảnh giới ấy, khởi tư duy về hành tướng, nghĩa là chúng sinh có khổ. Do đấy nên có thể tu pháp quán về Bi vô lượng.

Nếu chúng sinh được vui mừng là cảnh giới của định Hỷ. Đối với cảnh giới ấy, khởi tư duy về hành tướng, nghĩa là chúng sinh được hỷ. Do đấy nên có thể tu pháp quán về Hỷ vô lượng.

Nếu không phân biệt, chỉ là chúnh sinh của chúng sinh là cảnh giới cả định Xả. Đối với cảnh giới ấy, khởi tư duy về hành tướng, nghĩa là chúng sinh của chúng sinh. Do đấy nên có thể tu pháp quán về Xả vô lượng.

Do trong tâm ấy nên quán, nếu người kia không có vui, nhưng đối với họ cho là vui nên quán về vui. Vì sao quán này không thành điên đảo?

Do ý nguyện đạt được nên không phải là điên đảo. Lại do ý không có điên đảo. Lại do nguyện ấy là định tưởng lạc.

Lại nữa, nếu điên đảo như thế thì có lỗi lầm gì?

Nếu ông nói, không phải tánh thiện là lỗi lầm, thì nghĩa này không hợp lý. Vì pháp kia dùng căn làm tánh, lại có thể đối trị với pháp ác như sân v.v…

Nói về hành tướng của bốn vô lượng xong.

Nếu hành giả duyên nơi chúng sinh làm cảnh thì duyên nơi chúng sinh nào làm cảnh?

Kệ nói: Cảnh chúng sinh: Cõi dục.

Giải thích: Chúng sinh của cõi dục là cảnh giới nơi đối tượng duyên của hành giả. Chủ thể đối trị duyên nơi sự giận dữ v.v… của chúng sinh kia làm cảnh.

Nếu như vậy trong kinh đã nói: Căn cứ nơi một phương, khởi tâm như Từ v.v… Nghĩa này là thế nào?

Lời nói ấy do làm rõ về vật chứa đựng. Ở trong vật chứa đựng cũng là đối tượng được hiển bày.

Bốn vô lượng này dựa vào bao nhiêu địa để sinh?

Kệ nói: Hỷ nơi hai định.

Giải thích: Ở hai định trước, tu quán về hỷ vô lượng, dùng tâm ưa thích làm tánh.

Kệ nói: Sáu địa khác.

Giải thích: Quán về ba vô lượng còn lại, tu ở trong sáu địa, tức là định phi chí, định trung gian và bốn định.

Kệ nói: Khác nói năm.

Giải thích: Có Sư khác nói: Trừ định phi chí chỉ tu ở năm địa.

Lại có Sư khác cho: Ở mười địa. Nghĩa là cõi dục và bốn cận phần. Do gồm thâu phần căn bản của gia hạnh là bất định, là ở trước đã nói: Pháp từ kia có thể đối trị giận dữ v.v…

Là do Hoặc kia được diệt chăng?

Kệ nói: Do hoặc kia không diệt.

Giải thích: Định căn bản là địa, nhờ nơi nguyện tư duy làm thể, duyên nơi chúng sinh làm cảnh. Do tu gia hạnh của địa kia, nên có thể chế phục giận dữ v.v…, nên nói Từ vô lượng là pháp đối trị giận dữ v.v…

Vì đã diệt trừ nên có thể khiến từ xa v.v… có quán về từ v.v…, dùng cõi dục và định phi chí làm địa. Cũng có khi dùng định căn bản làm địa. Do trước đã chế phục các Hoặc xong, sau do diệt, đạo trừ diệt các Hoặc. Tiếp theo, ở trong phần vị lìa dục, do đạt được định căn bản vô lượng, nên nếu khi được sức mạnh của định duyên thì không còn bị các thứ kia có thể bức bách.

Người mới tu học làm sao tu quán về từ vô lượng? Như cho tự thân đã được an lạc thù thắng, hoặc thấy nghe người khác được an lạc thù thắng. Nghĩa là chư Phật, Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, đối với chúng sinh khởi tưởng an lạc, nguyện an lạc thù thắng, đạt đến tột cùng như thế. Tức là nguyện cho các chúng sinh đều được an lạc như vậy. Nếu không thể cùng phát khởi tâm này, vì các Hoặc rất mạnh, nên trước tiên, đối với hàng thân thuộc chia làm ba phẩm. Phẩm trên hết là người thân, khởi tưởng nguyện đạt được an lạc thù thắng. Nếu đối với nguyện kia đã thành, tiếp theo đối với người thân nơi hạng giữa và hạng dưới, hành quán cũng thế. Nơi ba phẩm, tức được quán về Từ bình đẳng xong. Tiếp theo, đối với những người phẩm trung hành quán nên biết đều như trước đã nói.

