LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Năm trăm Đại A-la-hán cùng tạo luận
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch Phạn sáng Hán
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

CHƯƠNG VIII: KIẾN UẨN

Phẩm Thứ Nhất: LUẬN VỀ NIỆM TRÚ

(Từ quyển 187 – đầu quyển 192)

Có bốn Niệm trú, đó là Thân-Thọ-Tâm-Pháp niệm trú. Các chương như vậy và giải thích về nghĩa của từng chương đã lĩnh hội rồi, tiếp theo cần phải phân biệt rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn giải thích nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Có bốn Niệm trú, đó là Thân niệm trú cho đến Pháp niệm trú.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt, nếu tu Thân niệm trú thì đó là Thọ niệm trú chăng? Cho đến nói rộng ra. Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì trong kinh không phân biệt, thì nay đều cần phải nói, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Nhưng mà Đức Phật nói có ba loại Niệm trú:

  1. Niệm trú thuộc tự tánh.
  2. Niệm trú xen lẫn nhau.
  3. Niệm trú thuộc sở duyên.

Ở nơi nào nói đến Niệm trú thuộc tự tánh?

Đáp: Như trong kinh nói: “Có một đạo hướng về, có thể làm cho hữu tình thanh tịnh, vượt lên diệt hết buồn khổ, đó là bốn Niệm trú. Như thế nào là bốn? Đó là Niệm trú đối với thân thuận theo thân quán sát, cho đến Niệm trú đối với pháp thuận theo pháp quán sát.” Hỏi: Lại ở nơi nào nói đến Niệm trú xen lẫn nhau?

Đáp: Như trong kinh nói: “Nếu có người nói: Tụ pháp thiện ấy tức là bốn Niệm trú. Đây là cách nói chính xác. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tụ pháp thiện đầy đủ trọn vẹn hoàn toàn thì chỉ có bốn Niệm trú. Như thế nào là bốn? Đó là Niệm trú đối với thân thuận theo thân quán sát,

cho đến Niệm trú đối với pháp thuận theo pháp quán sát.”

Hỏi: Lại ở nơi nào nói đến Niệm trú thuộc sở duyên?

Đáp: Như trong kinh nói: “Nếu có người nói: Tất cả các pháp tức là bốn Niệm trú. Đây là cách nói chính xác. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì thâu nhiếp tiếp nhận đầy đủ tất cả các pháp thì chỉ có bốn Niệm trú. Như thế nào là bốn? Đó là Niệm trú đối với thân thuận theo thân quán sát, cho đến Niệm trú đối với pháp thuận theo pháp quán sát.”

Trong này, câu nêu ra của ba kinh thì như thứ tự ấy nói riêng biệt về Niệm trú thuộc tự tánh-xen lẫn-sở duyên, câu giải thích đều nói đến Niệm trú thuộc tự tánh, bởi vì nói thuận theo quán sát đều là thuộc về Tuệ.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn ở trong câu nêu ra, có lúc nói đến Niệm trú thuộc tự tánh, có lúc nói đến Niệm trú xen lẫn nhau, có lúc nói đến Niệm trú thuộc sở duyên; ở trong câu giải thích chỉ nói đến Niệm trú thuộc tự tánh?

Đáp: Bởi vì muốn làm cho Thắng nghĩa của Niệm trú không có gì sai lạc. Niệm trú có hai loại:

  1. Thắng nghĩa.
  2. Thế tục.

Niệm trú thuộc tự tánh là Thắng nghĩa, còn lại là Thế tục. Niệm trú thuộc Thắng nghĩa ở tất cả mọi lúc không có thể sai lạc, cho nên Đức Phật ở trong câu giải thích đều nói đến tự tánh.

Có người nói: Do lực của Niệm trú thuộc tự tánh, cho nên xen lẫnsở duyên đều gọi là Niệm trú.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày về ba loại Niệm trú đều dùng Tuệ làm tự tánh, nghĩa là tánh của một Tuệ do pháp vốn có(câu hữu) xen lẫn nhau làm bạn giúp đỡ, có thể có những việc làm thì gọi là Niệm trú xen lẫn nhau; do lực của sở duyên có thể tùy thuận quán sát khắp nơi thì gọi là Niệm trú thuộc sở duyên.

Bởi vì Đức Phật ở trong kinh nói đến ba loại Niệm trú này, cho nên trong A-tỳ-đạt-ma cũng ở mọi nơi dựa vào ba loại Niệm trú mà soạn luận. Làm sao biết như vậy?

Như nói: “Thế nào là Thân niệm trú? Đó là Tuệ duyên với thân. Cho đến thế nào là Pháp niệm trú? Đó là Tuệ duyên với pháp.” Đó gọi là nơi nói đến Niệm trú thuộc tự tánh. Đây chính là trong kinh đã nói: “Có một đạo hướng về…”

Như nói: “Thế nào là Thân niệm trú? Đó là thân tăng thượng do đạo mà sinh ra thiện hữu lậu-vô lậu. Cho đến thế nào là Pháp niệm trú? Đó là pháp tăng thượng do đạo mà sinh ra thiện hữu lậu-vô lậu.” Đó gọi là nơi nói đến Niệm trú xen lẫn nhau. Đây chính là trong kinh đã nói: “Tụ pháp thiện ấy tức là bốn Niệm trú…”

Như nói: “Thế nào là Thân niệm trú? Đó là mười Sắc xứ và Sắc do Pháp xứ thâu nhiếp. Thế nào là Thọ niệm trú? Đó là sáu Thọ thân. Thế nào là Tâm niệm trú? Đó là sáu Thức thân. Thế nào là Pháp niệm trú? Đó là Thọ uẩn vốn không thâu nhiếp Pháp xứ thuộc phi Sắc.” Đó gọi là nơi nói đến Niệm trú thuộc sở duyên. Đây chính là trong kinh đã nói: “Tất cả các pháp tức là bốn Niệm trú…”

Như vậy, A-tỳ-đạt-ma đã nói tương ưng với kinh, vì thế cho nên trong này cũng dựa vào ba loại Niệm trú mà soạn luận.

Hỏi: Đức Thế Tôn vì những hữu tình nào mà nói đến Niệm trú thuộc tự tánh, cho đến vì những hữu tình nào mà nói đến Niệm trú thuộc sở duyên?

Đáp: Vì chính những hữu tình ngu muội đối với ba loại ấy mà nói đến ba Niệm trú, nghĩa là người ngu muội đối với Niệm trú thuộc tự tánh thì vì họ mà nói đến Niệm trú thuộc tự tánh, cho đến người ngu muội đối với Niệm trú thuộc sở duyên thì vì họ mà nói đến Niệm trú thuộc sở duyên.

Lại nữa, hành của hữu tình có sai biệt, đó là mới bắt đầu sự nghiệp…, vì người mới bắt đầu sự nghiệp thì nói đến Niệm trú thuộc sở duyên, vì người đã luyện tập thực hành thì nói đến Niệm trú xen lẫn nhau, vì người đã vượt lên trên tác ý thì nói đến Niệm trú thuộc tự tánh.

Lại nữa, ý thích của hữu tình có sai biệt, đó là mở rộng-tóm lược và bình thường, vì người thích tóm lược thì nói đến Niệm trú thuộc tự tánh, vì người thích bình thường thì nói đến Niệm trú xen lẫn nhau, vì người thích mở rộng thì nói đến Niệm trú thuộc sở duyên.

Lại nữa, căn cơ của hữu tình có sai biệt, đó là nhanh nhạy-trung bình và chậm chạp, vì người căn cơ nhanh nhạy thì nói đến Niệm trú thuộc tự tánh, vì người căn cơ trung bình thì nói đến Niệm trú xen lẫn nhau, vì người căn cơ chậm chạp thì nói đến Niệm trú thuộc sở duyên.

Lại nữa, trí của hữu tình có sai biệt, đó là mở mang sinh ra tríphân biệt sinh ra trí và dẫn dắt sinh ra trí, vì người mở mang sinh ra trí thì nói đến Niệm trú thuộc tự tánh, vì người phân biệt sinh ra trí thì nói đến Niệm trú xen lẫn nhau, vì người dẫn dắt sinh ra trí thì nói đến Niệm trú thuộc sở duyên. Vì những loại hữu tình đã hóa độ như vậy, cho nên Đức Phật nói về ba loại Niệm trú này.

Hỏi: Ba loại Niệm trú này thì loại nào đoạn phiền não?

Đáp: Chỉ có Niệm trú xen lẫn nhau có thể đoạn phiền não chứ không phải là loại nào khác.

Hỏi: Vì sao Niệm trú thuộc tự tánh không có thể đoạn phiền não?

Đáp: Bởi vì nếu lìa bạn giúp đỡ, chỉ riêng Tuệ thì không có thể đoạn phiền não.

Hỏi: Vì sao Niệm trú thuộc sở duyên không có thể đoạn phiền não?

Đáp: Bởi vì tác ý lúc ấy tản mác khắp nơi, chỉ riêng tác ý tổng quát tóm lược sở duyên thì mới có thể đoạn phiền não.

Hỏi: Vì sao Niệm trú xen lẫn nhau có thể đoạn phiền não?

Đáp: Bởi vì có đủ hai duyên, đó là thâu nhiếp tiếp nhận bạn giúp đỡ, và tác ý tổng quát tóm lược sở duyên.

Hỏi: Nếu như vậy thì tu Niệm trú khác sẽ trở thành vô dụng?

Đáp: Những loại ấy có thể dẫn dắt phát khởi Niệm trú xen lẫn nhau chứ không phải là vô dụng.

Có người nói: Đoạn có hai loại:

  1. Đoạn trong thời gian ngắn.
  2. Đoạn đến cuối cùng.

Bởi vì tu Niệm trú khác có thể đoạn trong thời gian ngắn, cho nên không phải là vô dụng.

Niệm trú xen lẫn nhau lại có ba loại, đó là do Văn-Tư-Tu mà thành sai biệt.

Hỏi: Ba loại này thì loại nào có thể đoạn phiền não?

Đáp: Do Tu mà thành có thể đoạn phiền não chứ không phải là loại nào khác.

Hỏi: Vì sao do Văn mà thành không có thể đoạn phiền não?

Đáp: Bởi vì loại ấy cần phải dựa vào tên gọi mới chuyển đối với nghĩa, chỉ có loại không cần đến tên gọi chuyển đối với nghĩa, thì nói là có thể đoạn phiền não.

Hỏi: Vì sao do Tư mà thành không có thể đoạn phiền não?

Đáp: Bởi vì loại này tác ý là do địa không nhất định thâu nhiếp, chỉ do địa nhất định thâu nhiếp thì nói là có thể đoạn phiền não.

Hỏi: Vì sao do Tu mà thành có thể đoạn phiền não?

Đáp: Bởi vì có đủ hai duyên, đó là không cần đến tên gọi chuyển đối với nghĩa, và do địa nhất định thâu nhiếp.

Hỏi: Nếu như vậy thì tu hai loại còn lại sẽ trở thành vô dụng?

Đáp: Những loại ấy có thể dẫn dắt phát khởi dó Tu mà thành, nghĩa là do Văn mà thành có thể dẫn dắt phát khởi do Tư mà thành, do Tư mà thành có thể dẫn dắt phát khởi do Tu mà thành, do Tu mà thành có thể đoạn phiền não, cho nên không phải là vô dụng.

Có người nói: Đoạn có hai loại, nói rộng ra như trước.

Niệm trú do Tu mà thành lại có bốn loại, đó là Thân-Thọ-TâmPháp.

Hỏi: Bốn loại này thì loại nào có thể đoạn phiền não?

Đáp: Pháp niệm trú có thể đoạn phiền não chứ không phải là loại nào khác.

Hỏi: Vì sao ba Niệm trú trước không có thể đoạn phiền não?

Đáp: Bởi vì những loại ấy là do tác ý thuộc tự tướng thâu nhiếp, chỉ do tác ý thuộc cọng tướng thâu nhiếp thì nói là có thể đoạn phiền não.

Có người nói: Bởi vì mỗi một uẩn ấy đều duyên riêng biệt, cần phải duyên chung với bốn uẩn-năm uẩn, hoặc là lìa uẩn thì nói là có thể đoạn phiền não.

Hỏi: Nếu như vậy thì tu ba loại trước sẽ trở thành vô dụng?

Đáp: Bởi vì có thể dẫn dắt phát khởi Pháp niệm trú, nghĩa là Thân niệm trú có thể dẫn dắt Thọ niệm trú, Thọ niệm trú có thể dẫn dắt Tâm niệm trú, Tâm niệm trú có thể dẫn dắt Pháp niệm trú, Pháp niệm trú có thể đoạn phiền não, cho nên không phải là vô dụng.

Có người nói: Trước hết cần phải phân biệt về các uẩn, sau đó mới có thể duyên chung mà đoạn phiền não, cho nên không phải là vô dụng.

Có người nói: Đoạn có hai loại, nói rộng ra như trước.

Pháp niệm trú lại có hai loại:

  1. Duyên xen tạp.
  2. Duyên không xen tạp.

Nếu duyên với Tưởng-Hành-Thức uẩn và Vô vi thì gọi là duyên không xen tạp; nếu đối với năm uẩn, hoặc là hai duyên với hai, hoặc là ba duyên với ba, hoặc là bốn duyên với bốn, hoặc là duyên toàn bộ năm uẩn và Vô vi thì gọi là duyên xen tạp.

Hỏi: Trong này Pháp niệm trú loại nào có thể đoạn phiền não?

Đáp: Cả hai loại đều có thể đoạn phiền não, nghĩa là nếu duyên với Khổ-Tập-Đạo đế nói là đoạn phiền não, thì đó là Pháp niệm trú duyên xen tạp; nếu duyên với Diệt đế nói là đoạn phiền não, thì đó là Pháp niệm trú duyên không xen tạp.

Trong này, hoặc nói là chung một Niệm trú, đó là pháp Đại địa, Tuệ căn, Tuệ lực, Chánh kiến, Trạch pháp giác chi.

Hoặc nói là hai, đó là hữu lậu-vô lậu, ràng buộc-giải thoát, hệ thuộc-không hệ thuộc.

Hoặc nói là ba, đó là phẩm Hạ-Trung-Thượng, hoặc là do VănTư-Tu mà thành.

Hoặc nói là bốn, đó là Thân-Thọ-Tâm-Pháp.

Hoặc nói là năm, đó là hệ thuộc ba cõi-Học-Vô học.

Hoặc nói là sáu, đó là hữu lậu-vô lậu đều có phẩm Hạ-TrungThượng.

Hoặc nói là tám, đó là Thân-Thọ-Tâm-Pháp đều có hữu lậu-vô lậu.

Hoặc nói là chín, đó là phẩm Hạ Hạ cho đến Thượng Thượng.

Hoặc nói là mười hai, đó là Thân-Thọ-Tâm-Pháp đều có phẩm Hạ-Trung-Thượng.

Lại có nơi khác nói là mười hai, như trong kinh nói: “Trú vào thân bên trong thuận theo thân quán sát, trú vào thân bên ngoài thuận theo thân quán sát, trú vào thân bên trong-bên ngoài thuận theo thân quán sát; như ba loại về thân, cho đến pháp cũng như vậy.”

Hoặc nói là mười tám, đó là hữu lậu-vô lậu đều có phẩm Hạ Hạ cho đến Thượng Thượng.

Hoặc nói là hai mươi bốn, đó là Thân-Thọ-Tâm-Pháp thuộc phẩm Hạ-Trung-Thượng đều có hữu lậu-vô lậu.

Hoặc nói là ba mươi sáu, đó là Thân-Thọ-Tâm-Pháp đều có phẩm Hạ Hạ cho đến Thượng Thượng.

Lại có nơi khác nói là ba mươi sáu, như trong kinh nói: “Trú vào thân bên trong tưởng về chán ngán trái ngược, trú vào thân bên trong tưởng về không chán ngán trái ngược, trú vào thân bên trong đều lìa bỏ Chánh niệm-Chánh tri; như đối với thân bên trong, đối với thân bên ngoài, đối với thân bên trong-bên ngoài cũng như vậy. Như đối với thân có chín loại, cho đến đối với pháp cũng như vậy.”

Hoặc nói là bảy mươi hai, đó là Thân niệm trú thuộc hữu lậu-vô lậu đều có phẩm Hạ Hạ cho đến Thượng Thượng, như Thân niệm trú có mười tám loại, cho đến Pháp niệm trú cũng như vậy.

Nếu dựa theo sát-na nối tiếp nhau để phân biệt thì có vô lượng Niệm trú.

Hỏi: Nếu như vậy thì tại sao Đức Thế Tôn đối với một loại nói rộng ra là bốn Niệm trú, đối với vô lượng nói tóm lược là bốn Niệm trú?

Đáp: Bởi vì đối trị bốn loại điên đảo, đó là đối trị điên đảo đối với Bất tịnh tưởng là Tịnh cho nên nói về Thân niệm trú, đối trị điên đảo đối với Khổ tưởng là Lạc cho nên nói về Thọ niệm trú, đối trị điên đảo đối với Vô thường tưởng là Thường cho nên nói về Tâm niệm trú, đối trị điên đảo đối với Vô ngã tưởng là Ngã cho nên nói về Pháp niệm trú.

Có người nói: Bởi vì đối trị bốn loại Thực, đó là đối trị Đoàn thực cho nên nói về Thân niệm trú, đối trị Xúc thực cho nên nói về Thọ niệm trú, đối trị Thức thực cho nên nói về Tâm niệm trú, đối trị Ý tư thực cho nên nói về Pháp niệm trú.

Có người nói: Bởi vì đối trị bốn loại Thức trú, đó là đối trị Thức trú hiện hành gần với Sắc cho nên nói về Thân niệm trú, đối trị Thức trú hiện hành gần với Thọ cho nên nói về Thọ niệm trú, đối trị trú vào Thức ấy cho nên nói về Tâm niệm trú, đối trị Thức trú hiện hành gần với Hành-hiện hành gần với Tưởng cho nên nói về Pháp niệm trú.

Có người nói: Bởi vì đối trị năm Uẩn, đó là đối trị Sắc uẩn cho nên nói về Thân niệm trú, đối trị Thọ uẩn cho nên nói về Thọ niệm trú, đối trị Thức uẩn cho nên nói về Tâm niệm trú, đối trị Tưởng uẩn-Hành uẩn cho nên nói về Pháp niệm trú.

Có người nói: Bởi vì đối trị bốn loại không tu, đó là đối trị không tu Thân cho nên nói về Thân niệm trú, đối trị không tu Giới cho nên nói về Thọ niệm trú, đối trị không tu Tâm cho nên nói về Tâm niệm trú, đối trị không tu Tuệ cho nên nói về Pháp niệm trú.

Có người nói: Bởi vì pháp giống nhau với bốn loại tu cho nên nói về bốn Niệm trú, đó là pháp giống nhau với tu Thân cho nên nói về Thân niệm trú, pháp giống nhau với tu Giới cho nên nói về Thọ niệm trú, pháp giống nhau với tu Tâm cho nên nói về Tâm niệm trú, pháp giống nhau với tu Tuệ cho nên nói về Pháp niệm trú.

Hỏi: Niệm trú lấy gì làm tự tánh, là lấy Niệm hay là lấy Tuệ? Nếu lấy Niệm thì ở đây nói nên hiểu thế nào? Như nói: “Đối với thân thuận theo thân quán sát…” Nếu lấy Tuệ thì vì sao gọi là Niệm trú? Lại trong kinh nói nên hiểu thế nào? Như nói: “Nên quán sát Niệm căn ở nơi nào?

Đó là đối với bốn Niệm trú.”

Đáp: Nên nói lấy Tuệ làm tự tánh.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao gọi là Niệm trú?

Đáp: Niệm ở nơi này, trú-cùng trú-đều trú, cho nên gọi là Niệm trú; như chỗ ở của voi ngựa… gọi là voi ngựa cùng trú, ở đây cũng như vậy.

Có người nói: Đây là do lực của Niệm có thể đối với sở duyên dấy khởi tác dụng rộng lớn sai biệt, mà không sai lạc cho nên gọi là Niệm trú.

Có người nói: Do lực của Niệm cho nên Sư Du-già này ghi nhớ rõ ràng sở duyên, đối với cảnh sở duyên quên rồi lại nhớ, cho nên gọi là Niệm trú.

Có người nói: Người tu hành này ở trong sở duyên, trước phải dùng Niệm để an trú, sau đó mới quán sát, lại đối với sở duyên trước phải thông suốt rồi, sau đó dùng Niệm an trú để giữ gìn, như người giữ cổng, cho nên gọi là Niệm trú.

Có người nói: Người tu hành này đối với cảnh sở duyên, trước phải dùng Niệm để thâu nhiếp giữ gìn, sau đó dùng Tuệ quán sát mà đoạn phiền não, ví như người làm ruộng trước dùng tay trái gom lấy cỏ dại, sau dùng tay phải cầm liềm cắt đứt, ở đây cũng như vậy, cho nên gọi là Niệm trú.

Có người nói: Sư Du-già này khoác áo giáp của Niệm, ở trong sự nối tiếp nhau của tâm, cầm dao gậy của Tuệ, ở giữa trận chiến của sinh tử không bị giặc phiền não làm cho khuất phục, mà có thể làm cho giác phiền não phải khuất phục, cho nên gọi là Niệm trú.

Có người nói: Bởi vì ngăn chặn lỗi giữ lấy tự tánh, cho nên gọi là Niệm trú; nếu gọi là Tuệ trú thì sẽ có lỗi lầm giữ lấy tự tánh.

Có người nói: Bởi vì hiển bày không phải là chỉ riêng tự tánh có thể có những việc làm, cho nên gọi là Niệm trú.

Bởi vì những duyên như vậy, cho nên chỉ gọi là Niệm trú chứ không gọi là Tuệ trú.

Hỏi: Trong kinh đã nói lại hiểu thế nào? Như nói: “Nên quán sát Niệm căn ở nơi nào? Đó là đối với bốn Niệm trú.”

Đáp: Bởi vì Niệm căn có tác dụng tăng thượng đối với phần vị Niệm trú, cho nên đưa ra cách nói này. Như Tín căn có tác dụng tăng thượng đối với phần vị của bốn Chứng tịnh, cho nên Đức Phật lại nói: “Nên quán sát Tín căn ở nơi nào? Đó là đối với bốn Chứng tịnh.” Như vậy, Tinh tiến căn đối với bốn Chánh đoạn, Định căn đối với bốn Tĩnh lự, Tuệ căn đối với bốn Thánh đế cũng như vậy. Vì vậy, Đức Thế Tôn cho đến lại nói: “Nên quán sát Tuệ căn ở nơi nào? Đó là đối với bốn Thánh đế.” Ở đây cũng như vậy. Đó gọi là tự tánh của Niệm trú.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói đến nguyên cớ.

Hỏi: Vì sao gọi là Niệm trú, Niệm trú là nghĩa gì?

Đáp: Niệm ở nơi này, trú-cùng trú-đều trú, nói rộng ra như trước.

Đã nói chung về nguyên cớ của Niệm trú, nay sẽ nói đến nguyên cớ của từng loại một.

Hỏi: Vì sao gọi là Thân niệm trú?

Đáp: Niệm trú này duyên với thân cho nên gọi là Thân niệm trú.

Hỏi: Niệm trú khác cũng duyên với thân, đó là Thọ niệm trú duyên với sáu Thọ thân, Tâm niệm trú duyên với sáu Thức thân, Pháp niệm trú duyên với sáu Tưởng thân-sáu Tư thân…, vì sao không cùng gọi là Thân niệm trú?

Đáp: Trong này đã nói duyên với thân, đó là duyên với Sắc thân, Niệm trú khác bởi vì duyên với thân không phải là Sắc, cho nên không gọi là Thân niệm trú.

Có người nói: Nếu duyên với thân hiện bày thô thiển-dễ thấyđang thấy thì gọi là Thân niệm trú, Niệm trú khác bởi vì duyên với thân sâu kín vi tế-khó thấy-khó hiểu-không hiện thấy, cho nên không gọi là Thân niệm trú.

Có người nói: Nếu thân sở duyên là do cực vi tích tụ mà thành thì thân ấy gọi là Thân niệm trú, thân sở duyên khác không phải là do cực vi tích tụ mà thành, cho nên thân ấy không gọi là Thân niệm trú.

Có người nói: Nếu duyên với thân mà chủ thể nhận biết-pháp đã nhận biết (năng tri-sở tri) cùng lúc sinh khởi thì gọi là Thân niệm trú, Niệm trú khác tuy duyên với thân chủ thể nhận biết-pháp đã nhận biết không cùng lúc sinh khởi, cho nên không gọi là Thân niệm trú; tuy trong Pháp niệm trú có cùng lúc sinh khởi, mà bởi vì số ít cho nên không nói.

Như duyên với thân cho nên gọi là Thân niệm trú, như vậy duyên với thọ cho nên gọi là Thọ niệm trú, duyên với tâm cho nên gọi là Tâm niệm trú, duyên với pháp cho nên gọi là Pháp niệm trú.

Hỏi: Tất cả đều là pháp, tất cả đều chỉ có pháp, vì sao chỉ riêng một loại gọi là Pháp niệm trú chứ không phải là những loại khác?

Đáp: Tuy tất cả đều là pháp, mà chỉ thiết lập một loại là Pháp niệm trú. Như mười tám Giới đều là pháp, mà chỉ thiết lập một loại là Pháp giới; mười hai Xứ đều là pháp, mà chỉ thiết lập một loại là Pháp xứ. Như Pháp giới-Pháp xứ, như vậy Pháp trí, Trạch pháp giác chi, Pháp tùy niệm, Pháp chứng tịnh, Pháp vô ngại giải, Pháp bảo, Pháp quy cũng như vậy.

Có người nói: Pháp niệm trú có một tên gọi, Niệm trú khác có hai tên gọi.

Có người nói: Pháp niệm trú có tên gọi chung, Niệm trú khác có tên gọi chung-không chung.

Có người nói: Tất cả pháp hữu vi do sinh mà khởi lên, sinh là sở duyên của nó, cho nên gọi là Pháp niệm trú.

Có người nói: Tất cả pháp do tên gọi mà hiển bày, tên gọi là sở duyên của nó, cho nên gọi là Pháp niệm trú.

Có người nói: Các tướng hữu vi là dấu hiệu của tất cả pháp hữu vi, tức là các tướng này rơi vào ở trong sở duyên của nó, cho nên gọi là Pháp niệm trú.

Có người nói: Không giải thoát môn nhận hiểu về pháp tánh của các pháp, Không này thâu nhiếp ở trong sở duyên của nó, cho nên gọi là Pháp niệm trú.

Hỏi: Nếu như vậy thì Tát-ca-da kiến cũng nhận hiểu về tánh Bổđặc-già-la của các pháp, vì sao không dựa vào đó để thiết lập tên gọi?

Đáp: Đó không phải là sự nhận hiểu chân thật, đây là sự nhận hiểu chân thật, cho nên không có lỗi gì.

Có người nói: Tuệ có thể phân biệt về tự tướng-cọng tướng của các pháp, an lập về tự tướng-cọng tướng của các pháp, ngu muội về sự tổn hại và ngu muội về sở duyên, ở trong các pháp thay đổi không tăng giảm, Tuệ này rơi vào trong sở duyên của nó, cho nên gọi là Pháp niệm trú.

Có người nói: Diệt đế Niết-bàn là pháp Thắng nghĩa thường trú không thay đổi, pháp này thâu nhiếp ở trong sở duyên của nó, cho nên gọi là Pháp niệm trú.

Có người nói: Niệm trú này có thể duyên với nhiều pháp, đó là Sắc-không phải Sắc, tương ưng-không tương ưng, có sở y-không có sở y, có hành tướng-không có hành tướng, có sở duyên-không có sở duyên, có cảnh giác-không có cảnh giác, vì thế cho nên gọi là Pháp niệm trú.

Có người nói: Thân niệm trú duyên với thân chứ không duyên với Tuệ duyên với thân, Thọ niệm trú duyên với thọ chứ không duyên với Tuệ duyên với thọ, Tâm niệm trú duyên với tâm chứ không duyên với Tuệ duyên với tâm, Pháp niệm trú duyên với thân cũng duyên với Tuệ duyên với thân, duyên với Thọ-Tâm-Pháp cũng duyên với Tuệ duyên với Thọ-Tâm-Pháp, vì thế cho nên chỉ riêng loại này gọi là Pháp niệm trú.

Có người nói: Thân niệm trú duyên với thân chứ không duyên với sinh-lão-vô thường của thân, Thọ niệm trú duyên với thọ chứ không duyên với sinh-lão-vô thường của thọ, Tâm niệm trú duyên với tâm chứ không duyên với sinh-lão-vô thường của tâm, Pháp niệm trú duyên với thân cũng duyên với sinh-lão-vô thường của thân, duyên với Thọ-TâmPháp cũng duyên với sinh-lão-vô thường của Thọ-Tâm-Pháp, vì thế cho nên chỉ riêng loại này gọi là Pháp niệm trú.

Có người nói: Đến đây các Sư Du-già tưởng về Ngã-tưởng về một tập hợp đều được dừng lại, tu tập đầy đủ trọn vẹn tưởng về Pháp-tưởng về sai biệt, cho nên gọi là Pháp niệm trú. Nghĩa là Sư Du-già phân tích về Thân rồi liền cho rằng Thọ là Ngã, phân tích về Thọ rồi liền cho rằng Tâm là Ngã, phân tích về Tâm rồi liền cho rằng pháp là Ngã, phân tích về Pháp rồi thì biết tất cả không phải là Ngã, hữu tình chỉ là tập hợp của hành trống rỗng. Vì thế cho nên đến đây tưởng về Pháp đầy đủ trọn vẹn, gọi là Pháp niệm trú.

Đã nói về nguyên cớ của từng loại Niệm trú, nay sẽ nói đến thứ tự của nó.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn trước tiên nói đến Thân niệm trú, cho đến cuối cùng mới nói đến Pháp niệm trú?

Đáp: Bởi vì biểu hiện rõ ràng về sự tùy thuận. Nghĩa là nếu biểu hiện rõ ràng theo thứ tự như vậy, thì tùy thuận đối với văn tự-ngôn thuyết.

Có người nói: Bởi vì tùy thuận với người thuyết giảng-người tiếp nhận. Nghĩa là nếu đưa ra theo thứ tự như vậy, thì đối với thầy thuyết giảng và đệ tử tiếp nhận đều được tùy thuận.

Có người nói: Bởi vì đây là dựa vào sinh khởi theo thứ tự. Thứ tự có ba loại:

  1. Sinh khởi theo thứ tự.
  2. Biểu hiện rõ rằng theo thứ tự.
  3. Hiện quán theo thứ tự.

Sinh khởi theo thứ tự, là như Niệm trú này, và Tĩnh lự-Vô lượngVô sắc-Giải thoát-Thắng xứ-Biến xứ… Biểu hiện rõ rằng theo thứ tự, đó là Chánh đoạn-Thần túc-Căn-Lực-Giác chi-Đạo chi… Hiện quán theo thứ tự, đó là bốn Thánh đế. Bởi vì Sư Du-già đầu tiên khởi lên Thân niệm trú, cho nên Đức Phật nói đến trước; cho đến cuối cùng khởi lên Pháp niệm trú, cho nên Đức Phật nói đến sau.

Hỏi: Dựa vào luận mà sinh ra luận, vì sao các Sư Du-già đầu tiên khởi lên Thân niệm trú, cho đến cuối cùng khởi lên Pháp niệm trú?

Đáp: Bởi vì dựa vào thô-tế theo thứ tự. Nghĩa là trong năm uẩn thì Sắc uẩn là thô thiển nhất, cho nên đầu tiên quán sát khởi lên Thân niệm trú; trong bốn uẩn không có Sắc thì Thọ uẩn là thô thiển nhất, cho nên tiếp theo quán sát khởi lên Thọ niệm trú.

