A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THÍCH LUẬN
Tác giả: Tôn giả Bà Tẩu Bàn Đậu (Thế Thân)
Hán dịch: Đời Trần, Tam Tạng Chân Đế
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 17

Phẩm thứ 6: PHÂN BIỆT THÁNH ĐẠO QUẢ NHÂN, phần 2

Lại nữa, hai thứ thoái chuyển trái với xả như thế, dùng pháp nào làm tánh?

Kệ nói: Hai thoái không đến đắc.

Giải thích: Hai thứ thoái chuyển này lấy không phải đến đắc làm tánh. Trái nghịch thoái chuyển do tội lỗi thành. Xả thì không nhất định. Người đã được noãn, về sau nếu thoái đọa, tất định dùng Niết-bàn làm pháp.

Nếu như vậy noãn này cùng với phần giải thoát có thể sinh căn thiện đâu có khác?

Do ở nơi chốn vị kiến bốn đế rất gần, nên không có chướng ngại.

Lại nữa: Kệ nói: Noãn không nhận tà giáo.

Giải thích: Nếu người đã được noãn, về sau thoái chuyển nơi vị này, có thể không thọ nhận tà giáo.

Nếu không thọ nhận tà giáo thì noãn, đảnh đâu có khác?

Kệ nói: Đảnh không đoạn căn thiện.

Giải thích: Nếu người đã được đảnh, về sau thoái chuyển nơi vị này, tức ở đấy không thể đoạn căn thiện, có nghĩa nhập nẻo ác, cũng có thể khởi nghiệp vô gián.

Kệ nói: Nhẫn không đọa nẻo ác.

Giải thích: Nếu do xả bỏ, thoái thất nhẫn, không có nghĩa lại nhập nơi nẻo ác, do đã xa lìa hành theo hoặc nghiệp của nẻo ác. Vì sao? Do được vị nhẫn, đối với đạo, nương dựa nơi ly sinh, có Hoặc hiện có loại riêng, đều đã được pháp vô sinh. Nghĩa là nẻo ác, noãn, thấp sinh xen tạp, trời Vô tưởng, châu Bắc Cưu-lâu, sinh Đại Phạm, hoàng môn, làm hoàng môn, thân hai căn, hữu thứ tám, Hoặc do kiến tu diệt trừ. Pháp vô sinh này chỉ ở nơi vị hạ, huống chi là ở trên. Là vô sinh kia như nên đắc, thế nên không có nghĩa nhập nơi nẻo ác.

Kệ nói: Thế đệ nhất lìa phàm.

Giải thích: Nếu người được căn thiện thế đệ nhất, do thoái chuyển, chết, hai xả, là không có điều ấy. Người ấy ở trong vị này, đã được phi trạch diệt của phàm phu, không có nghĩa lại đọa nơi vị phàm phu. Vì sao? Vì đã lìa công dụng ở trong sát-na thứ hai, tất đã chứng khổ đế. Bốn căn thiện như noãn v.v… này đều có ba phẩm hạ trung thượng, tức thành ba tánh, do tánh như Thanh văn v.v… có sai biệt. Trong đây:

Kệ nói:

Chuyển tánh đệ tử hai. Thành Phật.

Giải thích: Chuyển đổi hai căn thiện noãn, đảnh này, từ tánh Thanh văn sinh khởi, được thành Đại chánh giác, là có nghĩa như vậy. Nếu đắc nhẫn rồi thì không có nghĩa ấy.

Do đâu nên không được?

Thuyết kia nói là do đã vượt qua các nẻo ác sinh. Các Bồ-tát do hóa tác lợi ích cho người khác là sự việc thù thắng của mình, nên cố ý có thể đi tới các nẻo ác để thọ sinh. Tánh ấy không thể xoay chuyển, nên không có nghĩa này.

Kệ nói: Chuyển ba khác.

Giải thích: Từ tánh Thanh văn, chuyển đổi ba phần quyết trạch, có thể sinh căn thiện, thành khác với Đại chánh giác, nghĩa là thành Độc giác, do tánh Độc giác không thể xoay chuyển. Vì sao?

Kệ nói:

Vì không cầu lợi tha

Khác chuyển tánh, không ngăn.

Giải thích: Nếu người hành quán vốn đã phát nguyện cầu đắc Độc giác, về sau nhập tu quán, đạt được hai căn thiện noãn, đảnh, thì căn thiện này tức không thể chuyển thành căn thiện của Bồ-tát. Vì sao? Vì Độc giác kia không nhằm đem lại lợi ích cho người khác khi phát nguyện tu quán.

Hai vị này tuy còn có thể chuyển đổi, nhưng đối với vị kia thì không có nghĩa có thể chuyển, do tâm nguyện của họ đã cứng chắc. Nếu chuyển làm Thanh văn thì không ngăn nghĩa này. Lại nữa: Kệ nói:

Chí giác một tọa kia

Sau định Phật, Độc giác.

Giải thích: Đại sư Phật Thế Tôn và Tê Giác Dụ Phật. Hai vị ấy ở trong một tòa ngồi nương dựa nơi định thứ tư. Do thấu tỏ về Tamma-đề bất động, nên ngay từ đầu đã phát khởi bốn phần quyết trạch có thể sinh căn thiện, cho đến Bồ-đề, chỉ ở nơi một tòa ngồi chứng được Bồ-đề cứu cánh. Nghĩa là tận trí, vô sinh trí. Về nghĩa này phần sau sẽ nói.

Có Sư khác cho: Từ tu quán bất tịnh, cho đến đắc Bồ-đề, ở nơi một tòa ngồi là đạt được cứu cánh.

Nếu có người cho có Độc giác riêng, khác với Độc giác Tê Giác Dụ thì đối với người kia chuyển hai căn thiện thành Bồ-tát, nghĩa này không ngăn cản. Vì sinh ở quá khứ chưa tu phần giải thoát có thể sinh căn thiện. Chỉ ở đời nay tạo công sức sinh phần quyết trạch có thể sinh căn thiện, là có nghĩa như thế. Bất tất định không có nghĩa như thế. Vì sao?

Kệ nói: Trước phần giải thoát kia.

Giải thích: Nghĩa này quyết định. Nên biết ở nơi quá khứ đã sinh phần giải thoát có thể sinh căn thiện rồi, đời nay mới được sinh phần quyết trạch có thể sinh căn thiện. Nếu người tu hành nhanh chóng trải qua bao nhiêu đời tu được thành phần giải thoát và phần quyết trạch đều có thể sinh căn thiện?

Kệ nói: Giải thoát nhanh, ba đời.

Giải thích: Đời thứ nhất trước sinh phần giải thoát có thể sinh căn thiện. Đời thứ hai tiếp theo tu phần quyết trạch có thể sinh căn thiện. Đời thứ ba tu đắc Thánh đạo. Ví như thứ lớp gieo giống mạ, trở thành kết hạt.

Vì sao theo thứ lớp như thế?

Ở trong chân lý của pháp này và giáo pháp, nên khiến cho phần tự nối tiếp nhập trụ nơi giải thoát thành thục giải thoát.

Các Sư nói là phần giải thoát có thể sinh căn thiện.

Kệ nói: Tánh văn, tư.

Giải thích: Nghiệp này chỉ là loại văn tư tuệ, không phải là loại tu tuệ.

Ở đây có bao nhiêu nghiệp?

Kệ nói: Ba nghiệp.

Giải thích: Nếu luận về chỗ tối thắng thì chỉ là ý nghiệp. Do thuộc về nguyện, nên hai nghiệp thân miệng cũng thành công năng của phần giải thoát. Vì sao? Vì có người thí cho một phần ăn, hoặc vui thích giữ một học xứ thì sức giải thoát đã dẫn dắt. Nhân nơi nghiệp này dẫn sinh phần giải thoát có thể sinh căn thiện.

Dẫn nghiệp này ở nơi xứ nào?

Kệ nói: Dẫn sinh nơi nẻo người.

Giải thích: Trong nẻo người ở ba châu được dẫn sinh nghiệp này, nơi nẻo khác thì không có. Bát-nhã chán lìa hai pháp như chỗ ứng hợp là không có.

Do nghĩa tương ưng, nói công năng của phần giải thoát xong, nhập thứ lớp quán bốn đế, là nay đã nói. Trong đây, cho đến pháp thế đệ nhất đã nói, phần còn lại nay sẽ nói, nên nói như vậy.