Tiếp nữa, đối với người oán, lại chia làm ba phẩm. Đối với kẻ oán thấp nhất, nguyện cho họ được an lạc thù thắng. Tiếp theo, đối với kẻ oán bậc trung và kẻ oán bậc nhất cũng như thế. Đối với kẻ oán bậc nhất, tưởng nguyện họ được an lạc thù thắng. Nếu lại khởi tâm không thoái thất, thì như đối với người thân của phẩm trên hết không khác. Theo thứ lớp ở trong nhà, thôn xóm, phương cõi, khởi tưởng nguyện được an lạc thù thắng. Cho đến duyên nơi một phương và khắp tất cả thế giới, khởi nguyện tưởng an lạc thù thắng, do nơi tâm từ vô lượng hiện bày khắp, rốt ráo. Nếu người đối với tất cả chúng sinh luôn vui thích giữ lấy đức, thì người ấy chắc chắn nhanh chóng thành tựu được quán từ. Vì sao? Vì đối với người đoạn dứt căn thiện, nếu nhận lấy đức kia cũng có thể đạt được.

Đối với bậc Độc giác, Tê-giác-dụ, nếu nhận lấy lỗi kia cũng có thể đạt được, do có thể hiển bày quả phước, phi phước ngày xưa. Đối với Bi và Hỷ, tu hành quán cũng như vậy. Quán chúng sinh kia bên trong không còn nhiều tai họa lưu xuất. Nguyện cho chúng sinh kia giải thoát khỏi các khổ. Nguyện cho chúng sinh kia luôn được hoan hỷ. Nếu người tạo ra tưởng nguyện như vậy, thì có thể nhập quán của định Bi, Hỷ. Quán xả thì từ cảnh giới giữa thành, chỉ dùng chúng sinh của chúng sinh làm hành tướng.

Bốn định vô lượng nơi nẻo nào có thể tu tập?

Kệ nói: Nẻo người sinh.

Giải thích: Nếu tu bốn định vô lượng kia, tất ở nơi nẻo người, không phải ở nơi nẻo khác.

Nếu người cùng với một định vô lượng tương ưng thì tất tương ưng với tất cả chăng?

Không nhất định tương ưng với tất cả.

Sự việc này là thế nào?

Kệ nói: Ba định hợp.

Giải thích: Nếu người sinh khởi định thứ ba, thứ tư, tức cùng với hỷ không tương ưng. Nếu người được định vô lượng là luôn tương ưng với ba định.

Kệ nói: Giải thoát: tám.

Giải thích: Bên trong tưởng có sắc, bên ngoài quán về sắc, là giải thoát thứ nhất. Bên trong không có tưởng sắc, bên ngoài quán về sắc, là giải thoát thứ hai. Giải thoát tịnh do thân chứng xong, an trụ ở trong sự tu tập, là giải thoát thứ ba. Định vô sắc là bốn giải thoát. Cho đến định diệt thọ tưởng là giải thoát thứ tám.

Kệ nói: Hai trước: Quán bất tịnh.

Giải thích: Hai giải thoát trước lấy quán bất định làm thể tánh, dùng tưởng về đen, nát rửa v.v… làm hành tướng. Vì thế đối với hai giải thoát này, nên biết như nghĩa hành quán trong quán bất tịnh.

Hai trước ấy: Kệ nói: Hai định.

Giải thích: Hai giải thoát này ở trong hai định trước là đối tượng được tu, không phải ở nơi địa khác, theo thứ lớp là cõi dục và địa của định thứ nhất.

Vì đối trị nơi cõi dục, cõi sắc.

Kệ nói: Ba định sau: Vô tham.

Giải thích: Giải thoát tịnh thứ ba chỉ tu ở định thứ tư. Giải thoát này cũng dùng căn thiện vô tham làm thể tánh, không phải dùng quán bất tịnh làm thể tánh, do tưởng tịnh làm hành tướng. Nếu gồm thâu loại bạn chung với tưởng tịnh kia thì dùng năm ấm làm thể tánh.