Hỏi: Thọ… không có nơi chốn, làm sao có thể thi thiết thô-tế?

Đáp: Tuy không có nơi chốn thô-tế mà có hành tướng thô-tế, cho nên cũng có thể thi thiết. Trong này, hành tướng thô của Thọ, như nói tay chân của tôi đau nhức, lại nói tôi nhận chịu khổ sở như vậy-như vậy. Các uẩn như Thọ… tuy không phải Sắc mà thi thiết thô-tế như Sắc.

Trong bốn uẩn không có Sắc thì Thức uẩn là vi tế nhất, mà đầu tiên quán sát về Tưởng-Hành uẩn khởi lên Tâm niệm trú, bởi vì kết hợp thi thiết Tưởng-Hành uẩn và Niết-bàn là pháp vi tế nhất, cho nên cuối cùng quán sát về pháp ấy khởi lên Pháp niệm trú.

Có người nói: Từ vô thỉ cho đến ngày nay, nam vì sắc của nữ, nữ vì sắc của nam, là nơi sinh ra nhiễm ô, cho nên đầu tiên quán sát về Sắc khởi lên Thân niệm trú; đắm trước Sắc này bởi vì tham cảm thọ vui thú, cho nên tiếp theo quán sát về Thọ khởi lên Thọ niệm trú; tham cảm thọ vui thú bởi vì không điều phục đối với tâm, cho nên tiếp theo quán sát về Tâm khởi lên Tâm niệm trú; không điều phục đối với tâm bởi vì phiền não chưa đoạn, cho nên cuối cùng quán sát về Pháp khởi lên Pháp niệm trú.

Có người nói: Bởi vì Sắc có thể thi thiết có tăng-giảm, có lấy-bỏ, nối tiếp nhau tương tự, cho nên đầu tiên quán sát về Sắc khởi lên Thân niệm trú. Vào lúc quán sát về Sắc, khởi lên thân Khinh an và tâm Khinh an, từ đây làm đầu tiên dẫn dắt khởi lên cảm thọ vui vẻ, cho nên tiếp theo quán sát về Thọ khởi lên Thọ niệm trú. Vào lúc quán sát về Thọ, dẫn dắt khởi lên Thắng nghĩa phân biệt rõ ràng về cảnh giới, cho nên tiếp theo quán sát về Thức khởi lên Tâm niệm trú. Lúc ấy dấy lên ý niệm này: Nếu nơi nào khởi tâm thì cũng khởi tâm sở. Cho nên cuối cùng quán sát về Pháp khởi lên Pháp niệm trú.

Có người nói: Thân ngu có thể giữ lấy Thọ ngu, cho đến Tâm ngu có thể giữ lấy Pháp ngu; không phải là Thân ngu không chuyển mà có thể chuyển Thọ ngu, cho đến không phải là Tâm ngu không chuyển mà có thể chuyển Pháp ngu, cho nên bốn Niệm trú khởi lên theo thứ tự như vậy.

Có người nói: Thân không ngu có thể dẫn dắt Thọ không ngu, cho đến Tâm không ngu có thể dẫn dắt Pháp không ngu; không phải là Thân không ngu không khởi lên mà có thể khởi lên Thọ không ngu, cho đến không phải là Tâm không ngu không khởi lên mà có thể khởi lên Pháp không ngu, cho nên bốn Niệm trú khởi lên theo thứ tự như vậy.

Có người nói: Thân quán sát có thể dẫn dắt Thọ quán sát, cho đến

Tâm quán sát có thể dẫn dắt Pháp quán sát; không phải là Thân quán sát không khởi lên mà có thể khởi lên Thọ quán sát, nói rộng ra như trên.

Có người nói: Thân quán sát cùng với Thọ quán sát làm nhân-làm căn-làm mắt-làm đạo-làm từng bước-làm năng tác-làm duyên sinh-làm khởi tập-làm đẳng khởi, Thọ quán sát cùng với Tâm quán sát, Tâm quán sát cùng với Pháp quán sát cũng như vậy, còn lại nói như trước.

Có người nói: Thân quán sát cùng với Thọ quán sát làm gia hạnhlàm cửa ngõ-làm nơi nương tựa, cho đến Tâm quán sát cùng với Pháp quán sát cũng như vậy, còn lại nói như trước.

Có người nói: Thân quán sát cùng với Thọ quán sát làm nơi nương tựa-làm dấu tích để lại, cho đến Tâm quán sát cùng với Pháp quán sát cũng như vậy, còn lại nói như trước.

Hỏi: Nếu như vậy thì Thân quán sát lại dùng pháp nào làm nơi nương tựa-làm dấu tích để lại?

Đáp: Dùng tướng Xa-ma-tha đã đạt được trước đây làm nơi nương tựa-làm dấu tích để lại, như nói: Bởi vì trước đây đạt được Xa-ma-tha bất động, cho nên tướng của thân nhẹ nhàng mềm mại, tích tụ khắp nơi từ chân đến đầu, vì vậy có thể khởi lên Thân niệm trú cho đến Pháp niệm trú.

Có người nói: Lúc ấy phân biệt về các Xứ ở trong sự nối tiếp nhau khởi lên bốn Niệm trú, đó là Sư Du-già đầu tiên muốn biết về các Sắc xứ, cho nên trước phải phân biệt về mười Sắc xứ và Sắc do Niệm xứ thâu nhiếp, vì thế cho nên trước tiên khởi lên Thân niệm trú. Tiếp theo ngay nơi Pháp xứ phân biệt về các Thọ, cho nên tiếp theo khởi lên Thọ niệm trú. Tiếp theo ngay nơi Pháp xứ phân biệt về Tưởng-Hành uẩn và ba Vô vi, cho nên tiếp theo khởi lên Pháp niệm trú. Lúc ấy lại dấy lên ý niệm này: Trừ pháp này ra còn có pháp nào? Liền biết như thật còn có Ý xứ, vì vậy liền phân biệt về Ý xứ, cho nên cuói cùng khởi lên Tâm niệm trú. Các Sư Du-già nếu dựa vào tự tướng để quán sát, thì trước tiên khởi lên Pháp niệm trú, sau cùng khởi lên Tâm niệm trú; nếu dựa vào cọng tướng để quán sát, thì trước tiên khởi lên Tâm niệm trú, sau cùng khởi lên Pháp niệm trú, cho nên bốn Niệm trú khởi lên theo thứ tự như vậy.

Hỏi: Là trước tiên khởi lên Niệm trú duyên với bên trong, hay là trước tiên khởi lên Niệm trú duyên với bên ngoài? Nếu như vậy thì có gì sai? Nếu trước tiên khởi lên Niệm trú duyên với bên trong, thì kinh nói nên hiểu thế nào? Như nói: “Tỳ kheo mới học vốn có Thi-la thanh tịnh, ý thích đầy đủ trọn vẹn, muốn nhanh chóng đoạn trừ dục-tham-sân, nên hướng về con đường vắng vẻ hiu quạnh, đi đến nơi đặt xác chết, cố gắng giữ lấy tướng ấy, hoặc là bầm xanh, hoặc là nát rữa…” Nếu trước tiên khởi lên Niệm trú duyên với bên ngoài, thì kinh khác nói lại hiểu thế nào? Như nói: “Trước tiên trú vào thân bên trong thuận theo thân quán sát, tiếp theo trú vào thân bên ngoài…”

Đáp: Nên đưa ra cách nói này: Trước tiên khởi lên Niệm trú duyên với bên trong. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì có Ngã cho nên có Ngã sở, có Ngã chấp cho nên có Ngã sở chấp, có Ngã kiến cho nên có Ngã sở kiến, có năm Ngã kiến cho nên có mười lăm Ngã sở kiến, có Ngã ngu cho nên có Ngã sở ngu, có Ngã ái cho nên có nhiều vật dụng yêu quý, vì nuôi lớn Ngã bên trong cho nên cầu mong vật dụng cung cấp bên ngoài.

Hỏi: Nếu như vậy thì kinh đã dẫn ra trước đó nên hiểu thế nào?

Đáp: Đó là Niệm trú gia hạnh chứ không phải là Niệm trú căn bản. Vì sao biết như vậy? Bởi vì ngay kinh ấy nói: “Cố gắng giữ lấy tướng rồi nhanh chóng trở về nơi của mình, nhớ lại tướng đã giữ lấy trước đây. Nếu có thể nhớ lại thì tốt, nếu không có thể nhớ lại thì tiếp tục đi đến nơi đặt xác chết, lại cố gắng giữ lấy tướng chạy nhanh về nơi của mình, rửa tay chân sạch sẽ, đi vào phòng trải chỗ ngồi mà ngồi, dùng tác ý thắng giải khiến cho tướng đã giữ lấy trước đây hiện rõ trước mắt.” Đó gọi là Niệm trú gia hạnh. Nếu lúc dùng tướng đã giữ lấy bên ngoài, đặt vào thân bên trong mà quán sát, thì mới gọi là tiến vào Niệm trú căn bản.

Có người nói: Kinh ấy nói đến quả thuộc tác ý thắng giải chứ không phải là phần vị Niệm trú. Vì sao biết như vậy? Bởi vì ngay kinh ấy nói: “Lúc ấy Tỳ kheo mới học đạt được ý về Học rồi, nếu muốn hướng về con đường vắng vẻ hiu quạnh, thì tùy theo ý muốn mà đi đến.” Trong này, Tỳ kheo mới học tức là hàng Dự lưu và hàng Nhất lai, cho nên biết kinh ấy nói đến quả thuộc tác ý thắng giải chứ không phải là phần vị Niệm trú.

Như trong kinh nói: “Trú vào thân bên trong thuận theo thân quán sát, trú vào thân bên ngoài thuận theo thân quán sát, trú vào thân bên trong-bên ngoài thuận theo thân quán sát…”

Hỏi: Trong này, loại nào gọi là Thân bên trong…, loại nào gọi là Thân bên ngoài…?

Đáp: Sắc do sự nối tiếp nhau của mình thâu nhiếp, gọi là Thân bên trong; Sắc do sự nối tiếp nhau nơi khác, và Sắc thuộc số phi hữu tình, gọi là Thân bên ngoài. Pháp bên trong-Pháp bên ngoài, nói cũng như vậy. Thọ do sự nối tiếp nhau của mình thâu nhiếp, gọi là Thọ bên trong; Thọ do sự nối tiếp nhau nơi khác, gọi là Thọ bên ngoài. Tâm bên trong-Tâm bên ngoài, nói cũng như vậy.

Có Sư khác nói: Sắc thuộc số hữu tình gọi là Thân bên trong, Sắc thuộc số phi hữu tình gọi là Thân bên ngoài; Pháp bên trong-Pháp bên ngoài, nói cũng như vậy. Tâm-Thọ nói như trước.

Hiếp Tôn giả nói: “Hiện tại gọi là bên trong, quá khứ-vị lai và Vô vi gọi là bên ngoài.”

Hỏi: Vì sao hiện tại gọi là bên trong, quá khứ-vị lai và Vô vi gọi là bên ngoài?

Đáp: Bởi vì pháp hiện tại phần nhiều làm cho hữu tình thâu nhiếp tiếp nhận tham trước, chứ không phải là quá khứ-vị lai và Vô vi.

Trong này, trú vào thân bên trong thuận theo thân quán sát, là trú vào thân bên trong quán sát về tự tướng; trú vào thân bên ngoài thuận theo thân quán sát, là trú vào thân bên ngoài quán sát về tự tướng; trú vào thân bên trong-bên ngoài thuận theo thân quán sát, là trú vào thân bên trong-bên ngoài quán sát về cọng tướng. Cho đến Pháp cũng như vậy.

Có người nói: Trú vào thân bên trong thuận theo thân quán sát, là trú vào thân bên trong quán sát rộng ra; trú vào thân bên ngoài thuận theo thân quán sát, là trú vào thân bên ngoài quán sát rộng ra; trú vào thân bên trong-bên ngoài thuận theo thân quán sát, là trú vào thân bên trong-bên ngoài quán sát tóm lược. Cho đến Pháp cũng như vậy.

Có người nói: Trú vào thân bên trong thuận theo thân quán sát, là đối trị về Ngã chấp; trú vào thân bên ngoài thuận theo thân quán sát, là đối trị về Ngã sở chấp; trú vào thân bên trong-bên ngoài thuận theo thân quán sát, là đối trị về Ngã chấp-Ngã sở chấp. Cho đến Pháp cũng như vậy. Như Ngã chấp-Ngã sở chấp, Ngã kiến-Ngã sở kiến nói cũng như vậy.

Có người nói: Trú vào thân bên trong thuận theo thân quán sát, là đối trị về năm Ngã kiến; trú vào thân bên ngoài thuận theo thân quán sát, là đối trị về mười lăm Ngã sở kiến; trú vào thân bên trong-bên ngoài thuận theo thân quán sát, là đối trị về hai mươi loại Tát-ca-da kiến. Cho đến Pháp cũng như vậy. Như Ngã kiến-Ngã sở kiến, như vậy Ngã ngu-Ngã sở ngu nói cũng như vậy.

Có người nói: Trú vào thân bên trong thuận theo thân quán sát, là đối trị về Ngã ái; trú vào thân bên ngoài thuận theo thân quán sát, là đối trị về nhiều vật dụng yêu quý; trú vào thân bên trong-bên ngoài thuận theo thân quán sát, là đối trị cả hai loại ái. Cho đến Pháp cũng như vậy.

Hỏi: Đến đâu thì nên nói là Thân niệm trú đầy đủ trọn vẹn, cho đến Pháp niệm trú đầy đủ trọn vẹn?

Đáp: Dựa vào hai duyên cho nên biết là đầy đủ trọn vẹn:

  1. Phân biệt sở duyên.
  2. Căn thiện tăng lên.

Phân biệt sở duyên, đó là nếu lúc có thể dùng cực vi và sát-na để phân biệt về sở duyên, hoặc là chỉ dùng sát-na để phân biệt về sở duyên. Căn thiện tăng lên, đó là dựa vào phẩm Hạ sinh ra phẩm Trung, dựa vào phẩm Trung sinh ra phẩm Thượng. Đến đây thì nên biết là Niệm trú đầy đủ trọn vẹn.

Có người nói: Dựa vào chuyển đổi gia hạnh cho nên biết là đầy đủ trọn vẹn, đó là Sư Du-già trước tiên phân biệt về Thân, phân biệt về Thân rồi chuyển sang Tuệ nhận hiểu về Thân; tiếp theo phân biệt về Thọ, phân biệt về Thọ rồi chuyển sang Tuệ nhận hiểu về Thọ; tiếp theo phân biệt về Tâm, phân biệt về Tâm rồi chuyển sang Tuệ nhận hiểu về Tâm, phân biệt đối với Pháp. Ví như nông phu dẫn nước tưới ruộng, thửa ruộng thứ nhất đầy rồi dẫn sang tưới cho thửa ruộng thứ hai, thửa ruộng thứ hai đầy rồi dẫn sang tưới cho thửa ruộng thứ ba, thửa ruộng thứ ba đầy rồi dẫn sang tưới cho thửa ruộng thứ tư; ở đây cũng như vậy.

Có người nói: Đến lúc tướng oán hại thành tựu thì nên biết là đầy đủ trọn vẹn. Tướng oán hại có hai loại:

  1. Khiến cho không vui mừng.
  2. Khiến cho sinh ra tức giận.

Trong này chỉ nói khiến cho không vui mừng gọi là tướng oán hại, đó là Sư Du-già phân biệt về Thân rồi liền đối với Thân không sinh ra vui mừng, mà vui mừng đối với Thọ…; phân biệt về Thọ rồi lại đối với Thọ không sinh ra vui mừng, mà vui mừng đối với Tâm…; phân biệt về

Tâm rồi lại đối với Tâm không sinh ra vui mừng, mà vui mừng đối với Pháp; phân biệt về Pháp rồi thì đối với tất cả cảnh giới không sinh ra vui mừng. Nên biết lúc bấy giờ là Niệm trú đầy đủ trọn vẹn.

*******

 

Lại nữa, có ba loại Niệm trú, đó là do Văn-Tư-Tu mà thành sai biệt.

Trong này, có người nói: Đối với mười hai phần giáo mà Đức Phật đã nói ra, thọ trì-đọc tụng-suy nghĩ-phân biệt, gọi là Niệm trú do Văn mà thành, dựa vào Văn khởi lên Tư, dựa vào Tư khởi lên Tu, dựa vào Tu có thể đoạn phiền não; như dựa vào quặng vàng chế ra vàng, dựa vào vàng chế ra kim cương, dựa vào kim cương có thể cắt đứt vật cứng như sắt-đá…

Hiếp Tôn giả nói: “Đối với mười hai phần giáo mà Đức Phật đã nói ra, thọ trì-đọc tụng-suy nghĩ-phân biệt, là Tuệ thuộc sinh đắc, dựa vào Tuệ thuộc sinh đắc khởi lên Niệm trú do Văn mà thành, dựa vào Văn khởi lên Tư, dựa vào Tư khởi lên Tu, dựa vào Tu có thể đoạn phiền não; như dựa vào hạt giống sinh ra mầm non, dựa vào mầm non sinh ra thân cây, dựa vào thân cây sinh ra cành-lá, dựa vào cành lá sinh ra hoa quả.”

Hỏi: Ba Niệm trú này có gì sai biệt?

Đáp: Có người nói: Tên gọi tức là sai biệt, đó là loại này gọi là Niệm trí do Văn mà thành, cho đến loại này gọi là Niệm trú do Tu mà thành.

Có người nói: Niệm trú do Văn mà thành ở tất cả mọi lúc dựa vào tên gọi mà chuyển đối với nghĩa, nghĩa là Tố-đát-lãm nói có nghĩa gì, Tỳ-nại-da nói có nghĩa gì, A-tỳ-đạt-ma nói có nghĩa gì, Ô-ba-đà-da nói có nghĩa gì, A-già-lợi-da nói có nghĩa gì, sách luận khác nói có nghĩa gì? Niệm trú do Tư mà thành hoặc là dựa vào tên gọi, hoặc là không dựa vào tên gọi mà chuyển đối với nghĩa. Niệm trú do Tu mà thành ở tất cả mọi lúc lìa tên gọi mà chuyển đối với nghĩa; ví như ba người cùng tắm gội ở hồ nước, người thứ nhất chưa học cách bơi, người thứ hai học chưa thành thạo, người thứ ba học đã thành thạo. Người chưa học cách bơi thì tất cả mọi lúc dựa vào ven bờ mà tắm gội; người học chưa thành thạo thì có lúc dựa vào ven bờ, có lúc rời xa bờ mà tắm gội; người học đã thành thạo thì luôn luôn rời xa bờ, ở giữa hồ nước mà tắm gội. Như người thứ nhất, do Văn mà thành cũng như vậy; như người thứ hai, do Tư mà thành cũng như vậy; như người thứ ba, do Tu mà thành cũng như vậy. Đó gọi là sự sai biệt của ba loại Niệm trú này.

Hỏi: Niệm trú do Văn-Tư-Tu mà thành này, cõi nào có mấy loại?

Đáp: Cõi Dục có hai loại, đó là do Văn-Tư mà thành chứ không phải là do Tu. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì cõi Dục là cõi không nhất định, không phải là địa của tu, không phải là địa của lìa nhiễm, cho nên lúc tác ý về Tu thì rơi vào trong Tư. Cõi Sắc có hai loại, đó là do Văn-Tu mà thành chứ không phải là do Tư. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì cõi Sắc là cõi nhất định, là địa của tu, là địa của lìa nhiễm, cho nên lúc tác ý về Tư thì rơi vào trong Tu. Cõi Vô sắc có một loại, đó là do Tu mà thành, nhưng do Tu mà thành cũng không rơi vào cõi.

Có Sư khác nói: Cõi Dục có đủ ba loại, còn lại nói như trước.

Có người nói: Cõi Dục-Sắc đều có đủ ba loại, còn lại nói như trước.

Có người nói: Ba cõi đều có đủ ba loại, chỉ riêng do Tu mà thành cũng không rơi vào cõi.

Lời bình: Cách nói thứ nhất là hợp lý.

Hỏi: Các Niệm trú này, loại nào làm nhân của loại nào?

Đáp: Văn làm nhân của ba loại. Tư chỉ làm nhân của Tư chứ không phải là nhân của Văn, bởi vì kém hơn loại ấy; không phải là nhân của Tu, bởi vì cõi khác nhau. Tu chỉ làm nhân của Tu chứ không phải là nhân của Văn, bởi vì kém hơn loại ấy; không phải là nhân của Tư, bởi vì kém hơn loại ấy và cõi khác nhau.

Hỏi: Loại nào làm quả của loại nào?

Đáp: Văn chỉ là quả của Văn, Tư là quả của Văn-Tư chứ không phải là Tu, Tu là quả của Văn-Tu chứ không phải là Tư.

Hỏi: Ba Niệm trú này, loại nào hiện rõ trước mắt thì tu mấy loại?

Đáp: Lúc do Văn mà thành hiện rõ trước mắt thì chỉ tu về Văn chứ không phải là Tư-Tu, lúc do Tư mà thành hiện rõ trước mắt thì chỉ tu về Tư chứ không phải là Văn-Tu.

Trong này, lúc sát-na thuộc Văn-Tư hiện rõ trước mắt, bởi vì tu luyện tập cho nên gọi là tu; không phải là tu thuộc vị lai, bởi vì thế lực yếu kém. Bởi vì như vậy cho nên chỉ tu về loại của mình chứ không tu về loại khác. Lúc do Tu mà thành hiện rõ trước mắt, có thể tu cả ba loại. Lực của Văn-Tư tuy không có thể tu thuộc vị lai, mà nhờ vào lực khác cho nên có nghĩa của tu thuộc vị lai.

Hỏi: Niệm trú do Văn-Tư-Tu mà thành, Phật-Độc giác và Thanh văn đều có mấy loại?

Đáp: Phật có đủ ba loại nhưng do Tu mà thành là hơn hẳn, bởi vì tự nhiên Giác ngộ và đầy đủ các công đức Lực-Vô úy… Độc giác cũng có đủ ba loại nhưng do Tư mà thành là hơn hẳn, bởi vì tự mình tư duy Giác ngộ mà không có các công đức Lực-Vô úy… Thanh văn cũng có đủ ba loại nhưng do Văn mà thành là hơn hẳn, bởi vì thuận theo nghe âm thanh của người khác mà tiến vào Thánh đạo. Như nói: “Đệ tử bậc Thánh của Ta, đầy đủ đa văn, đoạn pháp bất thiện, tu tập pháp thiện.”

Lại có ba loại Niệm trú, đó là Niệm trú thuộc ngôn thuyết cứu cánh, Niệm trú thuộc tư duy cứu cánh, Niệm trú thuộc xuất ly cứu cánh. Nên biết ba loại này tức là Niệm trú do Văn-Tư-Tu mà thành, như thứ tự ấy. Nhưng ba loại Niệm trú như Văn…, tất cả đều có thể gọi là do Văn mà thành, như nói:

“Đa văn có thể nhận biết pháp,
Đa văn có thể lìa tội lỗi,
Đa văn rời bỏ pháp vô nghĩa,
Đa văn đạt được pháp Niết-bàn.”

Tất cả đều có thể gọi là do Tư mà thành, như nói: “Tư ấy là nghiệp, Lự ấy là Tuệ.” Lự đã nói đến ấy tức là do Tư mà thành. Tất cả đều có thể gọi là do Tu mà thành, như nói:“Pháp cần phải tu, đó là tất cả pháp thiện hữu vi.”

Hỏi: Thế nào gọi là Niệm trú gia hạnh, thế nào là tự tướng-chủng tánh duyên xen tạp, và Niệm trú do Văn-Tư-Tu mà thành sinh khởi theo thứ tự?

Đáp: Quán Bất tịnh-Trì tức niệm-Tác ý về Giới, đó gọi là Niệm trú gia hạnh.

Ngay pháp này làm đầu tiên tiến vào tự tướng-chủng tánh của Thân niệm trú, ngay Thân niệm trú làm đầu tiên tiến vào tự tướngchủng tánh của Thọ niệm trú, ngay Thọ niệm trú làm đầu tiên tiến vào tự tướng-chủng tánh của Tâm niệm trú, ngay Tâm niệm trú làm đầu tiên tiến vào tự tướng-chủng tánh của Pháp niệm trú.

Từ tự tướng-chủng tánh của Pháp niệm trú khởi lên Pháp niệm trú duyên xen tạp, từ Pháp niệm trú duyên xen tạp khởi lên ba Nghĩa quán.

Từ ba Nghĩa quán có Thân niệm trú do Văn mà thành, đầu tiên khởi lên duyên với Khổ đế làm hành tướng Vô thường cho đến hành tướng Vô ngã, tiếp theo khởi lên duyên với Tập đế làm hành tướng Nhân cho đến hành tướng Duyên, tiếp theo khởi lên duyên với Đạo đế làm hành tướng Đạo cho đến hành tướng Xuất.

Từ đây không gián đoạn có Thọ niệm trú-Tâm niệm trú do Văn mà thành, đều khởi lên duyên với ba Đế làm mười hai hành tướng cũng như vậy.

Từ đây không gián đoạn có Pháp niệm trú do Văn mà thành, đầu tiên khởi lên duyên với Khổ đế làm hành tướng Vô thường cho đến hành tướng Vô ngã, tiếp theo khởi lên duyên với Tập đế làm hành tướng Nhân cho đến hành tướng Duyên, tiếp theo khởi lên duyên với Diệt đế làm hành tướng Diệt cho đến hành tướng Ly, tiếp theo khởi lên duyên với Đạo đế làm hành tướng Đạo cho đến hành tướng Xuất.

Từ Pháp niệm trú do Văn mà thành không gián đoạn, có Thân niệm trú do Tư mà thành khởi lên duyên với ba Đế làm mười hai hành tướng. Từ đây không gián đoạn có Thọ niệm trú khởi lên duyên với ba Đế làm mười hai hành tướng. Từ đây không gián đoạn có Tâm niệm trú khởi lên duyên với ba Đế làm mười hai hành tướng. Từ đây không gián đoạn có Pháp niệm trú khởi lên duyên với bốn Đế làm mười sáu hành tướng.

Từ Pháp niệm trú do Tư mà thành, có Pháp niệm trú do Tu mà thành, đầu tiên khởi lên duyên với Khổ đế làm hành tướng Vô thường cho đến hành tướng Vô ngã, tiếp theo khởi lên duyên với Tập đế làm hành tướng Nhân cho đến hành tướng Duyên, tiếp theo khởi lên duyên với Diệt đế làm hành tướng Diệt cho đến hành tướng Ly, tiếp theo khởi lên duyên với Đạo đế làm hành tướng Đạo cho đến hành tướng Xuất.

Như vậy, Pháp niệm trú duyên với bốn Đế làm mười sáu hành tướng, gọi là Nhẫn ban đầu. Đó gọi là do Niệm trú gia hạnh đã dẫn dắt tự tướng-chủng tánh duyên xen tạp, và Niệm trú do Văn-Tư-Tu mà thành sinh khởi theo thứ tự.

Hỏi: Vì sao Niệm trú do Văn-Tư đều đầu tiên khởi lên Thân niệm trú duyên với ba Đế làm mười hai hành tướng, sau mới khởi lên Niệm trú khác, nhưng Niệm trú do Tu mà thành thì đầu tiên đã khởi lên Pháp niệm trú duyên với bốn Đế làm mười sáu hành tướng?

Đáp: Bởi vì chủng tánh chưa từng đạt được, bởi vì hành tướng từng bước đạt được, cho nên đầu tiên quán sát về uẩn thô thiển, sau đó quán sát về uẩn vi tế. Ở trong năm uẩn thì Sắc uẩn là thô thiển nhất, bởi vì đầu tiên quán sát về uẩn ấy, cho nên đầu tiên khởi lên Thân niệm trú. Nhưng Thân-Thọ-Tâm đều thâu nhiếp ba Đế, cho nên Thân niệm trú duyên với ba Đế làm mười hai hành tướng. Như vậy, Thân niệm trú do Văn mà thành dẫn dắt khởi lên Thọ niệm trú do Văn mà thành, Thọ niệm trú do Văn mà thành dẫn dắt khởi lên Tâm niệm trú do Văn mà thành, Tâm niệm trú do Văn mà thành dẫn dắt khởi lên Pháp niệm trú do Văn mà thành. Pháp niệm trú do Văn mà thành này duyên với bốn Đế làm mười sáu hành tướng. Bốn niệm trú do Văn mà thành dần dần đầy đủ trọn vẹn rồi, thì có thể dẫn dắt khởi lên bốn niệm trú do Tư mà thành. Bốn niệm trú do Tư mà thành dần dần đầy đủ trọn vẹn rồi, lại có thể dẫn dắt khởi lên Pháp niệm trú do Tu mà thành. Bởi vì chủng tánh này chưa từng đạt được, hành tướng tồn tại vững chắc đối với tất cả các uẩn, cho nên đầu tiên đã khởi lên Pháp niệm trú, trước phải duyên với Khổ đế làm bốn hành tướng, cho đến sau đó duyên với Đạo đế làm bốn hành tướng.

Như trong kinh nói: “Như vậy, tu chân chánh nguyện Niệm trú, có thể phá tan Vô minh, phát khởi đối với Minh.”

Hỏi: Trong này nói pháp nào gọi là tu chân chánh nguyện Niệm trú?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Trong này nói đến Khổ pháp trí nhẫn, bởi vì pháp này có thể phá tan Vô minh, tức là mười tùy miên do kiến Khổ mà đoạn của cõi Dục; phát khởi đối với Minh, tức là Khổ pháp trí.

Có người nói: Trong này nói đến Đạo loại trí nhẫn, bởi vì pháp này có thể phá tan Vô minh, tức là mười bốn tùy miên do kiến Đạo mà đoạn của cõi Sắc-Vô sắc; phát khởi đối với Minh, tức là Đạo loại trí.

Có người nói: Trong này nói đến Định Kim cang dụ, bởi vì pháp này có thể phá tan Vô minh, tức là phiền não thuộc phẩm Hạ Hạ của Phi tưởng phi phi tưởng xứ; phát khởi đối với Minh, tức là Tận trí.

Có người nói: Trong này nói tất cả đạo vô gián, bởi vì pháp này có thể phá tan Vô minh, tức là phẩm phiền não do đạo ấy mà đoạn; phát khởi đối với Minh, tức là đạo giải thoát thuộc phẩm ấy.

Hiếp Tôn giả nói: “Trong này nói đến Tuệ thiện do phương tiện thiện xảo mà thâu nhiếp tiếp nhận, gọi là tu chân chánh nguyện Niệm trú, bởi vì pháp này có thể phá tan Vô minh, tức là ba căn bất thiện; phát khởi đối với Minh, tức là ba căn thiện.”

Như Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:

“Nếu mạng lưới dày thì vướng mắc,
Không có Ái người nào giữ được,
Sở hành của Phật là vô biên,
Không dấu tích-dấu nào dẫn lối?”

Trong này, sở hành của Phật, đó là bốn Niệm trú.

Hỏi: Đức Phật là đạt được giới hạn (biên tế) của Niệm trú mà nhập Niết-bàn, hay là không đạt được giới hạn của Niệm trú mà đã nhập Niết-bàn? Giả sử như vậy thì có gì sai? Nếu nói là đạt được, thì vì sao nói sở hành của Phật là vô biên? Nếu không đạt được, thì vì sao nói lúc Đức Phật đạt được Tận trí thì việc làm viên mãn cứu cánh?

