PHẬT NÓI KINH
ĐẠI GIÁO CĂN BẢN TỐI THẮNG CỦA DIỆU CÁT TƯỜNG
Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng, Triều Tán Đại Phu Thí Quang Lộc Khanh Minh Giáo Đại Sư (kẻ bầy tôi là) PHÁP HIỀN phụng chiếu dịch
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH
QUYỂN THƯỢNG
DIỆM MAN ĐẮC CA PHẪN NỘ MINH VƯƠNG THÀNH TỰU NGHI QUỸ PHẦN THỨ NHẤT
_Bấy giờ Diệu Cát Tường (Maṃjuśrī)
Hóa thân Đại Minh Vương (Mahā-vidya-rāja)
Tên Diệm Man Đức Ca (Yamāntaka)
Khắp thân sáng rực rỡ
Rất ác đáng sợ hãi
Khiến các Đại Minh Vương
Kinh sợ rơi khí trượng
Trời (Deva), người (Manuṣya), A Tu La (Asura)
Sợ hãi rồi chắp tay
Thảy đều quy mệnh lễ
Xưng tán câu chi số
Thấy ánh sửa lớn này
Tâm nóng bức như lửa
Như vậy rồi bạch rằng:
“Nguyện xin Đại Minh Vương
Ngưng dứt tướng Đại ác
Ánh sáng rực rỡ lớn
Chiếp khắp cả mười phương
Ba cõi: các Trời (Deva), người (Manuṣya)
Với hàng Tu La (Asura) kia
Kinh sợ quy Tam Bảo (Tri-ratna, hay Ratna-trayāya)
Đỉnh lễ Phật (Buddha) Pháp (Dharma) Tăng (saṃgha)”
_Tức thời, Đại Minh Vương
Ngưng ác, hóa tướng Thiện
Đầy đủ uy đức lớn
Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) (của) Diệu Cát Tường
_Hàng Trời, người, Tu La
Đều bạch Đại Minh Vương
Làm sao hành tinh tiến
Mọi loại để thừa sự
Nhóm cung kính, cúng dường
Để được vui vẻ lớn
Dùng phương tiện (Upāya) diễn bày
Khiến chúng tôi dứt nghi”
_Bấy giờ, Đại Phẫn Nộ
Diệm Man Đắc Ca Vương
Nghe lời nói như vậy
Bảo hàng Trời (Deva), Tu La (Asura):
“Ngươi đều đủ uy đức
Quy y Phật Pháp Tăng
Thắng Công Đức (của) Tam Bảo
Tin thuận Như Lai dạy
Lợi ích các chúng sinh
Ta dừng hình Đại Ác
Hóa làm tướng Diệu Thiện
Người đã nhận Tam Quy (Tri-śaraṇa-gamana)
Nên phát Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta)
Ta có Giáo (Śāstra) căn bản (Mūla)
Pháp Đại Minh thành tựu (Mahā-vidya-siddha)
Nhóm bảy chữ, mười chữ
Như vậy thành Pháp Cú (Dharma-pāda)
Tất cả các Trời, người
Với A Tô La kia
Các ngươi nên thọ trì
Ước nguyện đều thành mãn.
