A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THÍCH LUẬN
Tác giả: Tôn giả Bà Tẩu Bàn Đậu (Thế Thân)
Hán dịch: Đời Trần, Tam Tạng Chân Đế
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 5

Phẩm thứ 2: PHÂN BIỆT CĂN, phần 4

Là không như thế chăng?

Nhân này đối với tha sinh có phần đều là vô thường. Do lời nói ấy nên pháp vô vi này chính vì không thể ngăn trừ nên lập làm nhân. Nghĩa này đã bị bác bỏ.

Ở trong kinh khác nói: Cảnh của đối tượng duyên không nói là không thể ngăn trừ làm nhân. Nghĩa nhân của pháp vô vi ở trong kinh không thành, vì không nói. Tuy không nói nhưng cũng không chính thức bác bỏ. Vô lượng kinh khác có thể làm rõ về nghĩa ấy, đều đã suy hao hoại diệt, vì sao quyết định giữ lấy nghĩa này, không phải do kinh nói?

Nếu như thế thì pháp nào gọi là lìa diệt? Hay là trước đã không nêu dẫn?

Trạch diệt nghĩa là vĩnh viễn lìa dứt, mỗi mỗi đều đối trị các kiết. Ở trước đã hỏi: Pháp nào là trạch diệt? Đáp: Là lìa diệt. Hiện nay, hỏi: Pháp nào là lìa diệt? Đáp: Là trạch diệt. Giải thích này lại đều cùng nương dựa, chung cuộc là không thể hiển bày tự tánh. Thế nên cần dẫn ra nghĩa riêng nhằm làm rõ thể tánh của trạch diệt kia.

Các Thánh nhân đều có khả năng tự chứng thể tánh của pháp này. Nếu muốn nói đến các tướng như vậy cũng có thể nêu bày được, nghĩa là thường trụ, thiện, có vật riêng khác. Nếu tư duy xét lường tức là lìa diệt trạch diệt.

Sư Kinh Bộ cho: Tất cả pháp vô vi đều là không vật. Vì sao? Vì pháp này không như sắc, thọ v.v… có vật của thể riêng khác.

Vì sao không có vật riêng khác? Do chỉ không có xúc, nói là hư không.

Do đâu như thế? Ở trong bóng tối người kia không bị ngăn ngại. Nói trái lại là hư không.

Do sức phân biệt lựa chọn, nên tùy miên hoặc hiện tại cùng sinh lìa diệt. Về sau tập khổ khác không sinh lại nữa gọi là trạch diệt. Lìa sự phân biệt lựa chọn này, do duyên không đủ nên các pháp không sinh lại, gọi là phi trạch diệt. Ví như tàn dư của tụ đồng phần nơi giữa chừng chết không sinh lại.

Sư bộ khác nêu: Ở trong tùy miên Hoặc không sinh lại, Bátnhã có công năng. Chính công năng này được gọi là trạch diệt. Khổ sau đấy không sinh lại, do tùy miên Hoặc đã bị diệt hoại. Vì duyên sinh không đủ nên pháp này được thành. Trong ấy, Bát-nhã không có công năng, nên diệt này gọi là phi trạch diệt. Pháp này nếu lìa phân biệt lựa chọn thì không được thành. Thế nên diệt ấy tức là trạch diệt.

Có Sư khác nói: Nếu pháp trước đã sinh, sau diệt, là tự vị diệt, nói là phi trạch diệt. Đối với phi trạch diệt trong lối giải thích này tức nên thành vô thường.

Nếu pháp chưa diệt, vì chưa có phi trạch diệt hay là vì không như thế?

Trạch diệt của ông ở đây đồng với vấn nạn trước không khác. Vì lấy phân biệt lựa chọn làm đầu. Như chúng tôi không cho trạch diệt ở sau phân biệt lựa chọn. Vì sao? Vì không phải phân biệt lựa chọn trước, rồi sau các pháp chưa sinh mới không được sinh.

Lời giải thích ấy như thế nào? Thời gian trước đã có các pháp không sinh. Nếu lìa phân biệt lựa chọn thì pháp này tức nên sinh. Sau khi phân biệt lựa chọn khởi, thì pháp này vĩnh viễn không sinh. Ở trong đây là công năng của phân biệt lựa chọn. Nghĩa là trước chưa có sinh chướng ngại, nay thì sinh chướng ngại. Nếu ông cho chỉ không sinh là Niết-bàn, làm sao giải thích thuận hợp với câu văn của kinh này? Như kinh nói: Nếu năm căn như tín v.v… được sự, được tu, được thường hành tập, tức lìa diệt các khổ trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, nên sinh khởi lìa diệt, tức là Niết-bàn. Sự không sinh chỉ căn cứ nơi vị lai, ở đời quá khứ, hiện tại đều có nghĩa sinh. Điều này thật có như vậy. Tuy nhiên, vì có thể duyên nơi Hoặc của ba đời diệt, nên Đức Thế Tôn gọi là khổ diệt.

Do đâu phán quyết như thế? Như Biệt kinh nói: Đối với sắc sinh tham ái các ông nên diệt trừ. Nếu tham ái đã diệt thì sắc này đối với các ông tức diệt, tức lìa. Nói rộng như kinh. Cho đến thức cũng như thế.

Nếu vậy đối với khổ của ba đời lìa diệt cũng như thế chăng?

Nếu có giải thích như ở đây, là diệt trừ Hoặc của đời quá khứ, vị lai, hiện tại, nên nói kinh này và giải thích đạo lý, tất nên như vậy. Nếu có chấp nhận như vậy tất Hoặc của quá khứ ở nơi quá khứ sinh. Hoặc của đời hiện tại ở nơi đời hiện tại sinh. Ví như trong hành tham ái, nói mười tám hành tham ái. Căn cứ nơi đời quá khứ, tức căn cứ ở nơi quá khứ sinh. Cho đến đời hiện tại cũng thế. Do Hoặc của hai đời này ở trong sự nối tiếp hiện nay đã an lập chủng tử. Vì Hoặc vị lai sinh, do chủng tử diệt, nên nói Hoặc kia cũng diệt. Ví như do quả báo hết nên cũng nói nghiệp hết. Vì khổ của vị lai này và Hoặc của vị lai không có chủng tử, nên vĩnh viễn không sinh lại, tức nói là lìa diệt.

Nếu chấp nhận quả thì quá khứ này và đời hiện tại có pháp gì có thể diệt trừ? Đối với pháp đã diệt cùng định hướng diệt là công dụng diệt, lại có quả gì?

Nếu vô vi thật sự không có vật, thì như Đức Phật Thế Tôn đã nói nơi kinh: Các pháp hiện có, nghĩa là hữu vi, vô vi. Ở đây, nói pháp lìa dục là không gì bằng, vì sao ở trong không pháp không có, nói là không gì bằng? Hoặc chúng ta không nói vô vi là không có?

Tôi nói như thế là có. Như tôi đã nói. Như nói âm thanh là có. Trước không có rồi có, sau không có. Tuy có nói là có, nhưng không phải là có vật, nên sau cùng không thành có. Nên biết pháp vô vi cũng như thế.

Có không hiện có rất đáng tán thán. Nghĩa là tất cả tai ương đều vĩnh viễn không còn có nữa. Ở đây không có, ở nơi khác không có là hơn hết. Vì không gì bằng nên đáng khen ngợi. Vì khiến các đệ tử đáng được thọ nhận sự hóa độ của Đức Phật vui cầu pháp này, nên nếu vô vi chỉ là vô sở hữu thì diệt lìa, tức không phải là Thánh đế. Vì sao? Vì ở đây là vô sở hữu.

Nếu như vậy thì đế có nghĩa gì? Là không như đây chăng?

Không đảo lộn là nghĩa. Hai pháp này cũng không có đảo lộn. Như Thánh nhân đã thấy về khổ là như khổ. Khổ là vô sở hữu, như là vô sở hữu.

Như thế đối với Thánh đế có mâu thuẫn gì?

Hoặc thế nào là vô sở hữu là thành Thánh đế thứ ba, thành nghĩa của Thánh đế? Đã nói về thứ hai, tiếp theo vô gián, vì Thánh đã thấy, đã nói, nên thành thứ ba. Nếu vô vi chỉ là vô sở hữu tức duyên nơi hư không, Niết-bàn làm cảnh nơi thức, tức nên thành không cảnh giới. Nghĩa này ở trong quá khứ, vị lai thật có quy xét và nên phán quyết.

Nếu ông thừa nhận pháp vô vi thật sự có vật riêng, thì có nào là sở hữu. Lại sở hữu cái gì?

