A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THÍCH LUẬN
Tác giả: Tôn giả Bà Tẩu Bàn Đậu (Thế Thân)
Hán dịch: Đời Trần, Tam Tạng Chân Đế
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 20

Phẩm thứ 7: PHÂN BIỆT TUỆ, phần 2

Nêu bày về tất cả phàm phu và Thánh nhân, do nghĩa chung nơi nhất thiết trí, tu các đức xong. Mười tám pháp bất cộng đắc Phật, nghĩa là lực v.v… pháp này chỉ một người là Đức Phật, Thế Tôn, nơi lúc tận trí sinh đã đạt được do tu đắc, không phải ở nơi người khác, nay sẽ nói.

Những gì là mười tám?

Kệ nói:

Mười tám bất cộng đắc

Pháp Phật là như lực v.v…

Giải thích: Mười lực, bốn vô úy, ba niệm xứ và đại bi, đó gọi là mười tám. Trong đây, giải thích về mười lực có bảy nghĩa. Bảy nghĩa ấy là: (1) Tự tánh. (2) Phân biệt. (3) Riêng đắc. (4) Bình đẳng. (5) Tạo sự việc. (6) Thứ lớp. (7) Sai biệt. Nghĩa này nên biết.

Kệ nói: Mười trí xứ, phi xứ.

Giải thích: Trong xứ phi xứ, trí lực gồm đủ mười trí.

Kệ nói: Sức nghiệp có tám trí.

Giải thích: Ở trong nghiệp cùng quả báo, trí lực gồm đủ tám trí, trừ diệt trí, đạo trí.

Kệ nói:

Lực tánh dục, căn định

Đạo biến hành chín trí Hoặc mười trí.

Giải thích: Định giải thoát nơi Tam-ma-đề, trí lực của Tam-mabạt-đề chuyển dần căn trí lực. Vô số lực của dục trí, vô số lực của tánh trí, đều có chín trí lực, trừ diệt trí. Trí lực của đạo biến hành, hoặc mười trí, hoặc chín trí. Vì sao? Vì nếu cho đạo này cùng với quả gọi là trí lực của đạo biến hành, tức đủ mười trí. Nếu cho không cùng với quả thì chỉ có chín trí, trừ diệt trí.

Kệ nói: Thế trí nơi hai.

Giải thích: Lực của trí túc trụ niệm và lực của trí tử sinh chỉ là thế tục trí.

Kệ nói: Sáu, mười diệt.

Giải thích: Lực của trí lưu tận hoặc lấy sáu trí làm tánh: Nghĩa là pháp trí, loại trí, diệt trí, tận trí, vô sinh trí và thế tục trí. Nếu cho chỉ có diệt trí gọi là lực của trí lưu tận thì nghĩa của các pháp kia là như vậy. Nếu cho trí trong sự tương tục của lưu tận gọi là lực của trí lưu tận thì gồm đủ mười trí.

Nói tánh lực của mười trí này xong. Địa của lực nơi trí kia nay sẽ nói.

Kệ nói: Túc trụ thoái sinh lực.

Giải thích: Lực của trí túc trụ và lực của trí tử sinh, đều dựa vào bốn định làm địa.

Kệ nói:

Lực còn lại Ở các địa.

Giải thích: Lực của tám trí còn lại thuộc về tất cả địa. Tất cả địa có mười thứ. Nghĩa là cõi dục, định vị chí, định trung gian, bốn định sắc, bốn định vô sắc. Tất cả lực của mười trí đều dựa nơi thân người của cảnh giới châu Diệm-phù dấy khởi. Lìa khi Đức Phật, Thế Tôn không xuất hiện ở đời, lực của mười thứ trí này, đối với người khác, không gọi là lực, chỉ ở nơi sự nối tiếp của Phật mới gọi là lực. Vì ở nơi người khác có đối oán cùng ngăn ngại, nên không gọi là lực.

Kệ nói:

Vì sao?

Lực do đây không ngại.

Giải thích: Chỉ Đức Phật đã diệt trừ tất cả lưu cùng tập khí vô minh v.v… đều hết. Đối với tất cả cảnh giới, trí sinh khởi không có trở ngại. Vì vậy ở nơi Phật là oai lực, đối với người khác là có trở ngại. Vì sao? Vì người kia muốn biết cảnh giới này, nhưng ở trong cảnh giới ấy trí không sinh. Do đó không thể thọ nhận tên lực. Từng nghe nói Đại đức Xá-lợi-phất từ bỏ tất cả để cầu làm người xuất gia.

Lại nữa, từng nghe nói chim Cắt đuổi bắt chim nhỏ khiến quá sợ hãi. Đại đức Xá-lợi-phất không thể nhận biết về sự thọ sinh đầu tiên và sự thọ sinh sau cùng kia. Như thế, do trí không có đối oán và trở ngại, nên lực của tâm Phật, Thế Tôn cũng như cảnh giới không có biên vực.

Nếu lực của tâm như vậy, thì lực của thân là thế nào?

Kệ nói: Thân lực Na-la-diên.

Giải thích: Lại nữa, có Sư khác nói: Thân lực của Phật, Thế Tôn là lực của Na-la-diên.

Kệ nói: Hoặc tiết tiết.

Giải thích: Có Sư khác cho: Ở trong mỗi mỗi chi tiết nơi thân của Phật, đều có đủ lực của Na-la-diên. Đại đức nói: Như lực của tâm Phật là không biên vực, lực của thân Phật cũng như vậy. Vì sao?

Vì nếu không như vậy, thì thân ấy tức không thể nhận nổi lực của trí không biên vực. Vì sao? Vì trong mỗi mỗi chi tiết nơi thân của Đức Phật, Thế Tôn, Độc giác, Chuyển luân vương đều có vòng xích xương được nối kết của loài rồng.

Lực của Na-la-diên về lượng là thế nào?

Kệ nói:

Tăng trăm

Bảy thứ lực như voi v.v…

Giải thích: Trong nẻo người: Sức của một trăm hương tượng ngang bằng sức của một voi chúa trắng. Sức của một trăm voi chúa trắng ngang bằng sức của một Ma-ha-nặc-na. Sức của một trăm Maha-nặc-na ngang bằng sức của một Bát-ta-kiến-đề. Sức của một trăm Bát-ta-kiến-đề ngang bằng sức của một Bà-lang-già. Sức của một trăm Bà-lang-già ngang bằng sức của một Già-nậu-la. Sức của một trăm Già-nậu-la ngang bằng lực của một Na-la-diên. Tăng trăm trăm lần như thế sức của hương tượng, bạch tượng, Ma-ha-nặc-na, Bát-takiến-đề, Bà-lang-già, Già-nậu-la, thành lực của Na-la-diên.

Có Sư khác nói: Gấp đôi sức này, gọi là lực của Na-la-diên. Tùy chỗ chuyển tăng là hơn. Vì sao? Vì lực của Phật là vô lượng.

Kệ nói: Xúc nhập ấy là tánh.

Giải thích: Lực của thân ấy nên biết. Xúc nhập là tự tánh, là loại sắc thù thắng được tạo do bốn đại, khác với bảy thứ xúc. Sư khác nói như thế.

Kệ nói: Vô úy có bốn thứ.

