LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Năm trăm Đại A-la-hán cùng tạo luận
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch Phạn sáng Hán
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

CHƯƠNG II: KIẾT UẨN

Phẩm Thứ Ba: LUẬN VỀ HỮU TÌNH

(Từ cuối quyển 63 – quyển 70)

Ba cõi đều có hai Bộ kiết, đó là do Kiến-Tu mà đoạn. Các chương như vậy và giải thích về nghĩa của chương đã lãnh hội rồi, tiếp theo cần phải giải thích rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Muốn hiển bày ba cõi đều có hai Bộ kiết làm cho các hữu tình nhận chịu các loại khổ đau, nghĩa là các kiết này cùng với các hữu tình ở trong sinh tử, gây ra lắm điều ràng buộc, gây ra lắm điều vô nghĩa, gây ra lắm hiểm nguy rình rập. Bởi vì có các kiết này mà làm cho các hựu tình ở trong ba cõi nhận chịu các khổ não-sinh tử luân hồi, thường xuyên tiến vào thai mẹ ở giữa Sinh tạng và Thục tạng, ở nơi tối tăm u ám đủ loại bất tịnh làm cho hết sức khốn đốn, sinh ra rồi không biết gì về sai lầm tai họa của các kiết này, lại còn nhiễm theo thói quen nhận chịu khổ đau vô cùng tận. Muốn khiến cho hữu tình thấy biết và hiểu rõ đối với các kiết này rồi, chịu khó tu pháp đối trị để đoạn các kiết này mà đạt được Niết Bàn vĩnh hằng, không còn luân hồi nhận chịu khổ đau của sinh tử. Như người không hiểu biết gì là kẻ thù-ràng buộc-vô nghĩa và hiểm nguy rình rập thì không thể nào tránh thoát, nếu người hiểu biết rõ ràng thì có thể tránh thoát mọi tai họa, cho nên hãy tư duy-lường tính-quán sát-chỉ trích các kiết, bằng đủ loại lời lẽ tốt lành cho đến trải qua đời kiếp cũng không quên mất! Như Từ ái lúc mới sinh ra liền nói như vậy: Ba cõi có các kiết của hai Bộ do Kiến-tu mà đoạn, hữu tình vì vậy mà bị ràng buộc, thường xuyên vào thai mẹ nhận chịu nhiều khổ não, sinh tử luân hồi khó có hạn kỳ ra khỏi.

Hỏi: Vì sao Tôn giả vào lúc sinh ra đã dấy lên lời nói như vậy?

Đáp: Bởi vì Tôn giả ấy ở trong thai mẹ chịu nhiều khổ đau bức bách khốn đốn, liền dấy lên ý niệm này: Vì sao hữu tình thường xuyên tiến vào thai mẹ nhận chịu khổ đau như vậy? Dấp lên ý niệm này rồi, nhờ vào nguyện lực yêu thích đa văn của kiếp trước đã có năng lực biết rõ ràng, đều bởi vì ba cõi có hai Bộ kiết chưa vĩnh viễn đoạn trừ. Vì vậy lúc mới sinh ra có thể chỉ trích các kiết của hai Bộ với đủ loại sai lầm tai họa. Vì nhân duyên này cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Trong này nói Bộ là muốn hiển bày về nghĩa gì?

Đáp: Muốn hiển bày về nghĩa của nhiều (chúng). Như vậy Tỳ kheo gọi là chúng Tỳ kheo, bộ Bà-la-môn là chúng Bà-la-môn, bộ khác cũng như vậy, Bộ-chúng-Quần-Tụ tên gọi khác mà nghĩa như nhau.

Hỏi: Trong này nói Đốn là muốn hiển bày về nghĩa gì?

Đáp: Hiển bày về nghĩa của trong một lúc (Nhất thời). Vì sao biết như vậy? Bởi vì trong kinh nói. Như trong kinh nói: “Đại vương Thắng Quân là chủ đất nước Kiều-tát-la, đi đến nơi Đức Phật, đến nơi rồi đầu lạy sát hai chân của Đức Thế Tôn, xong lùi lại ngồi về một phía, dùng lời kính yêu thăm hỏi Đức Thế Tôn. Đức Phật cũng tùy nghi mà hỏi han chỉ bảo cho nhà vua. Đã thưa hỏi-chỉ dạy rồi lại thưa với Đức Phật rằng: Xưa con nghe Đức Phật từng nới lời này: Đời quá khứ-vị lai-hiện tại không có Sa-môn, Bà-la-môn… nào, đối với tất cả các pháp có đủ trí kiến chân thật, nếu nói là có thì chắc chắn không có điều này. Đấng Kiều-Đáp-ma tôn kính có nhớ lời nói này hay không? Đức Phật nói: Không nhớ. Lại thưa với Đức Phật rằng: thế gian hoặc có người, tiếp nhận văn nghĩa không tốt mà lại tiếp nhận khác nhau-giảng giải khác nhau, đấng Kiều-Đáp-ma tôn kính chắc chắn không thuận theo như vậy, chỉ nguyện nhớ lại đích xác để nói điều ấy cho con! Đức Phật nói: Này Đại vương! Ta nhớ xưa kia từng nói ra lời này: Đời quá khứ-vị lai-hiện tại không có Sa-môn, Bà-la-môn… nào đối với tất cả các pháp trong chốc lát đạt được trí kiến, nếu nói là có thì chắc chắn không có điều này, quyết định trải qua ba vô số kiếp tu tập trăm ngàn khổ hạnh khó thực hành, tích góp dần dần đầy đủ sáu ba-la-mật-đa, sau đó mới có thể đối với tất cả các pháp có đủ tí kiến chân thật”. Vì vậy biết Đốn là muốn hiển bày về nghĩa của trong một lúc.

Hỏi: Đối với hai Bộ kiết do kiết-tu mà đoạn của cõi Dục, có thể có lập tức bị ràng buộc chăng?

Đáp: Có, đó là dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục, từ lúc lìa nhiễm cõi Dục mà lui sụt và lúc ở cõi Sắc-Vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục. Nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi Dục, nếu dấy khởi triền hạ Hạ của cõi Dục mà lui sụt, thì lập tức bị kiết phẩm Hạ hạ do kiến-tu mà đoạn của cõi Dục ràng buộc; nếu dấy khởi triền Hạ trung của cõi Dục mà lui sụt, thì lập tức bị kiết hai phẩm Hạ hạ và Hạ trung do kiến-tu mà đoạn của cõi Dục ràng buộc; cho đến nếu dấy khởi triền Thượng Thượng của Cõi Dục mà lui sụt, thì lập tức bị các kiết thuộc chín phẩm do kiến-tu mà đoạn của cõi Dục ràng buộc. Bởi vì trước nhanh chóng đoạn đi cho nên nay lại nhanh chóng bị mắc phải. Vả lại, lúc ở hai cõi trên mất đi sinh vào cõi Dục, trong chín phẩm triền thuận theo dấy khởi nào khiến cho sinh nối tiếp nhau thì đều lập tức bị ràng buộc, bởi vì các kiết thuộc chín phẩm do kiến-tu mà đoạn của cõi Dục, cho nên có ràng buộc này lập tức bị mắc phải.

Hỏi: Có thể có lập tức lìa ràng buộc chăng?

Đáp: Có, đó là dị sinh ở lúc lìa nhiễm cõi Dục. Đây là nói dị sinh ở phần vị lìa nhiễm cõi Dục, gom toàn bộ các phiền não-kiết do kiến-tu mà đoạn của cõi Dục để làm thành chín phẩm, như pháp cắt có lập tức đoạn trừ từng phẩm một, nghĩa là dùng đạo vô gián phẩm Hạ hạ lập tức đoạn trừ kiết phẩm Thượng Thượng do kiến-tu mà đoạn của cõi Dục, cho đến dùng đạo vô gián phẩm Thượng Thượng lập tức đoạn trừ kiết phẩm hạ hạ do kiến-tu mà đoạn của cõi Dục, cho nên có lập tức lìa ràng buộc này.

Hỏi: Có thể có dần dần mắc phải ràng buộc chăng?

Đáp: Không có, nghĩa là quyết địh không có trước mắc phải kiết do kiến mà đoạn của cõi Dục, sau mắc phải kiết do tu mà đoạn của cõi Dục; cũng quyết định không có trước mắc phải kiết do tu mà đoạn của cõi Dục, sau mắc phải kiết do kiến mà đoạn của cõi Dục, cho nên không có dần dần mắc phải ràng buộc này.

Hỏi: Có thể có dần dần lìa ràng buộc chăng?

Đáp: Có, nghĩa là đệ tử của Đức Thế Tôn trước lìa kiết do kiến mà đoạn của cõi Dục, sau lìa kiết do tu mà đoạn của cõi Dục. Nghĩa là các Thánh giả trước dùng Kiến đạo đoạn kiết do kiết mà đoạn của cõi Dục, sau dùng Tu đạo đoạn kiết do tu mà đoạn của cõi Dục, cho nên có dần dần lìa ràng buộc này.

Hỏi: Đối với hai Bộ kiết do kiến-tu mà đoạn của cõi Sắc, có thể có lập tức mắc phải ràng buộc chăng?

Đáp: Có, đó là dị sinh đã lìa nhiễm cõi Sắc, từ lúc lìa nhiễm cõi Sắc mà lui sụt, và lúc ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục-sắc. Nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi Sắc, nếu dấy khởi triền Hạ hạ của cõi Sắc mà lui sụt, thì lập tức mắc phải kiết phẩm Hạ hạ do kiến-tu mà đoạn của cõi Sắc-nếu dấy khởi triền Hạ Trung của cõi Sắc mà lui sụt, thì lập tức mắt phải kiết hai phẩm Hạ Hạ và Hạ trung do kiến-tu mà đoạn của cõi Sắc; cho đến nếu dấy khởi triền Thượng Thượng của cõi sắc mà lui sụt, thì lập tức mắc phải các kiết thuộc chín phẩm do kiến-tu mà đoạn của cõi Sắc. Đây là nói về địa mình. Nếu lúc dấy khởi mỗi một phẩm trong chín phẩm triền của địa dưới mà lui sụt, thì đều lập tức mắc phải các kiết thuộc chín phẩm do kiến-tu mà đoạn của địa trên; nếu lúc dấy khởi mỗi một phẩm trong chín phẩm triền của cõi Dục mà lui sụt, thì cũng đều lập tức mắc phải các kiết thuộc chín phẩm do kiến-tu mà đoạn của cõi sắc.

Có người đưa ra cách nói này: Trong này nên nói dị sinh đã lìa nhiễm cõi Sắc lúc dấy khởi tiền của cõi Dục và cõi Phạm Thế mà lui sụt, thì lập tức mắc phải các kiết thuộc hai Bộ do kiến-tu mà đoạn của cõi Sắc.

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói này. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì trong này nói chung về lập tức mắc phải ràng buộc của cõi chứ không nói về địa. Nếu dấy khởi triền của Tĩnh lự thứ tư mà lui sụt, cho đến nếu dấy khởi triền của cõi Dục mà lui sụt, thì đều lập tức mắc phải kiết do kiến-tu mà đoạn của cõi sắc. Nghĩa ấy không có gì khác với trước nhanh chóng đoạn trừ cho nên nay lại lập tức mắc phải. Vả lại, lúc ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục-Sắc, trong chín phẩm triền tùy theo dấy khởi thuộc chín phẩm do kiến-tu mà đoạn của cõi Sắc.

Có người đưa ra cách nói này: Trong này nên nói lúc ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục và cõi Phạm Thế, thì lập tức mắc phải các kiết thuộc hai Bộ do kiến-tu mà đoạn của cõi Sắc.

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói này. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì trong này nói chung về lập tức mắc phải ràng buộc của cõi chứ không nói về địa. Nếu sinh vào Tĩnh lự thứ tư, cho đến nếu sinh vào cõi dục, thì đều lập tức mắc phải các kiết do kiến-tu mà đoạn của cõi sắc. Nghĩa ấy không có gì khác nhau, cho nên có lập tức mắc phải ràng buộc này.

Hỏi: Có thể có lập tức lìa ràng buộc chăng?

Đáp: Có, đó là lúc dị sinh lìa nhiễm chúng sinh. Đây là nói dị sinh ở phần vị lìa nhiễm chúng sinh, gom toàn bộ các phiền não-kiết do kiến-tu mà đoạn của mỗi một Tĩnh lự và của cõi sắc, đều làm thành chín phẩm, như pháp cắc cỏ lập tức đoạn trừ từng phẩm một, nghĩa là dùng đạo vô gián phẩm Hạ hạ lập tức đoạn kiết phẩm Thượng Thượng do kiến-tu mà đoạn của mỗi một Tĩnh lự và của cõi sắc, cho đến dùng đạo vô gián phẩm Thượng Thựơng lập tức đoạn kiết phẩm Hạ Hạ do tu kiến-tu mà đoạn của mỗi một Tĩnh lự và của cõi sắc, cho nên có lập tức lìa ràng buộc này.

Hỏi: Có thể có dần dần mắc phải ràng buộc chăng?

Đáp: Không có, nghĩa là quyết định không có trước mắc phải kiết do kiến mà đoạn của cõi Sắc, sau mắc phải kiết do tu mà đoạn của cõi sắc; cũng quyết định không có trước mắc phải kiết do tu mà đoạn của chúng sinh, sau mắc phải kiết do kiến mà đoạn của cõi sắc, cho nên không có dần dần mắc phải ràng buộc này.

Hỏi: Có thể có dần dần lìa ràng buộc chăng?

Đáp: Có đó là đệ tử của Đức Thế Tôn trước lìa kiết do kiến mà đoạn của cõi sắc, sau lìa kiết do tu mà đoạn của cõi sắc. Nghĩa là các Thánh giả dùng Kiến đạo để đoạn kiết do kiến mà đoạn của cõi Sắc, sau dùng tu đạo để đoạn kiết do tu mà đoạn của cõi sắc, cho nên có dần dần lìa ràng buộc này.

Hỏi: Đối với hai Bộ kiết do kiến-tu mà đoạn của või vô sắc, có thể có lập tức mắc phải ràng buộc chăng?

Đáp: Không có, nghĩa là không có nghĩa của dị sinh hoàn toàn lìa nhiễm cõi vô sắc, sau dấy khởi triền từ cõi dưới mà lui sụt lập tức mắc phải kiết do kiến-tu mà đoạn của cõi vô sắc; cũng không có nghĩa của dị sinh ở trong ba cõi mất đi sinh vào ba cõi, thì lập tức mắc phải kiết do kiến-tu mà đoạn của cõi vô sắc, cho nên không có lập tức mắc phải ràng buộc này.

Hỏi: Có thể có lập tức lìa ràng buộc chăng?

Đáp: Không có, nghĩa là không có nghĩa dị sinh hoàn toàn lìa nhiễm đối với cõi vô sắc, cho nên quyết định không có lập tức lìa kiết do kiến-tu mà đoạn của cõi vô sắc. đây là dựa theo cõi mà nói chứ không dựa theo địa. Tuy là dựa theo địa mà nói có nghĩa lập tức lìa bỏ, nhưng không phải là ý đã biểu hiện rõ ràng trong này, cho nên không có lập tức lìa ràng buộc này. Không có lập tức mắc phải trước đây, dựa theo như vậy nên biết.

Hỏi: Có thể có dần dần mắc phải ràng buộc chăng?

Đáp: Không có, nghĩa là quyết định không có trước mắc phải kiết do kiến mà đoạn của cõi vô sắc, sau mắc phải kiết do tu mà đoạn của cõi vô sắc; cũng quyết định không có trước mắc phải kiết do tu mà đoạn dần mắc phải ràng buộc này.

Hỏi: Có thể có dần dần lìa ràng buộc chăng?

Đáp: Có, đó là đệ tử của Đức Thế Tôn trước lìa kiết do kiến mà đoạn của cõi vô sắc, sau lìa kiết do tu mà đoạn của cõi vô sắc. Nghĩa là các Thánh giả trước dùng kiến đạo để đoạn kiết do kiến mà đoạn của cõi vô sắc, sau dùng Tu đạo để đoạn kiết do tu mà đoạn của cõi Vô sắc, cho nên có dần dần lìa ràng buộc này.

Hỏi: Dị sinh và Thánh giả lúc thuận theo lìa nhiễm thuộc chín phẩm của địa nào, thì có mấy đạo vô gián-mấy đạo giải thoát mà được lìa vậy?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Dị sinh chỉ dùng ba đạo vô gián-ba đạo giải thoát để lìa nhiễm thuộc chín phẩm, đó là dùng đạo vô gián-đạo giải thoát phẩm Hạ để lìa nhiễm thuộc ba phẩm Thượng, dùng đạo vô gián-đạo giải thoát phẩm Trung để lìa nhiễm thuộc ba phẩm trung, dùng đạo vô gián-đạo giải thoát phẩm Thượng để lìa nhiễm thuộc ba phẩm Hạ; Thánh giả cũng như vậy.

Có Sư khác nói: Dị sinh chỉ dùng đạo vô gián-đạo giải thoát thuộc một phẩm để lập tức lìa nhiễm thuộc chín phẩm; Thánh giả dùng đạo vô gián-đạo giải thoát thuộc chín phẩm để dần dần lìa nhiễm thuộc chín phẩm. Nguyên cớ thế nào? bởi vì đạo của dị sinh chậm chạp đối với sự nhận biết đoạn trừ, không có thể phân tích làm chín phẩm khác nhau, cho nên một phẩm đạo mà lập tức đoạn trừ; đạo của Thánh giả nhanh nhạy đối với sự nhận biết đoạn trừ, có thể dể dàng phân tích làm chín phẩm khác nhau, cho nên chín phẩm đạo mà dần dần đoạn trừ.

Lời bình: Vị ấy không nên đưa ra cách nói này. Nếu đưa ra cách nói này thì cần phải hiển bày dị sinh hém hơn Thánh giả, mà trái lại hiển bày Thánh giả kém hơn dị sinh. Nếu các dị sinh dùng một phẩm đạo đẻ lìa chín phẩm nhiễm, Thánh giả dùng chín phẩm đạo để lìa chín phẩm nhiễm, lẽ nào không phải là Thánh giả kém hơn dị sinh hay sao? Như lúc ăn nhiều chất độc mà uống một ít thuốc thì có thể nôn ra toàn bộ, ai không khen là tốt lành? Nên đưa ra cách nói này: Dị sinh và Thánh giả, tất cả đều dùng chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát để lìa chín phẩm nhiễm.

Hỏi: Nếu như vậy thì dị sinh và Thánh giả có gì sai biệt?

Đáp: Dị sinh dùng chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát, gom toàn bộ các kiết do kiến-tu mà đoạn làm thành chín phẩm, như pháp cắt có lập tức đoạn từng phẩm riêng biệt; Thánh giả dùng một đạo vô giánmột đạo giải thoát, dần dần đoạn chín phẩm kiết do kiến mà đoạn, dùng chín đạo vô gián và chín đạo giải thoát dần dần đoạn chín phẩm kiết do tu mà đoạn. Đó gọi là sai biệt giữa dị sinh và Thánh giả.

Hỏi: Dị sinh và Thánh giả tùy theo lúc lìa chín phẩm nhiễm của địa nào, dùng mấy gia hạnh-dùng mấy nhập định mà được lìa vậy?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Dùng ba gia hạnh-dùng ba nhập định để lìa chín phẩm nhiễm, nghĩa là dùng gia hạnh thứ nhấtdùng nhập định thứ nhất để lìa ba phẩm Thượng, dùng gia hạnh thứ haidùng nhập định thứ hai để lìa ba phẩm trung, dùng gia hạnh thứ ba-dùng nhập định thứ ba để lìa ba phẩm Hạ.

Lời bình: Nên đưa ra cách nói này: Sự việc này không nhất định, hoặc có lúc dùng một gia hạnh-dùng một nhập định để lìa chín phẩm nhiễm, hoặc có lúc cho đến dùng chín gia hạnh-dùng chín nhập định để lìa chín phẩm nhiễm.

Hỏi: Dị sinh và Thánh giả tùy theo lúc lìa chín nhiễm của địa nào, là dừng lại hay là không dừng lại chăng?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Dị sinh không dừng lại; Thánh giả hoặc là dừng lại, hoặc không dừng lại. Lại có người nói: Thánh giả không dừng lại; dị sinh hoặc là dừng lại, hoặc không dừng lại.

Lời bình: Nên đưa ra cách nói này: Sự việc này không nhất định, nghĩa là dị sinh và Thánh giả đều lìa chín phẩm nhiễm, hoặc là dừng lại-hoặc không dừng lại.

Có Sư khác nói: Lìa nhiễm của cõi Dục thì không dừng lại, lìa nhiễm của cõi Sắc, vô sắc thì hoặc là dừng lại-hoặc không dừng lại. Hoặc có người nói: Lìa nhiễm của ba cõi đều hoặc là dừng lại-hoặc không dừng lại mà lìa chín phẩm.

Hỏi: Dị sinh và Thánh giả lúc dấy khởi triền mà lui sụt thì dấy khởi triền thuộc phẩm nào-mắc phải Kiết thuộc phẩm nào?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Dị sinh ở trong ba phẩm Hạ, tùy theo lúc dấy khởi một triền mà lui sụt thì mắc phải kiết thuộc ba phẩm hạ, ở trong ba phẩm Trung tùy theo lúc dấy khởi một triền mà lui sụt thì mắc phải kiết thuộc sáu phẩm Hạ-Trung, ở trong ba phẩm Thượng tùy theo lúc dấy khởi một triền mà lui sụt thì mắc phải kiết thuộc chín phẩm. Thánh giả lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Hạ mà lui sụt thì mắc phải kiết phẩm Hạ Hạ, lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Trung thì mắc phải kiết hai phẩm Hạ Hạ, Hạ Trung, cho đến lúc dấy khởi triền phẩm Thượng Thượng mà lui sụt thì mắc phải kiết thuộc chín phẩm.

Lại có người nói: Dị sinh ở trong chín phẩm tùy theo lúc dấy khởi một phẩm triền mà lui sụt thì đều mắc phải kiết thuộc chín phẩm; lúc Thánh giả lui sụt thì nghĩa như trước nói. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì dị sinh chỉ dùng lực của định thế tục để duy trì nối tiếp nhau, mà lực của các định thế tục yếu kém cho nên pháp tịnh không vững chắc-pháp nhiễm đễ mắc phải; Thánh giả cũng dùng lực của Định vô lậu để duy trì nối tiếp nhau, mà lực của các định vô lậu mạnh hơn cho nên pháp tịnh vững chắc-pháp nhiễm khó mắc phải.

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói này. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì dị sinh và Thánh giả đều chưa từng thấy người không uống thuốc độc mà dẫn đến tử vong. Nên đưa ra cách nói này: Dị sinh nếu lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Hạ mà lui sụt thì mắc phải kiết phẩm Hạ Hạ, nếu lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Trung mà lui sụt thì mắc phải kiết hai phẩm Hạ Hạ-Hạ Trung, cho đến nếu lúc dấy khởi triền phẩm Thượng Thượng mà lui sụt thì mắc phải kiết thuộc chín phẩm; Thánh giả cũng như vậy.

Hỏi: Nếu như vậy thì dị sinh và Thánh giả có gì sai biệt?

Đáp: Dị sinh nếu lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Hạ mà lui sụt thì lập tức mắc phải kiết phẩm Hạ Hạ do kiến-tu mà đoạn, cho đến nếu lúc dấy khởi triền phẩm Thượng Thượng mà lui sụt thì lập tức mắc phải kiết thuộc chín phẩm do kiến-tu mà đoạn; Thánh giả nếu lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Hạ mà lui sụt thì chỉ mắc phải kiết phẩm hạ Hạ do tu mà đoạn, nếu lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Trung mà lui sụt thì chỉ mắc phải kiết hai phẩm Hạ Hạ-Hạ Trung do tu mà đoạn, cho đến nếu lúc dấy khởi triền phẩm Thượng Thượng thì chỉ mắc phải kiết thuộc chín phẩm do tu mà đoạn; kiết do kiến mà đoạn không có nghĩa lui sụt mà mắc phải. Đó gọi là sai biệt giữa dị sinh và Thánh giả.

Có Sư khác nói: Nếu lúc dấy khởi tùy theo một triền trong ba phẩm Hạ của cõi dục mà lui sụt thì mắc phải kiết ba phẩm Hạ của cõi dục, nếu lúc dấy khởi tùy theo một triền trong ba phẩm Trung của cõi dục thì mắc phải kiết sáu phẩm hạ-Trung của cõi dục, nếu lúc dấy khởi tùy theo một triền trong ba phẩm Thượng của cõi dục thì mắc phải kiết thuộc chín phẩm của cõi dục. Nếu lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Hạ của cõi Sắc-vô sắc mà lui sụt thì mắc phải kiết phẩm Hạ Hạ của hai cõi ấy, nếu lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Trung của cõi sắc-vô sắc mà lui sụt thì mắc phải kiết hai phẩm Hạ Hạ-Hạ Trung của hai cõi ấy, cho đến nếu lúc dấy khởi triền phẩm Thượng Thượng của cõi sắc-vô sắc mà lui sụt thì mắc phải kiết thuộc chín phẩm của hai cõi ấy.

Hoặc có người nói: Nếu lúc dấy khởi tùy theo một triền trong chín phẩm của cõi dục mà lui sụt thì đều mắc phải kiết thuộc chín phẩm của cõi dục; nếu lúc dấy khởi tiền của cõi sắc-vô sắc mà lui sụt, thì nghĩa như trước nói. Nguyên cớ thế nào? bởi vì cõi dục không có Định cho nên pháp nhiễm dễ dàng mắc phải, cõi sắc-vô sắc có Định cho nên pháp nhiễm khó mà có được.

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói ấy, bởi vì lúc đoạn phiền não đều nhờ vào Định. Nên đưa ra cách nói này: Trong các phiền não của chín địa-ba cõi, nếu lúc dấy khởi triền phẩm Hạ hạ mà lui sụt thì đều chỉ mắc phải kiết phẩm Hạ hạ, nếu lúc dấy khởi triền phẩm Hạ Trung mà lui sụt thì đều mắc phải kiết hai phẩm Hạ hạ-Hạ trung, cho đến nếu lúc dấy khởi triền phẩm Thượng Thượng mà lui sụt thì đều mắc phải kiết thuộc chín phẩm.

******

Thánh giả sinh ở cõi dục có ba sự mang chung:

  1. Hoàn toàn lìa nhiễm mà mạng chung.
  2. Hoàn toàn lui sụt mà mạng chung.
  3. Lìa nhiễm từng phần mà mạng chung.

Dị sinh chỉ có hai sự mạng chung:

  1. Hoàn toàn lìa nhiễm mà mạng chung.
  2. Hoàn toàn lui sụt mà mạng chung.

Không có người nào lìa nhiễm từng phần mà mạng chung.

Thánh giả sinh ở cõi Sắc có hai sự mạng chung:

  1. Hoàn toàn lìa nhiễm mà mạng chung.
  2. Lìa nhiễm từng phần mà mạng chung.

Không có người nào lui sụt, bởi vì või sắc-vô sắc không có nghĩa lui sụt. Dị sinh chỉ có một sự mạng chung, đó là hoàn toàn lìa nhiễm, bởi vì cõi ấy không có lui sụt; không có lìa nhiễm từng phần mà mạng chung.

Thánh giả và dị sinh sinh ở cõi vô sắc nên biết cũng như vậy.

Hỏi: Tại sao Thánh giả có lìa nhiễm từng phần mà mạng chung, dị sinh thì không như vậy?

Đáp: Bởi vì các Thánh giả có Định vô lậu, duy trì nối tiếp nhau làm cho hết sức kiên cố; dị sinh chỉ có các Định thế tục, duy trì nối tiếp nhau không phải là hét sức kiên cố. Lại nữa, Thánh giả thành tựu Xama-tha và Tỳ-bát-xá-na thù thắng, dị sinh thì không như vậy. Lại nữa, Thánh giả thành tựu lực của đạo vô lậu tùy ý mà thực hiện, dị sinh thì không như vậy. Vì vậy cho nên Thánh giả có nghĩa lìa nhiễm từng phần mà mạng chung, dị sinh thì không có.

Có người đưa ra cách nói này: Bởi vì các Thánh giả có đủ ba loại lực:

  1. Lực của Thánh đạo.
  2. Lực của phiền não.
  3. Lực của định nghiệp.

Bởi vì lực của định nghiệp cho nên có nghĩa hoàn toàn lìa nhiễm mà mạng chung, bởi vì lực của phiền não cho nên có nghĩa hoàn toàn lui sụt rồi mà mạng chung, bởi vì lực của Thánh đạo cho nên có nghĩa lìa nhiễm từng phần mà mạng chung. Dị sinh chỉ có hai loại lực, đó là lực của phiền não và lực của định nghiệp, không có lực của Thánh đạo. Bởi vì lực của định nghiệp cho nên có nghĩa hoàn toàn lìa nhiễm mà mạng chung, bởi vì lực của phiền não cho nên có nghĩa hoàn toàn lui sụt mà mạng chung, không có lực của Thánh đạo cho nên không có nghĩa lìa nhiễm từng phần mà mạng chung.

Có Sư khác nói: Thánh giả có ba lực:

  1. Lực của đạo.
  2. Lực của phiền não.
  3. Lực của định nghiệp.

Do lực của đạo cho nên có hoàn toàn lìa nhiễm mà mạng chung, do lực của phiền não cho nên có hoàn toàn lui sụt rồi mà mạng chung, bởi vì lực của phiền não cho nên có nghĩa hoàn toàn lui sụt mà mạng chung, không có lực của Thánh đạo cho nên không có nhĩa lìa nhiễm từng phần mà mạng chung.

Có Sư khác nói: Thánh giả có ba lực:

  1. Lực của đạo.
  2. Lực của phiền não.
  3. Lực của định nghiệp.

Do lực của đạo cho nên có hoàn toàn lìa nhiễm mà mạng chung, do lực của phiền não cho nên có hoàn toàn lui sụt mà mạng chung, do lực của định nghiệp cho nên có lìa nhiễm từng phần mà mạng chung. Nếu hoàn toàn lìa nhiễm được Phi trạch diệt mà sinh ở địa này, thì quyết định thọ nghiệp sẽ không mang lại quả (Dữ quả), bởi vì định nghiệp này làm cho trở ngại; có lìa nhiễm từng phần mà mạng chung, thì giống như Gia Gia… Dị sinh chỉ có hai lực, đó là lực của đạo và lực của phiền não, không có lực của định nghiệp. Do lực của đạo cho nên có hoàn toàn lìa nhiễm mà mạng chung, do lực của phiền não cho nên có hoàn toàn lui sụt rồi mà mạng chung, không có lực của định nghiệp cho nên không có lìa nhiễm từng phần mà mạng chung. Giả sử hoàn toàn lìa nhiễm mà có nghĩa sinh tử lrở lại địa này, thì quyết định thọ nghiệp không làm cho trở ngại.

Hoặc có người nói: Phần vị lìa nhiễm từng phần có thiết lập riêng biệt về Thánh Bổ-đặc-già-la, nghĩa là lìa nhiễm ở phẩm ba-bốn của cõi dục thiết lập riêng biệt là Gia Gia, lìa nhiễm sáu phẩm thì thiết lập riêng biệt là nhất lai, lìa nhiễm phẩm bảy-tám thì thiết lập riêng biệt là Nhất gián, cho nên Thánh giả có nghĩa lìa nhiễm từng phần mà mạng chung. Dị sinh chắc chắn không có phần vị lìa nhiễm từng phần như bậc Thánh thiết lập riêng biệt về Bổ-đặc-già-la, cho nên dị sinh không có nghĩa lìa nhiễm từng phần rồi mà mạng chung.

Lại có người nói: Thánh giả đối với Định có lực tự tại, cho nên lúc lìa nhiễm có n lìa phần ít mà mạng chung, dị sinh đối với Định không có lực tự tại, cho nên lúc lìa nhiễm không có người nào lìa phần ít mà mạng chung.

Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói rằng: Dị sinh cũng có phần vị lìa nhiễm từng phần mà mạng chung, nhưng mạng chung rồi vào lúc kiết sinh tâm, thì kiết đã đoạn trước đây chắc chắn trở lại thành tựu.

Lời bình: Vị ấy không nên đưa ra cách nói này, bởi vì dị sinh mạng chung thì thế lực của tâm kém đi, cho nên kiết đã đoạn trước đây đã được thành tựu. Vì vậy cách nói trước đối với lý là thích hợp.

Hỏi: Lúc dùng đạo thế tục lìa các nhiễm, thì vô gián-giải thoát có mấy hành tướng?

Đáp: Các đạo vô gián có ba hành tướng:

  1. Hành tướng thô.
  2. hành tướng khổ.
  3. Hành tướng chướng.

Các đạo giải thoát có ba hành tướng:

  1. Hành tướng tĩnh.
  2. Hành tướng diệu.
  3. Hành tướng ly.

Hỏi: Sau hành tướnngào trong đạo vô gián, khởi lên hành tướng nào của đạo giải thoát?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Từ hành tướng thô của đạo vô gián về sau, khởi lên hành tướng tĩnh là đạo giải thoát; từ hành tướng khổ của đạo vô gián về sau, khởi lên hành tướng diệu là đạo giải thoát; từ hành tướng chướng của đạo vô gián về sau, khởi lên hành tướng ly là đạo giải thoát.

Có Sư khác nói: Từ hành tướng thô của đạo vô gián về sau, khởi lên hành tướng diệu là đạo giải thoát; từ hành tướng khổ của đạo vô gián về sau, khởi lên hành tướng tĩnh là đạo giải thoát; từ hành tướng chướng của đạo vô gián về sau, khởi lên hành tướng ly là đạo giải thoát; bởi vì thọ-diệu-khổ-tĩnh-chướng-ly đối nhau.

Lời bình: Sự việc này không nhất định, từ hành tướng thô của đạo vô gián về sau, có thể khởi lên ba loại hành tướng như tĩnh… là đạo giải thoát; từ hành tướng khổ của đạo vô gián về sau, có thể khởi lên ba loại hành tướng như diệu… là đạo giải thoát; từ hành tướng chướng của đạo vô gián về sau, có thể khởi lên ba loại hành tướng như ly… là đạo giải thoát. Bởi vì sáu loại hành tướng hữu lậu này tùy theo ý thích của người lìa nhiễm mà khởi lên.

Hỏi: Lúc dùng đạo thế tục để lìa các nhiễm thì vô gián-giải thoát đều duyên với địa này?

Đáp: Lúc lìa nhiễm cõi Dục, chín đạo vô gián chỉ duyên với cõi dục, chín Đạo giải thoát duyên với Tĩnh lự thứ nhất.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông hiểu trong chương Căn Uẩn đã nói, như nói: “Có thể có tư duy về pháp của cõi sắc, mà có thể biết khắp về cõi Dục chăng?

Đáp: Có, ý đó nói về Đoạn biến tri”.

Hỏi: Tại sao hành tướng-sở duyên của hai đạo mà không tạp loại? Nếu hành tướng-sở duyên của hai đạo này có tạp loạn, thì đối với sự lìa nhiễm làm sao không bị chướng ngại làm khó dễ?

Đáp: Hành tướng-sở duyên của hai đạo như vậy, tuy có tạp loạn nhưng đối với sự lìa nhiễm thì không thể nào bị chướng ngại làm khó dễ. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đạo ấy ở trong các con đường lìa nhiễm đã khéo léo tu tập gia hạnh thành tựu. Như trong kiến đạo, duyên với Nhẫn trí của cõi dục, sau duyên với Nhẫn trí của Hữu Đảnh hiện ở trước mắt, duyên với Nhẫn trí của hữu Đảnh sau duyên với Nhẫn trí của cõi Dục hiện ở trước mắt, tuy có hành tướng-sở duyên tạp loạn, nhưng đối với sự hiện quán thì không thể nào bị chướng ngại làm khó dễ. Nguyên cớ thế nào? bởi vì đạo ấy ở trong các con đường hiện quán đã khéo léo tu tập gia hạnh thành tựu. Ở đây cũng như vậy, cho nên không có gì sai.

Có người đưa ra cách nói này: Lúc lìa nhiễm cõi dục thì chín đạo vô gián-tám đạo giải thoát đều duyên với cõi dục, đạo giải thoát cuối cùng duyên với Tĩnh lự thứ nhất; như lúc dùng Diệt-Đạo trí để lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chín đạo vô gián-tám đạo giải thoát đều duyên với Diệt-Đạo, đạo giải thoát cuối cùng duyên với bốn uẩn hữu lậu của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở đây cũng như vậy.

Có Sư khác nói: Lúc lìa nhiễm cõi Dục thì hoặc là không có dừng lại, hoặc là có dừng lại. Không có dừng lại, thì chín đạo vô gián-tám đạo giải thoát đều duyên với cõi dục, đạo giải thoát cuối cùng duyên với Tĩnh lự thứ nhất. Có dừng lại, thì hoặc là lìa một phẩm mà đã dừng lại, hoặc là lìa hai phẩm mà đã dừng lại, như vậy cho đến hoặc là lìa tám phẩm thì mới dừng lại. Nếu lìa một phẩm đã dừng lại, thì lúc ấy đạo vô gián duyên với cõi dục, đạo giải thoát duyên với Tĩnh lự thứ nhất. Nếu lìa hai phẩm mà dừng lại, thì lúc ấy hai đạo vô gián-một đạo giải thoát duyên với cõi dục, đạo giải thoát thứ hai duyên với Tĩnh lự thứ nhất. Như vậy cho đến nếu lìa tám phẩm mới dừng lại, thì lúc ấy tám đạo vô gián-bảy đạo giải thoát đều duyên với cõi dục, đạo giải thoát thứ tám duyên với Tĩnh lự thứ nhất.

Hoặc có người nói: Lúc lìa nhiễm cõi dục thì chín đạo vô giánchín đạo giải thoát đều duyên với cõi dục; như lúc dùng Khổ-Tập trí để lìa nhiễm cõi dục, chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát đều duyên với cõi dục. Ở đây cũng như vậy.

Hỏi: Nếu như vậy thì tuy không có sai lầm về hành tướng-Sở duyên của đạo vô gián-giải thoát tạp loạn với nhau, nhưng trong chương Căn Uẩn đã nói nên thông hiểu thế nào? Như nói: “Có thể có tư duy về pháp của cõi sắc, mà có thể biết khắp về cõi dục chăng?

Đáp: Có, ý đó nói về Đoạn biến trì”. Căn Uẩn dựa vào gia hạnh gần mà nói, nghĩa là người tu hành sắp lìa nhiễm cõi dục, trước hết khởi lên tư duy phân biệt như vậy: Cõi dục là khổ-thô-chướng, Tĩnh lự thứ nhất là tĩnh-diệu-ly.

Hỏi: Nến như vậy thì sau chương Căn Uẩn nói lại thông hiểu thế nào? Như nói: “Có thể có tư duy về pháp của cõi Vô sắc, mà có thể biết khắp về cõi Dục chăng?

Đáp: Không có, ý đó nói về Đoạn biến trì”. Lẽ nào người tu hành sắp lìa nhiễm cõi dục, không thể trước tiên khởi lên tư duy phân biệt như vậy.

Hỏi: Cõi dục là Bộ khổ-thô-chướng, cõi vô sắc là Bộ tĩnh-diệu-ly hay sao?

Đáp: Tuy khởi lên tư duy phân biệt như vậy, mà xa chứ không phải là gần, không phải là từ sau tư duy về cõi vô sắc thì có thể dẫn dắt phát sinh đạo lìa nhiễm cõi Dục; tư duy về cõi sắc là gia hạnh gần thì có thể dẫn dắt phát sinh đạo lìa nhiễm cõi dục. Vì vậy, hai cách nói ấy không phải là trái ngược lẫn nhau.

Lại có người nói: Lúc lìa nhiễm cõi Dục thì chín đạo vô gián-chí

đạo giải thoát đều duyên với Tĩnh lự thứ nhất.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông hiểu trong chương căn uẩn đã nói, như nói: “Có thề có pháp tư duy về cõi Sắc, mà có thể biết khắp về cõi Dục chăng?

Đáp: Có, đó là ý nói về Đoạn biến tri”.

Vả lại, không có sai lầm về hành tướng-sở duyên của hai đạo tạp loạn với nhau, tại sao duyên với địa khác mà có thể lìa nhiễm của địa khác?

Đáp: Điều này cũng không có gì sai, như lúc Diệt-Đạo trí lìa các nhiễm, tuy duyên với Diệt-Đạo mà đoạn trừ khổ-tập, ở đây cũng như vậy.

Lời bình: Những cách nói như vậy tuy đều có thể phát sinh giác tuệ của đệ tử, nhưng cách nói đầu tiên đối với lý là thích hợp, nghĩa là chín đạo vô gián đều duyên với cõi dục, chín đạo giải thoát đều duyên với Tĩnh lự thứ nhất. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc dùng đạo thế tục để lìa nhiễm cõi dục, chán ngán cõi dưới-vui cầu cõi trên thì mới có năng lực lìa bỏ. Như lìa nhiễm cõi Dục, lìa nhiễm của bảy địa trên nên biết cũng như vậy.

Hỏi: Trong đạo thế tục-vô gián-giải thoát thì mỗi một đạo có thể tu mấy loại hành tướng?

Đáp: Các dị sinh thì lúc lìa nhiễm cõi dục, trong chín đạo vô gián tu ba hành tướng, đó là khổ-thô và chướng; trong tám đạo giải thoát tu sáu hành tướng, đó là khổ-thô-chướng và tĩnh-diệu-ly; trong đạo giải thoát cuối củng thì tu sáu hành tướng này, cũng tu vô biên hành tướng của địa Tĩnh lự thứ nhất ở vị lai; như vậy cho đến lìa nhiễm vô sở hữu xứ, thuận theo sự thích hợp của mỗi địa, nên biết cũng như vậy. Nếu các Thánh giả thì lúc lìa nhiễm cõi dục, trong chín đạo vô gián tu mười chín hành tướng, đó là ba hành tướng như thô… và mười sáu hành tướng Thánh hữu lậu-vô lậu; trong tám đạo giải thoát tu hai mươi hai hành tướng, đó là ba hành tướng như thô…, ba hành tướng như tĩnh…, và mười sáu hành tướng Thánh hữu lậu-vô lậu; trong đạo giải thoát cuối cùng thì tu hai mươi hai hành tướng này, cũng tu vô biên hành tướng của địa Tĩnh lự thứ nhất ở vị lai. Ngay lúc các Thánh giả lìa nhiễm Tĩnh lự thứ nhất, trong chín đạo vô gián tu mười chín hành tướng, đó là ba hành tướng như thô… và mười sáu hành tướng Thánh chỉ riêng vô lậu; trong tám đạo giải thoát tu hai mươi hai hành tướng, đó là ba hành tướng như thộ…, ba hành tướng như tĩnh…, và mười sáu hành tướng Thánh chỉ riêng vô lậu; trong đạo giải thoát cuối cùng thì tu hai mươi hai hành tướng này, cũng tu vô biên hành tướng của địa Tĩnh lự thứ hai ở vị lai; như vậy cho đến lìa nhiễm của vô số hữu xứ, tùy theo sự thích hợp của mỗi địa, nên biết cũng như vậy.

Hỏi: Tại sao cận phần của Tĩnh lự thứ nhất bao gồm tu mười sáu hành tướng Thánh hữu lậu-vô lậu, cận phần của địa trên chỉ tu vô lậu?

Đáp: Cận phần của tĩnh lự thứ nhất có hành Thánh, cho nên có thể bao gồm tu mười sáu hành tướng Thánh hữu lậu-vô lậu; cận phần của địa trên không có hành tướng Thánh, cho nên chỉ có thể tu hành tướng vô lậu.

Có người đưa ra cách nói này: Lúc các dị sinh lìa nhiễm cõi dục, trong chín đạo vô gián tu chín hành tướng, đó là ba hành tướng như thô… và Từ Bi Hỷ Xả công với quán Bất tịnh- Trì tức niệm; trong tám đạo giải thoát tu mười hai hành tướng, đó là chín hành tướng ở trước và ba hành tướng như tĩnh…, trong đạo giải thoát cuối cùng thì tu mười hai hành tướng này, cũng tu vô biên hành tướng của địa Tĩnh lự thứ nhất ở vị lai. Nếu các Thánh giả thì lúc lìa nhiễm cõi Dục, trong chín đạo vô gián tu hai mươi lăm hành tướng, đó là ba hành tướng như thô…, Từ Bi Hỷ Xả-quán Bất tịnh-Trì tức niệm, và mười sáu hành tướng Thánh hữu lậu-vô lậu; trong tám đạo giải thoát tu hai mươi tám hành tướng, đó là hai mươi lăm hành tướng ở trước và ba hành tướng như tĩnh…; trong đạo giải thoát cuối cùng thì tu hai mươi tám hành tướng này, cũng tu vô biên hành tướng của địa Tĩnh lự thứ nhất ở vị lai. Cận phần của địa trên tu thì nghĩa như trước.

Hỏi: Vì sao cận phần của Tĩnh lự thứ nhất có thể tu các loại hành tướng như vậy, cận phần của địa trên thì không có thể tu vậy?

Đáp: Cận phần của Tĩnh lự thứ nhất có các loại căn thiện, cho nên có thể tu các loại hành tướng này; cận phần của địa trên ít các căn thiện, cho nên không có thể tu các loại hành tướng. Lại nữa, phiền não của cõi dục có đủ loại tướng, cũng tu các loại căn thiện để đối trị; phiền não của địa trên không có các loại tướng, cho nên ở địa ấy không tu các loại đối trị.

Hỏi: Hiện tại cùng với hành có tác dụng mang vác nặng, hành tướng-sở duyên của đạo thế tục-vô gián và giải thoát, đã nói như trước; tu đạo vị lai là duyên với nơi nào?

Đáp: Lúc lìa nhiễm cõi dục, trong chín đạo vô gián mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai thì chỉ duyên với cõi dục; trong tám đạo giải thoát mà tu ba hành tướng như thế…. Của vị lai thì duyên với cõi dục và

Tĩnh lư thứ nhất, tu ba hành tướng như tĩnh… thì chỉ duyên với Tĩnh lự thứ nhất; trong đạo giải thoát cuối cùng mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai thì duyên với tất cả ba cõi, tu ba hành tướng như tĩnh… thì duyên với Tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lúc lìa nhiễm Tĩnh lự thứ nhất, trong chín đạo vô gián mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai, chỉ duyên với Tĩnh lự thứ nhất; trong tám đạo giải thoát mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai thì duyên với hai Tĩnh lự đầu, tu ba hành tướng như tĩnh… chỉ duyên với Tĩnh lự thứ hai; trong đạo giải thoát cuối cùng mà tu ba hành tướnnghư thô… của vị lai thì duyên với tất cả ba cõi, tu ba hành tướng như tĩnh… thì duyên với Tĩnh lự thứ hai cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lúc lìa nhiễm Tĩnh lự thứ hai, trong chín đạo vô gián mà tu ba hành tướng như thế… của vị lai, chỉ duyên với Tĩnh lự thứ hai; trong tám đạo giải thoát mà tu ba hành tướng như thô… cuỉa vị lai thì duyên với Tĩnh lự thứ hai-thứ ba, tu ba hành tướng như tĩnh…. Thì chỉ duyên với Tĩnh lự thứ ba; trong đạo giải thoát cuối cùng mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai thì duyên với tất cả ba cõi, tu ba hành tướng như tĩnh… thì duyên với Tĩnh lự thứ ba cho đến Phi tướng phi phi tưởng xứ.

Lúc lìa nhiễm Tĩnh lự thứ ba, trong chín đạo vô gián mà tu hành tướng như thô… của vị lai, chỉ duyên với Tĩnh lự thứ ba; trong tám đạo giải thoát mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai thì duyên với Tĩnh lự thứ ba-thứ tư, tu ba hành tướng như Tĩnh… thì chỉ duyên với Tĩnh lự thứ tư; trong đạo giải thoát cuối cùng mà tu hành tướng như thô… của vị lai thì duyên với tất cả ba cõi, tu ba hành tướng như tĩnh… thì duyên với Tĩnh lự thứ tư cho đến Phi tướng phi phi tưởng xứ.