Theo nghĩa gốc của Tỳ-bà-sa, tức nên được ủng hộ. Chư thiên nên ủng hộ. Nếu chư thiên kia nhận biết điều này, tất nên có thể ủng hộ. Lối giải thích ấy không phải là chân thật.

Vì sao không phải là chân thật?

Vì vô vi này không như tự tánh của sắc, thọ v.v… có thể chứng, không như nhãn căn v.v… có thể dùng sự việc để chứng. Ở đây lìa diệt là lìa diệt hoặc khổ đã được an lập như vậy.

Làm sao có thể thành? Vì sao?

Do lìa diệt này cùng với Hoặc v.v… là không tương quan. Các nghĩa như nhân, quả v.v… không có, chỉ ngăn trừ, bác bỏ lối chấp kia. Nghĩa này có thể đúng. Nghĩa là tên ấy, vật ấy là không có. Nếu cho là thật có vật riêng, thì do Hoặc đắc đoạn trừ đắc thì lìa diệt này, nên nói đây là lìa diệt Hoặc.

Lại có nhân gì để có thể quyết định pháp này là đắc?

Trong kinh nói: Tỳ-kheo đã đắc Niết-bàn của hiện pháp. Nếu là vô sở hữu làm sao đắc? Do đối trị của đắc, nên phiền não của đắc và pháp sinh sau vĩnh viễn trái nhau. Về chỗ nương dựa nên nói Niếtbàn của đắc.

Các kinh trong A-hàm đã hiện bày pháp này. Chỉ vô sở hữu là nghĩa. Kinh A-hàm nói: Các khổ này đã diệt trừ rốt ráo, từ bỏ không giới hạn, đều lìa dục, lìa diệt, tĩnh lặng, dứt mất, không nối tiếp khổ khác, không nhận lấy, không sinh, là pháp tĩnh lặng tốt đẹp. Nghĩa là xả bỏ tất cả ái còn lại, hoàn toàn lìa dục, lìa diệt, gọi là Niết-bàn.

Thế nào là không thừa nhận như thế, nơi pháp kia không sinh, nên gọi là vô sinh?

Chúng tôi nhận thấy nghĩa này cùng với lý không tương ưng. Văn ấy đã hiển bày về gì? Nếu cùng với pháp đã có tương ưng, thì xưa nay tức nên không sinh, vì Niết-bàn là thường trụ. Nếu cùng với pháp đã đắc tương ưng, thì từ đắc ấy có thể phân biệt pháp này đã có, Hoặc đã đắc ông nên thừa nhận nếu không sinh là thí dụ rất tương ưng với lý. Ví như ánh sáng, thì Niết-bàn, tâm giải thoát cũng thế. Như ánh sáng, Niết-bàn không phải là vật có. Tâm giải thoát của Đức Thế Tôn cũng thế. Tạng A-tỳ-đạt-ma cũng no1i như vậy. Tạng ấy nói: Thế nào là pháp không loại? Đáp: Là pháp vô vi. Không loại là không có Thể. Lời nói ấy làm rõ là không có tự tánh.

Sư Tỳ-bà-sa cho: Nghĩa của câu văn không như thế.

Nếu như vậy thì là nghĩa gì?

Loại có bốn thứ:

1. Loại tự tánh. Như kinh nói: Nếu đã được Loại này, thì người ấy tất cùng với loại đó tương ưng.

2. Loại cảnh. Như kinh nói: Tất cả pháp như loại trí tuệ đã nhận biết.

3. Loại kiết. Như kinh nói: Nếu ở trong Loại này, thì cùng với kiết dục tương ưng, tức cùng với kiết sân tương ưng.

4. Loại nhân. Như kinh nói: Những gì là pháp có Loại? Là tất cả pháp hữu vi.

Năm loại gồm thâu. Như kinh nói: Loại ruộng, loại nhà cửa v.v…

Trong văn này nhân ấy dùng đến Loại để hiển bày rõ. Thế nên tất cả vô vi thật sự có vật riêng.

Sư Tỳ-bà-sa nói như vầy: Pháp vô vi không có nhân, không có quả.

Nói về ba vô vi xong. Quả có năm thứ, trong đó, quả này là do nhân nào? Nhân này là do quả nào?

Kệ nói: Nhân sau: Quả quả báo

Giải thích: Nhân quả báo được nêu sau cùng nên gọi là sau. Nhân này dùng quả quả báo (quả dị thục) làm quả.

Kệ nói: Nhân trước: Quả tăng thượng.

Giải thích: Nhân tùy tạo, vì được nói trước hết, nên gọi là trước. Nhân này dùng quả tăng thượng làm quả. Nhân này chỉ không thể ngăn trừ làm tánh. Có tăng thượng gì? Tức đây là tăng thượng. Nhân tùy tạo lại có công năng hỗ trợ. Ví như có công năng đối với năm thức, mười nhập. Lại, có công năng đối với các nghiệp của khí thế giới. Các căn như nhĩ v.v… ở trong nhãn thức sinh liên tục có tăng thượng, do nghe muốn thấy sinh. Như ở đây v.v… nên tư duy.

Kệ nói: Đồng loại cùng biến hành: Đẳng lưu.

Giải thích: Quả của hai nhân này đều giống nhân, nên cả hai đều dùng quả đẳng lưu làm quả.

Kệ nói: Hai: Công sức.

Giải thích: Hai, tức là nhân câu hữu, nhân tương ưng, đồng dùng quả công sức (quả sĩ dụng) làm quả. Vì không vượt hơn năng lực của trượng phu, nên gọi là Công sức. Công sức này tức là quả kia.

Pháp nào gọi là công sức?

Pháp này đối với pháp khác hiện có công năng. Công sức này như năng lực của trượng phu, nên gọi là công sức. Như thế gian nói: Chân gà, cỏ thuốc, voi say, tướng quân. Vì nhân khác cũng có quả của công sức. Vì chỉ do hai nhân này hay là nhân khác cũng có? Nhân quả báo khác do quả công sức, hoặc đều cùng sinh, hoặc vô gián sinh. Quả quả báo thì không như thế. Nhân quả báo này cũng có quả công sức xa. Ví như nhà nông đã thu hoạch được lúa thóc.

Pháp nào gọi là Quả quả báo, cho đến pháp nào gọi là Quả tăng thượng?

Kệ nói: Quả báo: Pháp vô ký.

Giải thích: Là pháp vô phú vô ký.

Quả báo này là tên gọi của phi chúng sinh chăng?

Kệ nói: Chúng sinh.

Giải thích: Pháp này chỉ thuộc bên trong, vì không phải là cùng đắc, nên gọi là tên chúng sinh.

Pháp này là tăng trưởng hay là đẳng lưu?

Kệ nói: Hữu ký sinh.

Giải thích: Hai pháp thiện, ác, đối với quả báo có thể ghi nhận nên nói hữu ký. Từ thời sau này sinh, không phải là vô gián sinh, đó gọi là quả báo. Tướng quả báo như thế, không phải là tên gọi của chúng sinh. Pháp cũng từ nghiệp sinh, vì sao không gọi là quả báo?

Vì cùng đạt được. Pháp này người khác cũng có thể dùng chung như thế, còn quả báo thì không cùng đạt được. Vì sao? Vì quả báo của nghiệp do người kia đã gây tạo, ở đây được dùng chung, thì không có điều ấy.

Quả tăng thượng cũng là do nghiệp sinh, vì sao được dùng chung? Vì từ cộng nghiệp sinh.

Kệ nói: Đẳng lưu giống tự nhân.

Giải thích: Nếu quả cùng với nhân tương tợ, đó gọi là quả đẳng lưu. Như quả của nhân đồng loại, nhân biến hành.

Nếu quả của nhân đồng loại, nhân biến hành đều là đồng loại, vì sao không thừa nhận chúng đều là nhân đồng loại?

Do quả này căn cứ ở địa, căn cứ nơi nhiễm ô, đồng với nhân gốc, không do tất cả loại. Nếu pháp do tất cả loại cùng với quả tương tợ, tức nên thừa nhận pháp này là nhân đồng loại. Vì nghĩa này nên lập bốn trường hợp.

Nếu pháp đối với pháp này là nhân đồng loại, thì đối với pháp ấy cũng là nhân biến hành chăng?

Có bốn trường hợp: (1) Không phải là nhân biến hành, chỉ là nhân đồng loại. (2) Nhân biến hành của bộ riêng. (3) Nhân biến hành của một bộ. (4) Trừ ba trường hợp trước.

Kệ nói: Lìa diệt do trí tận.

Giải thích: Tận, nghĩa là vĩnh viễn lìa diệt. Trí, nghĩa là ba căn trong ba đạo. Nhân nơi trí này nên khổ, tập theo thứ lớp tận, gọi là vĩnh viễn lìa diệt, tức là trạch diệt, gọi là Quả lìa diệt (Quả ly hệ).