Giải thoát vô sắc:

Kệ nói: Địa định vô sắc tịnh.

Giải thích: Nếu thiện, nếu địa định thì quán về bốn định vô sắc, là bốn giải thoát vô sắc, không phải là địa bất định. Ví như ở trong tử hữu.

Sư của Bộ khác nói: Định vô sắc có khi không phải là định, như Tôn giả Mục-kiền-liên đã tu tập.

Lại nữa, đạo giải thoát nơi định cận phần vô sắc, đạo ấy cũng được mang tên là giải thoát. Nếu là thiện và địa định, thì không phải là đạo vô gián duyên nơi địa dưới làm cảnh.

Vì sao? Vì nghĩa từ bỏ tức là giải thoát.

Kệ nói: Giải thoát: Định diệt tâm.

Giải thích: Định diệt thọ tưởng tức là giải thoát thứ tám. Định này ở trước đã nói. Do dứt bỏ thọ, tưởng nên gọi là giải thoát. Lại, do từ bỏ tất cả pháp hữu vi.

Lại có Sư khác nói: Do tám pháp này có thể giải thoát tất cả chướng ngại nơi định.

Như người tu định diệt tâm.

Kệ nói: Tế sau cùng, sau thành.

Giải thích: Xứ Hữu đảnh: Do tưởng rất vi tế, nên định này lại tu tập khiến rất vi tế mới có thể nhập định diệt tâm.

Nếu người đã nhập định diệt tâm làm sao có thể xuất?

Kệ nói:

Tự địa tịnh đến Thánh

Tâm từ kia xuất quán.

Giải thích: Hoặc do ở nơi xứ Hữu đảnh tâm thanh tịnh, từ tâm ấy nên được xuất. Hoặc do vô sở hữu nhập làm địa, có tâm thanh tịnh và tâm vô lưu nên từ tâm ấy được xuất. Như vậy dựa vào tâm hữu lưu nhập định vô tâm, tâm xuất thì chung cả hữu lưu, vô lưu. Ở trong tám giải thoát này:

Kệ nói:

Nơi cõi dục thấy cảnh Ba trước.

Giải thích: Ở ba giải thoát trước dùng chung sắc nhập của cõi dục làm cảnh, hoặc đáng ghét, hoặc đáng yêu, như thứ lớp.

Kệ nói:

Bốn vô sắc

Là chủng loại loại trí

Tự cảnh đế địa trên.

Giải thích: Giải thoát vô sắc duyên nơi khổ của địa trên và khổ của địa mình, dùng khổ tập, khổ diệt làm cảnh, đồng thời lấy tất cả đạo chủng loại của loại trí và hư không phi trạch diệt làm cảnh.

Vì sao ở định thứ ba không lập giải thoát?

Vì nơi địa của định thứ hai sắc dục không có. Lại, nơi an lạc trong mát có tán động.

Vì sao người tu quán giải thoát tịnh là an lạc?

Vì trước là quán bất tịnh, làm suy tổn sự nối tiếp của chính mình. Lại nữa, vì muốn quan sát tự mình có thể hoặc không thể hành trì. Nghĩa là đối với hai giải thoát trước là thành tựu hay không thành tựu. Nếu như vậy tức nhận biết hai giải thoát trước là thành. Nếu lại do tướng tịnh quán cảnh tịnh, thì trước hết là Hoặc không khởi. Vì sao? Vì người tu quán do hai thứ nhân, nên tu quán như giải thoát v.v…

Một là nhằm khiến các Hoặc rất xa cùng lìa.

Hai là ở trong định được tự tại, vì có thể dẫn lấy các đức như không tranh chấp v.v… cùng có thể dẫn lấy thông tuệ bậc Thánh. Thông tuệ này có thể làm biến đổi loại vật, thành tựu sở nguyện, kéo dài hay thu ngắn thọ mạng.

Vì sao ở giải thoát thứ ba, thứ tám nói là thân chứng, nơi các thứ khác thì không nói?

Do hai loại này là vượt hơn. Lại do ở nơi biên vực tận cùng của cõi, dịa.

Kệ nói: Chế nhập có tám thứ.