Lúc lìa nhiễm Tĩnh lự thứ tư, trong chín đạo vô gián mà tu hành tướnnghư thô… của vị lai, chỉ duyên với Tĩnh lự thứ tư; trong tám đạo giải thoát mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai thì duyên với trưởng lão thứ tư và không vô biên xứ, tu ba hành tướng như tĩnh… thì chỉ duyên với không vô biên xứ; trong đạo giải thoát cuối cùng mà tu ba hành tướnnghư thô… và ba hành tướng như tĩnh… của vị lai, thì duyên với không vô biên xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Hỏi: Nếu lìa nhiễm Tĩnh lự thứ tư, trong tám đạo giải thoát mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai, có thể duyên với Tĩnh lự thứ tư và không vô biên xứ, thì luận Thức Thân nói phải thông hiểu thế nào?

Như nói: “Có thể có tâm thiện của cõi vô sắc có năng lực phân biệt rõ ràng về pháp của cõi Sắc-Vô sắc chăng?

Đáp: “Không có”. Đó là ngăn chặn sát-na chứ không ngăn chặn tương tục, nghĩa là tâm thiện của cõi Vô wsắc trong một sát-na có năng lực phân biệt rõ ràng về pháp của cõi Sắc-Vô sắc, thì không có điều này. Nếu lìa nhiễm Tĩnh lự thứ tư, trong tám đạo giải thoát mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai, hoặc là duyên với Tĩnh lự thứ tư của cõi Sắc, hoặc duyên với không vô biên xứ của cõi Vô sắc, thì điầu này là có. Bởi vì ngăn chặn sát-na chứ không ngăn chặn tương tục, cho nên luận này và luận kia nói đều là dễ dàng thông suốt.

Lúc lìa nhiễm không vô biên xứ, trong chín đạo vô gián mà tu hành tướng như thô… của vị lai, chỉ duyên với không vô biên xứ; trong tám đạo giải thoát mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai thì duyên với vô biên xứ và Thức vô biên xứ, tu ba hành tướng như tĩnh… thì chỉ duyên với Thức vô biên xứ; trong đạo giải thoát cuối cùng mà tu ba hành tướng như thô… và ba hành tướng như tĩnh… của vị lai, thì duyên với Thức vô biên xứ cho đến Phi tướng phi phi tưởng xứ.

Lúc lìa nhiễm Thức vô biên xứ, trong chín đạo vô gián mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai, chỉ duyên với Thức vô biên xứ; trong tám đạo giải thoát mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai thì duyên với Thức vô biên xứ và Vô sở hữu xứ, tu ba hành tướng như Tĩnh… thì chỉ duyên với vô sở hữu xứ; trong đạo giải thoát cuối cùng mà tu ba hành tướng như thô… của vị lai thì duyên với vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tu ba hành tướng như tĩnh… thì chỉ duyên với Phi tưởng phi phi tưởng xứ; trong đạo giải thoát cuối cùng mà tu ba hành tướng như thô… và ba hành tướng như tĩnh… của vị lai, thì chỉ duyên với Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Hỏi: tại sao trong đạo giải thoát cuối cùng đã tu ba hành tướng như thô… của vị lai do Tĩnh lự mà thâu nhiếp lại duyên với tất cả ba cõi, ba hành tướng như thô… do vô sắc mà thâu nhiếp thì chỉ duyên với cõi Vô sắc?

Đáp: trong địa Tĩnh lự có trí duyên với mọi nơi, có thể duyên với địa mình-địa dưới và địa trên; trong địa Vô sắc không có trí duyên với mọi nơi, chỉ duyên với địa mình và địa trên chứ không duyên với địa dưới. Lại nữa, trong địa Tĩnh lự thì công đức hiển bày rõ ràng dễ thấydễ biết, chứ không phải là địa vô sắc. Lại nữa, trong địa Tĩnh lự có nhiều những công đức-nhiều những lợi ích tốt đẹp, địa vô sắc thì không như vậy. Lại nữa, trong địa Tĩnh lự dễ dàng có các loại tướng khác nhau-tánh khác nhau, địa vô sắc thì không như vậy. Lại nữa, trong địa Tĩnh lự có tướng của căn khác nhau-tướng của thọ khác nhau-tướng của tâm và tâm sở pháp khác nhau… của vị lai do Tĩnh lự mà thâu nhiếp thì duyên với tất cả ba cõi, còn ba hành tướng như thô… do vô sắc mà thâu nhiếp thì chỉ duyên với cõi Vô sắc.

Kiết do kiến mà đoạn của cõi dục không còn thì quả nào thâu nhiếp? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Trước đây nói về các kiết thuộc hai Bộ của ba cõi lập tức và dần dần mắc phải-xả bỏ, chưa nói đến kiết ấy đoạn thì quả nào thâu nhiếp, nay muốn nói đến điều đó cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Kiết do kiến mà đoạn của cõi dục không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không có nơi nào. Bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, nghĩa là lúc kiết ấy không còn, chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp lực chứng quả Nhất lai thì quả Nhất lai thâu nhiếp, lúc chứng quả Bất hoàn thì quả Bất hoàn thâu nhiếp, lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn, không phải là quả thâu nhiếp; đã lìa nhiễm cõi dục tiến vào chánh tánh ly sinh, thì trong mười lăm tâm kiến đạo kiết ấy không còn, không phải là quả thâu nhiếp; theo thứ tự thì trong hai tâm hiện quán về Đạo, kiết ấy không còn chứ không phải là quả thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do tu mà đoạn của cõi dục không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Bất hoàn và quả A-la-hán, hoặc không có nơi nào. Quả Bất hoàn thâu nhiếp, nghĩa là lúc kiết ấy không còn, chứng quả Bất hoàn thì quả Bất hoàn thâu nhiếp. Quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là lúc kiết ấy không còn, chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn, không phải là quả thâu nhiếp; đã lìa nhiễm cõi Dục tiến vào chánh tánh ly sinh thì trong mười lăm tâm kiến đạo kiết ấy không còn, không phải là quả thâu nhiếp; không theo thứ tự thì không phải là nghĩa của quả thâu nhiếp. Nguyân cớ thế nào? Bởi vì lìa nhiễm cõi dục lúc đạo vô gián thứ chín diệt thì mơi đoạn hết kiết ấy, lúc đạo giải thoát thứ chín sinh thì chứng quả Bất hoàn, kiết ấy không còn tức là quả Bất hoàn thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do kiến mà đoạn của cõi sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không có nơi nào. bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn vào lúc chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp, cho đến lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là xcác dị sinh đã lìa nhiễm cõi sắc thì kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp; đã lìa nhiễm cõi sắc tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo thì kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp; không theo thứ tự thì không phải là nghĩa của quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc Đạo loại trí nhẫn diệt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc Đạo loại trí sinh thì tùy theo sự thích hợp mà chứng ba quả trước, kiết ấy không còn tức là ba quả trước thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do tu mà đoạn của cõi sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả A-la-hán , hoặc không có nơi nào. quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả A-la-hán thì quả Ala-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi sắc thì kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp; đã lìa nhiễm cõi sắc tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo và đạo loại trí…, các phần vị hữu học không còn kiết ấy chứ không có quả nào thâu nhiếp; theo thứ tự thì từ lúc lìa nhiễm Tĩnh lự thứ tư, đạo giải thoát thứ chín cho đến định kim cang dụ hiện ở trước mắt không còn kiết ấy chứ không có quả nào thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do kiến mà đoạn của cõi vô sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn. Nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp, cho đến lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Không có nghĩa dị sinh không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do kiến mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. cũng không theo thứ tự thì nghĩa không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc Đạo loại trí nhẫn diệt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc đạo loại trí sinh thì tùy theo sự thích hợp mà chứng ba quả trước, kiết ấy không còn tức là ba quả trước thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do tu mà đoạn của cõi vô sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả A-la-hán. Nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Ala-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Không có nghĩa dị sinh không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do tu mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. cũng không theo thứ tự thì nghĩa không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? bởi vì lúc định kim cang dụ hiện ở trước mắt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc Tận trí bắt đầu phát sinh thì chứng quả A-la-hán , kiết ấy không còn thì quả A-la-hán thâu nhiếp.

Có năm Bộ kiết, đó là kiết do kiến khổ mà đoạn, cho đến kiết do tu mà đoạn.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: trước đây tuy nói về kiết thuộc hai Bộ của ba cõi không còn thì do các quả mà thâu nhiếp, nhưng chưa nói đến kiết thuộc năm Bộ không còn thì do các quả mà thâu nhiếp, nay muốn nói đến điều đó cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Kiết do kiến khổ mà đoạn không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không có nơi nào. bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp, cho đến lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là không có dị sinh nào, nghĩa không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do kiến Khổ mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. theo thứ tự là trong một tâm hiện quán về khổ, trong tất cả bốn tâm hiện quán về tập-Diệt, trong ba tâm hiện quán về Đạo, kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do kiến Tập mà đoạn không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không có nơi nào. bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, thì nói như trước. Hoặc không có nơi nào, là không có nghĩa dị sinh-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do kiến Tập mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. theo thứ tự là hiện quán về Tập trong một tâm, hiện quán về Diệt trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do kiến Diệt mà đoạn không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không có nơi nào. Bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, thì nói như trước. Hoặc không có nơi nào, là không có nghĩa dị sinh-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết Diệt mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Theo thứ tự là hiện quán về Diệt trong một tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do kiến đạo mà đoạn không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn. Nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp, cho đến lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Không có nghĩa dị sinh-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do kiến Đạo mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. cũng không có nghĩa theo thứ tự-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? bởi vì lúc Đạo loại trí nhẫn diệt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc Đạo loại trí sinh thì tùy theo sự thích hợp mà chứng ba quả trước, kiết ấy không còn tức là ba quả trước thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do tu mà đoạn không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả A-la-hán. Nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Ala-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Không có nghĩa dị sinh-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do tu mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. cũng không có nghĩa theo thứ tự-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? bởi vì lúc định kim cang dụ hiện ở trước mắt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc tận trí bắt đầu phát sinh thì chứng quả A-la-hán, kiết ấy không còn thì quả A-la-hán thâu nhiếp.

Có chín Bộ kiết, đó là kiết do khổ pháp trí mà đoạn, cho đến kiết do tu mà đoạn.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: trước đây tuy nói về kiết thuộc năm Bộ không còn thì do các quả mà thâu nhiếp, nhưng chưa nói đến kiết thuộc chín Bộ không còn thì do các quả mà thâu nhiếp, nay muốn nói đến điều đó cho nên soạn ra phần luận này. Tức là các kiết thuộc năm bộ trước đây dựa vào đối trị sai biệt mà nói thành chín Bộ, đó là Pháp trí-Loại trí phân biệt khác nhau mà đối trị với kiết phân làm tám bộ, những đối trị lẫn tạp tập hợp làm một Bộ, cho nên có chín Bộ.

Hỏi: Kiết do khổ pháp trí mà đoạn không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả sa-môn, hoặc không có nơi nào. Bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp, cho đến lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi Dục thì kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi Dục tiến vào Chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả nào thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về khổ trong ba tâm, hiện quán về Tập-Diệt đều trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do khổ loại trí cho đến do Đạo pháp trí mà đoạn không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không có nơi nào. bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, thì nói như trước. Hoặc không có nơi nào, nếu kiết do khổ loại trí mà đoạn không còn, thì không có nghĩa dị sinh-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do kiến khổ mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. theo thứ tự là hiện quán về Khổ trong một tâm, hiện quán về tập-Diệt đều trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp.

Nếu kiết do tập pháp trí mà đoạn không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi Dục tiến vào Chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả nào thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về Tập trong ba tâm, hiện quán về Diệt trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp.

Nếu kiết do tập loại trí mà đoạn không còn, thì không có nghĩa dị sinh-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do Kiến tập mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. theo thứ tự là hiện quán về tập trong một tâm, hiện quán về Diệt trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp.

Nếu kiết do Diệt pháp trí mà đoạn không còn, nghĩa là các dị dinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi dục tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả nào thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về Diệt-Đạo đều trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp.

Nếu kiết do Diệt loại trí mà đoạn không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi dục tiến vào Chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm Kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả nào thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về Đạo trong hai tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp. Vì vậy nói là không có nơi nào.

Hỏi: Kiết do Đạo loại trí mà đoạn không còn thì quả nào thâu nhiếp.

Đáp: Bốn quả Sa-môn. Nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp, cho đến lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Không có nghĩa dị sinh-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do kiến Đạo mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. cũng không có nghĩa theo thứ tự-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc Đạo loại trí nhẫn diệt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc Đạo loại trí sinh thì tùy theo sự thích hợp mà chứng quả trước, kiết ấy không còn tức là ba quả trước thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do tu mà đoạn không còn thì quả nào như thế?

Đáp: Quả A-la-hán , nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Không có nghĩa dị sinh-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa kiết do tu mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. cũng không có nghĩa theo thứ tự-không có quả nào thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? bởi vì lúc định Kim cang dụ hiện ở trước mắt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc Tận trí bắt đầu phát sinh thì chứng quả A-la-hán , kiết ấy không còn tức là quả A-la-hán thâu nhiếp.

Hỏi: Là đạo vô gián có thể đoạn các kiết, hay là đạo giải thoát có thể đoạn các kiết? Giả sử như vậy thì có gì sai? Cả hai đều có sai lầm. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu đạo vô gián có thể đoạn các kiết, thì văn này đã nói nên thông hiểu thế nào? Như nói: “Kiết do khổ pháp trí mà đoạn, cho đến kiết do Đạo loại trí mà đoạn”. Nếu đạo giải thoát có thể đoạn các kiết, thì trong chương Trí uẩn đã nói nên thông hiểu thế nào? Như nói: “Các kiết do kiến Khổ mà đoạn thì kiết ấy không phải là Khổ trí đoạn mà là khổ nhẫn đoạn, cho đến các kiết do kiến Đạo mà đoạn thì kiết ấy không phải là Đạo trí đoạn mà là Đạo nhẫn”.

Đáp: Nên đưa ra cách nói này: Chỉ riêng đạo vô gián có thể đoạn các kiết.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông hiểu trong chương Trí uẩn đã nói, văn này đã nói nên thông hiểu thế nào?

Đáp: Văn này nên đưa ra cách nói này: Có chín Bộ kiết, đó là do khổ pháp trí nhẫn mà đoạn, cho đến do Đạo loại trí nhẫn mà đoạn. Nhưng không đưa ra cách nói này là có ý nghĩa riêng biệt, nghĩa là Nhẫn thuộc về Trí, là bạn giúp đỡ Trí, do các Nhẫn mà đoạn gọi là do Trí mà đoạn; như do bề tôi đã làm gọi là do nhà vua đã làm. Lại nữa.

Đạo vô gián đích thực có thể đoạn kiết, đạo giải thoát giữ gìn khiến cho không sinh ra, nghĩa là đạo vô gián tuy đích thức đoạn kiết, nhưng nếu không có đọa giải thoát giữ gìn khiến cho không sinh ra, thì kiết ấy vẫn dấy khởi sẽ trở thành lỗi lầm tai họa, bởi vì hiển bày đạo giải thoát có tác dụng đối với đoạn, cho nên văn này nói là Pháp-Loại trí đoạn. Lại nữa, vô gián-giải thoát cùng chung một công việc, đối với sự đoạn kiết đều có thế lực; như hai lực sĩ cùng làm hại một kẻ thù, một người đánh ngã xuống đất-một người làm cho không đứng lên được, không như vậy thì vẫn đứng lên có thể gây ra lỗi lầm tai họa; lại như hai người cùng đuổi một tên cướp, một người đuổi khiến cho ra ngoài-một người đóng chặt cửa lại, không như vậy thì vẫn đi vào có thể gây ra lỗi lầm tai họa; lại như hai người cùng bắt một con rắn, một người bỏ vào trong bìnhmột người đậy chặt miệng bình, không như vậy thì vẫn bò ra có thể gây ra sai lầm tai họa; vô gián-giải thoát đoạn kiết cũng như vậy, bởi vì hiển bày giải thoát có tác dụng đối với đoạn, cho nên văn này nói là PhápLoại trí đoạn. Lại nữa, muốn hiển bày đạo giải thoát có nhiều tác dụng ở trong kiết do đạo vô gián mà đoạn, nhiều tác dụng này như chướng căn Uẩn nói, cho nên văn này nói là Pháp-Loại trí đoạn. Lại nữa, các đạo vô gián đích thực đoạn kiết, có được các đạo giải thoát cùng phát sinh đạo được các kiết ấy, đã đoạn được kiết ấy lại có tác dụng đoạn kiết ấy, cho nên văn này nói là Pháp-Loại trí đoạn. Lại nữa, đoạn có hai loại: 1- Riêng; 2- Chung. Riêng thì chỉ có Đạo vô gián, chung thì gồm cả đạo giải thoát, ở đây dựa vào chung mà nói cho nên không trái với lý. Lại nữa, các Nhẫn trong này dùng tên gọi của trí để nói là có thể dẫn dắt trí, cho nên lấy nhân để thiết lập tên gọi của quả; như nhân của tên gọi đói khát mà tiếp xúc với nhân kia, vì vậy có thể đoạn kiết chỉ riêng đạo vô gián.

Có mười lăm Bộ kiết, đó là ba cõi đều có năm Bộ, tức là kiết do kiến Khổ mà đoạn, cho đến kiết do tu mà đoạn.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Trước đây tuy nói về chín Bộ kiết không còn thì do các quả mà thâu nhiếp, nhưng chưa nói đến mười lăm Bộ kiết không còn thì do các quả mà thâu nhiếp, nay muốn nói đến điều đó cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Nghĩa là căn cứ theo hai môn Giới-Tập-Diệt-Đạo mà đoạn của cõi dục không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không có nơi nào. bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp, cho đến lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nếu kiết do kiến khổ mà đoạn của cõi dục không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn chứ không có quả nào thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi dục tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có` quả nào thâu nhiếp. Theo thừ tự là hiện quán về khổ trong ba tâm, hiện quán về Tập-Diệt đều trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Nếu kiết do kiến Tập mà đoạn của cõi dục không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi dục tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về tập trong ba tâm, hiện quán về Diệt trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Nếu kiết do kiến Diệt mà đoạn của cõi dục không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi dục tiến vào chánh thâu nhiếp A-la-hán ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về Diệt-Đạo đều trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Nếu kiết do kiến Đạo mà đoạn của cõi dục không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi dục tiến vào Chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm Kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về Đạo trong hai tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do tu mà đoạn của cõi dục không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Bất hoàn và quả A-la-hán hoặc không có nơi nào. Quả Bất hoàn thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Bất hoàn thì quả bất hoàn thâu nhiếp. Quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi dục tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả thâu nhiếp. Không có nghĩa theo thứ tự-không có quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc lìa nhiễm cõi dục, đạo vô gián thứ chín diệt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc đạo giải thoát thứ chín sinh thì chứng quả bất hoàn, tức là quả Bất hoàn thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do kiến khổ-tập-diệt-đạo mà đoạn của chúng sinh không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không có nơi nào. Bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, nói như trước. Hoặc không có nơi nào, nếu kiết do kiến khổ mà đoạn của cõi sắc không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi sắc thì kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi sắc tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về khổ trong một tâm, hiện quán về tập-diệt đều trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Nếu kiết do kiến Tập mà đoạn của cõi sắc không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm chúng sinh thì kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi sắc tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về Tập trong một tâm, hiện quán về Diệt trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Nếu kiết do kiến Diệt mà đoạn của chúng sinh không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm chúng sinh thì kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi sắc tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về Diệt trong một tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Nếu kiết do kiến Đạo mà đoạn của chúng sinh không còn, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm chúng sinh thì kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm chúng sinh tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn kiết ấy chứ không có quả thâu nhiếp. Không có nghĩa theo thứ tự-không có quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc Đạo loại trí nhẫn diệt mời đoạn hết kiết ấy, lúc Đạo loại trí sinh thì tùy theo sự thích hợp mà chứng ba quả trước, kiết ấy không còn tức là ba quả trước thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do tu mà đoạn của cõi Sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả A-la-hán , hoặc không có nơi nào. Quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả A-la-hán thì quả Ala-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi sắc thì kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi Sắc tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm Kiến đạo và các phần vị Hựu học như Đạo loại trí…, không còn kiết ấy chứ không có quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là từ lúc lìa nhiễm Tĩnh lự thứ tư, đạo giải thoát thứ chín cho đến định kim cang dụ hiện ở trước mắt, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do kiến Khổ-tập-Diệt mà đoạn của cõi vô sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không có nơi nào. Bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, nói như trước. Hoặc không có nơi nào, nếu kiết do kiến khổ mà đoạn của cõi vô sắc không còn, thì không có nghĩa dị sinh-không có quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh mà có thể lìa kiết do kiến-tu mà đoạn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. theo thứ tự là hiện quán về khổ trong một tâm, hiện quán về Tập-Diệt đều trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Nếu kiết do kiến Tập mà đoạn của cõi vô sắc không còn, thì không có nghĩa dị sinh-không có quả thâu nhiếp, nghĩa nói như trước. Theo thứ tự là hiện quán về Tập trong một tâm, hiện quán về Diệt trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy không còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Nếu kiết do kiến Diệt mà đoạn của cõi vô sắc không còn, thì không có nghĩa dị sinh-không có quả thâu nhiếp, nghĩa nói như trước. Theo thứ tự là hiện quán về Diệt trong một tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, kiết ấy còn chứ không có quả thâu nhiếp.

Hỏi: Nếu kiết do kiến Đạo mà đoạn của cõi Vô sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp, cho đến lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Không có nghĩa dị sinh-không có quả thâu nhiếp, nghĩa nói như trước. Cũng không có nghĩa theo thứ tự-không có quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? bởi vì lúc Đạo loại trí nhẫn diệt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc Đạo loại trí sinh thì tùy theo sự thích hợp mà chứng ba quả trước, kiết ấy không còn tức là ba quả trước thâu nhiếp.

Hỏi: Kiết do tu mà đoạn của cõi Vô sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả A-la-hán , nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Không có nghĩa dị sinh-không có quả thâu nhiếp, nghĩa nói như trước. Cũng không có nghĩa theo thứ tự-không có quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc định Kim cang dụ hiện ở trước mắt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc Tận trí bắt đầu phát sinh thì chứng quả A-la-hán , kiết ấy không còn tức là quả A-lahán thâu nhiếp.

******

 

Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, mỗi một loại không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: trước đây tuy nói về mười lăm Bộ kiết không còn thì do các quả mà thâu nhiếp, nhưng chưa nói đến mười sáu chương phiền não không còn thì do các quả mà thâu nhiếp, nay muốn nói đến điều đó cho nên soạn ra phần luận này.

Trả lời: Trong ba Kiết, Hữu thân kiến không còn thì bốn quả Samôn thâu nhiếp, hoặc không có nơi nào. Bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả Dự lưu thì quả Dự lưu thâu nhiếp, cho đến lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là không có nghĩa dị sinh-không phải quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa hữu thân kiến của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. theo thứ tự là hiện quán về khổ trong một tâm, hiện quán về Tập Diệt đều trong bốn tâm, hiện quán về Đạo trong ba tâm, Hữu thân kiến không còn chứ không phải thâu nhiếp.

Như trong ba kiết, Hữu thân không còn; nên biết Hữu thân kiến trong năm kiết thuận phần dưới, Hữu thân kiến-Biên chấp kiến trong năm kiến không còn cũng như vậy, bởi vì tự tánh như nhau, vì cùng chung đối trị.

Giới cấm thủ-Nghi không còn thì bốn quả Sa-môn thâu nhiếp. Bốn quả thâu nhiếp thì nghĩa nói như trước nên biết. Loại này không có nghĩa dị sinh-không phải quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa Giới cấm thủ-nghi của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. cũng không có nghĩa theo thứ tự-không phải quả thâu nhiếp.

Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc Đạo loại trí nhẫn diệt thì mới đoạn hết kiết ấy, lúc Đạo loại trí sinh thì tùy theo sự thích hợp mà chứng ba quả trước, Giới cấm thủ-Nghi không còn tức là ba quả trước thâu nhiếp.

Như Giới Cấm thủ-Nghi trong ba kiết không còn; nên biết Kiến Bộ lưu-Ách trong bốn Bộc lưu-Ách, Kiến thủ-Giới cấm thủ trong bốn Thủ, Giới cấm thủ-chấp đây là thật Thân hệ trong bốn Thân hệ, Giới cấm Thủ-nghi trong năm kiết thuận phần dưới; Tà kiến-kiến thủ-Giới cấm thủ trong năm kiến, tùy miên kiến-Nghi trong bảy Tùy miên, kiết kiến-Thủ-Nghi trong chín kiết không còn cũng như vậy, bởi vì tự tánh như nhau, vì cùng chung đối trị.

Ba căn bất thiện không còn thì quả Bất hoàn và quả A-la-hán thâu nhiếp, hoặc không có nơi nào. quả Bất hoàn thâu nhiếp, nghĩa là loại ấy không còn, lúc chứng quả Bất hoàn thì bất hoàn thâu nhiếp. Quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là loại ấy không còn, lúc chứng quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi Dục thì loại ấy không còn chứ không phải quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi Dục tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn loại ấy chứ không phải quả thâu nhiếp. Không có nghĩa theo thứ tự-không phải quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc lìa nhiễm cõi dục, đạo vô gián thứ chín diệt mới đoạn hết loại ấy, lúc đạo giải thoát thứ chín sinh thì chứng quả Bất hoàn, tức là quả Bất hoàn thâu nhiếp.

Như ba căn bất thiện không còn; nên biết Dục lậu trong ba lậu, Dục Bộc lưu-Ách trong bốn Bộ lưu-Ách, Dục thủ trong bốn Thủ, Tham dục-Sân nhuế trong bốn Thân hệ, bốn cái trước trong năm Cái, kiết Sân-Tật-Khan trong năm Kiết, Tham dục-Sân nhuế trong năm kiết thuận phần dưới; Tỷ-Thiệt xúc mà sinh Ái thân trong sáu Ái thân, Tham dục-Sân nhuế trong bảy Tùy miên, kiết Nhuế-Tật-Khan trong chín kiết không còn cũng như vậy, bởi vì tự tánh như nhau, vì cùng chung đối trị.

Hữu lậu-Vô minh lậu không còn thì quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là loại ấy không còn, lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-lahán thâu nhiếp. Không có nghĩa dị sinh-không phải quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không có dị sinh nào có thể lìa Hữu lậu-vô minh lậu của Phi tướng phi phi tưởng xứ. Cũng không có nghĩa theo thứ tự-không phải quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc định Kim cang dụ hiện ở trước mắt thì mới đoạn hết loại ấy, lúc Tận trí bắt đầu phát sinh thì chứng quả A-la-hán, loại ấy không còn tức là quả A-la-hán thâu nhiếp.

Như Hữu lậu-Vô minh lậu không còn; nên biết Hữu-Vô minh Bộc lưu-Ách trong bốn Bộc Lưu-Ách, Ngã ngữ thủ trong bốn Thủ, Kiết Tham-mạn trong năm kiết, trừ ra Sắc tham còn lại bốn loại trong năm Kiết thuận phần trên, Ý xúc mà sinh Ái thân trong sáu Ái thân, Hữu tham-Vô minh-Mạn trong bảy Tùy miên, Kiết Ái-Mạn-Vô minh trong chín Kiết không còn cũng như vậy, bởi vì tự tánh như nhau, vì cùng chung đối trị.

Cái Nghi không còn thì bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, hoặc không có nơi nào. bốn quả Sa-môn thâu nhiếp thì nói như trước. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi dục thì Cái Nghi không còn chứ không có quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi dục tiến vào Chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn Cái Nghi chứ không phải quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là hiện quán về Đạo trong hai tâm, Cái Nghi không còn chứ không phần phải quả thâu nhiếp.

Kiết Sắc tham thuận phần trên không còn thì quả A-la-hán thâu nhiếp, hoặc không có nơi nào. Quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là kiết ấy không còn, lúc chứng quả A-la-hán thì quả A-la-hán thâu nhiếp. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh đã lìa nhiễm cõi Sắc thì kiết ấy không còn chứ không phải thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi Sắc tiến vào Chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo và các phần vị Hữu học như Đạo loại trí… Không còn kiết ấy chứ không phả quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là từ lúc lìa nhiễm Tĩnh lự thứ tự, đạo giải thoát thứ chín cho đến định kim cang dụ hiện ở trước mắt thì kiết ấy không còn chứ không phải quả thâu nhiếp.

Như kiết sắc tham thuận phần trên không còn; nên biết Nhãn-Nhĩthân xúc mà sinh Ái thân không còn cũng như vậy, bởi vì tự tánh như nhau, vì cùng chung đối trị.

Nhưng mà có sai biệt, trong này nên nói hoặc không có nơi nào, nghĩa là các dị sinh lìa nhiễm cõi Phạm Thế thì loại ấy không còn chứ không phỉ quả thâu nhiếp. Đã lìa nhiễm cõi Phạm Thế tiến vào Chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm Kiến đạo và các phần vị Hữu học như Đạo loại trí… không còn loại ấy chứ không phải quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là từ lúc lìa nhiễm Tĩnh lự thứ nhất, đạo giải thoát thứ chín cho đến định kim cang dụ hiện ở trước mắt thì loại ấy không còn chứ không phải quả thâu nhiếp.

Tùy miên do kiến Khổ-Tập-Diệt-Đạo mà đoạn của cõi dục trong chín mươi tám, Tùy miên không còn thì bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, hoặc không có nơi nào. Ở đây nói như bốn Bộ trước của cõi dục trong mười lăm Bộ kiết không còn. Tùy miên do tu mà đoạn của cõi dục không còn thì quả Bất hoàn và quả A-la-hán thâu nhiếp, hoặc không có nơi nào, ở đây nói như Bộ thứ năm của cõi dục trong mười lăm Bộ kiết không còn.

Tùy miên do kiến Khổ-tập-Diệt-Đạo mà đoạn của cõi Sắc không còn thì bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, hoặc không có nơi nào. Ở đây nói như bốn Bộ trước của cõi sắc trong mười lăm Bộ kiết không còn. Tùy miên do tu mà đoạn của cõi sắc không còn thì quả A-la-hán thâu nhiếp, hoặc không có nơi nào, ở đây nói như Bộ thứ năm của cõi Sắc trong mười lăm Bộ kiết không còn.

Tùy miên do kiến Khổ-tập-Diệt mà đoạn của cõi Sắc không còn thì bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, hoặc không có nơi nào. Ở đây nói như ba bộ trước của cõi Vô sắc không còn thì bốn quả Sa-môn thâu nhiếp, ở đây nói như Bộ thứ tư của cõi Vô sắc trong mười lăm bộ kiết không còn. Tùy miên do tu mà đoạn của cõi Vô sắc không còn thì quả A-lahán thâu nhiếp, ở đây nói như Bộ thứ năm của cõi Vô sắc trong mười lăm Bộ kiết không còn.

Hỏi: Các kiết ý trong Dự lưu hướng không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Không có nơi nào. nguyên cớ thế nào? Bởi vì trước quả Dự lưu không có quả Sa-môn thâu nhiếp lúc kiết ấy không còn.

Hỏi: Các kiết trong quả Dự lưu không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Dự lưu, nghĩa là trong quả này thâu nhiếp toàn bộ các kiết do kiến mà đoạn của ba cõi không còn.

Hỏi: Các kiết trong Nhát lai hướng không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Dự lưu, hoặc không có nơi nào. quả Dự lưu thâu nhiếp, nghĩa là trong quả này thâu nhiếp toàn bộ các kiết do kiến mà đoạn của ba cõi không còn. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là lìa nhiễm cõi dục gấp bội mà tiến vào Chánh thâu nhiếp ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn các kiết chứ không phải quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là các kiết do tu mà đoạn thuộc năm phẩm trước của cõi dục không còn chứ không phải quả thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đã chứng được đạo của quả thù thắng này. Như đạo của quả thù thắng không phải là do quả mà thâu nhiếp, đã đạt được kiết không còn thì lý cũng thuận theo như vậy.

Hỏi: Các kiết trong quả Nhất lai không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Nhất lai, nghĩa là trong quả này thâu nhiếp toàn bộ các kiết do kiến mà đoạn của ba cõi không còn, và thâu nhiếp các kiết thuộc sáu phẩm trước do tu mà đoạn của cõi dục không còn.

Hỏi: Các kiết trong Bất hoàn hướng không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Nhất lai, hoặc không có nơi nào. Quả Nhất lai thâu nhiếp, nghĩa là trong quả này thâu nhiếp toàn bộ các kiết do kiến mà đoạn của ba cõi không còn, và thâu nhiếp các kiết thuộc sáu phẩm trước do tu mà đoạn của cõi dục không còn. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là đã lìa nhiễm cõi dục cho đến lìa nhiễm vô sắc hữu xứ mà tiến vào chánh tánh ly sinh, trong mười lăm tâm kiến đạo không còn các kiết chứ không phải quả thâu nhiếp. Theo thứ tự là các kiết phẩm thứ bảy-thứ tám do tu mà đoạn của cõi dục không còn chứ không phải quả thâu nhiếp.

Hỏi: Các kiết trong quả Bất hoàn không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Bất hoàn, nghĩa là trong quả này thâu nhiếp toàn bộ các kiết do kiến mà đoạn của ba cõi không còn, và thâu nhiếp các kiết do tu mà đạn của cõi dục không còn.

Hỏi: Các kiết trong A-la-hán hướng không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Bất hoàn, hoặc không có nơi nào. Quả Bất hoàn thâu nhiếp, nghĩa là trong quả này thâu nhiếp toàn bộ các kiết do kiến mà đoạn của ba cõi không còn, và thâu nhiếp các kiết do tu mà đoạn của cõi dục không còn. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là lìa một phẩm nhiễm của Tĩnh lự thứ nhất, cho đến lìa tám phẩm nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, các kiết không còn chứ không phải qua thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đã chứng được đạo của quả thù thắng này. Như đạo của quả thù thắng không phải là do quả mà thâu nhiếp, đã đạt được kiết không còn thì lý cũng thuận theo như vậy.

Hỏi: Các kiết trong quả A-la-hán không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả A-la-hán, nghĩa là trong quả này thâu nhiếp toàn bộ các kiết do kiến-tu mà đoạn của ba cõi không còn.

Hỏi: Trong này là nói đến sự thành tựu các kiết không còn trong các Hướng-ác Quả, hay là nói đến các kiết không còn mới chứng được trong các Hướng-các quả? Giả sử như vậy thì có gì sai? Cả hai đều có sai lầm. Nguyên cớ thế nào? bởi vì nếu nói đến sự thành tựu các kiết không còn trong các Hướng-các quả, thì các kiết trong ba quả trước không còn không nên nói là chỉ thâu nhiếp trong quả của mình, như đã lìa nhiễm cõi dục thuộc năm phẩm trước mà tiến vào chánh tánh ly sinh, đến Đạo loại trí thì chứng quả Dự lưu, năm phẩm kiết do tu mà đoạn của cõi dục kia không còn, không phải là quả này thâu nhiếp, tại soa không nói là hoặc không có nơi nào? vả lại, đã lìa nhiễm cõi dục thuộc tám phẩm trước mà tiến vào chánh tánh ly sinh, đến Đạo loại trí thì chứng quả Nhất lai, kiết thuộc phẩm thứ bảy-thứ tám do tu mà đoạn của cõi dục kia không còn, không phải là quả này thâu nhiếp, tại sao không nói là không có nơi nào? Hơn nữa, đã lìa nhiễm cõi dục cho đến lìa nhiễm vô sở hữu xứ mà tiến vào chánh tánh ly sinh, đến Đạo loại trí thì chứng quả Bất hoàn, kiết do tu mà đoạn thuộc bảy địa của hai cõi trên ấy không còn, không phải là quả này thâu nhiếp, tại sao không nói là hoặc không có nơi nào? nếu nói đến các kiết không còn mới chứng được trong các Hướng-các quả, thì các kiết trong ba Hướng sau không còn cũng không nên nói là quả trước thâu nhiếp, bởi vì các kiết không còn mới chứng được trong Hướng chắc chắn không phải là do quả trước thâu nhiếp?

Đáp: Trong này nói chung về sự thành tựu các kiết không còn trong các Hướng-các Quả,.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông suốt vẫn nạn về ba Hướng sau, vấn nạn về ba quả trước thôg hiểu thế nào?

Đáp: Ở đây nói về người có đủ phiền não mà tiến vào kiến đạo, cho nên sự thành tựu về kiết không còn của ba quả trước chỉ nói là thâu nhiếp trong quả của mình. Có người đưa ra cách nói này: Trong này, phần vị của quả là nói đến mong cầu-chứng đắc đã đầy đủ, phần vị của Hướng chưa đầy đủ sự mong cầu cho nên nói chung là thành tựu, vì vậy hai cách nói về phần vị Hướng-quả dễ dàng thông suốt.

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn có đủ kiến giải, chưa lìa nhiễm cõi dục, các kiết do tu mà đoạn của cõi dục không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Nhất lai, hoặc không có nơi nào. Quả Nhất lai thâu nhiếp, nghĩa là các kiết thuộc sáu phẩm trước do tu mà đoạn của cõi dục không còn. Hoặc không có nơi nào, nghĩa là các kiết phẩm thứ bảy-thứ tám do tu mà đoạn của cõi dục không còn.

Hỏi: Đã lìa nhiễm cõi dục mà chưa lìa nhiễm cõi sắc, các kiết do tu mà đoạn của cõi Sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Không có nơi nào, nghĩa là nhiễm một phẩm của Tĩnh lự thứ nhất cho đến lìa nhiễm tám phẩm của Tĩnh lự thứ tư, các kiết do tu mà đoạn kia không còn, không phải là quả thâu nhiếp.

Hỏi: Đã lìa nhiễm cõi Sắc mà chưa lìa nhiễm cõi vô sắc, các kiết do tu mà đoạn của cõi vô sắc không còn thì quả nào thâu nhiếp?

Đáp: Không có nơi nào, nghĩa là lìa nhiễm một phẩm của không vô biên xứ cho đến lìa nhiễm tám phẩm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, các kiết do tu mà đoạn kia không còn, không phải là quả thâu nhiếp.

Trong này nói có bốn quả Sa-môn, đó là quả Dự lưu-quả Nhất laiquả Bất hoàn và quả á..

Hỏi: Vì sao nói đến bốn quả Sa-môn này?

Đáp: Vì ngăn chặn tông chỉ của người khác để hiển bày về nghĩa của mình. Nghĩa là hoặc có người nói: Bốn quả Sa-môn chỉ là vô vi.

Như Luận giả Phân biệt đã nói.

Hỏi: tại sao người ấy đưa ra cách nói ấy?

Đáp: Bởi vì dựa vào trong kinh. Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với Tỳ kheo: ta sẽ nói cho ông về tánh Sa-môn và Sa-môn, quả Samôn. Thế nào là tánh Sa-môn? Đó là tám chi Thánh đạo. Thế nào là Sa-môn? Đó là người thành tựu pháp này. Thế nào là quả Sa-môn? Đó là quả Dự lưu cho đến quả á.. Thế nào là quả Dự lưu? Đó là vĩnh viễn đoạn dứt ba kiết. Thế nào là quả Nhất lai? Đó là vĩnh viễn đoạn dứt ba kiết-giảm bớt tham sân si. Thế nào là quả bất hoàn? Đó là vĩnh viễn đoạn mất năm kiết thuận phần dưới. Thế nào là quả á.? Đó là vĩnh viễn đoạn mất tham sân si và tất cả phiền não”.

Bởi vì dựa vào kinh này cho nên nói quả Sa-môn chỉ là vô vi. Vì ngăn chặn ý đó để hiển bày quả Sa-môn cũng là hữu vi-cũng là vô vi. Nếu quả Sa-môn chỉ là vô vi thì trái với kinh nói, như trong kinh nói: Có thực hành bốn Hướng-có trú vào bốn Quả”. Trong này nói trú là trú vào quả hữu vi chứ không phải là quả vô vi, bởi vì quả vô vi không thể trú vào được. Họ đưa ra cách nói này: Trong quả vô vi cũng có thể nói là trú vào, luận Thi Thiết đưa ra cách nói như vậy: “Trú ấy đối với đoạn không mong cầu thắng tiến, là đạt được điều chưa đạt được, là gặt hái điều chưa gặt hái, là tiếp xúc điều chưa tiếp xúc, là chứng được điều chưa chứng được”. Luận ấy không phải là bằng chứng. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì ý lậun ấy nói: Trú vào đạo, nghĩa là trú vào đoạn thì không phải là như cưỡi voi ngựa mà ở trên voi-ngựa, chỉ đối với đạo chứng đoạn không tiến-không lùi mà nói tên gọi là trú. Có kinh khác chỉ nói hữu vi là quả Sa-môn, như nói: “Năm căn tăng thượng mạnh mẽ sắc bén-nhanh chóng tròn vẹn đầy đủ, gọi là quả A-la-hán Câu giải thoát; tiếp theo kém hơn thì gọi là quả A-la-hán Tuệ giải thoát; tiếp theo kém hơn thì gọi là quả Bất Hoàn; tiếp theo kém hơn thì gọi là quả Nhất lai; kém hơn cuối cùng thì gọi là quả Dự lưu”. Trong này chỉ nói năm căn như Tín… hơn-kém sai biệt, cho nên biết quả Sa-môn không chỉ là vô vi.

Hỏi: Nếu quả Sa-môn cũng là hữu vi, thì làm sao thông hiểu kinh mà họ đã dẫn chứng?

Đáp: Bốn quả Sa-môn thật sự gồm cả hữu vi và vô vi, nhưng kinh ấy chỉ nói là vô vi. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì chỉ nói về quả. Nếu pháp là quả Sa-môn chứ không phải là tánh Sa-môn thì đạo mà kinh ấy nói; là quả Sa-môn cũng là tánh Sa-môn cho nên kinh ấy không nói. Lại nữa, nếu pháp là quả Bà-la-môn chứ không phải là tánh Bà-la-môn thì đạo mà kinh ấy nói; là quả bà-la-môn cũng là tánh bà-la-môn cho nên kinh ấy không nói. Lại nữa, nếu pháp là quả phạm hạnh chứ không phải là tánh phạm hạnh thì đạo mà kinh ấy nói; là quả phạm hạnh cũng là tánh phạm hạnh cho nên kinh ấy không nói. Lại nữa, nếu pháp là quả chứ không phải là có quả thì đạo mà kinh ấy nói; là quả cũng là có quả cho nên kinh ấy không nói. Lại nữa, nếu pháp là lìa chứ không phải là có lìa thì đạo mà kinh ấy nói; là lìa cũng là có lìa cho nên kinh ấy không nói.

Lại nữa, nếu pháp là điều mong cầu chứ không phải là điều chán ngán thì đạo mà kinh ấy nói; là điều mong cầu cũng là điều chán ngán cho nên kinh ấy không nói.

Vì ngăn chặn tông chỉ của người khác đã nói như vậy mà muốn hiển bày tông chỉ cua 3mình, cho nên nói về bốn quả. Lại nữa, đừng cho là vì ngăn chặn tông chỉ của người khác để biẻu hiện rõ ràng về nghĩa của mình, mà chỉ vì mở mang chánh lý về pháp tướng khiến cho người khác hiểu biết, cho nên nói về bốn quả.

Hỏi: Tự tánh của bốn quả Sa-môn là gì?

Đáp: Luận Phẩm Loại Túc đưa ra cách nói như vậy: “Quả Dự lưu có hai loại, đó là hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Dự lưu hữu vi? Đó là người chứng quả Dự lưu đã-đang và sẽ đạt được đối với các pháp Học, đã đạt được thì gọi là quá khứ, đang đạt được thì gọi là hiện tại, sẽ đạt được thì gọi là vi6 lai. Thế nào là quả Dự lưu vô vi? Đó là người chứng quả Dự lưu đã-đang và sẽ đạt được đối với các kiết đoạn, đã đạt được thì gọi là quá khứ, đang đạt được thì gọi là hiện tại, sẽ đạt được thì gọi là vị lai”.

Hỏi: Đạo là hữu vi rơi vào ba đời thì có thể nói là đã-đang và sẽ đạt được đối với đạo ấy, đoạn là vô vi không rơi vào ba đời thì tại sao nói là đã-đang và sẽ đạt được đối với đoạn ấy? Đáp: Luận Phẩm Loại Túc nên đưa ra cách nói này: Đạt được xúc chứng chứ không nên nói là đã-đang và sẽ đạt được. Đưa ra cách nói ấy là có ý nghĩa khác, muốn hiển bày đạt được đoạn ấy và đạt được tương tục, nghĩa là đạt được đoạn ấy ở quá khứ gọi là đã đạt được, ở hiện tại gọi là đang đạt được, ở vị lai gọi là sẽ đạt được; tương tục ấy nghĩa là chứng đoạn tương tục ở quá khứ gọi là đã đạt được, ở hiện tại gọi là đang đạt được, ở vị lai gọi là sẽ đạt được. Vả lại, luận ấy nói: “Quả Nhất lai có hai loại, đó là hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Nhất lai hữu vi? Đó là người chứng quả Nhất lai đã-đang và sẽ đạt được đối với các pháp Học, còn lại như trước nói. Thế nào là quả Nhất lai vô vi? Đó là người chứng quả Nhất lai đãdnag và sẽ đạt được đối với các kiết đoạn, còn lại như trước nói. Quả Bất hoàn có hai loại, đó là hữu vi và vô vi. Thế nào là quả bất hoàn hữu vi? Đó là người chứng quả bất hoàn đã-đang và sẽ đạt được đối với các pháp Học, còn lại như trước nói. Thế nào là quả Bất hoàn vô vi? Đó là người chứng quả bất hoàn đã-đang và sẽ đạt được đối với các kiết đoạn, còn lại như trước nói. Quả A-la-hán có hai loại, đó là hữu vi và vô vi. Thế nào là quả A-la-hán hữu vi? Đó là người chứng quả A-la-hán đãđang và sẽ đạt được đối với các pháp vô học, còn lại như trước nói. Thế nào là quả A-la-hán vô vi? Đó là người chứng quả A-la-hán đã-đang và sẽ đạt được đối với các kiết đoạn, còn lại như trước nói”.