Kệ nói:

Nếu pháp do sức sinh

Quả này gọi công sức.

Giải thích: Nếu do công năng của pháp này nên pháp kia sinh, thì pháp kia là quả công sức của pháp này. Như tâm gia hạnh của địa dưới, tâm biến hóa, tâm định hữu lưu, vô lưu thuộc Tam-ma-đề của địa trên.

Trạch diệt như thế v.v… do công năng của đạo, nên chỉ nói là Đắc.

Kệ nói:

Trước chưa có hữu vi

Hữu vi: Quả tăng thượng.

Giải thích: Từ trước đã sinh pháp hữu vi lại sinh riêng pháp hữu vi, gọi là quả tăng thượng.

Quả công sức cùng với quả tăng thượng khác nhau thế nào?

Quả đạt được do chủ thể tạo tác gọi là quả công sức. Quả đạt được không phải do chủ thể tạo tác gọi là quả tăng thượng. Như do vị thợ công xảo đạt được gọi là quả công sức cũng là quả tăng thượng.

Nếu do kẻ khác đạt được thì chỉ là quả tăng thượng.

Lại nữa, trong sáu nhân như thế, thì nhân nào vào thời nào có thể nhận lấy quả và có thể cho quả?

Kệ nói: Năm hiện đời nhận quả.

Giải thích: Lìa nhân tùy tạo, năm nhân còn lại đều ở hiện đời, có thể nhận lấy quả của mình. Không phải là quá khứ vì quả đã nhận lấy. Cũng không phải là vị lai, vì không có công sức. Nhân tùy tạo cũng thế. Nhân này không nhất định có quả, thế nên không nói.

Kệ nói: Hai là thời cho quả.

Giải thích: Hai nhân câu hữu, tương ưng cũng ở tại hiện đời có thể cho quả. Vì sao? Vì hai nhân này nhận lấy quả cùng cho quả là đồng tại một thời.

Kệ nói: Hai hiện đời quá khứ.

Giải thích: Hai nhân đồng loại, biến hành cho quả. Hai nhân này nếu ở quá khứ cho quả, nghĩa ấy có thể đúng. Vì sao hai nhân này ở nơi hiện đời cho quả đẳng lưu? Do thứ lớp sinh. Nếu quả đã sinh thì hai nhân này tức lùi về quá khứ. Nếu cho quả rồi thì về sau không cho lại. Có nhân đồng loại chỉ có thể nhận lấy quả, không cho quả chăng?

Ở đây có bốn trường hợp: (1) Nếu người đoạn dứt căn thiện thì đắc được đoạn sau cùng. (2) Nếu người tiếp nối lại căn thiện, thì đắc đạt được là đầu tiên. Nên nói người này như thế là đã tiếp nối đắc ở trước. (3) Người không đoạn dứt căn thiện thì ở nơi phần vị còn lại. (4) Trừ ba trường hợp trước.

Nếu nhân đồng loại ác: Trường hợp thứ nhất: Người này đang được lìa dục nơi cõi dục sau cùng thì xả bỏ đắc. Trường hợp thứ hai: Nếu người thoái chuyển sự lìa dục của cõi dục, thì đắc đạt được là trước hết. Nên nói như thế là người này đã thoái thất đắc ở trước. Trường hợp thứ ba: Không lìa dục nơi cõi dục, ở nơi phần vị còn lại.

Trường hợp thứ tư: Trừ ba trường hợp trước.

Như thế nhân đồng loại hữu phú vô ký đắc quả A-la-hán cùng thoái chuyển, ở đây như lý nên suy xét. Vô phú vô ký không có trường hợp sau.

Nếu nhân có thể cho quả, tất có thể nhận lấy quả. Có thể nhận lấy quả, không thể cho quả. Như ấm sau cùng của A-la-hán.

Nếu căn cứ nơi nhân đồng loại có cảnh giới, thì tùy theo sátna, phán quyết có nhân đồng loại thiện, chỉ nhận lấy quả, không cho quả chăng?

Ở đây có bốn trường hợp: (1) Nếu từ tâm thiện theo thứ lớp khởi tâm nhiễm ô vô ký hiện tiền. (2) Trái với trường hợp thứ ba trước. (3) Tâm thiện theo thứ lớp khởi tâm thiện. (4) Trừ ba trường hợp trước.

Như bốn trường hợp thiện, thì bất thiện v.v… cũng nên như lý tư duy.

Kệ nói: Một quá khứ cho quả.

Giải thích: Nhân quả báo ở nơi quá khứ có thể cho quả. Vì sao? Vì quả báo không có cùng khởi, cũng không có vô gián khởi.

Có Sư khác nói: Có bốn thứ quả: (1) Quả nương dựa: Ví như thủy luân là quả của phong luân, cho đến cỏ v.v… là quả của đất. (2) Quả gia hạnh: Ví như vô sinh trí của quán bất tịnh. (3) Quả tích tập: Ví như nhãn v.v… đối với nhãn thức v.v… (4) Quả tu tập: Ví như đạo cõi sắc tâm biến hóa là quả.

Bốn thứ quả này thuộc về quả tăng thượng và quả công sức.

Nói về nhân cùng quả xong. Những gì là pháp do nhân nào sinh? Do bao nhiêu nhân sinh?

Nếu lược nói pháp có bốn thứ: (1) Pháp nhiễm ô. (2) Pháp của quả báo sinh. (3) Pháp vô lưu đầu tiên. (4) Pháp tàn dư của hai trước Thế nào là pháp tàn dư?

Lìa quả báo là vô ký còn lại. Lìa vô lưu đầu tiên là pháp thiện còn lại. Bốn thứ pháp này, như kệ nói:

Quả báo nhiễm ô, khác

Vô lưu đầu thứ lớp Trừ quả báo biến hành

Hai đồng loại khác sinh.

Giải thích: Pháp nhiễm ô trừ một nhân quả báo. Từ năm nhân còn lại sinh, pháp quả báo sinh, trừ một nhân biến hành.

Từ năm nhân còn lại sinh, tức pháp còn lại trừ hai nhân biến hành và quả báo.

Từ bốn nhân còn lại sinh, là pháp vô lưu đầu tiên, trừ hai nhân biến hành, quả báo.

Lại trừ nhân đồng loại là từ ba nhân còn lại sinh.

Bốn pháp này là pháp gì?

Kệ nói: Tâm cùng tâm pháp.

Giải thích: Bốn pháp này từ nhân còn lại sinh, chỉ là tâm, tâm pháp.

Nếu như vậy thì không phải là pháp tương ưng và sắc.

Điều này là thế nào?

Kệ nói: Như tương ưng khác đã lìa.

Giải thích: Trừ một nhân tương ưng, pháp còn lại như là nhiễm ô v.v… như tâm, tâm pháp sinh như thế. Trong đây, pháp nhiễm ô từ bốn nhân sinh. Pháp quả báo sinh từ bốn nhân sinh. Pháp còn lại đều từ ba nhân sinh. Pháp vô lưu đầu tiên từ hai nhân sinh. Không có một pháp nào từ một nhân sinh. Giải thích rộng về nhân cứu cánh.

Duyên là pháp gì? Có bao nhiêu thứ?

Kệ nói: Nói duyên có bốn thứ.

Giải thích: Nơi xứ nào nói?

Ở trong kinh nói: Có bốn loại duyên: (1) Loại nhân duyên. (2) Loại thứ đệ duyên. (3) Loại duyên duyên. (4) Loại tăng thượng duyên.

Ở đây, loại là tự tánh của duyên.

Nhân duyên:

Kệ nói: Nhân duyên là năm nhân.

Giải thích: Trừ một nhân tùy tạo, năm nhân còn lại được gọi là nhân duyên.

Kệ nói:

Tâm tâm pháp không sau Đã sinh thứ đệ duyên.

Giải thích: Trừ tâm tâm pháp sau cùng của A-la-hán, tâm tâm pháp khác đã sinh gọi là thứ đệ duyên.

Vì sao gọi là thứ đệ duyên?

Vì pháp này là đẳng vô gián duyên, nên gọi là thứ đệ duyên. Vì thế sắc không phải thứ đệ duyên, vì sinh không như nhau. Vì sao? Vì từ sắc của cõi dục, ở thời gian sau, theo thứ lớp: sắc của cõi dục, cõi sắc, sắc vô giáo sinh. Nơi thời gian sau, sắc của cõi dục, sắc vô lưu sinh. Thời gian sau, ba thứ sắc sinh. Sắc này hiện tiền loạn vượt nhân sinh. Thứ đệ duyên thì không có loạn vượt nên là nghĩa duyên sinh.