Diệm Man Đắc Ca này
Giáo Phẫn Nộ căn bản (Krodha-mūla-śāstra)
Khi Ta tự thân nói
Đại Địa đều chấn động
Tất cả các Trời, người
Dạ Xoa (Yakṣa), La Xoa Sa (Rākṣasa)
Cùng với Tất xá Tá (Piśāca)
Thân Tâm đều run rẩy
Bố Úy Đại Minh Vương (Vibhīṣaṇa-mahā-vidya-rāja)
Đều phát Tâm cung kính
Chắp tay đều làm lễ
Thọ trì Đại Phẫn Nộ
Diệm Ma Đắc Ca Vương
Căn Bản Tâm Đại Minh (Mahā-krodha-yamāntaka-rāja mūla-citta mahā-vidya)
Làm Chính Pháp (Saddharma) giúp đời
Ở trong ba cõi kia
Trong tất cả Trời, người
Làm Nghi Quỹ thành tựu
Tối thắng đứng bậc nhất
Diệm Ma Đắc Ca Vương
Tự bản thân tuyên nói
Tất cả các Trời, người
Tin nhận đều vui vẻ
Trên Trời với nhân gian
Cung kính, cúi đầu lễ
Trăm ngàn chúng Bồ Tát
Y Pháp tự tu tập
Rộng hành Hạnh Từ Bi
Như vậy, Đại Giáo này
Diệu Cát Tường Căn Bản
Thanh Tịnh Nghi quỹ Pháp
Thành Tựu, phần thứ nhất
DIỆM MAN ĐẮC CA TẤT LỆ ĐỔ ĐẮC YẾT TRA MẠN NOA LA THÀNH TỰU NGHI QUỸ PHẦN THỨ HAI
_Lại nữa, Tối Thượng Mạn Noa La Nghi Quỹ hay ở trong ba cõi làm Đại Bố Úy (Mahā-vibhīṣaṇa: rất dáng sợ) hay ban cho nơi mong cầu, tất cả mãn nguyện. Đây gọi là Pháp thành tựu Tất Lệ Độ Đắc Yết Tra Mạn Noa La (Pretodghāṭa-maṇḍala)
Người hành Trì Minh, trước tiên nên chọn lựa đất ưa thích. Hoặc dưới cái cây lớn, hoặc trong rừng Thi Đà (Śita-vana), hoặc bên trong nhà trống vắng, hoặc bên lối đi ở ngã tư đường, hoặc ở sườn núi, hoặc khoảng giữa hai cái tháp, hoặc bên trong vườn rừng, hoặc trên đỉnh núi, hoặc bên bờ sông, hoặc bên bờ biển, hoặc bên trong chuồng bò, hoặc đất chiến đấu, hoặc miếu thờ Đại Tự Tại Thiên (Masheśvara) với các nơi vắng lặng, tùy theo ý ưa thích nên dựng Man Noa La (Maṇḍala: Đàn Trường)
Lại y theo Pháp sửa trị cho sạch sẽ. Ở bên trong đất ấy, hết thảy gai góc, gạch, đá, cát, sỏi, xương, lông, cây cọc, vật chẳng sạch… thảy đều trừ bỏ. Sau đó đem năm thứ thuốc, nước sạch hòa với Cồ Ma Di (Gomayī: phân bò) xoa tô đất Mạn Noa La
Thời người trì Minh trải qua một đêm, tắm gội sạch sẽ, giữ Trai Giới, chí ý chuyên Tâm tụng Đại Minh này làm ủng hộ cho mình
Lại nữa, dùng tơ Đâu La (Tūla) hoặc sợi đay hợp làm sợi dây Tam Cổ giăng bốn phương Mạn Noa La. Trước tiên, từ phương Đông khởi đầu, bốn phương bốn góc thứ tự y theo Pháp. Như vậy giăng dây xong, dùng tro của xác chết vẽ ở bốn phương bốn góc của Mạn Noa La làm bốn cửa, chỉ mở cửa Nam, thường đóng ba cửa còn lại
Chính giữa Man Noa La vẽ một hoa sen. Lại ở góc Đông Bắc khởi đầu, y theo Pháp thứ tự dùng tro xác chết vẽ các Hiền Thánh với Bảo Trượng Ấn. Ở bốn cửa của Mạn Noa La đều vẽ một hình Tất Lệ Đa (Preta), khoảng giữa, trên hoa sen vẽ hình Tất Lệ Đa thứ năm, đùng đầu lâu để trang nghiêm. Như vậy, trong Mạn Noa La mỗi mỗi y theo Pháp đếu khiến cho giáp vòng đầy đủ.
_Lại nữa, Mạn Noa La có tám loại: Mạn Noa La rộng một khuỷu tay là Nghi thường cúng dường.
Mạn Noa La rộng hai khuỷu tay là Nghi Tiêu Tai, Tăng Ích.