Kệ nói:

Thế đệ nhất vô gián

Trí nhẫn pháp vô lưu.

Giải thích: Từ căn thiện thế đệ nhất vô gián, trí nhẫn của pháp vô lưu được sinh, duyên nơi cảnh nào?

Kệ nói: Khổ cõi dục.

Giải thích: Khổ của cõi dục là cảnh giới kia, nên nhẫn này được gọi khổ pháp trí nhẫn. Vì làm rõ vô lưu này, nên dùng quả đẳng lưu để phân biệt. Do nhẫn này có thể đạt được pháp trí, nên gọi là pháp trí nhẫn. Ví như cây có hoa quả. Nói nhẫn này gọi là nhập tụ chánh định. Vì sao? Vì nhân nơi nhẫn này người hành quán có thể nhập chánh định.

Chánh là pháp gì?

Trong kinh nói Niết-bàn gọi là chánh. Ở đây, định là nghĩa hoàn toàn không khác, vì đến đắc quyết định ấy, nên gọi là nhập. Nếu nhẫn này đã sinh, tức nói người này là đạo nhân. Khi pháp này tiếp theo một sát-na chưa sinh, là tánh phàm phu đã chuyển diệt, là công năng vị lai của nhẫn này. Nghĩa ấy có thể đúng hoàn toàn. Ví như đèn sinh.

Có Sư khác cho: Dùng pháp thế đệ nhất diệt tánh phàm phu. Nghĩa ấy không hợp lý. Vì đồng với pháp thế gian, nên nghĩa này không lỗi, do đây kia cùng trái nhau. Ví như leo lên vai kẻ oán đối để giết kẻ ấy.

Có Sư khác nói: Do hai thứ nên diệt, vì hai thứ này giống với đạo vô gián giải thoát.

Kệ nói: Tiếp trong: Pháp trí.

Giải thích: Tiếp theo sau khổ trí nhẫn vô gián, ở trong khổ của cõi dục pháp trí sinh, nói đấy là khổ pháp trí. Nói vô lưu nên biết là lưu đến tất cả xứ, như ở trong khổ của cõi dục pháp trí nhẫn và pháp trí sinh.

Kệ nói:

Lại thế sinh

Nơi khổ loại nhẫn khác Cùng trí.

Giải thích: Sau khổ pháp trí vô gián, hợp với khổ của cõi sắc, cõi vô sắc, là một cảnh nơi đối tượng duyên, thì loại trí nhẫn sinh, nên nói đây là khổ loại trí nhẫn. Tiếp theo, vô gián loại trí sinh, nói đây là khổ loại trí. Nơi đầu nhập quán, do biết lý chân thật của pháp, nên lý ấy không hoại. Nếu Phật xuất thế cùng không xuất thế, lý này luôn đúng, nên nói là pháp. Do quán sau đấy là loại của quán trước. Cảnh nơi đối tượng duyên sau là loại của cảnh trước. Lấy sau ứng theo trước, nên nói sau gọi là loại.

Như đối với khổ có bốn nhẫn trí sinh.

Kệ nói: Ba đế vậy.

Giải thích: Sau khổ loại trí vô gián, ở nơi cõi dục tập pháp trí nhẫn sinh, tiếp theo là tập pháp trí vô gián sinh.

Thứ lớp vô gián như thế, ở nơi tập loại trí nhẫn còn lại và tập loại trí sinh. Ở nơi cõi dục diệt pháp trí nhẫn và diệt pháp trí sinh. Đối với diệt loại trí nhẫn còn lại cùng diệt loại trí sinh. Do đối trị khổ ở cõi dục, đạo pháp trí nhẫn và đạo pháp trí sinh. Đối với đạo loại trí nhẫn còn lại cùng đạo loại trí sinh.

Kệ nói:

Mười sáu tâm như thế Quán bốn đế.

Giải thích: Do thứ lớp này là quán bốn đế thành có mười sáu tâm.

Có Bộ khác cho: Quán bốn đế chỉ có một tâm. Quán này đối với mười sáu tâm kia, nên biết là nêu bày không liễu nghĩa. Vì sao? Vì ở trong kinh kia nói quán bốn đế là loại không phân biệt.

Quán bốn đế này: Kệ nói: Có ba. Kiến, cảnh giới và sự.

Giải thích: Quán kiến: Do trí vô lưu phân biệt nhận biết tướng của đế. Quán cảnh giới: Do cùng với trí vô lưu tương ưng, vì đồng cảnh giới. Quán sự: Do pháp bất tương ưng, nghĩa là giới sinh v.v… Nếu đã kiến khổ, thì ba quán này tức thành. Đối với pháp còn lại như tập v.v… đế có quán sự, do tu đoạn chứng.

Nếu thuyết kia căn cứ nơi kiến để quán, lập làm một quán, thì thuyết này không đúng, vì tướng của bốn đế có sai biệt. Nếu thuyết kia nói do tướng vô ngã, nên kiến tất cả đế, thì nghĩa này không hợp lý. Vì sao? Vì quán này không từ khổ đế là đầu tiên thành.

Nếu như vậy thì cùng với kinh là trái nhau. Kinh nói: Đệ tử Thánh, do tướng khổ phân biệt lựa chọn khổ, do tướng tập tập, do tướng diệt diệt, do tướng đạo phân biệt, lựa chọn đạo. Cùng với trí vô lưu tư duy tương ưng, gọi là giác phần trạch pháp.

Nếu ông nói kinh này là làm rõ về tu đạo, nên nói lời ấy, thì nghĩa này là không hợp lý, vì như kiến, tu. Nếu ông nói: Do kiến một đế, nên đối với phần còn lại được tự tại, tức nói một thời quán đế thì nghĩa ấy không lỗi.

Trong quán bốn đế, có thuyết nói xuất quán, có thuyết nói không xuất quán. Nghĩa này nên suy xét.

Nếu nói như thế là lúc đang kiến khổ, tức diệt trừ tập đến đắc diệt, tu tập đạo, nên nói một thời quán đế. Nếu cho như vậy thì không có lỗi. Đối với một đế, một quán kiến thì ở nơi đế khác nói là quán sự. Nếu căn cứ nơi quán kiến, ở trong kinh nói: Bốn đế nhất định theo thứ lớp quán. Thuyết này là có thể thấy rõ. Kinh nói: Trưởng giả! Không phải là một thời quán các đế.

Thế nào là quán, quán thứ lớp?

Nói rộng như vậy có ba kinh đều có thí dụ. Nếu ông nói: Như người đối với khổ đế, tâm không nghi, đều quyết định, thì đối với Đức Phật tâm cũng không nghi, đều quyết định. Do kinh này nên biết có một thời quán bốn đế. Nghĩa này là không đúng. Vì dựa ở chỗ không từng trải khởi, tất định phải diệt, nên nói lời ấy, là đã nói quán có mười sáu tâm.

Kệ nói: Thế đệ nhất đồng địa.

Giải thích: Tùy ở địa là chỗ dựa của thế đệ nhất, nên quán mười sáu tâm, đồng dựa vào địa này. Địa là chỗ dựa của thế đệ nhất có sáu thứ, như trước đã nói.

Thế nào là tất định nên có nghĩa này: Trước nhẫn, sau trí? Do nghĩa này:

Kệ nói:

Nhẫn trí đạo vô gián

Thứ lớp đạo giải thoát.

Giải thích: Nhẫn: Nghĩa là đạo vô gián. Căn cứ ở nơi phiền não, đến đắc đoạn, không thể gián cách nên nói là đạo vô gián. Trí: Nghĩa là đạo giải thoát, là đã giải thoát Hoặc, vì người đến đắc pháp tức cùng với diệt lìa đến đắc cùng khởi, nên nói là đạo giải thoát. Do thế hai đạo này tất định nên có. Ví như dẫn trở lại cửa đóng. Nếu nói đạo giải thoát thứ hai, cùng với diệt lìa đến đắc một thời cùng khởi thì trí diệt lìa nghi hoặc, đối với cảnh giới này không nên được sinh.

Do nhẫn có thể diệt hoặc, vấn nạn này không hợp lý. Nếu ông nói: Tụ chín kiết do nhẫn diệt, không do trí diệt, nên cùng với Tạng A-tỳ-đạt-ma là tr4ái, thì nghĩa này không đúng. Nhẫn là loại bạn của trí. Ví như sự việc của quan, nói là sự việc của vua, nhẫn đối với trí cũng như vậy. Vì tất cả mười sáu tâm do kiến đế, nên đều là kiến đạo hay là không như vậy. Tuy nhiên: Kệ nói:

Do kiến chưa từng kiến

Kiến đạo mười lăm tâm.