Đại đức Bà-tu-mật-đa-la cho: Đối với một sự nối tiếp tăng trưởng không trái nhau, sau có hai sự sinh. Đại đức nói: Về sau, từ nhân rất ít, sinh rất nhiều, nên thời gian sau, từ sắc lớn, sắc nhỏ sinh.

Ví như thân cây lúa sinh tro. Hoặc từ sắc nhỏ, sắc lớn sinh. Ví như nhân trong hạt Bối đa, theo thứ lớp sinh, cho đến cành lá um tùm phủ khắp, chuyển thành cây Ni-cù-lô-đà.

Là không như thế chăng?

Tâm tâm pháp có lúc sinh nhiều, có khi sinh ít. Nghĩa là ở nơi phần vị thiện, ác, vô ký, phần vị có giác quán v.v… Ở nơi ba định có căn cứ theo loại riêng như thế, không căn cứ theo tự loại, nên không có thời gian thọ sinh nhiều. Tưởng v.v… cũng như thế.

Là căn cứ nơi tự loại để lập thứ đệ duyên chăng?

Không có nghĩa như vậy. Vì sao? Vì một tụ đầy đủ. Đối với hai tụ đầy đủ là thứ đệ duyên. Không phải từ pháp như ít thọ sinh nhiều thọ v.v… Nghĩa này như trước đã nói.

Bộ Thuyết tương tục đồng loại nêu ra giải thích như vầy: Tự loại là thứ đệ duyên, không phải là loại khác. Ví như tâm là thứ đệ duyên của tâm. Thọ v.v… cũng như thế. Nói rộng nên biết. Nếu từ không nhiễm ô, theo thứ lớp sinh pháp nhiễm ô, là do trước đã diệt nhiễm ô, vì nhiễm ô là thứ đệ. Như nhập định vô tâm, tâm đối với tâm xuất định. Nay không nói rộng về lối giải thích này. Không phải pháp của hành tương ưng cũng do hiện tiền loạn vượt nhân sinh, nên không thành thứ đệ duyên. Pháp thuộc ba cõi và pháp không hệ thuộc nơi một thời hiện tiền sinh.

Vì sao không thừa nhận pháp vị lai là thứ đệ duyên?

Vì thứ đệ duyên bị tạp loạn. Vì nơi đời vị lai không có sự sai biệt trước sau.

Nếu như vậy vì sao Đức Thế Tôn đạt được trí như thế?

Vì pháp vị lai này tức nên sinh ở trước. Tiếp theo pháp ấy nên sinh ở sau.

Căn cứ nơi tất cả chúng sinh, cho đến cùng tận biên vực sinh tử, theo thứ lớp đều nhận biết. Do căn cứ nơi quá khứ, hiện tại so sánh nhận biết. Thuyết kia nói: Đức Phật, Thế Tôn thấy rõ nơi đời quá khứ, từ loại nghiệp như thế. Theo loại nghiệp này, quả báo đã sinh. Từ pháp sinh pháp cũng vậy. Đời nay cũng có loại nghiệp như thế. từ loại nghiệp này, như loại quả báo ấy, đời sau sẽ sinh. Từ pháp sinh pháp cũng thế. Được nhận biết như vậy như vậy là do nguyện trí của Như Lai, không phải là tỷ trí. Do so sánh đời quá khứ, hiện tại, Đức Thế Tôn nơi đời vị lai đã chứng kiến nhiều vật tán loạn, xen tạp xong, sinh khởi trí như vậy. Người này đã tạo ra nghiệp như thế xong, tất nên nhận lấy quả báo ở vị lai như thế v.v…

Nếu như vậy Đức Thế Tôn chưa thấy biên vực trước tức nên không thể nhận biết biên vực sau chăng?

Có Sư khác nói: Ở trong sự nối tiếp của tất cả chúng sinh đã có pháp hữu vi sai biệt, cùng với tâm tương ưng, là tướng của quả đương lai. Đức Thế Tôn quán xét tướng này, nhận biết quả vị lai, nếu các định và thông tuệ chưa hiện tiền.

Như thế là Đức Như Lai tức do quán tướng nên nhận biết không thể chứng lại. Thế nên tất cả cảnh giới của Đức Thế Tôn là tùy thuận ý muốn nên chánh biến tri.

Kinh bộ nói như vầy: Vì sao Đức Thế Tôn nói: Cảnh giới của chư Phật là không thể nghĩ bàn. Nếu pháp vị lai không theo thứ lớp thành lập, vì sao pháp thế đệ nhất tiếp theo sau khổ pháp trí sinh, không phải pháp khác sinh. Cho đến tâm kim cương thí (định kim cương dụ) tiếp theo sau tận trí sinh, không phải là pháp khác sinh? Nếu pháp có thể ngăn ngại pháp khác sinh, thì từ vô gián của pháp này, pháp khác được sinh. Ví như từ hạt giống v.v…, mầm v.v…

không có thứ đệ duyên.

Vì sao tâm sau cùng của A-la-hán không phải là thứ đệ duyên?

Vì không cùng với tâm khác tương ưng.

Nếu như vậy tâm vô gián diệt là ý chăng? Vì sao? Vì sau vô gián, thức không sinh. Nếu không lập làm thứ đệ duyên, tức cũng nên không lập tâm sau cùng làm ý. Vì ý do nương dựa nơi tánh được hiển bày, không phải do công năng mà được sáng rõ, nên có nghĩa nương dựa.

Do duyên khác không đủ, nên thức khác không sinh chăng? Do duyên kia không nương dựa nên thức không sinh. Thứ đệ duyên là công năng được hiển bày. Nếu có pháp được duyên này nhận lấy làm quả, thì pháp ấy và tất cả pháp khác cùng các chúng sinh đều không thể ngăn ngại, khiến thức kia không sinh. Nếu pháp cùng với tâm có thứ lớp thì có thể nói là cùng với tâm vô gián chăng? Ở đây có bốn trường hợp:

1. Từ định vô tâm xuất sinh tâm quán cùng sát-na v.v… của Tam-ma-bạt-đề thứ hai.

2. Sát-na của Tam-ma-bạt-đề thứ nhất đối với phần vị của tâm sau cùng sinh v.v…

3. Sát-na của Tam-ma-bạt-đề thứ nhất cùng với phần vị có tâm.

4. Sát-na v.v… của Tam-ma-bạt-đề thứ hai cùng sinh v.v… đối với tâm xuất định.

Nếu pháp cùng với tâm theo thứ lớp thì có cùng với Tam-mabạt-đề làm thứ lớp chăng?

Ở đây có bốn trường hợp:

Trường hợp thứ ba, thứ tư ở trước tức là trường hợp thứ nhất, thứ hai ở đây.

Trường hợp thứ nhất, thứ hai ở trước tức là trường hợp thứ ba, thứ tư ở đây.

Xuất sinh tâm diệt định đối với tâm trước, lúc đoạn cách rất xa. Nay vì sao từ tâm trước nói là thứ lớp? Vì không có ngăn cách với tâm riêng.

Nói về thứ đệ duyên xong.

Thế nào là tướng của duyên duyên (Sở duyên duyên)?

Kệ nói: Duyên duyên tất cả pháp.

Giải thích: Tất cả pháp tức là năm tụ. Trong đây, như lý nên biết về tướng của duyên duyên. Ví như nhãn thức và pháp tương ưng, dùng sắc làm duyên duyên cho tiếng của nhĩ thức. Hương của tỷ thức, vị của thiệt thức, xúc của thân thức, tất cả pháp của ý thức cũng như thế.

Nếu pháp là duyên duyên của pháp này, thì pháp ấy không lúc nào không phải là duyên duyên của pháp ấy. Nếu không phải là đối tượng duyên thì cũng là duyên duyên, vì thể tướng là một. Ví như củi không phải đã đốt cháy cũng gọi là củi, vì thể tướng là một. Tâm và tâm pháp do định nhập vào sát-na của vật.

Đối với định như cảnh của tự đối tượng duyên là do nương dựa nơi định hay là không định?

Nếu định như thế sinh, tất cùng với sự nương dựa tương ưng. Chưa sinh và đã sinh là quá khứ, cùng với sự nương dựa là cùng lìa.

Có Sư khác nói: Hoặc quá khứ cũng được lập do nương dựa.

Nói về duyên duyên xong.

Kệ nói: Tùy tạo tăng thượng duyên.

Giải thích: Nhân tùy tạo tức là tăng thượng duyên, nên tăng thượng duyên tức là duyên duyên. Vì sao? Vì tất cả pháp là duyên duyên.

Hai duyên này, duyên nào rộng?