Mạn Noa La rộng ba khủy tay là nghi Phát Khiển Thiết Đốt Lỗ (Śatrū: Oan gia)
Mạn Noa La rộng bốn khủy tay là Nghi Kính Ái, Câu Triệu
Mạn Noa La rộng năm khuỷu tay là Nghi Nhương Tai, Trừ Bệnh
Mạn Noa La rộng sáu khuỷu tay là Nghi Trừ Ma với Tú Diệu
Mạn Noa La rộng bảy khuỷu tay là Nghi Câu Triệu chư Thiên, Kính Ái
Mạn Noa La rộng tám khuỷu tay là Nghi Thành Tựu tất cả điều mong cầu
Như vậy, tám khuỷu tay dùng điều bên trên làm, chẳng y theo Nghi Quỹ ắt chẳng thành tựu
Người trì Minh vẽ Mạn Noa La xong, dùng cái bát chứa đầy nước hương, cái bát chứa đầy mọi loại diệu hoa với Trầm Hương, Chiên Đàn Hương, an Tức Hương, đèn bơ, đèn dầu… như vậy y theo Pháp thứ tự an trí đều được thành tựu
_Lại nữa, hoặc làm Pháp Đại Ác Mạn Noa La. Người trì Minh dùng Niết Lý Phộc Sa làm đèn. Dùng rượu, thịt, cá với mọi loại thức ăn uống đề dùng Xuất Sinh. Tức Hành Nhân làm lễ chư Phật, phát Tâm Bồ Đề. Thời người trì Minh y theo Pháp tự vẽ hình tượng với nhóm tiêu xí của Hiền Thánh bên trong Mạn Noa La. Nếu chẳng thể vẽ thì y theo Pháp quán tưởng trên hoa sen của Man Noa La có chữ vi diệu, hóa thành Tất Lệ Đa Đắc Yết Tra (Pretodghaṭa)
Lại tưởng bốn góc của Mạn Noa La đều có một cây gậy báu, bốn cửa đều có một Tất Lệ Đa (Preta), liền tụng Tất Lệ Đa Đại Minh. Như vậy tụng xong, lại tưởng 8 loại tiêu xí bên trong Mạn Noa La, tên của 8 loại ấy là: Hạ Tất Đa, Ba Na Thi La Sa, Kiến Đà, Bộ Nhạ, Yết Lỗ Trá, Thân Na, Tả Lý Ma, Nại La Thiết Phộc, Ma La, Như vậy tưởng xong, tụng Đại Minh này rồi làm hiện ra trước mặt.
Sau đó, thỉnh triệu Diệm Man Đắc Ca Đại Phẫn Nộ Minh Vương nhập vào trong trái tim của mình. Thân màu đen, tướng đại ác, đủ uy đức lớn, khắp thân rực lửa, sáu mặt đều có ba con mắt, mắt làm màu vàng đỏ, đầu tóc với lông mày đều màu vàng đỏ. Sáu chân, chân đạp lên Tất Lệ Đa (Preta: Quỷ đói). Mười hai cánh tay, bên phải: tay thứ nhất tác Thí Nguyện ấn, tay thứ hai cầm móc câu, tay thứ ba cầm cây chỉa ba (tam xoa), tay thứ tư cầm cây kiếm, tay tghu71 năm cầm cây gậy báu, tay thứ sáu cầm cây búa. Bên trái: tay thứ nhất cầm đầu lâu, tay thứ hai cầm cây cờ, tay thứ ba cầm Đô Ma Lam, tay thứ tư cầm sợi dây, tay thứ năm dựng ngón trỏ, tay thứ sáu cầm cây gậy báu. Dùng đầu người nửa khô nửa ướt làm vòng hoa, dùng da cọp làm áo. Thân có bụng lớn rộng, mặt làm mọi tướng phẫn nộ, sắc ác biến động như biển sôi trào lên, hiện tướng bất tịnh. Hoặc làm tướng phẫn nộ, hoặc làm tướng hiền thiện, hoặc làm tướng đại ác, hoặc làm tướng đáng sợ, hoặc há miệng le lưỡi, hoặc lộ hiện răng, răng nanh… Như vậy, y theo Pháp dùng phấn vẽ. Quán tưởng cũng như thế.