Giải thích: Dựa theo văn của kinh nói: Vô úy có bốn thứ.

Kệ nói:

Hai trước: Mười lực đầu Hai sau: Thứ hai, bảy.

Giải thích: Lực của trí xứ phi xứ như vô úy thứ nhất. Như kinh nói: “Ta nay đã thành Tam nhã tam Phật đà”. Nói rộng như kinh. Nên biết là vô úy thứ nhất. Lực của trí lưu tận như vô úy thứ hai. Như kinh nói: “Ta nay các lưu đã diệt hết”. Nói rộng như kinh. Nên biết là vô úy thứ hai. Lực của trí thuộc nghiệp, như vô úy thứ ba. Như kinh nói: “Là Ta đã giảng nói. Đối với chúng đệ tử là pháp cùng với chướng ngại tương ưng”. Nói rộng như kinh. Nên biết là vô úy thứ ba. Lực của trí đạo biến thành, như vô úy thứ tư. Như kinh nói: “Là Ta đã giảng nói, đối với chúng đệ tử là các đạo phẩm thanh tịnh xuất ly sinh tử”. Nói rộng như kinh. Nên biết là vô úy thứ tư. Bốn pháp như thế, nên biết là bốn vô úy. Vô úy lấy không sợ hãi làm tánh.

Vì sao nói trí tuệ là vô úy? Do bốn pháp này nên chư Phật ở trong chỗ tập hội đông lớn không còn có tâm nghi, nên nói trí tuệ kia là vô úy. Pháp không nghi này là do trí tuệ thành tựu, nên ở nơi trí gọi là vô úy không phải trí.

Bốn vô úy này hiển bày về nghĩa gì?

Hiển bày về nghĩa tự lợi, lợi tha. Hai vô úy trước là tự lợi. Hai vô úy sau là lợi tha. Lại nữa, bốn vô úy này chỉ là việc tạo lợi ích cho người khác, có thể loại trừ cấu uế của người nói và cấu uế của điều được giảng nói.

Nói về bốn vô úy xong. Niệm xứ: Do chúng đệ tử có sai biệt nên có ba niệm xứ. Như kinh nói: Niệm xứ này.

Kệ nói: Ba niệm, tánh niệm tuệ.

Giải thích: Ba niệm xứ này dùng niệm tuệ làm tánh. Vào thời ấy, nếu chúng đệ tử tâm cung kính, lắng nghe và tu hành. Hoặc tâm không cung kính, không lắng nghe và tu hành. Lại có đủ hai thứ. Ở đây, Đức Phật, Thế Tôn không có tâm ái dục, không có tâm giận dữ, không có tâm tạp nhiễm.

Vì sao nói ba thứ này là pháp bất cộng đắc của Đức Phật? Vì ba thứ ấy làm rõ Đức Như Lai đã diệt trừ hết các tập khí.

Lại nữa, nếu chúng đệ tử của mình, đối với giáo huấn của thầy, cung kính thọ hành, hoặc không cung kính thọ hành. Cùng gồm đủ trong hai sự, các sự việc mừng lo v.v… như đối với Đức Phật hoàn toàn không sinh. Đối với người khác thì không như vậy. Ba thứ này không sinh, đối với Đức Phật là pháp hy hữu. Người khác thì không có, nên lập pháp này là pháp bất cộng đắc của Phật.

Về Đại bi nay sẽ nói.

Kệ nói: Đại bi thế tục trí.

Giải thích: Đại bi dùng thế tục trí làm tánh. Nếu không như vậy thì không thể thành duyên nơi tất cả chúng sinh làm cảnh giới. Cũng không được dùng ba khổ làm hành tướng. Ví như bi của hàng Thanh văn. Vì sao gọi là đại bi?

Kệ nói:

Do tư lương hành tướng

Cảnh bình đẳng tối thượng.

Giải thích:

    1. Do tư lương lớn. Có thể sinh trưởng tư lương của phước đức, trí tuệ lớn.

 

  • Do hành tướng lớn. Dùng ba khổ làm hành tướng, duyên nơi chúng sinh dấy khởi.
  • Do cảnh giới lớn. Duyên chung nơi chúng sinh của ba cõi làm cảnh.

 

  1. Do bình đẳng lớn. Đối với tất cả chúng sinh bình đẳng khởi tạo việc lợi ích.
  2. Do tối thượng lớn. Vì đây là bi trên hết, rốt ráo. Vậy đại bi cùng với bi có gì khác biệt?

Kệ nói: Sai biệt có tám thứ.

Giải thích:

    1. Tánh có sai biệt: Do không giận, không si làm tánh.

 

  • Hành tướng có sai biệt: Do một khổ, ba khổ làm hành tướng.
  • Cảnh giới có sai biệt: Do duyên nơi một giới (cõi), ba giới (ba cõi)làm cảnh khởi.
  • Địa có sai biệt: Do dựa vào bốn định, dựa vào định thứ tư làm địa.
  • Sự nối tiếp có sai biệt: Do nương dựa vào sự nối tiếp của Thanh văn v.v… vào sự nối tiếp của Phật để sinh khởi.
  • Dẫn đến chứng đắc có sai biệt: Do lìa dục nơi cõi dục, nơi xứ Hữu đảnh đã đạt được.

 

  1. Cứu giúp có sai biệt: Do muốn cứu giúp, do muốn thành tựu cứu giúp.
  2. Bi có sai biệt: Do bi chẳng đồng, đồng.

Đã nói về mười tám pháp của chư Phật không chung với người khác. Vậy các pháp này cùng với chư Phật là hoàn toàn chung chăng? Cùng với chư Phật là có chung, không chung. Nghĩa này là thế nào?

Kệ nói:

Do tư lương pháp thân

Cùng hành lợi ích khác

Tất cả Phật bình đẳng

Không phải tánh thọ lượng.

Giải thích: Do ba nhân duyên nên hết thảy chư Phật đều bình đẳng:

  1. Nhân viên mãn bình đẳng: Do từ xa xưa đã hành tư lương phước đức, trí tuệ đồng viên mãn.
  2. Quả viên mãn bình đẳng: Do đã được Pháp thân đồng thành tựu đầy đủ.
  3. Lợi ích cho người khác bình đẳng: Do đối quả đã chứng đắc, chuyển nơi sự việc tạo lợi ích cho người khác đồng rốt ráo.

Vì ba nghĩa này nên chư Phật đều bình đẳng. Không chung: Nghĩa là có sai biệt, do thọ mạng, do chủng tánh, do thân lượng v.v… Chỗ tạo thành về thọ mạng có dài, ngắn. Đời trước, đời sau thọ sinh có khác nhau. Chủng tộc Bà-la-môn, Sát-đế-lợi không đồng. Họ Cadiếp-ba, Cù-đa-ma v.v… không đồng. Thân lượng với hào quang có lớn, nhỏ. Nói vân vân là chỉ cho pháp trụ thân hoại, không hoại v.v… Như thế do tùy thời sinh nên có sai biệt. Nếu người thông sáng tư duy về ba thứ đức thù thắng viên mãn của chư Phật, thì ở nơi trú xứ của Đức Phật Thế Tôn tất có thể sinh tâm tôn trọng, ái niệm tột bậc.