Pháp cùng có là duyên duyên, thì không có điều ấy. Hoặc có điều này vì được làm tăng thượng duyên, nên tăng thượng duyên rộng. Do nghĩa của duyên rộng nên gọi là tăng thượng. Duyên này đối với tất cả pháp hữu vi, lìa tự tánh, đều là tăng thượng duyên.

Có pháp đối với pháp khác do bốn duyên thành duyên chăng? Có. Tức là tự tánh đối với tự tánh, tha tánh đối với tha tánh, vô vi đối với hữu vi, vô vi đối với vô vi.

Bốn duyên này nếu khởi công năng thì ở trong vị pháp nào khởi?

Nhân duyên: Đã nói năm thứ.

Kệ nói:

Nơi hai nhân đang diệt Tạo công năng.

Giải thích: Đang diệt: Nghĩa là pháp hiện đời. Vì sao? Vì pháp hiện đời đã được sinh. Nay là vừa diệt. Nên trong phần vị này nhân câu hữu và nhân tương ưng tạo ra công năng. Vì sao? Vì ở trong quả cùng sinh, nhân này có công năng.

Kệ nói: Ba nhân nơi đang sinh.

Giải thích: Đang sinh: Nghĩa là pháp vị lai. Vì sao? Vì pháp vị lai là chưa được sinh. Nay vì đang sinh, nên trong phần vị này, ba nhân đồng loại, nhân biến hành, nhân quả báo tạo ra công năng. Công năng của nhân duyên như vậy.

Kệ nói:

Hai duyên

Trái trước có công năng.

Giải thích: Do đạo lý của công năng nên phân nhân duyên làm hai. Trái với công năng này, nên biết tức là phần vị công năng của thứ đệ duyên, duyên duyên. Thứ đệ duyên ở nơi đang sinh tạo ra công năng, do cùng với phần vị kia. Duyên duyên ở nơi đang diệt tạo ra công năng. Vì tâm tâm pháp của hiện đời đã nhận lấy. Tăng thượng duyên ở nơi tất cả phần vị, do không ngăn chận nên thành duyên, tức là công năng của duyên kia.

Nói về các duyên và công năng xong.

Lại nữa, những gì là pháp do bao nhiêu duyên được sinh?

Kệ nói: Do bốn duyên tâm pháp.

Giải thích: Ở đây, tâm và tâm pháp về nhân duyên là có năm nhân. Thứ đệ duyên: Là ở nơi tâm tâm pháp trước, không phải là tâm tâm pháp khác đã gián đoạn. Duyên duyên: Ứng hợp với năm trần như sắc v.v… và tất cả pháp. Tăng thượng duyên: Tức lìa tự tánh là tất cả pháp còn lại.

Kệ nói: Hai định do ba duyên.

Giải thích: Định diệt tâm, định vô tưởng không có duyên duyên. Hai định này không duyên nơi cảnh khởi.

Trong đây, nhân duyên: Có hai nhân là nhân câu hữu tức như sinh v.v… và nhân đồng loại tức trước đã sinh pháp thiện của địa đồng.

Thứ đệ duyên: Là tâm Tam-ma-bạt đề của pháp cùng tương ưng.

Tăng thượng duyên: Như trước đã nói.

Hai định này do công dụng của tâm sinh, nên dùng tâm làm thứ đệ duyên. Do có thể ngăn trừ tâm sinh, nên ngoài tự, không phải là thứ đệ duyên.

Kệ nói: Pháp khác do hai sinh.

Giải thích: Pháp khác, nghĩa là cùng với tâm pháp bất tương ưng và pháp có sắc, do nhân duyên, tăng thượng duyên sinh. Từ sáu nhân, bốn duyên như trước đã lập, tất cả pháp có sinh đều được sinh.

Tất cả thế gian đều không do ngã tự tại, thắng tánh v.v… làm một nhân sinh. Trong đây, dùng nhân nào làm chứng?

Nếu ông cho tất cả sự thành lập nhân duyên đã tạo là không như thế chăng?

Do lối chấp này tức trái bỏ nghĩa gốc theo ông đã nói. Nghĩa là một tự tại v.v… là nhân của tất cả thế gian.

Lại nữa, kệ nói: Không thứ lớp Tự tại

Giải thích: Thế gian không từ Tự tại v.v… sinh, vì thứ lớp sinh. Nếu ông cho chỉ một Tự tại là nhân sinh của tất cả thế gian, hoặc cho là nhân khác, thì tất cả thế gian tức nên một khởi cùng khởi.

Tất cả theo thứ lớp sinh đều sáng rõ, có thể thấy. Nếu ông cho thứ lớp này là tùy ý Tự tại muốn thành, mong muốn pháp này nơi hiện nay được sinh. Mong muốn pháp này nơi hiện nay diệt. Mong muốn pháp này nơi đời sau diệt. Do mong muốn có khác, nên nghĩa này được thành. Nghĩa là nhân không là một. Mong muốn này có khác, tức nên nơi một thời đều cùng khởi. Có mong muốn tự tại, không phải có khác. Nếu quán xét nhân khác có sai biệt nên thành, thì không phải Tự tại làm nhân, mà là mong muốn trong thứ lớp sinh. Nếu quán xét nhân riêng, tức có lỗi vô cùng. Nếu không quán nhân riêng, thì không có nghĩa thứ lớp. Nhân ấy nối kết vô biên sai biệt.

Do tin nơi vô thủy, người này ưa chấp Tự tại làm nhân, không vượt qua đạo lý do đệ tử của Đức Thích Ca đã hiển bày.

Nếu ông nói: Tự tại mong muốn tuy lại cùng khởi, nhưng thế gian không cùng khởi, vì tùy ý muốn sinh, thì nghĩa này không đúng. Vì ý muốn của tự Tại này nơi đời sau không có nguyên do. Vì công dụng lớn như thế đã hóa sinh thế gian, thì Tự tại được lợi ích gì? Nếu ông nói: Thường lấy vui mừng làm công dụng, thì nghĩa này không hợp lý. Vì vui mừng này nếu lìa phương tiện tự tại, tức không thể đạt được. Do vậy, đối với phần ưa thích tự tại không phải là tự tại, đối với pháp khác cũng thế.

Lại nữa, nếu tự tại thấy thế gian như địa ngục v.v…, phần nhiều bị loạn động do khổ bức não, vì vậy nên sinh vui, thì than ôi đâu cần vị Tự tại thô ác này dựa nơi Tự tại thiên! Thủ lô kha (Kệ, tụng) của thế gian tức thành thiện ca.

Do hay thiêu, hiểm, bén

Đáng sợ, luôn khổ người

Ưa ăn thịt, máu, tủy

Khiến kêu xưng luật tha.

Nếu ông tin nhận Tự tại v.v… là một nhân của thế gian, thì có pháp khác lấy gì để chứng kiến? Công sức người làm nhân tức bị từ bỏ. Nếu ông phân biệt chấp Tự tại cùng nhân khác thành nhân, thì chấp này chỉ là ái kính, nên nói. Vì sao? Vì lìa các nhân thì công năng của Tự tại không thể thấy. Các nhân tất vì cần cùng với nhân khác hòa hợp, nên có thể tạo ra Tự tại.

Nếu như vậy tức không phải là Tự tại. Lại nữa, nếu tạo tác đầu tiên do Tự tại làm nhân, thì hóa tác này không quán xét nhân khác, tức nên thành lập như Tự tại không có khởi đầu. Đối với ngã và thắng tánh v.v… lập và phá cũng vậy. Thế nên thế gian không có nghĩa một nhân mà là nghiệp do mình đã gây tạo. Đối với đạo, đối với phần xen tạp, có thể sinh thế gian, người không học tuệ thật là đáng thương. Tự thọ nhận quả quả báo của mình và tự thọ nhận quả công sức, lại khởi phân biệt tà cho là Tự tại v.v… làm nhân. Nghĩa này đã trừ bỏ. Trước nói: Pháp khác do hai sinh.

Lời nói này là thế nào?

Nếu đại đối với đại thành nhân duyên.

Kệ nói: Hai thứ đại, nhân đại.

Giải thích: Nếu lập bốn đại là nhân của bốn đại, tức có hai thứ nhân: Nhân đồng loại, nhân câu hữu.

Kệ nói: Nơi năm thứ đã tạo.

Giải thích: Nếu bốn đại là nhân của sắc được tạo, tức thành năm thứ nhân. Thế nào là thành? (1) Có thể sinh. (2) Có thể làm chỗ nương dựa. (3) Có thể cầm giữ. (4) Khiến trụ. (5) Khiến tăng trưởng là nhân tùy tạo.