Trong luận Thi Thiết cũng đưa ra cách nói này: “Quả Dự lưu có hai loại; đó là hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Dự lưu hữu vi? Đó là đạt được quả này và đạt được Đắc này. Đạt được quả này, nghĩa là đạt được quả Dự lưu hữu vi-vô vi. Đạt được Đắc này, nghĩa là đạt được pháp đạt được quả này, do đạt được quả này cho nên thành tựu quả Dự lưu, do đạt được Đắc này cho nên thành tựu đạt được quả này. Nếu các căn họcLực học-Giới học-Thiện căn học-tám pháp Học, và các pháp Học thuộc chủng loại này, thì gọi là quả Dự lưu hữu vi. Thế nào là quả Dự lưu vô vi? Đó là ba kiết vĩnh viễn đoạn dứt, và pháp vĩn viễn đoạn dứt các kiết thuộc chủng loại này; tám mươi tám tùy miên vĩnh viễn đoạn dứt, và pháp vĩnh viễn đoạn dứt tùy miên thuộc chủng loại này, thì gọi là quả Dự lưu vô vi. Quả Nhất lai có hai loại, đó là hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Nhất lai hữu vi? Đó là đạt được quả này đạt được Đắc này, còn lại như trước nói. Nếu các căn học-Lực họ-Giới học-Thiện căn học-tám pháp Học, và các pháp Học thuộc chủng loại này, thì gọi là quả Nhất lai hữu vi. Thế nào là quả Nhất lai vô vi? Đó là ba kiết vĩnh viễn đoạn dứt, và pháp vĩnh viễn đoạn dứt các kiết thuộc chủng loại này; tám mươi tám tùy miên vĩnh viễn đoạn dứt, và phát vĩnh viễn đoạn dứt tùy miên thuộc chủng loại này; tham sân si đoạn dứt gấp bội, và pháp đoạn dứt gấp bội phiền não thuộc chủng loại này, thì gọi là quả Nhất lai vô vi. Quả Bất hoàn có hai loại, đó là hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Bất hoàn hữu vi? Đó là đạt được quả này và đạt được Đắc này, còn lại như trước nói. Nếu các căn học-Lực học-Giới học-Thiện căn học-tám pháp Học, và các pháp Học thuộc chủng loại này, thì gọi là quả Bất hoàn hữu vi. Thế nào là Bất hoàn vô vi? Đó là năm kiết thuận phần dưới vĩnh viễn đoạn dứt, và pháp vĩnh viễn đoạn dứt các kiết thuộc chủng loại này; chín mươi hai tùy miên vĩnh viễn đoạn dứt, và pháp vĩnh viễn đoạn dứt tùy miên thuộc chủng loại này, thì gọi là quả Bất hoàn vô vi. Quả Ala-hán có hai loại, đó là hữu vi và vô vi. Thế nào là quả A-la-hán hữu vi? Đó là đạt được quả này và đạt được Đắc này, còn lại như trước nói. Nếu các Căn vô học-Lực vô học-Giới vô học-Thiện căn vô học-mười pháp vô học, và các pháp vô học thuộc chủng loại này, thì gọi là quả A-la-hán hữu vi. Thế nào là quả A-la-hán vô vi? Đó là tham sân si vĩnh viễn đoạn dứt, và tất cả phiền não vĩnh viễn đoạn dứt, vượt qua tất cả mọi nẽo, đoạn dứt tất cả mọi ngã đường, dập tắt ba loại lửa, vượt qua bốn thác nước, bẻ gãy các loại ngạo mạn, lìa bỏ các khát ái, phá toang A-lại-da, cứu cánh vô thượng-tịch tĩnh vô thượng-an lạc vô thượng, và các ái không còn-ly diệt Niết Bàn, thì gọi là quả A-la-hán vô vi”.

Đó gọi là tự tánh của bốn quả Sa-môn, bổn tánh-tướng phần của ngã-vật. Đã nói về tự tánh, nguyên cớ nay sẽ nói đến.

Hỏi: Vì sao gọi là quả Sa-môn, quả Sa-môn là có nghĩa gì?

Đáp: Tất cả Thánh đạo lìa tánh Sa-môn, hữu vi-vô vi và các Trạch diệt, là quả này cho nên gọi là quả Sa-môn.

Hỏi: Nếu như vậy thì quả này không phải là chỉ có bốn, nghĩa là tám phẩm Nhẫn trong kiến đạo là thâu nhiếpáh Sa-môn, tám phẩm Trí là quả Sa-môn hữu vi, pháp đoạn của tám bộ là quả Sa-môn vô vi, lúc lìa nhiễm cõi Dục thì chín đạo vô gián là tánh Sa-môn, chín đạo giải thoát là quả Sa-môn hựu vi, pháp đoạn thuộc chín phẩm là quả Sa-môn vô vi; như vậy cho đến lúc lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên biết cũng như vậy. Như vậy thì có tám mươi chín quả Sa-môn hữu vi, tám mươi chín quả Sa-môn vô vi. Nếu dựa theo cách nói nà thì quả Sa-môn này có hai trăm sáu mươi bảy, nghĩa là tám mươi chín ở quá khứ, tám mươi chín ở hiện tại, tám mươi chín ở vị lai. Luận Phẩm Túc đưa ra cách nói như vậy: “Thế nào là quả pháp? Đó là tất cả pháp hữu vi và trạch Diệt, tùy theo các Thánh đạo có bao nhiêu sát-na, thì có bấy nhiêu quả Sa-môn hữu vi tùy theo pháp hữu lậu có số lượng bao nhiêu, thì Trạch diệt vô vi cũng có bấy nhiêu; tùy theo có bao nhiêu Trạch diệt vô vi, thì có bấy nhiêu quả Sa-môn vô vi”. Nếu dùng sát-na thuộc về thân để phân biệt, thì có vô lương Thể của quả Sa-môn, tại sao chỉ nói là bốn quả Sa-môn?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Đây là Đức Thế Tôn với người tiếp nhận hóa độ được nghe điều thích hợp cho nên có cách nói tóm lược khác.

Hiếp tôn giả nói: “Chỉ có Phật Thế Tôn có năng lực biết chính xác đầy đủ về phạm vi thế dụng-tánh tướng của các pháp, người khác thì không có năng lực biết được. Nếu pháp này có thể thiết lập quả Sa-môn thì chứ thiết lập, nếu không thể thì không thiết lập, cho nên không cần phải vặn hỏi”.

Tôn giả Thế Hữu đưa ra cách nói như vậy: “Đây là Đức Thế Tôn tóm tắc điều quan trọng mà nói cho người trí thông suốt ý, cho nên không cần phải vặn hỏi”.

Lại nữa, bốn quả vị này dễ thấy-dễ thi thiết, nói đây là quả Dự lưu cho đến đây là quả á…, các phần vị khác khó thấy-khó thi thiết, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn. Lại nữa, bốn quả vị này, các sư Du-già đối với quả phát khởi niềm vui mừng tăng thượng, phần vị khác thì không như vậy; như người làm nông vào giữa tháng sáu chăm lo việc đồng áng, thời gian sau thu hoạch thóc lúa đậu mè tích lũy đầy trong kho lẫm sinh lòng vui mừng hết sức; ở đây cũng như vậy, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này có đủ nhân duyên:

  1. Rời bỏ đạo đã từng đạt được.
  2. Đạt được đạo chưa từng đạt được.
  3. Chứng được một vị đoạn kiết.

Phần vị khác thì không như vậy, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bón quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này có đủ năm nhân duyên:

  1. Rời bỏ đạo đã từng đạt được.
  2. Đạt được đạo chưa từng đạt được.
  3. CHứng được một vị đoạn kiết.
  4. Lập tức đạt được tám trí.
  5. Trong một lúc tu mười sáu hành tướng.

Phần vị khác thì không như vậy, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này là nơi dừng nghỉ an ổn tối thắng của sư Du-già, phần vị khác thì không như vậy, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn. Lại nữa, bốn quả vị này là công dụng-là công dụng cứu cánh của tất cả Thánh đạo, là sở tác-là sở tác cứu cánh của tất cả kiết đoạn; phần vị khác thì Thánh đạo là công dụng chứ không phải là công dụng cứu cánh, phần vị khác thì kiết đoạn là sở tác chứ không phải là sở tác cứu cánh, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn. Lại nữa, bốn quả vị này cho phép người tu hành tu nhiều Thánh đạo, phần vị khác thì không như vậy, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Samôn. Lại nữa, bốn quả vị này thì các sư Du-già có thể dễ dàng biết rõ ràng về công đức và lầm lỗi, công đức ấy gọi là đạo và đạo quả, lầm lỗi ấy gọi là sinh tử và nhân quả, phần vị khác thì không như vậy, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn. Lại nữa, bốn quả vị này thì các sư Du-già mới có thể dễ dàng chọn lấy tướng của bốn Thánh đế, phần vị khác thì không như vậy; như người đi trên đường đối với tướng trạng của bốn phương chưa có thể dễ dàng chọn được, nếu ngồi một chỗ thì mới có thể dễ dàng chọn lấy, ở đây cũng như vậy, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn. Lại nữa, bốn quả vị này, nếu lúc lui sụt mất đi thì có người làm chứng biết được, phần vị khác thì không như vậy; như trong thôn ấp mắc bọn cướp đoạt thì có người chứng kiến biết rõ chứ không phải là ở giữa hai thôn ấp, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các sư Du-già trước tiên mở rộng gia hạnh-đạt chân kiên cố, phần vị khác thì không như vậy. Quả Dự lưu trước tiên mở rộng gia hạnh, nghĩa là người ấy trước tiên mong cầu quả giải thoát, cho nên tập trung chịu khó tu tập bố thí-trì giới thanh tịnh; quán Bất tịnh-trì tức niệm-Niệm trú-Văn-Tư-Tu tuệ và Noãn-ĐảnhNhẫn-Thế đệ nhất pháp, cùng với mười lăm tâm trong kiến đạo, thì ở đây gọi chung là đặt chân kiên cố 1(An túc kiên cố). Có người nói: Từ ba đầu cho đến Thế đệ nhất pháp gọi là mở rộng gia hạnh, mười lăm tâm kiến đạo gọi là đặt chân kiên cố. Quả Nhất lai trước tiên mở rộng gia hạnh, nghĩa là ngay trước đã nói và các đạo gia hạnh lìa nhiễm cõi dục; sáu đạo vô gián-năm đạo giải thoát, thì ở đây gọi là đặt chân kiên cố. Có người nói: Quả Dự lưu gọi là đặt chân kiên cố. Quả Bất hoàn trước tiên mở rộng gia hạnh, nghĩa là ngay trước đã nói và các đạo gia hạnh lìa nhiễm cõi dục; ba đạo vô gián-hai đạo giải thoát, thì ở đây gọi là đặt chân kiên cố. Có người nói: Quả Nhất lai gọi là đặt chân kiên cố.

Quả A-la-hán trước tiên mở rộng gia hạnh, nghĩa là ngay trước đã nói và các đạo gia hạnh lìa một phẩm nhiễm của Tĩnh lự thứ nhất; cho đến định kim cang dụ, thì ở đây gọi chung là đặt chân kiên cố. Có người nói: Quả bất hoàn gọi là đặt chân kiên cố. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các Sư Du-già đoạn tuyệt và chấm dứt tất cả phần Sinh, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu trừ ra bảy lần sinh ở cõi dục và cõi sắc-vô sắc ở mỗi một nơi một lần sinh, còn lại tất cả mọi lần sinh đều đạt được Phi trạch diệt; quả Nhất lai trừ ra hai lần sinh ở cõi dục và cõi sắc-vô sắc ở mỗi một nơi một lần sinh, còn lại tất cả mọi lần sinh đều đạt được Phi trách diệt; quả bất hoàn trừ ra cõi sắc-vô sắc mỗi một nơi một lần sinh, còn lại tất cả mọi lần sinh đều đạt được Phi trạch diệt; quả A-la-hán đối với tất cả mọi lần sinh đều đạt được Phi trạch diệt. Vì vậy, Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các sư Du-già tập hợp toàn bộ phiền não do kiến-tu mà đoạn của ba cõi cần phải đoạn, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả vị Dự lưu tập hợp toàn bộ phiền não do kiến mà đoạn của ba cõi cần phải đoạn; quả vị Nhất lai tập hợp toàn bộ phiền não do kiến mà đoạn của ba cõi, và phiền não thuộc sáu phẩm trước do tu mà đoạn của cõi dục cần phải đoạn; quả vị Bất hoàn tập hợp toàn bộ phiền não do kiến mà đoạn của ba cõi, và phiền não thuộc chín phẩm do tu mà đoạn của cõi dục cần phải đoạn; quả vị A-la-hán tập hợp toàn bộ hết thảy phiền não do kiến-tu mà đoạn của ba cõi cần phải đoạn. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này là nơi cầu mong chủ yếu của sư Du-già, phần vị khác không như vậy, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Samôn. Lại nữa, bốn quả vị này, các sư Du-già nói có lui sụt, nếu chưa đạt được trở lại thì chắc chắn không mạng chung, phần vị khác thì không như vậy, cho nên Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn. Lại nữa, bốn quả vị này đối trị năm nẽo-đạt được Phi trạch diệt, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với địa ngục-bàng sinh và nẽo quỷ đạt được Phi trạch diệt; quả Nhất lai đối trị với một phần của nẽo người đạt được Phi trạch diệt; quả bất hoàn đối trị với toàn phần của nẽo người đạt được Phi trạch diệt quả A-la-hán đối trị với nẽo trời đạt được Phi trạch diệt. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với bốn sinh đạt được Phi trạch diệt, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với Noãn sinh-thấp sinh đạt được Phi trạch diệt; quả Nhất lai đối trị với một phần của Thai sinh đạt được Phi trạch diệt, quả Nhất lai đối trị với một phần của Thai sinh đạt được Phi trạch diệt; quả A-la-hán đối trị với

Hóa sinh đạt được Phi trạch diệt. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với hai bên, phần vị khác thì không như vậy. Nói hai bên nghĩa là cõi dục và Hữu đảnh. Đối trị bên cõi Dục cho nên đạt được quả Nhất lai và quả bất hoàn, đối trị bên hữu Đảnh cho nên đạt được quả Dự lưu và quả á… Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với hai Hữu căn bản, phần vị khác thì không như vậy. Hai Hữu căn bản, nghĩa là cõi dục và Hữu Đảnh. Đối trị Hữu căn bản của cõi dục cho nên đạt được quả Nhất lai và quả bất hhoàn, đối trị với hữu căn bản của Hữu Đảnh cho nên đạt được quả Dự lưu và quả á… Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này có thể vĩnh viễn đối trị hai loại ác Tư, và các uẩn nương tựa của dị thục ấy, phần vị khác thì không như vậy. Hai loại ác Tư, nghĩa là Tư đoạn mất thiện căn và Tư dấy khởi nghiệp vô gián. Quả Dự lưu có thể vĩnh viễn đối trị với Tư đoạn mất thiện căn; quả

Nhất lai có thể vĩnh viễn đối trị với Tư dấy khởi nghiệp vô gián; quả Bất hoàn có thể vĩnh viễn đối trị với quả dị thục ấy; quả A-la-hán có thể vĩnh viễn đối trị với các uẩn nương tựa của dị thục ấy. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với ba pháp, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với ba kiết; quả Nhất lai đối trị với ba căn bất thiện và một phần Dục lậu; quả Bất hoàn đối trị với ba căn bất thiện và toàn phần Dục lậu; quả A-la-hán đối trị với Hữu lậu và vô minh lậu. vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với bốn pháp, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với kiến bộc lựu-ách, kiến thủ-Giới cấm thủ và hai Thân hệ sau; quả Nhất lai đối trị với Dục lộc lưu-ách-thủ và một phần của hai Thân hệ đầu; quả Bất hoàn đối trị với Dục bộ lưu-ách-thủ và toàn phần của hai Thân hệ trước; quả A-la-hán đối trị với Hữu-vô minh bộc lưu-ách và Ngã ngữ thủ. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với năm pháp, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với Cái Nghi-ba kiết sau của năm kiết thuận phần dưới và năm kiến; quả Nhất lai đối trị với bốn Cái trước-kiết Sân-Tật-Khan và một phần của hai kiết trước trong nă kiết thuận phần dưới; quả Bất hoàn đối trị với bốn Cái trước-kiết Sân-TậtKhan và toàn phần của hai kiết trước trong năm kiết thuận phần dưới; quả A-la-hán đối trị với kiết Tham-mạn và năm kiết thuận phần dưới. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với sáu Ái thân, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với Ý xúc đã sinh ra Ái thân do kiến mà đoạn; quả Nhất lai đối trị với một phần Tỷ-Thiệt xúc mà sinh ra Ái thân; quả Bất hoàn đối trị với toàn phần Tỷ-Thiệt xúc mà sinh ra Ái thân; quả A-la-hán đối trị với Nhãn-Nhĩ-Thân xúc mà sinh ra Ái thân, và Ý xúc đã sinh ra Ái thân do tu mà đoạn. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với bảy Tùy miên, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với tùy miên kiến-nghi; quả Nhất lai đối trị với một phần tùy miên Dục tham-sân nhuế; quả bất hoàn đối trị với toàn phần tùy miên Dục tham-Sân nhuế; quả A-la-hán đối trị với tùy miên Hữu tham-mạn-vô minh. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với chín kiết, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với kiết Kiến-Thủ-Nghi; quả Nhất lai đối trị với một phần của Kiết Nhuế-Tật-Khan; quả bất hoàn đối trị với toàn phần của Kiết Nhuế-Tật-Khan; quả A-la-hán đối trị với kiết ái-mạn-Vô minh. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với chín mươi tám Tùy miên, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với tùy miên do kiến mà đoạn của ba cõi; quả Nhất lai đối trị với một phần tùy miên do tu mà đoạn của cõi dục; quả Bất hoàn đối trị với toàn phần tùy miên do tu mà đoạn của cõi dục; quả A-la-hán đối trị với tùy miên do tu mà đoạn của cõi sắc-vô sắc. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đều ra khỏi phạm vi của một loại phiền não sâu nặng, phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu ra khỏi phạm vi của phiền não sâu nặng do kiến mà đoạn; quả Nhất lai ra khỏi phạm vi của phiền não sâu nặng có thể cùng dấy khởi năm nghiệp vô gián, đó là phiền não thuộc sáu phảm trước của cõi dục có thể cùng dấy khởi năm nghiệp vô gián, ba phẩm sau thì không như vậy, bởi vì thể lực yếu kém; quả Bất hoàn ra khỏi phạm vi của phiền não sâu nặng thuộc về các bất thiện; quả A-la-hán ra khỏi phạm vi của phiền não sâu nặng thuộc về các vô ký. Vì vậy Đức Phật chỉ nói đến bốn quả Samôn.

Hỏi: Vì sao lìa nhiễm cõi dục thì thiết lập hai quả Sa-môn, đó là quả Như Lai và quả Bất hoàn; lìa nhiễm cõi sắc-vô sắc thì thiết lập một quả Sa-môn, gọi là quả A-la-hán.

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: “Chỉ riêng Phật Thế Tôn có năng lực biết chính xác đầy đủ về phạm vi-thế dụng-tánh tướng của các pháp, người khác thì không có năng lực biết được. Nếu lìa nhiễm này có thể thiết lập hai quả thì cứ thiết lập hai quả, nếu lìa nhiễm này có thể thiết lập một quả thì thiết lập một quả, cho nên không cần phải vặn hỏi”.

Lại nữa, bốn quả Sa-môn không có quả nào không đều nhờ vào lìa nhiễm của ba cõi mà được kiến lập, nghĩa là lìa nhiễm do kiến mà đoạn của ba cõi thì kiến lập quả Dự lưu; nếu lìa nhiễm do kiến mà đoạn của ba cõi, và lìa nhiễm thuộc sáu phẩm trước do tu mà đoạn của cõi dục thì kiến lập của quả Nhất lai; nếu lìa nhiễm do kiến mà đoạn của ba cõi, và lìa nhiễm do tu mà đoạn của cõi dục thì kiến lập quả Bất hoàn; nếu lìa nhiễm do kiến-tu mà đoạn của ba cõi thì kiến lập quả A-la-hán .

Lại nữa, bởi vì cõi dục là cõi bất định, không phải là địa tu-không phải là địa lìa nhiễm, cho nên lìa nhiễm cõi ấy thì kiến lập hai quả Samôn; cõi sắc-vô sắc là cõi ổn định-là địa của tu-là địa của lìa nhiễm, cho nên lìa nhiểm của cõi ấy chỉ kiến lập một quả Sa-môn. Lại nữa, bởi vì cõi dục khó đoạn-khó phá-khó có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm cõi ấy thì kiến lập hai quả Sa-môn; cõi sắc-vô sắc dễ đoạn-dễ phá-dễ có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm của cõi ấy chỉ kiến lập mật quả Samôn. Lại nữa, bởi vì cõi dục thì lỗi lầm tăng mạnh-lỗi lầm kiên cố-lỗi lầm rất nhiều, cho nên lìa nhiễm cõi ấy phải kiến lập hai quả Sa-môn; cõi sắc-Vô sắc cùng với cõi dục trái ngược nhau, cho nên lìa nhiễm của cõi ấy chỉ kiến lập một quả Sa-môn. Lại nữa, bởi vì phiền não của cõi dục giống như dòng thác chảy xiết khó có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm cõi ấy phải kiến lập hai quả Sa-môn; như người vướt qua dòng sông mà nước sông ấy sâu và rộng, sóng lớn cuồn cuộn chảy xiết phải liên tục dừng lại mới có thể vượt qua được dòng sông. Như trong kinh nói: “Chủ thôn ấp nên biết, nói dòng thác chảy xiết là dụ cho năm dục tuyệt với”. Cõi sắc-vô sắc cùng với cõi dục trái ngược nhau, cho nên lìa nhiễm của cõi ấy chỉ kiến lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, bởi vì cõi dục là cõi hiểm nạn, phiền não thêm sâu nặng, tác nghiệp thêm sâu nặng, giốnnghư gánh nặng khó có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm cõi ấy phải kiến lập hai quả Sa-môn; cõi sắc-vô sắc không phải là cõi hiểm nạn phiền não-tác nghiệp giả sử có thêm sâu nặng mà lại dễ dàng vượt qua, cho nên lìa nhiễm của cõi ấy chỉ kiến lập một quả Sa-môn. Như người gánh nặng đi lên núi cao khó khăn nguy hiểm, phải liên tục dừng nghỉ thì mới có thể vượt qua được; nếu đến nơi bằng phẳng thì tuy là gánh nặng mà dễ dàng vượt qua đường xa, ở đây cũng như vậy.

Lại nữa, bởi vì cõi dục là cõi dơ bẩn hỗn tạp, giống như bùn lầy ứ đọng lẫn lộn nhiều rác rưởi dơ bẩn khó có thể rời ra được, cho nên lìa nhiễm cõi ấy phải kiến lập hai quả Sa-môn; cõi sắc- vô sắc cùng với cõi dục trái ngược nhau, cho nên lìa nhiễm của cõi ấy chỉ kiến lập một quả Sa-môn. Như trên đống rác rưởi xây dựng làm nên nhà cửa lâu đài, tuy là đẹp đẽ tuyệt vời mà người ta không thích ở; cõi sắc-vô sắc cũng lại như vậy, vì ở bên trên pháp dơ bẩn hỗn tạp của cõi dục, tuy là đẹp đẽ tuyệt vời mà Hiền Thánh không thích.

Vì vậy, Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô đưa ra cách nói như vậy: “Trong cõi dục này rất nhiều sai lầm mất mát, đó là mất cha mẹ-anh em-chị em-vợ con-quyến thuộc, bỏ mất tiền của-địa vị; hoặc bị cắt đứt tai-mũi-tay chân và các bộ phận thân thể; hoặc lại gặp phải bốn trăm lẻ bốn căn bệnh. Bởi vì các loại nhân duyên như vậy, cho nên nhận chịu nhiều khổ đau dữ dội. Cõi dục rất nhiều sai lầm mất mát như vậy, nếu lìa nhiễm cõi ấy thì kiến lập toàn bộ tất cả bốn quả Sa-môn hãy còi ít, huống gì hai quả hay sao?”

Lại nữa, bởi vì cõi dục có thân nam-thân nữ khó có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm cõi ấy phải kiến lập hai quả Sa-môn; cõi sắc-vô sắc chỉ có thân nam thì dễ dàng có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm của cõi ấy chỉ kiến lập một quả Sa-môn. Lại nữa, bởi vì cõi dục có nam căn-nữ căn khó có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm cõi ấy phải kiến lập hai quả Sa-môn; cõi sắc-vô sắc không có nam căn-nữ căn thì dễ dàng có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm của cõi ấy chỉ kiến lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, bởi vì cõi dục có hai loại phiền não bất thiện-vô ký khó có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm cõi ấy phải kiến lập hai quả Sa-môn, cõi sắc-vô sắc chỉ có một loại phiền não vô ký thì dễ dàng có thể vượt qua, cho nên lìa nhiễm cõi ấy chỉ kiến lập một quả Sa-môn. Như hai loại phiền não bất thiện và vô ký, như vậy có dị thục-không có dị thục, sinh hai quả-sinh một quả, vô tàm-vô quý, tương ưng-không tương ưng, tất cả các loại phiền não nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, bởi vì cõi Dục có khổ cũng ăn-ưa căn vô tàm-vô quý-tật san đoàn thực, và các loại lỗi lầm tai họa như dâm dục-ái-năm cái -năm dục-các nẽo ác… khó có thể rời ra được , cho nên lìa nhiễm cõi ấy phải kiến lập hai quả Sa-môn, cõi Sắc-vô sắc cùng với cõi Dục trái ngược nhau, cho nên lìa nhiễm của cõi ấy kiến lập một Sa-môn. Lại nữa, cõi Dục có đủ nhiều pháp hữu lậu như mười tám giới-mười hai xứ… khó có thể rời ra được, cho nên lìa nhiễm cõi ấy phải kiến lập hai quả Sa-môn, cõi Sắc-vô sắc ít pháp hữu lậu, cho nên lìa nhiễm của cõi ấy chỉ kiến lập một quả Sa-môn.

Hỏi: Tại sao lìa nhiễm do kiến mà đoạn thì kiến lập một đoạn Samôn đầu, lìa nhiễm do tu mà đoạn thì kiến lập ba quả Sa-môn sau?

Đáp: Nhiễm do kiến mà đoạn có thể dễ lìa xa, cho nên lúc lìa nhiễm ấy thì kiến lập một Sa-môn , còn nhiễm do tu mà đoạn khó có thể lìa xa, cho nên lúc lìa nhiễm ấy thì kiến lập ba quả Sa-môn sau.

******

 

Hỏi: Trước đây nói Thánh đạo là tánh Sa-môn, hữu vi-vô lậu và các trạch diệt là quả của Thánh đạo này, cho nên gọi là quả Sa-môn; do lực của đạo vô lậu mà chứng được thì có thể thiết lập tên gọi này, do lực của đạo thế tục mà chứng được thì như quả nhất lai-Bất hoàn, tại sao gọi là quả Sa-môn?

Đáp: Như đạo vô lậu lìa nhiễm cõi Dục, nếu gấp bội hoặc là hoàn toàn thì thiết lập phạm vi của quả; như vậy Thánh giả dùng đạo thế tục lìa nhiễm của cõi Dục, hoặc gấp bội-hoặc hoàn toàn cũng thiết lập quả Nhất lai và quả Bất hoàn, cho nên cả hai cũng được tên gọi là quả Samôn.

Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói rằng: “Lúc dùng đạo thế tục để lìa nhiễm cõi Dục thì cũng tu vị lai; do các đạo vô lậu mà đạt được hai quả là quả của đạo ấy, cho nên cũng được kiến lập tên gọi là quả Sa-môn.” Vị ấy không nên đưa ra cách nói này. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Thánh đạo vị lai chưa có tác dụng, làm sao đối với bên này bên kia mà có được tên gọi của quả?

Có Sư khác nói: “Lúc dùng đạo thế tục để lìa nhiễm cõi Dục thì vô lậu được chuyển biến luôn luôn nối tiếp nhau, hai quả đã đạt được là quả của đạo ấy, cho nên cũng được kiến lập tên gọi là của Sa-môn”. Vị ấy không nên đưa ra cách nói này. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đạt được không có tác dụng chứng đoạn về đoạn kiết, làm sao đối với bên này-bên kia mà có được tên gọi của quả?

Lại có người nói: “Lúc dùng đạo thế tục đạt được hai quả, định Kim cang dụ hiện ở trước mắt, chứng được toàn bộ một vị đoạn do kiến tu mà đoạn của ba cõi, đoạn đã đạt được trước đó là quả của Định này, cho nên gọi là quả Sa-môn, bởi vì Định này là tánh Sa-môn chân thật”.

Người ấy cũng không nên đưa ra cách nói như vậy. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc đạt được hai quả thì chưa đạt được Định này, nếu đạt được Định này thì mất tên gọi của quả kia, làm sao hai quả ấy lại gọi là của Sa-môn?

Nên đưa ra cách nói này: Từ phần nhiều mà kiến lập tên gọi, bởi vì phần nhiều là do Thánh đạo mà đạt được quả, nghĩa là lúc đạo thế tục đạt được hai quả tất cả đoạn do kiến mà đoạn của ba cõi, đều là do lực của Thánh đạo mà đạt được cho nên gọi là quả Sa-môn, tuy có lúc đoạn sáu phẩm-chín phẩm của cõi dục do tu mà đoạn nhưng không phải là Thánh đạo đạt được. Nhưng thuận theo phần nhiều cũng được kiến lập tên gọi là quả Sa-môn, bởi vì một đạo vô lậu đạt được do toàn bộ mà đạt được.

Hỏi: Như vậy đã nói thì bốn quả Sa-môn có mấy loại là giả danh, mấy loại là thật nghĩa?

Đáp: Hai loại là giả danh, đó là quả nhất lai và quả bất hoàn, hai loại là thật nghĩa, đó là quả Dự lưu và quả A-la-hán.

Hỏi: Tại sao quả Nhất lai Bất hoàn gọi là quả giả danh, quả Dự lưu và A-la-hán thì gọi là quả thật nghĩa?

Đáp: Các đạo thế tục là đạo giả danh, hai quả ở giữa do phần ít của đạo ấy mà đạt được, lấy nhiều thuận theo ít cho nên gọi là quả giả danh; các đạo vô lậu là đạo thật nghĩa, hai quả đầu và cuối hoàn toàn do đạo ấy mà đạt được, cho nên quả đầu và quả cuối gọi là quả thật nghĩa. Lại nữa, hai quả ở giữa thì hai đạo hữu lậu và vô lậu cùng đạt được, cho nên gọi là quả giả danh, giả danh tức là nghĩa cùng nhau mà đạt được, như vật cùng nhau có thì gọi là vật giả danh; hai quả đầu và cuối chỉ là do lực của đạo vô lậu mà đạt được, cho nên gọi là quả thật nghĩa, thật nghĩa tức là nghĩa một mình mà đạt được, như vật một mình có thì gọi là vật thật nghĩa. Lại nữa, hai quả ở giữa do đạo thế tục và Thánh đạo tạm thời thiết lập danh ngôn mà chứng được, cho nên gọi là quả giả danh, nghĩa là lúc hai đạo ấy thuộc về vị lai thì mược làm nghĩa mà nói, đã cùng chung một sự việc-thề làm một công việc tất cả đều tùy hỷ; hai quả đầu và cuối chỉ do Thánh đạo đạt được, không phải là do hai đạo tạm thời thiết lập danh ngôn mà chứng được, cho nên gọi là quả thật nghĩa.

Có Sư khác nói: Quả giả danh, đó là hai quả đầu, bởi vì chỉ có Thanh văn thừa mà chứng được, quả thật nghĩa, đó là hai quả sau, bởi vì tất cả Thanh văn độc giác và đại giác đều chứng được. Nhiều là thật nghĩa, ít là giả danh.

Lời bình: Vị ấy không nên đưa ra cách nói này, bởi ít nhiều không phải là biểu thị cho giả danh-thật nghĩa. Trong này, cách nói trước đối với lý là thích hợp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì quả Sa-môn, là do lực của tánh Sa-môn mà dẫn dắt đạt được, chỉ riêng đạo vô lậu là tánh Samôn, thành tựu đạo ấy thì gọi là Sa-môn thật sự, cho nên do đạo ấy mà đạt được hai quả, gọi là quả Sa-môn thật nghĩa. Các đạo thế tục không phải là tánh Sa-môn, thành tựu đạo ấy thì gọi là Sa-môn giả danh, cho nên do đạo ấy mà đạt được hai quả, gọi là quả Sa-môn giả danh.

Hỏi: Đạo là hữu vi, có Hạ trung thượng, tùy theo của nhân mà sinh, có thể gọi là quả; Đoạn là vô vi, không có Hạ-Trung-Thượng, không gọi là do nhân mà sinh, tại sao gọi là quả?

Đáp: Đạo tuy không sanh mà là chứng gia hạnh đã đạt được cho nên cũng gọi là quả. Nghĩa là Sư-du-già ở trên đỉnh núi cao hoặc ở trong tịnh thất, tiết chế ăn uống-giảm bớt ngủ nghỉ và vật dụng cung cấp cho thân, thọ trì bảy pháp nhỏ-bảy pháp lớn mỗi ngày, giữ gìn rất yên ổn, đi cầm theo gậy pháp, từ hôm nay ẩn đi đến ngày mai hiện ra, phát khởi tinh tiến dũng mãnh thù thắng, lần lượt chuyển tiếp dẫn dắt sinh ra Thánh đạo vô lậu, từ đây chứng được bốn quả Sa-môn. Lúc ấy người chỉ bày hướng dẫn khen ngợi hỏi han người kia rằng: Khéo thay, khéo thay! Ông có năng lực tinh tiến tu tập gia hạnh đúng đắn, nay đạt được quả này. Như người làm nông vào giữa tháng sáu, sửa sang bờ ruộng gieo hạt nhổ cỏ chăm lo việc đồng áng, thời gian sau thu hoạch thóc lúa đậu mè chứa đầy trong kho lẫm, người làm nông trước kia khen ngợi hỏi han người ấy rằng: Hay thay, khéo thay! Ông vào giữa tháng sáu làm lụng vất vả biết bao, nay có được kết quả này. Vì vậy, Đạo và Đoạn đều có được tên gọi của quả. Như vậy đã nói về bốn quả Sa-môn.

Hỏi: Mấy loại là quả của Tĩnh lự?

Đáp: Bốn loại là quả của Tĩnh lự và quả quyến thuộc của Tĩnh lự.

Hỏi: Mấy loại là quả của vô sắc?

Đáp: Một loại, đó là quả A-la-hán.

Hỏi: Mấy loại là quả của Tĩnh lự căn bản?

Đáp: Hai loại, đó là quả Bất hoàn và quả A-la-hán.

Hỏi: Mấy loại là quả của cận phần Tĩnh lự?

Đáp: Bốn loại, đó là cận phần của Tĩnh lự thứ nhất chứ không phải là Tĩnh lự nào khác, Tĩnh lự trung gian nói như Tĩnh lự căn bản.

Hỏi: Mấy loại là quả của vô sắc căn bản?

Đáp: Một loại, đó là quả A-la-hán.

Hỏi: Mấy loại là quả của cận phần vô sắc?

Đáp: Không có.

Hỏi: Mấy loại là quả của kiến đạo?

Đáp: Ba loại, đó là trừ ra quả Dự lưu.

Hỏi: Mấy loại là quả của Nhẫn?

Đáp: Ba loại, đó là trừ ra quả A-la-hán.

Hỏi: Mấy loại là quả của Trí?

Đáp: Ba loại, đó là trừ ra quả Dự lưu.

Hỏi: Mấy loại là quả của pháp trí?

Đáp: Ba loại, đó là trừ ra quả Dự lưu.

Hỏi: Mấy loại là quả của loại trí?

Đáp: Một loại, đó là quả A-la-hán.

Hỏi: Mấy loại là quả của phẩm pháp trí?

Đáp: Ba loại, đó là trừ ra quả Dự lưu.

Hỏi: Mấy loại là quả của phẩm loại trí?

Đáp: Bốn loại.

Hỏi: Mấy loại là quả của đạo thế tục?

Đáp: Hai loại, đó là quả Nhất lai và quả Bất hoàn.

Hỏi: Mấy loại là quả của đạo vô lậu?

Đáp: Bốn loại.

Như trong kinh nói: “Vĩ sinh oán vương là con trai vua Phệ-đề-tứ nước Ma-kiệt-đà, đi đến nơi đức Phật, đến rồi đầu lạy sát hai chân đức Thế tôn, xong lùi về ngồi một bên mà thưa với đức Phật rằng: Là có quả Sa-môn hiện trông thấy hay không? Đức Phật nói cũng có. Nhà vua hỏi thế nào? Đức Thế tôn bảo rằng: Nay ta hỏi nhà vua, nên tùy ý trả lời. Nếu người hầu hạ cho nhà vua hoặc các tôi tớ không được tự tại, có lúc thấy nhà vua bước lên cung điện cao sang bày năm loại kỹ nhạc chơi đùa vui sướng cùng với các quyến thuộc, họ đã thấy rồi dấy lên ý nghĩa như vậy: Mình cũng là người vì sao không được như vậy, nhưng mà nhà vua ở đời trước tu nhiều phước nghiệp, cho nên ở đời này nhận được quả báo tốt đẹp này, mình từ hôm nay cần phải tu nghiệp tốt đẹp thì cũng sẽ như nhà vua được mọi người kính trọng và ao ước. Dấy lên ý nghĩ này rồi liền bỏ phép tắc trong gia đình họ hàng, cạo bỏ râu tóc-khoác mặc ca sa, thọ trì ba quy y và giới Thanh tịnh, đối với người nghiệp đạo có thể đoạn có thể tu. Nhà vua sai người khác ở bên ngoài tìm hiểu trông thấy rồi, lập tức trở về trình bày rõ ràng đầy đủ sự việc trên, đề nghị nhà vua bắt lấy đem về sai khiến như lúc trước, nhà vua nghe nói sự việc ấy có như lời đề nghị của người kia hay không? Nhà vua nói: Không thể nào, nếu có người này thì con phải đi đến gặp gỡ mà lễ lạy cúng dường cung kính, như người ấy lúc trước đây cung cấp hầu hạ cho con, con từ bây giời lại cung cấp hầu hạ người ấy đến hết cuộc đời mình, giúp cho áo quần-ăn uống-thuốc thang-nhà cửa-đồ nằm và các duyên cung cấp khiến cho không thiếu thốn thứ gì. Đức Phật bảo với nhà vua rằng: Sự việc như vậy lẽ nào không phải là quả Sa-môn hiện trông thấy hay sao? Nhà vua thưa với đức Phật rằng: Đúng như Thánh giáo!”

Hỏi: Các quả Sa-môn thật sự chỉ có bốn, tại sao kinh này lại nói đến loại thứ năm?

Đáp: Quả Sa-môn chân thật chỉ có bốn, kinh này nói quả Sa-môn hiện trông thấy, chỉ là quả Sĩ dụng gần của xuất gia.

Hỏi: Xuất gia đã không phải là tánh Sa-môn chân thật, làm sao nói là có quả Sa-môn?

Đáp: Xuất gia tuy không phải là tánh Sa-môn chân thật, mà thế gian tạm mượn để thiết lập tên gọi của tánh Sa-môn, cho nên những người thế gian trông thất người xuất gia, thì nói là mình trông thấy Sa-môn như vậy. Vì vậy quả Sĩ dụng gần của xuất gia, cũng được tạm mượn để thiết lập tên gọi của quả Sa-môn, tên gọi hiện trông thấy này biểu thị không phải là thật nghĩa.

Kinh Sư tử Hống lại đưa ra cách nói này: “Chỉ riêng trong pháp của Ta có bốn loại Sa-môn, đó là Sa-môn thứ nhất cho đến Sa-môn thứ tư, trong pháp của ngoại đạo không có Sa-môn và Bà-la-môn chân thật, chỉ có tên gọi trống rỗng. Đối với sự việc như vậy đích thực là Sư tử hống ở giữa đại chúng cũng không có gì sợ hãi”.

Nên biết trong này, Sa-môn thứ nhất ấy gọi là các Dự lưu, Sa-môn thứ hai ấy gọi là các Nhất lai, Sa-môn thứ ba ấy gọi là các Bất hoàn, Sa-môn thứ tư ấy gọi là các A-la-hán.

Hiếp tôn giả nói: “Nên biết trong kinh này đức Phật thuận theo người hơn hẳn ở trước tiên mà nói, Sa-môn thứ nhất ấy gọi là các A-lahán, Sa-môn thứ hai ấy gọi là các bất hoàn, Sa-môn thứ ba ấy gọi là các Nhất lai, Sa-môn thứ tư ấy gọi là các Dự lưu”.

Trong kinh Thiện Hiền lại đưa ra cách nói này: “Nếu nơi này có tám chi Thánh đạo thì nên biết là nơi ấy có bốn loại Sa-môn, đó là Samôn thứ nhất cho đến Sa-môn thứ tư”.

Trong này có người nói: Hướng về bốn quả gọi là bốn Sa-môn, Sa-môn thứ nhất thì gọi là Dự lưu Hướng, Sa-môn thứ hai thì gọi là Nhất lai hướng, Sa-môn thứ ba thì gọi là Bất hoàn hướng, Sa-môn thứ tư thì gọi là A-la-hán Hướng.

Hiếp tôn giả nói: “Trong kinh này nói bốn loại Hướng và nói bốn Quả, nếu nơi này có tám chi Thánh đạo thì chính là nói đến bốn Hướng, nên biết là nơi ấy có bốn loại Sa-môn thì chính là nói về bốn Quả”.

Trong kinh Chuẩn Đà cũng đưa ra cách nói này: “Sa-môn có bốn chứ không có thứ năm. Bốn Sa-môn là:

  1. Sa-môn thắng đạo.
  2. Sa-môn thị đạo.
  3. Sa-môn mạng đạo.
  4. Sa-môn ô đạo”.

Nên biết trong này, Sa-môn thắng đạo thì nghĩa là Phật Thế tôn tự mình có năng lực giác ngộ, tất cả Độc giác nên biết cũng như vậy. Sa-môn thị đạo thì nghĩa là Tôn Xá-lợi-tử, bởi vì không có ai sánh bằng, vốn là vị tướng trong đại pháp, thường có năng lực thuận theo đức Phật chuyển pháp luân; tất cả Thanh văn vô học nên biết cũng như vậy. Samôn mạng đạo, nghĩa là tôn giả A-nan-đà, tuy ở phần vị học mà giống như vô học, vốn có đa văn-nghe mà nhớ mãi không quên và đầy đủ giới cấm Thanh tịnh, tất cả hữu học nên biết cũng như vậy. Sa-môn ô đạo, nghĩa là Tỳ kheo Mạc-yết-lạc-ca thích lấy trộm tiền bạc vật dụng của người khác…

Hỏi: Như trong ba kinh đã dẫn ra ở trên đều nói đến Sa-môn có gì sai biệt?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Kinh Sư tử hống nói đến Sa-môn ấy nghĩa là trú trong bốn quả, trong kinh Thiện Hiền nói đến Sa-môn ấy nghĩa là thực hành bốn hướng, trong kinh Chuẩn Đà nói đến Sa-môn ấy nghĩa là trú trong bốn quả và thực hành các Hướng.

Có Sư khác nói: Kinh Sư tử Hống nói đến Sa-môn ấy nghĩa là trú trong bốn quả, trong kinh Thiện Hiền nói đến Sa-môn ấy nghĩa là thực hành bốn hướng và trú trong bốn quả, trong kinh Chuẩn Đà nói đến Samôn ấy nghĩa là thâu nhiếp đầy đủ tất cả Sa-môn.

Hoặc có người nói: Kinh Sư Tử Hống và kinh Thiện Hiền nói đến Sa-môn ấy nghĩa là trú trong bốn quả, trong kinh Chuẩn Đà nói đến Samôn ấy nghĩa là tất cả Sa-môn trú trong quả và Hướng.

Lại có người nói: Kinh Sư Tử Hống và kinh Thiện Hiền nói đến Sa-môn ấy nghĩa là Học và vô học, trong kinh Chuẩn đà nói đến Samôn ấy nghĩa là Học-vô học và Phi học phi vô học.

Có người đưa ra cách nói này: Kinh Sư Tử Hống và Kinh Thiện Hiền nói đến Sa-môn ấy nghĩa là các Thánh giả, trong kinh Chuẩn Đà nói đến Sa-môn ấy nghĩa là các Thánh giả và các dị sinh.

Lại có người nói: Kinh Sư Tử Hống và Kinh Thiện Hiền nói đến Sa-môn ấy nghĩa là người trì giới, trong Chuẩn đà nói đến Sa-môn ấy nghĩa là người trì giới và người phạm giới.

Hoặc lại có người nói: Trong ba kinh này đã nói đến Sa-môn thì nghĩa lý không có sai biệt gì.

Hỏi: Hai kinh trước nói có bốn Sa-môn, Sa-môn ô đạo lẽ nào do bốn mà thâu nhiếp hay sao?

Đáp: Cũng do bốn mà thâu nhiếp, đó là Dự lưu hướng. Nhưng Dư lưu Hướng có gần-có xa, gần nghĩa là kiến đạo, xa nghĩa là người trước đây thuận quyết trạch phần-Thuận giải thoát phần cho đến chánh tín mà xuất gia. Như trong kinh nói: “Có bốn loại Dự lưu chi, đó là nhân của chi thân cận Thiện sĩ, lắng nghe chánh pháp, như lý tác ý, pháp tùy pháp hành”. Danh-nghĩa của Hướng không có sai biệt.

Hỏi: Trong kinh Thiện Hiền nói: “Nếu nơi này có tám chi Thánh đạo thì nên biết là nơi ấy có bốn loại Sa-môn”. Sa-môn ô đạo lẽ nào do bốn loại này thâu nhiếp hay sao?

Đáp: Cũng do bốn loại này thâu nhiếp, bởi vì chi Thánh đạo có thật-có giả, thật nghĩa là tám chi như chánh kiến vô lậu…, giả nghĩa là tám chi như chánh kiến hữu lậu… Sa-môn ô đạo cũng có thể thành chánh kiến hữu lậu, cho nên loại ấy cũng là Sa-môn thứ nhất thâu nhiếp.

Lại có người nói: Hai kinh trước nói đến bốn loại Sa-môn, tức là trong kinh thứ ba đã nói đến bốn loại như thắng đạo… chứ không phải là Dự lưu…, cho nên ba kinh này đã nói không có gì khác nhau.

Hỏi: Kinh thứ nhất đã nói nên thông hiểu thế nào? Chỉ riêng trong pháp của Ta có bốn loại Sa-môn, Phật chính là Sư Tử Hống ở giữa đại chúng, đức Thế tôn lẽ nào nói chỉ riêng trong pháp của Ta, có hủy phạm giới cấm mà lại là Sư Tử Hống hay sao?

Đáp: Nói cũng không sai. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Sa-môn ô đạo tuy là phá giới mà không phá kiến, tuy phá gia hạnh mà không phá ý thích. Giả sử có người hỏi rằng: Ông phạm giới xấu xa là thiện hay bất thiện? Người ấy nói bất thiện. Là nên làm hay là không nên làm? Người ấy nói không nên làm. Là có dị thục hay là không có dị thục? Người ấy nói có dị thục. Là được quả đáng yêu thích hay là được quả không đáng yêu thích? Người ấy nói được quả không đáng yêu thích. Là nhận lấy nẽo ác hay là nhận lấy nẽo thiện? Người ấy nói nhận lấy nẽo ác. Là tự thân mình nhận lấy hay là thân người khác nhận lấy? Người ấy nói tự thân mình nhận lấy. Là lỗi của vị thầy-là lỗi của giáo pháp hay là lỗi của chính bản thân? Người ấy nói không phải là lỗi của vị thầy, cũng không phải là lỗi của giáo pháp mà chính là lỗi của bản thân mình. Người ấy có chánh kiến hữu lậu như vậy, tin chắc có nhân quả, không ngu muội nhân quả. Chánh kiến như vậy, chín mươi sáu loại ngoại đạo vốn không có, cho nên đức Phật chính là Sư Tử Hống giữa đại chúng, dựa vào đó mà nói cũng không có gì sai lầm.

Như trong kinh nói: “Đức Phật bảo với tỳ kheo: Ta thật sự thấy biết có ba loại người; có nhiều việc đã làm đối với các Hữu tình, ân của họ khó đền đáp nổi, giả sử suốt đời dùng các loại áo quần-ăn uống-đồ nằm-thuốc thang tốt đẹp bậc nhất, và các vật dụng cung cấp cho sinh hoạt khác mà cúng dường họ, cũng không thể nào đền đáp được. Thế nào là ba loại người? Đó là:

1. Có người nói pháp cho người khác, làm cho rời bỏ phép tắc gia đình họ hàng hướng về nơi không phải là gia đình họ hàng, cạo bỏ râu tóc-khoác mặc ca sa, dùng tâm chánh tín thọ trì tịnh giới.

2. Có người nói pháp cho người khác, khiến cho biết rõ pháp tập hợp đều là pháp hoại diệt, xa lìa trần cấu từ trong các pháp sinh ra pháp nhãn Thanh tịnh.

3. Có người nói pháp cho người khác, khiến cho không còn các lậu, chứng được tâm vô lậu-tuệ giải thoát, ở trong pháp hiện tại tự mình có năng lực thông đạt về các đời sống đã hết, đầy đủ mà an trú”.