Giải thích: Do khổ pháp trí nhẫn là đầu, cho đến đạo loại trí nhẫn, là mười lăm tâm sát-na nên gọi là kiến đạo.

Nhân nào được gọi là kiến đạo?

Do kiến chưa từng kiến đế, đối với tâm thứ mười sáu, không có chưa từng thấy nay mới thấy, do huân tập chỗ đã từng thấy nên thành tu đạo.

Là không như thế chăng?

Tâm này cũng thấy không phải tự mình đã từng là kiến đạo, là đế nơi đối tượng duyên của loại trí nhẫn. Nghĩa này là không đúng. Vì sao? Nay tư duy là căn cứ ở đế, không căn cứ ở sát-na. Lại nữa, không do đế của sát-na thứ tám, không phải là đối tượng nhận biết. Ví như một khu ruộng, còn một bông lúa chưa bị cắt, nói là ruộng lúa chưa cắt. Ở đây không có nghĩa như thế, vì thuộc về quả. Vì tu mười sáu hành của tám trí, do đạo ở nơi diệt trước, nên tu đạo là sự nối tiếp của hành kia. Thế nên lập đạo loại trí thuộc về tu đạo.

Nghĩa không thoái chuyển này, vì nắm giữ hoặc do kiến đế, diệt lìa. Nếu ông nói: Thế nên việc diệt lìa thuộc về kiến đạo, thì nghĩa này không đúng, do có lỗi là thái quá.

Bảy trí vì sao thuộc về kiến đạo?

Do kiến chưa rốt ráo. Trong đây, kiến đế chưa viên mãn, là do bảy trí này ở nơi trung gian kiến. Vì thế cho trí kia là kiến đạo.

Đã nói nghĩa này. Nghĩa là có thể phán quyết kiến đạo, tu đạo sinh và sự khác biệt.

Lại nữa, người của Thánh đạo đã sinh hiện có sai biệt, nay sẽ phân biệt nêu rõ, tức là trước đã nói kiến đạo là tánh. Mười lăm sátna ở đây nên biết có hai người.

Kệ nói:

Hai người căn độn, lợi

Trong đó, tín pháp hành.

Giải thích: Nếu người độn căn hành ở trong Thánh đạo kia, nói là do tín tùy hành. Nếu người lợi căn thì nói là do pháp tùy hành. Người do tín nên tùy hành nơi nghĩa, gọi là do tín tùy hành. Lại do tín căn tùy hành, vì pháp của người này, nên gọi là do tín tùy hành. Trước do tin nơi người khác, nên tìm cầu, tư duy nghĩa. Do pháp tùy hành cũng như vậy. Trước do chánh pháp như kinh v.v… tự tìm cầu, tư duy nghĩa, vì nghĩa này nên nói bốn lượng. Pháp là lượng, không phải là người. Nghĩa là lượng, không phải là câu văn. Liễu nghĩa là lượng, không phải là không liễu nghĩa. Trí là lượng, không phải là thức.

Do đâu phán quyết bốn lượng này? Do bốn loại người có sai biệt: (1) Do người cao ngạo có sai biệt. (2) Do Lộ-kha-da chi-kha có sai biệt. (3) Do người trụ nơi tự kiến thủ có sai biệt. (4) Do người nghe biết thù thắng có sai biệt.

Trong đây: Đối với người cao ngạo, lấy pháp làm lượng, không phải là người. Do cùng luận giảng, xét lường là trí đã đạt được, không chỉ do oai nghi có sai biệt.

Lại nữa, Đức Phật Thế Tôn có khi nói người, có khi nói pháp. Trong ấy, pháp là lượng, không phải là người. Pháp này có hai thứ: câu văn và nghĩa. Ở đây, nghĩa là lượng, không phải là câu văn, do không ái chấp nơi quốc độ, ngôn thuyết. Vì sao? Vì không nên thành giữ lấy câu văn làm quyết định hơn hết, mà nên xét lường phân biệt lựa chọn nghĩa. Đức Phật, Thế Tôn nói: Kinh có hai thứ: Có liễu nghĩa và không liễu nghĩa. Nếu người phân biệt lựa chọn nghĩa, nên dùng kinh liễu nghĩa làm lượng, không phải không liễu nghĩa.

Đức Phật, Thế Tôn nói: Thuận theo hành phước và hành bất động. Thức là sinh đạo thiện, nói trí bốn đế là đến đắc Niết-bàn. Nếu người hành nơi pháp, giống pháp, thì dùng trí làm lượng, không phải thức.

Lại nữa, ở trong bốn thời, có lỗi, không lỗi. Căn cứ nơi bốn người lập bốn lượng: (1) Thời đọc tụng. (2) Thời nhớ giữ. (3) Thời phân biệt chọn lựa. (4) Thời tu hành.

Hai người này: Kệ nói:

Nếu tu đã diệt Hoặc

Nơi quả đầu đạo hướng.

Giải thích: Quả Sa-môn thứ nhất: Nghĩa là quả Tu-đà-hoàn. Ở trong đến đắc của tất cả quả là thứ nhất, tức do chưa được quả này. Nếu do nghĩa thật có, chỉ gọi là do tín tùy hành, do pháp tùy hành, như trước đã do đạo thế gian diệt trừ tu hoặc, hoặc là trói buộc đủ. Nói đây là hướng quả Tu-đà-hoàn.

Kệ nói: Cho đến diệt năm phẩm.

Giải thích: Nếu người này, trước do đạo thế gian diệt trừ tu hoặc của cõi dục, cho đến năm phẩm diệt hết, như thế gọi là hướng đến quả thứ nhất.

Kệ nói: Hướng hai, diệt chín trước.

Giải thích: Nếu hai người này, từ sau phẩm thứ năm, trước diệt sáu, bảy, tám phẩm xong, mới nhập trong kiến đạo, tức nói hai người này, hướng đến quả thứ hai, nghĩa là Tư-đà-hàm.

Kệ nói:

Lìa dục cõi dục, sắc

Tức hướng quả thứ ba.

Giải thích: Người này, nếu đã diệt trừ hoặc của phẩm thứ chín, lìa dục nơi cõi dục xong, diệt trừ Hoặc của cõi trên, cho đến xứ vô sở hữu, tức nói hai người này hướng đến quả thứ ba, nghĩa là A-na-hàm.

Kệ nói:

Mười sáu, hai trụ quả

Tùy chỗ hướng ba người.

Giải thích: Nếu tâm thứ mười sáu khởi thì không thể nói lại. Người này là do tín pháp tùy hành, cũng không thể nói là hướng đến quả.

Vì sao có thể nói người trụ quả là trụ nơi quả nào?

Ở trước, nếu hướng đến quả này, thì nay tức trụ nơi quả ấy. Hoặc quả Tu-đà-hoàn, hoặc quả Tư-đà-hàm, hoặc quả A-na-hàm. Quả A-la-hán khác với ba quả trước, không thể do kiến đạo, như quả kia, từ đầu tiên chứng đắc. Vì sao? Do kiến đạo có thể diệt trừ hoặc, vốn do tu đạo diệt, thì không có đạo lý ấy. Trước đối với hoặc do kiến đế diệt, vì lìa dục của Hữu đảnh.

Kệ nói:

Là thời tín lạc đắc

Kiến chí, hạ lợi căn.

Giải thích: Thời này, người độn căn, trước do tín tùy hành, nay gọi là lạc đắc. Nếu là người lợi căn, trước do pháp tùy hành, nay gọi là kiến chí, do được trí tín của phẩm tối thượng. Thế nên, tín lạc và kiến đã hiển bày.

Lại có nhân gì?

Nếu người đã đoạn trừ năm phẩm tu hoặc, ở nơi tâm thứ mười sáu chỉ nói là người Tu-đà-hoàn chăng?

Nói là hướng Tư-đà-hàm. Do nghĩa này:

Kệ nói:

Được quả, quả đạo thắng

Do là không thể được

Chưa tu hành đạo thắng

Nên trụ quả không hướng.