Do nghĩa này nên phân làm năm thứ: (1) Nhân năng sinh: Vì từ nhân này sinh. (2) Nhân nương dựa: Vì đã sinh nên theo đuổi nhân này. (3) Nhân trì: Vì nhân này đã giữ lấy. Ví như họa sắc cùng với vách tường. (4) Nhân trụ: Nhân này khiến sự nối tiếp kia không đoạn dứt. (5) Nhân tăng trưởng: Nhân này khiến sự nối tiếp kia được viên mãn.

Như bốn đại này đối với sắc được tạo là nhân của sinh, đổi khác, giữ gìn (trì), an trụ (trụ), tăng trưởng, năm nghĩa được hiển bày.

Kệ nói: Cùng ba thứ được tạo.

Giải thích: Nếu sắc được tạo tạo ra sắc được tạo là do ba thứ nhân, tức là nhân câu hữu, nhân đồng loại và nhân quả báo. Vì nhân tùy tạo là bình đẳng khởi, nên không luôn nêu tính. Trong đây: Câu hữu lại cùng làm nhân. Nghĩa là tùy tâm biến đổi hai nghiệp thân, khẩu, không phải là sắc được tạo khác.

Nhân đồng loại: Tất cả sinh trước đối với đồng loại sau.

Nhân quả báo: Do hai nghiệp thân, khẩu chiêu cảm các căn như nhãn v.v… là quả báo.

Kệ nói: Đại được tạo, một nhân

Giải thích: Nếu sắc được tạo, tạo bốn đại thì chỉ một nhân, nghĩa là nhân quả báo. Nếu thân nghiệp, khẩu nghiệp dùng bốn đại làm quả báo, như trước đã nói chung về tâm và tâm pháp là thứ đệ duyên, nhưng chưa nói quyết định tâm nào là thứ đệ duyên, tâm nào từ thứ đệ duyên sinh. Nay sẽ nói về nghĩa này.

Trong đây, nếu lược nêu có mười hai tâm. Những gì là mười hai?

Kệ nói:

Tâm cõi dục thiện, ác Hữu phú và vô phú.

Giải thích: Tâm trong cõi dục có bốn thứ: Nghĩa là thiện, ác, hữu phú vô ký, vô phú vô ký.

Kệ nói: Nơi hai cõi trừ ác, khác có.

Giải thích: Nơi cõi sắc không có ác, còn lại ba. Cõi vô sắc cũng như thế. Mười tâm như vậy đều là hữu lưu.

Kệ nói: Vô lưu hai.

Giải thích: Nghĩa là hữu học vô lưu và vô học vô lưu. Do tâm như thế hợp thành mười hai. Trong đây:

Kệ nói: Nơi dục theo thiện, chín.

Giải thích: Nói thứ lớp, sau nên nói: Ở trong cõi dục, tâm thiện hiện có, từ chín tâm này, theo thứ lớp được sinh. Nơi tự địa có bốn tâm. Cõi sắc có hai tâm. Nếu chánh nhập quán là tâm thiện, hoặc nhờ dựa sinh là tâm hữu phú vô ký. Cõi vô sắc chỉ có tâm hữu phú vô ký. Nghĩa là khi nương dựa sinh, do rất xa nên không có thiện. Cõi vô sắc do bốn thứ xa, nay đối với cõi dục rất là xa. Nghĩa là nương dựa, nhận lấy tướng cảnh giới, đối trị xa. Cùng hai tâm hữu học, vô học.

Kệ nói: Thiện này từ tám sinh.

Giải thích: Lại nữa, tâm thiện của cõi dục này từ tám tâm theo thứ lớp sinh. Tự địa có bốn tâm. Cõi sắc có hai tâm. Tâm thiện, nghĩa là khi xuất định.

Tâm hữu phú vô ký, nghĩa là bị bức bách do định có nhiễm ô, nên trở lại dựa vào tâm thiện của địa dưới.

Cùng hai tâm hữu học, vô học, nghĩa là khi xuất quán.

Kệ nói: Từ mười tâm ác sinh.

Giải thích: Trừ tâm hữu học, vô học. Vì sao? Nếu người ở nơi cõi dục nhờ dựa sinh, thì từ tất cả tâm nơi cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc theo thứ lớp được sinh.

Tâm ác, kệ nói: Từ bốn này.

Giải thích: Từ tâm ác của cõi dục, chỉ bốn tâm của tự địa theo thứ lớp sinh. Như nói về tâm ác của cõi dục.

Kệ nói: Phú thế.

Giải thích: Tâm hữu phú vô ký của cõi dục cũng từ mười tâm trong ba cõi theo thứ lớp sinh. Từ tâm hữu phú vô ký của cõi dục cũng chỉ có bốn tâm của tự địa theo thứ lớp sinh.

Kệ nói: Từ năm tâm vô phú.

Giải thích: Ở cõi dục, tâm vô phú vô ký hiện có, từ năm tâm theo thứ lớp sinh. Bốn tâm của tự địa và tâm thiện của cõi sắc, tức là sinh nơi cõi dục có tâm biến hóa.

Kệ nói: Lại từ bảy tâm này.

Giải thích: Từ tâm vô phú vô ký của cõi dục, bảy tâm theo thứ lớp sinh. Bốn tâm của tự địa, hai tâm của cõi sắc. Tâm thiện nghĩa là từ tâm biến hóa theo thứ lớp sinh. Tâm nhiễm ô tức là khi nhờ dựa sinh. Và tâm nhiễm ô của cõi vô sắc, nghĩa là lúc nhờ dựa sinh.

Kệ nói: Từ mười một thiện sắc.

Giải thích: Từ tâm thiện hiện có của cõi sắc, mười một tâm theo thứ lớp sinh, trừ tâm vô phú vô ký của cõi vô sắc.

Kệ nói: Từ chín ấy lại sinh.

Giải thích: Tâm thiện của cõi sắc từ chín tâm theo thứ lớp sinh. Tức trừ hai tâm nhiễm ô của cõi dục và tâm vô phú vô ký của cõi vô sắc.

Kệ nói: Từ tám hữu phú sinh.

Giải thích: Tâm hữu phú vô ký của cõi sắc, từ tám tâm theo thứ lớp sinh. Tức trừ hai tâm nhiễm ô của cõi dục và hai tâm hữu học, vô học.

Kệ nói: Sáu này.

Giải thích: Từ tâm hữu phú vô ký của cõi sắc, sáu tâm theo thứ lớp sinh. Tức ba tâm của tự địa, ba tâm của cõi dục, trừ vô phú vô ký.

Kệ nói: Ba vô phú.

Giải thích: Tâm vô phú vô ký của cõi sắc chỉ từ ba tâm của tự địa theo thứ lớp sinh.

Kệ nói: Sáu ấy.

Giải thích: Từ tâm vô phú vô ký của cõi sắc, sáu tâm theo thứ lớp sinh. Tức ba tâm của tự địa, hai tâm nhiễm ô của cõi dục, và tâm nhiễm ô của cõi vô sắc. Như nói về tâm vô phú vô ký của cõi sắc, thì đối với cõi vô sắc theo đạo lý cũng thế.

Kệ nói: Vô sắc lý như thế.

Giải thích: Tâm vô phú vô ký của cõi vô sắc nơi tự địa, cũng chỉ từ ba tâm theo thứ lớp sinh. Từ sáu tâm này, theo thứ lớp sinh ba tâm của tự địa và ba tâm nhiễm ô của địa dưới.

Kệ nói: Từ thiện chín.

Giải thích: Từ tâm thiện của cõi vô sắc, chín tâm theo thứ lớp sinh. Tức trừ tâm thiện cõi dục và tâm vô phú vô ký của cõi dục, cõi sắc, tâm còn lại được sinh.

Kệ nói: Từ sáu.

Giải thích: Tâm thiện của cõi vô sắc, từ sáu tâm theo thứ lớp sinh.

Ba tâm của tự địa, tâm thiện của cõi sắc, cùng hai tâm hữu học, vô học.

Kệ nói: Hữu phú bảy.

Giải thích: Từ tâm hữu phú vô ký của cõi vô sắc, bảy tâm theo thứ lớp sinh. Tức ba tâm của tự địa, tâm thiện và tâm nhiễm ô của cõi sắc, cùng hai tâm nhiễm ô ở cõi dục.

Kệ nói: Đây thế.

Giải thích: Tâm hữu phú vô ký của cõi vô sắc này, từ bảy tâm theo thứ lớp sinh. Tức trừ tâm nhiễm ô của cõi dục, cõi sắc và hai tâm hữu học, vô học, từ tâm còn lại sinh.

Kệ nói: Từ bốn ấy: Hữu học.

Giải thích: Tâm hữu học này từ bốn tâm theo thứ lớp sinh. Là tâm thiện của ba cõi và tâm hữu học.

Kệ nói: Từ năm này.

Giải thích: Từ tâm hữu học này, năm tâm theo thứ lớp sinh. Tức bốn tâm trước và tâm vô học.