Hỏi: Khuyến khích người khác để họ tiếp nhận luật nghi cận sự, người này cũng gọi là có nhiều việc đã làm, ân của họ khó đền đáp, vì sao trong kinh này không nói?

Đáp: Điều cần nói mà không nói, thì nên biết là nghĩa này có khác. Lại nữa, luật nghi xuất gia là nhân-là quả, cho nên kinh chỉ nói điều ấy; nghĩa là quả luật nghi cận sự này, là nhân của luật nghi xuất gia.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người ta tiến và thánh pháp, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Nghĩa là tiến và Thánh pháp sơ lược có hai loại:

  1. Thế tục.
  2. Thắng nghĩa.

Thế tục, nghĩa là rời bỏ phép tắc gia đình họ hàng hướng về nơi không phải là gia đình họ hàng, cạo bỏ râu tóc-khoác mặc ca sa, dùng tâm chánh tín thọ trì tịnh giới; thắng nghĩa, nghĩa là từ Thế đệ nhất pháp tiến vào khổ pháp trí nhẫn.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người ta trừ bỏ việc làm tầm thường đê tiện, cho nên kinh chỉ nói điều ấy.

Nghĩa là người tại gia phần nhiều bị các loại sự việc xấu xa đê tiện tầm thường làm cho bức bách vô cùng, mà những người xuất gia thì thoát khỏi điều này.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người ta thoát khỏi mọi khổ đau, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Nghĩa là người xuất gia thoát khỏi những điều khổ não của thân hiện tại, từ đây lần lượt chuyển tiếp thoát khỏi tất cả pháp sinh tử là sinh lão bệnh tử ưu bi khổ não. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác tiếp nhận niềm vui trong pháp hiện tại, từ đây lần lượt chuyền tiếp lại đạt được niềm an lạc tự tại hoàn toàn, cho nên kinh chỉ nói điều ấy.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác hiện rõ thân đức Phật xuất thế, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Hiện rõ thân đức Phật xuất thế sơ lược có hai loại:

  1. Thế tục.
  2. Thắng nghĩa.

Thế tục, nghĩa là rời bỏ phép tắc gia đình họ hàng hướng về nơi không còn gia đình họ hàng, cạo bỏ râu tóc khoác mặc ca sa, dùng tâm chánh tín thọ trì tịnh giới, thắng nghĩa, nghĩa là đạt được giác ngộ Thanh tịnh chân thật đối với bốn Thánh đế, lúc mới xuất gia đã hiện rõ thân đức Phật xuất hiện ở thế gian với hình thức thế tục, đã xuất gia rồi lần lượt chuyển tiếp tu hành lại hiện rõ thân đức Phật xuất hiện ở thế gian với hình thức thắng nghĩa.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác học theo thân của chư Phật, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Nghĩa là thân của chư Phật tóm lược có hai loại:

  1. Sinh thân.
  2. Pháp thân.

Nếu rời bỏ phép tắc gia đình họ hàng hướng về nơi không còn gia đình họ hàng, cạo bỏ râu tóc-khoác mặc ca sa, dùng tâm chánh tín thọ trì tịnh giới, thì nên biết chính là học theo sinh thân của đức Phật; nếu có năng lực lần lượt chuyển tiếp tu tập chánh hạnh, đối với bốn Thánh đế phát khởi giác ngộ Thanh tịnh chân thật, thì nên biết chính là học theo pháp thân của đức Phật.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác học theo công hạnh của chư Phật, cho nên kinh chỉ nói điều ấy.

Nhưng công hạnh cũa chư Phật tóm lược có hai loại:

  1. Thế tục.
  2. Thắng nghĩa.

Thế tục, nghĩa là rời bỏ phép tắc gia đình họ hàng hướng về nơi không còn gia đình họ hàng cạo bỏ râu tóc-khoác mặc ca sa, dùng tâm chánh tín thọ trì tịnh giới, thắng nghĩa, nghĩa là đối với bốn thánh đế có năng lực biết rõ ràng chí xác, lúc mới xuất gia đã có năng lực tùy thuận học theo công hạnh của đức Phật với hình thức thế tục, đã xuất gia rồi tinh tiến tu hành lại có năng lực tùy thuận học theo công hạnh của đức Phật với hình thức thắng nghĩa.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác tiến vào biển pháp của Phật, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Nghĩa là nếu có người rời bỏ phép tắc gia đình họ hàng, xuất gia với niềm tin Thanh tịnh, thì gọi là bắt đều tiến vào biển pháp của chư Phật; nếu không còn các lậu, chứng nhận Niết-bàn thì gọi là hoàn toàn tiến vào biển pháp của chư Phật. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác quyết định hướng vào con đường giải thoát chân thật, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Như trong kinh nói: “Những người xuất gia, đối với bốn Thánh đế nhất định đạt được trí kiến hiện quán đúng như thật”. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác quyết định sẽ đạt được ba loại luật nghi, đó là luật nghi biệt giải thoát-luật nghi Tĩnh lự-luật nghi vô lậu, cho nên kinh chỉ nói điều ấy.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác quyết định sẽ đạt được ba loại uẩn thiện, đó là Giới uần-Định uẩnTuệ uẩn, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Như ba uẩn thiện, như vậy ba Học-ba Tu-ba Tịnh nên biết cũng như thế. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác quyết định sẽ đạt được ba loại chánh đạo, đó là kiến đạo-Tu đạo-Vô học đạo, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Như ba Chánh đạo, ba địa cũng như vậy.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác quyết định sẽ đạt được ba căn vô lậu, đó là vị tri đương tri cănDĩ tri căn và Cụ tri căn, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác nếu như thích hợp thì sẽ đạt được ba loại Bồ đề, đó là Bồ đề Thanh văn, Bồ đề Độc giác và Bồ đề vô thượng, cho nên kinh chỉ nói điều ấy.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác quyết định sẽ đạt được ba loại Mâu-ni, đó là thân Mâu-ni, ngữ Mâu ni và ý Mâu-ni, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Như ba Tịch tĩnh, ba Thanh tịnh cũng như vậy. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác xa lìa thân tâm, cho nên kinh chỉ nói điều ấy.

Nghĩa là lúc xuất gia thì thân sẽ ít sự cố, thân ít sự cố cho nên tâm cũng ít sự cố, từ đây mà xa lìa ác nghiệp và phiền não.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác lìa bỏ cấu trược của thân tâm, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Nghĩa là lúc xuất gia thì thân sẽ Thanh tịnh, thân Thanh tịnh cho nên tâm cũng Thanh tịnh, thân tâm Thanh tịnh cho nên phiền não và nghiệp cấu trược nhanh chóng được trừ diệt. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác làm cho thân tâm tốt đẹp, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Nghĩa là lúc xuất gia thì thân sẽ tốt đẹp, thân tốt đẹp cho nên tâm cũng tốt đẹp. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác làm cho thân tâm đoan nghiêm, cho nên kinh chỉ nói đến điều ấy. Nghĩa là lúc xuất gia thì thân sẽ đoan nghiêm, thân đoan nghiêm cho nên tâm cũng đoan nghiêm. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác quyết định sẽ đạt tịch tĩnh hoàn toàn chính là Niết-bàn cho nên kinh chỉ nói điều ấy.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác đạt được pháp bất cọng, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Nghĩa là lúc xuất gia thì oai nghi-y phục và sự nghiệp đã làm, không giống với tất cả người tại gia. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác từ bỏ phiền não và nghiệp, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Nghĩa là lúc xuất gia thì cạo bỏ râu tóc-khoác mặc ca sa, thỉ trì tịnh giới, phiền não và nghiệp ác đều dần dần rời bỏ, bởi vì hình dáng trang phục xuất gia không phải là nơi chứa đựng các loại ấy, như người sạch sẽ thơm tho thì hôi thối dơ bẩn không còn. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác làm nghiệp vô tận-đạt được tài sản vô tận, làm nghiệp vô tội đạt được tài sản vô tội, làm nghiệp vô hại-đạt được tài sản vô hại, làm nghiệp không giống như ngoại đạo đạt được tài sản không giống như ngoại đạo, làm nghiệp không giống như dị sinh đạt được tài sản không giống như dị sinh, cho nên kinh chỉ nói điều ấy. Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác luôn luôn tu học công hạnh như con ốc xoắn tròn, nghĩa là suốt đời tu phạm hạnh thuần khiết, những người tại gia không thể nào như vậy, cho nên kinh chỉ nói điều ấy.

Hỏi: Công hạnh như con ốc xoắn tròn (Loa họa), nghĩa ấy thế nào?

Đáp: Tôn giả Thế Hữu đưa ra cách nói này: “Xưa trong châu này có hai người Tiên, một vị tên gọi Hưởng khư, một vị tên gọi Lữ Xí, đầy đủ phép tắc quy củ phạm hạnh bậc nhất, những người tại gia đều không thể nào sánh bằng. Khuyến khích người khác xuất gia tức là khuyến khích giống như người Tiên ấy”.

Có người nói như vậy: Như trên vỏ ốc khắc chạm nét chữ hình ảnh kiên cố khó hư hoại, gió thổi-nắng hong và mọi duyên khác cuối cùng khó hủy diệt được; công hạnh của người xuất gia cũng lại như vậy, người tại gia không có thể tu công hạnh như vậy, tuy tạm thời thọ trì mà nhanh chóng bị hủy hoại.

Có sư khác nói: Như trên vỏ ốc khắc chạm nét chữ hình ảnh trong sạch rõ ràng, không có những vết bẩn; công hạnh của người xuất gia cũng lại như vậy, người tại gia không có thể tu hạnh như vậy, tuy hết sức thọ trì mà hãy còn lập tạp uế trược. Hiện thế người tại gia đạt được quả Bất hoàn, tuy lìa nhiễm cõi Dục mà sống ở nhà, tiếp nhận đồ vật tích trữ phát sinh số lượng hay không phát sinh số lượng, sự nghiệp đã làm chưa có gì Thanh tịnh, huống là có người tại gia đạt được hai quả đầu cùng với dị sinh tương tự không có gì sai biệt hay sao? Người xuất gia tuy phá giới cấm, nhưng hãy còn hơn hẳn người tại gia thọ trì giới, cho nên kinh chỉ nói khuyến khích người khác xuất gia thì ân đó khó đền đáp.

Lại nữa, người khuyến khích xuất gia, tức là khuyến khích người khác tu nghiệp tôn quý, đã đạt được quả báo hơn hẳn Diễm Ma vươngLuân vương-Đế thích, cho nên kinh chỉ nói khuyến khích người khác xuất gia thì ân đó khó đền đáp, khuyến khích người khác thọ trì các giới của cận sự tại gia, không có sự việc như vậy, cho nên kinh không nói đến.

Hỏi: Vì sao kinh này chỉ nói là khiến cho đạt được hai quả đầu và cuối thì ân đó khó đền đáp, chứ không nói đến khiến cho đạt được hai quả ở giữa?

Đáp: Điều cần phải nói mà không nói đến, thì nên biết là nghĩa này có khác. Lại nữa, trong này thâu nhiếp đầy đủ bốn quả Sa-môn. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì xa lìa trần cấu từ trong các pháp sinh ra pháp nhãn Thanh tịnh là nói đến ba quả trước, nghĩa là những người có đủ phiền não và lìa nhiễm thuộc năm phẩm của cõi Dục rồi, tiến vào chánh tánh ly sinh-sinh ra pháp nhãn Thanh tịnh, đạt đạt quả Dự lưu; nếu lìa nhiễm phẩm sáu-bảy-tám của cõi Dục rồi, tiến vào chánh tánh ly sinh-sinh ra pháp nhãn Thanh tịnh, thì đạt được quả Nhất lai, nếu lìa nhiễm vô sở hữu xứ rồi, tiến vào chánh tánh ly sinh-sinh ra pháp nhãn Thanh tịnh, thì đạt được quả Bất hoàn. Khiến cho không còn các lậu và đạt được tâm vô lậu-tuệ giải thoát, tức là khiến cho đạt được quả A-lahán, cho nên trong kinh này thâu nhiếp đầy đủ bốn quả.

Lại nữa, kinh này nói đạt được hai quả đầu và cuối tức là nói đạt được đầy đủ bốn quả Sa-môn, bởi vì hiện rõ từ đầu đến cuối, đầu nghĩa là quả Dự lưu, cuối tức là quả A-la-hán. Như hiện rõ từ đầu đến cuối, như vậy bắt đầu tiến vào-đã vượt qua gia hạnh cứu cánh, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, kinh này nói đạt được hai quả đầu và cuối tức là đã nói đạt được hai quả ở giữa, nghĩa là đạt được quả Dự lưu thì quyết định không gián đoạn đạt được quả Nhất lai, đạt được quả A-la-hán thì quyết định tiếp sau quả Bất hoàn đạt được trước đó.

Lại nữa, hai quả đầu và cuối chắc chắn do lực của đạo vô lậu mà đạt được, cho nên chỉ nói hai quả ấy; hai quả ở giữa hoặc là do lực của đạo thế tục mà đạt được, cho nên ở đây không nói. Như do lực của đạo hữu lậu-vô lậu mà đạt được, do lực của đạo ràng buộc-giải thoát mà đạt được, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, hai quả đầu và cuối đều vượt lên trên phi tưởng phi phi tưởng xứ mà đạt được, cho nên chỉ nói hai quả ấy. Nghĩa là quả Dự lưu vượt lên trên sự đạt được do kiến mà đoạn của phi tưởng phi phi tưởng xứ, quả A-la-hán vượt lên trên sự đạt được do tu mà đoạn của phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lại nữa, kinh này sơ lược hiển bày về phần bắt đầu tiến vào, vì vậy chỉ nói hai quả đầu và cuối, nghĩa là các quả Sa-môn, có quả đạt được nhờ vào kiến đạo, có quả đạt được nhờ vào tu đạo. Nếu nói quả Dự lưu thì nên biết là nói chung do kiến đạo mà đạt được, nếu nói quả A-la-hán thì nên biết là nói chung do tu đạo mà đạt được. Như kiến đạoTu đạo mà đạt được, như vậy kiến địa-Tu địa, vị tri đương tri căn-Dĩ tri căn đạt được nên biết cũng như thế.

Lại nữa, các quả Sa-môn, có quả nhờ vào phiền não do kiến mà đoạn không còn thiết lập, có quả nhờ vào phiền não do tu mà đoạn không còn để thiết lập. Nếu nói về quả Dự lưu thì nên biết là nói chung về quả nhờ vào phiền não do kiến mà đoạn không còn để thiết lập, nếu nói về quả A-la-hán thì nên biết là nói chung về quả nhờ vào phiền não do tu mà đoạn không còn để thiết lập. Như nhờ vào phiền não do kiếntu mà đoạn không còn để thiết lập, như vậy nhờ vào phiền não không có sự-có sự không còn để thiết lập, nhờ vào phiền não do nhẫn mà đối trị, do trí mà đối trị không còn để thiết lập, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, các quả Sa-môn, có quả nhờ vào đối trị hý luận về kiến để thiết lập, có quả nhờ vào đối trị hý luận về ái để thiết lập. Nếu nói đến quả Dự lưu thì nên biết là nói chung về quả nhờ vào đối trị hý luận về kiến để thiết lập, nếu nói đến quả A-la-hán thì nên biết là nói chung về quả nhờ vào đối trị hý luận về ái để thiết lập. Như nhờ vào đối trị hai loại hý luận để thiết lập; như vậy nhờ vào đối trị hai bên hai mũi tên-hai căn tranh chấp để thiết lập, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, các quả Sa-môn, hoặc nhờ vào phiền não lập tức đoạn mà đạt được hoặc nhờ vào phiền não dần dần đoạn mà đạt được. Nếu nói đến quả Dự lưu thì nên biết là nói chung về quả nhờ vào phiền não lập tức đoạn mà đạt được, nghĩa là cùng với người siêu việt đạt được quả Nhất lai-Bất hoàn; nếu nói đến quả A-la-hán thì nên biết là nói chung về quả nhờ vào phiền não dần dần đoạn mà đạt, nghĩa là cùng với người theo thứ tự đạt được quả Nhất lai-Bất hoàn.

Bởi vì các loại nhân duyên như vậy, cho nên kinh này chỉ nói khiến cho người khác chứng được hai quả đầu và cuối, thì ân của người ấy khó đền đáp nổi.

Những người Dự lưu đã thành tựu pháp học, thì pháp này do quả Dự lưu thâu nhiếp chăng? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Trước đây chỉ nói đến quả Sa-môn vô vi, nay muốn nói đến quả Sa-môn vô vi và hữu vi, cho nên soạn ra phần luận này. Trong này, những câu hỏi trước thì tóm lược-sau thì mởi rộng, nghĩa là trước hỏi về pháp học vô học đã thành tựu, tiếp đến hỏi về pháp vô vô lậu đã thành tựu, sau hỏi về tất cả pháp đã thành tựu.

Hỏi: Những người Dự lưu đã thành tựu pháp học, thì pháp này do quả Dự lưu thâu nhiếp chăng?

Đáp: Hoặc thâu nhiếp, hoặc không thâu nhiếp, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là thâu nhiếp?

Đáp: Quả Dự lưu hữu vi đã được không mất. Đã được, nghĩa là Tín thắng giải đã được Tín thắng giải do quả Dự lưu thâu nhiếp chủng tánh các căn, kiến chí đã được kiến chí do quả Dự lưu thâu nhiếp chủng tánh các căn. Không mất, nghĩa là Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, không mất đi tính thắng giải do quả Dự lưu thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc không lui sụt mất đi.

Hỏi: Thế nào là không thâu nhiếp?

Đáp: Những người Dự lưu đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, nghĩa là lìa nhiễm thuộc sáu phẩm trước do tu mà đoạn của cõi Dục, và các đạo gia hạnh-sáu đạo vô gián-năm đạo giải thoát-các đạo thắng tiến. Pháp học như vậy, người Dự lưu tuy thành tựu mà không phải là do quả Dự lưu thâu nhiếp, bởi vì đạo của thắng quả không phải là quả thâu nhiếp.

Hỏi: Giả sử pháp do quả Dự lưu thâu nhiếp thì pháp này là pháp học chăng?

Đáp: Hoặc là Học, hoặc là phi học phi vô học, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là học?

Đáp: Quả Dự lưu hữu vi, nghĩa là đạo loại trí… và quyến thuộc của các đạo ấy.

Hỏi: Thế nào là phi học phi vô học?

Đáp: Quả Dự lưu vô vi, nghĩa là pháp đoạn của ba cõi do kiến mà đoạn.

Hỏi: Những người Nhất lai đã thành tựu pháp học, thì pháp này do quả Nhất lai thâu nhiếp chăng?

Đáp: Hoặc thâu nhiếp, hoặc không thâu nhiếp, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là thâu nhiếp?

Đáp: Quả Nhất lai hữu vi được không mất. Đã được, nghĩa là Tín thắng giải đã được tín thắng giải do quả Nhất lai thâu nhiếp chủng tánh các căn, kiến chí đã được kiến chí do quả Nhất lai thâu nhiếp chủng tánh các căn. Không mất, nghĩa Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, không mất đi Tín thắng giải do quả Nhất lai thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc không lui sụt mất đi.

Hỏi: Thế nào là không thâu nhiếp?

Đáp: Những người Nhất lai đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, nghĩa là lìa nhiễm thuộc ba phẩm sau do tu mà đoạn của cõi Dục, và các đạo gia hạnh-ba đạo vô gián-hai đạo giải thoát-các đạo thắng tiến. Pháp học như vậy, người Nhất lai tuy thành tựu mà không phải là do quả Nhất lai thâu nhiếp bởi vì đạo của thắng quả không phải là quả thâu nhiếp.

Hỏi: Giả sử pháp do quả Nhất lai thâu nhiếp thì pháp này là pháp học chăng?

Đáp: Hoặc là Học, hoặc là phi học phi vô học, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là Học?

Đáp: Quả Nhất lai hữu vi, nghĩa là đạo loại trí…, hoặc lìa nhiễm cõi Dục bằng đạo giải thoát thứ sáu và quyến thuộc của đạo ấy.

Hỏi: Thế nào là Phi học phi vô học?

Đáp: Quả nhất lai vô vi, nghĩa là pháp Đoạn của ba cõi do kiến mà đoạn, và pháp đoạn thuộc sáu phẩm của cõi Dục do tu đoạn.

Hỏi: Những người Bất hoàn đã thành tựu pháp học, thì pháp này do quả Bất hoàn thâu nhiếp chăng?

Đáp: Hoặc thâu nhiếp, hoặc không thâu nhiếp, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là thâu nhiếp?

Đáp: Quả Bất hoàn hữu vi đã được không mất, đã được, nghĩa là tính thắng giải đã được Tín thắng giải do quả Bất hoàn thâu nhiếp chủng tánh các căn, kiến chí đã được kiến chí do quả Bất hoàn thâu nhiếp chủng tánh các căn. Không mất, nghĩa là Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, không mất đi tính thắng giải do quả Bất hoàn thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc không lui sụt mất đi.

Hỏi: Thế nào là không thâu nhiếp?

Đáp: Những người Bất hoàn đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, nghĩa là lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ nhất cho đến lìa nhiễm của phi tưởng phi phi tưởng xứ, các đạo gia hạnh-đạo vô gián, và đạo giải thoát-đạo thắng tiến hữu học. Pháp học như vậy, người Bất hoàn tuy thành tựu mà không phải là do quả Bất hoàn thâu nhiếp, bởi vì đạo của thắng quả không phải là quả thâu nhiếp.

Hỏi: Giả sử pháp do quả Bất hoàn thâu nhiếp thì pháp này là pháp học chăng?

Đáp: Hoặc là Học, hoặc là phi học phi vô học, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là Học?

Đáp: Quả Bất hoàn hữu vi, nghĩa là Đạo loại trí…, hoặc lìa nhiễm cõi Dục bằng đạo giải thoát thứ chín và quyến thuộc của đạo ấy.

Hỏi: Thế nào là phi học phi vô học?

Đáp: Quả Bất hoàn vô vi, nghĩa là pháp đoạn của ba cõi do kiến mà đoạn, và pháp đoạn của cõi Dục do tu mà đoạn.

Hỏi: Các A-la-hán đã thành tựu pháp vô học, thì pháp này do quả A-la-hán thâu nhiếp chăng?

Đáp: Đúng như vậy, nghĩa là A-la-hán đã thành tựu tất cả đạo gia hạnh vô gián giải thoát thắng tiến đều là quả A-la-hán thâu nhiếp, bởi vì quả ấy không có đạo của thắng quả, không có thắng quả có thể hướng đến cầu mong.

Hỏi: Giả sử pháp do quả qlh thâu nhiếp thì pháp này là pháp vô

học chăng?

Đáp: Hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là vô học?

Đáp: Quả A-la-hán hữu vi, nghĩa là Tận trí-vô sinh trí-chánh kiến vô lậu và quyến thuộc của loại ấy.

Hỏi: Thế nào là Phi học phi vô học?

Đáp: Quả A-la-hán vô vi, nghĩa là tất cả pháp Đoạn của ba cõi do kiến-tu mà đoạn.

Hỏi: Những người Dự lưu đã thành tựu pháp vô lậu, thì pháp này do quả Dự lưu thâu nhiếp chăng?

Đáp: Hoặc thâu nhiếp, hoặc không thâu nhiếp, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là thâu nhiếp?

Đáp: Quả Dự lưu hữu vi vô vi đã được không mất. Quả Dự lưu hữu vi, nghĩa là đạo loại trí… và quyến thuộc của loại ấy. Quả Dự lưu vô vi, nghĩa là pháp đoạn của ba cõi do kiến mà đoạn. Đã được, nghĩa là tín thắng giải đả được tín thắng giải do quả Dự lưu thâu nhiếp chủng tánh của các căn, kiến chí đã được kiến chí do quả Dự lưu thâu nhiếp chủng tánh các căn, và đã được pháp đoạn của ba cõi mà đoạn. Không mất nghĩa là Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, không mất đi Tín thắng giải do quả Dự lưu thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc không lui sụt mất đi.

Hỏi: Thế nào là không thâu nhiếp?

Đáp: Những người Dự lưu đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, và họ đã chứng các kiết không còn, cùng với người Dự lưu đã thành tựu phi trạch diệt. Những người Dự lưu đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, nghĩa là lìa nhiễm thuộc sáu phẩm trước do tu mà đoạn cõi Dục, và các đạo gia hạnh sáu đạo vô gián-năm đạo giải thoát-các đạo thắng tiến; pháp vô lậu như vậy, người Dự lưu tuy thành tựu mà không phải là do quả Dự lưu thâu nhiếp, bởi vì đạo của thắng quả không phải là quả thâu nhiếp. Và họ đã chứng các kiết không còn, nghĩa là pháp đoạn do tu mà đoạn năm phẩm trước của cõi Dục, là do đạo của thắng quả mà chứng đoạn, như đạo của thắng quả không phải là quả này thâu nhiếp. Cùng với người Dự lưu đã thành tựu Phi trạch diệt, nghĩa là người Dự lưu đối với ba cõi và pháp vô lậu đạt được phi trạch diệt; họ tuy thành tựu phi trạch diệt này mà phi trạch diệt này không phải là quả Dự lưu thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì phi trạch diệt là vô ký, mà quả Dự lưu là thiện.

Hỏi: Giả sử pháp do quả Dự lưu thâu nhiếp thì pháp này là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng như vậy, nghĩa là quả Dự lưu hữu vi và vô vi đều là vô lậu.

Hỏi: Những người Nhất lai đã thành tựu pháp vô lậu, thì pháp này do quả nhất lai thâu nhiếp chăng?

Đáp: Hoặc thâu nhiếp, hoặc không thâu nhiếp bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là thâu nhiếp?

Đáp: Quả nhất lai hữu vi-vô vi đã được không mất. Quả nhất lai hữu vi, nghĩa là đạo loại trí…, hoặc là lìa nhiễm cõi Dục bằng đạo giải thoát thứ sáu và quyến thuộc của đạo ấy. Quả nhất lai vô vi, nghĩa là pháp đoạn do kiến mà đoạn của ba cõi, và pháp đoạn do tu mà đoạn thuộc sáu phẩm trước của cõi Dục. Đã được nghĩa là Tín thắng giải đã được Tín thắng do quả nhất lai thâu nhiếp chủng tánh các căn, kiến chí đã được kiến chí do quả nhất lai thâu nhiếp chủng tánh các căn, và được pháp đoạn do kiến mà đoạn của ba cõi, cùng với pháp đoạn do tu mà đoạn thuộc sáu phẩm trước của cõi Dục. Không mất, nghĩa là Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, không mất đi Tín thắng giải do quả nhất lai thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc không lui sụt mất đi pháp này và pháp đoạn do tu mà đoạn thuộc sáu phẩm trước của cõi Dục.

Hỏi: Thế nào là không thâu nhiếp?

Đáp: Những người nhất lai đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, và họ đã chứng các kiết không còn, cùng với người nhất lai đã thành tựu phi trạch diệt. Những người nhất lai đã được thăng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, nghĩa là lìa nhiễm thuộc ba phẩm sau tu mà đoạn của cõi Dục, và các đạo gia hạnh-ba đạo vô gián-hai đạo giải thoát-các đạo thắng tiến; pháp vô lậu như vậy, người nhất lai tuy thành tựu mà không phải là do quả nhất lai thâu nhiếp, bởi vì đạo của thắng quả không phải là quả thâu nhiếp. Và họ đã chứng các kiết không còn, nghĩa là pháp đoạn do tu mà đoạn thuộc phẩm thứ bảy-thứ tám của cõi Dục, là do đạo của thắng quả mà chứng đoạn, như đạo của thắng quả không phải là quả này thâu nhiếp. Cùng với người nhất lai đã thành tựu phi trạch diệt, nghịa là người nhất lai đối với ba cõi và pháp vô lậu được phi trạch diệt; học tuy thành tựu phi trạch diệt này, mà phi trạch diệt này không phải là quả nhất lai thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Phi trạch diệt là vô ký, mà quả nhất lai là thiện.

Hỏi: Giả sử pháp do quả nhất lai thâu nhiếp thì pháp này là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng như vậy, nghĩa là quả nhất lai hữu vi-vô vi đều là vô lậu.

******

 

Hỏi: Những người Bất hoàn đã thành tựu pháp vô lậu, thì pháp này do quả Bất hoàn thâu nhiếp chăng?

Đáp: Hoặc thâu nhiếp, hoặc không thâu nhiếp, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào thâu nhiếp?

Đáp: Quả Bất hoàn hữu vi vô vi đã được không mất. Quả Bất hoàn hữu vi, nghĩa là Đạo loại trí…, hoặc lìa nhiễm cõi Dục bằng đạo giải thoát thứ chín và quyến thuộc của đạo ấy. Quả Bất hoàn vô vi, nghĩa là pháp đoạn do kiến mà đoạn của ba cõi, và pháp đoạn do tu mà đoạn của cõi Dục. đã được, nghĩa là Tín thắng giải đã được Tín thắng giải do quả Bất hoàn thâu nhiếp chủng tánh các căn, kiến chí đã được kiến chí do quả bất hoàn thâu nhiếp chủng tánh các căn, và đã được pháp đoạn do kiến mà đoạn của ba cõi, cùng với pháp đoạn do tu mà đoạn của cõi Dục. không mất, nghĩa là Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, không mất đi Tín thắng giải do quả Bất hoàn thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc không lui sụt mất đi pháp này và pháp Đoạn do tu mà đoạn của cõi Dục.

Hỏi: Thế nào là không thâu nhiếp?

Đáp: Những người Bất hoàn đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, và họ đã chứng các kiết không còn, cùng với người Bất hoàn đã thành tựu phi trạch diệt. Những người Bất hoàn đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, nghĩa là lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ nhất cho đến lìa nhiễm của phi tưởng phi phi tưởng xứ, và các đạo gia hạnh-đạo vô gián, cùng đạo giải thoát-đạo thắng tiến hữu học, pháp vô lậu như vậy, người Bất hoàn tuy thành mà không phải là do quả Bất hoàn thâu nhiếp, bởi vì đạo của thắng quả không phải là quả

thâu nhiếp. Và họ đã chứng các kiết không còn, nghĩa là từ Tĩnh lự thứ nhất cho đến vô sở hữu xứ, đều có pháp đoạn do tu mà đoạn thuộc chín phẩm, và pháp đoạn do tu mà đoạn thuộc tám phẩm trước của phi tưởng phi phi tưởng xứ, là do của thắng quả mà chứng đoạn, như đạo của thắng quả không phải là quả này thâu nhiếp. Cùng với người Bất hoàn đã thành tựu phi trạch diệt, nghĩa là người Bất hoàn đối với ba cõi và pháp vô lậu đạt được phi trạch diệt này, mà phi trạch diệt này không phải là quả Bất hoàn thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì phi trạch diệt là vô ký, mà quả Bất hoàn là thiện.

Hỏi: Giả sử pháp do quả Bất hoàn thâu nhiếp, thì pháp này là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng như vậy, nghĩa là quả Bất hoàn hữu vi-vô vi, đều là vô lậu.

Hỏi: Các A-la-hán đã thành tựu pháp vô lậu, thì pháp này do quả A-la-hán thâu nhiếp chăng?

Đáp: Hoặc thâu nhiếp, hoặc không thâu nhiếp, bởi vì nghĩa không nhất định.

Hỏi: Thế nào là thâu nhiếp?

Đáp: Quả A-la-hán hữu vi-vô vi đã được không mất. Quả A-lahán hữu vi, nghĩa là tận trí-vô sinh trí-chánh kiến vô lậu và quyến thuộc của loại ấy. Quả A-la-hán vô vi, nghĩa là pháp đoạn do kiến tu mà đoạn của ba cõi. Đã được, nghĩa là thời giải thoát đã được thời giải thoát do quả A-la-hán thâu nhiếp chủng tánh các căn, bất thời giải thoát đã được bất thời giải thoát do quả A-la-hán thâu nhiếp chủng tánh các căn, và đã được pháp đoạn do kiến-tu mà đoạn của ba cõi. Không mất, nghĩa là thời giải thoát không chuyển căn làm bất thời giải thoát, không mất đi thời giải thoát do quả A-la-hán thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc không lui sụt mất đi pháp này pháp đoạn do tu mà đoạn của ba cõi.

Hỏi: Thế nào là không thâu nhiếp?

Đáp: A-la-hán đã thành tựu phi trạch diệt, nghĩa là A-la-hán đạt được phi trạch diệt với ba cõi và pháp vô lậu, lúc ấy tuy thành tựu phi trạch diệt này, mà phi trạch diệt này không phải là quả A-la-hán thâu nhiếp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì phi trạch diệt là vô ký, mà quả A-lahán là thiện.

Hỏi: Giả sử pháp do quả A-la-hán thâu nhiếp, thì pháp này là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng như vậy, nghĩa là quả A-la-hán hữu vi và vô vi đều là vô lậu.

Hỏi: Người Dự lưu thành tựu các pháp, pháp này do quả Dự lưu thâu nhiếp chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt, bởi vì thành tựu pháp nàydo thâu nhiếp cùng có rộng hẹp:

1. Có pháp do người Dự lưu thành tựu mà không phải là quả Dự lưu thâu nhiếp, nghĩa là người Dự lưu đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, và họ đang chứng các kiết không còn, cùng với người Dự lưu đã thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt. Trong này có bốn pháp, ba pháp trước như trước đã nói; họ đã thành tựu pháp hữu lậu thì tổng quát có ba loại, đó là thiện-nhiễm ô và vô phú vô ký. Thiện lai có hai loại, đó là gia hạnh thiện và sinh đắc thiện. Nhiễm ô, đó là pháp nhiễm do tu mà đoạn của ba cõi. Vô phú vô ký, đó là oai nghi lộ, công xảo xứ và dị thục sinh. Như vậy các pháp do người Dự lưu thành tựu mà không phải là quả Dự lưu thâu nhiếp, bởi vì quả chỉ là vô lậu, mà pháp này là hữu lậu.

2. Có pháp do quả Dự lưu thâu nhiếp nhưng không phải là người Dự lưu thành tựu, nghĩa là quả Dự lưu chưa được đã mất. Chưa được, nghĩa là Tín thắng giải chưa đạt được kiến chí do quả Dự lưu thâu nhiếp chủng tánh các căn, và kiến chí không đạt được tín thắng giải do quả Dự lưu thâu nhiếp chủng tánh các căn. Đã mất, nghĩa là tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, mất đi tín thắng giải do quả Dự lưu thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc có lúc lui sụt mất đi.

3. Có pháp do người Dự lưu thành tựu cũng do quả Dự lưu thâu nhiếp nghĩa là quả Dự lưu đã được không mất, nên biết nghĩa trong này như trước đã nói.

4. Có pháp không phải là người Dự lưu thành tựu cũng không phải là quả Dự lưu thâu nhiếp, nghĩa là trừ ra những tướng trước. Trong này, âm tướng tướng tức là gọi cho các pháp đã biểu hiện, nghĩa là nếu pháp đã gọi tên-đã nói ra thì gọi là sở biểu, làm thành ba câu trước, trong này trừ ra nếu pháp chưa gọi tên-chưa nói ra thì gọi là sở biểu, làm thành câu thứ tư. Điều này lại nói thế nào? Nghĩa là thiện-nhiễm ô và vô phú vô ký. Thiện có hai loại, đó là hữu lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu, nghĩa là người Dự lưu mà không thành tựu tất cả Thánh đạo của phần vị trênphần vị dưới, và chưa đạt trạch diệt của phần vị trên. Nhiễm ô, nghĩa là pháp nhiễm của ba cõi do kiến mà đoạn, và người Dự lưu đã đoạn pháp nhiễm do tu mà đoạn của cõi Dục. Vô phú vô ký, nghĩa làng Dự lưu đã không thành tựu oai nghi lộ-công xảo xứ dị thục sinh, và tất cả các tâm biến hóa… Các pháp như vậy là câu thứ tư.

Hỏi: Các pháp mà người nhất lai thành tựu, pháp này do quả nhất lai thâu nhiếp chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt bởi vì thành tựu pháp nàydo quả thâu nhiếp cùng có rộng hẹp:

1. Có pháp do người nhất lai thành tựu mà không phải là quả nhất lai thâu nhiếp, nghĩa là người nhất lai đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, và họ đã chứng các kiết không còn, cùng với người nhất lai đã thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt. Trong này có bốn pháp, ba pháp trước như trước đã nói; họ đã thành tựu pháp hữu lậu thì tổng quát có ba loại, đó là thiện-nhiễm ô và vô phú vô ký. Thiện lại có hai loại, đó là gia hạnh thiện và sinh đắc thiện. Nhiễm ô, đó là pháp nhiễm do tu mà đoạn thuộc ba phẩm sau của cõi Dục, và pháp nhiễm do tu mà đoạn của cõi Sắc-vô sắc. Vô phú vô ký, đó là oai nghi lộ-công xảo xứ và dị thục sinh. Các pháp như vậy, người nhất lai thành tựu mà không phải là quả nhất lai thâu nhiếp, bởi vì quả chỉ là vô lậu, mà pháp này là hữu lậu.

2. Có pháp do quả Nhất lai thâu nhiếp nhưng không phải là người nhất lai thành tựu, nghĩa là quả nhất lai chưa được đã mất. Chưa được, nghĩa là Tín thắng giải chưa đạt được kiến chí do quả nhất lai thâu nhiếp chủng tánh các căn và kiến chí không đạt được Tín thắng giải do quả nhất lai thâu nhiếp chủng tánh các căn. Đã mất nghĩa là Tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, mất đi tín thắng giải do quả nhất lai thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc có lúc lui sụt mất đi.

3. Có pháp do người nhất lai thành tựu cũng do quả nhất lai thâu nhiếp, nghĩa là quả nhất lai đã được không mất, nên biết nghĩa trong này như trước đã nói.

4. Có pháp không phải là người nhất lai thành tựu cũng không phải là quả nhất lai thâu nhiếp, nghĩa là trừ ra những tướng trước. Trong này, âm tướng tức là gọi cho các pháp đã biểu hiện, nghĩa là nếu pháp đã gọi tên-đã nói ra thì gọi là sở biểu, làm thành ba câu trước, trong này trừ ra nếu pháp chưa gọi tên-chưa nói ra thì gọi là Sở biểu làm thành câu thứ tư. Điều này lại nói thế nào? Nghĩa là thiện-nhiễm ô và vô phú vô ký. Thiện có hai loại, đó là hữu lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu, nghĩa là người nhất lai đã không thành tựu gia hạnh-lìa nhiễm-sinh đắc thiện. Thiện vô lậu, nghĩa là người nhất lai đã không thành tựu tất cả Thánh đạo của phần vị dưới-phần vị trên, và chưa đạt được trạch diệt của phần vị trên. Nhiễm ô, nghĩa là pháp nhiễm của ba cõi do kiến mà đoạn, và người nhất lai đã đoạn pháp nhiễm do tu mà đoạn của cõi Dục, vô phú vô ký, nghĩa là người nhất lai đã không thành tựu oai nghi lộ công xảo xứ-dị thục sinh, và tất cả các tâm biến hóa… các pháp như vậy là câu thứ tư.

Hỏi: Các pháp mà người Bất hoàn thành tựu, pháp này do quả Bất hoàn thâu nhiếp chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt, bởi vì thành tựu pháp nàydo quả thâu nhiếp cùng có rộng hẹp:

1. Có pháp do người Bất hoàn thành tựu mà không phải là quả Bất hoàn thâu nhiếp, nghĩa là người Bất hoàn đã được thắng tiến về căn vô lậu bằng pháp hữu vi, và họ đã chứng các kiết không còn, cùng với người Bất hoàn đã thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt. Trong này có bốn pháp, ba pháp trước như trước đã nói, họ đã thành tựu pháp hữu lậu thì tổng quát có ba loại, đó là thiện-nhiễm ô và vô phú vô ký. Thiện lại có ba loại, đó là gia hạnh-lìa nhiễm-sinh đắc thiện. Nhiễm ô là pháp nhiễm do tu mà đoạn của cõi Sắc-vô sắc. Vô phú vô ký, đó là oai nghi lộ-công xứ-dị thục sinh và các tâm biến hóa… Các pháp như vậy, người Bất hoàn thành tựu mà không phải là quả Bất hoàn thâu nhiếp, bởi vì quả chỉ là vô lậu, mà pháp này là hữu lậu.

2. Có pháp do quả Bất hoàn thâu nhiếp nhưng không phải là người Bất hoàn thành tựu, nghĩa là quả Bất hoàn chưa được đã mất. Chưa được, nghĩa là Tín thắng giải chưa đạt được kiến chí do quả Bất hoàn thâu nhiếp chủng tánh các căn, và kiến chí không đạt được Tín thắng giải do quả Bất hoàn thâu nhiếp chủng tánh của căn. Đã mất nghĩa là Tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, mất đi Tín thắng giải do quả Bất hoàn thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc có lúc lui sụt mất đi.

3. Có pháp do người Bất hoàn thành tựu cũng do quả Bất hoàn thâu nhiếp, nghĩa là quả Bất hoàn đã được không mất, nên biết nghĩa trong này như trước đã nói.

4. Có pháp không phải là người Bất hoàn thành tựu cũng không phải là quả Bất hoàn thâu nhiếp, nghĩa là trừ ra những tướng trước. Trong này, âm Tướng tức là gọi cho các pháp đã biểu hiện, nghĩa là nếu pháp đã gọi tên, đã nói ra thì gọi là Sơ biểu, làm thành ba câu trước; trong này trừ ra nếu pháp chưa gọi tên-chưa nói ra thì gọi là Sơ biểu, làm thành câu thứ tư. Điều này lại nói thế nào? Đó là thiện-nhiễm ô và vô phú vô ký. Thiện có hai loại, đó là hữu lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu, nghĩa là quả Bất hoàn đã không thành tựu thành tựu gia hạnh-lìa nhiễm-sinh đắc thiện. Thiện vô lậu, nghĩa là người Bất hoàn đã không thành tựu tất cả Thánh đạo của phần vị dưới-phần vị trên, và chưa đạt được trạch diệt của phần vị trên. Nhiễm ô, nghĩa là pháp nhiễm của ba cõi do kiến mà đoạn, và pháp nhiễm do tu mà đoạn của cõi Dục. vô phú vô ký, nghĩa là người Bất hoàn đã không thành tựu oai nghi lộ-công xảo xứ-dị thục sinh và các tâm biến hóa… các pháp như vậy là câu thứ tư.

Hỏi: Các pháp mà A-la-hán thành tựu, pháp này do quả A-la-hán thâu nhiếp chăng?

Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt, bởi vì thành tựu pháp nàydo quả thâu nhiếp cùng có rộng hẹp:

1. Có pháp do A-la-hán thành tựu mà không phải là quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là A-la-hán đã thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt, họ đã thành tựu phi trạch diệt, thì như trước rộng ra, họ đã thành tựu pháp hữu lậu thì tổng quát có hai loại đó là thiện và vô phú vô ký. Thiện có ba loại, đó là gia hạnh lìa nhiễm sinh đắc thiện vô phú vô ký, đó là oai nghi lộ công xảo xứ dị thục sinh và các tâm biến hóa… các pháp như vậy, A-la-hán thành tựu nhưng không phải là quả A-la-hán thâu nhiếp, bởi vì quả chỉ là vô lậu, mà pháp này là hữu lậu.

2. Có pháp do quả A-la-hán thâu nhiếp mà không phải là A-lahán thành tựu, nghĩa là quả A-la-hán chưa được đã mất. Chưa được, nghĩa là thời giải thoát chưa đạt được bất thời giải thoát do quả A-la-hán thâu nhiếp chủng tánh các căn, bà bất thời giải thoát không đạt được thời giải thoát do quả A-la-hán thâu nhiếp chủng tánh các căn. Đã mất, nghĩa là thời giải thoát chuyển căn làm bất thời giải thoát, mất đi thời giải thoát do quả A-la-hán thâu nhiếp chủng tánh các căn, hoặc có lúc lụi sụt mất đi.

3. Có Pháp do A-la-hán thành tựu cũng do quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là quả A-la-hán đã được không mất, nên biết nghĩa trong này như trước đã nói.

4. Có pháp không phải là A-la-hán thành tựu cũng không phải là quả A-la-hán thâu nhiếp, nghĩa là trừ ra những tướng trước. Trong này, âm tướng tức là gọi cho các pháp đã biểu hiện, nghĩa là nếu pháp đã gọi tên-đã nói ra thì gọi là Sơ biểu, làm thành ba câu trước; trong này trừ ra nếu pháp chưa gọi tên-chưa nói ra thì hữu lậu Sơ biểu, làm thành câu thứ tư. Điều này lại nói thế nào? Đó là thiện-nhiễm ô và vô phú vô ký. Thiện có hai loại, đó là hữu lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu, nghĩa là A-la-hán đã không thành tựu gia hạnh-lìa nhiễm sinh đắc thiện. Thiện vô lậu, nghĩa là các pháp học. Nhiễm ô, nghĩa là pháp nhiễm của ba cõi do kiến-tu mà đoạn. Vô phú vô ký, nghĩa là A-la-hán đã không thành tựu oai nghi lộ-công xảo xứ-dị thục sinh và các tâm biến hóa… Các pháp như vậy là câu thứ tư.

Hỏi: Tín thắng giải là chuyển căn làm kiến chí hay không? Giả sử như vậy thì có gì sai? Cả hai đều có sai lầm. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, thì trong chương căn uẩn ở sau tại sao không nói đến? Như chương ấy nói: “Nếu xả bỏ căn vô lậu, đạt được căn vô lậu, thì lúc ấy đều từ quả đến quả chăng?

Đáp: Nếu từ quả đến quả, thì lúc ấy đều xả bỏ căn vô lậu mà đạt được căn vô lậu. Có lúc xả bỏ căn vô lậu đạt được căn vô lậu nhưng không phải là từ quả đến quả, nghĩa là lúc hiện quán biên Đạo loại trí hiện ở trước mắt, và lúc A-la-hán thời giải thoát luyện căn làm bất động”. Luận sư của bản luận này có điều gì mệt mỏi vất vả mà không nói lúc Tín thắng giải luyện căn làm kiến chí? Nếu Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, thì trong này đã nói phải thông hiểu thế nào? Như ở đây nói: “Có pháp do quả Dự lưu thâu nhiếp nhưng không phải là người Dự lưu thành tựu, nghĩa là quả Dự lưu chưa được đã mất”. Nếu Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí thì làm sao quả Dự lưu có được rồi mà mất? Trong chương Trí uẩn ở sau nói lại thông hiểu thế nào? Như chương ấy nói: “Người Dự lưu đối với ba Tam-ma-địa thì vô lậu đều thành tựu quá khứ, nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt thì thành tựu”. Nếu Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, thì làm sao người Dự lưu có Tam-ma-địa đã diệt và mất, vì giản lược điều ấy cho nên nói là có đã diệt mà mất chăng? Luận thức thân nói lại thông hiểu thế nào? Như luận ấy nói: “Có tâm vô học quá khứ là đã hiểu rõ chứ không phải là đang hiểu rõ-không phải là sẽ hiểu rõ, nghĩa là A-la-hán thời giải thoát lui sụt quả A-la-hán làm Tín thắng giải, lúc ấy luyện căn làm kiến chí rồi trở lại đạt được quả A-lahán, lúc ấy do đạo của thời giải thoát mà thâu nhiếp tâm vô học, là đã thành tựu chứ không phải là đang thành tựu-không phải là sẽ thành tựu. Lúc ấy đối với thành tựu mà thi thiết âm Liễu (hiểu rõ) là đã hiểu rõ thì chính là đã thành tựu, không phải là đang hiểu rõ thì không phải là đang thành tựu, không phải là sẽ hiểu rõ thì không phải là sẽ thành tựu”. Nếu Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, thì làm sao luận ấy nói A-la-hán thời giải thoát lui sụt quả A-la-hán làm Tín thắng giải, luyện căn làm kiến chí rồi trở lại đạt được quả A-la-hán?