Ba đức thù thắng viên mãn: Đức thù thắng của nhân viên mãn. Đức thù thắng của quả viên mãn. Đức thù thắng của ân viên mãn.

Trong đó, đức thù thắng của nhân viên mãn có bốn thứ: (1) Tất cả phước đức, trí tuệ đều thường xuyên tập hành. (2) Hành trong thời gian dài. (3) Hành không có gián cách. (4) Hành tôn trọng.

Đức thù thắng của quả viên mãn có bốn thứ: (1) Đức thù thắng của trí. (2) Đức thù thắng của đoạn. (3) Đức thù thắng của oai lực. (4) Đức thù thắng của sắc thân.

Đức thù thắng của ân viên mãn có bốn thứ: Đức của ân vĩnh viễn giải thoát khỏi sinh tử của ba nẻo ác. Hoặc đức của ân đã an lập nơi đường thiện và ba thừa.

Đức thù thắng của trí lại có bốn thứ: (1) Vô sư trí. (2) Nhất thiết trí. (3) Nhất thiết chủng trí. (4) Vô công dụng trí.

Đức thù thắng của đoạn cũng có bốn thứ: (1) Tất cả chướng của giải thoát đều diệt. (2) Tất cả chướng của định đều diệt. (3) Tất cả chướng của trí đều diệt. (4) Thời gian vĩnh viễn diệt.

Đức thù thắng của oai lực cũng có bốn thứ: (1) Oai lực đối với cảnh bên ngoài, hóa sinh, chuyển biến, nguyện thành, hợp tan đều tự tại. (2) Oai lực đối với thọ mạng lấy bỏ, an lập đều tự tại. (3) Oai lực đối với chướng ngại cùng nơi hư không đi rất xa, rất nhanh, nơi ít khiến nhiều, nhập xuất đều tự tại. (4) Oai lực của đức đối với vô số tự tánh, pháp hy hữu đều viên mãn.

Đức thù thắng của oai lực lại có bốn thứ: (1) Khó hóa độ, có thể hóa độ. (2) Giải đáp các vấn nạn, tất có thể đoạn trừ nghi. (3) Lập giáo, quyết định xuất ly. (4) Có thể chế ngự, hàng phục các thứ ma ác, ngoại đạo v.v…

Đức thù thắng của sắc thân có bốn thứ: (1) Đức thù thắng của tướng lớn. (2) Đức thù thắng của tướng nhỏ. (3) Đức thù thắng của diệu lực. (4) Đức thù thắng của thân cốt là kim cương chân thật.

Đức thù thắng của chư Phật nếu nói chung thì có những thứ như vậy. Nếu phân biệt về sự sai khác nơi các đức thù thắng ấy, thì không có biên vực. Đức thù thắng này, chỉ có chư Phật, Như Lai mới có thể biết đủ, nói đủ. Nếu chư Phật Như Lai thâu giữ thọ mạng nơi vô số A-tăng-kỳ kiếp thì nêu bày mới có thể hết. Chư Phật Như Lai như thế là có vô biên công đức hy hữu. Trí đức, đoạn đức, ân đức là ao báu lớn. Chúng sinh, phàm phu, do đức mình nghèo thiếu làm tổn hại sự tin tưởng ưa thích. Tuy đã được nghe rõ về các đức thù thắng viên mãn như vậy, nhưng đối với Phật không khởi tâm tôn trọng. Đối với chánh pháp của Như Lai cũng như vậy. Nếu ngưới thông sáng, nghe công đức này khởi tâm quy y dốc hết lòng thành nên đối với chánh pháp của Phật cũng như vậy. Người này do tâm hoàn toàn tịnh tín, tức đã chế phục tụ nghiệp ác của báo bất định xong, thọ nhận báo an lành vui thích nơi nẻo người, trời, sau cùng hướng đến Niết-bàn là hơn hết.

Thế nên chư Phật Như lai xuất hiện ở đời làm ruộng phước vô thượng cho tất cả chúng sinh. Do có thể phát sinh diệu hữu thù thắng đáng yêu thích, nên mau chóng đạt quả thiện về sau.

Làm sao nhận biết được?

Phật, Thế Tôn tự nói kệ để hiển bày nghĩa này.

Kệ nói:

Nếu người đời vị lai

Nơi Phật, tạo ít thiện Thọ sinh chư thiên xong Tất được đủ không mất.

Nói về đức không chung của chư Phật như thế xong.

Kệ nói:

Có pháp khác Phật, chung Đệ tử và phàm phu.

Giải thích: Chư Phật, Như Lai có công đức cùng với đệ tử cùng đạt được. Hoặc cùng với hàng phàm phu cùng đạt được.

Là những công đức gì?

Như thứ lớp: Kệ nói:

Không tranh cùng nguyện, trí Đức như vô ngại giải.

Giải thích: Các đức, nghĩa là Tam-ma-đề vô tránh, nguyện trí, bốn vô ngại giải, thông, tuệ định, Tam-ma-đề vô sắc, vô lượng giải thoát, chế nhập, biến nhập v.v… Trong đấy, Tam-ma-đề vô tránh: Tức có các Tỳ-kheo A-la-hán đã biết rõ về các thứ khổ của chúng sinh là do hoặc sinh khởi. Vì muốn khiến thân đối với người khác thành ruộng phước vô thượng, vì muốn chế phục duyên khác, nên nơi tự thân phiền não sinh khởi, sinh tướng trí như thế. Do trí này, nên người khác không thể sinh khởi tất cả thứ tranh luận. Do trí này nên không có người khác duyên nơi người hành quán. Hoặc khởi tâm dục, hoặc khởi tâm giận dữ, hoặc khởi tâm kiêu mạn v.v… Vì chánh hạnh này, tất không phát động, tùy vào một người khác để có thể dấy khởi phiền não. Thế nên gọi là vô tránh.

Thể tướng của Tam-ma-đề này là thế nào?

Kệ nói: Thế tục trí, vô tránh.

Giải thích: Đây là tự tánh của Tam-ma-đề, nghĩa là thế tục trí.

Kệ nói: Định sau.

Giải thích: Định sau, nghĩa là phần sau cùng của định thứ tư. Định này tuy dùng chung địnnh thứ tư làm địa, nhưng chỉ là trí lạc tốc.

Kệ nói: Pháp không hoại.

Giải thích: Chỉ ở trong sự nối tiếp của A-la-hán pháp bất hoại sinh khởi, không phải là A-la-hán khác. Vì sao? Vì A-la-hán khác đối với sự nối tiếp của mình, có lúc không thể khiến xa lìa các sự tranh cải khác sinh khởi.

Kệ nói: Sinh nẻo người.

Giải thích: Định này ở trong nẻo người tu tập chứng đắc, chỉ nơi ba châu.

Định này duyên nơi cảnh nào sinh?

Kệ nói: Chưa sinh

Dục có loại Hoặc cảnh.

Giải thích: Hoặc có loại nơi cõi dục ở vị lai làm cảnh của định này. Nguyện các Hoặc khác chớ nên sinh, nên dựa vào môn này sinh. Hoặc không loại thì không thể ngăn chận, lìa bỏ các hoặc biến hành duyên đủ nơi cõi địa sinh khởi. Như nói vô tránh:

Kệ nói: Nguyện trí cũng như thế.