Đáp: Có nhân duyên cho nên có thể nói là đạt được giới hạn, có nhân duyên cho nên có thể nói là không đạt được giới hạn. Đó là dựa vào dẫn dắt cho nên có thể nói là đạt được giới hạn, dựa vào thọ dụng cho nên có thể nói là không đạt được giới hạn.

Lại nữa, dựa vào đạt được cho nên có thể nói là đạt được giới hạn, dựa vào thân tướng cho nên có thể nói là không đạt được giới hạn.

Lại nữa, dựa vào thành tựu cho nên có thể nói là đạt được giới hạn, dựa vào hiện tiền cho nên có thể nói là không đạt được giới hạn.

Như trong kinh nói: “Thế nào gọi là không phải nơi thực hành của Tỳ kheo? Nên nói chính là năm dục tuyệt vời (Diệu dục). Thế nào gọi là nơi thực hành của Tỳ kheo? Nên nói chính là bốn Niệm trú.”

Hỏi: Năm dục tuyệt vời cũng thuận theo đưa vào trong Niệm trú, vì sao nói không phải là nơi thực hành?

Đáp: Dựa vào người chủ động quán sát, cho nên đưa ra cách nói này. Đó là nếu quán sát không như lý thì gọi là không phải nơi thực hành, nếu quán sát như lý thì gọi là nơi thực hành.

Như trong kinh nói: “Có ba loại Niệm trú, Thánh giả nên luyện tập. Nếu có Thánh giả khéo léo luyện tập, thì lúc này mới thích hợp để điều khiển mọi người.

Thế nào là ba loại? Đó là lúc Như Lai thuyết pháp cho đệ tử, khởi lòng thương xót sâu sắc, tâm Bi hợp với lợi ích mà nói cho biết rằng: Đây là lợi ích, đây là an lạc, đây là lợi ích an lạc. Nếu chúng đệ tử cung kính, tập trung lắng nghe, trú trong tâm vâng theo lời dạy, thực hành giáo pháp-tùy thuận giáo pháp, không vượt bỏ Thánh giáo, tiếp nhận học hỏi các Học xứ, thì Như Lai đối với chúng ấy cũng không vui mừng, tâm không hớn hở, chỉ an trú trong Chánh xả-Chánh niệm-Chánh tri.

Đó gọi là Niệm trú thứ nhất. Nếu có Thánh giả khéo léo luyện tập, thì lúc này mới thích hợp để điều khiển mọi người.

Lại nữa, lúc Như Lai thuyết pháp cho đệ tử, khởi lòng thương xót sâu sắc, tâm Bi hợp với lợi ích mà nói cho biết rằng: Đây là lợi ích, đây là an lạc, đây là lợi ích an lạc. Nếu chúng đệ tử không cung kính, không tập trung lắng nghe, không trú trong tâm vâng theo lời dạy, không thực hành giáo pháp-tùy thuận giáo pháp, vượt bỏ Thánh giáo, không tiếp nhận học hỏi các Học xứ, thì Như Lai đối với chúng ấy cũng không tức giận, tâm không buồn phiền, chỉ an trú trong Chánh xả-Chánh niệmChánh tri. Đó gọi là Niệm trú thứ hai. Nếu có Thánh giả khéo léo luyện tập, thì lúc này mới thích hợp để điều khiển mọi người.

Lại nữa, lúc Như Lai thuyết pháp cho đệ tử, khởi lòng thương xót sâu sắc, tâm Bi hợp với lợi ích mà nói cho biết rằng: Đây là lợi ích, đây là an lạc, đây là lợi ích an lạc. Nếu một phần chúng đệ tử cung kính, tập trung lắng nghe, cho đến tiếp nhận học hỏi các Học xứ; một phần chúng đệ tử không cung kính, không tập trung lắng nghe, cho đến cũng không tiếp nhận học hỏi các Học xứ. Lúc bấy giờ Như Lai đối với người cung kính tiếp nhận, cũng không vui mừng, tâm không hớn hở; đối với người không cung kính tiếp nhận, cũng không tức giận, tâm không buồn phiền, chỉ an trú trong Chánh xả-Chánh niệm-Chánh tri. Đó gọi là Niệm trú thứ ba. Nếu có Thánh giả khéo léo luyện tập, thì lúc này mới thích hợp để điều khiển mọi người.”

Hỏi: Nếu như vậy thì chỉ cần có hai loại Niệm trú, đó là đối với người cung kính tiếp nhận và đối với người không cung kính tiếp nhận, vì sao phải nói đến ba loại?

Đáp: Bởi vì thuận theo chúng hội có ba loại, cho nên nói đến ba loại. Đó là có chúng hội mà tất cả đều cung kính tiếp nhận, có chúng hội mà tất cả đều không cung kính tiếp nhận, có chúng hội thì một phần cung kính tiếp nhận và một phần không cung kính tiếp nhận, vì thế cho nên thuận theo điều ấy mà nói đến ba loại Niệm trú.

Hỏi: Nếu như vậy thì phải nói đến bảy loại Niệm trú, đó là bốn loại trước đây và ba loại này?

Đáp: Trong này, ba loại tức là đưa vào trong bốn loại trước đây, bởi vì đều là do Pháp niệm trú bên ngoài duyên xen tạp trước đây thâu nhiếp.

Hỏi: Lúc Đức Phật thuyết pháp, nếu tất cả đều cung kính tiếp nhận, thì lẽ ra không có ba loại Niệm trú; nếu có người không cung kính tiếp nhận, thì Đức Thế Tôn sẽ không rưới làn mưa Chánh pháp ở nơi không phải là ruộng đất, không phải là đồ đựng. Như vậy, Đức Phật thuyết pháp sẽ trở thành uổng phí?

Đáp: Đức Thế Tôn thuyết pháp cho mọi người, muốn làm cho mọi người hiểu biết; nếu như mọi người không hiểu biết, thì cũng có chư Thiên có thể hiểu biết. Như vậy Niệm trú có ba loại, cũng không phải là Đức Phật thuyết pháp uổng phí. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì mọi người không hiểu biết, cho nên Niệm trú có ba loại; bởi vì chư Thiên có thể hiểu biết, cho nên không phải ở nơi không phải là ruộng đất, không phải là đồ đựng mà rưới làn mưa Chánh pháp.

Có người nói: Lúc Đức Phật thuyết pháp thì muốn làm cho tất cả hữu tình đạt được quả A-la-hán, họ không đạt được quả A-la-hán mà đạt được quả Bất hoàn, cho nên Niệm trú có ba loại, cũng không phải là Đức Phật thuyết pháp uổng phí. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không đạt được quả A-la-hán, cho nên Niệm trú có ba loại; bởi vì đạt được quả Bất hoàn, cho nên không phải là thuyết pháp uổng phí.

Lại nữa, lúc Đức Phật thuyết pháp thì muốn làm cho tất cả hữu tình đạt được quả Bất hoàn, họ không đạt được quả Bất hoàn mà đạt được quả Nhất lai, nói rộng ra như trước. Như vậy muốn làm cho đạt được quả Nhất lai, quả Dự lưu, căn thiện thuận phần Quyết trạch, căn thiện thuận phần Giải thoát, căn thiện thuận phần Phước, lần lượt chuyển tiếp theo thứ tự nói rộng ra cũng như vậy.

Lại nữa, lúc Đức Phật thuyết pháp thì muốn làm cho tất cả hữu tình đạt được quả trong pháp hiện tại, họ không đạt được quả trong pháp hiện tại mà có thể gieo trồng căn thiện cho tương lai, cho nên Niệm trú có ba loại, cũng không phải là Đức Phật thuyết pháp uổng phí, nói rộng ra như trước.

Hỏi: Vì sao lúc đệ tử cung kính tiếp nhận, Đức Phật không sinh lòng vui mừng; lúc đệ tử không cung kính tiếp nhận, Đức Phật không sinh lòng buồn phiền?

Đáp: Đức Phật biết rõ hữu tình có chủng tánh sai biệt như vậy, người ý thích xấu ác thì làm điều xấu ác, người ý thích tốt đẹp thì làm điều tốt đẹp. Nếu như người ý thích xấu ác mà làm điều tốt đẹp thì nên sinh lòng vui mừng đối với họ, người ý thích tốt đẹp mà làm điều xấu ác thì nên sinh lòng buồn phiền đối với họ, nhưng mà không phải như vậy, bởi vì chủng tánh khác biệt. Như biết rõ chủng tánh sai biệt của mọi vật bên ngoài, quặng sắt thì sản xuất ra sắt, quặng vàng thì sản xuất ra vàng, vì thế cho nên lúc nấu chảy, từ quặng sắt có được sắt mà tâm không sinh buồn phiền, từ quặng vàng có được vàng mà tâm không sinh vui mừng. Nếu như có được trái ngược với điều này thì có thể sinh lòng buồn phiền-vui mừng, nhưng mà không có điều này, bởi vì chủng tánh khác nhau. Đức Thế Tôn cũng như vậy, biết rõ các chủng tánh sai biệt của hữu tình, cho nên không sinh lòng buồn phiền-vui mừng.

Có người đưa ra cách nói này: Bởi vì Đức Phật đã khéo đoạn các pháp yêu-ghét. Đó là vui mừng tựa như yêu, buồn phiền tựa như ghét, Đức Phật đối với yêu-ghét đều đã khéo đoạn, cho nên không có buồn phiền-vui mừng.

Lại có người nói: Đức Phật đã khéo tu pháp Không làm căn bản mà dấy lên nghĩ rằng: Ai là người cung kính, ai là người không cung kính, chỉ là tập hợp của hành trống rỗng? Vì thế đối với chúng hội không sinh lòng buồn phiền-vui mừng.

Như trong kinh nói: “Có một đạo hướng về, có thể làm cho hữu tình thanh tịnh, đó là bốn Niệm trú…”

Hỏi: Vì sao gọi là một đạo hướng về, là bởi vì có thể vượt lên trên một cõi cho nên gọi là một đạo hướng về, là bởi vì có thể vượt lên trên một nẽo cho nên gọi là một đạo hướng về, là bởi vì có thể vượt lên trên một sinh loại cho nên gọi là một đạo hướng về, là bởi vì có thể thông đạt một Đế cho nên gọi là một đạo hướng về, là bởi vì có thể hướng đến một nơi cuối cùng cho nên gọi là một đạo hướng về, hay là bởi vì chỉ có một đạo cho nên gọi là một đạo hướng về? Giả sử như vậy thì có gì sai? Nếu bởi vì có thể vượt lên trên một cõi cho nên gọi là một đạo hướng về, thì không phải là một đạo hướng về, bởi vì có ba cõi? Nếu bởi vì có thể vượt lên trên một nẽo cho nên gọi là một đạo hướng về, thì cũng không phải là một đạo hướng về, bởi vì có năm nẽo? Nếu bởi vì có thể vượt lên trên một sinh loại cho nên gọi là một đạo hướng về, thì cũng không phải là một đạo hướng về, bởi vì có bốn sinh loại? Nếu bởi vì có thể thông đạt một Đế cho nên gọi là một đạo hướng về, thì cũng không phải là một đạo hướng về, bởi vì có bốn Đế? Nếu bởi vì có thể hướng đến một nơi cuối cùng cho nên gọi là một đạo hướng về, thì cũng không phải là một đạo hướng về, bởi vì nơi cuối cùng có hai loại, một là việc làm đến nơi cuối cùng, hai là công dụng đến nơi cuối cùng? Nếu bởi vì chỉ có một đạo cho nên gọi là một đạo hướng về, thì cũng không phải là một đạo hướng về, bởi vì đạo có nhiều loại, đó là đạo của Tùy tín hành, đạo của Tùy pháp hành, đạo của Tín thắng giải, đạo của Kiến chí, đạo của Thời giải thoát, đạo của Bất thời giải thoát? Vì sao nói là có một đạo hướng về?

Đáp: Tức là dựa vào duyên mà trước đây đã nói và duyên khác, cho nên gọi là một đạo hướng về.

Dựa vào duyên mà trước đây đã nói, nghĩa là bởi vì có thể vượt lên trên một cõi cho nên gọi là một đạo hướng về, tức là cõi Vô sắc; bởi vì vượt lên trên cõi này, cho nên không còn sinh vào ba cõi. Cũng bởi vì có thể vượt lên trên một nẽo cho nên gọi là một đạo hướng về, tức là nẽo Trời; bởi vì vượt lên trên nẽo này, cho nên không còn đi đến năm nẽo. Cũng bởi vì có thể vượt lên trên một sinh loại cho nên gọi là một đạo hướng về, tức là Hóa sinh; bởi vì vượt lên trên sinh loại này, cho nên không còn nhận chịu bốn sinh loại. Cũng bởi vì có thể thông đạt một Đế cho nên gọi là một đạo hướng về, tức là Đạo đế; bởi vì Đế này từ vô thỉ cho đến ngày nay chưa từng đạt được, và bởi vì chưa từng thông đạt. Cũng bởi vì có thể hướng đến một nơi cuối cùng cho nên gọi là một đạo hướng về, tức là việc làm đến nơi cuối cùng; bởi vì tu tập công dụng đến nơi cuối cùng, đều là vì đạt được việc làm đến nơi cuối cùng. Cũng bởi vì chỉ có một đạo cho nên gọi là một đạo hướng về, tức là Thánh đạo.

Hỏi: Lẽ nào không phải là có đạo của Tùy tín hành cho đến đạo của Bất thời giải thoát, như vậy thì sẽ có nhiều đạo?

Đáp: Bởi vì tất cả đều là hướng đến hành diệt Khổ, cho nên gọi là một đạo. Như hướng đến hành diệt Khổ, như vậy hướng đến hành diệt quả báo, diệt thế gian, diệt sinh tử, diệt lưu chuyển, diệt sinh-già-bệnhchết cũng như vậy. Đó gọi là dựa vào duyên mà trước đây đã nói, cho nên gọi là một đạo hướng về.

Và dựa vào duyên khác, đó là bởi vì không có hướng về nơi khác, bởi vì không lui sụt trở lại, bởi vì đến giải thoát không lui sụt, bởi vì đến một nẽo rời xa năm nẽo, như nói Niết-bàn là nơi A-la-hán hướng đến. Bởi vì nghĩa như vậy, cho nên gọi là một đạo hướng về.

Lại có người nói: Bởi vì có thể đối trị với đạo khác, cho nên gọi là một đạo hướng về. Đó là các ngoại đạo, hoặc chấp không ăn là đạo, hoặc là chấp xoay chuyển theo mặt trời là đạo, hoặc chấp nằm trên tro-hít hơi gió-uống nước lã-ăn rau cỏ-ăn trái cây-thân hình lõa lồ-áo vải thô-nằm không bằng…, tất cả đều cho là đạo. Đức Phật vì đối trị với các ngoại đạo ấy, cho nên nói một đạo hướng về. Ý nghĩa này nói: Các loại đạo ấy đều không phải là đạo thật sự mà chỉ là đạo tà ác hư vọng, là đạo mà hạng người bất thiện đã luyện tập gần gũi, chứ không phải là đạo của các bậc Thiện sĩ đã luyện tập gần gũi. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đạo thật sự chỉ có một, đó là bốn Niệm trú.

Hoặc có người nói: Có thể hướng đến một cửa của cung điện giải thoát, cho nên gọi là một đạo hướng về. Trong này nên dẫn ra thí dụ trong kinh Ốt-để-ca đã nói, như kinh ấy nói: “Đức Phật bảo với Ốt-đểca: Như khu thành ở biên giới quốc gia, tường thành dày chắc đẩy lùi quân địch, lầu cao quan sát canh gác nghiêm ngặt, cửa lớn-cửa nhỏ thảy đều trang bị cẩn thận, chỉ có một cổng ra vào giao cho một người canh gác. Người ấy thông minh hiểu biết nhiều lại khéo léo luyện tập, người nào nên đi vào thì cho phép đi vào, người nào không nên đi vào thì ngăn lại. Người ấy luôn luôn đi tuần tra quanh khu thành xem xét, thậm chí không thấy nơi nào có thú vật qua lại, huống là có cổng nào khác ư? Này Ốt-để-ca nên biết, người gác cổng ấy tuy không biết hàng ngày có bao nhiêu hữu tình đi vào khu thành-đi ra khu thành, nhưng người ấy chắc chắn biết các hữu tình ra-vào đều đi qua cổng này chứ không từ cổng nào khác. Như vậy, Như Lai tuy không tác ý biết rõ bao nhiêu hữu tình đã nhập Niết-bàn, bao nhiêu hữu tình sẽ nhập Niết-bàn, nhưng mà chắc chắn biết các loại hữu tình đã nhập Niết-bàn-chưa nhập Niết-bàn, đều do đạo này chứ không dựa vào đạo nào khác.” Do đó, bởi vì có thể hướng đến một cửa của cung điện giải thoát, cho nên gọi là một đạo hướng về.

Hỏi: Chánh đoạn-Thần túc-Căn-Lực-Giác chi-Đạo chi đều là một đạo hướng về chăng? Nếu là một đạo hướng về, thì tại sao kinh ấy chỉ nói Niệm trú gọi là một đạo hướng về, chứ không nói đến pháp khác? Nếu không phải là một đạo hướng về, thì tại sao chỉ riêng Niệm trú là một đạo hướng về, chứ không phải là pháp khác?

Đáp: Nên nói những pháp ấy cũng là một đạo hướng về.

Hỏi: Nếu như vậy thì tại sao kinh ấy lại không nói đến?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Có người nói: Nếu nói đến Niệm trú thì nên biết là cũng đã nói đến Chánh đoạn…

Có người nói: Niệm trú là một hướng về cũng là đạo, Chánh đoạn… là một hướng về mà không phải là đạo, bởi vì không phải tất cả đều là Tuệ.

Có người nói: Niệm trú từ địa bắt đầu sự nghiệp cho đến Tận tríVô sinh trí đều có tác dụng luôn luôn thù thắng, Chánh đoạn… thì không như vậy.

Có người nói: Niệm trú có thể phân biệt về tự tướng-cọng tướng của các pháp, có thể kiến lập về tự tướng-cọng tướng của các pháp, có thể làm hại cái ngu về sự và cái ngu về sở duyên, ở trong các pháp chuyển đổi không tăng-giảm, Chánh đoạn… thì không như vậy.

Có người nói: Niệm trú như pháp có mắt có thể dẫn dắt những pháp phần Bồ-đề khác như mù hướng đến cung điện Niết-bàn mà không có hướng về nơi khác, như người mắt sáng dẫn dắt những người mù khiến cho đi theo con đường ngay thẳng chứ không đi vào con đường sai trái; Niệm trú cũng như vậy, vì thế cho nên kinh ấy chỉ nói Niệm trú gọi là một đạo hướng về mà không nói đến pháp nào khác.

Như trong kinh nói: “Có một đạo hướng về, có thể làm cho hữu tình thanh tịnh, vượt lên diệt hết buồn khổ, cho đến có thể chứng được pháp thuận theo Chánh lý, đó là Thánh Chánh Tam-ma-địa và nhân duyên của pháp ấy, những vật dụng của pháp ấy.”

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn có lúc nói Bát-nhã là một đạo hướng về, có lúc nói Đẳng trì là một đạo hướng về?

Đáp: Bởi vì tùy theo hữu tình đã được hóa độ, có điều gì chưa đầy đủ mà nói. Nghĩa là hữu tình đã được hóa độ, hoặc có người thiếu về Xa-ma-tha, hoặc có người thiếu về Tỳ-bát-xá-na. Nếu người thiếu về Xa-ma-tha thì vì họ nói Đẳng trì là một đạo hướng về, nếu người thiếu về Tỳ-bát-xá-na thì vì họ nói Bát-nhã là một đạo hướng về. Bát-nhã tức là Niệm trú đã nói trước đây, bởi vì Niệm trú lấy Tuệ làm tánh.

Như trong kinh nói: “Nếu có người có thể biện giải về bốn Niệm trú thì có thể biện giải về Chánh như lý, nếu có thể biện giải về Chánh như lý thì có thể biện giải về Thánh đạo, nếu có thể biện giải về Thánh đạo thì có thể biện giải về Cam lộ, nếu có thể biện giải về Cam lộ thì có thể thoát khỏi các pháp bức bách phiền muộn như sinh-già-bệnh-chếtsầu than-buồn khổ.”

Hỏi: Niệm trú-Chánh như lý-Thánh đạo-Cam lộ sai biệt thế nào?

Đáp: Tên gọi tức là sai biệt, đó là tên gọi Niệm trú cho đến tên gọi Cam lộ.

Có người nói: Niệm trú tức là hiển bày về Niệm trú, Chánh như lý hiển bày về Chánh đoạn-Thần túc-Căn-Lực-Giác chi, Thánh đạo hiển bày về Đạo chi, Cam lộ hiển bày về quả của pháp ấy.

Có người nói: Niệm trú hiển bày về Niệm trú thuộc sở duyên, Chánh như lý hiển bày về Niệm trú xen tạp nhau, Thánh đạo hiển bày về Niệm trú thuộc tự tánh, Cam lộ hiển bày về quả của pháp ấy.

Có người nói: Niệm trú hiển bày về Niệm trú do Văn mà thành, Chánh như lý hiển bày về Niệm trú do Tư mà thành, Thánh đạo hiển bày về Niệm trú do Tu mà thành, Cam lộ hiển bày về quả của pháp ấy.

Có người nói: Niệm trú hiển bày về Niệm trú thuộc ngôn thuyết cứu cánh, Chánh như lý hiển bày về Niệm trú thuộc tư duy cứu cánh, Thánh đạo hiển bày về Niệm trú thuộc xuất ly cứu cánh, Cam lộ hiển bày về quả của pháp ấy.

Có người nói: Niệm trú hiển bày về Kiến đạo, Chánh như lý hiển bày về Tu đạo, Thánh đạo hiển bày về đạo Vô học, Kiến địa-Tu địa-địa Vô học nói cũng như vậy, Cam lộ hiển bày về quả của pháp ấy.

Có người nói: Niệm trú hiển bày về Vị tri đương căn, Chánh như lý hiển bày về Dĩ tri căn, Thánh đạo hiển bày về Cụ tri căn, Cam lộ hiển bày về quả của pháp ấy.

Đó gọi là sự sai biệt của Niệm trú-Chánh như lý-Thánh đạo-Cam lộ.

Nếu tu Thân niệm trú thì lúc ấy tu Thọ niệm trú chăng? Cho đến nói rộng ra.

Tu có bốn loại, đó là tu đạt được-tu luyện tập-tu đối trị-tu loại bỏ. Tu đạt được-tu luyện tập, đó là tất cả pháp thiện hữu vi; tu đối trị-tu loại bỏ, đó là tất cả pháp hữu lậu.

Các Sư phương Tây nói: “Tu có sáu loại, đó là bốn loại trước và tu phòng hộ-tu phân biệt. Tu phòng hộ, đó là tu về Căn, như nói: Sáu căn như vậy khéo điều phục-khéo bảo vệ-khéo giữ gìn-khéo ngăn ngừa thì có thể cảm đến dị thục Lạc thọ ở tương lai. Tu phân biệt, đó là tu về Thân, như nói: Thân này là tóc-lông-răng-móng…”

Các Sư nước Ca-thấp-di-la nói: “Hai loại tu sau này tức là thuộc về tu đối trị-loại bỏ ở trước.”

Nghĩa về bốn loại tu nói rộng ra như chương Trí Uẩn…

Trong này, dựa vào hai loại tu mà soạn luận, đó là tu đạt được-tu luyện tập. Dựa vào hai loại tu này, ở trong các phần vị tu về Niệm trú có sai biệt. Đó là trong phần vị Noãn ban đầu duyên với ba Đế, Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu bốn hành tướng, tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần; duyên với Diệt đế, Pháp niệm trú là tu hiện tại, ngay loại này tu ở vị lai, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu bốn hành tướng, cũng tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần, bởi vì không phải là ban đầu quán về uẩn diệt đi mà có thể tu về đạo duyên với uẩn. Phần vị Noãn tăng trưởng duyên với ba Đế, bốn Niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, tu đồng phần và không đồng phần, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu mười sáu hành tướng; duyên với Diệt đế, Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu mười sáu hành tướng.

Hỏi: Vì sao Noãn ban đầu chỉ tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần, Noãn tăng trưởng thì tu đồng phần và không đồng phần?

Đáp: Noãn ban đầu là chủng tánh chưa từng đạt được, ban đầu duyên với Đế khởi lên hành tướng, bởi vì thế lực yếu kém cho nên chỉ tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần; Noãn tăng trưởng là chủng tánh đã từng đạt được, đã duyên với Đế khởi lên hành tướng, bởi vì thế lực mạnh mẽ cho nên có thể tu đồng phần và không đồng phần.

Trong phần vị Đảnh ban đầu duyên với bốn Đế, Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, tu đồng phần và không đồng phần, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu mười sáu hành tướng. Phần vị Đảnh tăng trưởng duyên với ba Đế, bốn Niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, tu đồng phần và không đồng phần, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu mười sáu hành tướng; duyên với Diệt đế, Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu mười sáu hành tướng.

Phần vị Nhẫn ban đầu và tăng trưởng đều duyên với bốn Đế, Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, tu đồng phần và không đồng phần, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu mười sáu hành tướng.

Hỏi: Vì sao phần vị Nhẫn ban đầu và tăng trưởng đều chỉ có Pháp niệm trú là tu hiện tại?

Đáp: Bởi vì Nhẫn gần với Kiến đạo cho nên tương tự với Kiến đạo, như trong Kiến đạo chỉ có Pháp niệm trú là tu hiện tại, Nhẫn cũng như vậy.

Tôn giả Diệu Âm nói rằng: “Căn thiện thuận phần quyết trạch, hai loại ở cõi Dục đó là Noãn-Đảnh, hai loại ở cõi Sắc đó là Nhẫn-Thế đệ nhất pháp.”

Nếu dựa vào cách nói ấy thì Nhẫn ban đầu duyên với ba Đế, Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, một hành tướng tu ở hiện tại, vị lai tu bốn hành tướng, tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần; duyên với Diệt đế, Pháp niệm trú là tu hiện tại, ngay loại này tu ở vị lai, bởi vì không phải là ban đầu quán về uẩn diệt đi mà có thể tu về đạo duyên với uẩn, cho nên một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu bốn hành tướng, tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần. Phần vị Nhẫn tăng trưởng duyên với ba Đế, bốn Niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, tu đồng phần và không đồng phần, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu mười sáu hành tướng; duyên với Diệt đế, Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu mười sáu hành tướng.

Hỏi: Vì sao Nhẫn ban đầu chỉ tu đồng phần, Nhẫn tăng trưởng cũng tu không đồng phần?

Đáp: Nói rộng ra như trước.

Lời bình: Cách nói trước là hợp lý. Nhưng căn thiện thuận phần quyết trạch, bởi vì thuận với Kiến đạo, cho nên trong phần vị ban đầu khởi lên, hiện tại đều chỉ tu về Pháp niệm trú; ở phần vị tăng trưởng có bốn Niệm trú tùy theo một loại hiện rõ trước mắt. Từ phần vị Nhẫn ban đầu bởi vì gần với Kiến đạo, cho nên ở tất cả mọi lúc thì hiện tại chỉ tu về Pháp niệm trú. Phần vị Thế đệ nhất pháp cũng chỉ là Pháp niệm trú tu ở hiện tại, vị lai tu bốn loại, một hành tướng tu ở hiện tại, vị lai tu bốn hành tướng, tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần.

Hỏi: Thế đệ nhất pháp cũng là chủng tánh đã từng đạt được, đã duyên với Đế khởi lên hành tướng, vì sao chỉ tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần?

Đáp: Thế đệ nhất pháp là căn thiện rất gần gũi với Kiến đạo, rất tương tự với Kiến đạo, như trong Kiến đạo chỉ có tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần, Thế đệ nhất pháp cũng như vậy.

Có người nói: Bởi vì Thế đệ nhất pháp là căn thiện đi trước Kiến đạo, thuộc về tu đối trị, cho nên như Kiến đạo chỉ có tu đồng phần.

Có người nói: Thế đệ nhất pháp chỉ có bấy nhiêu hành tướng có thể tu, như người trần truồng không có áo quần có thể làm mất đi, nên biết Nhẫn tăng thượng cũng như vậy. Trong phần vị Nhẫn còn lại tùy theo sở duyên giảm bớt, thì không tu về hành tướng của Niệm trú ấy, như thích hợp nên biết!

 

*******

Nếu tiến vào Chánh tánh ly sinh, Hiện quán về Khổ-Tập đều trong bốn tâm, Hiện quán về Đạo trong ba tâm, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, một hành tướng tu ở hiện tại, vị lai tu bốn hành tướng, tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần; Hiện quán về Diệt trong bốn tâm, Pháp niệm trú là tu hiện tại, ngay loại này tu ở vị lai, không phải là ban đầu quán về uẩn vô lậu diệt đi mà có thể tu về đạo duyên với uẩn, cho nên một hành tướng là tu hiện tại, vị lai tu bốn hành tướng, tu đồng phần chứ không phải là không đồng phần, bởi vì ban đầu đạt được chủng tánh vô lậu, cho nên thế lực chưa mở rộng.

Đạo loại trí thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại, tu đồng phần và không đồng phần, một hành tướng tu ở hiện tại, vị lai tu mười sáu hành tướng, bởi vì đã đạt được chủng tánh vô lậu, cho nên thế lực mở rộng hơn. Từ đây trở lên tất cả Thánh giả lúc khởi lên căn thiện chưa từng đạt được hiện rõ ở trước mắt, thì vị lai đều tu mười sáu hành tướng của bốn Niệm trú, chỉ trừ ra Tuệ do Văn-Tư mà thành, và lúc tâm Vi vi tiến vào Định Diệt tận, còn lại tất cả dị sinh cũng không có hành tướng Thánh. Vì thế cho nên từ đây về sau chỉ nói đến tu Niệm trú nhiều ít chứ không nói đén hành tướng.

Nếu các dị sinh lúc lìa nhiễm của cõi Dục là đạo gia hạnh, thì bốn Niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại; lúc chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại.

Như lìa nhiễm của cõi Dục, cho đến lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ ba cũng như vậy.

Lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ tư, nếu vẫn dùng Tĩnh lự thứ tư làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh, bốn Niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại.

Nếu dùng Cận phần của Không vô biên xứ làm gia hạnh:

Có những người muốn làm cho địa Cận phần ấy có duyên riêng biệt, thì lúc ấy là đạo gia hạnh, bốn Niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại; lúc chín đạo vô gián-tám đạo giải thoát, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại; lúc đạo giải thoát thứ chín, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu ba loại, trừ ra Thân niệm trú.

Có những người muốn làm cho địa Cận phần ấy chỉ là duyên tổng quát, thì lúc ấy là đạo gia hạnh-chín đạo vô gián-tám đạo giải thoát, Pháp niệm trú là tu hiện tại, ngay loại này tu ở vị lai; lúc đạo giải thoát thứ chín, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu ba loại, trừ ra Thân niệm trú.

Như lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ tư, cho đến lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ cũng như vậy. Sai biệt là trừ ra Thân niệm trú.

Ngay các dị sinh khởi lên quán Bất tịnh-Trì tức niệm-Thân niệm trú, ba Giải thoát đầu-tám Thắng xứ-tám Biến xứ trước, và lúc dẫn dắt phát khởi Thần cảnh-Thiên nhãn-Thiên nhĩ thông, Thân niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại; khởi lên ba Niệm trú sau, tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại. Lúc khởi lên bốn Vô lượng, dẫn dắt phát khởi Túc trú tùy niệm thông, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại. Lúc dẫn dắt phát khởi Tha tâm thông, thì Tâm niệm trú hoặc là Thọ-Tâm-Pháp niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại.