Giải thích: Nếu người đang đắc quả, thì không được do quả nơi đạo hơn. Nghĩa này là quyết định. Thế nên nếu người trụ nơi quả, cho đến chưa tu hành quả nơi đạo hơn, vì được quả riêng. Thời này, chưa có thể nói là hướng đến quả riêng. Đối với quả khác cũng như vậy.

Nếu người đã lìa dục nơi định thứ ba, lại dựa vào địa dưới nhập chánh định thì người ấy tất định hiện tiền, do quả nơi đạo hơn. Nếu không như vậy, thì tự cõi dưới, sinh lên cõi trên, không nên cùng với lạc căn tương ưng.

An lập nhiều diệt và người lìa dục, nhập trong phần vị chánh định, nghĩa ấy đã như thế. An lập người theo thứ lớp, nay sẽ nói.

Vì thế lại an lập nghĩa này, như ở trong cõi dục, nói về tu hoặc có chín phẩm. Như vậy:

Kệ nói:

Các lỗi có chín phẩm

Đức địa địa cũng vậy.

Giải thích: Như trong cõi dục đã nói có chín phẩm Hoặc. Nơi địa của cõi sắc, vô sắc, cho đến xứ Hữu đảnh, nên biết đều có chín phẩm hoặc. Như hoặc đức cũng vậy.

Vì đối trị lỗi này, nên gọi là đạo vô gián và đạo giải thoát. Ở mỗi mỗi địa đều có chín phẩm.

Vì sao như thế?

Kệ nói:

Ba phẩm hạ trung thượng

Lại hạ cùng sai biệt.

Giải thích: Căn bản có ba phẩm hạ trung thượng. Phân biệt mỗi mỗi phẩm lại có ba p địa ngục hạ trung thượng có sai biệt. Vì thế an lập thành chín phẩm.

Ở đây là thế nào?

Tức có phẩm hạ hạ, phẩm hạ trung, phẩm hạ thượng. Có phẩm trung hạ, phẩm trung trung, phẩm trung thượng. Có phẩm thượng hạ, phẩm thượng trung, phẩm thượng thượng.

Trong đây, do đạo của phẩm hạ hạ diệt trừ hoặc của phẩm thượng thượng. Cho đến do đạo của phẩm thượng thượng diệt trừ hoặc của phẩm hạ hạ. Vì sao? Vì từ đạo của phẩm thượng thượng đầu, phẩm không được sinh, nên đối với người của đạo nơi phẩm thượng thượng đã sinh. hoặc của phẩm thượng, thượng trong sự nối tiếp đã không có. Ví như giặt y phục, trước là loại trừ bụi nhơ thô, sau mới tẩy trừ cấu vi tế. Lại như bóng tối thô, do ánh sáng vi tế diệt. Bóng tối vi tế do ánh sáng lớn diệt. Đạo đối với hoặc cũng như vậy. Vì sao? Vì uy lực của pháp trắng mạnh, còn lực của pháp đen thì yếu. Thế nên do một sát-na sinh Thánh đạo hạ hạ thì mọi thứ sinh tử từ vô thủy luân chuyển tăng trưởng thành các Hoặc của phẩm thượng thượng, đều được diệt lìa. Ví như ba chứng bệnh tăng trưởng trong thời gian lâu, dùng một lượng ba giác căn tán nhuyễn, tức có thể dẫn đến diệt bệnh. Thí dụ như ngọn đèn nhỏ của một sát-na có thể xua tan bóng tối lớn trong thời gian lâu.

Như thế ở trong tất cả chín phẩm Hoặc:

Kệ nói:

Phẩm tu hoặc chưa diệt

Trụ quả bảy lần sinh.

Giải thích: Nếu người đã trụ ở quả, à chưa diệt được một p địa ngục hoặc, do tu đạo diệt trừ, thì nói người đó là Tu-đà-hoàn, chỉ có thể tạo bảy lần sinh.

Nói bảy lần sinh hơn sau tất cả này. Vì sao? Vì không phải tất cả đều tạo bảy lần sinh. Nên trong kinh nói: Bảy lần sinh là hơn. Bảy lần trở lại thọ sinh là sự sinh gồm đủ của Tu-đà-hoàn. Vì sao? Vì nói hơn tức tột bậc là nghĩa. Đạo nghĩa là hướng đến dòng (lưu) Niếtbàn. Do đạo này đi đến Niết-bàn. Người ấy đã đến lưu này, nên gọi là Tu-đà-hoàn.

Thế nào là đến lưu?

Nếu do được đạo đầu nên gọi là đến lưu. Đạo thứ tám cũng nên thành Tu-đà-hoàn.

Nếu do được quả đầu, nên gọi là đến lưu, thì nhiều người đã diệt tu Hoặc và người đã diệt chín phẩm Hoặc, cũng nên thành Tu-đà-hoàn.

Căn cứ nơi người được tất cả quả, do được quả thứ nhất lập làm Tu-đà-hoàn.

Nhân đâu được quả đầu lập tên Tu-đà-hoàn, không lập đạo thứ tám. Do được đạo hướng đến quả, do được hai đạo kiến, tu, do đối chứng đầy đủ về lưu, ở trong đạo loại trí. Thế nên người này được mang tên Tu-đà-hoàn. Người hướng đến thì không phải. Người ấy ở trong nẻo người tạo ra bảy sinh hữu và bảy trung hữu. Ở nơi nẻo trời cũng vậy. Người ấy thọ sinh hai mươi tám đời.

Vì sao nói bảy đời là hơn?

Do bảy bình đẳng, nên nói bảy đời là hơn. Ví như bảy xứ thắng trí và bảy cây lá. Sư Tỳ-bà-sa nói như thế.

Nếu như vậy trong kinh nói thế nào?

Người đủ kiến nên sinh hữu thứ tám, thì không có điều ấy. Ý kinh này chỉ căn cứ ở một đạo. Nếu như văn phân biệt, thì trung ấm cũng không nên có. Người thượng lưu như thế đến xứ Hữu đảnh là hơn cũng vậy. Đời thứ tám không nên có, do căn cứ nơi cõi dục để nói, điều này thì không lỗi.

Trong đây, thứ gì là chứng cớ? Tức có kinh và đạo lý? Quyết định lấy chứng cứ nào để ở nơi nẻo người, trời đều có bảy lần sinh trở lại, không phải hợp hai có bảy lần. Kinh nói: Ở nẻo người trời chỉ có bảy lần sinh trở lại.

Làm sao biết được nghĩa này?

Bảy lần sinh trở lại nơi nẻo người, bảy lần sinh trở lại nơi nẻo trời, là do kinh nói: Bảy lần trở lại ở nẻo người và ở nẻo trời, Bộ Cathi-tỳ nói. Có mỗi mỗi lời nói, nghĩa là bảy lần trở lại ở nẻo người, bảy lần trở lại nơi nẻo trời, nên đồng với nghĩa này. Nếu người ở nơi nẻo người được quả Tu-đà-hoàn thì về sau tất trở lại nơi nẻo người, được quả A-la-hán. Ở nẻo trời cũng như vậy.

Lại có nhân gì, Tu-đà-hoàn không sinh nơi hữu thứ tám?

Do thời lượng như thế, vì sự nối tiếp thành thục nên loại đạo cũng vậy. Ví như bước bảy bước, bị rắn độc phun nọc độc. Lại, như ngày thứ tư bị bệnh sốt rét.

Lại nữa, do bảy kiết là khác nên hai kiết dưới là thừa, kiết trên đủ năm thứ. Tuy ở trung gian tu Thánh đạo hiện tiền, nhưng không được bát Niết-bàn. Bảy đời nên thọ nhận, do lực của nghiệp đã giữ lấy, nên hai nghiệp trên dưới đã dẫn dắt. Nếu chư Phật không xuất thế, thì tại gia được quả A-la-hán. Được A-la-hán xong, tất không ở nơi nhà, pháp như thế tất được oai nghi Tỳ-kheo.

Có Sư khác nói: Hoặc tạo ra oai nghi của nẻo người riêng khác.

Vì sao người này không thoái mất đạo thiện, vì pháp hành nơi nghiệp của nẻo ác đã không tăng trưởng. Đã tăng trưởng là có thể sinh nghiệp của quả báo, ở trong việc quả báo sinh, không còn công năng. Do sự nối tiếp làm căn thiện có sức rất mạnh đã trấn đóng giữ, nên hai hành ý đều thanh tịnh. Nếu có định nghiệp chêu nẻo ác hãy còn không thể đạt được căn thiện nhẫn, huống chi là quả Tu-đà-hoàn. Trong đây, nói kệ:

Ngu tạo, tội nhỏ sinh nẻo ác

Trí tạo tội lớn lìa nẻo ác

Như viên sắt nhỏ tất chìm nước

Sắt lớn làm bát thì được nổi.