Đáp: Nên đưa ra cách nói này: Có lúc Tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông suốt vấn nạn đã giả sử ở sau, trong chương căn uẩn sau tại sao không nói?

Đáp: Trong chương căn uẩn sau nên đưa ra cách nói này: Có lúc xả bỏ căn vô lậu đạt được căn vô lậu mà không phải là từ quả đến quả, nghĩa là lúc hiện quán biên-đạo loại trí hiện ở trước mắt, lúc Tín thắng giải luyện căn làm kiến chí, lúc những pháp lui sụt luyện căn làm những pháp tư duy và lúc thời giải thoát luyện căn làm bất động. Nhưng mà không đưa ra cách nói này, là có ý nghĩa khác, nghĩa là chương ấy đưa ra đầu đưa ra cuối, phỏng theo hiển bày phần giữa mà nói, lúc hiện quán biên-đạo loại trí hiện ở trước mắt, tức là đưa ra đầu mà nói; lúc thời giải thoát luyện căn làm bất động, tức là đưa ra cuối mà nói. Nhờ đưa ra đầu và cuối, phỏng theo hiển bày phần giữa, có lúc Tín thắng giải luyện căn làm kiến chí. Nếu trong phần vị học không có nghĩa luyện căn thì đến phần vị vô học cũng thuận theo như vậy. Như trong phần vị học không có cứu hộ- không có thế lực, trong phần vị vô học cũng thuận theo như vậy, cho nên cũng hiển bày có những pháp lui sụt chuyển căn làm những pháp tư duy. Như đưa ra đầu và cuối như vậy, đưa ra lần đầu tiến vào đã vượt qua gia hạnh cứu cánh, nên biết cũng như vậy.

Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói rằng: “Tín thắng giải luyện căn làm kiến chí, tức là thâu nhiếp ở trong chương căn uẩn đã nói, tức là thâu nhiếp từ quả đến quả. Nghĩa là người Dự lưu tu tập đạo gia hạnh luyện căn đã hướng đến quả nhất lai, nếu đạt được quả nhất lai thì gọi là chuyển căn, lúc đạt được quả và lúc chuyển căn, không có sai biệt. Nếu người nhất lai tu tập đạo gia hạnh luyện căn rồi hướng đến quả Bất hoàn, nếu đạt được quả Bất hoàn thì gọi là chuyển căn, lúc đạt được quả và lúc chuyển căn, không có gì sai biệt.

Hỏi: Vì sao không có đạt được quả Dự lưu-quả A-la-hán thì gọi là luyện căn?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Vượt qua cõi Dục thì từ vô thỉ đến nay đã từng có rất nhiều pháp, không có một Hữu tình nào đối với nhiễm của cõi Dục mà chưa từng lìa bỏ, vì vậy có thể có người cầu chuyển căn mà lìa gấp bội-lìa hoàn toàn nhiễm của cõi Dục, lúc đạt được hai quả cũng tức là chuyển căn. Vượt qua hữu đảnh, không phải là từ vô thỉ đến nay đã từng có rất nhiều pháp, không có một Hữu tình nào đối với nhiễm của hữu đảnh mà đã từng lìa bỏ, vì vậy không có người cầu chuyển căn mà lìa từng phẩn-lìa hoàn toàn nhiễm của Hữu đảnh, lúc đạt được hai quả cũng tức là chuyển căn.

Hỏi: Như ông đã nói phần vị học luyện căn tiến lên đạt được hai quả, tức là thâu nhiếp từ quả đến quả cho nên không nói riêng biệt, trong phần vị vô học có sáu chủng tánh chuyền pháp lui sụt làm pháp tư duy, cho đến lúc chuyển an trú làm kham đạt (một trong sáu chủng tánh la hán), trong chương căn uẩn sau tại sao không nói, mà chỉ nói thời giải thoát luyện căn làm bất động?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Điều này cũng thâu nhiếp ở trong chương căn uẩn đã nói. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì lúc chuyển pháp lui sụt làm pháp tư duy không xả bỏ căn của pháp lui sụt mà đạt được căn của pháp tư duy, cho đến lúc chuyển an trú làm Kham đạt không xả bỏ bốn căn trước mà đạt được căn Kham đạt. Nếu lúc chuyển kham đạt làm bất động thì lập tức xả bỏ năm căn trước mà đạt được căn bất động, cho nên chương ấy chỉ nói lúc Thời giải thoát luyện căn làm bất động, xả bỏ căn vô lậu đạt được căn vô lậu chứ không phải từ quả đến quả, không nói chuyển các pháp lui sụt làm các pháp tư duy.

Lời bình: Vị ấy không nên đưa ra cách nói này. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì hãy còn không có một lúc thành tựu hai căn, huống hồ có lúc thành tựu năm phẩm căn hay sao? Và lại, người Bất hoàn tu tập đạo gia hạnh luyện căn rồi tuy không có năng lực đạt được quả A-la-hán mà vì sao không có năng lực chuyển làm kiến chí? Các hạng dị sinh tuy không đạt được quả mà có chuyển căn, vì sao lúc Thánh giả lìa nhiễm đạt được quả không có nghĩa chuyển căn? Lìa nhiễm-chuyển căn-gia hạnh đều khác nhau, làm sao lúc lìa nhiễm-đạt được hai quả cũng tức là chuyển căn? Vì vậy chương căn uẩn đưa ra đầu đưa ra cuối mà phỏng theo hiển bày phần giữa, cho nên không nói Tín thắng giải luyện căn làm kiến chí, cũng không nói những pháp lui sụt luyện căn làm những pháp tư duy. Có sư khác nói: Không có Tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông hiểu trong chương căn uẩn đã nói, trong này đã nói nên thông hiểu thế nào? Như chương này nói: Có quả Dự lưu chưa được đã mất. Nếu tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, thì làm sao quả Dự lưu có đạt được rồi mà mất?

Đáp: Điều ấy ở trong này, có người đưa ra cách nói này: Không thành tựu đắc của quá khứ vị lai; có người đưa ra cách nói này: Có thành tựu đắc của quá khứ- vị lai. Nếu đưa ra cách nói này: Không thành tựu đắc quả quá khứ-vị lai, thì đó là nói đến quả Dự lưu đạt được ở vị lai gọi là chưa đạt được, ở quá khứ gọi là đã mất, ở hiện tại gọi là thành tựu. Nếu đưa ra cách nói này: Có thành tựu đắc của quá khứ-vị lai, thì đó là nói đến quả Dự lưu có ba loại, đó là Hạ-trung-Thượng. Nếu lúc bắt đầu trú trong quả Dự lưu bậc hạ thì đối với quả Dự lưu bậc trung-thượng gọi là chưa đạt được, đối với quả Dự lưu bậc Trung-Thượng gọi là chưa đạt được, đối với quả Dự lưu bậc hạ gọi là thành tựu, không nên nói là đã mất bởi vì không có gì đã mất. Nếu lúc bắt đầu trú trong quả Dự lưu bậc trung thì đối với quả Dự lưu bậc thượng gọi là chưa đạt được, đối với quả Dự lưu bậc hạ gọi là đã mất, đối với quả Dự lưu bậc trung gọi là thành tựu. Nếu lúc bắt đầu trú trong quả Dự lưu bậc thượng thì đối với quả Dự lưu bậc Trung-Hạ gọi là đã mất, đối với quả Dự lưu bậc thượng gọi là thành tựu, không nên nói là chưa đạt bởi vì không có gì chưa đạt được.

Hỏi: Nếu bắt đầu trú trong quả Dự lưu bậc trung thì đối với bậc hạ chưa đạt được, nếu bắt đầu trú trong quả Dự lưu bậc thượng thì đối với bậc Trung-Hạ đều chưa đạt được, làm sao nói là đã mất?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Vượt qua bậc ấy cho nên nói là đã mất, nghĩa là bậc ấy lúc trước kia có nghĩa có thể đạt được, nay đến phần vị thù thắng đã vượt qua bậc ấy lại không có thể đạt được nữa cho nên gọi là đã mất. Bởi vì nghĩa lý này, tuy tín thắng giải không có chuyển căn làm kiến chí mà có thể nói là quả Dự lưu có nghĩa chưa đạt được đã mất.

Hỏi: Trong chương Trí uẩn sau nói lại thông hiểu như thế nào? Như chương ấy nói: “Người Dự lưu đối với ba Tam-ma-địa thì vị lai đều thành tựu, quá khứ nếu đã diệt không mất thì thành tựu, hiện tại nếu hiện ở trước mắt thì thành tựu”. Nếu Tín thắng giải không chuyển căn làm kiến chí, thì làm sao người Dự lưu có ba Tam-ma-địa đã diệt mà mất, vì giản lược điều ấy cho nên nói là có đã diệt mà không mất chăng?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: trong chương Trí uẩn sau nên đưa ra cách nói này: Người Dự lưu đối với ba Tam-ma-địa thì vị lai đều thành tựu, quá khứ đã diệt tức là thành tựu. Không nên nói không mất mà lại nói không mất, là do người đọc tụng lầm lẫn.

Hỏi: Luận thức thân nói lại thông hiểu thế nào? Như luận ấy nói: “A-la-hán thời giải thoát lui sụt quả A-la-hán làm Tín thắng giải, luyện căn làm kiến chí rồi trở lại đạt được quả A-la-hán”.

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Tôi không có năng lực thông hiểu hết sức rõ ràng đối với văn của luận thức thân.

Lời bình: Đã không có năng lực thông hiểu cách nói của luận Thức thân, vả lại trước đã giảm bớt văn luận về trí uẩn, tuy thông hiểu văn này nhưng cũng không hợp lý, vì vậy cần phải tin nhận là có tín thắng giải có thể chuyển căn làm kiến chí. Nếu phần vị hữu học không có thể chuyển căn, thì trong phần vị vô học cũng thuận theo không chuyển căn; như phần vị hữu học không có cứu họ-không có thế lực, trong phần vị vô học cũng thuận theo như vậy.

Vì thế, Tôn giả Phật Hộ đưa ra cách nói như vậy: “Tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí có sáu sự bất cọng:

  1. Ở cõi Dục chứ không ở cõi Sắc-vô sắc.
  2. Dựa vào Tĩnh lự chứ không dựa vào định vô sắc.
  3. Sử dụng đạo vô lậu chứ không phải sử dụng đạo thế tục.
  4. Sử dụng pháp trí chứ không sử dụng loại trí.
  5. Là đã lui sụt chứ không phải là chưa lui sụt.
  6. Trú vào quả chứ không phải là trú vào đạo của thắng quả.

Hỏi: Loại ấy vì sao ở cõi Dục chứ không phải là ở cõi Sắc-vô sắc?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Nhờ vào lực nói pháp mới có thể chuyển căn, mà chỉ riêng trong cõi Dục mới có người nói pháp.

Hỏi: Loại ấy vì sao dựa vào Tĩnh lự chứ không dựa vào định vô sắc?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Phần vị Học luyện căn cần phải dựa vào địa của quả đạt được không có người nào dựa vào định vô sắc mà đạt được quả của Học, cho nên Học chuyển căn không dựa vào vô sắc.

Hỏi: Loại ấy vì sao sử dụng đạo vô lậu chứ không sử dụng đạo thế tục?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Phải là đạo mạnh mẽ nhanh nhạy mới có năng lực chuyển căn, đạo thế tục chậm chạp cho nên loại ấy không sử dụng.

Hỏi: Loại ấy vì sao chỉ sử dụng pháp trí chứ không sử dụng loại trí?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Cần phải sinh ở cõi Dục mới có năng lực chuyển căn, cõi Dục chỉ đạt được pháp trí tự tại, cho nên loại ấy không sử dụng Loại trí để chuyển căn.

Hỏi: Loại ấy vì sao là người đã lui sụt chứ không phải là người chưa lui sụt?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Người chán ngán lo sợ lui sụt mới cầu luyện căn, cần phải đã từng lui sụt rồi mà có chán ngán lo sợ, cho nên người chưa lui sụt không có nghĩa chuyển căn.

Hỏi. Loại ấy vì sao trú vào quả chứ không phải là trú vào đạo của thắng quả?

Vị ấy đưa ra cách trả lời này: Nếu trú vào đạo của thắng quả mà

luyện căn, thì thuận theo lúc luyện căn xả bỏ nhiều đạo-đạt được ít đạo, lúc ấy phải gọi là lui sụt chứ không gọi là tiến lên, cho nên chỉ trú vào quả mới có nghĩa của chuyển căn, bởi vì lúc luyện căn chỉ có đạt được quả.

Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: “Lúc học chuyển căn đối với sáu sự kia, ba sự thuận với lý-ba sự không thích hợp. Nghĩa là vị kia đã nói phần vị học chuyển căn cõi Dục chứ không phải là ở cõi Sắc-vô sắc thì sự này hợp lý, bởi vì chỉ riêng cõi Dục có nghĩa của chuyển căn; và vị kia nói loại ấy dựa vào Tĩnh lự chứ không dựa vào định vô sắc thì sự này cũng hợp lý, bởi vì chỉ dựa vào Tĩnh lự mà đạt được quả của Học; vả lại, vị kia đã nói loại ấy sử dụng đạo vô lậu chứ không dựa vào đạo thế tục thì sự này cũng hợp lý, bởi vì phần vị Học luyện căn như Kiến đạo. Nhưng mà vị kia đã nói loại ấy sử dụng pháp trí chứ không sử dụng loại trí, thì sự này không thích hợp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nghĩa không nhất định, nghĩa là sinh ở cõi Dục hoặc có lúc đạt được tự tại đối với pháp trí chứ không phải là Loại trí, hoặc có lúc đạt được tự tại đối với Loại trí chứ không phải là pháp trí? Vả lại, vị kia đã nói là người đã lui sụt chứ không phải là người chưa lui sụt, thì sự này cũng không thích hợp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nghĩa không nhất định, nghĩa là đã lui sụt-hoặc còn chưa lui sụt nhưng mà lo sợ lui sụt, cho nên có lúc cầu căn thù thắng mà luyện căn. Hơn nữa, vị kia đã nói loại ấy trú vào quả chứ không phải là trú vào đạo của thắng quả, thì sự này cũng không thích hợp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nghĩa không nhất định, nghĩa là phần vị Học luyện căn hoặc là trú vào quả vị, hoặc là trú vào đạo của thắng quả mà cầu căn nhanh nhạy, hoặc là vì sợ lui sụt.”

Hỏi: Nếu trú vào đạo của thắng quả mà chuyển căn thì xả bỏ nhiều đạo-đạt được ít đạo lẽ nào không phải là lui sụt hay sao?

Đáp: Bởi vì lúc ấy cầu căn nhanh nhạy chứ không cầu nhiều đạo, cho nên không có gì sai; như nhiều đồng thép đổi lấy một ít vàng bạc, lẽ nào gọi là mất đi lợi ích hay sao?

Hỏi: Ở trong cõi Dục thì nơi nào chuyển căn, là chỉ ở trong loài người hay là cũng ở trên cõi trời?

Đáp: Chỉ ở trong loài người, bởi vì tiếp nhận giáo pháp mạnh hơn, lại vì lo sợ lui sụt.

Hỏi: Người trong bốn châu thì ở nơi nào chuyển căn?

Đáp: Tôn giả Lũ sa phiệt ma nói rằng: “Chỉ riêng châu Thiệm bộ có nghĩa của chuyển căn, bởi vì người ở Châu thiệm bộ có căn mạnh mẽ nhanh nhạy”.

Lời bình: Nên đưa ra cách nói này: Người trong ba châu đều được chuyển căn, trừ ra châu Bắc câu lô, bởi vì không có đức thù thắng.

Hỏi: Vì dựa vào thân nam mà có nghĩa của chuyển căn, hay là cũng dựa vào thân nữ?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Chỉ dựa vào thân nam mà có nghĩa của chuyển căn, bởi vì thân nam có công đức hơn hẳn người nữ.

Lời bình: Nên đưa ra cách nói này: Những người chuyển căn cũng dựa vào thân nam-cũng dựa vào thân nữ, bởi vì dựa vào thân nữ cũng có thể phát khởi công đức thù thắng.

Hỏi: Tùy theo dựa vào địa nào trước đó đạt được quả Học-sau cứ vào địa ấy mà chuyển căn chăng?

Đáp: Có người nói cứ dựa vào phần vị Học ấy mà chuyển căn, cũng có lúc dựa vào địa khác, nhưng mạnh hơn chứ không phải là kém hơn. Nghĩa là hai quả dựa vào vị trí định đạt được quả chuyển căn chứ không dựa vào địa khác. Nếu quả Bất hoàn dựa vào địa ấy đạt được thì dựa vào địa ấy mà sau đó sẽ chuyển căn, hoặc dựa vào địa khác nhưng mạnh hơn chứ không phải là kém hơn. Những người Bất hoàn thành tựu quả của ba địa rất ít, thành tựu quả của sáu địa rất nhiều, nghĩa là theo thứ tự thì lúc đạo giải thoát thứ chín lìa nhiễm của cõi Dục, lúc ấy thành tựu quả Bất hoàn của ba địa, tức là vị chí định Tĩnh lự thứ nhất và Tĩnh lự trung gian. Nếu người đã lìa nhiễm cõi Dục thì dựa vào ba địa này tiến vào chánh tánh ly sinh, lúc ấy đạo loại trí cũng đã thành tựu quả Bất hoàn của ba địa này. Nếu người dựa vào Tĩnh lự thứ hai tiến vào chánh tánh ly sinh, thì lúc ấy đạo loại trí thành tựu quả Bất hoàn của bốn địa, đó là ba địa trước và Tĩnh lự thứ hai. Nếu dựa vào Tĩnh lự thứ ba tiến vào chánh tánh ly sinh, thì lúc ấy đạo loại trí thành tựu quả Bất hoàn của năm địa, đó là bốn địa trước và Tĩnh lự thứ ba. Nếu dựa vào Tĩnh lự thứ tư tiến vào chánh tánh ly sinh, thì lúc ấy đạo loại trí thành tựu quả Bất hoàn của sáu địa, đó là năm địa trước và Tĩnh lự thứ tư.

Dựa vào ba địa đầu đạt được quả Bất hoàn rồi, thì dựa vào địa này mà chuyển căn, lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của ba địa, đạt được quả Bất hoàn của ba địa. Ngay lúc ấy nếu dựa vào Tĩnh lự thứ hai mà chuyển mà căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của ba địa, đạt được quả Bất hoàn của bốn địa. Ngay lúc ấy nếu dựa vào Tĩnh lự thứ ba mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của ba địa, đạt được quả Bất hoàn của năm địa. Ngay lúc ấy nếu dựa vào Tĩnh lự thứ tư mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của ba địa, đạt được quả Bất hoàn của sáu địa.

Nếu dựa Tĩnh lự thứ hai đạt được quả Bất hoàn rồi, thì dựa vào Tĩnh lự thứ hai mà chuyển căn, lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của bốn địa, đạt được quả Bất hoàn của bốn địa. Ngay lúc ấy nếu dựa vào Tĩnh lự thứ ba mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của bốn địa, đạt được quả Bất hoàn của năm địa. Ngay lúc ấy nếu dựa vào Tĩnh lự thứ tư mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của bốn địa, đạt được quả Bất hoàn của sáu địa.

Nếu dựa vào Tĩnh lự thứ ba đạt được quả Bất hoàn rồi, thì dựa vào Tĩnh lự thứ ba mà chuyển căn, lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của năm địa, đạt được quả Bất hoàn của năm địa. Ngay lúc ấy nếu dựa vào Tĩnh lự thứ tư mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của năm địa, đạt được quả Bất hoàn của sáu địa.

Nếu dựa vào Tĩnh lự thứ tự đạt quả Bất hoàn rồi, thì dựa vào Tĩnh lự thứ tư mà chuyển căn, lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của sáu địa, đạt được quả Bất hoàn của sáu địa. Không có dựa vào địa trên đạt được quả Bất hoàn, sau đó dựa vào địa dưới mà chuyển căn. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đừng cho là xả nhiều đạo mà đạt được một ít đạo, nên gọi là giảm rút chứ không gọi là tăng thêm.

Hoặc có người nói: Có dựa vào địa trên đạt được quả Bất hoàn, sau đó dựa vào địa dưới mà chuyển căn. Người ấy đưa ra cách nói này: Dựa vào Tĩnh lự thứ tư đạt được quả Bất hoàn rồi, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ ba mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của sáu địa, đạt được quả Bất hoàn của năm địa. Ngay lúc ấy nếu dựa vào Tĩnh lự thứ hai mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của sáu địa, đạt được quả Bất hoàn của bốn địa. Ngay lúc ấy nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của sáu địa, đạt được quả Bất hoàn của ba địa. Dựa vào Tĩnh lự thứ ba đạt được quả Bất hoàn rồi, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ hai mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của năm địa, đạt được quả Bất hoàn của bốn địa. Ngay lúc ấy nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của năm địa, đạt được quả Bất hoàn của ba địa. Dựa vào Tĩnh lự thứ hai đạt được quả Bất hoàn rồi, nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ quả Bất hoàn của bốn địa, đạt được quả Bất hoàn của ba địa. Trong này chỉ nói đến điều khác nhau so với trước, dựa vào từ địa trên mà chuyển căn thì xả bỏ-đạt được nhiều ít như trước nên biết!

Hỏi: Nếu dựa vào địa trên đạt được quả Bất hoàn, sau đó dựa vào địa dưới mà chuyển căn, thì đã xả bỏ nhiều đạo-đạt được một ít đạo, phải gọi là giảm sút chứ lẽ nào là tăng thêm hay sao?

Đáp: Lúc ấy cầu căn nhanh nhạy chứ không cầu nhiều đạo, xả bỏ nhiều-đạt được ít cũng không có gì sao lầm; như nhiều hàng hóa rẻ tiền trao đổi một ít châu báu quý giá, mới gọi là tăng thêm chứ không gọi là giảm bớt. Dựa vào quả nói rồi, nếu dựa vào đạo mà nói thì những người Bất hoàn chưa lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ nhất, nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ thánh đạo của ba địa, đạt được Thánh đạo của của ba địa. Đã lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ nhất mà chưa lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ hai, nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của bốn địa, đạt được Thánh đạo của ba địa. Đã lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ hai mà chưa lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ ba, nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của năm địa, đạt được Thánh đạo của ba địa. Đã lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ ba mà chưa lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ tư, nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của sáu địa, đạt được Thánh đạo của ba địa. Đã lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ tư mà chưa lìa nhiễm của không vô biên xứ, nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của bảy địa, đạt được Thánh đạo của ba địa. Đã lìa nhiễm của không vô biên xứ mà chưa lìa nhiễm của thức vô biên xứ, nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của tám địa, đạt được Thánh đạo của ba địa. Đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, nếu dựa vào ba địa như Tĩnh lự thứ nhất… mà chuyển căn, thì lúc ấy bỏ Thánh đạo của chín địa, đạt được Thánh đạo của ba địa.

Chưa lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ hai, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ hai mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của bốn địa, đạt được Thánh đạo của bốn địa. Đã lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ hai mà chưa lìa nhiễm Tĩnh lự thứ ba, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ hai mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của năm địa, đạt được Thánh đạo của bốn địa; cho nên đã lìa nhiễm của thức vô biên xứ, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ hai mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của chín địa, địa được Thánh đạo của bốn địa.

Chưa lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ ba, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ ba mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của năm địa, đạt được Thánh đạo của năm địa. Đã lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ ba mà chứ lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ tư, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ ba mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của sáu địa, đạt được Thánh đạo của năm địa; cho đến đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ ba mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của chín địa, đạt được Thánh đạo của năm địa.

Chưa lìa nhiễm Tĩnh lự thứ tư, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ tư mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của sáu địa, đạt được Thánh đạo của sáu địa. Đã lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ tư mà chưa lìa nhiễm của không vô biên xứ nếu dựa vào Tĩnh lự thứ tư mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của bảy địa, đạt được Thánh đạo của sáu địa; cho đến đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ tư mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ Thánh đạo của chín địa, đạt được Thánh đạo của sáu địa.

Đã lìa nhiễm của Tĩnh lự thứ nhất…, nếu dựa vào Tĩnh lự thứ hai… mà chuyển căn, thì xả bỏ đạt được nhiều ít như lý nên suy nghĩ! Không có dựa vào vô sắc mà chuyển căn, bởi vì quả Học không dựa vào định vô sắc. Nên đưa ra cách cõi này: Nếu ở địa trên đã được tự tại mà dựa vào Học của địa dưới chuyển căn…, thì cũng đạt được đạo và quả vô lậu của địa trên, nhưng lúc chuyển căn không đạt được vô sắc, bởi vì định ấy không có quả Bất hoàn. Trong này cần phải đưa ra quả thiết có thể để hỏi và trả lời (Pha-thiết-vấn-Đáp)

Hỏi: Có thể có Thánh giả xả bỏ Thánh đạo của chín địa-đạt được Thánh đạo của sáu địa mà gọi là tiến chứ không gọi là lùi chăng?

Đáp: Có, đó là lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, lúc tín thắng giải dựa vào Tĩnh lự thứ tư mà chuyển căn.

Hỏi: Có thể có Thánh giả đã lìa nhiễm của vô sở hữu xứ mà chỉ thành tựu Thánh đạo của một địa chăng?

Đáp: Có, đó là đã lìa nhiễm của vô sở hữu xứ, dựa vào vị chí định mà tiến vào Chánh tánh ly sinh, mười lăm tâm trong kiến đạo ấy.

Hỏi: Có thể có người Bất hoàn đã lìa nhiễm của vô sở hữu xứ, chỉ thành tựu đạo-quả vô lậu của ba địa chăng?

Đáp: Có, đó là đã lìa nhiễm của vô sở hữu xứ lúc Tín thắng giải không được tự tại đối với địa trên, dựa vào vị chí định-hoặc Tĩnh lự thứ nhất, hoặc Tĩnh lự trung gian chuyển căn làm kiến chí.

Hỏi: Có thể có người thân chứng không thành tựu định vô sắc-vô lậu chăng?

Đáp: Có, đó là lúc Thân chứng-Tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí.

******

 

Hỏi: Đã lìa nhiễm của vô sở hữu xứ, lúc Tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, đã xả bỏ đạo đối trị vô lậu của ba vô sắc, đối với đoạn của ba địa là cũng xả bỏ hay không? Giả sử như vậy thì có gì sai? Cả hai đều có sai lầm. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu xả bỏ đoạn ấy thì tại sao không thành tựu phiền não của ba địa ấy? Nếu không xả bỏ thì tại sao xả bỏ đạo ấy mà không xả bỏ đoạn ấy? Nên đưa ra cách nói này:

Không xả bỏ Đoạn ấy.

Hỏi: Đã xả bỏ đạo ấy thì làm sao không xả bỏ đoạn của ba địa?

Đáp: Ba địa vô sắc dưới có hai đạo đối trí:

  1. Thế tục.
  2. Vô lậu.

Lúc Học chuyển căn tuy xả bỏ đạo vô lậu kia, mà không xả bỏ đạo thế tục, bởi vì đạo thế tục có thể duy trì đoạn ấy, cho nên lúc Học chuyển căn không mất đi đoạn ấy.

Hỏi: Nếu đạo thế tục có nơi tác dụng thì lúc Học chuyển căn có thể không xả bỏ đoạn, nếu đạo thế tục không có nơi tác dụng thì lúc Học chuyển căn lẽ nào không xả bỏ đoạn, như lìa nhiễm của phi tưởng phi phi tưởng xứ từ phẩm một cho đến phẩm tám rồi, lúc Tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, pháp đoạn do tu mà đoạn của phi tưởng phi phi tưởng xứ kia, là xả bỏ? Nếu xả bỏ đoạn ấy thì tại sao không thành tựu phiền não của địa ấy? Nếu không xả bỏ thì tại sao xả bỏ đạo đối trị kia mà không xả bỏ đoạn?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Chắc chắn không có lìa từng phần nhiễm của phi tưởng phi phi tưởng xứ mà chuyển căn, lúc ấy nếu chuyển căn thì hoặc là hoàn toàn lìa nhiễm-hoặc là hoàn toàn lui sụt. Lại có người nói: Cũng có lìa từng phần nhiễm của phi tưởng phi phi

tưởng xứ mà chuyển căn, tuy bỏ đạo ấy mà không xả bỏ đoạn.

Lời bình: Nên đưa ra cách nói này: Lúc ấy tuy xả bỏ đạo-cũng xả bỏ đoạn kia mà không thành tựu phiền não của địa ấy. Như các dị sinh đã lìa nhiễm của vô sở hữu xứ mạng chúng sanh đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, họ ở cõi Dục cho đến Thức vô biên xứ, hoặc là đạo hay là đoạn, tuy đều xả bỏ mà không thành tựu phiền não của địa ấy. Ở đây cũng như vậy, cho nên không cần phải chất vấn.

Hỏi: Phiền não của địa dưới không dựa vào thân của địa trên có thể xả bỏ đạo-đoạn mà không thành tựu phiền não của địa dưới; phiền não của địa trên cũng dựa vào thân của địa dưới, lúc Học chuyển căn đã xả bỏ đạo-đoạn, tại sao không thành tựu rồi mà đoạn phiền não?

Đáp: Lìa từng phần nhiễm của phi tưởng phi phi tưởng xứ từ phẩm một cho đến phẩm tám rồi, mà chuyển căn lìa nhiễm của cõi ấy về sau khởi lên vô gián-giải thoát như kiến đạo, duy trì sự tương tục ấy không để cho trở lại lui sụt. Như phần vị dị sinh đã lìa nhiễm của vô sở hữu xứ tiến vào chánh tánh ly sinh, đạt được quả Bất hoàn rồi chắc chắn không lui sụt mà dấy khởi kiết đã đoạn trước kia; ở đây cũng như vậy, cho nên không cần phải chất vấn.

Hỏi: Lúc tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, dùng mấy đạo gia hạnh-mấy đạo vô gián-mấy đạo giải thoát mà chuyển căn?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Lúc ấy sử dụng một đạo gia hạnh-chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát mà chuyển căn.

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói này, bởi vì căn vô lậu của Học không phải là tu tập lâu dài mà dễ dàng có thể chuyển đổi. Nên đưa ra cách nói này: Lúc ấy chỉ dùng một đạo gia hạnh-một đạo vô gián-một đạo giải thoát mà chuyển căn, bởi vì như kiến đạo.

Hỏi: Lúc A-la-hán thời giải thoát chuyển căn làm bất động, dùng mấy đạo gia hạnh-mấy đạo vô gián-mấy đạo giải thoát mà chuyển căn?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Lúc ấy dùng một đạo gia hạnh-một đạo vô gián-một đạo giải thoát mà chuyển căn.

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói này, bởi vì căn vô học là tu tập lâu dài cho nên khó có thể xả bỏ. Vả lại, xả bỏ quả nặng lại đạt được quả nặng bởi vì dụng công nhiều, như lúc người ta phá bỏ nhà cửa xây dựng lại nhà cửa, sử dụng nhiều công sức chứ không phải như lúc bắt đầu xây dựng. Nên đưa ra cách nói này: Lúc ấy dùng một đạo gia hạnh-chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát mà chuyển căn, bởi vì như Tu đạo.

Hỏi: Lúc Tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, đạo gia hạnh… là hữu lậu hay là vô lậu?

Đáp: Lúc ấy đạo gia hạnh hoặc là hữu lậu-hoặc là vô lậu, pháp vị lai đã tu bao gồm hữu lậu và vô lậu; đạo vô gián ấy luôn luôn là vô lậu, pháp vị lai đã tu cũng chỉ là vô lậu; đạo giải thoát ấy luôn luôn là vô lậu, pháp vị lai đã tu thì có người nói như vậy: Cũng chỉ là vô lậu. Lại có người nói: Lúc bấy giờ gồm tu hữu lậu và vô lậu.

Hỏi: Lúc A-la-hán thời giải thoát chuyển căn làm Bất hoàn, đạo gia hạnh… là hữu lậu hay là vô lậu?

Đáp: Lúc ấy đạo gia hạnh hoặc là hữu lậu-hoặc là vô lậu, pháp tu của vị lai bao gồm hữu lậu và vô lậu; chín đạo vô gián-tám đạo giải thoát luôn luôn là vô lậu, pháp tu của vị lai cũng chỉ là vị lai; đạo giải thoát thứ chín luôn luôn là vô lậu, pháp tu của vị lai bao gồm hữu lậu và vô lậu, bởi vì vào lúc bấy giờ tùy theo sự thích hợp mà tu đầy đủ các căn thiện của ba cõi.

Hỏi: Lúc tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, đạo gia hạnh… là đã từng đạt được, hay là chưa từng đạt được? Đáp: Lúc ấy đạo gia hạnh hoặc là đã từng đạt được, hoặc là chưa từng đạt được; đạo vô lậu-giải thoát đều chỉ là chưa từng đạt được.

Hỏi: Lúc A-la-hán thời giải thoát chuyển căn làm bất động, đạo gia hạnh… là đã từng đạt được, hay là chưa từng đạt được?

Đáp: Lúc ấy đạo gia hạnh hoặc là đã từng đạt được, hoặc là chưa từng đạt được; chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát chỉ là chưa từng đạt được.

Lúc tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, đạo gia hạnh-vô gián là đạo của tín thắng giải thâu nhiếp, đạo giải thoát là đạo của kiến chí thâu nhiếp. Lúc A-la-hán thời giải thoát chuyển căn làm bất động, đạo gia hạnh-chín đạo vô gián-tám đạo giải thoát là đạo của thời giải thoát thâu nhiếp, đạo giải thoát thứ chín là đạo của bất thời giải thoát thâu nhiếp. Lúc tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, nếu trú vào quả mà chuyển căn, thì lúc ấy đạo gia hạnh-vô gián-giải thoát đều là đạo của quả thâu nhiếp, nếu trú vào đạo của thắng quả mà chuyển căn, thì lúc ấy đạo gia hạnh-vô gián là đạo của thắng quả thâu nhiếp, đạo giải thoát là đạo của quả thâu nhiếp. Lúc A-la-hán thời giải thoát chuyển căn làm bất động, lúc ấy đạo gia hạnh-vô gián-giải thoát đều là đạo của quả thâu nhiếp, bởi vì lúc ấy không có đọa của thắng quả. Lúc tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, nếu trú vào quả mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ đạo của quả mà đạt được đạo của quả; nếu trú vào đạo của thắng quả mà chuyển căn, thì lúc ấy xả bỏ đạo của quả và đạo của thắng quả, chỉ đạt được đạo của quả. Lúc A-la-hán thời giải thoát chuyển căn làm bất động, chỉ xả bỏ đạo của quả đạt được đạo của quả, bởi vì phần vị vô học không có đạo của thắng quả.

A-la-hán có sáu loại, đó là thoái pháp-Tư pháp-Hộ pháp-An trú pháp-Kham đạt pháp-bất động pháp. Lúc A-la-hán thoái pháp chuyển căn là tư pháp, lúc ấy xả bỏ căn thoái pháp đạt được căn tư pháp. Lúc A-la-hán tư pháp chuyển căn làm hộ pháp, lúc ấy xả bỏ căn tư pháp đạt được căn hộ pháp. Lúc A-la-hán hộ pháp chuyển căn làm an trú pháp, lúc ấy xả bỏ căn Hộ pháp đạt được căn An trú pháp. Lúc A-la-hán an trú pháp chuyển căn làm kham đạt pháp, lúc ấy xả bỏ căn an trú pháp đạt được căn kham đạt pháp. Lúc A-la-hán kham đạt pháp chuyển căn làm bất động, lúc ấy xả bỏ căn kham đạt pháp đạt được căn bất động pháp. Năm phần vị như vậy, mỗi một phần vị đều dùng một đạo gia hạnh-chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát mà được chuyển căn, lúc ấy đạo gia hạnh-chín đạo vô gián tám đạo giải thoát phát khởi thì có đạt được chứ không có xả bỏ, lúc đạo giải thoát chứ chín phát khởi thì có đạt được-có xả bỏ, nghĩa là xả bỏ các căn như thoái pháp… đạt được các căn như Tư pháp… Đạo gia hạnh-vô gián-giải thoát ở bốn phần vị trước, và đạo gia hạnh-vô gián-tám đạo giải thoát của phần vị thứ năm, đều là đạo của thời giải thoát thâu nhiếp, đạo giải thoát thứ chín là đạo của bất thời giải thoát thâu nhiếp.

Như đạo vô học có sáu chủng tánh, Tu đạo cũng có sáu chủng tánh này, đó là chủng tánh thoái pháp của Học cho đến chủng tánh bất động pháp của Học.

Hỏi: Lúc tín thắng giải chuyển căn làm kiến chí, nếu trú vào chủng tánh thoái pháp, thì bởi vì chuyển căn của chủng tánh thoái pháp liền đạt được căn của chủng tánh bất động pháp, hay là chuyển căn của chủng tánh thoái pháp chỉ đạt được căn của chủng tánh tư pháp? Dần dần thắng tiến đến cuối cùng mới đạt được căn của chủng tánh bất động pháp? Cho đến nếu trú vào chủng tánh an trú pháp, thì bởi vì chuyển căn của chủng tánh an trú pháp liền đạt được căn của chủng tánh bất động pháp, hay là chuyển căn của chủng tánh an trú pháp chỉ đạt được căn của chủng tánh kham đạt pháp? Tiếp tục chuyển căn của chủng tánh kham đạt pháp mới đạt được căn của chủng tánh bất động pháp chăng?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Nếu trú vào chủng tánh thoái pháp, chuyển căn của chủng tánh thoái pháp thì đạt được căn của chủng tánh bất động pháp, chứ không do dần dần thắng tiến mới đạt được; cho đến nếu trú vào chủng tánh an trú pháp, chuyển căn của chủng tánh an trú pháp thì đạt được căn của chủng tánh bất động pháp, chứ không do dần dần thắng tiến mới đạt được. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì phần vị học chuyển căn khác với phần vị vô học; nghĩa là phần vị vô học khó xả bỏ-khó đạt được, cần phải dụng công nhiều dần dần mới thành tựu; phần vị học thì không như vậy, cho nên lập tức chuyển được.

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói này, xả bỏ-đạt được và khó-dễ chỉ do vô gián-giải thoát nhiều hay ít, chứ không do dần dần hay lập tức mà có sai biệt. Nên đưa ra cách nói này: Nếu trú vào chủng tánh thoái pháp, chuyển căn của chủng tánh thoái pháp thì chỉ đạt được căn của chủng tánh tư pháp, dần dần thắng tiến mới đến bất động, cho đến nếu trú vào chủng tánh an trú pháp, chuyển căn của chủng tánh an trú pháp thì chỉ đạt được căn chủng tánh kham đạt pháp, tiếp tục chuyển căn của chủng tánh kham đạt pháp mới đạt được căn của chủng tánh bất động pháp. Năm phần vị như vậy, mỗi một phần vị đều dùng một đạo gia hạnh-một đạo vô gián-một đạo giải thoát mà được chuyển căn, lúc ấy đạo gia hạnh-vô gián phát khởi thì có đạt được chứ không xó xả bỏ; lúc đạo giải thoát phát khởi thì có đạt được-có xả bỏ, nghĩa là xả bỏ căn của các chủng tánh thoái pháp… đạt được căn của các chủng tánh tư pháp… Đạo gia hạnh-vô gián-giải thoát của bốn phần vị trước, và đạo gia hạnh-vô gián của phần vị thứ năm đều là đạo của tín thắng giải thâu nhiếp đạo giải thoát của phần vị thứ năm là đạo của kiến chí thâu nhiếp.

Như phần vị tu đạo có sáu chủng tánh, phần vị kiến đạo cũng có sáu chủng tánh này, đó là chủng tánh thoái pháp của học cho đến chủng tánh bất động pháp của học. Nhưng mà phần vị kiến đạo không có chuyển căn. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì kiến đạo nhanh chóng không khởi lên ý lạc cùng một lúc, dấy khởi nối tiếp nhau cần phải đến tu đạo mới có dấy khởi thêm giam hạnh khác.

Như phần vị kiến đạo có sáu chủng tánh, địa tương ưng hành cũng có sáu chủng tánh này, đó là chủng tánh Thoái pháp tương ưng hành, cho đến chủng tánh bất động pháp tương ưng hành. Trong địa này có sáu chủng tánh, đó là Noãn-Đảnh-Nhẫn-Thế đệ nhất pháp bởi vì đây là gia hạnh gần của Thánh đạo, hành tương ưng duyên với đế tựa như Thánh đạo, dựa vào thân và định giống như kiến đạo. Phần vị trước thì không như vậy, cho nên không thiết lập sáu chủng tánh. Địa tương ưng hành này cũng có nghĩa của chuyển căn, đó là chuyển căn của chủng tánh Noãn Thoái pháp phát khởi căn của chủng tánh Noãn Tư Pháp, chuyển căn của chủng tánh Noãn Tư phát khởi căn của chủng tánh Noãn Hộ pháp, chuyển căn của chủng tánh Noãn hộ pháp phát khởi căn của chủng tánh Noãn An trú pháp, chuyển căn của chủng tánh Noãn An trú phát khởi căn của chủng tánh Noãn Kham đạt phát, chuyển căn của chủng tánh Noãn khảm đạt pháp phát khởi căn của chủng tánh Noãn bất động pháp, chuyển căn của chủng tánh Noãn Thanh văn phát khởi căn của chủng tánh Noãn Độc giác, chuyển căn của chủng tánh Noãn Thanh văn-Độc giác phát khởi căn của chủng tánh Noãn Phật. Như nói về phần vị Noãn, phần vị Đảnh cũng như vậy.

Phần vị Nhẫn có khác, đó là chuyển căn của chủng tánh nhẫn thoái pháp phát khởi căn của chủng tánh nhẫn tư pháp, dần dần cho đến chuyển căn của chủng tánh nhẫn kham đạt pháp phát khởi căn của tánh nhẫn bất động pháp, chuyển căn của chủng tánh nhẫn Thanh văn phát khởi căn của chủng tánh nhẫn Độc giác, không có nghĩa chuyển căn của chủng tánh nhẫn Thanh văn-Độc giác phát khởi căn của chủng tánh nhẫn Phật. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Nhẫn trái với nẽo ác, những người đạt được tánh nhẫn đối với các nẽo ác đạt được phi trạch diệt, bt có lúc nhờ vào đại nguyện lực sinh đến các nẽo các làm lợi ích cho hữu tình, phần vị nhẫn của nhị thừa không có lý hướng về Phật thừa.

Có sư khác nói: Phần vị Noãn-Đảnh của Thanh văn có nghĩa của chuyển căn hướng về Độc giác và Phật, phần vị Noãn-Đảnh của độc giác không có nghĩa của chuyển căn hướng về Phật. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì như Phật giác ngộ tự nhiên không có Sư chỉ dẫn Độc giác cũng như vậy, như Phật mong nỏi chuyên tâm một lần ngồi kiết già mà dẫn phát tất cả tụ công đức thiện, từ quan bất tịnh cho đến phát khởi tận trí-vô sinh trí, trong thời gian ấy nối tiếp nhau không dấy khởi tâm khác, Độc giác cũng như vậy.

Lời bình: Vị ấy không nên đưa ra cách nói này, bởi vì trong phần vị Noãn-Đảnh của Độc giác Dụ có thể không có nghĩa hướng về Phật, trong phần vị Noãn-Đảnh của Độc giác bộ hành dụ chuyển căn hướng về Phật thừa thì không trái với lý, vì vậy cách nói trước đối với lý là thích hợp.

Hỏi: Những người chuyển căn trong địa tương ưng hành, là có đạo vô gián-giải thoát hay không?

Đáp: Có người nói cũng có, nghĩa là lúc chuyển các chủng tánh như Thoái pháp … phát khởi các chủng tánh như Tư pháp…, mỗi một phần vị có riêng một đạo gia hạnh chín đạo vô gián-chín đạo giải thoát, bởi vì chủng tánh hữu lậu tu tập đã lâu khó mà xả bỏ đạt được như chuyển căn vô lậu của phần vị vô học.

Có Sư khác nói: Mỗi một phần vị chỉ có một đạo gia hạnh-một đạo vô gián-một đạo giải thoát, tu tập Noãn-Đảnh… không phải là lâu xa cho nên dễ xả bỏ-dễ đạt được, như chuyển căn vô lậu của phần vị hữu học.

Lại có người nói: Những người chuyển căn trong địa tương ưng, chỉ phát khởi gia hạnh thường xuyên tu tập, chán ngán pháp yếu kémvui cầu pháp mạnh hơn, cho đến chuyển được chủng tánh của phần vị hơn hẳn, không có đạo vô gián và đạo giải thoát, bởi vì lúc đạt được pháp mạnh hơn mà không xả bỏ pháp yếu kém, không giống như phần vị bậc Thánh. Những người chuyển căn không có chủng tánh thành tựu hai phẩm vô lậu, lúc đạt được phẩm mạnh hơn thì chắc chắn xả bỏ phẩm yếu kém, cho nên cần phải có đạo vô gián và đạo giải thoát.

Lời bình: Những người chuyển căn trong địa tương ưng, tuy không xả bỏ căn phẩm yếu kém-đạt được căn phẩm mạnh hơn, mà lúc đạt được chủng tánh mạnh hơn thì chủng tánh thuộc phẩm yếu kém không hiện hành, cho nên cũng gọi là xả bỏ. Vì vậy, lúc chuyển chủng tánh thoái pháp… phát khởi chủng tánh tư pháp…, dùng nhiều gia hạnh dẫn dắt một đạo vô gián-một đạo giải thoát mà được chuyển căn cũng không trái với lý.

Tu tập Noãn-Đảnh… không phải là lâu xa, cho nên gia hạnh hữu lậu khó thành tựu nếu chuyển hướng về thừa khác không có vô giángiải thoát thì trải qua thời gian lâu xa mới thành tựu. Phần vị thế đế nhất pháp tuy có sáu chủng tánh nhưng không chuyển căn, bởi vì chỉ một sát-na. phần vị của quả Dự lưu trước đây cũng có sáu chủng tánh đã có chuyển căn thì cũng có lui sụt.

Cho nên có người đối với điều ấy đưa ra hỏi-đáp rằng: “Có thể có lui sụt quả Dự lưu mà không thành tựu kiết do kiến mà đoạn chăng?

Đáp: Có, đó là lúc lui sụt chủng tánh thù thắng”.

Những người tử-sinh ở cõi Dục đều tiếp nhận Dục hữu chăng?

Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Vì ngăn chặn tông chỉ của người khác để hiển bày chánh lý. Nghĩa là hoặc có người nói: Tử-sinh ở ba cõi đều không có Trung hữu. Vì ngăn chặn tông chỉ ấy để hiển bày cõi Dục-sắc chắc chắn có Trung hữu, cõi vô sắc thì không có. Hoặc lại có người nói: Trong cõi vô sắc cũng có Sắc cho nên cũng có trung hữu giống như cõi Dục-sắc. Vì ngăn chặn tông chỉ ấy để hiển bày cõi vô sắc không có các sắc, cho nên cũng không có Trung hữu. Hoặc lại có người nói: Trong cõi Dục-sắc, nghiệp mạnh mẽ sắc bén thì không có Trung hữu, nghiệp chậm chạp nặng nề thì có Trung hữu. Vì ngăn chặn tông chỉ ấy để hiển bày cõi Dục-sắc đều có trung hữu, cho nên soạn ra phần luận này.

Đã nói đến âm hữu là hiển bày nhiều loại nghĩa, phần luận về Nhất hành đã nói rộng về điều đó. Trong này, âm hữu là hiển bày số lượng của năm uẩn thuộc về chúng đồng phần Hữu tình.

Hỏi: Những người ở cõi Dục tử-sinh đều tiếp nhận Dục hữu chăng?