Giải thích: Bên trong có tưởng sắc, bên ngoài quán lượng nhỏ của sắc, hoặc tốt, hoặc xấu, chế ngự tu về sắc ấy: Ta thấy, ta biết. Tạo ra tưởng như thế là chế nhập thứ nhất (Thắng xứ thứ nhất). Vô lượng sắc cũng vậy. Bên trong không tưởng sắc, bên ngoài quán sắc. Hai tưởng này như hai thứ trước, hợp chung thành bốn. Bên trong không tưởng sắc, quán sắc xanh, vàng, đỏ, trắng: Ta thấy, ta biết. Tạo ra tưởng như vậy hợp với đây thành tám thứ.

Kệ nói: Hai như giải thoát đầu.

Giải thích: Như giải thoát đầu, nên biết hai chế nhập cũng thế.

Kệ nói: Hai sau như thứ hai.

Giải thích: Như giải thoát thứ hai, nên biết chế nhập thứ ba, thứ tư cũng vậy.

Kệ nói: Còn như giải thoát tịnh.

Giải thích: Như giải thoát tịnh, nên biết bốn chế nhập sau cũng thế.

Nếu như vậy đây kia có gì khác nhau?

Do tám giải thoát trước chỉ là từ bỏ. Do tám chế nhập sau là chế phục tu tập. Nơi cảnh giới khiến tùy theo ý lạc của chính mình hiện rõ, cùng khiến các Hoặc không dấy khởi.

Kệ nói: Mười biến nhập.

Giải thích: Do có thể bao trùm khắp chỗ dấy khởi một loại, không chút kẽ hở, nên gọi là vô biên.

Pháp nào là vô biên?

Tức là đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng. Tướng của sắc này bao trùm khắp. Không vô biên nhập, thức vô biên nhập, hai xứ này cũng được che phủ khắp.

Trong đó: Kệ nói: Vô tham: Tám.

Giải thích: Tám thứ trước dùng vô tham làm tánh.

Kệ nói: Định sau.

Giải thích: Định thứ tư là địa được các biến nhập kia nương dựa.

Kệ nói: Cảnh kia: Dục.

Giải thích: Sắc nhập của cõi dục là cảnh giới của biến nhập kia.

Có Sư khác nói: Xúc của phong nhập vô biên là cảnh giới. Lại có Sư khác cho: Bốn thứ trước, xúc là cảnh giới. Bốn thứ sau, sắc là cảnh giới.

Kệ nói: Hai vô sắc tịnh.

Giải thích: Hai nhập vô biên sau cùng dùng định vô sắc thanh tịnh làm tánh.

Kệ nói: Tự địa: Cảnh bốn ấm.

Giải thích: Bốn ấm của tự địa là cảnh giới của hai nhập vô biên sau. Tám chế nhập là nhập vào pháp môn giải thoát. Mười nhập vô biên là nhập vào pháp môn chế nhập. Vì trước trước so với sau sau là hơn, nên giải thoát v.v… này dùng tất cả sự tương tục của hàng phàm phu và Thánh nhân làm chỗ nương dựa, chỉ trừ giải thoát của định diệt tâm.

Kệ nói: Định diệt tâm đã nói.

Giải thích: Giải thoát của định diệt tâm ở nơi trước đã nói, do tất cả nghĩa có sai biệt.

Kệ nói: Khác: Hành lìa dục được.

Giải thích: Khác với định diệt tâm, các giải thoát còn lại hoặc do lìa dục đạt được, hoặc do gia hạnh đạt được. Do trước đã đều khắp, do trước chưa đều khắp.

Kệ nói:

Ba cõi dựa vô sắc

Khác: Nẻo người, tu đắc.

Giải thích: Giải thoát vô sắc, nhập vô biên vô sắc, pháp này dùng thân của ba cõi làm chỗ nương dựa. Người nơi ba cõi đã tu đắc. Các giải thoát còn lại cùng các chế nhập, nhập vô biên đều dựa vào sự nối tiếp của nẻo người để được thành. Do diệu lực của chánh giáo duyên nơi đối tượng được sinh.

Vì sao ở nơi cõi sắc, cõi vô sắc tu đạt được định sắc, định vô sắc có sai biệt? Do ba thứ nhân duyên, nên bốn thứ Trì-ha-na, bốn Tam-ma-bạt đề vô sắc được sinh. Lại do nơi lực của nghiệp nhân nơi pháp như thế.

Trong đây: Kệ nói:

Lực nghiệp nhân hai cõi Sinh định sắc, vô sắc.