Trong kinh nói: Bảy đời là hơn, tạo ra biên sau cùng của khổ.

Những gì là biên khổ?

Vượt qua bảy lần sinh này, về sau không còn có khổ, khiến khổ không còn nối tiếp.

Lại nữa, Niết-bàn gọi là biên sau cùng của khổ.

Thế nào là tạo ra Niết-bàn?

Do có thể trừ bỏ chướng ngại đạt đến Niết-bàn. Ví như người nói là ngã tạo ra không.

Có người khác cho: Bảy lần sinh là hơn.

Sự việc này cũng không nhất định thế nên không nói. Như thế người chưa diệt tu Hoặc, trụ nơi quả, thì nói bảy lần sinh là hơn.

Kệ nói:

Nếu diệt ba, bốn phẩm Hai ba sinh Gia-gia.

Giải thích: Người Tu-đà-hoàn này do ba nhân duyên chuyển thành Gia gia:

  1. Do diệt trừ Hoặc, nên thành ba, bốn phẩm Hoặc đã được diệt.
  2. Do được căn vô lưu đối trị Hoặc.
  3. Do sinh hai ba đời là pháp khác.

Ở trong kệ chỉ nêu rõ người Tu-đà-hoàn của hai nhân. Sau khi được diệt được nghĩa căn vô lưu đối trị Hoặc. Không do nói thành, nên sinh này có khi là ít nhất. Vượt qua đấy thì không nên sinh, thế nên chỉ nói sinh.

Vì sao không lập do diệt phẩm thứ năm. Vì lúc năm phẩm diệt, phẩm thứ sáu tất định diệt. Vì sao? Vì không phải một phẩm Hoặc có thể gây trở ngại cho người hành quán đã nên được quả. Như đối với người nhất gián không vượt qua cõi. Người Gia gia này có hai loại:

  1. Gia gia trời: Nếu người sinh lên nẻo trời, đi đến hai, ba nhà rồi nhập Niết-bàn, hoặc ở nơi trời này, hoặc ở nơi trời kia,
  2. Gia gia người: Ở nơi nẻo người cũng như vậy, hoặc ở châu này, hoặc ở châu khác.

Lại nữa, người này đã được quả thứ nhất.

Kệ nói:

Đã diệt đến năm phẩm Là hướng quả thứ hai.

Giải thích: Nếu người đắc quả xong, đã diệt một phẩm tu hoặc, cho đến năm phẩm tâm, đang ở phẩm thứ sáu, nên biết người này đang hướng đến quả thứ hai.

Kệ nói:

Đã diệt phẩm thứ sáu

Tức thành Tư-đà-hàm.

Giải thích: Người đắc quả này đã diệt phẩm thứ sáu, tâm đang ở phẩm thứ bảy, được gọi là đến quả thứ hai, do một lần sinh lên nẻo trời, lại một lần đến sinh trong nẻo người, nên nói là Tư-đà-hàm. Quá vị này thì không có sinh. Ba phẩm Hoặc dục sân si mỏng yếu. Nay chỉ phẩm hạ là thừa. Người đắc quả này:

Kệ nói:

Đã diệt bảy, tám phẩm

Một đời gọi Nhất gián

Tức hướng quả thứ ba.

Giải thích: Do ba thứ nhân duyên, người Tư-đà-hàm chuyển thành người Nhất gián: (1) Do bảy tám phẩm Hoặc đã diệt. (2) Do được căn vô lưu đối trị Hoặc. (3) Do một đời là thừa.

Vì sao một phẩm Hoặc có thể chướng ngại quả A-na-hàm của người này? Do người này nên vượt qua cõi dưới. Như trước đã nói. Ở trong ba phần vị có ba thứ nghiệp đã khởi là chướng ngại. Như nghiệp có thể tạo chướng ngại, nên biết Hoặc cũng như thế. Do phải vượt qua địa quả quả báo và quả đẳng lưu của nghiệp, nên hoặc, nghiệp đều là chướng. Gián là nghĩa chướng. Chướng này chỉ là một, tồn tại chỉ ở một đời, gây chướng ngại cho người này nhập Niết-bàn.

Chỉ có một Hoặc tạo chướng ngại người này đắc quả A-na-hàm, nên gọi là Nhất gián. Diệt bảy, tám phẩm, nghĩa ấy là như thế.

Nếu trước chưa nhập quán bốn đế mà đã diệt Hoặc của các phẩm thứ ba, tư, bảy, tám, về sau mới chứng quả, thì không thành Gia gia, cũng không phải Nhất gián, cho đến do quả nơi đạo hơn, chưa khởi hiện tiền.

Kệ nói: Diệt chín: A-na-hàm.

Giải thích: Người đắc quả, do diệt Hoặc của phẩm thứ chín, nên biết gọi là A-na-hàm. Ở nơi cõi dục không còn trở lại. Do đã diệt hết hoặc của năm kiết phần dưới. Diệt năm thứ này do hợp số nên nói.

Vì sao? Vì ở trước tất đã diệt ba Hoặc, sau diệt hai thứ.

Kệ nói:

Trong đây sinh hữu hành

Vô hành bát Niết-bàn Thượng lưu.

Giải thích: Người này ở trung gian bát Niết-bàn, nên nói là Trung diệt. Đã sinh như thế, tức bát Niết-bàn, nên gọi là Sinh diệt. Không do hành bát Niết-bàn hay do hành bát Niết-bàn, nghĩa này nên biết.

Người A-na-hàm này có năm loại:

Trung gian diệt: Ở trung ấm bát Niết-bàn.

Sinh diệt: Chỉ đã sinh không lâu, liền bát Niết-bàn. Do tu thuần thục đạo vận hành, nên diệt này do Niết-bàn hữu dư.

Có Sư khác cho: Gồm đủ hai Niết-bàn. Nghĩa này không hợp lý, vì người này đối với việc xả bỏ mạng không có tự tại. Ở kia nói hữu hành diệt: Nghĩa là nếu người thọ sinh xong, ở tu không dứt gia hạnh, do nhiều dụng công nên bát Niết-bàn, vì luôn tu tập đạo vận hành.

Vô hành diệt: Không do nhiều dụng công, về sau bát Niết-bàn, tôn trọng tu tập đạo vận hành.

Có Sư khác nói: Do đạo hữu vi, vô vi nên bát Niết-bàn. Nghĩa này không hợp lý, do có lỗi thái quá. Nên ở trong kinh, trước nói không phải hành diệt, sau nói hành diệt. Theo thứ lớp như vậy, cùng với lý tương ưng. Đạo vận hành không vận hành, do tu thuần thục, tu không thuần thục tạo thành. Thế nên diệt không do dụng công được mà do dụng công được.

Sinh diệt: Là công năng hơn hết nơi đạo vận hành và đạo phẩm tối thượng đối trị, phẩm tối hạ của các Hoặc.

Thượng lưu: Là đi đến thọ sinh nơi cõi trên, là xứ thọ sinh. Ở trong đó không bát Niết-bàn. Lưu: Là nghĩa hành.

Kệ nói:

Đây nơi định

Hành tạp tu không dưới.

Giải thích: Người thượng lưu này do nhân quả nên có hai thứ. Nghĩa là do nhân, do quả. Do nhân: Nghĩa là tu định có xen tạp, tu định không xen tạp làm nhân. Do quả: Nghĩa là A-ca-ni-sư-trá là hơn, hay xứ Hữu đảnh là hơn.

Trong đây: Nếu người tu định xen tạp làm nhân, tức đi đến sinh nơi trời A-ca-ni-sư-trá, ở đấy bát Niết-bàn.

Kệ nói:

Vượt khỏi nửa, vượt hơn Thoái khắp.