Nếu lúc khởi lên Vô sắc-Giải thoát và ba Niệm trú sau, thì ba Niệm trú sau tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu ba loại, trừ ra Thân niệm trú.

Nếu lúc khởi lên Biến xứ của Không vô biên xứ-Thức vô biên xứ, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu ba loại, trừ ra Thân niệm trú.

Đó gọi là sự tu tập sai biệt ở phần vị dị sinh.

Nếu các Thánh giả lúc lìa nhiễm của cõi Dục cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì tất cả là đạo gia hạnh, bốn Niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại; lúc tất cả là đạo vô giángiải thoát, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại.

Tín thắng giải luyện căn làm Kiến chí, Thời giải thoát luyện căn làm Bất động, lúc tất cả là đạo gia hạnh, bốn Niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại; lúc tất cả là đạo vô gián-giải thoát, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại.

Nếu các Thánh giả khởi lên quán Bất tịnh-Trì tức niệm-Thân

niệm trú, ba Giải thoát đầu-tám Thắng xứ-tám Biến xứ trước, và lúc dẫn dắt phát khởi Thần cảnh-Thiên nhãn-Thiên nhĩ thông, và lúc khởi lên Từ vô ngại giải, thì Thân niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại.

Nếu tu xen lẫn Tĩnh lự, và có nhũng người muốn làm cho tất cả pháp đều là Thắng nghĩa, lúc khởi lên Nghĩa vô ngại giải-Biện vô ngại giải, Nguyện trí-Định Biên tế, Vô sắc-Giải thoát, tiến vào Định Diệt tận, Tưởng-Tâm vi tế, thì bốn Niệm trú tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại.

Nếu khởi lên bốn Vô lượng-Túc trú tùy niệm thông, và có những người muốn làm cho chỉ riêng Niết-bàn là Thắng nghĩa, lúc khởi lên Nghĩa vô ngại giải-Pháp vô ngại giải, Vô tranh-hai Biến xứ sau, Không Không, Vô nguyện Vô nguyện, Vô tướng Vô tướng, thì Pháp niệm trú là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại.

Nếu lúc dẫn dắt phát khởi Tha tâm thông, thì Tâm niệm trú hoặc là Thọ-Tâm-Pháp niệm trú, và lúc khởi lên ba Niệm trú sau, tùy theo một loại là tu hiện tại, vị lai tu bốn loại.

Đây gọi là Tỳ-bà-sa tóm lược ở nơi này.

Hỏi: Nếu tu Thân niệm trú thì lúc ấy tu Thọ niệm trú chăng, giả sử tu Thọ niệm trú thì lúc ấy tu Thân niệm trú chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:

1. Có lúc tu Thân niệm trú mà không phải là Thọ niệm trú, đó là đã đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, bởi vì lúc pháp đã từng đạt được hiện rõ ở trước mắt, không có năng lực và thuộc vị lai, cho nên không tu Thọ niệm trú. Nhưng hiện rõ trước mắt là tu luyện tập, cho nên nói là tu Thân niệm trú.

Hỏi: Cũng có lúc chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt mà không tu Thọ niệm trú, như lúc chưa từng đạt được Thân niệm trú do Văn-Tư mà thành hiện rõ ở trước mắt, vì sao trong này không nói đến?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Có người nói: Trong này dựa vào Niệm trú do Tu mà thành để soạn luận, không có lúc nào chưa đạt được Thân niệm trú do Tu mà thành hiện rõ ở trước mắt nhưng không tu Thọ niệm trú, vì thế cho nên không nói đến.

2. Có lúc tu Thọ niệm trú mà không phải là Thân niệm trú, đó là đã đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu chưa đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân niệm trú, nếu chưa đạt được Tâm-Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ niệm trú chứ không phải là Thân niệm trú.

Đã đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt, giải thích như trước.

Chưa đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân niệm trú, đó là các dị sinh lìa nhiễm của Không vô biên xứ nhiễm của Vô sở hữu xứ, nếu dùng Thọ niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu các dị sinh lúc khởi lên Thọ niệm trú, Vô sắc-Giải thoát.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân niệm trú.

Chưa đạt được Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ niệm trú chứ không phải là Thân niệm trú, đó là các dị sinh lìa nhiễm của Không vô biên xứ cho đến nhiễm của Vô sở hữu xứ, nếu dùng Tâm niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu các dị sinh lúc khởi lên Tâm niệm trú, Vô sắc-Giải thoát.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ niệm trú chứ không phải là Thân niệm trú.

Chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ niệm trú chứ không phải là Thân niệm trú, đó là các dị sinh lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ tư, lúc ấy là đạo giải thoát cuối cùng. Lìa nhiễm của Không vô biên xứ cho đến nhiễm của Vô sở hữu xứ, nếu dựa vào địa Căn bản dưới, khởi lên Pháp niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu dựa vào địa Cận phần trên làm gia hạnh: Có những người muốn làm cho Cận phần của Vô sắc có duyên riêng biệt, nếu dùng Pháp niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh-chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát. Có những người muốn làm cho Cận phần của Vô sắc chỉ là duyên tổng quát, thì lúc ấy chỉ là đạo giải thoát thứ chín.

Nếu các dị sinh lúc khởi lên Pháp niệm trú, Vô sắc-Giải thoát, và lúc khởi lên hai Biến xứ sau.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ niệm trú chứ không phải là Thân niệm trú.

3. Có lúc tu cả hai loại, đó là chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu chưa đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân niệm trú, nếu chưa đạt được Tâm-Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Thọ niệm trú.

Chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, đó là phần vị Noãn-Đảnh tăng trưởng, Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu lìa nhiễm của cõi Dục cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thân niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu Tín thắng giải luyện căn làm Kiến chí, Thời giải thoát luyện căn làm Bất động, Thân niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu lúc khởi lên quán Bất tịnh-Trì tức niệm-Thân niệm trú, ba Giải thoát đầu-tám Thắng xứ-tám Biến xứ trước, dẫn dắt phát khởi Thần cảnh-Thiên nhãn-Thiên nhĩ thông, khởi lên Từ vô ngại giải.

Nếu lúc dùng Thân niệm trú tu xen lẫn Tĩnh lự: Có những người muốn làm cho tất cả pháp là Thắng nghĩa, thì lúc ấy khởi lên Thân niệm trú-Nghĩa vô ngại giải, và Thân niệm trú-Biện vô ngại giải, Nguyện tríĐịnh Biên tế, Vô sắc-Giải thoát, tiến vào Định Diệt tận, Tưởng-Tâm vi tế.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Thọ niệm trú.

Chưa đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân niệm trú, đó là phần vị Noãn-Đảnh tăng trưởng, lúc Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu lìa nhiễm của cõi Dục cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thọ niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu Tín thắng giải luyện căn làm Kiến chí, Thời giải thoát luyện căn làm Bất động, Thọ niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu lúc dẫn dắt phát khởi Tha tâm thông, Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt.

Nếu lúc dùng Thọ niệm trú tu xen lẫn Tĩnh lự: Có những người muốn làm cho tất cả pháp là Thắng nghĩa, thì lúc ấy khởi lên Thọ niệm trú-Nghĩa vô ngại giải, và Thọ niệm trú-Biện vô ngại giải, Nguyện tríĐịnh Biên tế, Vô sắc-Giải thoát, tiến vào Định Diệt tận, Tưởng-Tâm vi tế.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Thọ niệm trú.

Chưa đạt được Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Thọ niệm trú, đó là phần vị Noãn-Đảnh tăng trưởng, lúc Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu lìa nhiễm của cõi Dục cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Tâm niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu Tín thắng giải luyện căn làm Kiến chí, Thời giải thoát luyện căn làm Bất động, Tâm niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu lúc dẫn dắt phát khởi Tha tâm thông, Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt.

Nếu lúc dùng Tâm niệm trú tu xen lẫn Tĩnh lự: Có những người muốn làm cho tất cả pháp là Thắng nghĩa, thì lúc ấy khởi lên Tâm niệm trú-Nghĩa vô ngại giải, và Tâm niệm trú-Biện vô ngại giải, Nguyện tríĐịnh Biên tế, Vô sắc-Giải thoát, tiến vào Định Diệt tận, Tưởng-Tâm vi tế.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Thọ niệm trú.

Chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Thọ niệm trú, đó là phần vị Noãn ban đầu duyên với ba Đế, phần vị Noãn tăng trưởng duyên với bốn Đế, lúc Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt.

Nếu phần vị Đảnh ban đầu và tăng trưởng duyên với bốn Đế, lúc Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt.

Nếu lúc tất cả Nhẫn và Thế đệ nhất pháp.

Nếu tiến vào Chánh tánh ly sinh, Hiện quán về Khổ-Tập đều trong bốn tâm.

Nếu lìa nhiễm của cõi Dục cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Pháp niệm trú làm gia hạnh, lúc ấy là tất cả đạo gia hạnh-vô gián-giải thoát.

Nếu Tín thắng giải luyện căn làm Kiến chí, Thời giải thoát luyện căn làm Bất động, Pháp niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là tất cả đạo gia hạnh-vô gián-giải thoát.

Nếu dẫn dắt phát khởi Tha tâm thông, Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt, và dẫn dắt phát khởi Túc trú tùy niệm thông. Lúc khởi lên bốn Vô lượng.

Nếu lúc dùng Pháp niệm trú tu xen lẫn Tĩnh lự: Có những người muốn làm cho tất cả pháp là Thắng nghĩa, thì lúc ấy khởi lên Pháp niệm trú-Nghĩa vô ngại giải. Có những người muốn làm cho chỉ riêng Niếtbàn là Tháng nghĩa, thì lúc ấy khởi lên Nghĩa vô ngại giải-Pháp vô ngại giải, Vô tranh-hai Biến xứ sau, Không Không, Vô nguyện Vô nguyện, Vô tướng Vô tướng.

Nếu lúc khởi lên Pháp niệm trú-Biện vô ngại giải, Nguyện tríĐịnh Biên tế, Vô sắc-Giải thoát, tiến vào Định Diệt tận, Tưởng-Tâm vi tế.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Thọ niệm trú.

4. Có lúc không tu cả hai loại, đó là đã đạt được Tâm-Pháp niệm

trú hiện rõ ở trước mắt, nếu chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân-Thọ niệm trú, tất cả tâm nhiễm ô-tâm vô ký, ở Định Vô tưởng-Định Diệt tận, sinh ở cõi trời Vô Tưởng.

Đã đạt được Tâm-Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt, giải thích như trước.

Chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân-Thọ niệm trú, đó là phần vị Noãn ban đầu duyên với Diệt đế.

Nếu tiến vào Chánh tánh ly sinh, Hiện quán về Diệt trong bốn tâm.

Nếu các dị sinh lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ tư cho đến nhiễm của Vô sở hữu xứ: Có những người muốn làm cho Cận phần của Vô sắc chỉ là duyên tổng quát, nếu Cận phần của địa trên làm gia hạnh, thì lúc ấy là tất cả đạo gia hạnh-chín đạo vô gián-tám đạo giải thoát.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân-Thọ niệm trú.

Tất cả tâm nhiễm ô, đó là bởi vì tất cả tâm nhiễm ô đều là tánh thuận phần lui sụt tương ưng với nặng nề lười nhác, phải là tánh thuận phần thắng tiến tương ưng với tâm nhẹ nhàng tinh tiến thì mới có thể tu được.

Tâm vô ký, đó là bởi vì tâm vô ký thì tánh yếu kém-mục ruỗngkhô héo, cần phải trú trong tâm mạnh mẽ-vững chắc-thù thắng thì mới có thể tu được.

Ở Định Vô tưởng-Định Diệt tận, đó là những phần vị không có tâm, cần phải ở phần vị có tâm thì mới có thể tu được.

Sinh ở cõi trời Vô Tưởng, có người nói: Sinh đến cõi trời ấy thì căn thiện không khởi lên ở tất cả mọi lúc.

Có người nói: Tuy khởi lên mà không phải là nơi nương tựa của tu, bởi vì không có thể tu pháp thuộc vị lai.

Những lúc như vậy, không tu Thân-Thọ niệm trú.

Hỏi: Cũng có lúc chưa đạt được Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt mà không tu Thân-Thọ niệm trú, như lúc chưa từng đạt được Tâm niệm trú do Văn-Tư mà thành hiện rõ ở trước mắt, vì sao trong này không nói đến?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Có người nói: Trong này nói lúc Tâm niệm trú chưa từng đạt được hiện rõ ở trước mắt, có thể tu vị lai mà không tu Thân-Thọ niệm trú, là bởi vì không có lúc nào Tâm niệm trú chưa từng đạt được hiện rõ ở trước mắt, có thể tu vị lai mà không tu Thân-Thọ niệm trú, vì thế cho nên không nói đến.

Hỏi: Nếu như vậy thì cũng nên nói tất cả tâm thiện phân tán, vì sao chỉ nói đến tâm nhiễm ô và tâm vô ký?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến, thì nên biết là nghĩa này có khác.

Có người nói: Điều ấy không quyết định, khó mà nói phù hợp với tác dụng. Nghĩa là nếu bởi vì tu mà nói thì pháp ấy không có sức lực có thể tu vị lai, nếu bởi vì không tu mà nói thì lúc hiện rõ trước mắt là thuộc về tu luyện tập. Vì thế cho nên ở trong này đều không nói đến tu-không tu.

Như Thân niệm trú-Thọ niệm trú, nên biết Thân niệm trú-Tâm niệm trú cũng như vậy, bởi vì Thọ niệm trú-Tâm niệm trú ở vị lai thì tu-không tu nhất định phải đi cùng.

Hỏi: Nếu tu Thân niệm trú thì lúc ấy tu Pháp niệm trú chăng, giả sử tu Pháp niệm trú thì lúc ấy tu Thân niệm trú chăng? Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:

1. Có lúc tu Thân niệm trú mà không phải là Pháp niệm trú, đó là đã đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, câu này giải thích như trước.

2. Có lúc tu Pháp niệm trú mà không phải là Thân niệm trú, đó là đã đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân niệm trú, nếu chưa đạt được Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Pháp niệm trú chứ không phải là Thân niệm trú.

Đã đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt, giải thích như trước.

Chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân niệm trú, đó là phần vị Noãn ban đầu duyên với Diệt đế.

Nếu tiến vào Chánh tánh ly sinh, Hiện quán về Diệt trong bốn tâm.

Nếu các dị sinh lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ tư: Có những người muốn làm cho Cận phần của Không vô biên xứ chỉ là duyên tổng quát, nếu dùng địa ấy làm gia hạnh, thì lúc ấy là tất cả đạo gia hạnh-chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát.

Nếu các dị sinh lìa nhiễm của Không vô biên xứ cho đến nhiễm của Vô sở hữu xứ, dùng Pháp niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là tất cả đạo gia hạnh-vô gián-giải thoát.

Nếu các dị sinh lúc khởi lên Pháp niệm trú, Vô sắc-Giải thoát, và lúc khởi lên hai Biến xứ sau.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân niệm trú.

Chưa đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Pháp niệm trú chứ không phải là Thân niệm trú, nói như phần chưa đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thân niệm trú ở trước.

Chưa đạt được Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Pháp niệm trú chứ không phải là Thân niệm trú, tức là nói như phần Thọ niệm trú.

3. Có lúc tu cả hai loại, đó là chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân niệm trú, nếu chưa đạt được Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Pháp niệm trú.

Chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nói như phần chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ-Tâm niệm trú ở trước đây.

Chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân niệm trú, nói như phần chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Thọ niệm trú ở trước đây.

Chưa đạt được Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu ThânPháp niệm trú, đó là phần vị Noãn-Đảnh tăng trưởng, lúc Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu lìa nhiễm của cõi Dục cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thọ-Tâm niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu Tín thắng giải luyện căn làm Kiến chí, Thời giải thoát luyện căn làm Bất động, Thọ-Tâm niệm trú làm gia hạnh, thì lúc ấy là đạo gia hạnh.

Nếu lúc dẫn dắt phát khởi Tha tâm thông, Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt.

Nếu lúc dùng Thọ-Tâm niệm trú tu xen lẫn Tĩnh lự: Có những người muốn làm cho tất cả pháp là Thắng nghĩa, thì lúc ấy khởi lên Thọ-Tâm niệm trú-Nghĩa vô ngại giải, và Thọ-Tâm niệm trú-Biện vô ngại giải, Nguyện trí-Định Biên tế, Vô sắc-Giải thoát, tiến vào Định Diệt tận, Tưởng-Tâm vi tế.

Những lúc như vậy, chưa đạt được Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thân-Pháp niệm trú.

4. Có lúc không tu cả hai loại, đó là đã đạt được Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, tất cả tâm nhiễm ô-tâm vô ký, ở Định Vô tưởngĐịnh Diệt tận, sinh ở cõi trời Vô Tưởng, đều giải thích như trước.

Hỏi: Nếu tu Thọ niệm trú thì lúc ấy tu Tâm niệm trú chăng, giả sử tu Tâm niệm trú thì lúc ấy tu Thọ niệm trú chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:

1. Có lúc tu Thọ niệm trú mà không phải là Tâm niệm trú, đó là đã đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt. Giải thích như trước.

2. Có lúc tu Tâm niệm trú mà không phải là Thọ niệm trú, đó là đã đạt được Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt. Giải thích như trước.

3. Có lúc tu cả hai loại, đó là chưa đạt được Thân-Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ-Tâm niệm trú.

Chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nói như các phần chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, trước đây.

Chưa đạt được Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nói như các phần chưa đạt được Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, trước đây.

Chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ-Tâm niệm trú, nói như các phần chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu niệm trú khác, trước đây.

4. Có lúc không tu cả hai loại, đó là đã đạt được Thân-Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thọ-Tâm niệm trú, tất cả tâm nhiễm ô-tâm vô ký, ở Định Vô tưởng-Định Diệt tận, sinh ở cõi trời Vô Tưởng.

Chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thọ-Tâm niệm trú, nói như các phần chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu niệm trú khác, trước đây. Còn lại giải thích như trước.

Hỏi: Nếu tu Thọ niệm trú thì lúc ấy tu Pháp niệm trú chăng, giả sử tu Pháp niệm trú thì lúc ấy tu Thọ niệm trú chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:

1. Có lúc tu Thọ niệm trú mà không phải là Pháp niệm trú, đó là đã đạt được Thọ niệm trú hiện rõ ở trước mắt. Câu này giải thích như trước.

2. Có lúc tu Pháp niệm trú mà không phải là Thọ niệm trú, đó là đã đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thọ niệm trú.

Đã đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt, giải thích như trước.

Chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu Thọ niệm trú, nói như các phần chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì không tu niệm trú khác, trước đây.

3. Có lúc tu cả hai loại, đó là chưa đạt được Thân-Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nếu chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ niệm trú.

Chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nói như các phần chưa đạt được Thân niệm trú hiện rõ ở trước mắt, trước đây.

Chưa đạt được Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, nói như các phần chưa đạt được Thọ-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, trước đây.

Chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu Thọ niệm trú, nói như các phần chưa đạt được Pháp niệm trú hiện rõ ở trước mắt thì tu niệm trú khác, trước đây.

4. Có lúc không tu cả hai loại, đó là đã đạt được Thân-Tâm niệm trú hiện rõ ở trước mắt, tất cả tâm nhiễm ô-tâm vô ký, ở Định Vô tưởngĐịnh Diệt tận, sinh ở cõi trời Vô Tưởng, đều giải thích như trước.

Như Thọ niệm trú-Pháp niệm trú, nên biết Tâm niệm trú-Pháp niệm trú cũng như vậy, bởi vì Thọ niệm trú-Tâm niệm trú ở vị lai thì tu-không tu nhất định phải đi cùng.

Đối với Thân thuận theo Thân quán sát, thì Niệm trú nên nói là Pháp trí, cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Văn này lẽ ra phải nói trước phần tu. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì có tự tánh thì mới có thể tu, mà không nói đến trước là có ý gì?

Đáp: A-tỳ-đạt-ma nên dùng tướng để tìm hiểu chứ không dùng thứ tự, bởi vì A-tỳ-đạt-ma chính là muốn phân biệt về tánh tướng của các pháp nhưng không trái với nghĩa của nó, nếu nói trước hay sau thì cũng không có sai lầm.

Có Sư khác nói: Bởi vì muốn hiển bày trong này chỉ phân biệt về Niệm trú do Tu mà thành chứ không phải là Niệm trú do Văn-Tư mà thành, cho nên trước nói đến tu-sau trình bày về tự tánh.

Đối với Thân thuận theo Thân quán sát thì Niệm trú nên nói là Pháp trí, đó là nhận biết hệ thuộc cõi Dục và một phần Sắc vô lậu.

Nên nói là Loại trí, đó là nhận biết hệ thuộc cõi Sắc và một phần Sắc vô lậu.

Không nên nói là Tha tâm trí, bởi vì Tha tâm trí nhận biết tâmtâm sở pháp, mà Thân niệm trú chỉ nhận biết Sắc pháp.

Nên nói là Thế tục trí, đó là nhận biết tất cả các Sắc.

Nên nói là Khổ trí, đó là nhận biết Sắc hữu lậu làm hành tướng Vô thường-Khổ-Không-Vô ngã.

Nên nói là Tập trí, đó là nhận biết Sắc hữu lậu làm hành tướng Nhân-Tập-Sinh-Duyên.

Không nói là Diệt trí, bởi vì Diệt trí chỉ nhận biết về pháp Vô vi, mà Thân niệm trú nhận biết về pháp hữu vi.

Nên nói là Đạo trí, đó là nhận biết Sắc vô lậu làm hành tướng Đạo-Như-Hành-Xuất.

Trong này không nói đến Tận trí-Vô sinh trí, bởi vì chương này là Kiến Uẩn, chỉ nói đến các trí thuộc tánh Kiến, hai trí ấy không phải là tánh Kiến, vì thế cho nên không nói đến.

Hiển bày về Tự tánh rồi, nên hiển bày về Địa.

Nên nói là có Tầm-có Tứ, đó là dựa vào Vị chí-Tĩnh lự thứ nhất.

Nên nói là không có Tầm-chỉ có Tứ, đó là dựa vào Tĩnh lự trung gian.

Nên nói là không có Tầm-không có Tứ, đó là dựa vào ba Tĩnh lự trên và bốn Vô sắc.

Hiển bày về Địa rồi, nên hiển bày về Tương ưng.

Nên nói là tương ưng với Lạc căn, đó là dựa vào Tĩnh lự thứ ba.

Nên nói là tương ưng với Hỷ căn, đó là dựa vào Tĩnh lự thứ nhất và Tĩnh lự thứ hai.

Nên nói là tương ưng với Xả căn, đó là dựa vào Vị chí-Tĩnh lự trung gian-Tĩnh lự thứ tư và bốn Vô sắc.

Hiển bày về Tương ưng rồi, nên hiển bày về Hành tướng.

Nên nói là đi cùng với Tam-ma-địa Không, đó là hai hành tướng.

Nên nói là đi cùng với Tam-ma-địa Vô nguyện, đó là mười hành tướng.

Không nói đi cùng với Tam-ma-địa Vô tướng, nói như không nói đến Diệt trí.

Hiển bày về Hành tướng rồi, nên hiển bày về Sở duyên.

Nên nói là duyên với hệ thuộc cõi Dục-Sắc, đó là duyên với KhổTập.

Nên nói là duyên với không hệ thuộc, đó là duyên với Đạo.

Đối với Thọ thuận theo Thọ quán sát thì Niệm trú nên nói là Pháp trí, đó là nhận biết hệ thuộc cõi Dục và một phần Thọ vô lậu.

Nên nói là Loại trí, đó là nhận biết hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc và một phần Thọ vô lậu.

Nên nói là Tha tâm trí, đó là nhận biết hệ thuộc cõi Dục-Sắc và một phần Thọ vô lậu nối tiếp nhau nơi khác hiện rõ ở trước mắt.

Nên nói là Thế tục trí, đó là nhận biết tất cả các Thọ.

Nên nói là Khổ trí, đó là nhận biết Thọ hữu lậu làm bốn hành tướng Vô thường-Khổ-Không-Vô ngã.

Nên nói là Tập trí, đó là nhận biết Thọ hữu lậu làm hành tướng Nhân-Tập-Sinh-Duyên.

Không nói là Diệt trí, bởi vì Thọ niệm trú chỉ nhận biết về pháp hữu vi.

Nên nói là Đạo trí, đó là nhận biết Thọ vô lậu làm hành tướng Đạo-Như-Hành-Xuất.

Không nói đến trí khác, giải thích như trước.

Hiển bày về Tự tánh rồi, Địa-Tương ưng-Hành tướng đều nói như trước, nên hiển bày về Sở duyên.

Nên nói là duyên với hệ thuộc ba cõi, đó là duyên với Khổ-Tập.

Nên nói là duyên với không hệ thuộc, đó là duyên với Đạo.

Như đối với Thọ niệm trú, đối với Tâm niệm trú cũng như vậy, bởi vì Sở duyên của hai loại này thường tương ưng với nhau.

Đối với Pháp thuận theo Pháp quán sát thì Niệm trú nên nói là Pháp trí, đó là nhận biết các hành hệ thuộc cõi Dục và nhân của nó-diệt của nó-tất cả phẩm Pháp trí của nó.

Nên nói là Loại trí, đó là nhận biết các hành hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc và nhân của nó-diệt của nó-tất cả phẩm Loại trí của nó.

Nên nói là Tha tâm trí, nhận biết hệ thuộc cõi Dục-Sắc và một phần vô lậu nối tiếp nhau nơi khác hiện rõ ở trước mắt, trừ ra Thọ và Tâm, còn lại tâm sở pháp.

Nên nói là Thế tục trí, đó là nhận biết tất cả các pháp.

Nên nói là Khổ trí, đó là nhận biết năm Thủ uẩn làm hành tướng

Vô thường-Khổ-Không-Vô ngã.

Nên nói là Tập trí, đó là nhận biết nhân hữu lậu làm hành tướng Nhân-Tập-Sinh-Duyên.

Nên nói là Diệt trí, đó là nhận biết Trạch diệt làm bốn hành tướng Diệt-Tĩnh-Diệu-Ly.

Nên nói là Đạo trí, đó là nhận biết năm uẩn vô lậu làm hành tướng Đạo-Như-Hành-Xuất.

Không nói đến trí khác, cũng giải thích như trước.

Hiển bày về Tự tánh rồi, Địa-Tương ưng đều nói như trước, nên hiển bày về Hành tướng.

Nên nói là đi cùng với Tam-ma-địa Không và Vô nguyện, cũng giải thích như trước.

Nên nói là đi cùng với Tam-ma-địa Vô tướng, đó là bốn hành tướng.

Hiển bày về Hành tướng rồi, nên hiển bày về Sở duyên.

Nên nói là duyên với hệ thuộc ba cõi, đó là duyên với Khổ-Tập.

Nên nói là duyên với không hệ thuộc, đó là duyên với Diệt-Đạo.

Như nói lúc cảm thọ Lạc thọ, nhận biết như thật là mình cảm thọ Lạc thọ, đây là bốn trí. Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao trong này nhiều lần phân biệt về Thọ-Tâm-Pháp niệm trú, mà chỉ một lần phân biệt về Thân niệm trú?

Đáp: Bởi vì đó là ý của người soạn luận muốn như vậy, cho đến nói rộng ra.

Có người nói: Trong này Đức Thế Tôn cũng cần phải đưa ra cách nói này: Lúc ấy đi đứng… nhận biết như thật là mình đi đứng…, đây là bốn trí, cho đến nói rộng ra. Nhưng mà không nói là có ý gì? Trả lời rằng nếu pháp vi tế khó thấy-khó hiểu, không rõ ràng thì trở lại phân biệt; Thân niệm trú hiển bày thô thiển cho đến hiện thấy, cho nên không nói lại.

Có người nói: Nếu dựa vào pháp ấy khởi lên các loại không tương tự, văn cú khác nhau và trí khác nhau, thì trở lại phân biệt; Thân niệm trú nếu lúc phân biệt thì văn cú không khác nhau, trí cũng không khác nhau, cho nên không nói lại.

Hỏi: Lúc cảm thọ Lạc thọ thì không nhận biết như thật, lúc nhận biết như thật thì không cảm thọ Lạc thọ. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc cảm thọ Lạc thọ thì cảm thọ ấy ở hiện tại, không phải là lúc bấy giờ có thể nhận biết như thật, vì tương ưng với không nhận biết, vì không có hai phẩm tâm cùng đi với nhau. Lúc nhận biết như thật thì cảm thọ ấy ở quá khứ-vị lai, không phải là lúc bấy giờ gọi là cảm thọ Lạc thọ, bởi vì không có tác dụng. Khổ thọ và không khổ không lạc thọ, nói cũng như vậy. Vì sao Đức Phật nói lúc cảm thọ Lạc thọ, nhận biết như thật là mình cảm thọ Lạc thọ…?

Đáp: Có người nói: Trong này nên đưa ra cách nói này: Cảm thọ Lạc thọ rồi nhận biết như thật là mình đã cảm thọ Lạc thọ, cảm thọ Khổ thọ và không khổ không lạc thọ rồi nhận biết như thật là mình đã cảm thọ Khổ thọ và không khổ không lạc thọ. Nhưng mà không đưa ra cách nói này là có ý gì? Nên biết rằng trong này nói đã cảm thọ gọi là cảm thọ, đối với quá khứ mà nói theo thanh hiện tại; như nói Đại Vương từ phương nào đến, đây là nói đã đến gọi là đến. Lại như nói lúc Bồ-tát tiến vào Chánh tánh ly sinh đạt được Thế tục trí Hiện quán biên, đây là nói đã tiến vào gọi là tiến vào; điều ấy cũng như vậy.

Tôn giả Thế Hữu nói rằng: “Các cảm thọ lúc ở quá khứ-vị lai thì không có thể cảm thọ, lúc ở hiện tại chỉ do tự tánh mà chuyển cũng không có thể cảm thọ, vì sao nói là cảm thọ về Lạc-cảm thọ về Khổ? Nên biết rằng đó là quán sát về những khổ vui vốn có nối tiếp nhau mà nói, đó là quán sát về niềm vui vốn có nối tiếp nhau nói là mình cảm thọ niềm vui, quán sát về nỗi khổ vốn có nối tiếp nhau nói là mình cảm thọ nỗi khổ.

Lại nữa, lúc ấy quán sát về nhân duyên của niềm vui-nỗi khổ nối tiếp nhau mà nói, đó là quán sát về nhân duyên nối tiếp nhau thâu nhiếp tiếp nhận nói là mình cảm thọ niềm vui, quán sát về nhân duyên nối tiếp nhau làm cho tổn hại nói là mình cảm thọ nỗi khổ.

Lại nữa, lúc ấy ở trong thời gian chuyển biến nối tiếp nhau của các cảm thọ liên tục khởi lên ý thức về cảnh ấy, liền cho rằng đây là có ích-là có hại đối với sở y, cho nên nói là mình đang cảm thọ niềm vui-cảm thọ nỗi khổ.”

Đại đức nói rằng: “Lúc ấy ở trong sự chuyển biến nối tiếp nhau của đại chủng sở y mà cảm thọ niềm vui-nỗi khổ, cho rằng là cảm thọ, cho nên nói là mình đang cảm thọ niềm vui-cảm thọ nỗi khổ.”

Như nói lúc cảm thọ Lạc thọ, nhận biết như thật là mình cảm thọ Lạc thọ, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí.

Hỏi: Vì sao trong này không nói đến Tha tâm trí?

Đáp: Tha tâm trí nhận biết tâm-tâm sở pháp nối tiếp nhau của người khác, trong này nói đến trí như thật nhận biết về tâm-tâm sở pháp nối tiếp nhau của mình, vì thế cho nên không nói.