Kệ nói: Vô học cũng từ năm.

Giải thích: Tâm vô học này từ năm tâm như trước đã nói theo thứ lớp sinh.

Kệ nói: Từ vô học bốn tâm.

Giải thích: Từ tâm vô học, bốn tâm theo thứ lớp sinh. Tức tâm thiện của ba cõi và tâm vô học.

Nói về mười hai tâm xong. Nay lại tạo:

Kệ nói: Mười hai tạo hai mươi.

Giải thích: Thế nào là tạo tác?

Kệ nói:

Gia hạnh cùng sinh đắc Phân thiện ba cõi hai.

Giải thích: Tâm thiện ở trong ba cõi đều phân làm hai tâm: (1) Gia hạnh đắc. (2) Sinh đắc.

Kệ nói:

Quả báo cùng oai nghi Công xảo và biến hóa Bốn vô ký cõi dục.

Giải thích: Tâm vô phú vô ký cõi dục được phân làm bốn: (1) Tâm quả báo sinh. (2) Tâm tạo oai nghi. (3) Tâm của xứ công xảo.

(4) Tâm biến hóa.

Kệ nói: Cõi sắc trừ công xảo.

Giải thích: Tâm vô phú vô ký của cõi sắc được phân làm ba, trừ tâm của xứ công xảo. Vì ở cõi sắc không có công xảo. Như thế là mười hai tâm lại phân thành hai mươi tâm.

Thiện có sáu tâm. Vô phú vô ký có tám tâm như tâm tạo oai nghi v.v… Do nơi cõi vô sắc không có các sự như oai nghi v.v… Bốn trần: sắc, hương, vị, xúc là cảnh giới của ba tâm. Tâm công xảo cũng dùng âm thanh làm cảnh. Bốn tâm này chỉ là ý thức. Năm thức này ở xứ oai nghi và công xảo cũng do tâm gia hạnh dẫn khởi.

Sư khác nói: Có ý thức được oai nghi dẫn khởi, dùng mười hai nhập làm cảnh giới.

Trong hai mươi tâm như thế, tâm nào là thứ đệ duyên? Tâm nào theo thứ lớp sinh?

Trong tám tâm của cõi dục, từ tâm gia hạnh mười tâm theo thứ lớp sinh.

Ở tự địa có bảy tâm, trừ tâm biến hóa. Tâm gia hạnh của cõi sắc và hai tâm hữu học, vô học. Tâm này từ tám tâm theo thứ lớp sinh. Từ tâm thiện, tâm nhiễm ô của tự địa. Tâm nhiễm ô, tâm gia hạnh của cõi sắc, cùng hai tâm hữu học, vô học.

Từ tâm sinh đắc, chín tâm theo thứ lớp sinh. Bảy tâm của tự địa, trừ tâm thông quả. Tâm nhiễm ô của cõi sắc, cõi vô sắc. Tâm này từ mười một tâm theo thứ lớp sinh. Từ bảy tâm của tự địa sinh, như trước đã nói. Tâm gia hạnh và tâm nhiễm ô của cõi sắc, cùng hai tâm hữu học, vô học.

Từ tâm ác và tâm hữu phú vô ký, bảy tâm theo thứ lớp sinh: Nghĩa là tâm của tự địa như trước. Hai tâm này từ mười bốn tâm theo thứ lớp sinh. Bảy tâm của tự địa. Bốn tâm của cõi sắc, trừ tâm gia hạnh và tâm thông quả. Ba tâm của cõi vô sắc, trừ tâm gia hạnh.

Từ tâm oai nghi, tâm quả báo, tám tâm theo thứ lớp sinh. Sáu tâm của tự địa, trừ tâm gia hạnh và tâm thông quả. Hai tâm nhiễm ô của cõi sắc, cõi vô sắc. Hai tâm này từ bảy tâm theo thứ lớp sinh. Nghĩa là bảy tâm của tự địa, như trước đã nói.

Từ tâm công xảo, sáu tâm theo thứ lớp sinh. Nghĩa là sáu tâm của tự địa, trừ tâm gia hạnh và tâm thông quả. Tâm này từ bảy tâm theo thứ lớp sinh. Nghĩa là bảy tâm của tự địa, trừ tâm thông quả.

Từ tâm biến hóa, hai tâm theo thứ lớp sinh. Nghĩa là tâm thông quả của tự địa và tâm gia hạnh của cõi sắc. Tâm này cũng từ hai tâm theo thứ lớp sinh, tức hai tâm ở trước.

Nay sẽ căn cứ ở cõi sắc để nói về thứ lớp của sáu tâm.

Từ tâm gia hạnh của cõi sắc, mười hai tâm theo thứ lớp sinh. Hai tâm thiện, tâm thông quả của cõi dục, sáu tâm của tự địa, tâm gia hạnh của cõi vô sắc, cùng hai tâm hữu học, vô học. Tâm này từ mười tâm theo thứ lớp sinh. Tâm gia hạnh, tâm thông quả của cõi dục, bốn tâm của tự địa, trừ tâm oai nghi, tâm quả báo. Tâm gia hạnh và tâm nhiễm ô của cõi vô sắc, cùng hai tâm hữu học, vô học.

Từ tâm sinh đắc, tám tâm theo thứ lớp sinh. Hai tâm nhiễm ô của cõi dục, năm tâm của tự địa, trừ tâm thông quả. Tâm nhiễm ô của cõi vô sắc. Tâm này từ năm tâm theo thứ lớp sinh. Nghĩa là năm tâm của tự địa, trừ tâm thông quả.

Từ tâm nhiễm ô, chín tâm theo thứ lớp sinh. Bốn tâm của cõi dục, là tâm thiện, tâm nhiễm ô. Năm tâm của tự địa, trừ tâm thông quả. Tâm này từ mười một tâm theo thứ lớp sinh. Tâm sinh đắc, tâm oai nghi, tâm quả báo của cõi dục, năm tâm của tự địa, trừ tâm thông quả. Ba tâm của cõi vô sắc, trừ tâm gia hạnh.

Từ tâm oai nghi, bảy tâm theo thứ lớp sinh. hai tâm nhiễm ô của cõi dục. Bốn tâm của tự địa, trừ tâm gia hạnh, tâm thông quả. Cùng tâm nhiễm ô của cõi vô sắc. Tâm này từ năm tâm theo thứ lớp sinh. Là năm tâm của tự địa, trừ tâm thông quả. Tâm quả báo cũng thế.

Từ tâm thông quả, hai tâm theo thứ lớp sinh. Nghĩa là tâm gia hạnh, tâm thông quả của của tự địa. Tâm này cũng từ hai tâm theo thứ lớp sinh, như trước đã nói.

Nay sẽ căn cứ ở cõi vô sắc để nói về thứ lớp của bốn tâm.

Từ tâm gia hạnh của cõi vô sắc, có bảy tâm theo thứ lớp sinh. Là tâm gia hạnh của cõi sắc, bốn tâm của tự địa, cùng hai tâm hữu học, vô học. Tâm này từ sáu tâm theo thứ lớp sinh. Tâm gia hạnh của cõi sắc, ba tâm của tự địa, trừ tâm quả báo, cùng hai tâm hữu học, vô học.

Từ tâm sinh đắc, bảy tâm theo thứ lớp sinh. Tức bốn tâm của tự địa, ba tâm nhiễm ô của địa dưới. Tâm này từ bốn tâm theo thứ lớp sinh. Nghĩa là bốn tâm của tự địa.

Từ tâm nhiễm ô, có tám tâm theo thứ lớp sinh. Bốn tâm của tự địa, tâm gia hạnh, tâm nhiễm ô của cõi sắc, hai tâm nhiễm ô của cõi dục. Tâm này từ mười tâm theo thứ lớp sinh. Bốn tâm của tự địa, và ba tâm quả báo, tâm oai nghi, tâm sinh đắc của cõi dục, cõi sắc.

Từ tâm quả báo có sáu tâm theo thứ lớp sinh. Ba tâm của tự địa, trừ tâm gia hạnh, cùng ba tâm nhiễm ô của địa dưới. Tâm này từ bốn tâm theo thứ lớp sinh. Nghĩa là bốn tâm của tự địa.

Từ tâm hữu học có sáu tâm theo thứ lớp sinh. Tâm gia hạnh của ba cõi, tâm sinh đắc của cõi dục, cùng hai tâm hữu học, vô học. Tâm này từ bốn tâm theo thứ lớp sinh. Là tâm gia hạnh của ba cõi, cùng tâm hữu học.

Từ tâm vô học có năm tâm theo thứ lớp sinh. Như sáu tâm của hữu học, trừ tâm hữu học. Tâm này từ năm tâm theo thứ lớp sinh. Là tâm gia hạnh của ba cõi, cùng hai tâm hữu học, vô học.