Giải thích: Nguyện trí này cũng dùng thế tục trí làm tánh, dựa vào định sau làm địa, dựa vào sự nối tiếp của pháp không hoại để sinh, ở nơi nẻo người tu tập chứng đắc.

Nếu như vậy thì sai biệt là thế nào?

Kệ nói: Chỉ duyên tất cả cảnh.

Giải thích: Nguyện trí duyên nơi tất cả pháp làm cảnh dấy khởi, nên cảnh này khác với pháp của cõi vô sắc kia. Do nguyện trí không thể chứng biết. Tuy nhiên, do hành đẳng lưu có sai biệt nên có thể đối chiếu để nhận biết.

Sư Tỳ-bà-sa nói: Trong ấy, hành do người làm thí dụ.

Pháp môn của nguyện trí đã tu như thế nào?

Là tự mình mong cầu muốn nhận biết các sự việc. Vì thế nên nhập vào xứ xa nơi Tam-ma-đề thứ tư. Nguyện cho tôi tất nhận biết sự việc này, tức đối với sự việc ấy nhận biết đúng như thật. Tùy ở định này nên lực hành trì có xa gần, nhận biết về xa gần cũng như vậy.

Kệ nói:

Nơi pháp nghĩa, phương ngôn

Nẻo biện vô ngại giải.

Giải thích: Vô ngại giải có bốn thứ: (1) Pháp vô ngại giải. (2) Nghĩa vô ngại giải. (3) Phương ngôn vô ngại giải. (4) Nẻo biện vô ngại giải.

Vô ngại giải này nên biết như Tam-ma-đề vô tránh.

Thế nào là như nương dựa vào sự nối tiếp của pháp không hoại sinh khởi, ở nơi nẻo người tu tập, chứng đắc?

Hai thứ này đồng với địa của cảnh giới kia. Vì tự tánh có sai biệt, nên nói đây khác với kia.

Ba trước gọi nghĩa, ngôn Thứ lớp vô ngại giải.

Giải thích: Ở trong tụ của danh câu chữ, ở trong nghĩa, ở trong ngôn ngữ, trí không thể xoay chuyển, đó gọi là pháp, nghĩa, phương ngôn vô ngại giải. Theo thứ lớp nên biết.

Kệ nói:

Lý thoát trong thứ tư

Nơi ngôn nói tự tại.

Giải thích: Trí không thể xoay chuyển, đây gọi là lưu. Trong lý lìa chướng, mất lời trong nẻo định tự tại hiển hiện, ở đấy trí không thể xoay chuyển, nên gọi là xảo biện vô ngại giải.

Kệ nói: Đây duyên ngôn đạo cảnh.

Giải thích: Thuyết giảng đúng cùng đạo là cảnh giới của trí này.

Kệ nói: Chín trí.

Giải thích: Vô ngại giải này dùng chín trí làm tánh. Nghĩa là xảo biện đạo tự tại vô ngại giải, trừ diệt trí.

Kệ nói: Tất cả địa.

Giải thích: Vô ngại giải này dựa nơi tất cả địa dấy khởi. Nghĩa là từ cõi dục cho đến xứ Hữu đảnh, do duyên nơi ngôn đạo, tùy theo một thứ làm cảnh.

Kệ nói: Mười hoặc sáu nghĩa giải.

Giải thích: Trong nghĩa vô ngại giải, nếu dùng tất cả pháp làm nghĩa, thì giải này dùng mười trí làm tánh. Nếu chỉ lấy Niết-bàn làm nghĩa, thì chỉ dùng sáu trí làm tánh, tức là pháp trí, loại trí, diệt trí, tận trí, vô sinh trí và thế tục trí.

Kệ nói: Biến xứ.

Giải thích: Nghĩa vô ngại giải này dựa nơi tất cả địa dấy khởi.

Kệ nói: Thế trí khác.

Giải thích: Hai vô ngại giải còn lại là pháp, phương ngôn dùng thế tục trí làm tánh, duyên nơi ngôn ngữ như danh, câu v.v… làm cảnh.

Kệ nói: Pháp giải định cõi dục.

Giải thích: Pháp vô ngại giải có năm địa là cõi dục và thuộc về bốn định, vì đối với cõi trên không có các tụ như danh v.v… Kệ nói: Nơi ngôn dục định nhất.

Giải thích: Phương ngôn vô ngại giải dựa vào cõi dục và định thứ nhất làm địa. Vì ở cõi trên không có giác quán, nên trong Luận Phân Biệt Giả Danh đã phân biệt về bốn vô ngại giải, nói: Ở trong danh, câu, chữ, ở trong nghĩa kia đã chỉ rõ. Nghĩa này nơi một, hai, nhiều, ba thời, nam nữ có sai biệt đã nói. Ở đây nói không có lỗi chướng ngại. Trí không thể xoay chuyển gọi là vô ngại giải như pháp v.v… Thế nên thứ lớp về bốn vô ngại giải kia được thành. Phương ngôn là do nhân nơi lý, giải thích về ngôn từ. Ví như do có ngăn ngại, nên gọi là sắc v.v… Ngôn từ đối với chỗ lập, phá là ngôn thuyết thù thắng gọi là xảo biện.

Có Sư khác nói: Bốn vô ngại giải này dùng toán số ngôn thuyết của Đức Phật Thế Tôn, Thanh luận, Nhân duyên luận theo thứ lớp, là bốn giải này cùng trước là pháp môn gia hạnh. Vì sao? Vì nếu người đối với bốn xứ, chưa tu gia hạnh thấu rõ, thì không thể sinh khởi giải này.

Có Sư khác cho: Ở trong chánh pháp của Phật, Thế Tôn, tất cả gia hạnh kia đều thành tựu viên mãn. Nếu người đạt được một thứ, người đó tất đạt được bốn thứ. Vì sao?

Nếu không đủ, chưa được.

Giải thích: Nếu đạt được các gia hạnh kia mà không đầy đủ thì không thể nói người này đã được bốn thứ vô ngại giải, là chỗ nói về công đức như không tranh v.v…

Kệ nói: Sáu định biên xa được.

Giải thích: Sáu pháp này do sức của định biên vực xa đạt được, nên nói các thứ kia là định biên vực xa.

Kệ nói: Sáu này.

Giải thích: Định thứ tư ấy được gọi là biên vực xa. Sáu pháp làm thể. Nghĩa là Tam-ma-đề vô tránh, nguyện trí, ba vô ngại giải và Tam-ma-đề biên vực xa. Phương ngôn vô ngại giải tuy do sức nơi định biên vực xa mà được, nhưng không dựa nơi định thứ tư làm địa để khởi, vì thế không chọn lấy.

Pháp nào gọi là Tam-ma-đề biên vực xa?

Kệ nói:

Định sau cùng Tùy thuận tất cả địa

Đây đến tăng rốt ráo.

Giải thích: Định này chỉ dùng định thứ tư làm địa.

Thế nào là tùy thuận tất cả địa?

Trước là từ tâm khéo tư duy của cõi dục nhập định thứ nhất. Từ định thứ nhất nhập định thứ hai, theo thứ lớp như thế cho đến nhập định phi tưởng phi phi tưởng. Lại nữa, từ định phi tưởng phi phi tưởng tu theo thứ lớp nghịch, cho đến tâm nơi cõi dục. Lại nữa, từ tâm nơi cõi dục, lại tu theo thứ lớp thuận, cho đến định thứ tư. Như vậy tùy thuận tu tập nơi tất cả địa.