Đáp: Nên đưa ra bốn câu phân biệt, bởi vì ở cõi Dục tử-sinh và tiếp nhận Dục hữu đều có rộng hẹp:

1. Có lúc ở cõi Dục tử-sinh mà không phải là tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là ở cõi Dục mất đi khởi lên Trung hữu ở cõi Sắc. Đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả, Trung hữu của cõi sắc khởi lên ở cõi Dục. nguyên cớ thế nào? Bởi vì pháp thuận theo như vậy, nếu uẩn tử hữu ở nơi này diệt đi, thì uẩn Trung hữu ở nơi này sinh ra, như nơi hạt giống diệt đi thì có mầm non sinh ra, pháp vốn thuận theo như vậy. Trong này, tử ở cõi Dục, nghĩa là Tử hữu của cõi Dục diệt đi ở cõi Dục; sinh ở cõi Dục, nghĩa là Trung hữu của cõi Sắc khởi lên ở cõi Dục; không phải là tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là tiếp nhận Sắc hữu, tức là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi sắc.

2. Có lúc tiếp nhận Dục hữu mà không phải là tử-sinh ở cõi Dục, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi khởi lên Trung hữu ở cõi Dục. đây là chỉ có dị sinh, Trung hữu của cõi Dục khởi lên ở cõi Sắc. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì pháp thuận theo như vậy, nói rộng ra như trước. Trong này tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi Dục; không phải là tử ở cõi Dục, nghĩa là tử hữu của cõi Sắc diệt đi ở cõi Sắc; không phải là sinh ở cõi Dục, nghĩa là Trung hữu của cõi Dục khởi lên ở cõi Sắc.

3. Có lúc tử sinh ở cõi Dục cũng tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là ở cõi Dục mất đi khởi lên Trung hữu-Sinh hữu ở cõi Dục. đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả, dị sinh đều có thể thọ sinh ở năm nẻo, Thánh giả chỉ có nghĩa thọ sinh ở nẽo người-trời. Trong này nếu lúc tử hữu hướng đến Trung hữu, tử ở cõi Dục nghĩa là Tử hữu của cõi Dục diệt đi ở cõi Dục, sinh ở cõi Dục nghĩa là Trung hữu của cõi Dục khởi lên ở cõi Dục; tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi Dục. Nếu lúc từ Trung hữu hướng đến sinh hữu, tử ở cõi Dục nghĩa là Trung hữu của cõi Dục diệt đi ở cõi Dục; sinh ở cõi Dục nghĩa là sinh hữu của cõi Dục khởi lên cõi Dục, tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là tiếp nhận các uẩn sinh của cõi Dục.

4. Có lúc không phải là tử-sinh ở cõi Dục cũng không phải là tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi rồi sinh ở cõi Sắc-vô sắc, ở cõi vô sắc mất đi rồi sinh ở cõi vô sắc-sắc. Ở cõi sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, nghĩa là Trung hữu của sinh và sinh hữu của sinh, đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả. Trong này, nếu lúc từ tử hữu hướng đến Trung hữu mà không phải là tử ở cõi Dục, nghĩa là Tử hữu của cõi Sắc diệt đi ở cõi Sắc, không phải là sinh ở cõi Dục, nghĩa là Trung hữu của cõi Sắc khởi lên ở cõi Sắc; không phải là tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là tiếp nhận sắc hữu, tức là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi Sắc. Nếu lúc từ Trung hữu hướng đến sinh hữu thì không phải là từ ở cõi Dục, nghĩa là Trung hữu của cõi Sắc diệt đi ở cõi Sắc; không phải là sinh ở cõi Dục, nghĩa là sinh hữu của cõi Sắc khởi lên ở cõi Sắc; không phải là tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là tiếp nhận sắc hữu, tức là tiếp nhận các uẩn sinh hữu của cõi Sắc. Ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, nghĩa là Sinh hữu của sinh, bởi vì cõi vô sắc không có Trung hữu. Đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả. Trong này, không phải là tử ở cõi Dục, nghĩa là Tử hữu của cõi Sắc diệt đi ở cõi Sắc; không phải là sinh ở cõi Dục, đó là sinh hữu của cõi vô sắc khởi lên ở cõi vô sắc, không phải là tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là tiếp nhận vô sắc hữu, tức là tiếp nhận các uẩn sinh hữu của cõi vô sắc. Ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc , nghĩa là sinh hữu của sinh. Đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả. Trong này không phải là tử ở cõi Dục, nghĩa là Tử hữu của cõi vô sắc diệt đi ở cõi vô sắc; không phải là sinh ở cõi Dục, nghĩa là Sinh hữu của cõi vô sắc khởi lên ở cõi vô sắc; không phải tiếp nhận Dục hữu, nghĩa là tiếp nhận vô sắc hữu, tức là tiếp nhận các uẩn sinh hữu của cõi vô sắc. Ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi sắc, nghĩa là Trung hữu của sinh, ở đây chỉ có dị sinh. Trong này, không phải là tử ở cõi Dục, nghĩa là tử hữu của cõi vô sắc diệt đi ở cõi vô sắc, không phải là sinh ở cõi Dục, nghĩa là Trung hữu của cõi Sắc khởi lên ở cõi sắc, không phải là tiếp nhận dục hữu, nghĩa là tiếp nhận sắc hữu, tức là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi sắc.

Hỏi: Những người tử-sinh ở cõi Sắc đều tiếp nhận sắc hữu chăng?

Đáp: Nên đưa ra bốn câu phân biệt, bởi vì tử-sinh ở cõi Sắc và tiếp nhận sắc hữu đều có rộng-hẹp:

1. Có lúc tử-sinh ở cõi Sắc mà không phải là tiếp nhận sắc hữu, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi khởi lên Trung hữu của cõi Dục, đây là chỉ riêng dị sinh, Trung hữu của cõi Dục khởi lên ở cõi Sắc. Trong này tử ở cõi Sắc, nghĩa là tử hữu của cõi Sắc diệt đi ở cõi Sắc; sinh ở cõi Sắc, nghĩa là Trung hữu của cõi Dục khởi lên ở cõi Sắc; không phải là tiếp nhận sắc hữu nghĩa là tiếp nhận Dục hữu, tức là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi Dục.

2. Có lúc tiếp nhận sắc hữu mà không phải là tử-sinh ở cõi Sắc, nghĩa là ở cõi Dục mất đi khởi lên Trung hữu của cõi Sắc, đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả, Trung hữu của cõi Sắc khởi lên ở cõi Dục. Trong này, tiếp nhận sắc hữu, nghĩa là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi Sắc, không phải là tử ở cõi Sắc, nghĩa là tử hữu của cõi Dục diệt đi cõi Dục; không phải là sinh ở cõi Sắc, nghĩa là Trung hữu của cõi Sắc khởi lên ở cõi Dục.

3. Có lúc tử sinh ở cõi Sắc cũng tiếp nhận sắc hữu, nghĩa là ở cõi Sắc mất đi khởi lên Trung hữu-sinh hữu của cõi Sắc. Đây là bao gồm dị sinh và Thánh giả, dị sinh lên trên cũng sinh xuống dưới ở mỗi một nơi có thể tiếp nhận nhiều lần sinh, Thánh giả sinh lên trên chứ không sinh xuống dưới, ở mỗi một nơi chỉ tiếp nhận một lần sinh. Trong này nếu lúc từ tử hữu hướng đến Trung hữu, thì tử ở cõi sắc, nghĩa là tử hữu của cõi Sắc diệt đi ở cõi Sắc, sinh ở cõi Sắc, nghĩa là Trung hữu của cõi Sắc khởi lên ở cõi Sắc; tiếp nhận sắc hữu, nghĩa là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi Sắc. Nếu lúc từ Trung hữu hướng đến sinh hữu, thì tử ở cõi Sắc, nghĩa là Trung hữu của cõi Sắc diệt đi ở cõi sắc; sinh ở cõi Sắc, nghĩa là sinh hữu của cõi Sắc khởi lên ở cõi Sắc; tiếp nhận sắc hữu, nghĩa là tiếp nhận các uẩn sinh hữu của cõi Sắc.

4. Có lúc không phải là tử-sinh ở cõi Sắc cũng không phải là tiếp nhận sắc hữu, nghĩa là ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục-cõi vô sắc, ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc-cõi Dục. Ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục, nghĩa là Trung hữu của sinh và sinh hữu của sinh, đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả. Trong này, nếu lúc tử hữu hướng đến Trung hữu, thì không phải là tử ở cõi Sắc, nghĩa là tử hữu của cõi Dục diệt đi ở cõi Dục; không phải là sinh ở cõi Sắc, nghĩa là Trung hữu của cõi Dục khởi lên ở cõi Dục; không phải là tiếp nhận sắc hữu, nghĩa là tiếp nhận dục hữu tức là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi Dục. nếu lúc từ Trung hữu hướng đến sinh hữu thì không phải là tử ở cõi Sắc, nghĩa là Trung hữu của cõi Dục diệt đi ở cõi Dục; không phải là sinh ở cõi Sắc, nghĩa là sinh hữu của cõi Dục khởi lên ở cõi Dục; không phải là tiếp nhận sắc hữu nghĩa là tiếp nhận dục hữu, tức là tiếp nhận các uẩn sinh hữu của cõi Dục. Ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi vô sắc, nghĩa là sinh hữu của sinh, đây là bao gồm dị sinh và Thánh giả. Trong này, không phải là tử ở cõi Sắc, nghĩa là tử hữu của cõi Dục diệt đi ở cõi Dục; không phải là sinh ở cõi Sắc, nghĩa là sinh hữu của cõi Sắc khởi lên ở cõi vô sắc; không phải là tiếp nhận Sắc hữu, nghĩa là tiếp nhận các uẩn sinh hữu của cõi vô sắc. Ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, nghĩa là sinh hữu của sinh, đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả. Trong này, không phải là tử ở cõi Sắc, nghĩa là tử hữu của cõi vô sắc diệt đi ở cõi vô sắc; không phải là sinh ở cõi Sắc, nghĩa là sinh hữu của cõi vô sắc khởi lên ở cõi vô sắc; không phải là tiếp nhận Sắc hữu , nghĩa là tiếp nhận vô sắc hữu, tức là tiếp nhận các uẩn sinh hữu của cõi vô sắc. Ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục, nghĩa là Trung hữu của sinh, ở đây chỉ riêng dị sinh. Trong này, không phải là tử ở cõi Sắc, nghĩa là tử hữu của cõi vô sắc diệt đi ở cõi vô sắc; không phải là sinh ở cõi Sắc, đó là Trung hữu của cõi Dục khởi lên ở cõi Dục; không phải là tiếp nhận Sắc hữu, nghĩa là tiếp nhận Dục hữu, tức là tiếp nhận các uẩn Trung hữu của cõi Dục.

Hỏi: Những người tử-sinh ở cõi vô sắc đều tiếp nhận vô sắc hữu chăng?

Đáp: Những người tử sinh ở cõi vô sắc đều tiếp nhận vô sắc hữu, nghĩa là cõi vô sắc không có các sắc không có nghĩa của Trung hữu cõi dưới khởi lên ở cõi ấy, cho nên không có thể nói là tử sinh ở cõi ấy không tiếp nhận hữu của cõi ấy. Đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả; dị sinh sinh lên trên cũng sinh xuống dưới, mỗi một nơi có thể tiếp nhận nhiều lần sinh Thánh giả sinh lên trên chứ không sinh xuống dưới, mỗi một nơi chỉ tiếp nhận một lần sinh. Tiếp nhận vô sắc hữu chứ không phải là tử ở cõi vô sắc mà sinh ở cõi vô sắc, nghĩa là ở cõi Dục-sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, chỉ có sinh hữu của sinh đây là bao gồm dị sinh và các Thánh giả. Trong này, tiếp nhận vô sắc hữu, nghĩa là tiếp nhận các uẩn sinh hữu của cõi vô sắc; không phải là tử ở cõi vô sắc, nghĩa là tử hữu của cõi Dục-sắc diệt đi ở cõi dục-sắc, mà sinh ở cõi vô sắc, nghĩa là sinh hữu của cõi vô sắc khởi lên ở cõi vô sắc.

Hỏi: Những người tử-sinh ở cõi Dục có mấy loại?

Đáp: Bốn, đó là dị sinh và Thánh giả hai cõi Dục-sắc. Trong này, dị sinh Thánh giả cõi Dục bao gồm Trung hữu-sinh hữu; dị sinh-Thánh giả cõi Sắc chỉ có Trung hữu, bởi vì sinh hữu không khởi lên ở cõi Dục. Ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi vô sắc, sinh hữu của cõi vô sắc không thuộc về nơi Tử hữu của cõi Dục, cho nên ở đây chỉ có bốn; không có thể nói là sáu, bởi vì sinh ở cõi vô sắc không dựa vào sắc xứ, cho nên không có thể nói là khởi lên ở cõi Dục.

Hỏi: Những người tử-sinh ở cõi Sắc có mấy loại?

Đáp: Ba, đó là dị sinh cõi Dục, dị sinh-Thánh giả cõi Sắc. Trong này, dị sinh cõi Dục chỉ có Trung hữu, dị sinh-Thánh giả cõi Sắc bao gồm Trung hữu và sinh hữu. Ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, sinh hữu của cõi vô sắc không dựa vào sắc cho nên không thể nói là nó khởi lên cõi Sắc, vì vậy ở đây chỉ có ba, không có thể nói là năm.

Hỏi: Những người tử-sinh ở cõi vô sắc có mấy loại?

Đáp: Hai, đó là dị sinh và Thánh giả cõi vô sắc, bởi vì Trung hữu chắc chắn dựa vào sắc xứ khởi lên. Ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục-sắc thì Trung hữu không khởi lên ở cõi vô sắc, cho nên ở đây chỉ có hai chứ không có thể nói là bốn.

Hỏi: Những người không phải là tử-sinh ở cõi Dục đều không phải là tiếp nhận dục hữu chăng?

Đáp: Nên đưa ra bốn câu phân biệt, cho đến nói rộng ra. Nghĩa là trong bốn câu phân biệt về cõi Dục trước đây, thì câu thứ nhất làm câu thứ hai ở đây, câu thứ hai làm câu thứ nhất ở đây, câu thứ ba làm câu thứ tư ở đây, câu thứ tư làm câu thứ ba ở đây. Các nghĩa trong này như trước nên biết.

Hỏi: Những người không phải là tử-sinh ở cõi Sắc đều không phải là tiếp nhận sắc hữu chăng?

Đáp: Nên đưa ra bốn câu phân biệt, cho đến nói rộng ra, nghĩa là trong bốn câu phân biệt về cõi Sắc trước đây, thì câu thứ nhất làm câu thứ hai ở đây, câu thứ hai làm câu thứ nhất ở đây, câu thứ ba làm câu thứ tư ở đây, câu thứ tư làm câu thứ ba ở đây. Các nghĩa trong này như trước nên biết.

Hỏi: Những người không phải là tử-sinh ở cõi vô sắc đều không phải là tiếp nhận vô sắc hữu chăng?

Đáp: Những người không phải là tử-sinh ở cõi vô sắc đều không phải là tiếp nhận vô sắc hữu, nghĩa là tiếp nhận vô sắc hữu thì chắc chắn sinh ở cõi vô sắc có lúc không phải là tiếp nhận vô sắc hữu, không phải là không tử ở cõi vô sắc mà không phải là sinh ở cõi vô sắc, nghĩa là ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục-sắc, ở đây chỉ rei6ng dị sinh, Ở cõi vô sắc mất đi sinh vào các uẩn Trung hữu của cõi Dục-sắc. Trong này, không phải là tiếp nhận vô sắc hữu, nghĩa là tiếp nhận Dục hữu và Sắc hữu, không phải là không tử ở cõi vô sắc, nghĩa là tử ở cõi vô sắc, mà không phải là sinh ở cõi vô sắc, nghĩa là sinh ở cõi Dục-sắc.

Hỏi: Những người không phải là tử-sinh ở cõi Dục có mấy loại?

Đáp: Năm, đó là dị sinh cõi Dục, dị sinh và Thánh giả cõi Sắc-vô sắc.

Hỏi: Ở đây phải có tám vì sao nói là năm? Đó là dị sinh Thánh giả ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, dị sinh-Thánh giả ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Dục, dị sinhThánh giả ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, dị sinh ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Sắc. Như vậy có tám sao nói là năm?

Đáp: Chủng loại giống nhau cho nên chỉ nói có năm, nghĩa là dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, và dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại dị sinh cõi Sắc cho nên hợp lại nói là một; dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, và dị sinh ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại dị sinh cõi vô sắc cho nên hợp lại nói là một; Thánh giả ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc , và Thánh giả ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại Thánh giả cõi vô sắc cho nên hợp lại nói là một; còn lại có dị sinh cõi Dục-Thánh giả cõi Sắc đều là một cho nên đủ số trước là năm.

Hỏi: Những người không phải là tử-sinh ở cõi Sắc có mấy loại?

Đáp: Sáu, đó là dị sinh-Thánh giả ở ba cõi.

Hỏi: Ở đây phải có chín tại sao nói là sáu? Đó là dị sinh và Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục, dị sinh và Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, dị sinh và Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi vô sắc, dị sinh và Thánh giả ở cỏi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, Dị sinh ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục. như vậy có chín sao nói là sáu?

Đáp: Vì chủng loại giống nhau cho nên chỉ nói là có sáu, đó là Dị sinh ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục, và Dị sinh ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại Dị sinh cõi Dục cho nên hợp lại nói là một; Dị sinh ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi vô sắc, và Dị sinh ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại Dị sinh cõi vô sắc cho nên hợp lại nói là một; Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi vô sắc, và Thánh giả ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại Thánh giả cõi vô sắc cho nên hợp lại nói là một, còn lại có Thánh giả cõi Dục-Dị sinh và Thánh giả cõi Sắc đều là một, cho nên đủ số trước là sáu.

Hỏi: Những người không phải là tử-sinh ở cõi vô sắc có mấy loại?

Đáp: Bốn, đó là Dị sinh và Thánh giả cõi Dục-sắc.

Hỏi: Ở đây phải có bảy tại sao nói là bốn? Đó là Dị sinh-Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục, Dị sinh-Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, Dị sinh-Thánh giả ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, Dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Dục. như vậy có bảy sao nói là bốn?

Đáp: Vì chủng loại giống nhau cho nên chỉ nói là có bốn, đó là Dị sinh ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục, và Dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Dục hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại Dị sinh cõi

Dục cho nên hợp lại nói là một, Dị sinh ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, và Dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại Dị sinh cõi Sắc cho nên hợp lại nói là một; Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, và Thánh giả ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại Thánh giả cõi Sắc cho nên hợp lại nói là một; còn lại có Thánh giả cõi Dục đủ số trước là bốn.

Có thể có người tử ở cõi Dục-không sinh vào cõi Dục chăng? Cho đến nói rộng ra.

Trong này đã nói cùng với trước khác nhau, nghĩa là ngăn chặn sinh hữu cho nên nói là không sinh, giả sử khởi lên Trung hữu cũng nói là không sinh.

Hỏi: Có thể có tử ở cõi Dục-không sinh vào cõi Dục chăng?

Đáp: Có, đó là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-sắc sinh vào cõi vô sắc, hoặc là nhập Niết-bàn. Khởi lên Trung hữu của cõi Dục-sắc, nghĩa là ở cõi Dục mất đi khởi lên Trung hữu của cõi Dục-sắc, tuy khởi lên ở cõi Dục mà không phải là sinh hữu cho nên nói là không sinh vào cõi Dục. sinh vào cõi vô sắc, nghĩa là ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi vô sắc, sinh hữu lúc ấy không còn ở cõi Dục cho nên nói là không sinh vào cõi Dục. nhập Niết-bàn nghĩa là ở cõi Dục mất đi-các lậu không còn liền nhập Niết-bàn, vĩnh viễn không sinh cho nên nói là không sinh vào cõi Dục. văn còn lại giải thích rộng dựa theo trước nên biết.

Hỏi: Người ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục-sắc, hai Trung hữu ấy ở nơi vào hiện rõ trước mặt?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Ở Tĩnh lự thứ tư.

Lời bình: Người ấy không nên đưa ra cách nói này. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu cõi vô sắc có phương xứ thì có thể đưa ra cách nói này, nhưng cõi vô sắc không có phương xứ, duyên vào đâu mà xa đến Tĩnh lự thứ tư?

Có Sư khác nói: Nếu từ nơi ấy mất đi sinh vào cõi vô sắc thì Trung hữu hiện rõ trước mắt ở phương xứ ấy.

Vị ấy cũng không nên đưa ra cách nói như vậy. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu đưa ra cách nói này: Từ cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc. Điều ấy vì sao có thể như vậy? Nên đưa ra cách nói này: Nếu ở cõi Dục-sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, và ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi vô sắc, thì lúc ấy ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục-sắc, hai Trung hữu ấy ngay nơi đang sinh mà hiện rõ trước mắt.

Hỏi: Những người tử ở cõi Dục không sinh vào cõi Dục có mấy loại?

Đáp: Sáu, đó là dị sinh và Thánh giả của ba cõi, cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Tại sao không nói đến nhập Niết-bàn?

Đáp: Cần phải nói mà không nói đến thì nên biết là nghĩa là này có khác. Lại nữa, trong này nói đến người tử lại thọ sinh, người nhập Niết-bàn tử rồi không sinh cho nên ở đây không nói. Lại nữa, trong phần luận này dựa vào các Hữu tình Bổ-đặc-già-la mà đưa ra hỏi-Đáp; người nhập Niết-bàn xả bỏ số Hữu tình mà thuộc về số pháp, không có thể thi thiết Bổ-đặc-già-la cho nên ở đây không nói. Phần sau theo như vậy nên biết.

Hỏi: Có thể có tử ở cõi Dục không sinh vào ba cõi chăng?

Đáp: Có, đó là khởi lên Trung hữu của cõi Dục-sắc, hoặc là nhập Niết-bàn, cho đến nói rộng ra. Trong này cũng ngăn chặn sinh hữu mà soạn luận, cho nên khởi lên Trung hữu và nhập Niết-bàn đều gọi là không sinh.

Hỏi: Những người tử ở cõi Dục không sinh vào ba cõi có mấy loại?

Đáp: Bốn, đó là Dị sinh và Thánh giả hai cõi Dục-sắc, tức là ở cõi Dục mất đi sinh vào trong Trung hữu của cõi Dục-sắc.

Hỏi: Những người tử ở cõi Sắc không sinh vào ba cõi có mấy loại?

Đáp: Ba, đó là Dị sinh cõi Dục và Dị sinh-Thánh giả cõi Sắc, tức là ở cõi Sắc mất đi sinh vào trong Trung hữu của cõi Dục-sắc.

Hỏi: Những người tử ở cõi vô sắc không sinh vào ba cõi có mấy loại?

Đáp: Hai, đó là Dị sinh cõi Dục-sắc, tức là ở cõi vô sắc mất đi sinh

vào trong Trung hữu của cõi Dục-sắc, Thánh giả không sinh vào địa của cõi dưới, cho nên chỉ nói đến Dị sinh.

Có thể có người chưa lìa nhiễm cõi Dục mạng chung không sinh vào cõi Dục chăng? Cho đến nói rộng ra.

Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?

Đáp: Vì ngăn chặn tông chỉ của người khác để hiển bày chánh lý. Nghĩa là hoặc có người nói chỉ điều phục phiền não cũng được sinh lên cõi trên. Như phái Thí dụ. Vì ngăn chặn ý đó để hiển bày điều phục phiền não không được sinh lên cõi trên, cần phải đoạn hết các phiền não của địa dưới mới được sinh lên phía trên, cho nên soạn ra phần luận này.

Luận giả phân biệt bác bỏ không có Trung hữu, đối với những câu hỏi như vậy sinh ra mê hoặc hết sức, nói là chưa lìa nhiễm của địa này mà mạng chung thì không sinh vào địa này và địa dưới. Nếu tin Trung hữu thì đối với những câu hỏi như vậy không sinh ra mê hoặc cho nên ngăn chặn sinh hữu.

Hỏi: Làm sao biết được chưa lìa nhiễm phía dưới thì không được sinh lên trên?

Đáp: Bởi vì phiền não của địa dưới chướng ngại đến các công đức của địa trên, cho nên chưa đạt được công đức căn bản của địa trên thì không sinh đến nơi ấy. Nếu chấp rằng chỉ điều phục phiền não của địa dưới được sinh lên trên thì những người dùng lực Văn-tư tuệ của cõi Dục để điều phục phiền não, lúc ấy sẽ không sinh vào chín địa của ba cõi, bởi vì lực của văn tư tuệ có năng lực điều phục phiền não của chín địa trong ba cõi khiến cho không dấy khởi, chứ không phải là lực của Tuệ điều phục các phiền não khiến cho không hiện hành, bởi vì văn tuệ thù thắng dùng Văn-Tuệ phân biệt các pháp để điều phục các phiền não hơn hẳn Tu tuệ.

Hỏi: Những người chưa lìa nhiễm cõi Dục, mạng chung không sinh vào cõi Dục thì có mấy loại?

Đáp: Hai, đó là dị sinh-Thánh giả trú trung hữu của cõi Dục.

Hỏi: Những người chưa lìa nhiễm cõi Sắc, mạng chung không sinh vào cõi Dục sắc thì có mấy loại?

Đáp: Bốn, đó là dị sinh và Thánh giả cõi Dục-sắc.

Hỏi: Ở đây phải có bảy tại sao nói là bốn? Đó là dị sinh-Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục, dị sinh-Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, dị sinh-Thánh giả ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, dị sinh ở cõi Sắc mất đi vào cõi Dục. như vậy có bảy thì lẽ nào nói là bốn?

Đáp: Vì chủng loại giống nhau cho nên chỉ nói có bốn, đó là dị sinh ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục, và dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Dục, hai loại này tùy khác mà cùng chủng loại dị sinh cõi Dục cho nên hợp lại nói là một; dị sinh ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, và dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại dị sinh cõi Sắc cho nên hợp lại nói là một; Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, và Thánh giả ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại Thánh giả cõi Sắc cho nên hợp lại nói là một; còn lại có Thánh giả cõi Dục thì đủ số trước là bốn.

Hỏi: Những người chưa lìa nhiễm cõi cõi Sắc, mạng chung không sinh vào ba cõi thì có mấy loại?

Đáp: Bốn, đó là dị sinh và Thánh giả cõi Dục-sắc.

Hỏi: Ở đây phải có chín tại sao nói là bốn? Đó là dị sinh-Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục, dị sinh-Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, dị sinh-Thánh giả ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, dị sinh ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Dục. như vậy có chín thì lẽ nào nói là bốn?

Đáp: vì chủng loại giống nhau cho nên chỉ nói có bốn, đó là Dị sinh ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Dục, và Dị sinh ở cõi Sắc-cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Dục, ba loại này tuy khác mà cùng chủng loại Dị sinh cõi Dục cho nên hợp lại nói là một; Dị sinh ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, và Dị sinh cõi Sắc-vô sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, ba loại này tuy khác mà cùng chủng loại Dị sinh cõi Sắc cho nên hợp lại nói là một; Thánh giả ở cõi Dục mất đi sinh vào cõi Sắc, và Thánh giả ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Sắc, hai loại này tuy khác mà cùng chủng loại Thánh giả cõi Sắc cho nên hợp lại nói là một, còn lại có Thánh giả cõi Dục thì đủ số trước là bốn. Trước đây nói về sinh đều nói là Trung hữu, dựa vào đó để ngăn chặn sinh hữu mà soạn luận.

******

 

Hỏi: Trong này, Dị sinh Thánh giả cõi Dục có mấy tùy miên tùy tăng, mấy kiết ràng buộc?

Đáp: Dị sinh có chín mươi tám tùy miên tùy tăng-chín kiết ràng buộc, Thánh giả có mười tùy miên tùy tăng-sáu kiết ràng buộc. Trong này thì có nghĩa là trước đây đã nói tất cả Hữu tình trong các Hữu tình, tổng quát chỉ có sáu loại, đó là ba cõi đều có Dị sinh và Thánh giả. Dị sinh ở cõi Dục có đủ chín mươi tám tùy miên tùy tăng-có đủ chín kiết ràng buộc; Thánh giả ở cõi Dục chỉ có mười tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn, bởi vì tùy miên do kiến mà đoạn đều đã đoạn, sáu kiết ràng buộc là trừ ra kiến-thủ-nghi bởi vì ba loại này Thánh giả cũng đã đoạn.

Hỏi: Dị sinh-Thánh giả cõi Sắc có mấy tùy miên tùy tăng, mấy kiết ràng buộc?

Đáp: Dị sinh có sáu mươi hai tùy miên tùy tăng-sáu kiết ràng buộc, Thánh giả có sáu tùy miên tùy tăng-ba kiết ràng buộc. Dị sinh có sáu mươi hai tùy miên tùy tăng, đó là cõi Sắc-vô sắc đều có ba mươi mốt loại, cõi Dục có ba mươi sáu loại thì lúc ấy đã đoạn, sáu kiết ràng buộc là trừ ra Nhuế-Tật-Khan, bởi vì cõi ấy chắc chắn không có những loại này, Thánh giả có sáu tùy miên tùy tăng, đó là cõi Sắc-vô sắc đều có ba tùy miên do tu mà đoạn, ở cõi ấy đã đoạn bốn tùy miên do tu mà đoạn của cõi Dục, ba kiết ràng buộc đó là ái mạn vô minh, bởi vì các kiết khác đã đoạn.

Hỏi: Dị sinh-Thánh giả cõi vô sắc có mấy tùy miên tùy tăng, mất kiết ràng buộc?

Đáp: Dị sinh có ba mươi mốt tùy miên tùy tăng-sáu kiết ràng buộc. Dị sinh có ba mươi mốt tùy miên tùy tăng, đó là ba mươi mốt loại của cõi vô sắc, bởi vì các loại khác đã đoạn, sáu kiết ràng buộc là trừ ra Nhuế-Tật-Khan, bởi vì cõi ấy không có. Thánh giả có ba tùy miên tùy tăng, đó là ba tùy miên do tu mà đoạn của cõi vô sắc, bởi vì các loại khác đã đoạn, ba kiết ràng buộc đó là Ái màn vô minh , bởi vì các loại khác đã đoạn.

Hỏi: Hữu tình cõi Dục không có tùy miên tùy tăng của hai cõi trên, vì sao ở đây nói Dị sinh cõi Dục có đủ chín mươi tám tùy miên tùy tăng, Thánh giả cõi Dục có mười tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn, Hữu tình cõi Sắc không có tùy miên tùy tăng của cõi vô sắc, vì sao ở đây nói Dị sinh cõi Sắc có sáu mươi hai tùy miên tùy tăng, Thánh giả cõi Sắc có sáu tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn?

Đáp: Dựa vào không giải thoát được tùy miên ấy mà nói, nghĩa là Dị sinh cõi Dục tùy không có tùy miên tùy tăng của cõi Sắc-vô sắc, mà chưa giải thoát được tùy miên ấy cho nên nói là tùy tăng, Thánh giả cõi Dục tuy không có tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn của cõi Sắc-vô sắc, mà chưa giải thoát tùy miên ấy cho nên nói là tùy tăng. Vì vậy, Dị sinh-Thánh giả cõi Sắc nói đến tùy miên tùy tăng của cõi vô sắc cũng không trái với lý.

Lại nữa, ở đây dựa vào tùy miên ấy được hiện hành mà nói, nghĩa là Dị sinh cõi Dục tuy không có tùy miên tùy tăng của cõi Sắc-vô sắc, mà có tùy miên ấy được hiện hành đang chuyển cho nên cũng nói là tùy tăng; Thánh giả cõi Dục không có tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn của cõi Sắc-vô sắc mà có tùy miên ấy được hiện hành đang chuyển cho nên cũng nói là tùy tăng. Vì vậy, Dị sinh-Thánh giả cõi Sắc nói đến tùy miên tùy tăng của cõi vô sắc cũng không trái với lý.

Lại nữa, ở đây dựa vào tùy miên ấy có được mà nói đã được-chưa được-đang được cho nên cũng không trái với lý. Đã được là nói tùy miên quá khứ có được, chưa được là nói tùy miên ấy hiện tại có được. Nghĩa là Dị sinh-Thánh giả cõi Dục và cõi Sắc tuy không có tùy miên tùy tăng của cõi trên, mà có tùy miên ấy của ba đời được lưu chuyển chưa đoạn, cho nên nói là tùy tăng.

Lại nữa, dựa vào có lẽ hiện khởi cho nên đưa ra các nói này, nghĩa là Dị sinh-Thánh giả cõi Dục tuy không có tùy miên tùy tăng của cõi Sắc-vô sắc, mà có lễ hiện khởi tùy miên ấy cho nên cũng nói là tùy tăng. Đó là lìa nhiễm cõi Dục rồi thì tùy miên ấy có lẽ hiện khởi. Vì vậy, Dị sinh Thánh giả cõi Sắc nói đến tùy miên tùy tăng của cõi vô sắc, nên biết cũng như vậy, tuy lúc ấy lui sụt rồi cũng có lẽ hiện khởi tùy miên của cõi dưới, mà đã đoạn cho nên có lúc có thể hoàn toàn không còn lui sụt, cho nên không nói đến tùy miên tùy tăng của cõi dưới.

Lại nữa, hiển bày đẳng lưu ấy đã từng hiện khởi, cho nên đưa ra cách nói cũng không trái với lý. Nghĩa là Hữu tình cõi Dục từ vô thỉ đến nay, không có ai không từng khởi lên các tùy miên của cõi Sắc-vô sắc, cho nên nói là tùy tăng; Hữu tình cõi Sắc từ vô thỉ đến nay, không có ai không từng khởi lên các tùy miên của cõi vô sắc, cho nên nói là tùy tăng.

Hỏi: Hữu tình cõi Sắc-vô sắc từ vô thỉ đến nay, không có ai không từng khởi lên các tùy miên của hai cõi Dục-sắc, tại sao không nói cũng là tùy miên tùy tăng của cõi dưới.

Đáp: Tuy cũng từng khởi lên mà đã đoạn cho nên không nói là tùy tăng.

Hỏi: Cũng có Thánh giả có đủ chín mươi tám tùy miên, nghĩa là lúc người vốn có phiền não trú vào khổ pháp trí nhẫn, tại sao trong này nói Thánh giả cõi Dục chỉ có mười loại tùy miên tùy tăng?

Đáp: Tuy cũng có tùy miên này mà lúc ít cho nên chỉ nói là có mười tùy miên tùy tăng, nghĩa là sát-na đều có đủ chín mươi tám loại, sau sát-na này thì đã đoạn, mười loại bỗng nhiên kéo dài đến tâm thứ mười sáu, thời gian đã ngắn ngủi cho nên chỉ nói là có mười tùy miên tùy tăng do tu mà đoạn.

Lại nữa, người tiến vào kiến đạo có bảy mươi ba loại, chín Hữu tình trước trong sát-na đầu, tuy thành tựu đầy đủ chín mươi tám loại mà không hiện hành, bởi vì tâm thiện hữu lậu của phần vị kiến đạo hãy còn không có thể dấy khởi, huống hồ dấy khởi tâm nhiễm ô vô phú vô ký hay sao? Trong này chỉ dựa vào phiền não hiện hành để kiến lập phần vị sai biệt của Hữu tình, cho nên nói Thánh giả nhiều nhất chỉ có mười tùy miên tùy tăng, bởi vì chỉ có mười loại này mới có thể hiện khởi. Nơi khác cũng dựa vào phiền não hiện hành để kiến lập phần vị sai biệt của Hữu tình.

Như trong kinh nói: “Có một phạm chí đi đến nơi đức Phật thưa hỏi rằng: Đức Thế tôn sẽ làm loài trời chăng? Đức Phật nói: Không. Lại hỏi: Sẽ làm loài rồng, A tốc lạc, Kiền đạt phược, yết lộ trà, Khần na la, Mạc hô lạc già, Dược xoa, La sát bà, Phi nhân và loài người chăng? Đức Phật nói: Không, nguyên cớ thế nào? Phạm chí nên biết rằng, nếu có các lậu chưa đoạn, chưa biết kháp, thì bởi vì hiện hành cho nên sẽ sinh vào nẽo trời, có thể sẽ làm loài trời, nói rộng ra cho đến sẽ sinh vào nẽo người-có thể sẽ làm loài người. Ta đã đoạn-đã biết khắp đối với các lậu, như chặt đứt rễ cây-cắt đứt ngọn cây đa la, vì vậy các lậu mãi mãi không hiện hành, cho nên đạt được pháp không sinh đối với các quả báo của thân đời sau. Ta quyết định không còn làm loài trời, nói rộng ra cho đến không còn làm loài người.

Có nơi cũng dựa vào dị thục hiện hành để kiến lập phần vị sai biệt của Hữu tình, như trong kinh có kệ nói:

“Phật là bậc chân nhân, tự nói mình thường định

Luôn dạo trên đường Phạm, tâm vui với tịch tĩnh”.

Nếu tiếp nhận dị thục của cõi này nối tiếp nhau thì gọi là Hữu tình thọ sinh ở cõi này, nghĩa là tiếp nhận dị thục của cõi Dục nối tiếp nhau thì gọi là Hữu tình thọ sinh ở cõi Dục; nếu tiếp nhận dị thục của cõi Sắc tiếp nhau thì gọi là Hữu tình thọ sinh ở cõi Sắc, nếu tiếp nhận dị thục của cõi vô sắc nối tiếp nhau thì gọi là Hữu tình thọ sinh ở cõi vô sắc. Phật đã tiếp nhận dị thục của loài người nối tiếp nhau, chứng pháp chân thật cho nên gọi là chân nhân.

Luận này cũng dựa vào dị thục hiện hành để kiến lập giới-địa sai biệt của Hữu tình. Như trong phần thập môn nói: “Ai thành tựu nhãn căn? Đó là sinh vào cõi Sắc, nếu sinh vào cõi Dục thì đã được-chưa mất. Ai không thành tựu nhãn căn? Đó là sinh vào cõi vô sắc, nếu sinh vào cõi dục thì chưa được đã mất. Đây là dựa vào dị thục của ba cõi nối tiếp nhau, nếu hiện rõ trước mắt thì gọi là sinh vào cõi này pháp khác thì không nhất định cho nên không dựa vào để nói”.

Hỏi: Vì sao Tôn giả trong phần luận này thường xuyên dựa vào Trung hữu mà soạn luận?

Đáp: Vì ngăn chặn tông chỉ của người khác để hiển bày chánh lý. Nghĩa là hoặc có người chấp: Thọ sinh ở ba cõi đều không có Trung hữu. Như Luận giả phân biệt. Hoặc lại có người nói: Sinh vào cõi Dụcsắc nhất định có Trung hữu. Như Luận giả ứng lý.

Hỏi: Luận giả phân biệt dựa vào Lượng nào mà chấp là không có Trung hữu?

Đáp: Dựa vào chí giáo lượng, nghĩa là trong kinh nói: “Nếu có một loại Hữu tình tạo tác tăng trưởng năng nghiệp vô gián, vô gián thì nhất định phải sinh trong địa ngục”. Đã nói vô gián thì nhất định phải sinh vào địa ngục, cho nên biết Trung hữu quyết định là không có. Lại có kệ nói: “Tái sinh nay ông qua phần vị khỏe mạnh, đến suy yếu sắp gần với Diêm ma vương.

Muốn đi đường phía trước không có lương thực, cầu dừng lại giữa đường không nơi dừng chân”.

Đã nói giữa đường không có nơi để dừng chân, cho nên biết Trung hữu quyết định là không có. Lại nói qua rồi khó khăn, chứng minh là không có Trung hữu, nghĩa là như giữa bóng nắng không có khe hở, tử hữu và sinh hữu nên biết cũng như vậy.

Hỏi: Luận giả ứng ký dựa vào lượng nào mà nói là có Trung hữu?

Đáp: Dựa vào chí giáo lượng, như trong kinh nói: “Tiến vào thai mẹ thì cần phải nhờ vào ba sự việc cùng hiện rõ trước mắt:

  1. Thân mẹ lúc ấy điều hòa dễ chịu.
  2. Cha mẹ cùng ân ái hòa hợp.
  3. Kiều đạt phược đang hiện ở trước mắt”.

Ngoài thân Trung hữu ra thì đâu là kiền đạt phược? Uẩn trước đã hoại diệt thì cái gì hiện ở trước mắt? Vì vậy, Kiền đạt phược chính là Trung hữu. Lại trong kinh nói: “Có Trung bát Niết-bàn”. Trung hữu nếu không có, thì kinh này dựa vào đâu để thiết lập? Trong kinh khác lại nói: “Thân này đã hoại diệt, thân khác chưa sinh ra, ý thành tựu Hữu tình, dựa vào ái mà thi thiết thủ”. Đức Thế tôn đã nói thân này đã hoại diệt-thân khác chưa sinh ra, ý thành tựu Hữu tình, dựa vào ái mà thiết lập thủ, cho nên biết Trung hữu quyết định không phải là không có. Nếu không có Trung hữu thì ý thành tựu Hữu tình gọi cái gì là Sở biểu? Lại nói vượt qua khó khăn, chứng minh là có Trung hữu, nghĩa là từ châu này mất đi sinh đến các châu như Bắc Câu lô…, nếu không có Trung hữu thì thân này đã diệt thân khác chưa sinh, khoảng giữa đứt đoạn, vậy thì thân kia vốn không có mà có, thân này cũng là vốn có mà không có; pháp cũng thuận theo như vậy, vốn không có mà có-có rồi trở lại không có, đừng có sai lầm ấy, cho nên nói là có Trung hữu.

Hỏi: Luận giả ứng ký làm sao giải thích thông suốt chí giáo lượng mà luận giả phân biệt đã dẫn chứng để nói Trung hữu là có chứ không phải là không có?

Đáp: Vị ấy đã dẫn chứng kinh là bất liễu nghĩa, là tạm thời thi thiết, có ý nghĩa khác. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì kinh ấy nói: “Nếu có một loại Hữu tình tạo tác tăng trưởng năm nghiệp vô gián , vô gián thì nhất định phải sinh trong địa ngục”. Ý kinh ấy ngăn chặn nẽo khácnghiệp khác chứ không ngăn chặn Trung hữu. Ngăn chặn nẽo khác, nghĩa là nghiệp vô gián nhất định dẫn đến địa ngục chứ không dẫn đến nẽo khác, bởi vì người có nghiệp này mạng chung nhất định sinh trong Nại-lạc-ca chứ không phải là nẽo khác. Ngăn chặn nghiệp khác, nghĩa là nghiệp vô gián thuận theo đời kế tiếp mà nhận lấy chứ không phải là thuận theo pháp hiện tại mà nhận lấy, không phải là thuận theo kế tiếp về sau mà nhận lấy. Do nghiệp lực này mạng chung nhất định rơi vào trong Nại-lạc-ca mà nhận lấy dị thục. Đây là ý nghĩa của kinh ấy đã nói. Nếu như văn kinh mà giữ lấy nghĩa, thì kinh ấy đã nói tạo tác tăng trưởng năm nghiệp vô gián, vô gián thì nhất định phải sinh trong địa ngục, lẽ nào tạo ra bốn-ba-hai-một nghiệp còn lại không sinh vào địa ngục mà chỉ nói là năm hay sao? Lại nói vô gián sinh trong địa ngục, lẽ nào tạo nghiệp rồi thì sát-na thứ hai liền rơi vào địa ngục hay sao? Nhưng mà tạo nghiệp rồi có lúc trải qua trăm năm mới rơi vào địa ngục, vì vậy không nên như văn mà giữa lấy nghĩa liền chấp Trung hữu quyết định mà địa ngục, vì vậy không nên như văn mà giữa lấy nghĩa liền chấp Trung hữu quyết định là không có. Kệ đã dẫn chứng cũng giống như cách giải thích này, nghĩa là ngăn chặn nẽo khác và ngăn chặn nghiệp khác mà nói không có trung gian chứ không ngăn chặn Trung hữu.

Hỏi: Luận giả Ứng lý làm sao giải thích thông suốt vấn nạn sai lầm của Luận giả phân biệt đã nói, mà nópi Trung hữu nhất định có chứ không phải là không có?

Đáp: Vị ấy đã đưa ra vấn nạn không cần phải thông hiểu. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không phải là ba Tạng, mà pháp thế tục khác biệtpháp Hiền Thánh khác biệt, không nên dẫn chứng về pháp thế tục mà cật vấn đến pháp Hiền Thánh. Nếu nhất định phải thông hiểu thì nên nói đến sai lầm của thí dụ, thí dụ đã có sai lầm thì lầm chứng không thành, nghĩa là như bóng nắng thì không phải là trí của Hữu tình, không có căn không có tâm thì tử hữu-sinh hữu lẽ nào giống như chúng hay sao? Lại như bóng nắng cùng lúc mà khởi lên, Tử hữu-sinh hữu lẽ nào sinh hữu hay sao? Vả lại, thí dụ về bóng nắng không có khe hở này mới chứng minh Trung hữu là có chứ không phải là không có, nghĩa là như bóng nắng không có gián đoạn-không có kẽ hở, như vậy lúc Tử hữu hướng đến Trung hữu thì không có gián đoạn-không có kẽ hở; lại lúc từ Trung hữu hướng đến sinh hữu thì cũng không có gián đoạn-không có kẽ hở. Vì vậy, Trung hữu chắc chắn có chứ không phải là không có.

Hỏi: Luận giả phân biệt làm sao giải thích thông suốt chí giáo lượng của Luận giả ứng lý đã dẫn chứng, mà chấp Trung hữu quyết định là không có?

Đáp: Kinh mà vị ấy đã dẫn chứng là bất liễu nghĩa, là tạm thời thi thiết, có ý nghĩa khác. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì kinh thứ nhất nói: Tiến vào thai mẹ thì cần phải nhờ vào ba sự việc, nói rộng ra cho đến,

Kiền đạt phược đang hiện ở trước mắt. Chữ Kiền đạt phược thì kinh không cần phải nói, bởi vì nó không có những nhạc khí như trống…, cho nên cần phải nói là uẩn hành bởi ví nó là uẩn hành.

Luận giả ứng lý liền vặn hỏi chữ ấy cho dù nói là uẩn hành, hay là Kiền đạt phược thì đều chứng minh Trung hữu là có chứ không phải là không có, khác với chữ uẩn hành này thì cái gì là Sở biểu? Luận giả phân biệt lại đưa ra vặn hỏi rằng: Ông nói bốn loại sinh đều có Trung hữu, thai sinh và Noãn sinh có thể có ba sự việc để tiến vào thai, thấp sinh và hóa sinh thì làm sao có thể như vậy, cho nên kinh đã dẫn chứng không thích hợp chánh lý.

Luận giả ứng lý khuyên bảo rõ ràng với vị ấy rằng: Ba sự việc tiến vào thai tùy theo thích hợp mà nói, ai khiến cho ba sự việc phải có khắp bốn loại sinh, không phải là thiết lập lời này thì ngăn chặn Trung hữu. Luận giả phân biệt thông hiểu kinh thứ hai, nói có trung thiên trú vào nơi ấy nhập diệt, bởi vì kinh này nói trung bát Niết-bàn. Vả lại, xả bỏ cõi Dục rồi chưa đến cõi Sắc mà nhập diệt thì gọi là trung bát Niếtbàn, hoặc tiếp nhận chúng đồng phần của cõi Sắc rồi chưa trải qua thời gian dài mà nhập diệt thì gọi là trung bát Niết-bàn hoặc sinh vào cõi Sắc chưa hết thọ lượng mà nhập diệt thì gọi là Trung bát Niết-bàn, vì vậy tên gọi này không phải là chứng thực về Trung hữu.