Lại có nhân gì từ tâm gia hạnh theo thứ lớp sinh tâm công xảo, oai nghi, quả báo. Nhưng tâm này không từ các tâm kia sinh?

Do sức của gia hạnh có thể dẫn sinh oai nghi, công xảo, còn tâm yếu kém nối tiếp thì không thể dẫn dắt gia hạnh. Thế nên không tùy theo tâm gia hạnh. Tâm xuất quán không do công dụng khởi. Từ sau tâm gia hạnh, tâm này sinh tức có thể như thế.

Nếu như vậy từ tâm nhiễm ô không nên được sinh tâm gia hạnh, vì không có đức. Tuy nhiên, nếu người chán lìa cùng cực, hoặc bị bức bách hành tâm gia hạnh, thì có thể khiến cùng lìa. Từ sau tâm nhiễm ô, được sinh tâm gia hạnh, tâm sinh đắc của cõi dục, do sáng rõ. Từ tâm hữu học, vô học, tâm gia hạnh của cõi sắc theo thứ lớp được sinh, không do công dụng khởi. Từ đấy tâm kia không được sinh. Từ tâm nhiễm ô của cõi sắc, tâm sinh đắc của cõi dục được sinh, do sáng rõ. Từ tâm nhiễm ô của cõi vô sắc, tâm sinh đắc của cõi sắc không được sinh, vì không sáng rõ.

Tư duy có ba thứ:

1. Tư duy tự tướng: Như sắc lấy biến hoại làm tướng. Cho đến thức dùng phân biệt nhận biết làm tướng. Như thế v.v… gọi là tư duy tự tướng.

2. Tư duy thông tướng: Nghĩa là mười sáu hành của bốn đế nhận lấy tướng, tư duy tương ưng.

3. Tư duy dục lạc: Là các tư duy nơi quán bất tịnh, vô lượng, giải thoát, chế nhập (thắng xứ), biến nhập (biến xứ) v.v…

Từ ba tư duy theo thứ lớp có thể sinh Thánh đạo, khiến hiện tiền. Từ Thánh đạo sinh tư duy cũng thế.

Nếu như vậy ở đây nói tương ưng là không trái nhau. Nghĩa là người hành quán tu tập niệm giác phần cùng với quán bất tịnh tương ưng.

Có Sư khác nói: Tư duy thông tướng hiện tiền tức là Thánh đạo. Từ đấy cũng được thứ lớp sinh ba tư duy. Nếu người do quán bất tịnh điều phục tâm xong, từ tư duy thông tướng theo thứ lớp sinh Thánh đạo. Căn cứ nơi Thánh đạo này để lưu truyền mãi, nên nói: Tu tập niệm giác phần cùng với quán bất tịnh tương ưng.

Có Sư khác cho: Từ Thánh đạo theo thứ lớp chỉ sinh tư duy thông tướng. Nghĩa này cũng có thể hợp lý. Nếu chỗ dựa không phải là đẳng chí nơi ba địa, nhập tụ chánh định, thì từ Thánh đạo của ba địa, thứ lớp sinh tư duy thông tướng của cõi dục.

Nếu chỗ dựa là định thứ hai v.v…, nhập tụ chánh định, thì nghĩa này là thế nào? Vì sao tâm của cõi dục này không thể ứng hợp với đạo này?

Do địa là rất xa, nên tư duy thông tướng về địa cõi dục, không phải đối tượng chứng đắc của địa thuộc định thứ hai, trừ năng lực của phần quyết trạch.

Lại nữa, Thánh nhân lại sinh phần quyết trạch, có thể khiến hiện tiền, là không có điều ấy. Vì sao? Vì nếu người đã đắc quả, lại khiến quả gia hạnh vừa hiện tiền. Nghĩa này cũng không tương ưng.

Nếu như thế ở đây nói vì sao tương ưng? Tức có tư duy tướng chung riêng, cùng với tám Thánh đạo đồng loại kia, về sau đã tụ tập. Nghĩa là tất cả hữu vi là vô thường. Tất cả pháp là vô ngã, Niết-bàn là tịch tĩnh. Tất nên khiến Thánh đạo này hiện tiền.

Sư Tỳ-bà-sa không nói về nghĩa này. Nếu người nương dựa nơi định vị chí, đạt được quả A-la-hán, về sau tâm xuất quán, hoặc dùng định vị chí làm địa, hoặc dùng cõi dục làm địa. Nếu dựa vào vô sở hữu xứ làm địa, đạt được quả A la-hán, về sau tâm xuất quán, hoặc dùng vô sở hữu xứ làm địa, hoặc dùng xứ Hữu đảnh làm địa, ở nơi địa khác xuất quán, chỉ dựa vào tự địa.

Ở cõi dục có ba thứ tư duy: (1) Tư duy văn tuệ. (2) Tư duy tư tuệ. (3) Tư duy sinh đắc tuệ.

Nơi cõi sắc cũng có ba thứ tư duy, tức là văn, tu, sinh đắc, không có tư tuệ. Vì sao? Vì nếu người kia đã tạo ra tư duy công dụng, tức nhập Tam-ma-đề.

Nơi cõi vô sắc có hai thứ tư duy là tu đắc, sinh đắc. Trong đây, từ năm tư duy được thứ lớp sinh Thánh đạo khiến hiện tiền, trừ ba sinh đắc. Do Thánh đạo thuộc về gia hạnh, nên từ Thánh đạo chỉ được thứ lớp sinh một đời được tư duy. Nghĩa là sinh đắc nơi cõi dục, do sáng rõ. Trước đã nói về mười hai tâm. Trong ấy: Tâm nào hiện tiền nên được bao nhiêu tâm?

Kệ nói:

Trong tâm nhiễm ba cõi Được sáu, sáu, hai tâm.

Giải thích: Tâm nhiễm ô của cõi dục đang khởi hiện tiền, nên được sáu tâm trước cùng với sáu tâm bất tương ưng. Sau trở lại đạt được, nên tâm thiện của cõi dục trước đã cùng lìa, do nghi hoặc, trở lại tiếp nhận căn thiện. Do thoái chuyển trở lại cõi dưới, lại được tâm bất thiện, tâm hữu phú vô ký.

Lại được tâm nhiễm ô của cõi sắc, do thoái chuyển trở lại. Lại do thoái thất định, nên được tâm nhiễm ô của cõi vô sắc, cùng thoái thất định, nên lại được tâm hữu học, tâm nhiễm ô của cõi sắc đang khởi hiện tiền. Cũng được sáu tâm và được ba tâm của cõi sắc. Lại được tâm vô phú vô ký của cõi dục, do thoái chuyển trở lại cõi dưới. Lại được tâm nhiễm ô của cõi vô sắc và tâm hữu học, do thoái thất định. Tâm nhiễm ô của cõi vô sắc đang khởi hiện tiền, được hai tâm, do thoái thất định nên được tâm nhiễm ô và tâm hữu học.

Kệ nói: Ở cõi sắc, thiện ba.

Giải thích: Tâm thiện của cõi sắc đang khởi hiện tiền được ba tâm. Là được tâm thiện của tự địa, lại được tâm vô phú vô ký của cõi dục, cõi sắc.

Kệ nói: Học bốn.

Giải thích: Tâm hữu học đang khởi hiện tiền được bốn tâm. Nghĩa là tâm hữu học, tâm vô phú vô ký của cõi dục, cõi sắc, cùng tâm thiện của cõi vô sắc. Do Thánh đạo khi lìa dục nơi cõi dục, cõi sắc.

Kệ nói: Khác: Dựa đây.

Giải thích: Nếu có xứ không nói được tâm, trong ấy nên biết là dựa theo tâm này đạt được.

Có Sư khác cho: Không phân biệt được tâm, như kệ nói:

Tâm nhiễm ô lúc khởi

Nói được chín thứ tâm Nơi thiện được sáu tâm Ở vô ký theo ấy.

Trong đây, đối với tâm thiện nên nói là được bảy tâm. Một, được tâm thiện của cõi dục, do khi chánh kiến tiếp nhận căn thiện. Được tâm vô phú vô ký của cõi dục, cõi sắc, do được lìa dục. Được tâm thiện của cõi sắc, vô sắc, do được định kia. Được tâm hữu học, vô học, do nhập tụ chánh định và khi chứng quả A-la-hán. Nơi phần còn lại do giải thích này nên tự tư duy. Vì gồm thâu nghĩa trước, nên nói kệ này:

Khi dựa sinh nhập quán

Khi lìa dục, thoái định Lúc nhận thiện được tâm Là không phải trước đắc.

HẾT – QUYỂN 5