Lại nữa, Tha tâm trí nhận biết tâm-tâm sở pháp hiện tại, trong này nói đến trí như thật nhận biết về tâm-tâm sở pháp quá khứ.

Lại nữa, Tha tâm trí chỉ nhận biết tâm-tâm sở pháp, trong này nói đến trí như thật cũng nhận biết về sở y và sở duyên của tâm-tâm sở pháp.

Lại nữa, Tha tâm trí duyên với từng pháp một, trong này nói đến trí như thật cũng duyên chung với nhiều pháp, vì thế cho nên không nói đến Tha tâm trí.

Hỏi: Vì sao trong này lại không nói đến Khổ-Tập trí?

Đáp: Có người nói: Trong này cũng cần phải nói đến Khổ-Tập trí, mà không nói đến thì nên biết là nghĩa này có khác.

Có người nói: Khổ-Tập trí là trí thuộc hành tướng chán ngán, trong này nói đến trí như thật là trí thuộc hành tướng vui mừng, vì thế cho nên không nói.

Có người nói: Khổ-Tập trí duyên với sự việc mà chán ngán, trong này nói đến trí như thật duyên với sự việc mà vui mừng.

Có người nói: Khổ-Tập trí chán ghét sở duyên mà chuyển, trong này nói đến trí như thật yêu thích sở duyên mà chuyển.

Có người nói: Trong này nói nhận biết như thật về tâm-tâm sở pháp hữu lậu-vô lậu. Nhưng mà tâm-tâm sở pháp hữu lậu từ vô thỉ đến nay thường xuyên nhận biết, lại thô thiển gần gũi dễ dàng biết rõ, khởi lên trí Thế tục thì có thể nhận biết rõ ràng, không cần phải khởi lên trí vô lậu, vì thế cho nên không có ai rời bỏ trí Thế tục mà dùng Khổ-Tập trí để nhận biết. Tâm-tâm sở pháp vô lậu từ xưa đến nay chưa hề nhận biết, lại vi tế khó hiểu, khởi lên trí vô lậu thì mới có thể nhận biết. Vì thế cho nên trong này nhận biết về tâm-tâm sở pháp hữu lậu chỉ là trí Thế tục, nhận biết như thật về tâm-tâm sở pháp vô lậu đó là ba trí còn lại. Do đó không nói là có Khổ-Tập trí.

Có người nói: Trong này nói nhận biết như thật về sự sai biệt của tâm-tâm sở pháp hữu lậu-vô lậu. Tướng hữu lậu ấy, khởi lên trí Thế tục thì nhận biết, lại không khởi lên Khổ-Tập trí bởi vì khó khởi lên, và bởi vì lúc khởi lên chỉ nhận biết về tướng chung. Tướng vô lậu ấy, khởi lên trí Thế tục thì không có thể nhận biết, cho nên liền khởi lên Đạo trí, nhưng Đạo trí sinh khởi tuy không như trước mà chỉ nhận biết sai biệt. Nhưng bởi vì tướng chung mà nhận biết về sự sai biệt, cho nên có Đạo trí chứ không có Khổ-Tập trí.

Có người nói: Trong này nói nhận biết như thật về hành tướng sai biệt của tâm-tâm sở pháp hữu lậu-vô lậu. Nhưng tâm-tâm sở pháp hữu lậu phần nhiều không phải là hành tướng duyên với Đế, giả sử vốn có thì cũng chưa dễ dàng thành tựu, cho nên chỉ dùng trí Thế tục làm hành tướng không phải là Đế, để nhận biết như thật về hành tướng sai biệt ấy; tâm-tâm sở pháp vô lậu đều là hành tướng duyên với Đế, bởi vì rất dễ dàng thành tựu, cho nên vẫn dùng Đạo trí làm hành tướng của Đế, để nhận biết như thật về hành tướng sai biệt ấy. Vì thế cho nên trong này không có Khổ-Tập trí.

Không nói đến Tận trí-Vô sinh trí, bởi vì chương này là Kiến Uẩn, chỉ nói đến các trí thuộc tánh Kiến, hai trí ấy không phải là trí thuộc tánh Kiến, vì thế cho nên không nói đến.

Trong này, Pháp trí đó là nhận biết về Lạc thọ thuộc phẩm Pháp trí; Loại trí đó là nhận biết về Lạc thọ thuộc phẩm Loại trí; Thế tục trí đó là nhận biết về Lạc thọ hữu lậu; Đạo trí đó là nhận biết về Lạc thọ vô lậu. Tuy không có một Lạc thọ do bốn trí nhận biết, đó là hữu lậu thì một trí nhận biết, vô lậu thì ba trí nhận biết, nhưng mà bởi vì nói chung cho nên nói là bốn trí nhận biết như thật về Lạc thọ.

Có người nói: Lạc thọ vô lậu do bốn trí nhận biết.

Lúc cảm thọ Khổ thọ, nhận biết như thật là cảm thọ Khổ thọ, đây là một trí, đó là Thế tục trí, bởi vì Khổ thọ chỉ là hữu lậu, cho nên Thế tục trí nhận biết.

Lúc cảm thọ không khổ không lạc thọ thọ, nhận biết như thật là cảm thọ không khổ không lạc thọ, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí; nói như nhận biết về Lạc thọ.

*******

 

Lúc cảm thọ về Lạc của thân thọ-Khổ của thân thọ-không khổ không lạc của thân thọ, và Khổ của tâm thọ thì nhận biết như thật, đây là một trí, đó là Thế tục trí, bởi vì tất cả thân thọ và Khổ của tâm thọ chỉ là hữu lậu, cho nên khởi lên Thế tục trí thì nhận biết như thật.

Lúc cảm thọ về Lạc của tâm thọ-không khổ không lạc của tâm thọ thì nhận biết như thật, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí, bởi vì hai tâm thọ này bao gồm hữu lậu-vô lậu, cho nên dùng bốn trí nhận biết, giải thích rộng ra như trên.

Hỏi: Trong này thế nào gọi là thân thọ, thế nào gọi là tâm thọ?

Đáp: Nếu cảm thọ thuộc về năm Thức thân thì gọi là thân thọ, thuộc về Ý địa thì gọi là tâm thọ.

Lại nữa, nếu cảm thọ không có phân biệt thì gọi là thân thọ, có phân biệt thì gọi là tâm thọ.

Lại nữa, nếu cảm thọ giữ lấy cảnh của tự tướng thì gọi là thân thọ, giữ lấy cảnh của tự tướng-cọng tướng thì gọi là tâm thọ.

Lại nữa, nếu cảm thọ giữ lấy cảnh hiện tại thì gọi là thân thọ, giữ lấy cảnh của ba đời và cảnh không thuộc về đời kiếp thì gọi là tâm thọ.

Lại nữa, nếu cảm thọ giữ lấy cảnh riêng biệt của sự thì gọi là thân thọ, giữ lấy cảnh riêng biệt của sự và cảnh hòa hợp thì gọi là tâm thọ.

Lại nữa, nếu cảm thọ một lần rơi vào cảnh ấy thì gọi là thân thọ, nhiều lần rơi vào cảnh ấy thì gọi là tâm thọ.

Lại nữa, nếu cảm thọ đối với cảnh sơ suất mà chuyển thì gọi là thân thọ, suy đoán mà chuyển thì gọi là tâm thọ.

Lại nữa, nếu cảm thọ dùng Sắc làm sở y-Sắc làm sở duyên thì gọi là thân thọ, dùng phi Sắc làm sở y-Sắc và phi Sắc làm sở duyên thì gọi là tâm thọ.

Như Sắc-phi Sắc, như vậy có đối-không có đối, tích tụ-không phải là tích tụ, hòa hợp-không hòa hợp, nói rộng ra cũng như vậy.

Tôn giả Thế Hữu nói rằng: “Như Đức Phật đã nói: Người ấy vào lúc bấy giờ cảm thọ đối với hai thọ, đó là thân thọ và tâm thọ. Thế nào là thân thọ? Thế nào là tâm thọ? Trả lời: Không có cảm thọ nào là thân thọ, tất cả cảm thọ đều là tâm thọ. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tương ưng với tâm. Nhưng các cảm thọ nếu dựa vào năm căn mà chuyển thì cảm thọ này gọi là thân thọ, bởi vì luôn luôn dùng thân làm tăng thượng; nếu dựa vào Ý căn mà chuyển thì cảm thọ này gọi là tâm thọ, bởi vì luôn luôn dùng tâm làm tăng thượng.”

Lại đưa ra cách nói này: “Không có cảm thọ nào là thân thọ, tất cả cảm thọ đều là tâm thọ. Bởi vì tương ưng với tâm. Nhưng các cảm thọ dựa vào ba căn giữ lấy cảnh đến mà chuyển thì cảm thọ này gọi là thân thọ, bởi vì luôn luôn dấy lên Tưởng; dựa vào ba căn giữ lấy cảnh không đến mà chuyển thì cảm thọ này gọi là tâm thọ, bởi vì không luôn luôn dấy lên Tưởng.”

Đại đức nói rằng: “Nếu là thân thọ thì đó cũng là tâm thọ chăng? Trả lời: Nếu là thân thọ thì đó cũng là tâm thọ. Có lúc là tâm thọ mà không phải là thân thọ, đó là nếu suy nghĩ về sự bên ngoài, ở bên trong giữ lấy tướng và đối với sự giữ lấy tướng của Bổ-đặc-già-la, cùng với tướng của Sắc do Pháp xứ thâu nhiếp, tướng của tâm bất tương ưng hành, tướng Vô vi. Những loại cảm thọ như vậy đều gọi là tâm thọ, bởi

vì phân biệt mà chuyển đối với cảnh không phải là có thật.” Đó gọi là sự sai biệt của thân thọ và tâm thọ.

Lúc cảm thọ về Lạc có vị của thọ, Khổ có vị của thọ, không khổ không lạc có vị của thọ, và Khổ không có vị của thọ thì nhận biết như thật, đây là một trí, đó là Thế tục trí, bởi vì tất cả có vị của thọ và Khổ không có vị của thọ đều là hữu lậu, cho nên khởi lên Thế tục trí thì nhận biết như thật.

Lúc cảm thọ về Lạc không có vị của thọ-không khổ không lạc không có vị của thọ thì nhận biết như thật, đây là bốn trí, đó là PhápLoại-Thế tục và Đạo trí, bởi vì hai loại không có vị của thọ này bao gồm hữu lậu-vô lậu, cho nên dùng bốn trí nhận biết, giải thích rộng ra như trên.

Trong này, Vị gọi là Ái, bởi vì tánh đắm theo Vị. Nếu thọ làm nơi dừng chân cho pháp ấy thì gọi là có vị của thọ.

Có người nói: Vị là gọi cho tất cả phiền não, bởi vì tánh đắm theo

Thủ. Nếu thọ làm nơi dừng chân cho pháp ấy thì gọi là có vị của thọ. Nếu thọ không làm nơi dừng chân cho Ái, hoặc là tất cả phiền não thì gọi là không có vị của thọ.

Hỏi: Nếu như vậy thì tất cả Khổ thọ đều gọi là có vị, bởi vì đều có thể làm nơi dừng chân cho Ái, hoặc là tất cả phiền não. Lại như luận Phẩm Loại Túc nói: “Thế nào là có vị của pháp? Đó là pháp hữu lậu. Thế nào là không có vị của pháp? Đó là pháp vô lậu.” Vì sao trong này nói có Khổ không có vị của thọ?

Đáp: Khổ thọ tuy là hữu lậu mà có phần ít không có vị dựa vào tánh, dựa vào đó cho nên nói là Khổ không có vị của thọ, nghĩa là pháp ấy có tánh không trái ngược với phiền não và không xen tạp với phiền não.

Có Sư khác nói: Khổ thọ tuy đều là hữu lậu mà có lúc có thể dẫn dắt phát khởi thọ vô lậu không có vị tùy thuận với Thắng nghĩa, dựa vào đó cho nên nói là Khổ không có vị của thọ, bởi vì có thể tạm thời điều phục các Vị.

Cảm thọ về Lạc ham thích dựa vào thọ, Khổ ham thích dựa vào thọ, không khổ không lạc ham thích dựa vào thọ, và Khổ rời xa dựa vào thọ thì nhận biết như thật, đây là một trí, đó là Thế tục trí, bởi vì tất cả ham thích dựa vào thọ và Khổ rời xa dựa vào thọ đều là hữu lậu, cho nên khởi lên Thế tục trí thì nhận biết như thật.

Cảm thọ về Lạc rời xa dựa vào thọ-không khổ không lạc rời xa dựa vào thọ thì nhận biết như thật, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí, giải thích như trước.

Trong này, ham thích(đam thị) gọi là Ái, bởi vì tánh thuộc đắm trước. Nếu thọ làm nơi dừng chân cho pháp ấy thì gọi là ham thích dựa vào thọ.

Có người nói: Ham thích là gọi cho tất cả phiền não, bởi vì tánh thuộc chấp trước. Nếu thọ làm nơi dừng chân cho pháp ấy thì gọi là ham thích dựa vào thọ. Nếu thọ không làm nơi dừng chân cho Ái, hoặc là tất cả phiền não thì gọi là rời xa dựa vào thọ.

Hỏi: Nếu như vậy thì tất cả Khổ thọ đều gọi là ham thích dựa vào, bởi vì đều có thể làm nơi dừng chân cho Ái, hoặc là tất cả phiền não. Lại như luận Phẩm Loại Túc nói: “Thế nào là ham thích dựa vào pháp? Đó là pháp hữu lậu. Thế nào là rời xa dựa vào pháp? Đó là pháp vô lậu.” Vì sao trong này nói có Khổ rời xa dựa vào thọ?

Đáp: Khổ thọ tuy là hữu lậu mà có phần ít rời xa dựa vào tánh, dựa vào đó cho nên nói là Khổ rời xa dựa vào thọ, nghĩa là pháp ấy có tánh không trái ngược với phiền não và không xen tạp với phiền não.

Có Sư khác nói: Khổ thọ tuy đều là hữu lậu mà có lúc có thể dẫn dắt phát khởi thọ vô lậu dựa vào rời xa tùy thuận với Thắng nghĩa, dựa vào đó cho nên nói là Khổ rời xa dựa vào thọ, bởi vì có thể tạm thời điều phục các ham thích.

Như nói: Tâm có tham thì nhận biết như thật là tâm có tham…, cho đến nói rộng ra.

Bởi vì có hai nghĩa cho nên tâm gọi là có tham:

  1. Xen tạp với tham.
  2. Do tham ràng buộc.

Có người nói: Trong này dựa vào xen tạp với có tham mà soạn luận.

Có người nói: Trong này dựa vào hai loại có tham mà soạn luận. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu chỉ dựa vào xen tạp với có tham mà soạn luận, thì tâm thiện hữu lậu và tâm vô phú vô ký…, lẽ ra cũng gọi là tâm lìa tham; nhưng loại ấy cũng là tâm có tham, bởi vì tham mà ràng buộc.

Như tâm có tham, nên biết tâm có sân… cũng như vậy.

Trong này, bởi vì tham mà ràng buộc cho nên gọi là tâm có tham, bởi vì đối trị với tham cho nên gọi là tâm lìa tham.

Nói như vậy là hợp lý, nghĩa là bởi vì tham mà ràng buộc cho nên gọi là tâm có tham, bởi vì đối trị với tham cho nên gọi là tâm lìa tham.

Nếu nói tương ưng với tham cho nên gọi là tâm có tham, không tương ưng với tham cho nên gọi là tâm lìa tham, thì tâm không tương ưng với tham mà tương ưng với những phiền não khác nên gọi là tâm lìa tham; nhưng loại ấy cũng là tâm có tham, bởi vì tham mà ràng buộc.

Nếu nói tương ưng với tham cho nên gọi là tâm có tham, bởi vì đối trị với tham cho nên gọi là tâm lìa tham, thì tâm nhiễm ô và tâm vô phú vô ký-một phần tâm thiện không tương ưng với tham, lẽ ra không phải là tâm có tham, cũng không phải là tâm lìa tham; nhưng loại ấy cũng là tâm có tham, bởi vì tham mà ràng buộc.

Tâm có tham thì nhận biết như thật là tâm có tham, đây là một trí, đó là Thế tục trí; giải thích như trước.

Tâm lìa tham thì nhận biết như thật là tâm lìa tham, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí; giải thích như trước.

Bởi vì sân mà ràng buộc cho nên gọi là tâm có sân, bởi vì đối trị với sân cho nên gọi là tâm lìa sân, nói rộng ra như tham.

Tâm có sân thì nhận biết như thật là tâm có sân, đây là một trí, đó là Thế tục trí; giải thích như trước.

Tâm lìa sân thì nhận biết như thật là tâm lìa sân, đây là ba trí, đó là Pháp-Thế tục và Đạo trí.

Trong này, dựa vào đối trị gần mà nói, cho nên không nói đến Loại trí, bởi vì đạo thuộc phẩm Loại trí không phải là đối trị gần của cõi Dục; còn lại giải thích như trước.

Bởi vì si mà ràng buộc cho nên gọi là tâm có si, bởi vì đối trị với si cho nên gọi là tâm lìa si.

Nói như vậy là hợp lý, nghĩa là bởi vì si mà ràng buộc cho nên gọi là tâm có si, bởi vì đối trị với si cho nên gọi là tâm lìa si.

Nếu nói tương ưng với si cho nên gọi là tâm có si, bởi vì đối trị với si cho nên gọi là tâm lìa si, thì tâm vô phú vô ký-một phần tâm thiện, cũng nên gọi là tâm lìa si; nhưng loại ấy cũng gọi là tâm có si, bởi vì si mà ràng buộc.

Nếu nói tương ưng với si cho nên gọi là tâm có si, bởi vì đối trị với si cho nên gọi là tâm lìa si, thì tâm vô phú vô ký-một phần tâm thiện, lẽ ra không phải là tâm có si, cũng không phải là tâm lìa si; nhưng loại ấy cũng là tâm có si, bởi vì si mà ràng buộc.

Tâm có si thì nhận biết như thật là tâm có si, đây là một trí, đó là Thế tục trí; giải thích như trước.

Tâm lìa si thì nhận biết như thật là tâm lìa si, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí; giải thích như trước.

Tâm nhiễm, đó là tâm nhiễm ô, bởi vì tương ưng với phiền não.

Tâm không nhiễm, đó là tâm thiện, bởi vì trái ngược với phiền não.

Có người nói: Tâm thiện-tâm vô phú vô ký đều gọi là tâm không nhiễm, bởi vì không tương ưng với phiền não.

Tâm nhiễm thì nhận biết như thật là tâm nhiễm, đây là một trí, đó là Thế tục trí.

Tâm không nhiễm thì nhận biết như thật là tâm không nhiễm, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí; giải thích như tâm có si-lìa si trước đây.

Tâm hời hợt, đó là tâm thiện, bởi vì thâu nhiếp hời hợt đối với sở duyên.

Tâm phân tán, đó là tâm nhiễm ô, bởi vì phân tán rong ruổi đối với sở duyên.

Tâm hời hợt thì nhận biết như thật là tâm hời hợt, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí.

Tâm phân tán thì nhận biết như thật là tâm phân tán, đây là một trí, đó là Thế tục trí. Câu này tùy theo thích hợp, giải thích như trước.

Các Sư ở ngoài nước Ca-thấp-di-la nói: “Tâm hời hợt, đó là tâm tương ưng với ngủ, bởi vì nói tâm hời hợt gọi là ngủ. Như nói: Ngủ là thế nào? Đó là lúc ngủ vốn có mơ ngủ không có thể giữ được thân tâm, lấy hời hợt làm tánh.”

Hỏi: Nếu như vậy thì trong này đã nói nên hiểu thế nào? Như nói: “Tâm hời hợt nhận biết như thật là tâm hời hợt, đây là bốn trí…”

Đáp: Văn này nên đưa ra cách nói này: Tâm hời hợt-tâm phân tán-tâm xuống thấp nhận biết như thật là tâm hời hợt-tâm phân tán-tâm xuống thấp, đây là một trí, đó là Thế tục trí; tâm lên cao nhận biết như thật là tâm lên cao, đây là bốn trí, nói như trước.”

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói này. Nếu đưa ra cách nói này thì tâm nhiễm ô tương ưng với ngủ, lẽ ra cũng gọi là tâm hời hợt bởi vì tương ưng với ngủ, cũng gọi là tâm phân tán bởi vì nhiễm ô. Vì vậy nên biết cách nói trước là hợp lý.

Tâm xuống thấp, đó là tâm nhiễm ô, bởi vì tương ưng với lười nhác.

Tâm lên cao, đó là tâm thiện, bởi vì tương ưng với tinh tiến.

Tâm xuống thấp thì nhận biết như thật là tâm xuống thấp, đây là một trí, đó là Thế tục trí.

Tâm lên cao thì nhận biết như thật là tâm lên cao, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí. Giải thích như trước.

Tâm nhỏ bé, đó là tâm nhiễm ô, bởi vì nhỏ bé do thói quen mà sinh ra.

Tâm to lớn, đó là tâm thiện, bởi vì to lớn do thói quen mà sinh ra.

Hỏi: Nay hiện thấy vô lượng hữu tình làm điều ác, rất ít hữu tình làm điều thiện, vì sao tâm nhiễm nhỏ bé do thói quen mà sinh ra?

Đáp: Trong này không vì chủng loại ít mà gọi là nhỏ bé, chỉ vì pháp thanh tịnh ít ỏi cho nên gọi là nhỏ bé, nghĩa là nếu pháp thanh tịnh ít ỏi do thói quen mà sinh ra thì gọi là tâm nhỏ bé, nếu pháp thanh tịnh phần nhiều do thói quen mà sinh ra thì gọi là tâm to lớn. Vì thế cho nên khắp trong biển rộng sinh tử chỉ có Đức Phật tu nhiều pháp thiện mà gọi là to lớn, chứ không phải là tất cả hữu tình.

Có người nói: Tâm nhiễm ô đạt được giá trị nhỏ bé cho nên gọi là nhỏ bé, tâm thiện đạt được giá trị to lớn cho nên gọi là to lớn. Bởi vì tâm nhiễm ô dựa vào một ít việc đã làm liền khởi lên vô lượng tác ý phi lý, khiến cho phiền não ác hạnh dấy lên như dòng sông tuôn chảy; tâm thiện thì không như vậy, tuy bỏ ra trăm ngàn châu báu nhưng hoặc có người có thể khởi lên, hoặc có người không có thể khởi lên.

Có người nói: Tâm nhiễm ô bởi vì ít căn cho nên gọi là nhỏ bé, tâm thiện bởi vì nhiều căn cho nên gọi là to lớn. Nghĩa là tâm nhiễm ô thì hoặc là chỉ có một căn, hoặc là đến hai căn; tâm thiện thì tất cả đều có đủ ba căn.

Có người nói: Tâm nhiễm ô bởi vì ít tùy chuyển cho nên gọi là nhỏ bé, tâm thiện bởi vì nhiều tùy chuyển cho nên gọi là to lớn. Nghĩa là tâm nhiễm ô thì chỉ có ba uẩn tùy chuyển, tâm thiện thì hoặc là ba uẩn-hoặc là bốn uẩn tùy chuyển.

Có người nói: Tâm nhiễm ô bởi vì ít quyến thuộc cho nên gọi là nhỏ bé, tâm thiện bởi vì nhiều quyến thuộc cho nên gọi là to lớn. Nghĩa là bởi vì tâm nhiễm ô thì không có tu thuộc vị lai, tâm thiện thì có tu thuộc vị lai.

Có người nói: Tâm nhiễm ô bởi vì ít đối trị cho nên gọi là nhỏ bé, tâm thiện bởi vì nhiều đối trị cho nên gọi là to lớn.

Như Khổ pháp trí nhẫn sinh khởi trong một sát-na, có thể lập tức vĩnh viễn đoạn mười tùy miên do kiến Khổ mà đoạn của cõi Dục, một lực này hơn hẳn chứ không phải là tất cả lực kia, như một lực sĩ có thể làm cho ngàn người khuất phục; mà không có tâm nhiễm ô sinh khởi trong một sát-na, có thế lực như vậy.

Lại nữa, trong tâm nhiễm ô vốn có pháp đứng đầu thiếu mất mắt và chân, pháp đứng đầu ấy tức là Vô minh. Như nói: Vô minh là pháp đứng đầu, là nhân tố đi trước, cho nên sinh ra vô lượng chủng loại pháp ác bất thiện, và chủng loại không có Tàm-không có Quý của nó. Trong tâm thiện vốn có pháp đứng đầu có đủ mắt và chân, pháp đứng đầu ấy tức là Minh. Như nói: Minh là pháp đứng đầu, là nhân tố đi trước, cho nên sinh ra vô lượng chủng loại pháp thiện, và chủng loại có Tàm-có Quý của nó.

Lại nữa, từ vô thỉ đến nay đã quen theo pháp bất thiện, tạm thời luyện tập pháp thiện thì làm cho vĩnh viễn đoạn trừ; giống như trong ngôi nhà trải qua thời gian dài tối tăm u ám, ngọn đèn sáng vừa chiếu vào thì lập tức trừ hết bóng tối; như trải qua thời gian dài quen theo ý nghĩ là không có muối, lúc vừa nếm vị muối thì ý nghĩ ấy liền từ bỏ, ở đây cũng như vậy, pháp bất thiện đoạn dứt pháp thiện thì không có sự việc như vậy.

Lại nữa, pháp thiện đối với pháp bất thiện có thể điều phục hoàn toàn, hoặc là đoạn trừ hoàn toàn; pháp bất thiện đối với pháp thiện thì không như vậy. Bởi vì những duyên này, cho nên tâm nhiễm ô gọi là nhỏ bé, tâm thiện gọi là to lớn.

Tâm nhỏ bé thì nhận biết như thật là tâm nhỏ bé, đây là một trí, đó là Thế tục trí. Giải thích như trước.

Tâm to lớn thì nhận biết như thật là tâm to lớn, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí. Giải thích như trước.

Tâm lăng xăng, đó là tâm nhiễm ô, bởi vì tương ưng với trạo cử.

Tâm không lăng xăng, đó là tâm thiện, bởi vì tương ưng với Xama-tha.

Tâm lăng xăng thì nhận biết như thật là tâm lăng xăng, đây là một trí, đó là Thế tục trí. Giải thích như trước.

Tâm không lăng xăng thì nhận biết như thật là tâm không lăng xăng, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí. Giải thích như trước.

Tâm không vắng lặng, đó là tâm nhiễm ô, bởi vì luôn luôn náo động.

Tâm vắng lặng, đó là tâm thiện, bởi vì rời xa náo động.

Tâm không vắng lặng thì nhận biết như thật là tâm không vắng lặng, đây là một trí, đó là Thế tục trí. Giải thích như trước.

Tâm vắng lặng thì nhận biết như thật là tâm vắng lặng, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí. Giải thích như trước.

Tâm không định, đó là tâm nhiễm ô, bởi vì tương ưng với tán loạn.

Tâm định, đó là tâm thiện, bởi vì rời xa tán loạn.

Tâm không định thì nhận biết như thật là tâm không định, đây là một trí, đó là Thế tục trí. Giải thích như trước.

Tâm định thì nhận biết như thật là tâm định, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí. Giải thích như trước.

Tâm không tu, đó là tâm đối với tu đạt được-tu luyện tập, cả hai loại đều không tu.

Tâm tu, đó là tâm đối với tu đạt được-tu luyện tập, hoặc là tu cả hai loại, hoặc là tu tùy theo một loại.

Tâm không tu thì nhận biết như thật là tâm không tu, đây là một trí, đó là Thế tục trí. Giải thích như trước.

Tâm tu thì nhận biết như thật là tâm tu, đây là bốn trí, đó là PhápLoại-Thế tục và Đạo trí. Giải thích như trước.

Tâm không giải thoát, đó là tâm đối với giải thoát thuộc tự tánh-giải thoát nối tiếp nhau, cả hai loại đều không giải thoát.

Tâm giải thoát, đó là tâm đối với giải thoát thuộc tự tánh-giải thoát nối tiếp nhau, hoặc là giải thoát cả hai loại, hoặc là giải thoát tùy theo một loại.

Tâm không giải thoát thì nhận biết như thật là tâm không giải thoát, đây là một trí, đó là Thế tục trí. Giải thích như trước.

Tâm giải thoát thì nhận biết như thật là tâm giải thoát, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí. Giải thích như trước.

Như nói: Có Cái tham dục bên trong…, cho đến nói rộng ra.

Trong Thánh giáo này, bên trong(nội) có hai loại:

1. Xứ bên trong thâu nhiếp cho nên gọi là bên trong, như nói: Sáu Xứ bên trong này…

2. Sự nối tiếp nhau của mình thâu nhiếp cho nên gọi là bên trong, như nói: Trú vào thân bên trong thuận theo thân quán sát…

Trong này, dựa vào sự nối tiếp nhau bên trong mà soạn luận, không dựa vào Xứ bên trong. Nguyên cớ thế nào? Nếu dựa vào Xứ bên trong mà soạn luận, thì không nên nói là có Cái tham dục bên trong…, bởi vì Cái tham dục… bên trong đều là Pháp xứ bên ngoài thâu nhiếp. Nhưng pháp ấy tuy là Xứ bên ngoài mà bởi vì sự nối tiếp nhau của mình thâu nhiếp, cho nên gọi là bên trong.

Như nói: Có Cái tham dục bên trong thì nhận biết như thật là có Cái tham dục bên trong, đây là một trí, đó là Thế tục trí.

Trong này, Có đó là Cái tham dục hiện hành có thể đạt được trong sự nối tiếp nhau của mình, hoặc là chưa lìa sự thành tựu đạt được nó, hoặc là đạo đối trị với nó chưa sinh. Đây là một trí, bởi vì hữu lậu cho nên khởi lên trí Thế tục thì nhận biết như thật.

Không có Cái tham dục bên trong thì nhận biết như thật là không có Cái tham dục bên trong, đây là ba trí, đó là Pháp-Thế tục và Đạo trí.

Trong này, Không có đó là Cái tham dục không phải là hiện hành có thể đạt được trong sự nối tiếp nhau của mình, hoặc là đã lìa sự thành tựu đạt được nó, hoặc là đạo đối trị với nó đã sinh. Đây là ba trí, đó là bởi vì Cái tham dục chỉ ở cõi Dục, cho nên đối trị gần của nó không phải là Loại trí.

Như nói: Cái tham dục bên trong chưa sinh mà sinh thì nhận biết như thật, đây là một trí, đó là Thế tục trí.

Trong này, chưa sinh mà sinh, đó là do rất nhiều nhân-rất nhiều duyên sinh ra Cái tham dục bên trong. Đây là một trí, giải thích như trước.

Sinh rồi liền đoạn, đoạn rồi về sau không còn sinh nữa thì nhận biết như thật, đây là ba trí, đó là Pháp-Thế tục và Đạo trí.

Trong này, sinh rồi liền đoạn, đó là đạo đối trị với nó đã sinh mà đoạn trừ Cái tham dục. Đoạn rồi về sau không còn sinh nữa, đó là hoặc hoàn toàn không sinh, hoặc là cho đến lúc chưa lui sụt đạo đối trị với nó. Đây là ba trí, giải thích như trước.

Như Cái tham dục, nên biết Cái sân nhuế-hôn trầm-thụy miêntrạo cử-ác tác-nghi cũng như vậy, bởi vì những loại ấy đều là hệ thuộc cõi Dục.

Như nói: Có kiết của Nhãn bên trong thì nhận biết như thật là có kiết của Nhãn bên trong, đây là một trí, đó là Thế tục trí.