Giải thích: A-ca-ni-sư-trá là hơn. Người thượng lưu có ba loại, do sự vượt khỏi v.v… có sai biệt. Ở đây: Vượt khỏi: Nghĩa là tu định xen tạp ở cõi dục, đã thoái mất ba định trên, do ăn nơi vị của định thứ nhất, xả bỏ mạng sinh ở trời Phạm chúng. Do thuận theo chỗ quen tu tập của đời trước, nên ở trong ấy lại tu xen tạp định thứ tư. Từ xứ kia xả bỏ mạng sinh nơi trời A-ca-ni-sư-trá. Người này ở nơi trung gian mất, xuất hiện ở cõi trên, đó gọi là vượt khỏi.

Nửa vượt khỏi: Từ định thứ nhất sinh nơi trời Tịnh Cư xong, cho đến vượt qua một xứ riêng mới sinh vào trời A-ca-ni-sư-trá. Thánh nhân tất không sinh nơi xứ Đại Phạm, do là xứ tà kiến, vì đối với tất cả là một vị chủ khắp: Nếu người hành ở tất cả xứ, về sau nhập nơi trời A-ca-ni-sư-trá, thì đối với người A-na-hàm vô thời là xứ đã sinh. Lại thọ sinh lần thứ hai, do hành tăng hơn. Nếu lúc ấy nghĩa A-na-hàm của người này tức được viên mãn. Ở nơi xứ đã sinh, hoàn toàn không đến nữa. Như thế tu định xen tạp, nên biết là hành nơi trời A-ca-ni-sư-trá.

Lại nữa: Kệ nói: Hành khác: Đảnh.

Giải thích: Người thượng lưu không tu xen tạp định cho xứ Hữu đảnh là hơn. Vì sao? Vì người này tùy thuận phẩm của định định khởi tâm thực vị, sinh nơi tất cả xứ xong, chỉ không nhập trời năm Tịnh cư, do thứ lớp thọ sinh nơi ba xứ vô sắc. Về sau, vãng sinh nơi xứ Hữu đảnh, đều bát Niết-bàn. Đây là người hành Xa-ma-tha, trước là người hành Tỳ-bát-xá-na. Người thượng lưu ở nơi trung gian bát Niết-bàn. Ta thấy nghĩa này không trái với lý, nhưng nói trời A-ca-ni-sư-trá và xứ Hữu đảnh là hơn, tức vượt quá đấy là xứ vô hành. Ví như nói Tu-đà-hoàn bảy lần sinh là hơn.

Năm người như thế đều là A-na-hàm hành cõi sắc.

Kệ nói: Hành vô sắc khác bốn.

Giải thích: Có A-na-hàm riêng hành ở cõi vô sắc.

Nếu đã lìa cõi dục, cõi sắc, xả sinh nơi cõi sắc, thọ sinh nơi cõi vô sắc, người này lại có bốn loại. Do sinh, diệt v.v… có sai biệt, nên như người A-na-hàm này hợp thành sáu người.

Kệ nói: Cõi dục diệt, lại riêng.

Giải thích: Có A-na-hàm khác, ở nơi đời nay, tức bát Niết-bàn. Đây gọi là hiện pháp bát Niết-bàn, gọi là thứ bảy.

Kệ nói:

Ba người lại phân ba

Nên biết chín hành sắc.

Giải thích: Lại nữa, ba loại A-na-hàm, đều có ba sai biệt, thế nên A-na-hàm hành nơi cõi sắc có chín người.

Ba loại là: Trung diệt, sinh diệt, thượng lưu.

Thế nào là đều có ba sai biệt?

Trung diệt: Là nhanh chóng, không nhanh chóng, thời gian lâu bát Niết-bàn. Do thí dụ ba tấm sắt, ngôi sao, đã phân biệt.

Sinh diệt: Là sinh vô hành, hữu hành bát Niết-bàn. Vì sao? Vì ba người này đồng thọ sinh xong, về sau bát Niết-bàn. Thế nên ba người đồng gọi là sinh diệt.

Thượng lưu: Là vượt khỏi có sai biệt nên thành ba người. Tất cả ba loại nhanh chóng, không nhanh chóng thời gian lâu bát Niết-bàn, thế nên lại cùng có sai biệt.

Kệ nói:

Lại, người kia sai biệt

Nghiệp hoặc căn có khác.

Giải thích: Ba thứ này là chín loại người A-na-hàm, do nghiệph căn có sai biệt, nên những người kia có sai biệt. Ba người này có sinh báo, hậu báo do nghiệp có sai biệt.

Lại nữa, nơi sự nối tiếp kia, hoặc hạ trung thượng thường thường hiện hành có sai biệt. Lại nữa, ba người này đều có căn thượng trung hạ có sai biệt. Thế nên ba người này như lý đều có sai biệt, tức là hai, ba thứ trước. Do hoặc, do căn có sai biệt, nên có khác. Ba thứ sau do hậu báo nơi nghiệp có sai biệt nên có khác.

Chín người này do chín thứ nghiệp hoặc căn, thế nên người A-na-hàm thành chín loại.

Nếu như vậy vì sao trong kinh nói có bảy thứ người hành Hiền Thánh?

Kệ nói:

Thượng lưu không sai biệt Nói bảy hành Hiền Thánh.

Giải thích: Thượng lưu vì pháp nên gọi là thượng lưu. Do nêu rõ người này không phân biệt. Trong kinh nói: Bảy hành Hiền Thánh.

Thế nào là dựa nơi hành của thượng lưu như thế để nói là bảy hành Hiền Thánh?

Không nói hành của người hữu học khác, chỉ vì người này ở nơi địa khác có hành. Người khác thì không có. Người này chỉ hành nghiệp thiện, không hành nghiệp bất thiện. Nếu người hành hành này, chỉ đi đến bất lai như đã nói về ba nghĩa. Đối với Thánh nhân khác đều không có. Thế nên: Kệ nói:

Hành thiện, ác không hành Do đến không trở lại.

Giải thích: Nên đối với thượng lưu lập bảy hành Hiền Thánh. Đối với loại khác không lập.

Nếu như vậy vì sao trong kinh nói: Những ai là người Hiền Thánh? Người hữu học cùng với chánh kiến tương ưng. Nói rộng như kinh. Đối với loại khác cũng có nghĩa Hiền Thánh.

Đây là do ý riêng nên nói có. Nghĩa là vĩnh viễn đến đắc, không tạo năm thứ hộ (luật nghi) ác. Lại, đã diệt nhiều Hoặc của tánh ác.

Nếu không do ý riêng lập nghĩa của người Hiền Thánh, thì người kia là do luận này nói. Lại nữa, A-na-hàm đã chuyển sinh là có sai biệt như thế chăng? Không có. Do nghĩa này, kệ nói:

Cõi dục chuyển sinh Thánh Không sinh đến cõi khác.

Giải thích: Ở trong cõi dục đã chuyển sinh riêng Thánh nhân, tất không được sinh đến cõi khác. Vì sao? Vì nếu đến A-na-hàm, thì ở nơi đời này tất định bát Niết-bàn. Ở nơi cõi sắc, nếu chuyển sinh Thánh nhân, thì có lúc nhập nơi cõi vô sắc. Nếu thượng lưu thì xứ Hữu đảnh là hơn.

Nếu như vậy vì sao Thiên Đế Thích nói: Trời này đã nghe, gọi là A-ca-ni-sư-trá. Đệ tử của Đức Thế Tôn ở nơi bên ta mất, đến nơi kia thọ sinh.

Sư Tỳ-bà-sa cho: Do không hiểu Tạng A-tỳ-đạt-ma nên mới nói lời ấy. Vì sao Đức Phật, Thế Tôn không ngăn cấm lời nói ấy?

Vì tùy thuận tâm hoan hỷ của Đế Thích, thế nên Đức Phật đã không ngăn cấm.

Kệ nói:

Đây cùng người sinh trên

Không luyện căn và thoái.

Giải thích: Đây: Là ở nơi cõi dục chuyển sinh Thánh nhân cùng có Thánh nhân riêng, đi đến cõi trên thọ sinh. Những người này không luyện căn tu hành và không có nhân duyên bị thoái chuyển.

Vì sao không thừa nhận cõi dục chuyển sinh người và sinh đến cõi sắc, vô sắc là người, luyện căn cùng sự việc thoái chuyển? Do chuyển biến sinh riêng ở đời trước, nên căn thành thục dần, được nương dựa của loại hơn hẳn. Do hai nghĩa này nên không có luyện căn và sự việc thoái chuyển. Lại nữa, người hữu học chưa được lìa dục, vì sao không thành trung diệt?