Luận luận giả ứng lý liền vặn hỏi vị ấy rằng: Tên gọi Trung thiên này thì Phật nói ở nơi nào, kinh chỉ nói là có hai mươi tám cõi trời, đó là cõi trời Tứ đại vương chúng cho đến cõi trời phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứ không nói là có Trung thiên, ông dựa vào đâu mà nói? Vả lại, kinh nói là sinh bát Niết-bàn, ông cũng nên thừa nhận là có tên gọi của Thiên, sinh và trú vào nơi ấy mà nhập diệt. Lại nữa, trong kinh nói là có hành bát Niết-bàn cho đến Thượng lưu, ông cũng nên thừa nhận là có tên gọi của Thiên, có hành cho đến Thượng lưu, đã không có tên gọi của Thiên riêng biệt là sinh… thì làm sao thiết lập riêng biệt là có Thiên gọi là Trung? Vả lại, ông đã nói là xả bỏ cõi Dục rồi chưa đến cõi Sắc mà nhập diệt thì gọi là Trung bát Niết-bàn cũng không hợp lý. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì đã xả bỏ cõi Dục chưa đến cõi Sắc nếu không có Trung hữu thì dựa vào thân nào trú mà nhập Niết-bàn? Cho nên ông đã nói trống rỗng chứ không có nghĩa thật sự. Vả lại, ông đã nói hoặc tiếp nhận chúng đồng phần của cõi Sắc rồi chưa trải qua thời gian dài mà nhập diệt thì gọi là trung bát Niết-bàn, đều này cũng phi lý. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì sinh bát Niết-bàn dựa vài đây mà thiết lập. Vả lại, cõi vô sắc cũng nên nói là có trung bát Niết-bàn , bởi vì sinh vào cõi ấy chưa lâu có dứt hết kiết còn lại mà nhập diệt. Nếu như vậy thì cõi vô sắc cũng nên nói là có bảy nẽo Thiện sĩ, thì trái với kinh, bởi vì trong kinh nói bảy nẽo Thiện sĩ chỉ có cõi Sắc. Vả lại, ông đã nói hoặc sinh vào cõi Sắc chưa hết thọ lượng mà nhập diệt thì gọi là trung bát Niết-bàn, điều này cũng phi lý. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tất cả Hữu tình phần nhiều bị chết non, chỉ trừ ra nẽo người-châu Bắc câu lô, và Bồ tát nhất sinh sở hệ (Nhất sinh bổ xứ) trú ở cõi trời Đổ sử đa, còn lại những người bị chết non mà nhập diệt thì đều phải gọi là trung bát Niết-bàn. Vậy thì tên gọi này không phải là chỉ riêng cõi Sắc, cho nên những điều đã nói ấy đều không hợp lý.

Luận giả phân biệt thông hiểu kinh thứ ba nói, ý thành tựu Hữu tình tức là cõi vô sắc, nghĩa là có phạm chí Độc Tử xuất gia, đã lìa nhiễm cõi Dục đạt được Thiên nhãn thông, người ấy có bạn đồng học đã lìa nhiễm cõi Sắc, trước đây ở nơi này mạng chung sinh vào cõi vô sắc, phạm chí độc tử dùng Thiên nhãn thông, nhìn khắp nơi trong cõi Sắc-sắc không thấy, liền dấy lên nghĩ rằng: Người ấy đoạn diệt chăng? Vì quyết đoán mối nghi của mình cho nên đi đến chỗ đức Phật, đem sự nghi ngờ của mình mà thưa với đức Phật rằng: Thưa đức Kiều-Đáp-ma! Nguyện vì giải thoát, thân này đã hoại diệt-thân khác chưa sinh ra, ý thành tựu Hữu tình dựa vào pháp nào mà thi thiết thủ? Đức Thế tôn bảo rằng: Này Phạm chí nên biết! Thân này đã hoại diệt, thân khác chưa sinh ra, ý thành tựu Hữu tình dựa vào ái mà thi thiết thủ. Ý đức Phật bảo cho biết rằng: Bạn đồng học của ông từ nơi này mà mạng chung, sinh đến cõi vô sắc dựa vào Ái thiết lập thủ chứ không gọi là đoạn diệt.

Luận giải ứng lý liền vặn hỏi vị ấy rằng: Kinh nói ý thành tựu là biểu thị cho nhiều loại nghĩa, thành tựu là biểu thị cho Trung hữu, hoặc là biểu thị cho Hóa thân, hoặc là biểu thị cho người ở thời kỳ bắt đầu của kiếp, hoặc là biểu thị cho hai cõi trên, vì sao biết điều này là biểu thị cho vô sắc thiên chứ không biểu thị cho Trung hữu? Luận giả phân biệt đưa ra cách nói như vậy: Lẽ nào biết lời này chỉ biểu thị cho Trung hữu chứ không biểu thị cho vô sắc hay sao?

Luận giả ứng lý đưa ra lời nói như vậy: Dựa vào kinh này mà biết là biểu thị cho Trung hữu, nghĩa là kinh này nói: “Thân này đã hoại diệt, thân khác chưa sinh ra, ý thành tựu Hữu tình dựa vào Ái thiết lập thủ”. Thân này đã hoại diệt, thân khác chưa sinh ra, ý thành tựu Hữu tình lẽ nào lìa Trung hữu, chứ không phải là cõi vô sắc có thể gọi là chưa sinh. Vị ấy thông hiểu kinh chắc chắn không hợp lý.

Hỏi: Luận giả phân biệt làm sao giải thích thông suốt vấn nạn của Luận giả ứng lý đã đưa ra mà chấp Trung hữu quyết định là không có?

Đáp: Những lúc từ tử hữu đến sinh hữu cần phải đạt được sinh hữu mới xả bỏ tử hữu, như Chiết lộ ca bám vào cỏ cây…, đầu tiên đặt yên chân trước rồi mới di chuyển chân sau, vì vậy trong tử-sinh không có lỗi đoạn dứt. Luận giả ứng lý liền vặn hỏi vị ấy rằng: Nếu đưa ra cách nói này thì có nhiều sai lầm, đó là ở trong loài người chết đi sinh vào địa ngục thì cần phải trước tiên có được các uẩn của địa ngục, sau mới xả bỏ các uẩn trong loài người. Nếu như vậy thì nơi chốn hư hoại, thân sở y hư hoại, trong một thân có hai tâm cùng phát sinh. Nơi chốn hư hoại, nghĩa là người ấy vào lúc bấy giờ là nẽo địa ngục cũng là nẽo người thâu nhiếp. Thân hư hoại, nghĩa là người ấy vào lúc bấy giờ là thân địa ngục cũng là thân người thâu nhiếp. Trong một thân có hai tâm cùng phát sinh, nghĩa là hai tân tử hữu-sinh hữu cùng phát sinh. Một thân Hữu tình có hai tâm cùng dấy khởi, tâm đã có hai thì thân đúng ra không phải là một, cho nên lời ông đã nói không phải là giải thích vấn nạn.

Hỏi: Hai luận sư này đối với một Trung hữu, một người nói là cómột người chấp là không có, hai cách nói như vậy thì cách nào là đúng hơn?

Đáp: Luận giả Ứng lý đã nói là đúng hơn, bởi vì chí giáo lượng đã dẫn chứng và đưa ra vấn nạn sai lầm thì Luận giả phân biệt không thông hiểu. Nhưng mà luận giả phân biệt là không biết gì về quả, tối tăm về quả, vô minh về quả, không chịu khó gia hạnh về quả, vì vậy quyết định bác bỏ không có Trung hữu. Nhưng Trung hữu này là vật có thật tương ưng với tánh tướng của vật có thật. Như vậy, vì ngăn chặn tông chỉ của người khác đã nói và hiển bày chánh lý của tông chỉ mà mình đã nói, cho nên soạn ra phần luận này. Lại nữa, đừng cho là vì ngăn chặn tông, chỉ của người khác để hiển bày tông chỉ của mình mà nói, nhưng vì biểu hiện rõ ràng chánh lý về các pháp để mở mang sự hiểu biết cho người học, cho nên soạn ra phần luận này.

Hỏi: Tất cả Trung hữu là do nẽo thâu nhiếp hay không phải là nẽo thâu nhiếp? Giả sử như vậy thì có gì sai? Cả hai đều có sai lầm. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu là nẽo thâu nhiếp thì luận thi thiết nói thông hiểu thế nào? Như luận ấy nói: “Là năm nẽo thâu nhiếp bốn sinh, hay là bốn sinh thâu nhiếp năm nẽo? Đáp: Bốn sinh thâu nhiếp năm nẽo chứ không phải là năm nẽo thâu nhiếp bốn sinh. Không thâu nhiếp những gì? Không thâu nhiếp Trung hữu”. Luận pháp uẩn nói phải thông hiểu thế nào? Như luận ấy nói: “Thế nào là nhãn giới? Đáp: Sắc Thanh tịnh do bốn đại chủng tạo ra là nhãn, và nhãn căn-nhã xứ-nhã giới, nhãn của địa ngục-bàng sinh-quỷ-trời-người, nhãn do tu mà thành và nhãn của Trung hữu”.Luận phẩm loại Túc nói phải thông hiểu thế nào? Như luận ấy nói: “Thế nào là nhãn căn? Đó là sắc Thanh tịnh do bốn đại chủng tạo ra, có thể nhìn có thể thấy do nhãn giới-nhãn xứ-nhãn căn thâu nhiếp nhãn của địa ngục-bàng sinh-quỷ-trời-người, hoặc là nhãn của các Trung hữu ở những nơi khác”. Nếu không phải là nẽo thâu nhiếp, thì tôn giả Đạt-la-đạt-đa đã nói nên thông hiểu thế nào? Như nói: “Trung hữu hướng đến nẽo ấy thì nẽo ấy thâu nhiếp, như mầm lúa ngô tuy không phải là lúa-ngô mà có năng lực dẫn đến nơi ấy cho nên cũng gọi là lúa-ngô”.

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Trung hữu các nẽo thì các nẽo thâu nhiếp.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông hiểu cách nói của Tôn giả Đạt la đa, luận Thi thiết nói nên thông hiểu thế nào? Đáp: Văn của luận thi thiết nên đưa ra cách nói này: Bốn sinh-năm nẽo lần lượt chuyển đổi thâu nhiếp nhau tùy theo chủng loại của mình. Nhưng mà không như vậy thì nên biết là người tụng văn ấy lầm lẫn.

Hỏi: Luận pháp uẩn nói lại thông hiểu thế nào? Đáp: Văn của luận Pháp uẩn nên đưa ra cách nói này: Nhãn của địa ngục-bàng sinhquỷ-trời-người, nhãn do tu mà thành. Không cần phải nói lại và nhãn của Trung hữu, mà nói lại có ý nghĩa khác, nghĩa là nhãn của Trung hữu tuy dựa vào nẽo thâu nhiếp, nhưng bởi vì vi tế cho nên lại hiển bày riêng biệt về nó. Như tướng của quân giặc tuy là quân giặc thâu nhiếp, nhưng bởi vì tội nặng cho nên trách mắng những quân giặc rồi, lại trách mắng riêng tướng của quân giặc. Lại như người nữ tuy muốn giữ lấy đồ dùng nhưng bởi vì quá nặng cho nên làm hỏng đồng dùng mong muốn rồi, lại làm hỏng những đồ dùng khác. Trung hữu cũng như vậy, tuy dựa vào nẽo thâu nhiếp, nhưng bởi vì vit ế cho nên lại hiển bày riêng biệt về nó. Vì vậy đã thông hiểu cách nói của luận phẩm loại Túc. Có người nói: Trung hữu không phải là do nẽo thâu nhiếp.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông hiểu các luận như luận Thi thiết…, tôn giả Đạt-la-đạt-đa đã nói nên thông hiểu thế nào? Đáp: Điều ấy không cần thông hiểu bởi vì không phải là ba Tạng. Văn tụng đã nói hoặc như vậy-hoặc không như vậy, Đa la đạt đa là văn tụng thì lời nói nhiều hơn sự thật, cho nên không cần phải thông hiểu. Nếu nhất định phải thông hiểu thì nên cầu theo ý đó, nghĩa là các Trung hữu tựa như hình dạng của nẽo ấy, cho nên nói thâu nhiếp vào các nẽo đã hướng đến, Trung hữu địa ngục thì hình dạng giống như địa ngục, cho đến Trung hữu nẽo người thì giống như con người, mà thật ra thì Trung hữu không do nẽo thâu nhiếp.

Lời bình: Trong hai cách nói này thì cách nói sau là thích hợp. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nẽo là nơi hướng đến, tức là nơi đã đến, Trung hữu hướng đến nơi ấy không phải là nơi đã đến giống như con đường cho nên không phải là nẽo thâu nhiếp.

Lại nữa, nẽo không phải là nhiễu loạn mà Trung hữu thì nhiễu loạn, vì vậy Trung hữu không phải là do nẽo thâu nhiếp. Lại nữa, nẽo có nhiều an trú mà Trung hữu thì không dừng lại, như gió thoảng trong hơi nóng mặt trời, cho nên không phải là nẽo thâu nhiếp. Lại nữa, các nẽo là quả-Trung hữu là nhân, nhân không ngay nơi quả, cho nên không phải là nẽo thâu nhiếp. Như nhân không phải là quả, tạo tác không phải là đã tạo tác, giữ lấy không phải là đã giữ lấy, hướng đến không phải là đã hướng đến, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, tướng của nẽo là thô mà tướng của Trung hữu là tế, tế không ngay nơi thô, cho nên không phải là hiện thấy, không rõ ràng không phải là rõ ràng, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, Trung hữu ở khoảng giữa của hai nẽo ấy, cho nên không phải là nẽo thâu nhiếp. Như ruộng vườn-thành ấp ở khoảng giữa của thế giới không phải là ruộng vườn… thâu nhiếp. Lại nữa, nẽo là do nghiệpác căn bản dẫn đến, gia hạnh của nghiệp ấy dẫn đến Trung hữu, nhân đã có khác cho nên không thâu nhiếp lẫn nhau.

Hỏi: Giới-địa xứ nào có Trung hữu?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Người có nghiệp mạnh mẽ sắc bén thì không có Trung hữu, người có nghiệp chập chạp rề ra thì có Trung hữu vì vậy địa ngục và trong chư thiên đều không có Trung hữu,bởi vì nghiệp mạnh mẽ sắc bén; loài người bàng sinh và quỷ thì hoặc có Trung hữu-hoặc không có Trung hữu, bởi vì nghiệp không nhất định. Lại có người nói: Hữu tình Hóa sinh thì không có Trung hữu, bởi vì nghiệp mạnh mẽ sắc bén; Hữu tình Thai-Noãn-Thấp sinh thì hoặc có Trung hữu, hoặc không có Trung hữu, bởi vì nghiệp không nhất định.

Có sư khác nói: Nếu dùng thậun định thọ nghiệp mà dẫn đến sinh thì không có Trung hữu, nếu dùng thuận bất định thọ nghiệp mà dẫn đến sinh thì có Trung hữu. Nên đưa ra cách nói này: Sinh ở cõi Dục-sắc chắc chắn có Trung hữu, bởi vì xứ liên tục khác biệt làm cho Tả hữu và sinh hữu không gián đoạn; sinh vào cõi vô sắc thì chắc chắn không có Trung hữu.

Hỏi: Vì sao cõi vô sắc chắc chắn không có Trung hữu?

Đáp: Bởi vì không phải là ruộng đất chứa đựng, nghĩa là sắc pháp chính là ruộng đất chứa đựng Trung hữu, sinh vào cõi vô sắc không có các sắc cho nên chắc chắn không có Trung hữu. Lại nữa, bởi vì xứ liên tục khác biệt làm cho Tử hữu và sinh hữu không gián đoạn mà khởi lên Trung hữu, sinh vào cõi vô sắc không có phương xứ khác biệt, nhưng cần phải liên tục mà khởi lên Trung hữu, cho nên cõi vô sắc chắc chắn không có Trung hữu.

Lại nữa, nếu giới-địa-xứ tiếp nhận quả dị thục của hai loại nghiệp thì có Trung hữu. Hai loại nghiệp đó là:

  1. Thuận theo Trung hữu thọ nghiệp.
  2. Thuận theo sinh hữu thọ nghiệp. Lại có hai loại:
  3. Thuận theo khởi thọ nghiệp.
  4. Thuận theo sinh thọ nghiệp. Lại có hai loại:
  5. Thuận theo khởi nghiệp dị thục.
  6. Thuận theo sinh nghiệp dị thục. Lại có hai loại:
  7. Thuận theo nghiệp của quả vi tế.
  8. Thuận theo nghiệp của quả thô thiển.

Trong cõi vô sắc chỉ tiếp nhận quả dị thục của một loại nghiệp, cho nên không có Trung hữu. Một loại nghiệp, đó là thuận theo sinh hữu thọ nghiệp cho đến thuận theo nghiệp của quả thô thiển.

Lại nữa, nếu giới-địa-xứ tiếp nhận quả dị thục của hai loại nghiệp căn bản và gia hạnh thì có Trung hữu, trong cõi vô sắc chỉ tiếp nhận quả dị thục của nghiệp căn bản, cho nên không có Trung hữu.

Lại nữa, nếu giới-địa-xứ tiếp nhận quả dị thục của hai loại nghiệp thì có Trung hữu. Hai loại nghiệp là:

  1. Nghiệp có sắc.
  2. Nghiệp không có sắc.

Lại có hai loại:

  1. Nghiệp tương ưng.
  2. Nghiệp không tương ưng.

Lại có hai loại:

  1. Nghiệp có sở y.
  2. Nghiệp không có sở y.

Lại có hai loại:

  1. Nghiệp có sở duyên.
  2. Nghiệp không có sở duyên.

Lại có hai loại:

  1. Nghiệp có hành tướng.
  2. Nghiệp không có hành tướng.

Lại có hai loại:

  1. Nghiệp có cảnh giác.
  2. Nghiệp không có cảnh giác.

Trong cõi vô sắc chỉ tiếp nhận quả dị thục của một loại nghiệp cho nên không có Trung hữu. Một loại nghiệp, đó là nghiệp không có sắc cho đến nghiệp có cảnh giác.

Lại nữa, nếu giới-địa-xứ tiếp nhận quả dị thục của nghiệp năng thú-sở thú thì có Trung hữu, trong cõi vô sắc chỉ tiếp nhận quả dị thục của nghiệp sở thú, cho nên không có Trung hữu. Như năng thú-sở thú, năng tục-sở tục nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, nếu giới-địa-xứ tiếp nhận quả dị thục của ba loại nghiệp thân ngữ và ý thì có Trung hữu, trong cõi vô sắc chỉ tiếp nhận quả dị thục của một loại ý nghiệp, cho nên không có Trung hữu.

Lại nữa, nếu giới-địa-xứ tiếp nhận quả dị thục của năm uẩn thiện thì có Trung hữu, trong cõi vô sắc chỉ tiếp nhận quả dị thục của bốn uẩn vô sắc thiện, cho nên không có Trung hữu. Lại nữa, nếu giới-địa-xứ tiếp nhận quả dị thục của người nghiệp đạo thiện thì có Trung hữu, trong cõi vô sắc chỉ tiếp nhận quả dị thục của ba nghiệp đạo thiện sau cuối, cho nên không có Trung hữu. Lại nữa, nếu giới-địa-xứ tiếp nhận quả dị thục của nghiệp hắc hắc, hoặc là bạch bạch, hoặc là hắc bạch-hắc bạch thì có Trung hữu, trong cõi vô sắc không tiếp nhận quả dị thục của ba nghiệp này, cho nên không có Trung hữu. Lại nữa, nếu giới-địa-xứ có nhân tươi sáng và quả tươi sáng thì có Trung hữu, trong cõi vô sắc tuy có nhân tươi sáng mà không có quả tươi sáng, cho nên không có Trung hữu. Lại nữa, nếu giới-địa-xứ có đi có đến thì có Trung hữu, trong cõi vô sắc không có đi không có đến, cho nên không có Trung hữu.

Hỏi: Nếu ở xứ này chết đi lại sinh vào xứ này, như nghe có người chết rồi sinh vào trong thây xác của mình, đã không có đi-đến thì đâu cần Trung hữu. Tử hữu-sinh hữu liên tục khiến cho không đoạn mất chăng?

Đáp: Hữu tình chết rồi hoặc sinh vào nẽo ác, hoặc sinh trong loài người, hoặc sinh lên cõi trời, hoặc nhập Niết-bàn. Sinh vào nẽo ác thì Thức diệt mất ở phần chân, sinh vào trong loài người thì thức diệt mất ở phần rốn, sinh lên trên cõi trời thì Thức diệt mất ở phần đầu, nhập Niết-bàn thì Thức diệt đi ở phần tim. Có những Hữu tình chết rồi sinh vào trong thây xác của mình làm những loài trùng, bởi vì lúc họ chưa chết quả thật là yêu quý mặt mũi của mình, cho nên họ chết rồi sinh vào trong mặt mũi của mình, đã từ phần chân của họ mà sinh đến mặt mũi của mình. Nếu không có Trung hữu thì cái gì có thể liên tục theo nhau? Không có ở xứ này chết đi lại sinh vào xứ này, bởi vì xả bỏ thân và tiếp nhận thân thì chắc chắn phải di chuyển. Giả sử có việc này thì không có sắc cũng không có, cho nên cõi vô sắc chắc chắn không có Trung hữu.

Hỏi: Ở cõi vô sắc mất đi sinh vào cõi Dục-sắc, đã tùy theo Trung hữu hiện ra trước mắt nơi đang sinh, lúc ấy không qua lại thì đâu cần đến Trung hữu?

Đáp: Hữu tình ấy trước đã tạo nghiệp cảm đến Trung hữu, tuy không có qua lại mà cũng tiếp nhận nghiệp lực của Trung hữu đã dẫn dắt cho nên nhất định phải lấy khởi.

Hỏi: Trung hữu có thể chuyển hay không thể chuyển?

Đáp: Phái Thí dụ nói: Trung hữu có thể chuyển, bởi vì tất cả nghiệp đều có thể chuyển. Họ nói năm nghiệp vô gián đã tạo ra hãy còn có thể di chuyển, huống là nghiệp của Trung hữu? Nếu nghiệp vô gián không có thể chuyển, thì đúng ra không có Hữu tình nào có năng lực vượt qua khỏi hữu đảnh, bởi vì nghiệp thiện của hữu đảnh thì thù thắng nhất. Đã thừa nhận là có Hữu tình có năng lực vượt qua Hữu đảnh, cho nên nghiệp vô gián cũng có thể di chuyển.

Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: Trung hữu đối với cõi-đối với nẽo đối với xứ đều không có thể chuyển, bởi vì cảm đến nghiệp của Trung hữu rất mạnh mẽ sắc bén.

Hỏi: Nếu Trung hữu đối với cõi không có thể chuyển, thì sự việc Tỳ kheo vô văn nên thông hiểu thế nào? Có Tộc tánh tử (một trong bốn họ lớn ở Ấn độ) ở trong Phật pháp vừa xuất gia rồi không học hạnh đa văn, ngay lập tức ở trong chốn A-luyện-nhã kiên quyết giữ gìn giới cấm, tâm vui với vắng lặng, nhờ vào lực của nhân đời trước tu tịnh thế tục, nếu lúc phát khởi Tĩnh lự thứ nhất của thế tục thì nói là đạt được quả Dự lưu, cho đến nếu lúc phát khởi Tĩnh lự thứ tư của thế tục thì nói là đạt được A-la-hán. Người ấy trong một đời khởi lên tăng thượng mạn, chưa đạt được nói là đạt được, chưa gặt hái nói là gặt hái, chưa hiểu nói là hiểu, chưa chứng nói là chứng, chứ không cầu thắng tiến. Lúc người ấy mạng chung thì Trung hữu của Tĩnh lự thứ tư hiện rõ trước mắt, liền dấy lên nghĩ rằng: Tất cả kiết ràng buộc mình đã vĩnh viễn đoạn trừ, cần phải nhập Niết-bàn mà lại không có nơi sinh, vì sao có Trung hữu này hiện rõ trước mắt? Liền khởi lên tà kiến bác bỏ không có giải thoát, nếu có giải thoát thì mình phải đạt được. Do lực của tà kiến bài báng Niết-bàn, cho nên Trung hữu của Tĩnh lự thứ tư liền diệt đi, Trung hữu của địa ngục vô gián hiện ra trước mắt, sau khi mạng chung sinh vào địa ngục vô gián. Vậy thì Trung hữu đối với cõi có thể chuyển, lẽ nào nói là đối với cõi không có thể chuyển?

Đáp: Lúc trú trong bổn hữu thì có sự di chuyển này, chứ không phải là phần vị Trung hữu, cho nên không trái ngược nhau. Nghĩa là người ấy sắp chết, do thế lực của nghiệp mà tướng sinh của Tĩnh lự thứ tư hiện rõ trước mặt, người ấy đã thấy rồi liền dấy lên nghĩ rằng: Tất cả kiết ràng buộc mình đã vĩnh viễn đoạn trừ, cần phải nhập Niết-bàn mà lại không có nơi sinh, vì sao có tướng sinh này hiện rõ trước mắt? Liền khởi lên tà kiến bác bỏ không có giải thoát, nếu có giải thoát thì mình phải đạt được. Do lực của tà kiến bài báng Niết-bàn, cho nên tướng sinh của Tĩnh lự thứ tư liền diệt đi, tướng sinh của địa ngục vô gián hiện rõ trước mắt, sau khi mạng chung sinh vào địa ngục vô gián. Trú trong phần vị Bổn hữu thì có sự di chuyển này, chứ không phải là phần vị Trung hữu, cho nên không trái với lý.

Hỏi: Nếu Trung hữu đối với nẽo không có thể chuyển, thì sự việc của người làm điều thiện-ác nên không hiểu thế nào? Xưa trong nước Thất-la-phiệt có hai người, một người luôn luôn tu thiện, một người thường xuyên làm ác. Người thực hành tu thiện ở trong một thân luôn luôn tu hạnh thiện chưa từng làm ác. Người thực hành làm ác ở trong một thân thường xuyên làm hạnh ác chưa từng tu thiện. Người thực hành tu thiện lúc sắp mạng chung vì thuận theo thứ tự sau tiếp nhận lực của nghiệp ác, bỗng nhiên có Trung hữu của địa ngục hiện rõ trước mắt, liền dấy lên nghĩ rằng: Mình trong một thân luôn luôn tu hạnh thiện chưa từng làm ác, phải sinh đến cõi trời, vì sao có Trung hữu này hiện rõ trước mắt? Liền khởi lên nghĩ rằng: Mình nhất định phải có nghiệp ác thuận theo thứ tự sau mà tiếp nhận, nay chín muồi cho nên Trung hữu của địa ngục này hiện rõ trước mắt. Lập tức tự mình nhớ lại, từ trước đến nay mình đã tu nghiệp thiện, trong lòng sinh ra hoan hỷ vô cùng. Bởi vì suy nghĩ điều thiện thù thắng hiện ở trước mắt, cho nên Trung hữu của địa ngục lập tức ẩn mất, Trung hữu của cõi trời bỗng nhiên lúc ấy hiện rõ trước mắt, từ đây mạng chung sinh lên trên cõi trời. Người thực hành làm ác lúc sắp mạng chung, bởi vì thuận theo thứ tự sau tiếp nhận lực của nghiệp thiện, bỗng nhiên có Trung hữu của cõi trời hiện rõ trước mắt, liền dấy lên nghĩ rằng; mình trong một thân thường xuyên làm hạnh ác chưa từng tu thiện, phải sinh vào địa ngục, vì sao có Trung hữu này hiện rõ trước mắt? Liền khởi lên tà kiến bác bỏ không có thiệnác và quả dị thục, nếu có thiện-ác và quả dị thục của thiện-ác thì mình không thích hợp như vậy. Bởi vì lực của tà kiến bài báng nhân quả, cho nên Trung hữu của cõi trời lập tức ẩn mất, Trung hữu của địa ngục bỗng nhiên lúc ấy hiện rõ trước mắt, từ đây mạng chung sinh vào địa ngục. Vậy thì Trung hữu đối với nẽo có thể chuyển, lẽ nào nói là Trung hữu không có thể chuyển?

Đáp: Đó là lúc bổn hữu thì có sự di chuyển này, không phải là phần vị Trung hữu, cho nên không trái ngược nhau. Nghĩa là các Hữu tình đến phần vị mạng chung, có tướng sinh yêu thichk yêu thích hiện rõ trước mắt. Như trong kinh nói: “Người thực hành tu thiện lúc sắp mạng chung, thấy lầu đài nhà cửa-vườn hoa rừng cây-ao hồ-âm nhạc-hương hoa tuyệt vời, bày ra khắp nơi những loại xa kiệu trang hoàng bằng vật báu, tựa như sắp đón tiếp nhau. Người làm điều ác lúc sắp mạng chung, thấy lầu đài nhà cửa-vườn hoa rừng cây-ao hồ-âm nhạc-hương hoa tuyệt vời, bày ra khắp nơi những loại xe-kiệu trang hoàng bằng vật báu, tựa như sắp đón tiếp nhau. Người làm điều ác lúc sắp mạng chung, thấy núi cao khe sâu-lửa dữ ngùn ngụt-khói bụi mịt mù, núi dao-rừng gươm-gai độc dày đặc, cọp beo chồn cáo, mồ mả khắp nơi, nhiều vật dụng ghê sợ bày ra tựa như sắp đón tiếp mình. Người thực hành tu thiện ở phần vị sắp mạng chung, bởi vì lực của nghiệp ác tiếp nhận thuận theo thứ tự sau,cho nên có tướng sinh của nẽo địa ngục hiện rõ trước mắt. Người ấy đã thấy rồi liền dấy lên nghĩ rằng: Trong cả một đời mình luôn luôn tu hạnh thiện chưa từng làm ác, nên sinh lên cõi trời, vì sao có tướng sinh này hiện ra trước mắt? Liền khởi lên nghĩ rằng: Mình nhất định phải có nghiệp ác nhận chịu thuận theo thứ tự về sau nay đã chín muồi, cho nên tướng sinh của địa ngục này hiện ra trước mắt. Liền tự mình nhớ lại từ trước đến nay mình luôn luôn tu nghiệp thiện, trong lòng sinh ra hoan hỷ vô cùng. Bởi vì suy nghĩ điều thù thắng hiện ở trước mắt, cho nên tướng sinh ra của địa ngục lập tức ẩn mất, tướng sinh của cõi trời bỗng nhiên lúc ấy hiện ra trước mắt, từ đây mạng chung sinh lên trên cõi trời. Người làm điều ác, lúc sắp mạng chung, bởi vì lực của nghiệp thiện tiếp nhận thuận theo thứ tự sau, cho nên bỗng nhiên có tướng sinh của nẽo trời hiện ra trước mắt. Người ấy đã thấy rồi liền dấy lên nghĩ rằng: Trong cả một đời mình thường xuyên làm điều ác, chưa từng tu thiện, phải sinh vào địa ngục, vì sao có tướng sinh này hiện ra trước mắt? Lập tức khởi lên tà kiến bác bỏ không có thiện-ác và quả dị thục, nếu có quả dị thục của thiệc-ác thì mình không thích hợp như vậy. Bởi vì lực của tà kiến bài báng nhân quả, cho nên tướng sinh của nẽo trời lập tức ẩn mất, tướng sinh của địa ngục bỗng nhiên lúc ấy hiện ra trước mắt, từ đây mạng chung sinh vào địa ngục”. Đó là phần vị Bổn hữu có sự di chuyển này chứ không phải là phần vị Trung hữu, cho nên không trái với lý.

Hỏi: Nếu như Trung hữu đối với xứ không có thể chuyển được, thì sự việc của vua Ảnh kiên kia nên thông hiểu thế nào? Xưa trong nước Ma-kiệt-đà có vị Đại vương tên gọi là Ảnh kiên, luôn luôn thích tu tập nghiệp thiện thù thắng tuyệt vời của cõi trời Đổ-sử-đa, mạng chung nhờ vào thân Trung hữu ấy đi đến cõi trời ấy. Đến bên cung điện của vua Đa văn ở sườn núi Diệu cao, đúng lúc gặp được các thức ăn uống làm ra dâng lên cho nhà vua, màu sắc tươi sáng-mùi hương tuyệt diệu vô cùng. Trông thấy rồi khởi tâm yêu thích, dấy lên ý nghĩa này: Mong tạm thời sinh ở đây thọ nhận đồ ăn thức uống này, rồi sau đó mới hướng đến cõi trời Đổ-sữ-đa. Lúc dấy lên ý niệm này thì Trung hữu của cõi trời ấy lập tức ẩn mất, Trung hữu của người cõi trời Đa văn hiện rõ trước mắt, vì vậy liền sinh vào cõi trời Đa văn. Vậy thì Trung hữu đối với xứ có thể chuyển, lẽ nào nói là Trung hữu không có thể chuyển được?

Đáp: Đó là lúc Bổn hữu thì có sự di chuyển này chứ không phải là phần vị Trung hữu, cho nên không trái ngược nhau. Nghĩa là vua Ảnh kiên bị con trai là vương tử Vị sinh oán giam vào lao ngục, chặn hết các thức ăn uống, lột da dưới chân, bị đói khát bức bách, nhận chịu những nỗi khổ đau phiền muộn. Lúc bấy giờ đức Phật ở trong núi Thứu phong, thương xót vị vua ấy cho nên thân phát ra ánh sáng Từ bi, từ cửa sổ chiếu vào tỏa trên thân nhà vua, khiến cho nhà vua an ổn thân tâm trong chốc lát, liền dấy lên ý niệm này: Đức Thế tôn đại từ, lẽ nào không rủ lòng thương xót cứu giúp khổ ách cho con! Lúc bấy giờ Đức Thế tôn biết rõ tâm niệm của nhà vua, liền bảo Tôn giả đại Mục kiền liên: Ông hãy nhanh chóng đến chỗ của vua Ảnh kiên, như lời Ta nói rằng: Đại vương nên biết! Ta đối với Đại vương, những gì nên làm thì đều đã làm xong, nghĩa là đã vĩnh viễn trừ bỏ những khổ đau của nẽo ác, trong loài người chẳng mấy chốc nhất định phải nhận chịu nghiệp ác, Đức Phật hãy còn không tránh khỏi, huống hồ nhà vua là Tiểu Thánh mà có thể tránh khỏi hay sao? Nên tự mình an tâm đừng buồn lo khổ não lắm! Lúc bấy giời Tôn giả Đại Mục kiền liên vâng theo lời dạy của đức Phật, lập tức nhập định thù thắng, phát khởi thần cảnh thông từ núi Thứu phong ẩn mình đến cung vua mà xuất hiện, như ở tại suối hồ ẩn hiện tự tại, bỗng nhiên hiện ra rõ ràng trước mặt vua Ảnh kiên, nói với nhà vua rằng: Đại vương nên biết! Đức Như lai đại từ đã nói không có hai lời thấy sâu xa nhân quả, có năng lực khéo léo ghi nhận riêng biệt, cho nên bảo tôi đến an ủi thăm hỏi với nhà vua, khiến nói cho nhà vua biết rằng: Đại vương nên biết! Ta đối với Đại vương, những gì nên làm thì đều đã làm xong, nghĩa là đã vĩnh viễn trừ bỏ những khổ đau của nẽo ác, trong loài người chẳng mấy chốc nhất định phải nhận chịu nghiệp ác, Đức Phật hãy còn không tránh khỏi, huống hồ nhà vua là Tiểu thanh mà có thể tránh khỏi hay sao? Nên tự mình an tâm đừng buồn loa khổ não lắm! Lúc bấy giờ tôn giả đại Mục-kiền-liên nhân tiện lại nhà vua nói về các loại pháp. Lúc ấy nhà vua bị đói khát bức bách làm cho phiền muộn, đối với nghĩa lý đã nói không có thể tiếp nhận rõ ràng, thưa với Mục Liên rằng: Trong thức ăn của các cõi trời, đoàn thực của cõi trời nào là tuyệt vời nhất, nên nói cho con biết, con mong muốn được nghe! Lúc bấy giờ Đại Mục kiền liên theo thứ tự ca ngợi nói về thức ăn uống tuyệt vời trong sáu tầng trời cõi Dục. nhà vua mới nghe nói đến thức ăn uống tuyệt vời của cung vau Đa văn ở cõi trời Tứ thiên vương, lập tức xả mạng sinh đến cung trời ấy, mà làm Thái tử của vua Đa văn, nhà vua được đặt cho tên gọi là Tối thắng tôn. Lập tức từ cõi trời ấy đi đến nơi đức Phật, đến rồi đảnh lễ dưới hai chân của Đức Thế Tôn, hoan hỷ phấn chấn kể ra tên gọi của mình: Con là Tối thắng tôn, nguyện Đức Phật rủ lòng nghĩ đến!

Đó là trú trong bổn hữu lúc sắp mạng chung, tướng sinh của cõi trời Đổ-sử-đa hiện ra trước tiên, lúc yêu thích thức ăn tuyệt vời trong cung vua đa văn, tướng sinh của cõi trời Đổ-sử-đa liền ẩn đi, tướng sinh của Thiên tử cõi Đa văn hiện ra trước mắt, từ đây mạng chung tiếp nhận Trung hữu nơi ấy, nhờ vào Trung hữu này mà sinh vào cõi trời ấy. Đã là Bổn hữu thì có sự di chuyển này không phải là phần vị Trung hữu, cho nên không trái ngược nhau.

******

 

Hỏi: Trú trong phần vị Trung hữu là trải qua bao nhiêu thời gian?

Đáp: Trải qua trong chốc lát bởi vì nhanh chóng cầu sinh, nghĩa là trú vào Trung hữu, cầu duyên sinh ở tất cả cửa ngỏ của sáu xứ, nhanh chóng hướng đến hòa hợp.

Hỏi: Nếu tiếp nhận Trung hữu thì gặp duyên sinh đôi bên hòa hợp có thể nhanh chóng hướng đến nơi ấy, cùng với duyên ấy hội tụ ở trong kiết sinh; nếu gặp duyên sinh không hòa hợp, thì làm sao Trung hữu ấy dừng lại không trải qua thời gian dài? Như có lúc cha ở tại nước Ca-thấp-di-la, mẹ ở tại Chi-na; hoặc có lúc mẹ ở tại nước Ca-thấp-di-la, cha ở tại Chi-na; duyên sinh như vậy khó có thể hòa hợp, làm sao Trung hữu nhanh chóng hướng đến kiết sinh (Trung hữu mất đi mà thác sinh vào thai mẹ)?

Đáp: Nên biết rằng hữu tình làm nghiệp cha mẹ có nhất định và không nhất định, cho nên đối với cha mẹ có nghĩa có thể chuyển và nghĩa không có thể chuyển. Nếu đối với cha mẹ đều có thể chuyển, thì lập tức hướng đến kiết sinh nơi cha mẹ khác đang hòa hợp. Nếu đối với cha mẹ có thể chuyển-đối với mẹ không có thể chuyển, thì tánh của người nữ kia tuy tiết tháo trong trắng-thọ trì năm giới-đầy đủ oai nghi, mà cần phải hòa hợp cùng với người nam khác, khiến cho Trung hữu nhanh chóng hướng về kiết sinh. Nếu đối với mẹ có thể chuyển-đổi với cha không thể chuyển được, thì tánh của người nam kia tuy có tài đức-thọ trì năm giới-oai nghi đầy đủ, mà cần phải hòa hợp với người nữ khác, khiến cho Trung hữu nhanh chóng hướng về kiết sinh. Nếu đối với cha mẹ đều không thể chuyển được, thì hữu tình ấy ở phần vị chưa mạng chung, bởi vì nghiệp lực cho nên khiến cha mẹ đó, tuy có duyên trú mà không lưu luyến, cần phải khởi tâm hòa hợp hướng đến với nhau, lúc họ hướng đến với nhau ở nơi đã trải qua, chất độc không có thể làm hại-dao không có thể làm tổn thương, lửa không có thể đốt cháy-nước không có thể nhấn chìm, và các loại nhân duyên bất ngờ chết yểu khác, đều không có thể ngăn ngại mà nhất định được hòa hợp, khiến cho hữu tình ấy đã mạng chung rồi, vừa tiếp nhận Trung hữu thì hướng đến kiết sinh.

Hỏi: Nếu các hữu tình mà dục thường tăng thì có thể tùy theo Trung hữu nhanh chóng hướng đến kiết sinh. Nếu có tâm dục mà không thường tăng, thì làm sao Trung hữu thuận theo hướng đến kiết sinh? Như ngựa vào mùa Xuân thì tâm dục tăng mạnh, mùa khác thì không như thế; trâu tăng mạnh tâm dục vào mùa Hạ, mùa khác thì không như thế, chó tăng mạnh tâm dục vào mùa Thu, mùa khác thì không như thế; yếu tăng mạnh tâm dục vào mùa Đông, mùa khác thì không như thế; làm sao hữu tình vừa tiếp nhận Trung hữu thì khiến cho nó hòa hợp mà hướng đến kiết sinh?

Đáp: Bởi vì hữu tình ấy trú trong phần vị Trung hữu với lực tăng thượng của nghiệp, khiến cho cha mẹ ấy không đúng lúc mà tâm dục cũng được tăng mạng, hướng về với nhau hòa hợp thì nó được kiết sinh. Có Sư khác nói: Trong chủng loại tương tự cũng được kiết sinh, cho nên không có gì sai. Nghĩa là ngựa tăng mạnh tâm dục vào mùa Xuân, mùa khác thì không như vậy; lừa tăng mạnh tâm dục vào tất cả các mùa, loài phải sinh trong loài ngựa nhưng bởi vì không đúng lúc cho nên chuyển sang sinh trong loài lừa. Trâu tăng mạnh tâm dục vào mùa Hạ, mùa khác thì không như vậy; trâu rừng luôn luôn tăng mạnh tâm dục, nên sinh trong loài trâu mà bởi vì không đúng lúc cho nên chuyển sinh trong loài trâu rừng. Chó tăng mạnh tâm dục vào mùa Thu, mùa khác thì không như vậy; dã can luôn luôn tăng mạnh tâm dục, nên sinh trong loài chó mà bởi vì không đúng lúc cho nên chuyển sinh trong loài dã can. Gấu tăng mạnh tâm dục vào mùa Đông, mùa khác thì không như vậy; gấu ngựa tăng mạnh tâm dục vào tất cả mọi lúc, nên sinh trong loài gấu mà bởi vì không đúng lúc cho nên chuyển sinh trong loài gấu ngựa. tuy hình tướng ấy tương tự với loài khác mà chúng đồng phần như ban đầu không chuyển đổi, bởi vì các Trung hữu không thể chuyển được. Như vậy Trung hữu dừng lại trải qua không bao lâu, bởi vì nhất định hướng đến kiết sinh nhanh chóng cầu sinh.

Tôn giả Thiết-ma-đạt-đa nói rằng: “Trung hữu dừng lại nhiều nhất là trải qua bốn mươi chín ngày, bởi vì bốn mươi chín ngày chắc chắn phải kiết sinh”. Tôn giả Thế Hữu đưa ra cách nói như vậy”. Trung hữu dừng lại nhiều nhất là trải qua bảy ngày, bởi vì thân ấy yếu kém không dừng lại lâu dài”.

Hỏi: Nếu trong bảy ngày duyên sinh hòa hợp thì lúc ấy có thể kiết sinh, nếu như vậy vào lúc duyên sinh chưa hợp thì lúc ấy lẽ nào đoạn hoại hay sao?

Đáp: Lúc ấy không đoạn hoại, nghĩa là phần vị Trung hữu ấy cho đến phần vị duyên sinh chưa hòa hợp, thì liên tục chết đi-liên tục sinh ra cho nên không có đoạn hoại. Đại đức nói rằng: Điều này không có giới hạn nhất định, nghĩa là duyên sinh ấy nhanh chóng hòa hợp, thì thân Trung hữu này dừng lại trong chốc lát; nếu duyên sinh ấy qua thời gian dài chưa hợp lại, thì thân Trung hữu này sẽ dừng lại một thời gian dài, cho đến duyên hợp lại mới có được kiết sinh, cho nên thân Trung hữu dừng lại không có giới hạn nhất định.

Hỏi: Hình lượng của Trung hữu lớn nhỏ thế nào?

Đáp: Trung hữu của cõi Dục như hình lượng của đứa trẻ năm-sáu tuổi; Trung hữu của chúng sinh có hình lượng tròn vẹn đầy đủ như lúc Bổn hữu.

Hỏi: Nếu Trung hữu của cõi Dục như hình lượng của đứa trẻ nămsáu tuổi; thì tại sao đối với cha mẹ khởi lên tưởng điên đảo mà sinh tâm yêu-ghét?

Đáp: Hình lượng tuy nhỏ mà các căn mạnh mẽ sắc bén, có thể làm các sự nghiệp như lúc Bổ hữu; như hình dạng cụ già vẽ trên tường vách…, lượng ấy tuy nhỏ mà có tướng già.

Hỏi: Trung Hữu của Bồ tát thì lượng ấy thế nào?

Đáp: Như lượng của thời gian tuổi trẻ trú trong Bỗn hữu, ba mươi hai tướng trang nghiêm thân ấy, tám mươi vẻ đạp mà làm trang điểm cho nhau, thân sắc vàng ròng-hào quang tròn đầy tỏa sáng một tầm. Vì vậy, lúc Bồ tát trú trong Trung hữu, chiếu soi trăm Câu-chi bốn châu lớn…, như trăm ngàn mặt trời ngay một lúc cùng chiếu rọi; Phạm âm rất tuyệt vời khiến cho mọi người thích nghe, như chim Mỹ Âm có tiếng hót trong trẻo; trí kiến vô ngại lìa các tạp nhiễm.

Hỏi: Trung hữu của Bồ tát nếu như vậy thì tụng về pháp thiện hiện tại nên thông hiểu thế nào? Như nói:

“Thân tướng voi trắng thật đoan nghiêm, đầy đủ sáu ngà và bốn chân,

Biết đích thực tiến vào bụng mẹ, ngủ như Tiên ẩn dật trong rừng”.

Đáp: Điều này không cần phải thông hiểu bởi vì không phỉ là ba Tạng. Văn tụng đã nói hoặc như vậy-hoặc không như vậy, các văn tụng thì lời nói nhiều hơn là sự thật, nếu nhất định phải thông hiểu thì nên cầu theo ý đó, tùy theo tướngmộng hiện bày cho nên đưa ra cách nói này. Nghĩa là trung hữu trong nước ấy mộng thấy tướn ngày cho là điềm tốt lành, đó đó mẹ Bồ tát mộng thấy sự việc này muốn xem tướng thế nào, các Bà la môn nghe rồi đều nói là tướng rất tốt lành, cho nên pháp thiện hiện tại nói ra như vậy cũng không trái với lý. Bồ tát đã trải qua chín mươi mốt kiếp không rơi vào nẽo ác, huống hồ thân cuối cùng tiếp nhận Trung hữu này mà tiến vào thai mẹ hay sao? Vì vậy người trí không nên đựa vào văn tụng đã nói không, mà nói là Bồ tát đã tiếp nhận Trung hữu như hình tướng voi trắng.

Hỏi: Các căn của Trung hữu là đầy đủ hay không đầy đủ?

Đáp: Tất cả trung hữu đều đầy đủ các căn, bởi vì bắt đầu tiếp nhận dị thục thì nhất định phải tròn vẹn tuyệt vời. Có người đưa ra cách nói này: Các căn của Trung hữu cũng có lúc không đầy đủ, tùy theo phần vị Bổn hữu đã không đầy đủ căn thì Trung hữu cũng không đầy đủ; như con dấu in vào vật thì hình tượng hiện ra như con dấu, như vậy như vậy Trung hữu hướng về Bổn hữu, như lúc Bổn hữu có căn không đầy đủ. Trong này, cách nói đầu đối với lý là thích hợp, nghĩa là phần vị Trung hữu cầu sinh xứ ở khắp cửa ngõ của sáu xứ thì căn nhất định không có thiếu khuyết. Đây là nói về nhãn… chứ không phải là nữ căn-nam căn, bởi vì Trung hữu của cõi Sắc không có căn ấy; Trung hữu của cõi Dục thì nó cũng không nhất định, loài nên tiếp nhận Noãn sinh-Thai sinh, trú trong phần vị Trung hữu có nữ căn-nam căn, đến trong Noãn-thai mới có lúc không đầy đủ, nếu không như vậy thì lẽ ra không có nghĩa nên tiếp nhận Noãn sinh-Thai sinh.