Trong này, cũng dựa vào sự nối tiếp nhau bên trong mà soạn luận, không dựa vào Xứ bên trong, nói rộng ra như trước đã nói.

Có cũng gọi là kiết Nhãn hiện hành có thể đạt được trong sự nối tiếp nhau của mình, hoặc là chưa lìa sự thành tựu đạt được nó, hoặc là đạo đối trị với nó chưa sinh. Đây là một trí, giải thích như trước.

Không có kiết của Nhãn bên trong thì nhận biết như thật là không có kiết của Nhãn bên trong, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí.

Trong này, Không có cũng gọi là kiết của Nhãn không phải là hiện hành có thể đạt được trong sự nối tiếp nhau của mình, hoặc là đã lìa sự thành tựu đạt được nó, hoặc là đạo đối trị với nó đã sinh. Đây là bốn trí, đó là bởi vì kiết của Nhãn bên trong hệ thuộc cõi Dục-Sắc, cho nên đối trị gần của nó bao gồm phẩm Pháp-Loại trí.

Như nói: Kiết của Nhãn bên trong chưa sinh mà sinh thì nhận biết như thật, đây là một trí, đó là Thế tục trí.

Trong này, chưa sinh mà sinh, đó là do rất nhiều nhân-rất nhiều duyên sinh ra Kiết của Nhãn bên trong. Đây là một trí, giải thích như trước.

Sinh rồi liền đoạn, đoạn rồi về sau không còn sinh nữa thì nhận biết như thật, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí.

Trong này, sinh rồi liền đoạn, đó là đạo đối trị với nó đã sinh mà đoạn trừ kiết của Nhãn bên trong. Đoạn rồi về sau không còn sinh nữa, đó là hoặc hoàn toàn không sinh, hoặc là cho đến lúc chưa lui sụt đạo đối trị với nó. Đây là bốn trí, giải thích như trước.

Như kiết của Nhãn, nên biết kiết của Nhĩ-Thân-Ý cũng như vậy, bởi vì đối trị gần của những loại ấy đều bao gồm phẩm Pháp-Loại trí.

Kiết của Tỷ-Thiệt nói như Cái, bởi vì đều chỉ là hệ thuộc cõi Dục.

Như nói: Có Niệm đẳng giác chi bên trong thì nhận biết như thật là có Niệm đẳng giác chi bên trong, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí.

Trong này, Có đó là Niệm đẳng giác chi hiện hành có thể đạt được trong sự nối tiếp nhau của mình, hoặc là đã có sự thành tựu đạt được pháp ấy, hoặc là chướng ngại do pháp ấy đối trị đã đoạn. Đây là bốn trí, có người nói: Trong này, Niệm đẳng giác chi chân thật do ba trí nhận biết, đó là Pháp-Loại-Đạo trí; Niệm đẳng giác chi tương tự do một trí nhận biết, đó là Thế tục trí.

Có người nói: Trong này, chỉ nói đến Niệm đẳng giác chi chân thật, tức là loại này do bốn trí nhận biết, đó là Thế tục trí nhận biết không rõ ràng, Pháp-Loại-Đạo trí nhận biết rõ ràng.

Không có Niệm đẳng giác chi bên trong thì nhận biết như thật là không có Niệm đẳng giác chi bên trong, đây là một trí, đó là Thế tục trí.

Trong này, Không có đó là Niệm đẳng giác chi không phải là hiện hành có thể đạt được trong sự nối tiếp nhau của mình, hoặc là chưa có sự thành tựu đạt được pháp ấy, hoặc là chướng ngại do pháp ấy đối trị chưa đoạn. Đây là một trí, nói như trước.

Như nói: Niệm đẳng giác chi chưa sinh mà sinh, sinh rồi trú vững không quên, làm cho đầy đủ trọn vẹn, tăng thêm nhiều trí tác chứng, đây là bốn trí, đó là Pháp-Loại-Thế tục và Đạo trí.

Trong này, chưa sinh mà sinh, đó là do rất nhiều nhân-rất nhiều duyên sinh ra Niệm đẳng giác chi bên trong. Sinh rồi trú vững không quên…

Hỏi: Như sinh bấy nhiêu thì diệt bấy nhiêu, sát-na sau chắc chắn không dừng lại, làm sao có thể nói là sinh rồi trú vững không quên…?

Đáp: Trong này nói đến hai loại căn thiện, đó là thuận phần an trú và thuận phần thắng tiến. Sinh rồi trú vững không quên là nói đến căn thiện thuận phần an trú, sinh rồi làm cho đầy đủ trọn vẹn tăng thêm nhiều là nói đến căn thiện thuận phần thắng tiến. Đây là bốn trí, giải thích như trước.

Như Niệm đẳng giác chi, nên biết Trạch pháp-Tinh tiến-Hỷ-AnĐịnh-Xả đẳng giác chi, cũng như vậy, bởi vì chủng loại giống nhau.

Hỏi: Hỷ đẳng giác chi tức là Thọ, trong Thọ niệm trú trước đây đã quán sát, nay vì sao trở lại quán sát?

Đáp: Trước dùng môn Thọ niệm trú để quán sát, nay dùng môn Pháp niệm trú để quán sát.

Lại nữa, trước quán sát một mình, nay quán sát cùng với Giác chi khác.

Lại nữa, trước quán sát về tự tướng của pháp ấy, nay quán sát về cọng tướng của pháp ấy.

Lại nữa, trước quán sát về hữu lậu-vô lậu, nay quán sát về vô lậu.

Có người nói: Trong này cũng quán sát về hữu lậu-vô lậu, bởi vì bao gồm quán sát về Giác chi chân thật và tương tự.

Như nói: Đều thuận theo quán sát về tham-sân-si của mình tăng lên, cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt nghĩa lý trong kinh. Như trong kinh nói: “Các Tỳ kheo-Tỳ kheo Ni đều thuận theo quán sát lúc tham của mình tăng lên, lúc ấy nên biết là lui sụt các pháp thiện, Đức Phật nói đó là lui sụt. Sân-si cũng như vậy.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt rộng ra, thế nào là tham tăng lên cho đến si tăng lên? Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì mà kinh không phân biệt thì nay cần phải phân biệt, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Thế nào là tham-sân-si tăng lên?

Đáp: Có tham-sân-si phẩm Hạ cho nên có phẩm Trung, có phẩm Trung cho nên có phẩm Thượng, đó gọi là tăng lên.

Có người nói: Trong này, dựa vào tham-sân-si tăng lên mà thế gian hiện thấy để soạn luận.

Tham tăng lên là như những người đàn ông, ở giai đoạn trẻ thơ khởi lên tham ràng buộc phẩm Hạ, ở giai đoạn trưởng thành khởi lên tham ràng buộc phẩm Trung, ở giai đoạn tuổi trẻ khởi lên tham ràng buộc phẩm Thượng; đối với vợ của họ cũng như vậy.

Sân tăng lên là như những người đàn ông lần lượt thay đổi đánh nhau, chưa phát ra lời nói cộc cằn thì khởi lên sân ràng buộc phẩm Hạ, lúc phát ra lời nói cộc cằn thì khởi lên sân ràng buộc phẩm Trung, kết thúc thất bại mưu toan làm hại thì khởi lên sân ràng buộc phẩm Thượng.

Si tăng lên là như có người đàn ông sinh trong nhà ngoại đạo, chưa học sách luận của ngoại đạo thì khởi lên si ràng buộc phẩm Hạ, học mà chưa thông hiểu nghĩa lý ấy thì khởi lên si ràng buộc phẩm Trung, nếu đến cuối cùng thông hiểu thì khởi lên si ràng buộc phẩm Thượng.

Có người nói: Trong này, dựa vào đạo lý quán sát đối đãi mà soạn luận, đó là quán sát tham ràng buộc phẩm Hạ cho nên thi thiết phẩm Trung, quán sát phẩm Trung cho nên thi thiết phẩm Thượng; sân-si cũng như vậy.

Có người nói: Trong này, dựa vào lui sụt mà soạn luận, đó là từ tham ràng buộc phẩm Hạ cho nên thành phẩm Trung, từ phẩm Trung lui sụt cho nên thành phẩm Thượng; sân-si cũng như vậy.

Như nói: Đều thuận theo quán sát về tham-sân-si của mình giảm xuống, cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao lại soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn phân biệt về nghĩa lý còn lại ngay trong kinh trước đã nói. Như trong kinh ấy nói: “Các Tỳ kheo-Tỳ kheo Ni đều thuận theo quán sát lúc tham của mình giảm xuống, lúc ấy nên biết là không lui sụt các pháp thiện, Đức Phật nói đó là không lui sụt. Sân-si cũng như vậy.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt rộng ra, thế nào là tham giảm xuống cho đến si giảm xuống? Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì mà kinh không phân biệt thì nay cần phải phân biệt, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Thế nào là tham-sân-si giảm xuống?

Đáp: Không có tham-sân-si phẩm Thượng cho nên thành phẩm Trung, không có phẩm Trung cho nên thành phẩm Hạ, đó gọi là giảm xuống.

Có người nói: Trong này, dựa vào tham-sân-si giảm xuống mà thế gian hiện thấy để soạn luận.

Tham giảm xuống là như những người đàn ông, ở giai đoạn tuổi trẻ khởi lên tham ràng buộc phẩm Thượng, ở giai đoạn đứng tuổi khởi lên tham ràng buộc phẩm Trung, ở giai đoạn tuổi già khởi lên tham ràng buộc phẩm Hạ; đối với vợ của họ cũng như vậy.

Sân giảm xuống là như những người đàn ông lần lượt thay đổi đánh nhau, kết thúc thất bại mưu toan làm hại lẫn nhau thì khởi lên sân ràng buộc phẩm Thượng, vì phát động đánh nhau mà sai sứ giả qua lại thương tuyết thì khởi lên sân ràng buộc phẩm Trung, lúc chính thức đánh nhau thì khởi lên sân ràng buộc phẩm Hạ.

Si giảm xuống là như những người đàn ông sinh trong nhà ngoại đạo, học sách luận của ngoại đạo ấy đã thông hiểu thì khởi lên si ràng buộc phẩm Thượng, nếu lúc nghe lời Đức Phật dạy còn giữ lại trong tâm thì khởi lên si ràng buộc phẩm Trung, nếu lúc đối với lời Đức Phật dạy sinh ra một chút tin tưởng thì khởi lên si ràng buộc phẩm Hạ.

Có người nói: Trong này, dựa vào đạo lý quán sát đối đãi mà soạn luận, đó là quán sát tham ràng buộc phẩm Thượng cho nên thi thiết phẩm Trung, quán sát phẩm Trung cho nên thi thiết phẩm Hạ; sân-si cũng như vậy.

Có người nói: Trong này, dựa vào lìa nhiễm mà soạn luận, đó là từ tham ràng buộc phẩm Thượng giảm xuống cho nên trở thành phẩm Trung, từ phẩm Trung giảm xuống cho nên trở thành phẩm Hạ; sân-si cũng như vậy.

Thế nào là cảm thọ cuối cùng về cái chết(tử biên tế thọ)? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn giải thích về nghĩa trong kinh. Như trong kinh nói: “Này A-nan-đà nên biết! Xưa có vị Chuyển Luân Vương tên gọi Thiện Kiến, có cảm thọ cuối cùng về cái chết thuộc loại như vậy, giống như tráng sĩ ăn nhiều thức ăn ngon, trong chốc lát mê man bất tỉnh.” Lại trong kinh nói: “Nay Ta đã sinh ra cảm thọ cuối cùng về cái chết làm cho tổn hại nhanh chóng.” Trong kinh tuy nói ra điều này mà không phân biệt rộng ra, thế nào là cảm thọ cuối cùng về cái chết? Đến đâu thì nên nói là cảm thọ cuối cùng về cái chết? Kinh ấy là nơi nương tựa căn bản của luận này, điều gì mà kinh không giải thích thì nay cần phải giải thích, cho nên soạn ra phần luận này.

Có người nói: Nguyên cớ soạn luận là bởi vì ngăn chặn thế gian đối với lúc không phải là cảm thọ cuối cùng về cái chết, khởi lên ý tưởng cảm thọ cuối cùng về cái chết. Như thế gian nói: Tôi đã nhận lấy cảm thọ cuối cùng về cái chết, nay cảm thọ và đang cảm thọ. Đó là đối với lúc không phải là cảm thọ cuối cùng về cái chết, khởi lên ý tưởng cảm thọ cuối cùng về cái chết. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu nhận lấy cảm thọ này thì không bao lâu sẽ mạng chung, mới gọi là cảm thọ cuối cùng về cái chết.

Hỏi: Thế nào là cảm thọ cuối cùng về cái chết?

Đáp: Bởi vì Mạt-ma(tử huyệt) này đoạn dứt thì Mạng căn diệt đi.

Hỏi: Cảm thọ này vì sao gọi là cuối cùng về cái chết? Đáp: Từ đây dẫn đến phần vị cuối cùng của cái chết, cho nên gọi là cảm thọ cuối cùng về cái chết.

Hỏi: Nếu như vậy thì nên nói cảm thọ cuối cùng gọi là cảm thọ cuối cùng về cái chết, không nên nói là bởi vì Mạt-ma này đoạn dứt. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Mạt-ma đoạn dứt rồi có lúc trải qua một ngày đêm mới mạng chung. Đáp: Ngay lúc cảm thọ Mạt-ma đoạn dứt cũng gọi là cảm thọ cuối cùng, bởi vì sau khi Mạt-ma đoạn dứt thì không bao lâu nhất định phải mạng chung.

Có người nói: Trong một Chúng đồng phần có hai loại cảm thọ:

  1. Cảm thọ của thân.
  2. Cảm thọ của tâm.

Cảm thọ Mạt-ma đoạn dứt là cảm thọ cuối cùng của thân, cảm thọ mạng căn diệt đi là cảm thọ cuối cùng của tâm.

Hỏi: Đến đâu thì nên nói là cảm thọ cuối cùng về cái chết?

Đáp: Đến lúc Mạt-ma này đoạn dứt, mạng căn diệt đi.

Hỏi: Vì sao lại soạn ra phần luận này?

Đáp: Trước đây nói về tự tánh của cảm thọ cuối cùng về cái chết, mà chưa hiển bày về phần vị, nay muốn hiển bày điều ấy cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Cảm thọ cuối cùng về cái chết do Xứ nào thâu nhiếp?

Đáp: Pháp xứ.

Hỏi: Có mấy Thức tương ưng?

Đáp: Thân thức và Ý thức, đó là đầu tiên cảm thọ về Mạt-ma đoạn dứt tương ưng với Thân thức, cảm thọ cuối cùng tương ưng với Ý thức.

Hỏi: Mấy đại chủng có thể đoạn dứt Mạt-ma?

Đáp: Ba, đó là Thủy-Hỏa và Phong.

Hỏi: Vì sao đại chủng Địa không có thể đoạn dứt Mạt-ma?

Đáp: Bởi vì không phải là ruộng đất, không phải là đồ chứa…

Có người nói: Đại chủng mạnh mẽ nhanh nhạy có thể đoạn dứt Mạt-ma, đại chủng Địa thì không mạnh mẽ nhanh nhạy.

Có người nói: Nếu các đại chủng có thể hủy hoại phần bên ngoài, có thể gây ra tai họa bên ngoài, thì đại chủng ấy cũng có thể hủy hoại phần bên trong, có thể đoạn dứt Mạt-ma; bởi vì đại chủng Địa không có thể hủy hoại phần bên ngoài, không có thể gây ra tai họa bên ngoài, cho nên cũng không có thể hủy hoại phần bên trong, không có thể đoạn dứt Mạt-ma.

Trong này, đại chủng Thủy đoạn dứt Mạt-ma, đó là lúc sắp chết, Thủy giới tăng mạnh ở trong thân bên trong, bởi vì sự ngâm ướt này khiến cho tất cả gân cơ rữa nát, bởi vì các gân cơ rữa nát cho nên các bộ phận rời ra, bởi vì các bộ phận rời ra cho nên không bao lâu sẽ mạng chung.

Đại chủng Hỏa đoạn dứt Mạt-ma, đó là lúc sắp chết, Hỏa giới

tăng mạnh ở trong thân bên trong, bởi vì sự nung đốt bức bách này khiến cho tất cả gân cơ cháy khô, bởi vì các gân cơ cháy khô cho nên các bộ phận rời ra, bởi vì các bộ phận rời ra cho nên không bao lâu sẽ mạng chung.

Đại chủng Phong đoạn dứt Mạt-ma, đó là lúc sắp chết, Phong giới tăng mạnh ở trong thân bên trong, bởi vì sự lay động va chạm này khiến cho tất cả gân cơ vỡ nát, bởi vì các gân cơ vỡ nát cho nên các bộ phận rời ra, bởi vì các bộ phận rời ra cho nên không bao lâu sẽ mạng chung.

Cũng có người muốn làm cho đại chủng Địa có thể đoạn dứt Mạtma, người ấy đưa ra cách nói này: Lúc sắp mạng chung, Địa giới trong thân tăng mạng, có thể làm cho tất cả huyệt đạo bế tắc, bởi vì các huyệt đạo bế tắc cho nên các bộ phận rời ra, bởi vì các bộ phận rời ra cho nên không bao lâu thì mạng chung.

Hỏi: Nơi nào có đoạn dứt Mạt-ma?

Đáp: Ở cõi Dục chứ không phải là cõi Sắc-Vô sắc. Ở trong cõi Dục thì địa ngục không có đoạn dứt Mạt-ma, bởi vì luôn luôn đoạn dứt; bàng sinh-ngạ quỷ có đoạn dứt Mạt-ma. Trong loài người thì ba châu chứ không phải là châu Bắc Câu-lô. Chư Thiên cõi Dục cũng không có đoạn dứt Mạt-ma, bởi vì ở nơi ấy không phải là quả của nghiệp não loạn.

Hỏi: Những Bổ-đặc-già-la nào có đoạn dứt Mạt-ma?

Đáp: Dị sinh-Thánh giả đều có. Ở trong Thánh giả thì Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác đều có, chỉ ngoại trừ Đức Thế Tôn, bởi vì không có nghiệp não loạn. Chư Phật Thế Tôn không có đoạn dứt Mạt-ma, thanh âm không hư hoại, không có từ từ mạng chung, bởi vì các căn của Phật Thế Tôn nhanh chóng diệt đi. Hoặc là A-la-hán có đoạn dứt Mạt-ma, chứ không phải là hạng người giết mổ trâu dê, bởi vì đoạn dứt Mạt-ma là quả của nghiệp não loạn. Nếu có nghiệp não loạn thì tuy là A-la-hán mà đoạn dứt Mạt-ma, nếu không có nghiệp não loạn thì tuy là hạng người giết mổ trâu dê mà cũng không có sự việc đoạn dứt Mạt-ma.

Hỏi: Phần giữa Mạt-ma phân bố như thế nào?

Đáp: Phần giữa Mạt-ma của những loài thú có nhiều sức mạnh như voi-ngựa-trâu…, các đốt xương chống vào nhau mà lại kiên cố; Đại Nặc-kiện-na thì các đốt xương nối liền nhau, giống như những tấm ván ghép lại; Bát-la-tắc-kiến-đề thì các đốt xương móc vào nhau, như những móc sắt móc lấy nhau; thân Na-la-diên thì các đốt xương nối liền nhau thành vòng tròn, giống như xích sắt. Thân Phật thì các đốt xương lần lượt xoay tròn chồng lên nhau mà kết lại, giống như rồng cuộn tròn. Các hữu tình khác thì đốt xương tách rời nhau mà không kiên cố, vì thế cho nên sức lực của những loại ấy là yếu nhất.

*******

 

Hỏi: A-la-hán nhập Niết-bàn thì tâm nên nói là thiện hay là vô ký?

Đáp: Nên nói là vô ký.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn làm cho người nghi ngờ có được quyết định. Đó là A-la-hán đã đoạn pháp bất thiện-thành tựu pháp thiện, hoặc có người liền nghi ngờ: Nếu như vậy thì A-la-hán phải trú trong tâm thiện mà nhập Niết-bàn. Bởi vì muốn làm cho mối nghi này được quyết định, cho nên trình bày về A-la-hán tuy đoạn pháp bất thiện-thành tựu pháp thiện, nhưng trú trong tâm vô ký mà nhập Niết-bàn chứ không phải là tâm thiện. Nếu trước đây không soạn ra phần luận này thì cho đến bây giờ nếu đưa ra câu hỏi: A-la-hán nhập Niết-bàn thì tâm nên nói là thiện hay là vô ký? Bởi vì không hiểu điều ấy, cho nên có lẽ đưa ra câu trả lời này: Là thiện chứ không phải là vô ký, bởi vì A-la-hán đã đoạn tất cả pháp bất thiện-thành tựu pháp thiện. Do trước đây đã soạn ra phần luận này, cho nên đến bây giờ đều có được cách hiểu chính xác. Bởi vì nhân duyên này, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Vì sao A-la-hán chỉ trú trong tâm vô ký mà nhập Niết-bàn?

Đáp: Bởi vì chỉ có tâm vô ký thuận với đoạn tâm. Nghĩa là tâm thiện mạnh mẽ, tồn tại vững vàng, khó mà hủy hoại, có thể làm cho tâm khác trải qua thời gian dài nối tiếp nhau khởi lên, không thuận với đoạn tâm; tâm vô ký yếu kém, giống như hạt giống mục ruỗng, không tồn tại vững vàng, dễ bị hủy hoại, không có thể làm cho tâm khác trải qua thời gian dài nối tiếp nhau khởi lên, là tùy thuận nhất đối với đoạn tâm.

Có người nói: Bởi vì tâm vô ký ít khởi lên lỗi lầm. Nghĩa là tâm thiện-bất thiện do hai Môn mà ở trong sinh tử khởi lên nhiều lỗi lầm:

  1. Do Môn thuộc quả Dị thục.
  2. Do Môn thuộc quả Đẳng lưu.

Tâm vô ký chỉ do Môn thuộc quả Đẳng lưu mà khởi lên lỗi lầm chứ không phải là quả Dị thục.

Có người nói: Bởi vì A-la-hán rời bỏ tất cả mọi đời kiếp. Nghĩa là những hữu tình khác lúc sắp mạng chung, bởi vì đời sau cho nên cố gắng tác ý cao nhất, khiến cho tâm thiện khởi lên, đừng để cho mình sẽ rơi vào những nẽo không phải là yêu thích; A-la-hán rời bỏ tất cả mọi đời kiếp cho nên không còn tác ý, chỉ trú trong tâm vô ký mà nhập Niết-bàn.

Có người nói: Bởi vì A-la-hán không mong cầu hướng về nơi dị thục. Nghĩa là những hữu tình khác mong cầu hướng về nơi dị thục của tương lai, cho nên lúc sắp mạng chung dùng gia hạnh cao nhất khiến cho tâm thiện khởi lên; A-la-hán không mong cầu hướng về nơi dị thục như vậy, cho nên chỉ trú trong tâm vô ký mà nhập Niết-bàn.

Có người nói: A-la-hán trú trong tâm thuộc tự tánh mà tiến vào Niết-bàn. Tâm thuộc tự tánh tức là tâm vô ký, bởi vì trong mọi đời kiếp chưa hề không có. Hoặc có người trong một Chúng đồng phần không có tâm thiện khởi lên, đó là người đã đoạn căn thiện chưa nối tiếp nhau. Hoặc có người trong một Chúng đồng phần không có tâm bất thiện khởi lên, đó là người đã lìa nhiễm của cõi Dục. Không có người nào trong một Chúng đồng phần không khởi lên tâm vô ký. Vì vậy nói tâm vô ký gọi là tâm thuộc tự tánh, chỉ trú trong tâm này mà tiến vào Niết-bàn.

Có người nói: Bởi vì A-la-hán cần phải trú trong tâm như bạn thân bậc Thượng mà nhập Niết-bàn. Như người sắp đi đến nơi khác, bạn thân đưa tiễn người ấy thì bạn thân bậc Hạ đưa đến cổng làng mà quay về, bạn thân bậc Trung thì đưa đến ranh giới thôn làng, bạn thân bậc Thượng thì đưa đến biên giới quốc gia. Như vậy, lúc A-la-hán hướng về Niết-bàn thì tâm nhiễm ô-bất thiện như bạn thân bậc Hạ, vào lúc lìa nhiễm của cõi Dục cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ thì liền rời bỏ; tâm thiện như bạn thân bậc Trung, vào lúc khởi lên tâm vô ký mà liền rời bỏ; tâm vô ký như bạn thân bậc Thượng, vào lúc nhập Niết-bàn mới liền rời bỏ.

Có người nói: Bởi vì đây là A-la-hán từ từ rời bỏ pháp sinh tử. Nghĩa là lúc lìa nhiễm của cõi Dục thì rời bỏ tất cả tâm bất thiện, lúc lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ thì rời bỏ tất cả tâm nhiễm ô, lúc khởi lên tâm vô ký thì rời bỏ tất cả tâm thiện, lúc tiến vào Niết-bàn Vô dư y thì rời bỏ tất cả tâm vô ký.

Tôn giả Diệu Âm nói rằng: “Tất cả tâm thiện đều là thực hiện khởi lên công dụng, lúc sắp mạng chung thì không có thể tiếp tục thực hiện công dụng, vì thế cho nên chỉ trú trong tâm vô ký mà nhập Niếtbàn.”

Hỏi: Tâm cuối cùng của A-la-hán là duyên vào nơi nào?

Đáp: Có người nói: Duyên với đại chủng các căn trong thân của mình.

Có người nói: Duyên với sáu Xứ bên trong.

Có người nói: Duyên với sáu Xứ bên ngoài.

Có người nói: Duyên với mười hai Xứ.

Tôn giả nói rằng: “Tâm cuối cùng của A-la-hán là duyên vào nơi nào? Đáp: Duyên với thân của mình, lúc ấy đối với thân của mình dấy lên Tưởng về không có mạng-lìa bỏ mạng, Không giải thoát môn hiện rõ ở trước mắt mà nhập Niết-bàn.”

Có người nói: Lúc ấy tâm duyên với tất cả các hành, bởi vì thấy rõ ràng về sai lầm đối với các hành, Vô nguyện giải thoát môn hiện rõ ở trước mắt mà nhập Niết-bàn.

Có người nói: Lúc ấy tâm duyên với Niết-bàn, bởi vì quán sát về công đức vắng lặng đối với Niết-bàn, Vô tướng giải thoát môn hiện rõ ở trước mắt mà nhập Niết-bàn.

Nên biết trong này dựa vào tâm mạng chung nối tiếp nhau của A-la-hán mà nói, không phải là tâm trong sát-na cuối cùng, bởi vì lúc ấy tâm chỉ là vô ký.

Đại đức nói rằng: “Tâm cuối cùng của A-la-hán duyên vào cảnh đã thấy-nghe-hiểu-biết, bởi vì lúc ấy tâm là do tự Thể dị thục sinh thâu nhiếp, do hành của nghiệp trước đây không còn cho nên tự nhiên đoạn diệt, như vòng xoay của thợ gốm đến cuối cùng thì dừng lại.”

Hỏi: Vì sao hai đệ tử bậc Hiền nhập Niết-bàn trước mà Đức Phật thì nhập Niết-bàn sau?

Đáp: Bởi vì hai Tôn giả ấy trước đây trong sinh tử dằng dặc, tạo tác tăng trưởng về nghiệp cảm không có gián đoạn, đừng cho rằng trống rỗng không có quả dị thục. Bởi vì hai nhân duyên cho nên hai Tôn giả ấy cầu mong như vậy để phát khởi nghiệp này:

  1. Bởi vì thấy làm nguyên cớ trước tiên.
  2. Bởi vì nghe làm nguyên cớ trước tiên.

Bởi vì thấy làm nguyên cớ trước tiên, hai Tôn giả ấy trong quá khứ đã từng thấy hai đệ tử bậc Hiền của Tam miệu Tam-phật-đà trước kia nhập Niết-bàn trước mà Đức Phật ấy thì nhập Niết-bàn sau. Bởi vì nghe làm nguyên cớ trước tiên, hai Tôn giả ấy trong quá khứ đã từng nghe hai đệ tử bậc Hiền của Tam miệu Tam-phật-đà trước kia nhập Niết-bàn trước mà Đức Phật ấy thì nhập Niết-bàn sau. Đã thấy-nghe rồi mà liền dẫn dắt khởi lên tùy thuận với nhân ấy: Các công hạnh của mình như Trì giới-như Khổ hạnh-như Phạm hạnh, tất cả đều hồi hướng, nguyện cho mình ở đời vị lai được làm các loại công hạnh như bậc Thiện sĩ ấy, luôn luôn cùng với bậc Đại Sư cảm thọ niềm vui của pháp hiện tại mà không có gián đoạn. Nếu Đức Phật nhập Niết-bàn trước mà hai đệ tử bậc Hiền nhập Niết-bàn sau, thì họ đã tạo tác tăng trưởng về nghiệp cảm không có gián đoạn, sẽ trống rỗng không có quả dị thục.

Hỏi: Tất cả sự tạo tác tăng trưởng về nghiệp cảm không có gián đoạn, không có ai như Đức Phật, nếu hai đệ tử bậc Hiền nhập Niết-bàn trước thì nghiệp cảm không có gián đoạn của Đức Phật sẽ trống rỗng không có quả dị thục, lẽ nào nghiệp cảm không có gián đoạn của hai đệ tử bậc Hiền là hơn hẳn so với Đức Phật hay sao?

Đáp: Đệ tử có hai loại thọ dụng hơn hẳn so với Thầy:

  1. Thọ dụng về tài sản.
  2. Thọ dụng về giáo pháp.

Thầy có một thọ dụng hơn hẳn so với đệ tử, đó là tài sản chứ không phải là giáo pháp. Nhưng tạo tác tăng trưởng về nghiệp cảm không có gián đoạn, chỉ bởi vì giáo pháp chứ không phải là bởi vì tài sản, cho nên không có sai lầm trước đây.

Hỏi: Trong hai đệ tử bậc Hiền thì người có Bát-nhã hơn hẳn lại Niết-bàn trước chứ không phải là người có Thần thông hơn hẳn, người có Thần thông hơn hẳn đối với điều ấy đã mất đi nghĩa thọ dụng về giáo pháp, làm sao không phải là nghiệp cảm không có gián đoạn trống rỗng không có quả dị thục?

Đáp: Người có Bát-nhã hơn hẳn không có ai như Đức Phật, vị ấy tuy Niết-bàn mà bởi vì Đức Thế Tôn đang còn, cho nên đối với sự thọ dụng về giáo pháp không phải là trống rỗng không có quả.

Lại nữa, bởi vì pháp vốn như vậy, cho nên hai đệ tử bậc Hiền nhập Niết-bàn trước Đức Phật. Nghĩa là pháp thuận theo như vậy không có thể thay đổi, không có thể nêu ra vặn hỏi, là nghĩa của pháp vốn như vậy. Đây là hiển bày về hai đệ tử bậc Hiền của hết thảy chư Phật, pháp thuận theo mà nhập Niết-bàn trước Đức Phật, lý này không có gì khác.

Có người nói: Bởi vì pháp tương tự với Chuyển Luân Vương. Như Chuyển Luân Vương sắp đi đến tất cả mọi nơi chốn chưa đến, nhất định phải trước tiên truyền cho quân tướng dũng mãnh đi trước dẫn đường mà đến; như vậy bậc Thập Lực Pháp Chuyển Luân Vương sắp đi đến cảnh giới Niết-bàn Vô dư y, cũng truyền cho hai đệ tử bậc Hiền như quân tướng dũng mãnh đi trước dẫn đường mà đến.