Như vậy tưởng xong. Dùng nước hương hiến Át Già với hoa màu hồng ở trên đỉnh đầu của Tất Lệ Đa. Lại dùng Xích Đàn Hương, hoa với vòng hoa hiến trên đỉnh đầu của Diệm Man Đắc Ca Minh Vương, liền tụng Diệm Man Đắc Ca Minh Vương Tâm Đại Minh. Người trì Minh quán tưởng Tâm Đại Minh của Minh Vương này nhập vào trong trái tim của mình. Tụng Đầu Đại Minh tưởng ngay trên đầu. Tụng Đỉnh Đại Minh tưởng ngay trên đỉnh đầu. Tụng Giáp Trụ Đại Minh tưởng làm giáp trụ
Như vậy quán tưởng xong. Lại dùng Hương Đại Minh liền hiến hương. Sau đó ở bốn phương, bốn góc của Mạn Noa La đều thắp đèn cúng dường. Liền dùng mọi loại thức ăn uống với hương hoa thượng diệu hiến Diệm Man Đắc Ca Phẫn Nộ Minh Vương. Lại dùng mọi loại tức ăn uống xuất sinh hiến Tất Lệ Đa với tất cả hàng Quỷ Thần. Lại dùng cái bát chứa đầy nước, bát chứa đầy hương tốt an trí bên ngoài Mạn Noa La
Sau đó, y theo Pháp khiến Đệ Tử thọ nhận Pháp tắm gội sạch sẽ xong, liền tụng Phẫn Nộ Minh Vương Đại Minh gia trì vào một bông hoa, khiến để tử dùng ngón tay của hai tay cầm một bông hoa này, rồi lại dùng lụa trắng che phủ đầu mặt, niệm tên Tam Bảo
Thời a Xà Lê dẫn Đệ Tử vào bên trong Mạn Noa La, khiến phát Thệ Nguyện. Tức liền ném hoa hướng vào trong Mạn Noa La, rồi bỏ lụa che mặt ra nhận Bản Tôn. A Xà Lê cùng với Đệ Tử nói Bảo Trượng Ấn với Tam Bảo Bí Mật Tam Muội Ấn, liền dùng nước hương hoa rưới lên đỉnh đầu của Đệ Tử. Lại đem hương hoa cúng dường. Trao truyền cho Đệ Tử hết thảy Phẫn Nộ Minh Vương Tâm Đại Minh
Khi Đệ Tự thọ nhận Đại Minh xong thời cúi đầu mặt làm lễ. tùy theo sức, bố thí cúng dường A xà Lê thì việc mà Đệ Tử đã nguyện đều được thành tựu
Lại dùng cái bát chứa đầy nước hương an bên phía Đông của Mạn Noa La, hiến Minh Vương nước Át Già. Thời A Xà Lê liền tụng Phát Tống Đại Minh phát tống Diệm Man Đắc Ca Đại Phẫn Nộ Minh Vương quay về vị trí của mình. Ở Mạn Noa La hiến nước Át Già
Như vậy y theo Pháp thường làm, hay được Phước rộng lớn không có gì bằng của Thế Gian
PHẪN NỘ MINH VƯƠNG TẤT LỆ ĐỔ ĐẮC YẾT TRA MẠN NOA LA ĐẠI MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ PHẦN THỨ BA
_Lại nói trong Mạn Noa La: Tất Lệ Đa Đại Minh thứ nhất là:
“Án, tát mạc tát lý-phộc đát tha nga đế tỳ-dược (1) tất-lệ đa mục khư (2) khư na ca, sa-phộc hạ (3)”
*)OṂ NAMAḤ SARVA TATHĀGATEBHYAḤ PRETA-MUKHA KHĀDAKA SVĀHĀ