Giải thích: Ở hai cõi, nghĩa là cõi sắc, cõi vô sắc, sinh định của cõi vô sắc. Hoặc do lực của nhân nghĩa là tu gần và thường tu. Hoặc do lực của nghiệp, nghĩa là báo sau của phần cõi trên, là quả báo của nghiệp mong muốn đạt đến. Vì sao? Vì nếu người ở nơi cõi dưới không sinh mong muốn thì đối với cõi trên không thể được sinh.

Kệ nói:

Định sắc ở cõi sắc

Do hai pháp nhĩ được.

Giải thích: Ở trong cõi sắc sinh định sai biệt tất do hai lực. Nghĩa là lực của nhân và lực của nghiệp. Hoặc do lực của pháp như thế. Khi thế giới sắp hoại, tất cả chúng sinh, vào thời này đều đi đến nơi địa dưới, sinh bốn định sắc. Lúc ấy pháp thiện đã dấy khởi dồi dào, thành tựu hết mực. Chánh pháp của Phật, Thế Tôn này nên lại trụ trong bao nhiêu thời gian. Trong đây: Phẩm loại của các pháp như thế v.v… là rất sáng rõ, có thể biết, có thể thấy.

Kệ nói:

Chánh pháp Thế Tôn, hai

Giáo tu đắc là thể.

Giải thích: Ở đây: Chánh giáo: Nghĩa là các A-hàm (Giáo pháp), nghĩa là Tu-đa-la, Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạt-ma.

Chánh tu đắc: Tức là A-địa-già-ma. Đây là người nơi ba thừa đã tu tập. Pháp trợ Bồ-đề và quả của ba thừa, như thế gọi là hai thứ chánh pháp.

Trong ấy có bao nhiêu người?

Kệ nói:

Trong ấy có năng trì

Năng thuyết cùng năng hành.

Giải thích: Ở A-hàm có hai người: (1) Có thể hành trì đúng. (2) Có thể thuyết giảng đúng.

Nơi A-địa-già-ma chỉ có một người: Nghĩa là có thể tu đắc đúng đắn. Tùy nơi ba người này cùng truyền nhau về thời gian trụ để chánh pháp cũng theo thời gian ấy được trụ. Vì sao? Vì có hai nhân duyên có thể khiến cho chánh pháp được trụ lâu dài. Nghĩa là thuyết giảng đúng và thọ trì đúng.

Có Sư khác cho: Sau Phật nhập Niết-bàn một ngàn năm, chánh pháp được trụ. Thuyết này căn cứ theo chỗ tu đạt được đúng đắn, không căn cứ theo A-hàm. Nếu căn cứ theo A-hàm, tức có nhiều thời gian. Vì sao? Vì ở trong đời sau cùng, nếu có thể hành trì chánh pháp này, các người ấy có hai loại: (1) Tùy theo chỗ nghe có được tâm tin. (2) Theo chỗ hiểu đúng đắn có được tâm tin. Chư thiên đều ủng hộ. Những người kia tức khiến cho A-hàm và sự tu đắc đúng đắn, ở nơi thế gian không chóng ẩn mất. Thế nên trong đây, như văn, như nghĩa, nên gấp tu tập chánh hành.

Trong Luận này, A-tỳ-đạt-ma của Đức Phật, Thế Tôn là Tôi đã giảng nói, hay là như trong kinh bộ đã hiển bày, hay là như trong Tỳbà-sa đã nêu rõ?

Kệ nói:

Kế Tân lý Tỳ-bà-sa thành

Tôi thuận nhiều đấy nói Luận này

Chấp riêng chánh pháp là lỗi tôi

Xét chánh lý pháp Phật là lượng.

Giải thích: Sư Tỳ-bà-sa nước kế Tân nói hai chứng cứ đã thành tựu A-tỳ-đạt-ma này. Tôi nay phần nhiều thuận theo nghĩa ấy để nêu bày. Trong ấy, nếu có chấp riêng về bên nào thì đấy là lỗi lầm của tôi. Lìa chứng cứ có thể phán định đúng về chánh pháp thì chỉ có Đức Phật, Thế Tôn là lượng tối thắng. Vì sao? Vì Phật đã chứng đắc nhận biết về tất cả các pháp.

Nếu đệ tử của Phật, Thánh lìa A-hàm và đạo lý để phán quyết về chánh pháp cũng không phải là lượng thích đáng.

HẾT – QUYỂN 21