Có người nói: Bởi vì muốn làm cho hữu tình đã được hóa độ tiến vào Phật pháp. Nghĩa là có hữu tình đã được hóa độ, tuy ở gần bên Đức Phật mà đến hết Chúng đồng phần, không muốn đi đến nơi Đức Phật tiếp nhận thực hành Phật pháp, nếu lúc thấy hai đệ tử bậc Hiền nhập Niết-bàn thì sẽ lo sợ chán ngán đối với sinh tử, đi đến nơi Đức Phật tiếp nhận thực hành Phật pháp.

Có người nói: Bởi vì trừ bỏ tâm buồn lo của hữu tình đã được hóa độ. Nghĩa là nếu Đức Phật nhập Niết-bàn trước thì không có ai có thể trừ bỏ tâm buồn lo của hữu tình đã được hóa độ; nếu hai đệ tử bậc Hiền nhập Niết-bàn trước thì có Như Lai có thể ở trong bốn tháng mùa mưa, dựa vào điều ấy và tự mình nói về giáo pháp Vô thường, trừ bỏ tâm lý buồn lo của họ khiến cho tu tập công hạnh thù thắng.

Có người nói: Bởi vì muốn làm cho hữu tình đã được hóa độ, trú trong ý niệm biết trước Đức Phật sẽ nhập Niết-bàn. Nghĩa là bởi vì hai đệ tử bậc Hiền nhập Niết-bàn trước, hữu tình đã được hóa độ sẽ dấy lên nghĩ rằng: Đức Phật cũng không bao lâu sẽ nhập Niết-bàn, bởi vì hai đệ tử bậc Hiền đã nhập Niết-bàn, như trời sắp nổi sấm sét thì nhất định phải chớp lóe trước, nếu không vì chớp lóe làm trước mà sấm sét chấn động thì khiến cho hữu tình khiếp sợ, nghe thấy kinh hãi run rẩy hoặc là khiến cho sợ quá mà chết; vì thế cho nên lúc trời sắp nổi sấm sét, vì thương xót hữu tình cho nên trước tiên phát ra chớp lóe, họ đã biết rồi yên tâm mà chờ đợi, tuy nghe sấm sét chấn động nhưng vẫn không có gì kinh hãi. Như vậy, nếu Đức Phật nhập Niết-bàn trước thì khiến cho một loại hữu tình, tôn kính ngưỡng mộ đối với Đức Phật sẽ kinh hãi muộn phiền vô cùng; nếu hai đệ tử bậc Hiền nhập Niết-bàn trước, thì khiến cho loại ấy biết trước khởi lên ý nghĩ Như Lai nhập Niết-bàn, cho nên đến lúc Đức Phật nhập Niết-bàn sẽ không có gì kinh hãi muộn phiền.

Có bài tụng nói:

“Luôn luôn dấy lên tưởng Vô thường,
Biến hoại thì không có buồn lo,
Như thấy chớp lóe làm đầu tiên,
Nghe sấm sét không hề kinh sợ.”

Có người nói: Bởi vì chấm dứt sự phỉ báng. Nghĩa là có ngoại đạo luôn luôn phỉ báng Đức Phật rằng: Sa-môn Kiều-đáp-ma thâu nhiếp tiếp nhận Ô-ba-để-sa và Câu-lữ-đa, cho nên ban đêm đi theo hỏi han thâu nhận-ban ngày nói cho người khác. Nếu hai người ấy nhập Niếtbàn rồi, Đức Thế Tôn thuyết pháp không khác thời gian trước đây, thì sự phỉ báng của các ngoại đạo đều chấm dứt.

Có người nói: Bởi vì hiển bày Đức Thế Tôn không tồn tại lâu dài ở thế gian. Như lúc thế giới sắp sửa hủy hoại, núi Tô-mê-lô thường xuyên bị hai Đại Long vương là Nan-đà và Ô-ba-nan-đà quấn quanh bỏ đi, chư Thiên nhìn thấy rồi thì biết là thế giới không bao lâu sẽ hủy hoại. Như vậy, hai Tôn giả Xá-lợi-tử và Đại Mục-kiền-liên nhập Niết-bàn trước, thế gian liền biết là Đức Phật không bao lâu sẽ diệt độ.

Bởi vì các loại nhân duyên như vậy, cho nên hai đệ tử bậc Hiền nhập Niết-bàn trước, sau đó Đức Phật mới diệt độ.

Hỏi: Vì sao Tỳ kheo (cụ thọ) Tô-bạt-đà-la nhập Niết-bàn trước, sau đó Đức Phật mới diệt độ?

Đáp: Cũng bởi vì pháp vốn như vậy. Nghĩa là pháp của chư Phật vốn như vậy, đệ tử cuối cùng nhập Niết-bàn trước, sau đó Đức Phật mới diệt độ.

Hỏi: Thế nào là pháp vốn như vậy (pháp nhĩ)?

Đáp: Pháp thuận theo như vậy không có thể thay đổi, cho nên gọi là pháp vốn như vậy. Đây là hiển bày về pháp của hết thảy chư Phật thuận theo mà nhập Niết-bàn sau đệ tử cuối cùng, lý này không có gì khác.

Có người nói: Bởi vì pháp tương tự với Chuyển Luân Vương. Như Chuyển Luân Vương sắp đi vào dạo chơi trong khu vườn có nhiều cảnh đẹp, nhất định phải dùng các đồ vật trang nghiêm để trang điểm cho Vương tử nhỏ nhất, khiến Vương tử ấy đi vào trước, sau đó mới tự mình đi đến; như vậy bậc Thập Lực Vô Thượng Pháp Vương sắp sửa đi vào cảnh giới Niết-bàn Vô dư y, như khu vườn có nhiều cảnh đẹp, cũng trước tiên dùng pháp phần Bồ-đề để trang nghiêm cho đệ tử cuối cùng, khiến nhập Niết-bàn trước, sau đó tự mình mới diệt độ.

Có người nói: Tôn giả Tô-bạt-đà-la dấy lên nghĩ rằng: Tất cả những người đồng Phạm hạnh đều tiến vào cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y ở trước mình, mình nên tiếp tục tiến vào cảnh giới Niết-bàn Vô dư y ở trước tất cả người đồng Phạm hạnh. Bởi vì chí nguyện ấy, cho nên Tôn giả ấy nhập Niết-bàn trước Đức Phật.

Có người nói: Tôn giả ấy dấy lên nghĩ rằng: Như tiếp nhận bao nhiêu công đức của Thánh giáo, trở lại tiếp nhận bấy nhiêu lỗi lầm của sinh tử, mình đã không có thể nhận lấy rất nhiều công đức của Thánh giáo, thì đâu cần phải tồn tại lâu dài để nhận lấy rất nhiều lỗi lầm của sinh tử? Vì vậy Tôn giả ấy nhập Niết-bàn trước Đức Phật.

Có người nói: Bởi vì Tôn giả ấy sợ hãi tiếp nhận nhiều sự lợi dưỡng cung kính. Nghĩa là các vị Đại lực sĩ trong thành Câu-thi trước đây khởi lên ý tưởng Đại Sư đối với Tôn giả ấy, lại biết vị ấy đạt được quả A-la-hán, Tôn giả ấy dấy lên nghĩ rằng: Nếu nhập Niết-bàn sau Đức Phật thì họ nhất định tìm cách cúng dường nhiều đối với mình, may mắn nhờ Đức Phật chưa Niết-bàn mà các vị Đại lực sĩ cúng dường Đức Thế Tôn, chưa rảnh rỗi để đến với nhau, mình nên nhập Niết-bàn trước Đức Phật.

Có người nói: Bởi vì vị ấy muốn đoạn dứt nguồn gốc của sự tranh cãi. Nghĩa là Tôn giả ấy dấy lên ý nghĩ như vậy: Nếu mình nhập Niếtbàn sau Đức Phật, thì ngoại đạo cho rằng mình là đồng loại với họ, các Tỳ kheo lại nói là đồng loại với mình, vì vậy sẽ dấy khởi đủ loại tranh chấp. Vị ấy quán xét ở vị lai có sự việc như vậy, vì thế cho nên nhập Niết-bàn trước Đức Phật.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày về công đức giáo hóa của Đức Thế Tôn ở giai đoạn cuối cùng cũng không có gì giảm sút. Nghĩa là hoặc có người dấy lên nghĩ rằng: Bởi vì lui sụt công đức mà Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn. Tôn giả ấy muốn hiển bày về Đức Thế Tôn ở giai đoạn cuối cùng cũng có thể giáo hóa hữu tình, khiến cho công đức đầy đủ trọn vẹn, đó là khiến cho tiến vào cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Bởi vì các loại nhân duyên như vậy, cho nên Tôn giả ấy nhập Niết-bàn trước Đức Phật.

Như nói: “Đức Thế Tôn dựa vào Định Bất động tịch tĩnh mà nhập Niết-bàn, ánh mắt của thế gian mất đi.” Hỏi: Đây là ở trong Định hay là rời khỏi Định?

Đáp: Rời khỏi Định.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Bởi vì muốn làm cho người nghi ngờ có được quyết định. Nghĩa là trong kinh nói: “Đức Thế Tôn dựa vào Định Bất động tịch tĩnh mà nhập Niết-bàn, ánh mắt của thế gian mất đi.” Hoặc có người nghi rằng: Đức Phật ở trong Định mà nhập Niết-bàn. Bởi vì muốn làm cho mối nghi này có được quyết định, trình bày về Đức Phật rời khỏi Định mà nhập Niết-bàn, cho nên soạn ra phần luận này.

Trong này, Định Bất động tịch tĩnh, đó là có Định tương ưng với tâm vô phú vô ký của cõi Dục, tựa như Tĩnh lự thứ tư cho nên gọi là Bất động tịch tĩnh. Đức Phật dựa vào Định này mà nhập Niết-bàn.

Các Sư nước Kiện-đà-la ở phương Tây đưa ra cách nói như vậy:

“Như nói: Đức Thế Tôn tiến vào Tĩnh lự thứ tư mà nhập Niết-bàn, ánh mắt của thế gian mất đi.

Hỏi: Đây là ở trong Định hay là rời khỏi Định?

Đáp: Rời khỏi Định.”

Hỏi: Đức Phật tiến vào đầy đủ bốn Tĩnh lự mà nhập Niết-bàn, vì sao chỉ nói là tiến vào Tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Tuy cũng tiến vào ba Tĩnh lự trước mà không phải là vững bền, nếu tiến vào Tĩnh lự thứ tư thì sẽ vững bền, cho nên chỉ nói đến Tĩnh lự thứ tư.

Có người nói: Bởi vì tiến vào Tĩnh lự thứ tư cho nên tiến vào ba Tĩnh lự trước, vì vậy chỉ nói đến Tĩnh lự thứ tư.

Có người nói: Ba Tĩnh lự trước giống như ở trên đường đi, Tĩnh lự thứ tư là nơi đích thực đi đến, vì vậy chỉ nói đến Tĩnh lự thứ tư.

Có người nói: Lúc Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, từ Tĩnh lự thứ tư rời ra rồi tiến vào Cận phần của Tĩnh lự thứ ba, từ Cận phần của Tĩnh lự thứ ba rời ra rồi tiến vào Cận phần của Tĩnh lự thứ hai, từ Cận phần của Tĩnh lự thứ hai rời ra rồi tiến vào Cận phần của Tĩnh lự thứ nhất, từ Cận phần của Tĩnh lự thứ nhất khởi lên tâm thiện của cõi Dục hiện rõ ở trước mắt, tâm thiện của cõi Dục không gián đoạn, tâm vô phú vô ký của cõi Dục hiện rõ ở trước mắt, liền trú trong tâm này mà nhập Niếtbàn. Bởi vì ba Tĩnh lự trước chỉ là tiến vào-rời ra Cận phần chứ không phải là Căn bản, Tĩnh lự thứ tư thì tiến vào-rời ra Căn bản, vì thế cho nên chỉ nói đến Tĩnh lự thứ tư.

Tôn giả Diệu Âm nói rằng: “Lúc Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, Tĩnh lự thứ tư không gián đoạn, tâm thiện của cõi Dục hiện rõ ở trước mắt, tâm thiện của cõi Dục không gián đoạn, tâm vô phú vô ký của cõi Dục hiện rõ ở trước mắt, liền trú trong tâm này mà nhập Niết-bàn.”

Hỏi: Lẽ nào có người có thể từ Tĩnh lự thứ tư không gián đoạn liền khởi lên tâm thiện của cõi Dục chăng?

Đáp: Có, đó là Đức Phật chứ không phải là ai khác.

Hỏi: Vì sao lúc Đức Phật nhập Niết-bàn thì cuối cùng là tiến vào Tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Pháp của hằng hà sa số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều như vậy, theo thứ tự tiến vào Định mà nhập Niết-bàn. Nghĩa là tất cả chư Phật lúc nhập Niết-bàn thì pháp cuối cùng vốn như vậy, tiến vào Tĩnh lự thứ tư, từ đó rời ra rồi mà nhập Niết-bàn.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Đức Phật đối với Định ấy vô cùng tự tại, tuy sắp nhập Niết-bàn mà vẫn ngay lúc ấy tiến vào, nếu không như vậy thì sẽ không có thể hiện rõ trước mắt.

Có người nói: Bởi vì Đức Phật thương xót chúng sinh ở đời sau. Nghĩa là sau khi Đức Phật diệt độ có các chúng sinh sẽ dấy lên nghĩ rằng: Đức Thế Tôn đầy đủ Nhất thiết trí, lúc sắp Niết-bàn hãy còn tiến vào Tĩnh lự thứ tư, huống gì chúng ta không ở trong các Đẳng chí chịu khó thực hiện gia hạnh hay sao? Vì vậy mà chịu khó tu tập tất cả Đẳng chí.

Có người nói: Bởi vì pháp tương tự với Chuyển Luân Vương. Như Chuyển Luân Vương, nếu trước đây ở nơi này làm lễ Quán Đảnh mà tiếp nhận Vương vị, thì về sau ở ngay nơi này mà mạng chung; như vậy bậc Thập Lực Vô Thượng Pháp Vương, trước kia dựa vào Tĩnh lự thứ tư mà tiếp nhận ngôi vị Pháp Vương, sau vẫn dựa vào nơi này mà nhập Niết-bàn.

Có người nói: Bởi vì pháp tương tự với chủ buôn rất giàu có. Như người chủ buôn giàu có, cuối cùng trao đổi châu báu rất giá trị mà không có gì luyến tiếc; như vậy Đức Thế Tôn cuối cùng rời bỏ Tĩnh lự thứ tư thù thắng mà không có gì luyến tiếc.

Lúc Đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn, trước tiên khởi lên tâm thiện của cõi Dục, từ đây không gián đoạn tiến vào Tĩnh lự thứ nhất, từ Tĩnh lự thứ nhất tiến vào Tĩnh lự thứ hai, như vậy theo thứ tự cho đến từ Vô sở hữu xứ tiến vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ không gián đoạn tiến vào Định Diệt thọ-tưởng, từ Định Diệt thọ-tưởng không gián đoạn tiến vào Vô sở hữu xứ.

Từ Vô sở hữu xứ tiến vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ tiến vào Thức vô biên xứ.

Từ Thức vô biên xứ tiến vào Vô sở hữu xứ, từ Vô sở hữu xứ tiến vào Không vô biên xứ.

Từ Không vô biên xứ tiến vào Thức vô biên xứ, từ Thức vô biên xứ tiến vào Tĩnh lự thứ tư.

Từ Tĩnh lự thứ tư tiến vào Không vô biên xứ, từ Không vô biên xứ tiến vào Tĩnh lự thứ ba.

Từ Tĩnh lự thứ ba tiến vào Tĩnh lự thứ tư, từ Tĩnh lự thứ tư tiến vào Tĩnh lự thứ hai.

Từ Tĩnh lự thứ hai tiến vào Tĩnh lự thứ ba, từ Tĩnh lự thứ ba tiến vào Tĩnh lự thứ nhất.

Từ Tĩnh lự thứ nhất tiến vào Tĩnh lự thứ hai, từ Tĩnh lự thứ hai tiến vào Tĩnh lự thứ ba.

Từ Tĩnh lự thứ ba tiến vào Tĩnh lự thứ tư, từ Tĩnh lự thứ tư rời ra liền nhập Niết-bàn.

Như vậy, lúc Đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn, bốn lần tiến vào Tĩnh lự thứ tư, ba lần trước tiến vào thì chưa gọi là Định Bất động tịch tĩnh, lần thứ tư tiến vào thì mới gọi là Định Bất động tịch tĩnh. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì ba lần trước tiến vào thì không duyên với Niết-bàn, lần thứ tư tiến vào thì mới duyên với Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao lúc Đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn không thuận theo vượt lên trên (thuận siêu) tiến vào các Định mà chỉ ngược lại vượt lên trên (nghịch siêu) để tiến vào?

Đáp: Pháp của hằng hà sa số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều như vậy, vượt lên trên để tiến vào các Định.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Đức Thế Tôn đạt được tự tại đối với các Định. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu có đạt được tự tại đối với Định, thì mới có năng lực không dựa vào thuận theo vượt lên trên tiến vào mà vẫn ngược lại vượt lên trên để tiến vào; nếu không tự tại đối với các Định, thì hãy còn không có thể thuận theo vượt lên trên, huống gì có thể ngược lại vượt lên trên mà tiến vào các Định hay sao?

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Đức Thế Tôn có năng lực làm điều khó làm. Nghĩa là không thuận theo vượt lên trên mà có thể ngược lại vượt lên trên để tiến vào các Định, thì điều nàu là khó, không phải là như thuận theo vượt lên trên tiến vào rồi mới ngược lại vượt lên trên.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Đức Thế Tôn có uy lực to lớn. Nghĩa là uy lực của Đức Thế Tôn mởi có năng lực không thuận theo vượt lên trên mà ngược lại vượt lên trên, Thanh văn-Độc giác nếu không thuận theo vượt lên trên thì không có thể ngược lại vượt lên trên mà tiến vào các Định.

Có người nói: Bởi vì muốn tiến vào đủ cả Định Diệt tận. Nghĩa là lúc bấy giờ nếu Đức Phật thuận theo vượt lên trên tiến vào các Định, thì không có thể tiến vào Định Diệt tận. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Định Diệt tận cần phải thuận theo tâm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ từ từ không gián đoạn hiện rõ ở trước mắt, như vậy lúc Đức Phật nhập Niếtbàn thì không cần phải ngay lúc ấy tiến vào tất cả Tĩnh lự-Giải thoátĐẳng trì-Đẳng chí. Nhưng lúc Đức Phật nhập Niêt-bàn thì quyết định ngay lúc ấy tiến vào tất cả Tĩnh lự-Giải thoát-Đẳng trì-Đẳng chí, vì thế cho nên không thuận theo vượt lên trên tiến vào các Định mà ngược lại vượt lên trên để tiến vào các Định.

Hỏi: Vì sao lúc Đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn thì ngay lúc ấy tiến vào tất cả Tĩnh lự-Giải thoát-Đẳng trì-Đẳng chí?

Đáp: Bởi vì pháp của hằng hà sa số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều như vậy. Nghĩa là pháp của hết thảy chư Phật sắp nhập Niếtbàn đều ngay lúc ấy tiến vào tất cả Tĩnh lự-Giải thoát-Đẳng trì-Đẳng chí.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Đức Thế Tôn đạt được tự tại đối với các Định. Nghĩa là nếu đạt được tự tại đối với các Định, thì lúc sắp nhập Niết-bàn vẫn có năng lực ngay lúc ấy tiến vào; nếu không đạt được tự tại đối với các Định, thì những lúc khác hãy còn không có thể ngay lúc ấy tiến vào, huống gì sắp nhập Niết-bàn hay sao?

Có người nói: Bởi vì Đức Phật thương xót các hữu tình ở đời sau. Nghĩa là sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn có các hữu tình sẽ dấy lên nghĩ rằng: Đức Thế Tôn đầy đủ Nhất thiết trí, lúc sắp Niết-bàn hãy còn ngay lúc ấy tiến vào tất cả Tĩnh lự-Giải thoát-Đẳng trì-Đẳng chí, huống gì chúng ta đối với những pháp ấy không chịu khó thực hiện gia hạnh hay sao? Vì vậy mà chịu khó tu tập Tĩnh lự-Giải thoát-Đẳng trì-Đẳng chí.

Có người nói: Bởi vì muốn tiếp tục tu tập để lưu lại xá-lợi (thiếtlợi-la). Lại bởi vì cung cấp nuôi dưỡng thân thể gầy yếu. Lại bởi vì mở rộng ruộng phước cho người khéo léo như Chuẩn Đà. Lại bởi vì ngăn chặn nhân duyên tan vỡ của thân mà sinh ra các cảm thọ khổ đau trong thân.

Có người nói: Bởi vì pháp tương tự với chủ buôn rất giàu có. Như người chủ buôn giàu có, lúc sắp mạng chung mở toang các kho tàng nhìn xem tài sản châu báu, dặn dò gởi gắm cho con cháu, rồi sau đó nhắm mắt ra đi; như vậy Đức Thế Tôn là vị chủ buôn Vô thượng trong Chánh pháp, lúc sắp Niết-bàn mở toang kho tàng công đức, nhìn xem các pháp như tài sản châu báu, là tất cả Tĩnh lự-Giải thoát-Đẳng trìĐẳng chí, dặn dò gởi gắm cho đệ tử, sau đó mới nhập Niết-bàn.

Tôn giả Diệu Âm nói rằng: “Bởi vì Đức Thế Tôn tự mình hiển bày về pháp không lui sụt. Nghĩa là Đức Phật thành tựu tất cả công đức, đạt được tự tại đối với tất cả các cảnh của trí, sắp nhập Niết-bàn vẫn có năng lực ngay lúc ấy khởi lên tất cả Tĩnh lự-Giải thoát-Đẳng trì-Đẳng chí.”

Như trong kinh nói: “Đức Thế Tôn ở trong khu rừng giữa hai cây Sa-la, nơi sinh sống của các Lực sĩ thuộc thành Câu-thi mà nhập Niếtbàn.”

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn ở thành Câu-thi?

Đáp: Bởi vì muốn hóa độ các Lực sĩ trong thành Câu-thi. Lại bởi vì thâu nhiếp hóa độ ngoại đạo Tô-bạt-đà-la. Lại bởi vì làm cho Đại lực sĩ Bổ-yết-sa gieo trồng chủng tử Bồ-đề của Độc giác. Lại bởi vì làm cho vợ của người ấy gieo trồng chủng tử Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Có người nói: Bởi vì ngăn chặn các hàng Lực sĩ trong thành Câu thi gặp phải sự khinh miệt. Nghĩa là nếu Đức Phật nhập Niết-bàn ở trong các thành rộng lớn khác, thì các hàng Lực sĩ trong thành nhỏ bé này sẽ bị khinh miệt, không có được một phần thân để lại của Như Lai, cho nên Đức Phật ở tại thành này mà nhập Niết-bàn.

Có người nói: Bởi vì lưu truyền thân để lại của Đức Phật rộng ra khắp nơi. Nghĩa là nếu Đức Phật nhập Niết-bàn ở trong các thành rộng lớn khác, thì nhân dân trong các thành ấy đông đúc khó có thể khuất phục, đối với thân để lại của Đức Phật chắc là sinh lòng keo kiệt giữ gìn thì không có thể phân bố khắp nơi; nếu nhập Niết-bàn ở thành Câu-thi, các Lực sĩ đều có thân tâm dũng mãnh, tâm dũng mãnh cho nên vui vẻ để phân bố, thân dũng mãnh cho nên không bị người khác hàng phục mà vui vẻ phân bố, thì làm cho thân để lại của Đức Phật được lưu truyền rộng ra khắp nơi.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Đức Phật tuy sắp nhập Niếtbàn mà đối với thế gian vẫn còn thọ nhận quả giàu sang tăng thượng. Nghĩa là nếu Đức Phật nhập Niết-bàn ở các thành rộng lớn khác, thì sự thọ nhận cúng dường tuy nhiều hơn Luân Vương gấp trăm ngàn lần mà chưa phải là kỳ lạ; nếu nhập Niết-bàn tuy ở tại thành xa xôi nhỏ bé này, mà sự thọ nhận cúng dường hãy còn nhiều hơn Luân Vương gấp trăm ngàn lần, thì mới là kỳ lạ.

Có người nói: Bởi vì Đức Phật đã từng nhiều lần xả thân mạng ở nơi này. Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với A-nan: Ngay cả khu rừng Sa-la bên bờ sông Kim-sa, nơi các Lực sĩ đứng đầu tăng thêm phạm vi tháp thờ, xung quanh bốn phía đều mười hai Du-thiện-na, Như Lai ở nơi này đã sáu lần xả thân mạng Chuyển Luân Vương, lần thứ bảy này xả thân mạng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Này A-nan! Nên biết Ta không thấy nơi nào ở vùng này, hoặc là Đông-Nam-Tây-Bắc, Như Lai lại xả thân mạng thứ tám. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Như Lai đoạn dứt con đường của các cõi, sinh tử vĩnh viễn không còn, không có thân đời sau.”

Như nói: “Đức Phật bảo với A-nan: Ông hãy đi đến hai cây Sa-la giữa khu rừng, bố trí giường nằm đầu hướng về Bắc cho Đức Phật, Như Lai vào giữa đêm nay sẽ ở cảnh giới Niết-bàn Vô dư y mà nhập Niếtbàn…”

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn khiến bố trí giường nằm đầu hướng về Bắc mà nằm?

Đáp: Bởi vì muốn hiển bày về pháp của Luận Sư ở nước ấy cần phải như vậy. Nghĩa là Luận Sư ở nước ấy đều bố trí giường nằm đầu hướng về Bắc mà nằm, Đức Thế Tôn cũng như vậy; bởi vì Đức Phật có năng lực điều phục các Luận Sư, chính là vị Luận Sư bậc nhất Vô thượng, cho nên khiến bố trí thuận theo pháp ấy mà nằm.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày lìa xa sự tốt lành mà thế gian chấp trước hư vọng. Nghĩa là tục lệ ở nước ấy, người chết mới để nằm trên giường mà đầu hướng về Bắc, Đức Phật vì phá bỏ sự chấp trước tốt lành hư vọng ấy, cho nên chưa nhập Niết-bàn vẫn khiến bố trí giường nằm đầu hướng về Bắc mà nằm.

Có người nói: Bởi vì muốn ngăn chặn tâm tưởng bất tịnh của các hàng Lực sĩ trong thành Câu-thi. Nghĩa là tục lệ ở nước ấy xây dựng đền thờ Thiên thần đều hướng về phương Bắc, nếu Đức Phật xoay chân về Bắc mà nằm, thì các Lực sĩ sẽ sinh tâm tưởng bất tịnh: Vì sao khinh miệt sự tôn thờ của chúng ta, xoay chân về Bắc mà nằm?

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Đức Phật cung kính đối với Chánh pháp. Nghĩa là Đức Phật biết trước, sau khi nhập Niết-bàn thì ngọn đuốc của pháp Vô thượng sẽ rực cháy ở phương Bắc lâu dài không tắt đi, cho nên nằm trên giường mà đầu hướng về Bắc.

Có người nói: Bởi vì Đức Phật muốn hiển bày những việc làm của mình ở tất cả mọi lúc đều từ từ thù thắng. Nghĩa là Đức Phật từ ba Vô số kiếp đến nay đã khởi lên căn thiện, từ từ tăng thêm thù thắng chứ không hề có lụi tàn, cho nên để đầu hướng về phương thù thắng mà nằm, vì phương Bắc là phương thù thắng.

Có người nói: Bởi vì Đức Phật muốn hiển bày dân chúng ở phương Bắc từ từ tăng lên nhiều. Nghĩa là Đức Phật biết trước, sau khi nhập Niết-bàn thì dân chúng ở phương Bắc từ từ tăng lên nhiều, cho nên khiến bố trí giường nằm đầu hướng về Bắc mà nằm.

Như nói: “Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn đi đến chiếc giường đã bố trí, hông bên phải ở dưới, chân chồng lên nhau, mặt hướng về Tây, đầu hướng về Bắc mà nằm, trú trong Tưởng về ánh sáng, đầy đủ niệm Chánh tri…”

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nghiêng hông bên phải mà nằm?

Đáp: Bởi vì muốn hiển bày Đức Phật như Sư tử chúa mà nằm. Như trong kinh nói: “Nằm có bốn loại, đó là Sư tử chúa nằm-chư Thiên nằm-Quỷ nằm-người đam mê dục lạc nằm. Sư tử chúa nghiêng hông bên phải mà nằm, chư Thiên thì ngửa mặt mà nằm, Quỷ thì úp mặt mà nằm, người đam mê dục lạc thì nghiêng hông bên trái mà nằm.” Đức Phật là đấng Vô thượng, là Sư tử giữa loài người, cho nên nghiêng hông bên phải mà nằm.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Đức Thế Tôn như lời nói mà thực hành. Nghĩa là trong kinh nói: “Đức Phật bảo với A-nan: Các ông nên học theo cách nằm của Sư tử chúa.” Đức Phật là vị như lời nói mà thực hành, bởi vì đã khuyên người khác nghiêng hông bên phải mà nằm, cho nên tự mình cũng làm như vậy.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nằm mà nhập Niết-bàn chứ không ngồi?

Đáp: Bởi vì muốn làm cho Đại chúng dễ dàng nhận biết rõ ràng đối với toàn bộ thân thể của Đức Phật.

Có người nói: Nếu Đức Phật nằm mà nhập Niết-bàn, thì mức lượng thân thể hiện bày có thể nhận biết rõ ràng, không cần phải phân biệt.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Như Lai lìa xa sự kiêu ngạo lừa dối. Nếu Đức Phật ngồi mà nhập Niết-bàn, thì người không tin sẽ nói ra điều này: Đây là sự kiêu ngạo lừa dối, làm sao có người chết mà có thể ngồi ngay thẳng?

Có người nói: Bởi vì ngăn chặn ở đời vị lai sinh lòng phỉ báng đối với các Thánh giả. Nếu ngồi mà nhập Niết-bàn, thì vào lúc này các Ala-hán bởi vì thân lực yếu kém, cho nên nằm mà nhập Niết-bàn, người thế gian sẽ phỉ báng rằng không phải là A-la-hán, nếu đúng là A-la-hán thì vì sao không giống như Đức Phật ngồi mà nhập Niết-bàn?

Có người nói: Bởi vì đoạn tâm kiêu mạn của người cậy vào sức lực. Nghĩa là họ thấy Đức Phật nằm mà nhập Niết-bàn, đều dấy lên nghĩ rằng: Mỗi một phần thân thể của Đức Thế Tôn đều có đủ sức mạnh của Na-la-diên, hãy còn bị Vô thường bức bách, không có thể ngồi ngay thẳng, huống gì chúng ta là hạng phàm tục thấp hèn yếu kém mà cậy vào chút sức mạnh sinh lòng kiêu mạn sao?

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn ở thời gian giữa đêm mà nhập Niếtbàn?

Đáp: Bởi vì lúc này là lúc vắng lặng nhất. Nghĩa là ở vùng ấy lúc ban ngày nắng nóng không thể nào làm việc được, làm mọi công việc phần nhiều ở trong thời gian chiều muộn và sáng sớm, chỉ có thời gian giữa đêm thì tất cả đều vắng lặng. Như Lai luôn luôn yêu thích sự vắng lặng, ca ngợi sự vắng lặng, cho nên ở giữa đêm mà nhập Niết-bàn.

Có người nói: Bởi vì muốn hiển bày Đức Phật ở trong sự tănggiảm khéo léo điều tiết thích hợp chứ không rời bỏ trong chốc lát. Nghĩa là Đức Phật giữ lại thân mạng trong thời gian đầu đêm, xả bỏ thọ lượng trong thời gian cuối đêm; lại ở trong thời gian giữa đêm, giữ lại phần trước-xả bỏ phần sau, ở thời gian phần giữa mà nhập Niết-bàn.