Vì sao gọi là dẫn đến tăng trưởng rốt ráo?

Tu định thứ tư như thế, từ hạ tu trung, từ trung tu thượng. Ba lối tu này, mỗi thứ lại chia làm ba phần, nên thành chín phẩm. Phẩm sau cùng gọi là dẫn đến tăng trưởng rốt ráo. Định như thế gọi là định biên vực xa. Biên vực tức hoặc dùng sự sai biệt làm nghĩa, hoặc dùng sự tăng trưởng tận cùng làm nghĩa. Ví như bốn biên vực và thật tế. Như thế sáu công đức:

Kệ nói: Chỉ Phật không hành được.

Giải thích: Khác với Đức Phật, các người còn lại tất phải do tu hành mới được, không do lìa dục đạt được. Chỉ có Đức Phật, Thế Tôn. Không có công đức là do tu hành chứng đắc, tất cả công đức đều là lìa dục đạt được. Vì sao? Vì chỉ có một Đức Thế Tôn là Pháp vương, đối với tát cả pháp được tự tại. Thế nên tất cả công đức, tùy theo ý muốn của Như Lai thảy đều hiện tiền. Các đức như thế đều cùng với các đệ tử cùng đạt được.

Như thông tuệ v.v… cũng cùng với hàng phàm phu cùng đạt được.

Pháp nào gọi là thông tuệ?

Kệ nói:

Như ý thành nhĩ tâm

Túc trụ, tử sinh dứt Trí chứng gọi thông giải Sáu thứ.

Giải thích: Như ý thành cảnh. Trí chứng thông tuệ. Thiên nhĩ. Tha tâm sai biệt. Túc trụ niệm sinh tử. Lưu tận trí chứng thông tuệ. Sáu pháp này gọi là thông tuệ, trong đó, năm pháp trước là cùng với hàng phàm phu cùng được. Tất cả sáu thông tuệ.

Kệ nói: Trí giải thoát.

Giải thích: Dùng trí của đạo giải thoát làm tánh. Ví như quả Sa-môn.

Bốn này: Thế tục trí.

Giải thích: Trừ tha tâm sai biệt thông tuệ và lưu tận thông tuệ, bốn pháp còn lại đều dùng thế tục trí làm thể.

Kệ nói: Tha tâm tuệ, năm trí.

Giải thích: Tha tâm thông tuệ dùng năm trí làm thể. Nghĩa là pháp trí, loại trí, đạo trí, thế tục trí, tha tâm trí.

Kệ nói: Tận thông tuệ, như lực.

Giải thích: Như trước đã nói, lực của trí lưu tận, thông tuệ này nên biết cũng như vậy. Hoặc dùng sáu trí, hoặc mười trí làm thể. Trí lưu tận kia dùng tất cả địa làm chỗ nương dựa, nên biết thông tuệ này cũng vậy.

Kệ nói: Năm khác nơi bốn định.

Giải thích: Năm thứ còn lại dùng địa của bốn định làm chỗ nương dựa.

Năm thứ còn lại này vì sao không dùng địa của định vô sắc làm chỗ nương dựa? Ở đây: Ba thông tuệ duyên nơi sắc làm cảnh, không thể dựa vào địa của định vô sắc để khởi. Tha tâm sai biệt thông tuệ ở nơi môn sắc đã sinh, nên cũng không dùng địa của định vô sắc làm chỗ nương dựa. Túc trụ niệm thông tuệ nhớ giữ phần vị khác biệt, theo thứ lớp sinh khởi cũng không dùng địa của định vô sắc làm chỗ nương dựa. Thông tuệ này dùng xứ sở, tên họ, nơi cư trú v.v… làm cảnh giới. Nếu người muốn biết tâm của người khác, đối với sự nối tiếp của mình, trước hết phải quán về hai tướng thân tâm. Nghĩa là tướng của thân ta như thế, tướng của tâm như thế. Như quán về tướng nơi thân, tâm mình, đối với sự nối tiếp của người khác cũng khởi tư duy về tướng như thế. Do đấy tức nhận biết tâm người khác.

Vì thế thông tuệ được sinh. Nếu thông tuệ này đã thành tựu thì không quán sắc, vẫn tự biết về tâm người khác.

Nếu người muốn nhớ giữ về túc trụ, trước nên theo thứ lớp quán sát tướng diệt nơi thức của mình xong, theo thứ lớp nghịch như vậy, tư duy về các phần vị có sai biệt, cho đến tâm dựa nhờ vào thai. Tiếp theo, do nhớ giữ một sát-na của trung ấm, nên sự thông hợp này đã thành. Như nhớ giữ về túc trụ của mình, nhớ giữ về túc trụ của người khác cũng vậy. Nếu sự thông hợp này đã thành, cũng được dấy khởi sự nhớ giữ về túc trụ. Nếu sự việc này, xưa kia đã trải qua, thọ nhận, thì sự việc ấy là chỗ được ghi nhớ, sự việc khác thì không phải.

Nếu vậy đối với sự việc của kẻ khác, vì sao cũng cho là như thế? Lại nếu như vậy thì làm sao nhớ giữ về túc trụ của năm Tịnh cư thiên?

Do lắng nghe chỗ từng thọ nhận nên có thể nhớ giữ. Nếu người từ cõi vô sắc thoái chuyển, sinh vào cõi này, thì do dùng sự nối tiếp của người khác làm chỗ nương dựa, nên được tu thông tuệ túc trụ của cõi vô sắc. Chỗ nương dựa khác nơi sự nối tiếp của mình có thể nhận biết.

Như ý thành thông tuệ v.v… quan sát về tướng nhẹ, âm thanh, ánh sáng, là gia hạnh của thông tuệ kia.

Lại nữa, năm thông tuệ này:

Kệ nói: Từ cảnh địa dưới thông giải.

Giải thích: Tùy nơi địa đã nương dựa, tánh của như ý thành thông tuệ, do đấy được hành nơi địa này cùng các vật như hóa sinh v.v… Hoặc ở nơi địa dưới, không phải ở địa trên. Như thế do thiên nhĩ thông tuệ, được nghe âm thanh của địa mình và tiếng của địa dưới, nhưng không được nghe tiếng nói của địa trên. Do tha tâm sai biệt thông tuệ, không thể nhận biết tâm người khác nơi địa trên. Do túc trụ niệm thông tuệ không thể nhớ về túc trụ của địa trên. Do tử sinh thông tuệ không thể thấy sự tử sinh của địa trên. Thế nên, nương dựa nơi tâm của địa vô sắc, do tha tâm thông tuệ, túc trụ niệm thông tuệ, đều không thể chọn lấy, do ở trên địa.

Các thông tuệ này làm sao đạt được? Nếu chưa từng được đều do tu hành nên được chăng?

Kệ nói: Từng đều ly đắc.

Giải thích: Năm thông tuệ này nếu ở đời khác đã thường xuyên tu tập, tức do lìa dục đạt được. Nếu là thù thắng riêng thì cũng do tu hành đạt được, vì tất cả đều do tu hành được sinh.