Hỏi: Hình dáng của tất cả trung hữu như thế nào?

Đáp: Hình dáng của Trung hữu như Bổn hữu trước kia, nghĩa là nó đang sinh vào nẽo địa ngục thì hình dáng vốn có sẽ như địa ngục, cho đến lúc đang sinh trong cõi trời thì hình dáng vốn có sẽ như cõi trời ấy, bởi vì Trung hữu-Bổn hữu cùng một nghiệp dẫn dắt. Có người đưa ra cách nói này: Nếu ở nơi này mạng chung mà tiếp nhận Trung hữu, thì hình dáng của Trung hữu sẽ như thân này; như con dấu in vào vật rhì hình tượng hiện ra như con dấu. Cách nói ấy phi lý. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì ở cõi vô Sắc mất đi mà tiếp nhận thân Trung hữu của cõi Dục-Sắc thì nơi nào là giốnnghau? Lẽ nào có chư Thiên mà tiếp nhận hình dáng Trung hữu như địa ngục, lẽ nào có địa ngục mà tiếp nhận hình dáng Trung hữu như chư Thiên? Vả lại, ở cõi Sắc mất đi sinh vào cõi Dục, đã tiếp nhận Trung hữu thì lẽ ra không có nam-nữ; ở cõi Dục mạng chung sinh vào cõi sắc, Trung hữu đã tiếp nhận phải là nam-nữ. Vì vậy, trong này cách nói đầu là hợp lý.

Hỏi: Nếu hình dáng của Trung hữu như Bổn hữu trước kia, thì trong bụng một con chó… có lẽ có Trung hữu của năm nẽo lập tức khởi lên, đã có Trung hữu của địa ngục hiện ra trước mắt, thì làm sao không có thể đốt cháy bụng mẹ, bởi vì Bổn hữu của địa ngục phần nhiều bị lửa dự đã đốt cháy?

Đáp: Lìa ấy ở Bổn hữu cũng không luôn luôn bị đốt cháy, như tạm thời di chuyển tăng thêm, hoặc là ở địa ngục khác. Luận Thi Thiết nói: “Có lúc trong Nại-lạc-ca (địa ngục) Đẳng hoạt, gió lạnh chốc lát lại nổi lên có tiếng nói to rằng: Đẳng hoạt, Đẳng hoạt. Lúc bấy giờ hữu tình lập tức đều sống lại”. Bổn hữu hãy còn như vậy, huống là ở tại Trung hữu? Giả sử chấp nhận là luôn luôn bị đốt cháy, mà giống như không thể trông thấy cũng không thể tiếp xúc, bởi vì thân Trung hữu hết sức vi tế, lửa cũng phải như vậy; Trung hữu của các nẽo tuy ở cùng một bụng nhưng không phải là tiếp xúc-đốt cháy lẫn nhau, bởi vì nghiệp đã ngăn trở, bụng mẹ cũng như vậy cho nên không bị đốt cháy.

Hỏi: Nếu hữu tình ở nơi nhỏ bé mạng chung sinh vào cõi Sắc, thì làm sao dung nạp được hình dáng to lớn của Trung hữu cõi Sắc?

Đáp: Sắc thân của Trung hữu vi tế vô ngại, lẽ nào sợ nơi nhỏ bé mà không dung nạp được hay sao? Hình dáng của Trung hữu tuy giống như Bổn hữu trước kia, mà sự nghiệp.. không nhất định phải đều giống nhau.

Hỏi: Hành tướng của Trung hữu các nẽo như thế nào?

Đáp: Trung hữu địa ngục thì đầu ở dưới-chân ở trên mà hướng đến địa ngục, cho nên bài tụng nói:

“Điên đảo rơi vào chốn địa ngục, chân phía trên-đầu quay xuống dưới,

Bởi vì hủy báng các vị Tiên, vui với vắng lặng Thủ uẩn khổ hạnh”.

Trung hữu chư Thiên thì chân ở dưới-đầu ở trên, như người lấy mũi tên bắn lên trên hư không, tiến lên phía trên mà đi đến nơi cõi trời; Trung hữu các nẽo khác thảy đều đi ngang, như chim bay giữa bầu trời mà hướng đến nơi sình. Lại như trên tường họa ra làm vị Tiên bay lượn, toàn thân đi ngang cầu đến nơi sẽ sinh ra.

Hỏi: Tướng đi lại của Trung hữu đều như vậy chăng?

Đáp: Nên đưa ra cách nói này: Không phải là đều như vậy, mà dựa vào người mạng chung trong loài người để nói. Nếu ở địa ngục chết đi lại sinh vào địa ngục, thì không phải là đầu ở dưới-chân ở trên mà đi; nếu trong loài trời chết đi lại sinh vào cõi trời, thì không phất định phải là chân ở dưới-đầu ở trên mà đi; nếu ở địa ngục chết đi sinh vào loài người, thì phải là đầu ở trên mà lên cao; nếu ở trong loài trời chết đi sinh vào loài người, thì phải là đầu quay xuống dưới. Trung hữu của nẽo quỷ và nẽo bàng sinh tùy theo nơi mà có hướng đến, như thích hợp nên biết.

Có Sư khác nói: Tướng đi lại Trung hữu, tất cả đều như vậy. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì biểu nghiệp đã tạo có sai biệt, nghĩa là nghiệp của địa ngục rất xấu xa hèn hạ, cho nên bắt đầu tiếp nhận Trung hữu thì đầu phải quay xuống dưới, sau đó tùy theo nơi đến mà tướng đi không nhất định. Nghiệp sinh vào cõi trời rất thù thắng, cho nên bắt đầu tiếp nhận Trung hữu thì đầu nhất định phải hướng lên trên, sau đó tùy theo nơi đến mà tướng đi không nhất định. Nghiệp của ba loại còn lại không phải là cao nhất-thấp nhất, cho nên Trung hữu ấy lúc ban đầu đều đi ngang, sau mới tùy theo nơi đến mà tướng đi không nhất định.

Lại có người nói: Tất cả Trung hữu bắt đầu tiếp nhận dị thục của nghiệp đã tạo, đều có sai biệt về biễu nghiệp đã tạo, Trung hữu địa ngục là do nghiệp thấp nhất mà được quả, cho nên tùy theo lúc đi lại chuyển động thì chân ở trên-đầu ở dưới; Trung hữu chư Thiên là do nghiệp cao nhất mà được quả, cho nên tùy theo lúc đi lại chuyển động thì chân phía dưới-đầu phía trên; ba Trung hữu còn lại là do nghiệp ở nghiệp trug bình mà được quả, cho nên tùy theo lúc đi lại chuyển động thì đầu và chân đều không có trên-dưới, tuy nơi hướng đến của nó trêndưới không nhất định mà lúc đi lại chuyển động thì đầu và chân cần phải như vậy.

Hỏi: Lúc Trung hữu sinh ra là có y phục hay không?

Đáp: Trung hữu cõi Sắc thì tất cả đều có y phục, bởi vì trong chúng sinh tăng thêm về tàm quý, tàm quý chính là y phục của Pháp thân; như Pháp thân ấy có đủ y phục tốt đẹp, sinh thân cũng như vậy, cho nên Trung hữu ấy thường mang y phục theo cùng. Trung hữu cõi Dục phần nhiều không có y phục, bởi vì trong cõi Dục phần nhiều không có tàm quý, chỉ ngoại trừ Bồ tát và Tỳ kheo Ni trong trắng mà tiếp nhận Trung hữu thì luôn luôn có y phục tuyệt vời nhất. Có Sư khác nói: Trung hữu của Bồ tát cũng không có y phục, chỉ có các thâu nhiếp Ni trong trắng mà tiếp nhận Trung hữu thì thường mang y phục theo cùng.

Hỏi: Vì sao Trung hữu của Bồ tát không có y phục mà Trung hữu của các Tỳ kheo Ni trong trắng lại có y phục?

Đáp: Bởi vì Ni trong trắng đã từng đem y phục giúp cho Tứ phương Tăng, cho nên Trung hữu ấy thường có y phục.

Hỏi: Nếu như vậy thì Bồ tát ở đời quá khứ đem y phục tuyệt vời giúp cho Tứ phướng Tăng, các Ni trong trắng đã bố thí y phục, cho dù nghiền nát thành bụi nhỏ mà hãy còn chưa so sánh được, thì làm sao Trung hữu của Bồ tát không có y phục, mà Trung hữu kia lại thường có y phục?

Đáp: Bởi vì nguyện lực của họ khác với Bồ tát, nghĩa là Ni trong trắng đem y phục dâng cúng Tứ phương Tăng rồi, liền phát nguyện rằng: nguỵên cho con đời đời thường mặc y phục, thạm chí Trung hữu cũng không để lộ hình hài. Do nguyện lực ấy đã dẫn dắt phát ra, cho nên nơi đã sinh ra thường đầy đủ y phục, thân cuối cùng của họ đã tiếp nhận Trung hữu thường có y phục, ở phần vị tiến vào thai mẹ cho đến lúc sinh ra, y phục không lìa khỏi thân thể; giống như thân ấy dần dần lớn lên như vậy như vậy thì y phục thuận theo dần dần to lớn, về sau chánh tín xuất gia ở trong Phật pháp, y phục trước kia đã mặc trở thành pháp phục; thọ giới cụ túc rồi chuyển thành pháp y năm điều, ở trong Phật pháp chịu khó Thủ uẩn tập chánh hạnh, không bao lâu thì chứng quả A-la-hán, cho đến cuối cùng lúc nhập Niết-bàn sẽ dùng y này quấn thân mà hỏa táng. Bồ tát trải qua ba vô số kiếp quá khứ đã Thủ uẩn các loại thiện hạnh thù thắng, đều vì hồi hướng Bồ-đề vô thượng làm lợi ích an lạc cho các hữu tình. Do hạnh nguyện này vào thân cuối cùng ở địa vị tôn quý thù thắng nhất giữa các hữu tình, chúng sinh gặp nhau thì không có ai không được nhờ lợi ích. Vì vậy, Bồ tát đã tiếp nhận Trung hữu tuy đầy đủ tướng tốt mà không có y phục, do nguyện lực có khác cho nên không cần phải vấn nạn làm gì. Những người có phát nguyện như Ni trong trắng, đã tiếp nhận Trung hữu cũng có y phục. Nên biết trong này cách nói trước là hợp lý. Công đức của Bồ tát tăng thượng về tàm quý, còn lại Trung hữu của các hữu tình cõi Sắc vốn không sánh kịp, cho nên ở phần vị Trung hữu chắc chắn không để lộ hình hài.

Hỏi: Ở phần vị Trung hữu có cần cung cấp đoàn thực hay không?

Đáp: Trung hữu cõi Sắc không cần cung cấp đoàn thực, Trung hữu cõi Dục nhất định phải cung cấp đoàn thực.

Hỏi: Trung hữu cõi Dục đoàn thực thế nào?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Trung hữu cõi Dục đến nơi có thức ăn thì ăn thức ăn của nơi ấy, đến nơi có nước uống thì uống nước uống của nơi ấy, nhờ vào đồ ăn thức uống ấy để tự giúp mình tồn tại. Cách nói này phi lý. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Trung hữu rất nhiều khó mà chu cấp tất cả. Như trong kinh nói: “Như trút thóc gạo… từ các túi đựng trong kho dựa vào trong nồi với số lượng rất nhiều, hữu tình năm nẽo đã tiếp nhận Trung hữu phân tán ở khắp nơi có số lượng vượt quá thóc gạo ấy” nếu Trung hữu thọ dụng các thức ăn uống thì tất cả thế gian vốn có đồ ăn thức uống, chỉ cung cấp cho Trung hữu của một loài chó hãy còn không chu cấp đầy đủ, huống gì Trung hữu các loại khác mà có thể đầy đủ hay sao? Và lại, thân Trung hữu đã rất nhẹ nhàng mà tiếp nhận thức ăn thô nặng thì thân phải tan hoại. Nên đưa ra cách nói này: Trung hữu ăn hương chứ không ăn vật chất thô ráo, cho nên không có lỗi lầm trước. Nghĩa là loài có phước thì tiếp nhận mùi hương nhẹ nhàng tốt đẹp của các thức ăn-hoa quả… thanh tịnh để tự sống còn, nếu loài không có phước thì tiếp nhận mùi hương ít ỏi nhỏ nhoi của các loại thức ăn thối rữa-rác rưởi hôi hám để tự sống còn. Vả lại, mùi hương đã ăn kia rất ít, Trung hữu tuy nhiều mà được chu cấp đầy đủ.

Như vậy, Trung hữu có nhiều loại tên gọi, Trung hữu có nhiều loại tên gọi, hoặc gọi là Trung hữu, hoặc gọi là Kiền-đạt-phược, hoặc gọi là cầu hữu, hoặc gọi là Ý thành.

Hỏi: Vì sao Trung hữu hoặc gọi là Trung hữu?

Đáp: Ở sau Tử hữu-ở trước Sinh hữu, ở giữa hai Hữu có tự Thể dấy khởi, do Dục hữu-Sắc hữu thâu nhiếp cho nên gọi là Trung hữu.

Hỏi: Hữu khác cũng ở khoảng giữa hai hữu mà có tự Thể dấy khởi, do ba Hữu thâu nhiếp thì lẽ nào không phải là Trung hữu?

Đáp: Nếu như Hữu nằm ở khoảng giữa của hai Hữu, nhẹ nhàng bé nhỏ khó thấy-khó hiểu-khó rõ ràng thì thiết lập tên gọi Trung hữu; Hữu khác tuy ở khoảng giữa của hai Hữu, mà thô thiển nặng nề dễ thấy-dễ hiểu-dễ rõ ràng, cho nên không gọi là Trung hữu. Lại nữa, nếu như Hữu nằm ở khoảng giữa của hai Hữu, là cõi-là sinh chứ không do nẽo thâu nhiếp thì gọi là Trung hữu; Hữu khác tuy ở khoảng giữa của hai Hữu mà cõi-sinh-nẽo thâu nhiếp cho nên không phải là Trung hữu. Lại nữa, nếu như Hữu nằm ở khoảng giữa của hai hữu, đã rời bỏ nẽo trước mà chưa đến nẽo sau thì nói là Trung hữu; Hữu khác tuy ở khoảng giữa của hai Hữu mà chưa rời bỏ nẽo trước gọi là Kiền-đạt-phược?

Đáp: Bởi vì nó ăn mùi hương mà giúp mình tồn tại, tên gọi này chỉ thuộc về Trung hữu cõi Dục.

Hỏi: Vì sao Trung hữu gọi là Kiền-đạt-phược?

Đáp: Bởi vì nó ăn mùi hương mà giúp mình tồn tại, tên gọi này chỉ thuộc về Trung hữu cõi Dục.

Hỏi: Vì sao Trung hữu gọi là cầu hữu?

Đáp: Bởi vì ở cửa ngõ của sáu xứ mà cầu sinh hữu, như tâm trú vào Trung hữu gọi là cầu mong Hữu lậu nối tiếp nhau mạnh mẽ sắc bén, trú vào Hữu khác thì không như vậy, cho nên chỉ có Trung hữu thiết lập tên gọi Cầu hữu.

Hỏi: Vì sao Trung hữu lại gọi là Ý thành?

Đáp: Bởi vì từ ý mà sinh, nghĩa là các hữu tình hoặc từ ý sinh ra, hoặc từ nghiệp sinh ra, hoặc từ dị thục sinh ra, hoặc từ dâm dục sinh ra. Từ ý sinh ra, đó là người ở thời kỳ bắt đầu của kiếp và các Trung hữu, thân của cõi Sắc-Vô Sắc cùng với thân kiến hóa. từ nghiệp sinh ra, đó là các địa ngục, như trong Kinh nói: “Hữu tình địa ngục do nghiệp trói buộc mà không thể nào thoát ra được, do nghiệp mà sinh chứ không dó ý thích”. Từ dị thục sinh ra, đó là các loài chim bay và quỷ thần…, do thế mạnh của dị thục ấy nhẹ nhàng nhanh nhạy cho nên có năng lực bay lượn di chuyển giữa hư không, hoặc tường vách ngăn cách không có gì trở ngại. Từ dâm dục sinh ra, đó là sáu tầng trời cõi Dục và các loài như người. Các thân Trung hữu từ ý sinh ra, nhờ vào ý hành cho nên gọi là Ý thành.

Trong kinh, Đức Thế Tôn nói như vậy: “Do ba sự hòa hợp mà được tiến vào thai mẹ cha, mẹ đều có tâm nhiễm mà hòa hợp, thân mẹ điều hòa dễ chịu không có bệnh, lúc ấy cùng với kiền-đạt-phựơc đang hiện ở trước mắt. Kiền-đạt-phựơc này lúc bấy giờ hai tâm lần lượt chuyển đổi hiện rõ trước mắt mà tiến vào thai tạng của mẹ”.

Trong này, ba sự hòa hợp, nghĩa là cha và mẹ cùng với Kiền-đạtphựơc, cả ba sự cùng hòa hợp, cha mẹ đều có tâm nhiễm mà hòa hợp, nghĩa là cha và mẹ đều khởi lên tham dâm mà cùng nhau hòa hợp ân ái. Thân mẹ điều hòa dễ chịu không có bệnh, lúc ấy mẹ khởi lên tham muốn thì thân tâm vui vẻ sung sướng, gọi là thân điều hòa dễ chịu.

Người trì luật nói: Do mẹ khởi lên tham muốn mà thân tâm hỗn loạn mờ mịt, như nước mùa Xuân-Hạ đục ngầu mà chảy ra, không thể nào tự giữ mình, gọi là thân hỗn trựơc. Bụng mẹ sạch sẽ không có gió lạnh-hơi-nóng-đàm dãi cùng bức bách lẫn nhau, cho nên gọi là không có bệnh. Từ đó trong chín tháng hoặc mười tháng giữ gìn hay trì bào thai khiến cho không bị hư hoại. Nói là lúc ấy, nghĩa là những người mẹ có sự việc dơ bẩn xấu xa, hằng tháng luôn luôn có máu loãng chảy ra; máu loãng này nếu quá nhiều thì do ẩm ướt, cho nên không được thành thai; máu loãng này nếu quá ít thì do khô đặc, cho nên cũng không thành thai; nếu máu loãng này không ít-không nhiều-không khô-không ướt, thì mới được thành thai. Gọi là lúc ấy, là lúc Trung hữu tiến vào thai, nghĩa là máu loãng của mẹ vào lúc cuối cùng còn lại có hai giọt, tinh của cha cuối cùng còn lại có một giọt, lần lượt hòa hợp với nhau mới được thành thai. Cùng với Kiền-đạt-phựơc đang hiện ở trước mắt, nghĩa là chính Trung hữu hiện rõ ở trước nơi này, chư không phải là ở nơi nào khác, không phải là trước không phải là sau. Kiền-đạt-phược này lúc bấy giờ hai tâm lần lượt chuyển đổi hiện rõ trước mắt mà tiến vào thai tạng của mẹ, nghĩa là lúc Kiền-đạt-phựơc sắp tiến vào thai thì hai tâm yêu-ghét đối với cha-dối với mẹ lần lượt chuyển đối hiện khởi mới được tiến vào thai. Nếu là Trung hữu nam thì lúc sắp tiến vào thai, đối với mẹ khởi lên yêu thích, đối với cha khởi lên căm ghét, dấy lên nghĩ như vậy. Nếu người đàn ông kia rời khỏi nơi này thì mình sẽ giao hoan ân ái cùng với người đàn bà này. Dấy lên ý niệm này rồi sinh ra tưởng điên đảo, thấy người đàn ông kia rời xa nơi này, lập tức tự thấy mình hòa hợp cùng với người đàn bà. Lúc cha mẹ giao hoan ân ái tinh huyết chảy ra, liền cho rằng tinh của cha là mình vốn có, thấy rồi sinh ra vui sướng mà lập tức mê muội đi. bởi vì mê muội cho nên Trung hữu thô nặng, đã thọ nặng rồi thì tiến vào thai mẹ, tự thấy thân của mình ngồi xổm hướng về xương sống ở hông phải của mẹ. Lúc bấy giờ các uẩn Trung hữu liền diệt đi, uẩn sinh hữu sinh ra gọi là kiết sinh rồi. Nếu là Trung hữu nữ thì lúc sắp tiến vào thai, đối với cha khởi lên yêu thích, đối với mẹ khởi lên căm ghét, dấy lên nghĩ như vậy: Nếu người đàn bà kia rời khởi nơi này thì mình sẽ giao hoan ân ái cùng với người đàn ông này. Dấy lên ý niệm này rồi sinh ra tưởng điên đảo, thấy người đàn bà kia rời xa nơi này, lập tức tự thấy mình hòa hợp cùng với người đàn ông. Lúc cha mẹ giao hoan ân ái tinh huyết chảy ra, liền cho rằng huyết của mẹ là mình vốn có, thấy rồi sinh ra vui sướng mà lập tức mê muội đi. bởi vì mê muội cho nên Trung hữu thô nặng, đã thô nặng rồi liền tiến vào thai mẹ, tự thấy thân của mình ngồi xổm hướng về phía bụng ở hông trái của mẹ. Lúc bấy giờ các Uẩn Trung hữu liền diệt đi, uẩn sinh hữu sinh ra gọi là kiết sinh rồi. Các loài hữu tình phần nhiều khởi lên tưởng điên đảo như vậy rồi mà tiến vào thai mẹ, chỉ ngoại trừ Bồ tát lúc sắp tiến vào thai, đối với cha nghĩ là cha-đối với mẹ nghĩ là mẹ, tuy có năng lực biết đích thực mà đối với người mẹ ấy khởi lên niệm yêu thương thân thiết, nhờ vào lực của niệm yêu thương ấy liền tiến vào thai mẹ; còn lại thì tùy theo sự thích hợp, nghĩa như trước đã nói:

Hỏi: Trung hữu tiến vào thai mẹ từ nơi nào?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này; Trung hữu không có ngăn ngại gì, tùy theo ưa thích mà liền tiến vào thai.

Hỏi: Nếu Trung hữu không có gì có thể chướng ngại, thì tại sao dựa vào trong thai mẹ mà dừng lại nơi này?

Đáp: Do nghiệp lực câu thúc cho nên dựa vào nơi này mà dừng lại, nghiệp lực của hữu tình không thể nghĩ bàn được, không có vật gì chướng ngại làm cho có chướng ngại được, vì vậy đối với điều này không cần phải chất cấn làm gì. Nên đưa ra cách nói này: Trung hữu tiến vào thai nhất định phải đi theo Sinh môn (cửa sinh đẻ), bởi vì là nơi yêu thích. Do nghĩa lý này mà các cặp song sinh, thì người sinh ra sau là lớn hơn. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì người tiến vào thai trước thì chắc chắn phải sinh ra sau.

Hỏi: Trung hữu của Bồ tát tiến vào thai từ nơi nào?

Đáp: Từ hông bên phải mà tiến vào, biết đích thực tiến vào thai, đối với mẹ nghĩ là mẹ, bởi vì không có dâm ái. Lại có người nói: Tiến vào từ Sinh môn, bởi ví các loài Noãn sinh-Thai sinh thì pháp thuận theo như vậy.

Hỏi: Luân vương-Độc giác trước ở phần vị Trung hữu tiến vào thai từ nơi nào?

Đáp: Tiến vào từ hông bên phải, biết đích thực tiến vào thai, đối với mẹ nghĩ là mẹ, bởi vì không có dâm ái. Lại có người nói: Tiến vào từ Sinh môn, bởi vì các loài Noãn sinh-Thai sinh thì pháp thuận theo như vậy. Có Sư khác nói: Phước tuệ của Bồ tát hết sức tăng thượng, cho nên lúc sắp tiến vào thai không có tưởng điên đảo, không dấy khởi dâm ái; Luân vương và Độc giác tuy có phước tuệ mà không phải là hết sức tăng thượng, cho nên lúc sắp tiến vào thai tuy không có tưởng điên đảo nhưng cũng dấy khởi dâm ái, ở phần vị tiến vào thai nhất định phải đi theo Sinh môn.

Luận Thi Thiết nói: Nếu phước nghiệp của cha mẹ kia tăng thượng, phước nghiệp của con thấp kém thì không thể nào tiến vào thai; nếu phước nghiệp của cha mẹ kia thấp kém, phước nghiệp của con tốt đẹp hơn thì không thế nào tiến vào thai; cần phải phước nghiệp của cha mẹ và con như nhau thì mới tiến vào thai được.

Hỏi: Nếu người đàn ông giàu sang giao hợp với người đàn bà nghèo hèn, hoặc người đàn bà giàu sang giao hợp với người đàn ông nghèo hèn, thì làm sao Trung hữu cũng được tiến vào thai?

Đáp: Người đàn ông giàu sang vào lúc giao hợp với người đàn bà nghèo hèn, cần phải dấy khởi ý tưởng thấp kém đối với chính mình, sinh khởi ý tướng cao quý đối với người đàn bà ấy. Người đàn bà giàu sang vào lúc giao hợp với người đàn ông nghèo hèn, nhất định phải sinh ra ý tưởng thấp kém đối với chính mình, dấy khởi ý tưởng cao quý đối với người đàn ông ấy. Lúc người đàn ông nghèo hèn cùng với người đàn bà giàu sang giao hợp, nhất định phải sinh khởi ý tưởng cao quý đối với chính mình, dấy khởi ý tưởng thấp kém đối với người đàn bà ấy. Lúc người đàn bà nghèo hèn cùng với người đàn ông giàu giao hợp, nhất định phải dấy khởi ý tưởng cao quý đối với chính mình, sinh khởi ý tưởng thấp kém với người đàn ông ấy. Con đối với cha mẹ, ở phần vị sắp tiến vào thai nên biết cũng như vậy, cho nên lúc tiến vào thai đều có nghĩa bằng nhau.

Hỏi: Trung hữu vi tế thì tất cả tường vách-cây to… đều không có thể ngăn ngại, Trung hữu nơi này-nơi kia thì làm trở ngại nhau chăng?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Trung hữu nơi này-nơi kia cũng không trở ngại lẫn nhau, bởi vì hết sức vi tế cho nên lúc thân va chạm với nhau mà không nhận biết. Lại có người nói: Trung hữu nơi này-nơi kia cũng ngăn ngại lẫn nhau, bởi vì lúc gặp nhau thì đôi bên lần lượt chuyển đổi mà nói năng.

Hỏi: Nếu như vậy thì lẽ nào nói là Trung hữu không có gì ngăn ngại?

Đáp: Không có gì ngăn ngại là đối với những sự việc khác, chứ không phải là nói đến Trung hữu.

Hỏi: Trung hữu đôi bên đều ngăn ngại nhau chăng?

Đáp: Chủng loại của mình ngăn ngại nhau chứ không phải là đối với chủng loại khác, nghĩa là Trung hữu địa ngục chỉ ngăn ngại Trung hữu địa ngục, cho đến Trung hữu loài trời chỉ ngăn ngại Trung hữu loài trời. Có người đưa ra cách nói này: Thấp kém ngăn ngại đối với tốt đẹp, bởi vì thô thiển nặng nề; tốt đẹp không ngăn ngại thấp kém, bởi vì vi tế nhẹ nhàng. Nghĩa là Trung hữu địa ngục ngăn ngại cả năm loại Trung hữu, Trung hữu bàng sinh ngăn ngại bốn loại Trung hữu, Trung hữu cõi quỷ ngăn ngại ba loại Trung hữu, Trung hữu loài người ngăn ngại hai loại Trung hữu, Trung hữu loài trời chỉ ngăn ngại Trung hữu loài trời.

Hỏi: Lực của Thần cảnh thông ra sở hành của các hữu tình ở phần vị Trung hữu, thì loại nào là nhanh hơn?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Trung hữu đi nhanh hơn. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì trong kinh nói nghiệp lực hơn hẳn thần thông. Nói như vậy thì lực của Thần cảnh thông có thế mạnh di chuyển nhanh chóng chứ không phải là các Trung hữu.

Hỏi: Nếu như vậy thì tại sao kinh nín nghiệp lực hơn hẳn Thần cảnh thông?

Đáp: Dựa vào tính chất không có gì chướng ngại cho nên nói như vậy, chứ không dựa vào thế mạnh di chuyển. Nghĩa là thần thông của Phật có năng lực ngăn trở thần thông của tất cả hữu tình, thần thông của Độc giác ngoại trừ Phật thì có năng lực ngăn trở các thần thông khác, thàn thông của Xá-lợi-tử ngoại trừ Phật-Độc giác thì có năng lực ngăn trở thần thông của tất cả hữu tình, thần thông của Đại Mục-kiềnliên ngoại trừ Phật-Độc giác và Xá-lợi-tử thì có năng lực ngăn trở thần thông của tất cả hữu tình. Thần thông của những người lợi căn có năng lực ngăn trở thần thông của tất cả những người độn căn, không có PhậtĐộc giác và tất cả Thanh văn, cùng hữu tình-chú thuật-các vị thuốc nào khác, có năng lực ngăn trở Trung hữu khiến cho không thể hướng đến nơi cần phải thọ sinh, nhưng mà nhất định phải hướng đến kiết sinh tùy theo chủng loại của nó. Vì vậy, trong kinh nói các nghiệp lực hơn hẳn thần thông lực. Nếu dựa vào thế mạnh di chuyển mà soạn luận, thì nên nói là thần thông hơn hẳn Trung hữu.

Hỏi: Trung hữu là có thể trông thấy lẫn nhau hay không?

Đáp: Có thể trông thấy lẫn nhau.

Hỏi: Loài nào có thể trông thấy loài nào?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Trung hữu địa ngục chỉ trông thấy Trung hữu địa ngục, cho đến Trung hữu loài trời chỉ trông thấy Trung hữu loài trời. Có Sư khác nói: Trung hữu địa ngục chỉ trông thấy

Trung hữu địa ngục, Trung hữu bàng sinh trông thấy hai loại Trung hữu, Trung hữu cõi quỷ trông thấy ba loại Trung hữu, Trung hữu loài người trông thấy bốn loại Trung hữu, Trung hữu loài trời trông thấy năm loại Trung hữu. Lại có người nói: Trung hữu địa ngục trông thấy năm loại

Trung hữu. Lại có người nói: Trung hữu địa ngục trông thấy năm loại Trung hữu, cho đến Trung hữu loài trời cũng trông thấy năm loại Trung hữu.

Hỏi: Mắt của các Bổn hữu trông thấy Trung hữu hay không?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: mắt của địa ngục-bàng sinhquỷ và loài người không trông thấy Trung hữu, chỉ có mắt của loài trời có thể trông thấy Trung hữu.

Hỏi: Mắt của các loài trời thì loài nào có thể trông thấy loài nào?

Đáp: Có người đưa ra cách nói này: Mắt của loài trời Tứ đại vương chúng, trừ ra Trung hữu ở xứ trên mình thì trông thấy Trung hữu ở xứ dưới, cho đến mắt của loài trời Tha hóa tự tại, trừ ra Trung hữu của xứ trên mình thì trông thấy Trung hữu của xứ dưới. Mắt của loài trời ở Tĩnh lự thứ nhất, trừ ra Trung hữu của xứ trên mình thì trông thấy Trung hữu của xứ dưới; cho đến mắt của loài trời ở Tĩnh lự thứ tư, trừ ra Trung hữu của xứ tên mình thì trông thấy Trung hữu của xứ dưới. Lại có người nói: Mắt của trời cõi Dục không trông thấy Trung hữu, mắt của trời cõi Sắc có thể trông thấy Trung hữu, nhưng chỉ có thể trông thấy phía dưới chứ không trông thấy phá trên mình. Hoặc đưa ra cách nói này: Không có mắt của Sinh đắc có thể trông thấy Trung hữu của Tĩnh lự thứ tư. Nên đưa ra cách nói này: Trú trong Bổn hữu thì các mắt của sinh đắc đều không có năng lực trông thấy thân Trung hữu, chỉ có Thủ uẩn hết sức thanh tịnh mà đạt được Thiên nhãn thì có thể trông thấy Trung hữu.

Hỏi: Vì sao biết như vậy?

Đáp: Bởi vì trong kinh nói. Nghĩa là trong kinh nói: “Hoặc là namhoặc là nữ đầy đủ Thi-la thanh tịnh, Thủ uẩn các pháp thiện, người ấy mạng chung rồi đạt được ý thành thân, như áo trắng tỏa sáng hoặc như đêm sáng tỏ, Thiên nhãn hết sức trong sáng mới có thể trông thấy được. Hoặc là nam-hoặc là nữ hủy phạm tịnh giới, làm các pháp ác, người ấy mạng chung rồi đạt được Ý thành thân, như vật sáng đen ngòm hoặc như đêm tối đen, Thiên nhãn hết sức trong sáng mới có thể trông thấy được”. Vì vậy cho nên biết là trú đúng Bỗn hữu thì các mắt của Sinh đắc đều không có năng lực trông thấy thân Trung hữu.

Tỳ-nại-da nói: “Độ-sử-ma-la, Dược xoa Già-chu, Đề-bà-đạt-đa, Tỳ-lô-trạch-ca, đều ngay thân này rơi vào trong Đại địa ngục vô gián nhận chịu những khổ đau ác nhiệt”.

Hỏi: Những loại này là tiếp nhận thân Trung hữu hay không?

Đáp: Tiếp nhận thân Trung hữu, nhưng hỏi vì nhanh chóng khó có thể nhận biết, cho nên đưa ra cách nói này: Một Sát-na đầu uẩn Tử hữu diệt đi-Uẩn Trung hữu sinh ra, một sát-na sau uẩn Trung hữu diệt đi-uẩn sinh hữu sinh ra, vì vậy nhanh chóng khó có thể nhận biết. Có người đưa ra cách nói này: Họ đối với Phật đều dấy khởi các hành sâu nặng, lúc sắp mạng chung thì thân hết sức nặng nề, cho nên mặt đất này không có thể giữ được họ, như dầu tưới xuống cát thì lập tức thấm sâu vào. Đã đi vào lòng đất rồi thì mới mạng chung, tiếp nhận thân Trung hữu sau khi sinh vào địa ngục. Vì vậy nói là họ đều ngay thân này rơi vào trong Đại địa ngục vô gián, dựa vào lúc bắt đầu rơi vào mà đưa ra cách nói này. Có Sư khác nói: nghiệp của họ mạnh mẽ sắc bén, chưa đến lúc mạng chung mà ngọn lửa của địa ngục vô gián vọt lên trói lấy thân họ kéo vào địa ngục, họ ở giữa đường thì mới mạng chung mà tiếp nhận thân Trung hữu, sau đến địa ngục thì xả thân Trung hữu mới được sinh ra ở đó. Dựa vào lúc bắt đầu ra đi mà đưa ra cách nói này, cũng không trái với lý.

Như trong Kinh nói: “Lúc bấy giờ Thiên Đế liền ở trước Đức Phật nói tụng rằng:

Bậc Đại Tiên cần phải biết rõ, tôi đã ở tại chỗ ngồi này,

Vẫn đạt được thọ mạng loài trời, chỉ mong bậc Đại Tiên ghi nhớ”.

Hỏi: Thiên Đế lúc bấy giờ có tử-sinh hay không? Giả sử như vậy thì có gì sai? Cả hai đều có lỗi lầm. Nguyên cớ thế nào? bởi vì nếu có tử sinh thì phải tiếp nhận Trung hữu, làm sao lúc ấy mọi người luôn luôn trông thấy thân ấy? Nếu không có tử-sinh thì làm sao Đế Thích nói là vẫn đạt được thọ mạng loài trời? Đáp: Nên đưa cách nói này: Thiên Đế không có tử-sinh.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông suốt vấn nạn, đã đưa ra trước đây, bài tụng đã nói nên thông hiểu thế nào?

Đáp: Dựa vào thoát khỏi nẽo ác cho nên đưa ra cách nói này, nghĩa là Đức Phật vì Thiên Đế nói tóm lược về pháp quan trọng, Thiên Đế thấy rõ Chân đế đạt được quả Dự lưu, hoàn toàn giải thoát đối với các nẽo ác, tùy theo ý thích mà thọ sinh vào nẽo trời-người, cho nên ở trước Đức Phật hoan hỷ phấn chấn, phát ra những lời ái ngữ mà nói bài tụng này; như người nhờ vào người khác mà thoát khỏi lao ngục, tùy theo ý thích mà đi lại vui đùa tự do, về đến nơi người đã cứu mình phát ra lời nói như vậy: Tôi nhờ ân đức của ông mà vẫn có được thọ mạng; Thiên đế cũng như vậy, cho nên không trái ngược nhau.

Lại nữa, đó là dựa vào thoát khỏi căn bệnh của các phiền não do kiến đạo mà đoạn, cho nên đưa ra cách nói này, nghĩa là Đức Phật vì Thiên Đế nói tóm lược về pháp quan trọng, khiến cho đoạn dứt tất cả căn bệnh của các phiền não do kiến đạo mà đoạn, an trú trong Thánh đạo vô bệnh bậc nhất và trong đạo quả, cho nên ở trước Đức Phật hoan hỷ phấn chấn nói ra bài tụng này. Như người gặp được thầy thuốc chữa trị bệnh nặng được lành hẳn, tùy ý thọ dụng các loại đồ ăn thức uống, trở về đến nơi thầy thuốc phát ra lời nói như vậy: Tôi nhờ vào ân đức của ông mà còn có được thân mạng; Thiên đế cũng như vậy, cho nên không trái ngược nhau.

Lại nữa, đó là dựa vào đạt được bốn thần túc Thọ, cho nên ở trước Đức Phật nói ra bài tụng như vậy. Như trong kinh nói: “Tỳ kheo nên biết! Như thế nào là Thọ? Đó là bốn thần túc”. Đức Thế Tôn vì Thiên Đế nói tóm lược về pháp quan trọng, khiến cho không đứng dậy khỏi chỗ ngồi mà đạt được bốn thần túc, cho nên ở trước Đức Phật hoan hỷ phấn chấn, phát ra những lời ái ngữ mà nói bài tụng này.

Lại nữa, đó là dựa vào đạt được mạng căn của tuệ, cho nên đưa ra cách nói như vậy. Như trong kinh nói: “Trong các mạng căn thì tuệ mạng là thù thắng nhất”. Nghĩa là Đức Phật vì Thiên Đế nói tóm lược về pháp quan trọng, khiến đạt được tuệ mạng cho nên ở trước Đức Phật hoan hỷ phấn chấn, phát ra những lời ái ngữ mà nói bài tụng này.

Hỏi: Lẽ nào Thiên Đế Thích trước kia không có tuê mạng, nay nghe pháp rồi thì mới đạt được hay sao?

Đáp: trước kia tuy có tuệ mà là hữu lậu, nay đạt được vô lậu cho nên nói như vậy. Lại nữa, đó là dựa vào thoát khỏi năm loại tướng suy cho nên nói như vậy, nghĩa là trong các cõi trời ở phần vị sắp mạng chung, trước đó có hai loại của năm tướng suy hiện ra, một là Tiểu-hai là Đại.

Thế nào gọi là năm tướng suy thuộc về Tiểu? Đó là:

1. Chư Thiên đi lại chuyển động, từ đồ vật trang nghiêm trên thân phát ra năm tiếng nhạc, người khéo tấu nhạc vốn không thể nào sánh kịp, ở phần vị sắp mạng chung thì tiếng nhạc này không vang lên; có nơi nói: Lại phát ra tiếng nhạc không như ý.

2. Ánh sáng trên thân chư Thiên rực rỡ, ngày đêm luôn luôn chiếu rọi, thân không có bóng hiện ra, lúc sắp mạng chung thì ánh sáng trên thân nhỏ lại mà mờ nhạt; có nơi nói: Thân hoàn toàn mất ánh sáng mà bóng liền hiện ra.

3. Thân thể và làn da của chư Thiên mịn màng trơn láng, vào hồ nước thơm tắm gội, lúc mới ra khỏi làn nước, nước không dính vào thân giống như cánh hoa sen, ở phần vị sắp mạng chung thì nước dính vào thân.

4. Các loại cảnh giới của chư Thiên thảy đều thù thắng tuyệt vời tách khỏi các căn, như vầng lửa quay tròn không được dừng lại trong chốc lát, ở phần vị sắp mạng chung chỉ bám vào một cảnh trải qua thời gain dài không thể nào rời xa.

5. Thân lực của chư Thiên mạnh mẽ, mắt thường không nhấp nháy, lúc sắp mạng chung thì thân lực sa sút, mắt thì liên tục nhấp nháy.

Thế nào gọi là năm tướng suy thuộc về Đại? Đó là:

  1. Y phục trước kia sạch sẽ, nay thì dơ bẩn.
  2. Mũ hoa trước kia tươi thắm, nay thì úa.
  3. Hai nách bỗng nhiên chảy mồ hôi.
  4. Thân thể bỗng nhiên sinh ra mùi hôi.
  5. Không thích an trú nơi chỗ ngồi của mình.

Năm tướng suy trước hiện ra rồi hãy còn có thể chuyển, năm tướng suy sau hiện ra rồi thì không thể nào chuyển được. Lúc Thiên Đế Thích đã có năm loại tướng suy thuộc Tiểu hiện ra, thì không bao lâu sẽ có tướng suy thuộc Đại hiện ra, tâm sinh ra lo buồn sợ hãi, dấy lên suy nghĩ như vậy: Ai có thể cứu giúp mình thoát khỏi tai ách suy hoại như vậy, mình sẽ quay về với ai để được thoát khỏi nạn này? Dấy lên suy nghĩ này rồi thì tự mình biết rõ ràng, ngoại trừ Đức Phật Thế Tôn thì không có ai có năng lực cứu giúp được, lập tức đến nơi Đức Phật cầu xin thương xót mong được cứu giúp. Đức Phật nói pháp cho nghe liền được thấy rõ chân lý, khiến cho tướng suy hoại ấy lập tức đều diệt đi, cho nên ở trước Đức Phật hoan hỷ phấn chấn, phát ra lời ái ngữ mà nói bài tụng này.

Quả báo của chúng sinh (Chư hữu) muốn khiến cho thuận theo hiện tại tiếp nhận nghiệp dẫn dắt chúng đồng phần, điều ấy đưa ra cách nói này: Thiên Đế ngay trên chỗ ngồi nghe pháp, lại mới dẫn dắt đạt được tám căn như mạng. Quả báo của chúng sinh muốn khiến cho thuận theo hiện tại tiếp nhận nghiệp không có thể dẫn dắt được chúng đồng phần, điều ấy đưa ra cách nói này: Thiên Đế ngay trên chỗ ngồi nghe pháp, trừ bỏ năm tướng suy hoại, phần vị của thân trở lại như trước kia, do lú lẽ này nên không có tử-sinh.

Có Sư khác nói: Lúc ấy Thiên Đế Thích cũng có tử-sinh.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông suốt bài tụng đã nói, vẫn nạn đã đưa ra trước đây nên thông hiểu thế nào? nghĩa là có tử-sinh thì nhất định phải tiếp nhận Trung hữu, làm sao lúc ấy mọi người luôn luôn trông thấy thân ấy?

Đáp: Tất cả Bổn hữu-Trung hữu trong loài trời đều là hóa sinh, những loài hóa sinh chết đi không có sắc chất để lại, bởi vì Trung hữu vô cùng nhanh chóng, cho nên mọi người không biết thân của Thiên Đế mà lại có gián đoạn.

Hỏi: Luận Thi Thiết nói: “Lúc vị trời mới sinh ra thì như hình tượng của đứa trẻ năm tuổi…, vị trời mang thai trước đầu gối bỗng nhiên lúc ấy hóa sinh, vị trời ấy liền nói là con cái của mình; vị trời mới sinh này cũng nói: Vị trời kia là cha mẹ của mình”. Hình tượng của họ đã nhỏ, làm sao lúc ấy mọi người đều trông thấy như xưa?

Đáp: Mới sinh ra tuy nhỏ mà sinh rồi lập tức to lớn, thời gian rất nhanh chóng cho nên mọi người không nhận biết. Lại có người nói: Mọi người tuy nhận biết mà dấy lên ý niệm này: Thiên Đế Thích này có thần lực tự tại, ở trước Đức Thế Tôn tự mình hiện bày thần thông biến hóa, hoặc lớn-hoặc nhỏ chứ không nói là tử-sinh. Có Sư khác nói: Không phải tất cả chư Thiên vào lúc mới sinh thì thân lượng đều nhỏ như Đế Thích, Đại Oai Đức Thiên vào lúc mới sinh ra và ở phần vị Trung hữu đều như hình lượng ở lúc tuổi trẻ của Bổn hữu, cho nên tuy tử-sinh mà mọi người không nhận biết. Nói như vậy thì vị ấy không có tử-sinh, cho nên trong hai cách nói thì cách nói trước là thích hợp, bởi vì kinh nói tử-sinh ấy là thân tâm biến đổi.

Luận Thi Thiết nói: “Con người ở thời gian bắt đầu của kiếp, có lúc bỗng nhiên đi bằng bụng, thân hình đã biến đổi cùng tên gọi là rắn; lại có lúc bỗng nhiên mọc ra tay thứ ba, thân hình đã biến đổi cùng tên gọi là voi”.

Hỏi: Chuyển biến như vậy có tử-sinh hay không? Giả sử như vậy thì có gì sai? Cả hai đều có sai lầm. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì nếu có tử-sinh thì phải tiếp nhận Trung hữu, làm sao mọi người không thấy gián đoạn? Nếu không có tử-sinh thì làm sao loài người lại trở thành bàng sinh?

Đáp: Nên đưa ra cách nói này: Họ không có tử-sinh.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông suốt vấn nạn trước đó đã đưa ra, làm sao loài người lại trở thành bàng sinh?

Đáp: Không phải là ngay loài người chuyển sang làm bàng sinh, chỉ vì thân hình của họ trước-sau có khác nhau. Trong này có người nói: Họ luôn luôn là người, nhưng mà nhân của nghiệp đời trước hưng suy không nhất định, ban đầu phước nghiệp mạnh hơn cho nên làm thân hình con người, về sau ăn uống không tốt lại thêm nịnh hót quanh co, cho nên hình tướng con người mất đi, thay đổi tựa như bàng sinh. Như hoặc có người bị chú thuật của người khác, thay đổi tựa như lừa ngựa… mà thật sự là người. Lại có người nói: Họ là bàng sinh, nhưng mà họ vừa từ cõi trời cực quang tịnh mất đi, bởi vì ác nghiệp của đời trước mà nhận chịu thân loài bàng sinh, phước trước kia còn lại thế mạnh cho nên lúc ban đầu tựa như loài người, về sau ăn uống dơ bẩn lại thêm nịnh hót quanh co, cho nên hình tướng con người mất đi, tiếp tục làm hình tướng bàng sinh. Như thân loài cóc nhái trước sau chuyển biến khác nhau, trước gọi là con nòng nọc hiển bày hình tròn đen thui, sau gọi là cóc nhái thì hình dạng mới hiển bày lẫn lộn, nhưng mà nó từ trước đến sau đều là bàng sinh. Người biến đổi ở thời gian bắt đầu của kiếp, nên biết cũng như vậy. Có Sư khác nói: Họ có tử-sinh.

Hỏi: Nếu như vậy thì dễ dàng thông suốt vấn nạn đã đưa ra ở sau, vấn nạn đã đưa ra trước đó nên thông hiểu thế nào? Nghĩa là có tử-sinh thì nhất định phải tiếp nhận Trung hữu, làm sao mọi người không thấy gián đoạn?

Đáp: Người ở lúc bắc đầu của kiếp thì Bổn hữu và Trung hữu đều là hóa sinh, những làoi hóa sinh chết rồi không có sắc chất để lại, bởi vì Trung hữu vô cùng nhanh chóng, cho nên người cùng thời không biết, họ đã thọ thân mà có gián đoạn. Nói như vậy là họ không có tử-sinh, cho nên trong hai cách nói thì cách nói trước là thích hợp, bởi vì trải qua tử-sinh thì quên nhiều sự việc xưa kia, đã nhớ lại sự việc xưa kia thì không phải là tử-sinh.