Có người nói: Bởi vì Đức Phật muốn làm cho Đại chúng khởi tâm rất sợ hãi đối với bóng đen sinh tử. Nghĩa là Đức Phật ở giữa đêm của ngày mồng tám thuộc tháng Ca-lật-để-ca mà nhập Niết-bàn, lúc bấy giờ vầng trăng lặn ở trên đỉnh núi; như vậy vầng trăng Chánh Biến Tri của Đức Phật cũng ẩn đi trên đỉnh núi Đại Niết-bàn của Tĩnh lự, ngay lúc ấy hai loại bóng đen cùng lúc nổi lên, đó là bóng đen của Sắc tánh và bóng đen của Vô minh. Lúc ấy các Đại chúng nhìn thấy sự việc này rồi, liền khởi tâm rất sợ hãi đối với sinh tử, cho nên ở giữa đêm mà nhập Niết-bàn.

Có người nói: Bởi vì Đức Phật luôn luôn vui thích thực hành Trung đạo (xử trung). Nghĩa là xưa kia lúc Đức Phật còn làm Bồ-tát, ở trong đời loài trời cuối cùng sinh vào trong cõi trời Đổ-sử-đa; ở trong đời loài người cuối cùng sinh vào thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ thuộc Trung Ấn Độ; ở thời gian nửa đêm vượt thành xuất gia, luyện tập công hạnh Trung đạo, chứng quả vị Vô Thượng Giác, vì lợi ích cho hữu tình, nói về pháp Trung đạo vi diệu lìa xa Hữu-Vô; ở thời gian giữa đêm mà nhập Niết-bàn.

Như nói: “Lúc bấy giờ A-nan thưa với Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Trong thành Câu-thi này có Lực sĩ như vậy-như vậy, cùng với nam nữ lớn nhỏ-tôi tớ hầu hạ-bạn bè quyến thuộc, tất cả đều quy y Đức Thế Tôn và Pháp cùng với Tỳ kheo Tăng, thọ các Học xứ…”

Hỏi: Luật nghi Biệt giải thoát do chính mình biểu hiện mà đạt được, làm sao các Lực sĩ ấy đã thọ giới do người khác biểu hiện mà đạt được?

Đáp: Bởi vì thần lực của Đức Phật. Nghĩa là giới đều do chính mình biểu hiện mà đạt được, nhưng lúc Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, nhờ uy lực của Đức Phật khiến cho giới của các Lực sĩ cũng do người khác biểu hiện mà đạt được.

Có người nói: Tôn giả A-nan trước đây từng đi vào thành Câu-thi, đã trao truyền Học xứ Tam quy cho các Lực sĩ, nay chỉ thưa với Đức Phật để Đức Phật biết, muốn hiển bày các Lực sĩ đều là đệ tử chân thật của Đức Phật, và hiển bày Như Lai ở giai đoạn cuối cùng vẫn có năng lực thâu nhiếp tiếp nhận các thế hệ mới học. Vì thế cho nên đệ tử của Đức Thế Tôn đầy đủ, chứ không phải là như ngoại đạo đến lúc sắp mạng chung thì đệ tử phân tán rời xa.

Có người nói: Luật nghi Biệt giải thoát cũng còn có loại khác, từ người khác biểu hiện mà đạt được, như người nữ Bán-ca-thi… tuy tự mình biểu hiện không rõ ràng lắm, mà do lực của người khác biểu hiện cho nên cũng đạt được luật nghi Biệt giải thoát.

Như nói: “Đức Phật bảo với Tỳ kheo: Từ nay trở đi và sau khi Ta diệt độ, không nên vội vàng độ cho ngoại đạo xuất gia-cho thọ Cụ túc giới, chỉ ngoại trừ người họ Thích và ngoại đạo Đa Phát thờ lửa. Nếu có người họ Thích mang y phục ngoại đạo đến cầu xin xuất gia, thì các ông hãy độ để cho xuất gia và cho thọ Cụ túc giới. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì quyến thuộc của Ta, cho nên khai mở cho phép…”

Hỏi: Đức Thế Tôn thành tựu Đại Bi hiện hành khắp nơi, vì sao chỉ khiến khai mở cho phép đối với quyến thuộc của mình?

Đáp: Có những người họ Thích trước đây quy y ngoại đạo mà chưa quy y với Đức Phật, nay phương tiện thâu nhiếp tiếp nhận cho nên nói ra lời này. Nghĩa là vì vua ác Tỳ-lô Thích-ca giết hại những người họ Thích trong thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-suất-đổ, có những người họ Thích nơi khác, bởi vì sợ hãi cho nên dựa vào ngoại đạo xuất gia để bảo toàn thân mạng. Đức Phật bởi vì điều ấy cho nên nói rằng: Các ông bởi vì sợ hãi, cho nên dựa vào ngoại đạo xuất gia, tiếp nhận pháp phục của họ, nay không còn sợ hãi kéo dài, nhất định phải trở về quy y với Phật pháp, vì vậy Ta dặn dò các đệ tử giữ gìn khiến độ cho họ. Do đó, rất nhiều ngoại đạo họ Thích đến quy y với Phật pháp.

Có người nói: Bởi vì muốn khuyên bảo dẫn dắt người họ Thích tăng thượng mạn, chưa tiến vào Phật pháp khiến cho tiến vào Phật pháp. Nghĩa là có những người họ Thích bởi vì tăng thượng mạn ràng buộc trong tâm, cho nên suốt dời không đến gặp Đức Phật, Như Lai nói lời này rồi liền nhập Niết-bàn. Những người ấy về sau nghe được dấy lên nghĩ rằng: Đức Phật lẽ nào không vì mình là quyến thuộc, mà lúc sắp nhập Niết-bàn hãy còn rủ lòng thương xót hay sao? Vì vậy không có ai không phát tâm thuần tịnh mà đến quy y với Phật pháp, xuất gia thọ giới.

Tôn giả Thế Hữu nói rằng: “Như Lai vì khiến cho quyến thuộc dòng họ Thích tích tập thêm nhiều căn thiện thù thắng, cho nên lúc sắp nhập Niết-bàn, đem điều này để dặn dò gởi gắm.”

Như trong kinh nói: “Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn để lộ phần thân trên, bảo với chúng Tỳ kheo rằng: Các ông nên quan sát Ta, các ông nên xem xét Ta! Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, khó có thể xuất hiện, khó có thể gặp được, hơn cả hoa Âu-đàmbát-la.”

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn để lộ phần thân trên, bảo với chúng Tỳ kheo rằng: Các ông nên quan sát Ta, các ông nên xem xét Ta…?

Đáp: Giả như có người luyện tập Xa-ma-tha tròn mười hai năm, phẩm thiện đã sinh ra không bằng công đức đã đạt được ở trong chốc lát quán sát thân tướng tốt đẹp của Đức Phật.

Trong này, ý nghĩa của lời Đức Phật nói rằng: Tụ phước mà Ta đã tích lũy từ ba Vô số kiếp thậm chí chưa làm một đống tro đến nay, các ông hãy ngước nhìn quán sát tỉ mỉ để cầu mong pháp kiên cố!

Hỏi: Các ông nên quan sát Ta, các ông nên xem xét Ta, có gì sai biệt?

Đáp: Các ông nên quan sát Ta, đó là dùng Nhãn thức; các ông nên xem xét Ta, đó là dùng Ý thức.

Lại nữa, nên quan sát Ta, đó là dùng tâm không có phân biệt; nên xem xét Ta, đó là dùng tâm có phân biệt.

Lại nữa, nên quan sát Ta, đó là đối với hiện tại; nên xem xét Ta, đó là đối với vị lai.

Lại nữa, nên quan sát Ta, đó là đối với Sinh thân; nên xem xét Ta, đó là đối với Pháp thân.

Lại nữa, quan sát Ta, đó là quán sát mà tích tập; xem xét Ta, đó là xem xét mà chứng được. Lại nữa, quan sát Ta, đó là quán sát mà chán ngán; xem xét Ta, đó là xem xét mà mừng vui.

Lại nữa, quan sát Ta, đó là quán sát về tướng tốt; xem xét Ta, đó là xem xét về công đức.

Đó gọi là sự sai biệt giữa Quan sát và Xem xét (quán-sát).

Như trong kinh nói: “Các thầy Tỳ kheo tạm thời có thể im lặng để so sánh, nên quán sát các hành đều là pháp tận diệt! Đây là lời dạy cuối cùng của Đức Thế Tôn.”

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói ra lời này?

Đáp: Các vị Tỳ kheo đều vì Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, lòng dạ vô cùng buồn bã, lần lượt thay nhau khóc lóc đau thương, Đức Phật muốn ngăn chặn sự đau thương xót xa của họ, khiến sinh tâm quán sát về các hành, cho nên nói ra lời này.

Trong này, các thầy Tỳ kheo tạm thời có thể im lặng để so sánh, là khiến cho trú trong Chánh niệm; nên quán sát các hành đều là pháp tận diệt, là khiến cho khởi lên Chánh tri.

Lại nữa, có thể im lặng để so sánh, là khiến tu tập Xa-ma-tha; quán sát các hành, là khiến tu tập Tỳ-bát-xá-na.

Lại nữa, có thể im lặng để so sánh, là khiến chấm dứt đau thương buồn bã; quán sát các hành, là khiến khởi tâm quán sát về các hành.

Tôn giả Diệu Âm nói rằng: “Các thầy Tỳ kheo tạm thời có thể im lặng để so sánh, là muốn ngăn chặn sự đau thương xót xa của người khác; nên quán sát các hành đều là pháp tận diệt, là hiển bày chính mình thành tựu về pháp không có quên mất.”

Trong này, ý nghĩa của lời Đức Phật nói rằng: Ta thành Phật chưa lâu đã nói ra điều này:

“Các hành đều là pháp Vô thường,
Có sinh ra thì có diệt đi,
Vì khởi lên cho nên không còn,
Pháp ấy vắng lặng là niềm vui.”

Nay lại dựa vào điều ấy mà nói các hành đều là pháp tận diệt, lẽ nào không phải là Ta thành tựu về pháp không có quên mất hay sao?

********

 

“Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói lời này xong liền tiến vào Tĩnh lự thứ nhất, theo thứ tự cho đến tiến vào Định Diệt tận. Lúc ấy, Tôn giả Anan liền hỏi Tôn giả A-nê-luật-đà rằng: Đức Thế Tôn bây giờ đã nhập Niết-bàn chăng? Trả lời rằng: Chưa đâu, chỉ là tiến vào Định Diệt tận mà thôi. Lại hỏi: Vì sao biết vậy? Trả lời rằng: Tôi đích thân nghe được từ Đức Phật, Đức Thế Tôn tiến vào Tĩnh lự thứ tư dựa vào Định Bất động tịch tĩnh mà nhập Niết-bàn, ánh mắt của thế gian mất đi.”

Hỏi: Tôn giả A-nan là biết mà hỏi, hay là không biết? Nếu biết thì vì sao lại hỏi? Nếu không biết thì làm sao gọi là nhận biết tâm của Đức Phật?

Đáp: Có người nói: Tôn giả ấy biết rõ điều đó.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao lại hỏi?

Đáp: Cũng có lúc biết mà cố ý hỏi để làm phát khởi ngôn luận, như nói: Đức Thế Tôn biết mà cố ý hỏi.

Lại nữa, Tôn giả A-nan muốn nêu rõ Tôn giả A-nê-luật-đà có công đức thù thắng, cho nên tuy biết mà vẫn hỏi. Nghĩa là Tôn giả ấy tuy có công đức thù thắng mà Đại chúng không biết, muốn khiến cho Đại chúng biết rõ điều ấy, vì vậy mà cố ý hỏi.

Có người nói: Tôn giả ấy không biết.

Hỏi: Nếu như vậy thì làm sao gọi là nhận biết tâm của Đức Phật?

Đáp: Đức Phật xuất Định rồi A-nan nhận biết tâm trước đây, mà lúc ấy không nhận biết là bởi vì Đức Phật còn ở trong Định.

Lại nữa, Tôn giả ấy nếu lúc trú trong tâm thuộc tánh thường hằng thì có thể nhận biết tâm của Đức Phật, lúc bấy giờ tâm ấy do hai điều buồn lo phiền muộn mà che khuất, cho nên không nhận biết tâm của Đức Phật:

  1. Buồn lo phiền muộn vì mất đi quyến thuộc.
  2. Buồn lo phiền muộn vì mất đi bậc Đại Sư.

Hỏi: Tôn giả A-nê-luật-đà vì sao biết vậy?

Đáp: Có người nói: Lúc Đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn, tiến vào Đẳng chí giống như Thanh văn, cho nên vị ấy biết được.

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói này, bởi vì lúc bấy giờ Đức Phật ngay lúc ấy tiến vào tất cả Tĩnh lự-Giải thoát-Đẳng trìĐẳng chí không giống như Thanh văn-Độc giác.

Hỏi: Nếu như vậy thì vị ấy làm sao biết được?

Đáp: Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn khởi tâm tiến vào-rời ra Định giống như Thanh văn-Độc giác, vị ấy nhờ đó biết được bởi vì là cảnh của vị ấy, giống như lúc voi chúa vượt qua sông sâu, nếu đang ở giữa sông thì loài người không có ai biết, chỉ quan sát dấu vết tiến vào-rời ra khỏi dòng nước thì biết nơi vo chúa đã tiến vào-rời ra; như vậy Đức Thế Tôn nếu lúc trú trong dòng sông của Đẳng chí rất sâu, thì tất cả Thanh văn-Độc giác không có thể ngay lúc ấy nhìn thấy, chỉ quan sát tâm tiến vào-rời ra Định như dấu vết tiến vào-rời ra khỏi dòng nước, thì biết tiến vào Định như vậy-rời ra từ Định như vậy.

Như nói: “Lúc bấy giờ Tôn giả Đại Ca-diếp-ba dấy lên nghĩ rằng: Mình nên lấy gì để dập tắt ngọn lửa thiêu cháy thân thể của Như Lai? Lập tức dấy lên nghĩ rằng: Nay mình nên dùng sữa thơm để dập tắt ngọn lửa! Ngay lúc khởi tâm thì có bốn dòng sữa thơm từ hư không mà rưới xuống, vì vậy khiến cho ngọn lửa thiêu cháy thân thể của Như Lai cùng lúc mà tắt ngấm.”

Hỏi: Vì sao cần phải dùng sữa thơm để dập tắt ngọn lửa thiêu cháy thân thể của Như Lai?

Đáp: Bởi vì muốn hiển bày về pháp tương tự với những người Tiên. Nghĩa là tục lệ ở nước ấy, nếu người Tiên mạng chung thì dùng sữa thơm để dập tắt ngọn lửa thiêu cháy thân thể, nếu người hưởng thụ dục lạc mạng chung thì dùng rượu để dập tắt ngọn lửa thiêu cháy thân thể; Đức Phật là bậc thù thắng ở trong những người Tiên, tức là vị người Tiên bậc nhất, cho nên nay cũng dùng sữa thơm để dập tắt ngọn lửa.

Lại nữa, muốn làm cho Xá-lợi của Đức Phật vô cùng thanh tịnh, cho nên dùng sữa thơm để rưới vào.

Lại nữa, sinh thân của Đức Phật là do sữa mà nuôi lớn, cho nên nay Xá-lợi cũng dùng sữa để rửa sạch.

Lại nữa, tánh của sữa là béo mà có thể dập tắt ngọn lửa; hoặc có vật tuy là tánh béo mà không có thể dập tắt ngọn lửa, lại khiến cho ngọn lửa rực lên, như các loại bơ-dầu…; có vật tuy có thể dập tắt ngọn lửa mà tánh không béo, như nước-rượu…; chỉ có sữa là tánh béo lại có thể dập tắt ngọn lửa, cho nên chỉ dùng sữa.

Bởi vì nghĩa này, cho nên Tôn giả Đại Ca-diếp-ba, hiện bày bốn dòng sữa thơm dùng để dập tắt ngọn lửa thiêu cháy thân của Như Lai.

Như nói: Lúc bấy giờ Tôn giả A-nan, sau khi Đức Phật nhập Niếtbàn đã trải qua bảy ngày đêm, đi vòng về phía tay phải quanh đống lửa thiếu cháy thân của Như Lai, nói bài tụng rằng:

“Ngàn lớp y Trà-tỳ Đức Phật,
Chỉ có hai lớp y không cháy,
Là y ngoài và y lót thân,
Đây là điều kỳ lạ vô cùng.”

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn chỉ có hai lớp y không cháy?

Đáp: Bởi vì có uy lực của các hàng Thiên thần tín kính Đức Phật đã giữ gìn làm cho không cháy.

Có người nói: Là do nguyện lực của Đức Phật đã giữ gìn làm cho trong-ngoài thanh tịnh, đó là một lớp y ở bên trong giữ gìn Xá-lợi (đàđô) của Như Lai khiến cho không phân tán nhiễm bẩn, một lớp y ở bên ngoài giữ gìn tất cả tro tàn khiến cho không bị gió cuốn mất.

Có người nói: Đây là biểu thị cho Chánh pháp của Như Lai có hai loại bảo vệ trong-ngoài, bảo vệ bên trong đó là những Tỳ kheo-Tỳ kheo Ni… thanh tịnh, bảo vệ bên ngoài đó là hàng Quốc vương-Đại thần… có niềm tin thanh tịnh, đây là uy lực của Chánh pháp khiến cho hai lớp y ấy không cháy.

Có người nói: Đây là biểu thị cho trong tâm-ngoài thân của Như Lai đều thanh tịnh, tâm thanh tịnh đó là bởi vì đã vĩnh viễn lìa xa tất cả phiền não và tập khí, thân thanh tịnh đó là bởi vì từ nghiệp dị thục của tướng thù thắng nhất đã dẫn dắt sinh ra.

Như nói: Bốn Hữu, đó là Bổn hữu-Tử hữu-Trung hữu-Sinh hữu.

Thanh của Hữu thì có nhiều nghĩa, nói rộng ra như trước. Trong này, thanh của Hữu nói đến năm Uẩn thuộc Chúng đồng phần của số hữu tình gọi là Hữu.

Hỏi: Thế nào là Bổn hữu?

Đáp: Trừ ra các uẩn thuộc phần Sinh-phần Tử, còn lại các Hữu trung gian, đây chính là lấy năm uẩn-bốn uẩn trong một thời kỳ làm tánh.

Hỏi: Vì sao Hữu này gọi là Bổn hữu?

Đáp: Đây là do lúc trước đã tạo nghiệp mà sinh ra, cho nên gọi là Bổn hữu.

Hỏi: Nếu như vậy thì những Hữu khác cũng là Bổn hữu, bởi vì đều do lúc trước đã tạo nghiệp mà sinh ra?

Đáp: Nếu là do lúc trước đã tạo nghiệp mà sinh ra, thô thiển-hiển bày dễ hiểu-hiện thấy rõ ràng thì gọi là Bổn hữu; những Hữu còn lại tuy là do lúc trước đã tạo nghiệp mà sinh ra, nhưng vi tế-ẩn kín khó hiểukhông phải là hiện thấy rõ ràng, vì vậy không nói đến.

Hỏi: Thế nào là Tử hữu?

Đáp: Các uẩn thuộc phần Tử, tức là lấy năm uẩn-bốn uẩn lúc mạng chung làm tánh.

Hỏi: Thế nào là Trung hữu?

Đáp: Trừ ra các uẩn thuộc phần Sinh-phần Tử, còn lại các Hữu trung gian, tức là lấy năm uẩn của hai Hữu trung gian làm tánh.

Hỏi: Vì sao Hữu này gọi là gọi là Trung hữu?

Đáp: Đây là sinh ra ở khoảng giữa của hai Hữu, cho nên gọi là Trung hữu.

Hỏi: Nếu như vậy thì những Hữu khác cũng là Trung hữu, bởi vì đều sinh ra ở khoảng giữa của hai Hữu?

Đáp: Nếu sinh ra ở khoảng giữa của hai Hữu mà không phải là do nẽo thâu nhiếp, thì gọi là Trung hữu; những Hữu còn lại tuy sinh ra ở khoảng giữa của hai Hữu, mà là nẽo thâu nhiếp cho nên không gọi là Trung hữu.

Hỏi: Thế nào là Sinh hữu?

Đáp: Các uẩn thuộc phần Sinh, tức là lấy năm uẩn-bốn uẩn lúc tiến vào thai (kiết sinh) làm tánh.

Hỏi: Bốn Hữu này mấy loại là sát-na, mấy loại là nối tiếp nhau?

Đáp: Hai loại là sát-na, đó là Tử hữu-Sinh hữu; hai loại là nối tiếp nhau, đó là Bổn hữu-Trung hữu.

Hỏi: Bốn Hữu này mấy loại là nhiễm ô, mấy loại là không nhiễm ô?

Đáp: Đều gồm chung cả hai loại.

Hỏi: Bốn Hữu này mấy loại là tâm nhiễm ô, mấy loại là không nhiễm ô?

Đáp: Sinh hữu là tâm chỉ có nhiễm ô, ba Hữu còn lại là tâm nhiễm ô và không nhiễm ô.

Hỏi: Bốn Hữu này mấy loại là hữu lậu, mấy loại là vô lậu?

Đáp: Đều chỉ là hữu lậu.

Hỏi: Bốn Hữu này về Thời và Tâm thì mấy loại là hữu lậu, mấy loại là vô lậu?

Đáp: Hai loại chỉ là hữu lậu, đó là Thời và Tâm của Tử hữu-Sinh hữu; hai loại gồm chung hữu lậu-vô lậu, đó là Thời và Tâm của Bổn hữu-Trung hữu.

Hỏi: Bốn Hữu này về Thời thì mấy loại khởi tâm Đồng phần, mấy loại khởi tâm không Đồng phần?

Đáp: Hai loại khởi tâm Đồng phần, đó là Thời của Tử hữu-Sinh hữu; hai loại khởi tâm Đồng phần-không Đồng phần, đó là Thời của Bổn hữu-Trung hữu.

Các Dục hữu thì tất cả Hữu ấy là năm Hành chăng? Cho đến nói rộng ra.

Trong này, các Uẩn dùng thanh của Hành mà nói. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ nói Uẩn là Hành, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Thích-ca Mâu-ni hiện tại nói Hành là Uẩn. Bởi vì Đức Phật trước kia nói năm Hành, Đức Phật bây giờ nói năm Thủ uẩn, cho nên trong A-tỳ-đạt-ma này nói năm Hành nói đến năm Hành, là muốn hiển bày Đức Phật bây giờ nói năm Uẩn tức là năm Hành mà Đức Phật trước kia đã nói.

Hỏi: Vì sao Đức Phật trước kia nói Uẩn là Hành, Đức Phật bây giờ nói Hành là Uẩn?

Đáp: Bởi vì Đức Phật quán xét hữu tình đã được hóa độ, cho nên tùy theo sự thích hợp mà nói. Nghĩa là hữu tình do Đức Phật trước kia hóa độ thuận theo nghe nói về Hành mà đạt được hiểu biết chính xác, hữu tình do Đức Phật bây giờ hóa độ thuận theo nghe nói về Uẩn mà đạt được hiểu biết chính xác(Chánh giải).

Hỏi: Vì sao gọi là Hành?

Đáp: Bởi vì lưu chuyển cho nên gọi là Hành. Nghĩa là các Uẩn đời trước do các Uẩn đời sau cho nên lưu chuyển, hoặc là các Uẩn đời sau do các Uẩn đời trước cho nên lưu chuyển. Nếu sinh ở cõi Dục, thì dùng tâm của cõi Dục làm tâm Đồng phần, làm Đồng phần cho Mạng căn Chúng đồng phần ấy; dùng tâm của cõi Sắc-Vô sắc và tâm vô lậu làm tâm không Đồng phần, không làm Đồng phần cho Mạng căn Chúng đồng phần ấy. Nếu sinh ở cõi Sắc, thì dùng tâm của cõi Sắc làm tâm Đồng phần, dùng tâm của cõi Dục-Vô sắc và tâm vô lậu làm tâm không Đồng phần. Nếu sinh ở cõi Vô sắc, thì dùng tâm của cõi Vô sắc làm tâm Đồng phần, dùng vô lậu làm tâm không Đồng phần.

Hỏi: Các Dục hữu thì tất cả Hữu ấy là năm Hành chăng? Giả sử

năm Hành thì tất cả Hành ấy là Dục hữu chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:

1. Có lúc Dục hữu mà không phải là năm Hành, đó là hữu tình cõi Dục trú trong tâm không Đồng phần, và trú trong Định Vô tưởng-Diệt tận, bởi vì lúc ấy Dục hữu chỉ có hai Hành.

2. Có lúc năm Hành mà không phải là Dục hữu, đó là trời Vô tưởng ở cõi Sắc trú trong tâm Đồng phần; nếu trời Vô tưởng không đạt được Vô tưởng, thì lúc bấy giờ đều có đủ năm Hành, bởi vì trời Vô tưởng ấy ở phần vị có tâm, cho nên nhất định không khởi lên tâm không Đồng phần, mà Hành ấy không phải là Dục hữu.

3. Có lúc Dục hữu cũng là năm Hành, đó là hữu tình cõi Dục trú trong tâm Đồng phần, bởi vì lúc ấy Dục hữu có đủ năm Hành.

4. Có lúc không phải là Dục hữu cũng không phải là năm Hành, đó là trời Vô tưởng ở cõi Sắc trú trong tâm không Đồng phần và trú trong Định Vô tưởng-Diệt tận; nếu trời Vô tưởng đạt được Vô tưởng, nếu sinh ở cõi Vô sắc, thì lúc bấy giờ chỉ có hai Hành, hoặc là bốn Hành, hoặc là một Hành, mà Hành ấy lại không phải là Dục hữu.

Hỏi: Các Sắc hữu-trời Hữu tưởng thì tất cả Hữu ấy là năm Hành chăng? Giả sử năm Hành thì tất cả Hành ấy là Sắc hữu-trời Hữu tưởng chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:

1. Có lúc Sắc hữu-trời Hữu tưởng mà không phải là năm Hành, đó là Sắc hữu-trời Hữu tưởng trú trong tâm không Đồng phần, và trú trong Định Vô tưởng-Diệt tận, bởi vì lúc bấy giờ Sắc hữu-trời Hữu tưởng đều chỉ có hai Hành.

2. Có lúc năm Hành mà không phải là Sắc hữu-trời Hữu tưởng, đó là hữu tình cõi Dục trú trong tâm Đồng phần; nếu trời Vô tưởng không đạt được Vô tưởng, thì lúc bấy giờ tuy đều có đủ năm Hành, mà Hành ấy không phải là Sắc hữu-trời Hữu tưởng.

3. Có lúc Sắc hữu-trời Hữu tưởng cũng là năm Hành, đó là Sắc hữu-trời Hữu tưởng trú trong tâm Đồng phần, bởi vì lúc bấy giờ Sắc hữu-trời Hữu tưởng có đủ năm Hành.

4. Có lúc không phải là Sắc hữu-trời Hữu tưởng cũng không phải là năm Hành, đó là hữu tình cõi Dục trú trong tâm không Đồng phần, và trú trong Định Vô tưởng-Diệt tận; nếu trời Vô tưởng đạt được Vô tưởng, nếu sinh ở cõi Vô sắc, thì lúc bấy giờ chỉ có hai Hành, hoặc là bốn Hành, hoặc là một Hành, mà Hành ấy lại không phải là Sắc hữutrời Hữu tưởng.

Hỏi: Các Sắc hữu-trời Vô tưởng thì tất cả Hữu ấy là hai Hành chăng? Giả sử hai Hành thì tất cả Hành ấy là Sắc hữu-trời Vô tưởng chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:

1. Có lúc Sắc hữu-trời Vô tưởng mà không phải là hai Hành, đó là trời Vô tưởng không đạt được Vô tưởng, bởi vì lúc bấy giờ Sắc hữu-trời Vô tưởng ấy có đủ năm Hành, nguyên cớ như trước.

2. Có lúc hai Hành mà không phải là Sắc hữu-trời Vô tưởng, đó là hữu tình cõi Dục trú trong tâm không Đồng phần, và trú trong Định Vô tưởng-Diệt tận; nếu Sắc hữu-trời Hữu tưởng trú trong tâm không Đồng phần, và trú trong Định Vô tưởng-Diệt tận, thì lúc bấy giờ tuy đều là hai Hành, mà Hành ấy không phải là Sắc hữu-trời Vô tưởng.

3. Có lúc Sắc hữu-trời Vô tưởng cũng là hai Hành, đó là trời Vô tưởng đạt được Vô tưởng, bởi vì lúc bấy giờ Sắc hữu-trời Vô tưởng ấy chỉ có hai Hành.

4. Có lúc không phải là Sắc hữu-trời Vô tưởng cũng không phải là hai Hành, đó là hữu tình cõi Dục và trời Hữu tưởng ở cõi Sắc trú trong tâm Đồng phần, nếu sinh ở cõi Vô sắc, thì lúc bấy giờ mới có năm Hành, hoặc là bốn Hành, hoặc là một Hành, mà Hành ấy lại không phải là Sắc hữu-trời Vô tưởng.

Hỏi: Các Vô sắc hữu thì tất cả Hữu ấy là bốn Hành chăng? Giả sử bốn Hành thì tất cả Hành ấy là Vô sắc hữu chăng?

Đáp: Các Hữu là bốn Hành thì tất cả Hành ấy là Vô sắc hữu, không phải là hữu tình cõi Dục-Sắc mà có bốn Hành.

Có lúc Vô sắc hữu mà không phải là bốn Hành, đó là hữu tình cõi Vô sắc trú trong tâm không Đồng phần, bởi vì lúc bấy giờ Vô sắc hữu ấy chỉ có một Hành.

Có thể có Hữu là năm Hành chăng? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao lại soạn ra phần luận này?

Đáp: Văn trước tuy thành lập có Hữu là hai Hành mà chưa ngăn chặn có Hữu là ba Hành, cũng chưa thành lập có Hữu là một Hành, nay bởi vì ngăn chặn có Hữu là ba Hành, và muốn thành lập có Hữu là một Hành, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Có thể có Hữu là năm Hành chăng?

Đáp: Có, đó là hữu tình cõi Dục và Sắc hữu-trời Hữu tưởng trú trong tâm Đồng phần, nếu trời Vô tưởng không đạt được Vô tưởng, bởi vì lúc ấy chắc chắn có năm Hành hiện tại của địa mình.

Hỏi: Có thể có Hữu là bốn Hành chăng?

Đáp: Có, đó là hữu tình cõi Vô sắc trú trong tâm Đồng phần.

Hỏi: Có thể có Hữu là ba Hành chăng?

Đáp: Không có, bởi vì không có hữu tình nào thành tựu ba Uẩn. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tâm-tâm sở pháp chắc chắn không tách rời nhau, bởi vì Thọ-Tưởng-Tư luôn luôn tương ưng với nhau.

Hỏi: Có thể có Hữu là hai Hành chăng?

Đáp: Có, đó là hữu tình cõi Dục và trời Hữu tưởng ở cõi Sắc trú trong tâm không Đồng phần, nếu trú trong Định Vô tưởng-Diệt tận, nếu trời Vô tưởng đạt được Vô tưởng, bởi vì lúc ấy chỉ có hai Hành.

Hỏi: Có thể có Hữu là một Hành chăng?

Đáp: Có, đó là hữu tình cõi Vô sắc trú trong tâm không Đồng phần, bởi vì lúc ấy chỉ có một Hành.

Hỏi: Có thể có Hữu không có Hành chăng?

Đáp: Không có, bởi vì không có hữu tình nào không phải là do Uẩn tạo thành, bởi vì tất cả hữu tình chắc chắn có Mạng căn…của địa mình.