_Lại nói Tất Lệ Đa Đại Minh ở cửa Đông của Mạn Noa La là:
“Án, tất-lệ đổ la ca dã (1) hồng, phát tra (2)”
*)OṂ_ PRETA ULKĀYA HŪṂ PHAṬ
_Lại nói Tất Lệ Đa Đại Minh ở cửa Nam của Mạn Noa La là:
“Án, tất-lệ đa tỳ man đát ca (1) hồng, phát tra (2)”
*)OṂ_ PRETA BHĪMĀNTAKA HŪṂ PHAṬ
_Lại nói Tất Lệ Đa Đại Minh ở cửa Tây của Mạn Noa La là:
“A, Án, tất-lệ đa (1) nhập-phộc la (2) phát tra (3)”
*)ĀḤ_ OṂ PRETA JVALA PHAṬ
_Lại nói Tất Lệ Đa Đại Minh ở cửa Bắc của Mạn Noa La là:
“Án, khất-sất bát-la, tất-lệ đổ (1) đắc-yết tra (2) hồng, phát tra (3)”
*)OṂ_ KṢIPRA-PRETODGHAṬA HŪṂ PHAṬ
_Lại nói Bảo Trượng Đại Minh ở bốn góc của Mạn Noa La là:
“Án, nẵng mạc một đà, đạt lý-ma, tăng kỳ tỳ-dược (1) tát lý-phộc đát tha nga đế tỳ-dược (2) a cốt-lỗ đà, vĩ nhạ dã (3) ngật-nễ nhập-phộc lý đa (4) nhĩ hạ-phộc
(5) tất-lệ đa thủy la (6) hồng, phát tra (6)”
*)OṂ NAMAḤ BUDDHA DHARMA SAMGHEBHYAḤ_ SARVA TATHĀGATEBHYAḤ_ AKRODHA VIJAYA AGNI JVALITA JIHVA PRETA ŚĪLA HŪṂ PHAṬ
_Thỉnh Triệu Diệm Man Đắc Ca Minh Vương Đại Minh là:
“Án, nẵng mô một đà, đạt lý-ma, tăng kỳ tỳ-dược (1) cốt-lỗ đạt phộc la vĩ-la toa (2) tam ma duệ nẵng (3) a nga tha (4) a nga tha (5) Án, a hồng (6) nhất nan tất-lệ đa sa nam (7) tất-lệ đổ đắc-yết tra (8) lạc khất-xoa, lạc khất-xoa, sa-phộc hạ (9)”
*)OṂ NAMO BUDDHA DHARMA SAṂGHEBHYAḤ_ KRODHA VARA VĪREŚA SAMAYENA_ AGĀCCHA AGĀCCHA_ OṂ ĀḤ HŪṂ_ IDAṂ PRETĀSANĀṂ PRETODGHAṬA RAKṢA RAKṢA SVĀHĀ
_Tất Lệ Đa Man Đại Minh là:
“Án, nẵng mạc tát lý-phộc đát tha nga đế tỳ-dược (1) tất-lệ đa, ma lệ (2) vĩ cật-lý đế (3) ngu hứ-dã bế (4)vĩ ca la mục khế (5) tát lý-phộc lạc khất-sô bát tổ sắtchi (6) hồng, phát tra (7)”
*)OṂ NAMAḤ SARVA TATHĀGATEBHYAḤ_ PRETA-MĀLE VIKṚTA GUHYA VID_ VIKĀRA-MUKHE_ SARVA LAKṢOPA-SŪCITE HŪṂ PHAṬ
_Thập Thất Vi Diệu Đại Minh là:
“A, cốt-lỗ đề ca (1) diệm man đắc ca (2) hạ nẵng (3) ma tha (4) bạn nhạ (5) hồng, phát tra (6)”
*)ĀḤ_ KRODHIKA YAMĀNTAKA HANA MATHA BHAṂJA HŪṂ PHAṬ
_Minh Vương Tâm Đại Minh là:
“Án, a (2) hồng (2)” *)OṂ ĀḤ HŪṂ
Minh này làm ủng hộ
_Quán Tưởng Minh Vương Đầu Đại Minh là:
“Án, ca la, hồng, phát tra”
*)OṂ KĀLA HŪṂ PHAṬ
_Quán Tưởng Minh Vương Đỉnh Đại Minh là:
“Án, dã man đắc chỉ yết vĩ la (1) hồng, phát tra (2)
*)OṂ_ YAMĀNTAKĪKA VĪRA HŪṂ PHAṬ
_Quán Tưởng Minh Vương Giáp Trụ Đại Minh là:
“Án, nhập-phộc la 91) nhập-phộc lý đa, vị ngật-la hạ (2) hồng, phát tra (3)”