Do đạo chưa thành thục, do tư duy không hiện tiền liền, nên tùy miên Hoặc không phải là phẩm yếu kém, do nơi cõi dục khó xuất ly.

Sư Tỳ-bà-sa nói như vầy: Người này nên làm việc rất nhiều: (1) Nên diệt trừ phiền não thuộc tánh ác, vô ký. (2) Nên chứng đắc quả Sa-môn thứ hai, thứ ba. (3) Nên xuất ly ba cõi.

Nếu ở nơi trung ấm thì không thể thành tựu sự việc như thế. Ở trước đã nói: Nếu tu định xen tạp, người này tất sinh ở trời A-ca-nisư-trá.

Trong đây, định nào nên tu xen tạp trước?

Kệ nói: Trước tu tạp định sau.

Giải thích: Nếu người muốn tu xen tạp các định, tất trước tu xen tạp định thứ tư. Vì sao? Vì định này tùy thuận tất cả sự, trong tất cả hành vui là tối thắng.

Nếu tu xen tạp tất do phương tiện như thế. Hoặc người A-lahán, hoặc người A-na-hàm, trước tu tập định thứ tư vô lưu tương ưng với nhiều sự nối tiếp. Xuất quán này xong, tiếp theo là tu tập định thứ tư hữu lưu, tương ưng với nhiều sự nối tiếp. Xuất quán này xong, lại nhập nơi định thứ tư vô lưu. Do thứ lớp ấy, giảm dần dần vô lưu, nối tiếp hữu lưu, cho đến hai sát-na nhập quán vô lưu, hai sát-na nhập quán hữu lưu, lại hai sát-na nhập quán vô lưu. Đây gọi là gia hạnh của tu xen tạp định.

Kệ nói: Thành do một niệm tạp.

Giải thích: Nếu người sau sát-na vô lưu hiện tiền vô gián tu hữu lưu. Sau sát-na hữu lưu hiện tiền vô gián tu vô lưu. Sát-na hữu lưu như thế, do hai sát-na vô lưu xen tạp, nên tu xen tạp này được thành.

Hai sát-na trước giống với đạo vô gián. Sát-na thứ ba giống với đạo giải thoát. Phương tiện như vậy được tu xen tạp định thứ tư. Tu xen tạp định thứ tư như thế xong, do công năng này, các định còn lại đều có thể tu xen tạp.

Tu xen tạp này ở nơi xứ nào thành?

Ở nơi ba châu của cõi dục. Trước học tu xen tạp được rồi, nếu thoái mất, sau ở cõi sắc lại tu xen tạp. Lại nữa, tu xen tạp bốn định, công dụng ấy là thế nào?

Kệ nói:

Vì sinh cùng tự tại

Và sợ hãi hoặc thoái.

Giải thích: Do ba nhân duyên, Thánh nhân tu xen tạp các định. Nếu người A-na-hàm lợi căn, cầu được sinh nơi trời Tịnh cư là trụ ở nơi hiện pháp an lạc. Nếu người A-na-hàm độn căn, do sợ hãi các Hoặc, nên muốn xuất ly rất xa. Các định tương ưng với thực vị là không còn thoái chuyển nữa. Nếu là người A-la-hán lợi căn, thì trụ ở nơi hiện pháp an lạc. Nếu là độn căn, do sợ hãi các Hoặc, cầu không còn thoái chuyển, nên tu định này.

Lại nữa, sinh nơi trời Tịnh cư, vì sao chỉ là năm? Là đã nói về tu xen tạp định thứ tư.

Kệ nói:

Do tu tạp năm phẩm

Sinh Tịnh cư có năm.

Giải thích: Tu xen tạp này chỉ có năm phẩm. Nghĩa là hạ trung thượng, thượng trung thượng, thượng có sai biệt. Lượt thứ nhất tu ba tâm khiến hiện tiền. Nghĩa là vô lưu, hữu lưu vô lưu. Lượt thứ hai tu sáu tâm. Lượt thứ bat u chín tâm. Lượt thứ tư tu mười hai tâm. Lượt thứ năm tu mười lăm tâm. Tu mười lăm tâm như thế, lấy năm trời Tịnh cư làm quả, trong đó, tùy thuận tất cả hữu lưu, nên được sinh nơi trời kia. Nếu thuận theo vô lưu thì không được sinh xuống địa dưới.

Có Sư khác nói: Do các căn như tín v.v… vì tăng thượng theo thứ lớp, nên được sinh ở năm trời Tịnh cư. Kệ nói:

Na-hàm được diệt định Nên gọi là thân chứng.

Giải thích: Diệt đến đắc đối với người này có, hoặc thành tựu người này, nên nói là đắc diệt. Nếu người A-na-hàm được định diệt tâm, gọi là thân chứng. Do thân chứng giống như pháp Niết-bàn.

Thế nào là do thân đắc chứng? Do tâm không có, do nương dựa nơi thân sinh.

Ở nơi kinh khác nói có mười tám người hữu học.

Vì sao trong số người hữu học kia không nói thân chứng?

Do nhân duyên không có. Không có nhân duyên nào. Có ba loại: Học vô lưu và quả của học vô lưu. Vì hai loại này có sai biệt, nên an lập người hữu học có sai biệt. Quả của định diệt tâm không phải là hữu học, không phải là vô học cũng như vậy. Thế nên do được định này, thì không thể lập làm người hữu học có sai biệt. Nếu như phân biệt thô về người A-na-hàm có sai biệt, nên phân biệt như trước. Nếu dựa nơi sự phân biệt vi tế, thì nơi từng phần phần mở bày số thành nhiều ngàn.

Nghĩa này là thế nào?

Người trung diệt có ba, do căn hạ trung thượng có sai biệt. Do địa có sai biệt thành bốn. Tánh như pháp thoái v.v… có sai biệt thành sáu. Do thêm xứ có sai biệt thành mười sáu. Do địa lìa dục có sai biệt thành ba mươi sáu. Nơi cõi dục Thánh nhân còn đủ trói buộc, cho đến ở định thứ tư, được tám phẩm lìa dục. Căn cứ ở tánh xứ, căn lìa dục có sai biệt, thành hai ngàn năm trăm chín mươi hai loại.

Vì sao như thế?

Ở nơi một xứ có sáu tánh, mỗi mỗi tánh đều có chín người. Từ phần vị trói buộc đủ, cho đến lìa dục nơi tám phẩm Hoặc. Từ định tự đã được, sáu nhân với chín thành năm mươi bốn. Lấy mười sáu nhân với năm mươi bốn thành tám trăm sáu mươi bốn. Tiếp theo do căn có sai biệt, lại là gấp ba lần. Nếu làm phép tính như vậy, thì ở định dưới người lìa dục được chín phẩm. Người này ở địa trên nói là trói buộc đủ. Nếu tính bằng nhau thì như từ trung diệt cho đến thượng lưu cũng vậy. Nếu hợp số tất cả người thì có bốn mươi, giảm mười ba ngàn vị A-na-hàm.

Kệ nói:

Diệt tám phẩm Hữu đảnh Thành hướng A-la-hán.

Giải thích: Nghĩa A-na-hàm được nêu dẫn đến đây. Người A-nahàm từ nơi định thứ nhất lìa dục nơi một phẩm Hoặc, cho đến diệt tám phẩm Hoặc của xứ Hữu đảnh, người này thành hướng A-la-hán.

Kệ nói: Đạo vô gián thứ chín.

Giải thích: Chủ thể diệt phẩm Hoặc thứ chín của xứ Hữu đảnh, trong đạo vô gián, người này cũng là hướng A-la-hán.

Kệ nói: Đây gọi định kim cang.

Giải thích: Đây: Nghĩa là chủ thể diệt phẩm Hoặc thứ chín và đạo vô gián được gọi là Tam-ma-đề thí kim cang (định kim cang dụ). Định này có thể diệt trừ tất cả Hoặc, không Hoặc nào là không thể phá diệt. Đạo này không phá trừ hết thảy Hoặc, do chúng đã được phá trừ. Vì có thể phá diệt tất cả Hoặc, nên trong tất cả đạo vô gián là phẩm tối thượng thượng.