Kệ nói: Thứ ba, ba niệm xứ.

Giải thích: Tha tâm sai biệt thông tuệ thuộc về ba niệm xứ. Nghĩa là niệm xứ thọ tâm pháp, vì tâm và tâm pháp là cảnh giới.

Kệ nói: Ý thành nhĩ, nhãn đầu.

Giải thích: Như ý thành thông tuệ thiên nhĩ, thiên nhãn, thông tuệ thuộc về niệm xứ đầu. Nghĩa là thân niệm xứ, vì duyên nơi sắc làm cảnh giới. Như ý thành thông tuệ, dùng bốn nhập ngoài làm cảnh giới, trừ âm thanh. Thiên nhãn, thiên nhĩ thông tuệ dùng âm thanh, sắc làm cảnh giới.

Nếu vậy, tử sinh thông tuệ làm sao có thể nhận biết được như thế?

Như kinh nói: Là chúng sinh kia cùng với thân tà hành tương ưng, cùng với miệng ý tà hành tương ưng, chê bai Thánh nhân, khởi tà kiến, nhận pháp tà kiến và nghiệp. Do đấy, khi bỏ thân mạng, tất bị đọa vào nẻo ác vô hành, sinh vào nơi chốn tối tăm. Ngoài ra, nói rộng như kinh. Do thiên nhãn không thể nhận biết được. Có trí riêng như thế, là loại bạn của thiên nhãn thông tuệ, ở trong sự nối tiếp của Thánh nhân sinh khởi, có thể nhận biết như thế, do không quyết định. Các thông tuệ còn lại dùng bốn niệm xứ làm tánh. Nghĩa này tự thành.

Kệ nói:

Thiên nhĩ, nhãn vô ký

Thông tuệ khác đều thiện.

Giải thích: Thiên nhĩ, thiên nhãn thông tuệ tánh là vô ký. Thông tuệ này dùng nhĩ thức, nhãn thức tương ưng với trí làm thể.

Nếu vậy hai thông tuệ này lấy địa của bốn định làm chỗ nương dựa. Vì sao được thành? Do tùy thuộc vào địa được nương dựa, nói là địa của bốn định kia, nên không trái nhau. Nhãn nhĩ căn là chỗ dựa của thức ấy, dùng bốn định làm địa. Lại nữa, do tùy thuận nơi đạo vô gián, lập địa của bốn định kia. Bốn thông tuệ còn lại đều là tánh thiện.

Nếu vậy ở trong Luận Phân Biệt Đạo Lý vì sao nói: Thế nào là thông tuệ? Nghĩa là tuệ thiện.

Văn của Luận này hoặc căn cứ ở nghĩa vượt hơn để nói. Hoặc căn cứ ở nghĩa nhiều để nêu bày. Ở trong sáu thông tuệ:

Kệ nói: Ba minh được.

Giải thích: Túc trụ niệm, tử sinh lưu tận thông tuệ tức nói ba thứ này là minh đắc của bậc vô học.

Vì sao chỉ cho ba thông tuệ này gọi là minh đắc, còn các thứ khác thì không phải?

Kệ nói:

Biên trước

Cùng đối trị vô minh.

Giải thích: Ba thông tuệ này có thể theo thứ lớp đoạn trừ vô minh của biên vực trước, biên vực giữa và biên vực sau, thế nên chỉ có ba pháp này gọi là minh đắc.

Trong ba pháp, nếu là bậc vô học chân thật. Kệ nói: Vô học sau cùng.

Giải thích: Trí chứng lưu tận nhất định bậc vô học.

Kệ nói: Hai. Đồng gọi kia tiếp sinh.

Giải thích: Hai thông tuệ còn lại, do sinh ở trong sự nối tiếp của bậc vô học, nên gọi là vô học. Tự tánh của hai thông tuệ này là phi hữu học, phi vô học.

Nếu như vậy vì sao không thừa nhận hai thông tuệ này gọi là hữu học?

Kệ nói:

Nơi học, không nói minh

Nối tiếp có vô minh.

Giải thích: Do Đức Phật không nói hai thông tuệ này là pháp hữu học.

Vì sao không nói?

Nếu sự nối tiếp có vô minh, ở đấy an lập minh đắc là không hợp lý. Lại vì vô minh ở trong sáu thông tuệ đã bị chế ngự.

Kệ nói: Một, ba, sáu là dẫn.

Giải thích: Như ý thành thông tuệ, tha tâm sai biệt thông tuệ, lưu tận thông tuệ, ba pháp này theo thứ lớp là ba sự dẫn dắt. Nghĩa là dẫn dắt như ý thành dẫn dắt tâm ghi nhận, dẫn dắt chánh giáo. Ba sự dẫn dắt này đều xuất phát từ đầu tiên. Vì ý có thể dẫn dắt người thọ nhận giáo hóa. Vì có tâm tăng ngại, tâm chưa tin, tâm không muốn tu. Người thọ nhận giáo hóa này. Do ba sự dẫn dắt ấy, khởi tâm quy hướng, tâm tín nhận, tâm tu hành, nên nói ba thứ này là sự dẫn dắt.

Kệ nói: Trong ba chánh giáo hơn.

Giải thích: Ở trong ba sự dẫn dắt, sự dẫn dắt của chánh giáo là hơn hết. Vì sao?

Kệ nói:

Không phải không quyết định Nên sinh quả thiện, ái.

Giải thích: Dẫn dắt như ý thành, dẫn dắt tâm ghi nhận, do minh có thể tạo ra, nên có xứ minh gọi là Càn-đà-lê. Tụng minh chú này, tức có thể bay đi trong không. Lại có xứ minh tên Y-xoani-kha, nếu thông tỏ xứ minh này, thì có thể nhận biết tâm của người khác.

Chánh giáo như thật, không thể do phương tiện riêng tạo ra. Do đấy, không phải là không quyết định, nên hơn hai sự dẫn dắt trước, vì hai sự dẫn dắt trước chỉ có thể xoay chuyển sự thành. Do chánh giáo dẫn dắt: (1) Có thể sinh quả thiện. (2) Có thể sinh quả đáng yêu mến. Do chánh giáo này có thể hiển bày chánh phương tiện, nên hơn hẳn hai sự dẫn dắt trước.

Trước đã nói như ý thành thông tuệ. Vậy đây là pháp gì?

Nếu thuận theo đạo lý của Tỳ-bà-sa.

Kệ nói: Như ý thành định.

Giải thích: Do sự việc của như ý kia thành tựu, nên định gọi là như ý thành.

Sự việc gì do như ý kia thành, nên nói sự việc ấy?

Kệ nói: Trong: Hành không cùng hóa sinh.

Giải thích: Trong đấy, hành không có ba thứ: (1) Hành dẫn đem thân. (2) Hành cùng nguyện thành. (3) Hành tâm nhanh.

Kệ nói: Hành tâm nhanh chỉ Phật.

Giải thích: Hành này rất nhanh chóng như tâm, tức chỉ Đức Phật, Thế Tôn mới có hành như thế. Người khác thì không có. Ở nơi chốn rất xa, do khi phát nhất tâm hành tức đến xứ kia. Do vậy, nên Phật, Thế Tôn nói: Cảnh giới của chư Phật khó có thể nghĩ bàn. Hai thứ còn lại, không do nêu bày, nhưng đối với Phật thì chúng tự thành.