*)OṂ_ JVALA JVALITA VIGRAHA HŪṂ PHAṬ
_Quán Tưởng Minh Vương Khí Trượng Đại Minh là:
“Án, phệ phộc toa, đán đa ca (1) hồng, phát tra (2)’
*)OṂ VIŚVA-DAṆḌAKA HŪṂ PHAṬ
Diệm Man Đắc Ca Minh Vương Đại Minh như vậy, quán tưởng ở năm chỗ trên thân
_Hiến Át Già Đại Minh là:
“Án, y ca, vĩ la (1) dã man đát ca (2) vĩ sa la (3) vĩ sa la (4), sa-phộc hạ (5)”
*)OṂ EKA VĪRA YAMĀNTAKA, VISARA VISARA SVĀHĀ
_Hiến Đồ Hương Đại Minh là:
“Án, la cật-đa (1) tức để (2) du ni đa lý nại-la (3) tô hiến đà (4) vĩ ngật-la hạ (5) sa-phộc hạ (6)”
*)OṂ_ RAKTA-CITE SUNĪTA ĀRDRA-SUGANDHA VIGRAHA SVĀHĀ
_Hiến Hoa Đại Minh là:
“Án, nỉ ma dã (1) tát-la ngật-ma la-dã (2) đà lý ni, sa-phộc hạ (3)”
*)OṂ_ DIVYA SRĀ_ GMĀ-RAYA DHARIṆI SVĀHĀ
_Hiến Hương Đại Minh là:
“Án, tức để (1) độ ba, tất-lý dạ dã (2) sa-phộc hạ (3)”
*)OṂ CITE DHŪPA PRĪYĀYA SVĀHĀ
_Hiến Đăng Đại Minh là:
“Án, nỉ ma-dã (1) nhĩ-du để sắt-ma đế, sa-phộc hạ (2)”
*)OṂ_ DIVYA JYOTIṢ-MATI SVĀHĀ
_Nhất Thiết Ẩm Thực Xuất Sinh Đại Minh là:
“Án (1) tát lý-phộc di thí, a phộc hạ lý ni (2) sa-phộc hạ (3)”
*)OṂ_ SARVA MESĪ AVAHĀRIṆI SVĀHĀ
_Hiện Nhất Thiết Ẩm Thực Xuất Sinh Đại Minh là:
“Án, nỉ ma-diệm nẵng bộ nhĩ nễ (1) hạ la hạ la (2) nột-lăng, nột-lăng (3) nộtlăng khiết, sa-phộc hạ (4)”
*)OṂ_ DIVYAMĀNA BHUJINE_ HĀRA HĀRA_ DRŪṂ DRŪṂ DRŪṂ KHAḤ_ SVĀHĀ
_Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La Trung Hiến Thực Xuất Sinh Đại Minh là:
“Án, quật quật nễ (1) tất-lệ đổ đắc-yết tra (2) tất-lý đa, ma lệ (3) la lý nễ (4) quật-lãng, quật-lãng, quật-lãng, quật-lãng (5) tất-lệ (6) tất-lệ để thủy phệ (7) nộtlăng, nột-lăng, nột-lăng (8) quật quật nễ (9) ngật-lý hận-noa (10) mạt lăng, saphộc ha (11)”
*)OṂ_ KUKUNE PRETODGHAṬA PRETA-MĀLE LĀLIN_ KRŪṂ
KRŪṂ KRŪṂ KRŪṂ _PRETA PRETĪ ŚIVE _ DRŪṂ DRŪṂ DRŪṂ_ KUKUNE GṚHṆA BALIṂ SVĀHĀ
PHẪN NỘ MINH VƯƠNG TẤT LỆ ĐỔ ĐẮC YẾT TRA BẢO VƯƠNG ẤN MẠN NOA LA BÍ MẬT CÚNG DƯỜNG NGHI QUỸ PHẦN THỨ TƯ
_Lại nữa, Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Diệu Cát Tường (Maṃjuśrī) là thân Đại Vô Úy của Diệm Man Đắc ca Minh Vương (Yamāntaka-vidya-rāja) có vô lượng ánh sáng. Y theo Nghi Pháp của Tam Bảo dùng tay kết Ấn. Tay phải an pía trước mà hiện Tam Muội, ngón cái thường ẩn kín, các ngón còn lại gấp rút nắm quyền. Đây là Bảo Trượng Ấn. Thời người trì Minh dùng Tâm Đại Minh hoặc Minh riêng cùng với Ấn này đồng dụng, chẳng được trái vượt.