Có Sư khác nói: Định kim cang thí có nhiều thứ sai biệt. Như thuộc về định phi chí (định vị chí). Duyên nơi khổ, tập của xứ Hữu đảnh làm cảnh, tương ưng với hành của khổ tập loại trí có tám. Tương ưng với hành của diệt đạo pháp trí có tám. Tương ưng với hành của diệt loại trí, duyên nơi diệt của định thứ nhất làm cảnh có bốn. Cho đến duyên nơi diệt của xứ Hữu đảnh làm cảnh có bốn. Tương ưng với hành của đạo loại trí có bốn. Hợp duyên nơi tất cả phẩm loại trí làm cảnh. Tam-ma-đề kim cang này, do cảnh giới của trí hành có sai biệt, nên thành năm mươi hai Tam-ma-đề kim cang. Như thuộc về định phi chí, cho đến thuộc về định thứ tư cũng như vậy. Phần thuộc về không, thức, vô sở hữu, vô biên nhập, như lý nên nhận biết.

Có hai mươi tám, hai mươi bốn và hai mươi pháp trí ở nơi cõi vô sắc là nơi chốn nương dựa. Cùng loại trí duyên nơi diệt của địa dưới làm cảnh, là không có, nên dùng đạo đối trị địa dưới làm cảnh và cùng làm nhân.

Có Sư khác giải thích: Đạo loại trí đối trị mỗi mỗi địa, cũng là cảnh nơi đối tượng duyên của Tam-ma-đề này.

Đối với Sư kia, Tam-ma-đề kim cang thuộc về định phi chí, lại thêm hai mươi tám thứ, thành tám mươi Tam-ma-đề kim cang, cho đến thuộc về định thứ tư cũng như vậy. Nương dựa nơi không xứ v.v…, theo thứ lớp có bốn mươi, ba mươi hai và hai mươi bốn thứ Tam-ma-đề. Lại nữa, do căn tánh có sai biệt, nên Tam-ma-đề này lại thành nhiều thứ. Là đã nói về phẩm Hoặc thứ chín của xứ Hữu đảnh. Đây là do Tam-ma-đề kim cang diệt trừ.

Kệ nói: Do được diệt thứ chín: Tận trí.

Giải thích: Cùng với phẩm Hoặc thứ chín đã diệt lìa, trí đến đắc cùng khởi, gọi là tận trí, tức là từ sau Tam-ma-đề kim cang vô gián đã sinh đạo giải thoát, thế nên gọi là tận trí. Do cùng với tất cả lưu diệt hết cùng khởi, do trí này ở nơi đầu.

Kệ nói: Vô học hợp.

Giải thích: Người này ở trước là hướng A-la-hán. Lúc tận trí sinh tức thành vô học, gọi là A-la-hán. Vì đến đắc quả A-la-hán, nên là được quả riêng, không có học riêng còn tu học nữa, nên gọi là vô học. Do đấy, vì tương ưng với sự việc tạo lợi ích cho người khác, nên gọi là A-la-hán. Tất cả người có dục đều nên cung kính, nên gọi là A-la-hán. Vì thế nghĩa này tự thành. Nghĩa là đã nói bảy người gọi là hữu học.

Bảy người kia vì sao gọi là hữu học?

Vì được lưu hết (lậu dứt hết), luôn học ba học làm pháp. Nghĩa là dựa vào giới học, dựa vào tâm học, dựa vào tuệ học. Ba học giới, định, tuệ này làm tánh.

Nếu như vậy thì phàm phu cũng nên thành hữu học chăng?

Nghĩa này không hợp lý. Vì chưa thấy biết như thật về lý của bốn đế, thời gian sau lại tạo ra tà học. Thế nên Đức Phật Thế Tôn ở trong kinh lại nói với Thi Bà Kha: Học nơi ba học kia. Vì học về ba học này nên gọi là hữu học.

Ở đây, nói lần nữa có nghĩa gì?

Nếu người chánh học không phải là tà học. Nếu người học như trước, thì học sau cũng như vậy.

Nếu vậy tự tánh trụ nơi Thánh nhân vì sao lấy học làm pháp?

Do ý mong muốn nên là hữu học. Ví như người đi đường tạm dừng nghỉ. Học đến đắc không lìa nhau.

Lại nữa, những gì là pháp hữu học? Là tất cả pháp vô lưu của người hữu học.

Những gì là pháp vô học? Là tất cả pháp vô lưu của người vô học.

Vì sao Niết-bàn không phải là hữu học? Vì vô học và phàm phu cùng với đấy đều tương ưng.

Thế nào là phi vô học? Vì hữu học và phàm phu cùng với đấy tương ưng.

Hợp tất cả hữu học, vô học thành tám người. Người hướng quả đạo có bốn. Người đắc quả có bốn.

  1. Vì chứng đắc quả Tu-đà-hoàn nên hành nơi đạo.
  2. Chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, cho đến bảy lượt hướng quả là chứng đắc quả A-la-hán, nên hành nơi đạo.

(8) Chứng đắc quả A-la-hán. Người này do danh nên thành tám. Nếu do vật thật thì chỉ có năm. Một thứ trước là người hướng quả đạo. Bốn thứ sau là người trụ nơi quả.

Người hướng còn lại không ra khỏi ba quả đã thành lập, nên thuộc về ba quả. Nghĩa này dựa nơi thứ lớp để nói.

Lại nữa, nếu trước có nhiều diệt và người của cõi dục lìa dục có ba loại. Ở trong kiến đạo, thành hướng Tư-đà-hàm và hướng A-nahàm, vị này không phải thuộc về Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm.

Vì sao? Vì như trước đã nói: Tu đạo có hai thứ: (1) Đạo thế gian. (2) Đạo xuất thế gian.

Người hữu học do đạo nào để được lìa dục? Từ nơi cõi nào để được lìa dục? Kệ nói:

Do xuất thế lìa dục Hữu đảnh.

Giải thích: Từ xứ Hữu đảnh, nếu được lìa dục, tất định là hữu học, do đạo xuất thế gian, không do đạo thế gian.

Vì sao như vậy?

Từ trên xứ Hữu đảnh, không còn đạo thế gian, nên dựa vào đạo của tự địa không phải đối trị.

Vì sao đạo của tự địa không thể đối trị?

Vì hoặc của tự địa đã là tùy miên. Nếu Hoặc ở trong loại đạo này là tùy miên, thì không thể lập loại đạo này, có thể diệt trừ Hoặc ấy. Nếu đạo là đối trị Hoặc ấy thì Hoặc ấy tức không được ở trong đạo này là tùy miên. Dựa vào đạo của tự địa không thể làm công việc đối trị Hoặc của tự địa.

Kệ nói: Khác hai thứ.

Giải thích: Trừ xứ Hữu đảnh, ở trong tất cả địa lìa dục, có hai thứ. Do đạo thế gian, xuất thế gian, phàm phu cùng người học đều được lìa dục. Trong đây: Kệ nói:

Do đạo thế Thánh nhân Lìa dục đến đắc hai.

Giải thích: Do đạo thế gian, nếu Thánh nhân đạt được lìa dục tức có hai thứ đạt đến diệt lìa cùng khởi: (1) Đạt đến về thế gian. (2) Đạt đến về xuất thế gian.

Kệ nói: Khác nói do xuất thế.

Giải thích: Do đạo xuất thế gian, nếu Thánh nhân được lìa dục, thì đạt đến diệt lìa cũng có hai thứ.

Sư khác nói như vậy. Vì sao?

Kệ nói: Xả bỏ hoặc không hợp.

Giải thích: Nếu Thánh nhân do đạt đến Thánh đạo lìa dục, được đạt đến về thế gian không sinh, thì trong nghĩa này, nếu người do Thánh đạo lìa dục nơi vô sở hữu, vô biên nhập, nương dựa vào các định, lại tu hành luyện căn. Người ấy do xả đủ đạo trước, nên quả đạo hoàn toàn không có, tức cùng với Hoặc của địa trên đã diệt lìa nên không tương ưng. Nếu xả đấy xong nên lại cùng với Hoặc kia tương ưng.

Kệ nói:

Hữu đảnh, nửa giải thoát

Như sinh trên không hợp.

Giải thích: Người này tuy không có đạt đến về thế gian, diệt lìa, cũng không được cùng với Hoặc kia tương ưng. Ví như người hữu học, đối với Hoặc của xứ Hữu đảnh đã được phân nửa giải thoát, trong ấy, tất không có đạt đến diệt lìa về thế gian. Do tu hành luyện căn, nên đã xả đạt đến về xuất thế gian, cùng với hoặc của địa kia cũng không tương ưng.

HẾT – QUYỂN 17