Kệ nói: Khác: Đem thân, nguyện thành.

Giải thích: Thanh văn, Độc giác, có hành dẫn đem thân, như chim theo thứ lớp hành dẫn đem thân. Hành cùng nguyện thành là từ nơi xứ rất xa, nguyện khiến được rất gần, do đấy rất nhanh chóng đi đến xứ kia. Như ý thành hóa sinh có hai thứ: (1) Tương ưng nơi cõi dục. (2) Tương ưng nơi cõi sắc.

Kệ nói:

Cõi dục hóa ngoại nhập Loại bốn nhập hai thứ.

Giải thích: Hóa sinh trong cõi dục dùng các nhập sắc, hương, vị, xúc, làm thể. Hóa này có hai thứ: (1) Hoặc cùng với thân mình tương ưng. (2) Hoặc cùng với thân người khác tương ưng.

Kệ nói: Sắc hai.

Giải thích: Hóa sinh tương ưng nơi cõi sắc chỉ dùng hai nhập làm thể. Nghĩa là sắc nhập, xúc nhập. Vì ở cõi ấy không có hương, vị. Ở đây cũng có hai thứ như trước.

Như hóa sinh ở cõi dục có bốn thứ, ở cõi sắc cũng vậy. Thế nên lược nói hóa sinh có tám thứ.

Nếu người sinh nơi cõi sắc, hóa sinh vật của cõi dục, vì sao không đạt được hương, vị?

Ví như chiếc áo và vật dụng trang nghiêm, không có dẫn đến đạt được. Vật của hóa sinh cũng vậy.

Có Sư khác nói: Vật đã sinh kia chỉ có hai nhập: Là do thông tuệ của hóa sinh đã hóa sinh các vật, hay là không như vậy?

Không phải.

Đây là thế nào?

Do quả của thông tuệ.

Đây là pháp gì?

Kệ nói:

Do tâm hóa

Tâm này có mười bốn.

Giải thích: Có quả của thông tuệ là tâm hóa sinh, có thể sinh tất cả vật được biến hóa. Tâm này có mười bốn thứ.

Kệ nói:

Quả định như thứ lớp Hai đến năm.

Giải thích: Tâm nơi quả của thông tuệ nơi địa thuộc định thứ nhất có hai thứ, nghĩa là địa của cõi dục, địa của định thứ nhất.

Tâm nơi quả của thông tuệ nơi địa thuộc định thứ hai có ba thứ, nghĩa là địa của cõi dục, địa của định thứ nhất, địa của định thứ hai.

Tâm nơi quả của thông tuệ nơi địa thuộc định thứ ba, thứ tư có bốn, có năm thứ nên biết. Tâm biến hóa của nghĩa này nên biết. Quả của các định ấy thuộc về tự địa và địa dưới.

Kệ nói: Không trên.

Giải thích: Không có tâm biến hóa của địa trên, làm quả của định nơi địa dưới. Tâm biến hóa của cõi dục nơi quả của định thứ hai. Từ địa của định thứ nhất, quả kia do đạo là hơn.

Kệ nói: Đắc như định.

Giải thích: Tâm biến hóa này đạt được là như định đã đạt được.

Là chỉ từ tâm biến hóa, tức là xuất quán chăng?

Không có nghĩa như thế. Vậy nên nói nghĩa này.

Kệ nói:

Định tịnh.

Tự sinh hai từ kia.

Giải thích: Từ định thanh tịnh theo thứ lớp sinh thông tuệ biến hóa. Từ thông tuệ biến hóa lần lượt sinh tâm của quả biến hóa. Từ tâm của quả biến hóa sinh vô lượng tâm của quả biến hóa, không từ tâm khác sinh. Tiếp theo, từ tâm của quả biến hóa sinh thông tuệ biến hóa. Từ thông tuệ biến hóa sinh định tịnh, hoặc sinh tâm của quả biến hóa. Vì sao? Vì nếu người trụ nơi quả của định, thì không nhập lại định gốc, không có từ quả của định, tức là nghĩa xuất quán. Tất cả vật đã biến hóa:

Kệ nói: Do tự địa hóa sinh.

Giải thích: Tùy nơi địa hóa sinh vật, địa của tâm hóa sinh, tức cùng với tâm này đồng địa. Vì sao? Do tâm biến hóa của địa riêng, không thể hóa sinh các vật của địa riêng.

Kệ nói: Ngôn thuyết do địa khác.

Giải thích: Do địa đồng, tâm cũng được ngôn thuyết. Nếu người được biến hóa ở cõi dục, hoặc địa của định thứ nhất, do đồng với tâm của địa nên có thể khiến được ngôn thuyết. Nếu người được biến hóa ở địa trên thì chỉ do tâm của định thứ nhất khiến ngôn thuyết. Vì ở địa trên không phát khởi tâm của nghiệp hữu giáo.

Nếu khiến cho nhiều người được biến hóa ngôn thuyết là đồng hay là không đồng?

Kệ nói:

Cùng năng hóa không Phật.

Giải thích: Lìa người được biến hóa do Phật Thế Tôn, người được biến hóa của tất cả kẻ khác cùng với người là chủ thể biến hóa, cùng đồng ngôn thuyết. Nếu người của chủ thể biến hóa có ngôn thuyết, đều cùng với nhiều người được biến hóa cùng đồng ngôn thuyết. Như có kệ nói:

Một người đang nói năng

Các người hóa cùng nói

Một người nếu im lặng

Các người hóa cũng vậy.

Chỉ có Đức Phật, Thế Tôn, như nơi ý muốn, hoặc trước hoặc sau, đã hóa ra nhiều người. Hoặc người kia hỏi, Đức Phật đáp. Hoặc Đức Phật hỏi, người kia đáp. Bấy giờ, nếu khởi tâm ngôn thuyết thì lúc này tức không có tâm biến hóa, nên không có đối tượng biến hóa.

Vì sao chủ thể biến hóa người mà khiến đối tượng được biến hóa ngôn thuyết?

Kệ nói:

Lập nguyện rồi tạo riêng.

Giải thích: Do muốn khiến đối tượng được biến hóa trụ lâu, nên trước phát nguyện hóa sinh, sau đấy thì nhập quán. Lại do tâm riêng phát khởi nghiệp hữu giáo, nên khiến người kia cùng có ngôn thuyết. Vì người sinh ở sự việc đã nguyện đều tùy ý thành, nên sau khi chết cũng thành.

Kệ nói: Đã chết, sự nguyện thành.

Giải thích: Do nguyện lực của Đại đức Thánh Ca-diếp thành tựu, nên xương thân trụ không hoại, nên biết sau khi chết, sự nguyện xưa cũng được thành. Nguyện này:

Kệ nói:

Không giả khác nói không.

Giải thích: Nếu vật không chắc thật, thì sự nối tiếp không lâu, trong ấy sự nguyện không thành. Vì Thánh Đại Ca-diếp không nguyện để lại phần thân như da thịt v.v…

Có Sư khác cho: Nếu người đã chết thì không còn sự nguyện.

Nếu như vậy thì xương thân của Thánh Đại Ca-diếp vì sao được trụ?

Do đệ tử của Đại đức là chư thiên dùng oai lực hộ trì, nên được trụ.

Là do một tâm hóa sinh một vật, hay là do nhiều tâm hóa sinh một vật?

Kệ nói:

Đầu một do nhiều tâm Đã thành, trái lực này.

Giải thích: Lúc tu học đầu tiên, tùy một vật đã biến hóa, khởi nhiều tâm biến hóa, nên sự hóa sinh mới thành. Nếu thông tuệ của hóa sinh đã thành thì do một tâm biến hóa, hóa sinh không phải là một vật mà tùy theo lượng muốn hóa sinh.

Là tất cả tâm biến hóa đều là vô ký chăng?

Kệ nói: Tu đắc là vô ký.

Giải thích: Nếu tâm biến hóa là quả của tu đắc thì tất định là vô ký.

Kệ nói: Nếu sinh đắc có ba.

Giải thích: Nếu tâm biến hóa do sinh đắc thì có thiện, ác, vô ký. Nghĩa là sinh đắc như trời, rồng, quỷ thần v.v… do tâm biến hóa đã tạo: Hoặc ở nơi tự thân hóa sinh. Hoặc ở nơi thân người khác hóa sinh. Chín nhập này làm tánh, vì có sắc nhập trừ thanh, nên không đều lìa căn sinh. Ví như trùng kỷ mỹ và cỏ Y-sư-ca.

Như ý thành có hai thứ: (1) Tu đắc. (2) Sinh đắc.

Loại sinh đắc này lại có hai thứ.

Kệ nói:

Ý thành do chú, thuốc Nghiệp sinh nên năm thứ.

Giải thích: Nếu lược nói thì như ý thành có năm thứ: (1) Quả tu. (2) Sinh đắc. (3) Chú thành. (4) Thuốc thành. (5) Nghiệp thành.

Nghiệp thành: Ví như vua Đảnh Sinh v.v… cùng chúng sinh trung ấm. Là đã nói về thiên nhĩ và thiên nhãn. Hai thứ này vì là chủng loại của trời, nên nói là trời (Thiên) hay là vì như trời nên nói là trời? Về nghĩa này nên suy xét. Như thiên nhĩ, thiên nhãn: Nghĩa là Bồ-tát, Chuyển luân vương báu lớn, hoặc nhĩ, nhãn là chủng loại của trời.

Kệ nói:

Thiên nhĩ cùng thiên nhãn Địa định sắc thanh tịnh.

Giải thích: Nếu người nhập bốn định, duyên nơi âm thanh, ánh sánh, tu gia hạnh làm phương tiện, nên dựa vào địa của bốn định. Bốn đại có hai thứ sắc thanh tịnh, khởi khắp biên vực của nhĩ, nhãn, làm chỗ nương dựa cho sự thấy sắc, nghe tiếng. Do dựa vào địa của định sinh, nên nhĩ, nhãn này là chủng loại của trời. Lại nữa, hai thứ này:

Kệ nói:

Vì đẳng phần luôn đủ Cảnh giới vi tế, xa.

Giải thích: Thiên nhĩ, thiên nhãn đều là đẳng phần, luôn cùng với thức tương ưng, đều đủ các căn, không có lỗi lầm như mù loạn v.v… Ví như chúng sinh nơi cõi sắc đối với sắc cùng âm thanh của chướng ngại vi tế xa nơi cõi trên đều là cảnh của cõi sắc kia.

Nếu nhục nhãn, như có kệ nói:

Trụ xa bị chướng nhỏ

Khắp xứ sắc chẳng thấy

Nhục nhãn thấy sắc đối

Thiên nhãn thì trái lại.

Nếu do thiên nhãn thấy sắc, thì sắc được trông thấy gần xa như thế nào?

Tùy người, tùy mắt, sắc được trông thấy có gần xa cũng như vậy. Thanh văn, Độc giác, Phật Thế Tôn, nếu không tạo ra tâm có dụng công, muốn thấy, tức có thể thấy một ngàn, hai ngàn, ba ngàn thế giới. Nếu tạo ra tâm có dụng công, muốn thấy:

Kệ nói:

Hai, ba ngàn, vô số

Ứng cúng, Độc giác, Phật.

Giải thích: Nếu hàng Đại Thanh văn do thiên nhãn muốn thấy, tạo ra tâm có dụng công lớn, có thể thấy hai ngàn thế giới trung. Nếu Độc giác Tê giác dụ do thiên nhãn muốn thấy, tạo ra tâm có dụng công lớn, có thể thấy ba ngàn thế giới lớn. Nếu Phật, Thế Tôn do thiên nhãn muốn thấy, tức có thể thấy A-tăng-kỳ thế giới, tùy theo Phật muốn thấy. Vì sao? Vì như trí có thể đối với pháp, thiên nhãn có thể đối với sắc cũng vậy. Vì chỉ như ý thành có sinh đắc, hay là thứ khác cũng sinh đắc.

Kệ nói: Có sinh đắc khác.

Giải thích: Bốn thứ như thiên nhãn v.v… cũng có sinh đắc. Tất cả sinh đã đạt được, không được mang tên là thông tuệ.

Kệ nói:

Nhãn

Trung ấm không cảnh kia.

Giải thích: Thiên nhãn sinh đắc này không thể thấy sắc của chúng sinh trung ấm. Vì sao? Vì sắc này chỉ là đối tượng được thấy của mắt thông tuệ, không phải thiên nhãn sinh đắc thấy được, trừ đồng loại kia.

Kệ nói: Tha tâm trí có ba.

Giải thích: Sinh đắc nói là lưu. Nếu là sinh đắc, nên biết có ba thứ tánh, nghĩa là thiện, ác, vô ký.

Kệ nói: Quán minh chú đã tạo.

Giải thích: Không chỉ sinh đắc có ba thứ, mà học nơi Luận Y xoa ni kha có thể quán tướng người đã đạt được tha tâm trí. Do tư duy phân biệt tạo thành, hoặc do minh chú tạo nên. Chú này nên biết cũng có ba thứ, nghĩa là thiện, ác, vô ký, không như tu đắc hoàn toàn là thiện. Do sinh có được tha tâm trí và trí túc trụ niệm.

Kệ nói: Địa ngục đầu hay biết.

Giải thích: Chúng sinh địa ngục đầu tiên thọ sinh, cho đến chưa bị khổ thọ bức bách, ở đấy có thể hiểu rõ về tâm kẻ khác, cùng có thể nhớ giữ đời sống kiếp trước. Nếu sinh trụ nơi nẻo khác, do hai thứ ấy nên luôn nhận biết.

Kệ nói: Nơi người không sinh đắc.

Giải thích: Chỉ ở nơi nẻo người, như trước đã nói. Như ý thành

v.v… có năm. Không có sinh đã đắc.

Nếu như vậy vì sao có được tự tánh, nhớ giữ người của đời sống kiếp trước?

Đây là từ nghiệp có sai biệt đã tạo tác. Vì sao? Vì ở nơi nghiệp kia cũng có ba thứ. Trí túc trụ niệm, có quả của tu đắc, có sinh đắc, có nghiệp đã tạo.

HẾT – QUYỂN 20