Bảo Trượng Đại Minh này là:
“Nẵng mô một đà, đạt lý-ma, tăng kỳ tỳ-dược (1) a, tát lý-phộc đát tha nga đa (3) cốt-lỗ đạt, vĩ nạ dã (4) a ngật-nễ, nhập-phộc lý đa, nhĩ hạ-phộc (5) tất-lệ đa thủy la (6) hồng, phát tra (7)”
*)NAMO BUDDHA DHARMA SAMGHEBHYAḤ_ ĀḤ SARVA
TATHĀGATA-KRODHA-VIJAYA AGNI JVALITA JIHVA PRETA ŚĪLA HŪṂ PHAṬ
Bảo Trượng Minh và Ấn này cũng gọi là Phẫn Nộ Minh Vương Tâm Minh hay làm thanh tịnh hóa khí trượng, hay điều phục các Ma
_Lại nói Nghi Bảo Trượng Ấn bên trong Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La. Thời người trì Minh y theo Pháp dùng tro xác chết, ở trên mũi nhọn của cây gậy báu vẽ một đầu Tất Lệ Đa (Preta), chỉ được vẽ ngai bên trong Mạn Noa La, bên ngoài chẳng được vẽ kèm với điều mà người trì Minh cầu thành tựu. Nếu cầu cây gậy này thì tất cả điều cần thiết, không có gì chẳng thành tựu
_Lại nói Pháp thành tựu của Bảo Trượng Ấn ấy.
Như Tất Lệ Đổ Đắc Yết Tra Mạn Noa La lúc trước, làm bốn phương, bốn góc với khoảng chính giữa. Chín nơi đều an Bảo Trượng Ấn. Như vậy câu triệu cúng
dường cùng với Minh Vương Đại Minh này đồng dụng mà làm tối thượng Đại Minh là:
“Án, án nẵng mô một đà, đạt lý-ma, tăng kỳ tỳ-dược(1) a, a (2) tát lý-phộc đát tha nga đa (3) cốt-lỗ đà, vĩ nhạ dã, ngật-nễ (4) nhập-phộc lý đa, nhĩ hạ-phộc, tất lệ đa thủy la, hồng, phát tra (5)”
*)OṂ_ OṂ NAMO BUDDHA DHARMA SAṂGHEBHYAḤ_ ĀḤ ĀḤ
SARVA TATHĀGATA KRODHA-VIJAYA AGNI JVALITA JIHVA PRETA-
ŚĪLA HŪṂ HŪṂ PHAṬ
Bảo Trượng Ấn Đại Minh này ở trong tất cả Pháp thành tựu là tối thượng tối thắng, hay làm thành tựu rộng lớn.
_Lại nói Pháp cúng dường quán tưởng. Tưởng vẽ một hoa sen, hoa làm tám cánh, làm bốn phương bốn góc. Từ phương đông bắt đều y theo Pháp thứ tự ở bón phương, bốn góc với khoảng giữa của hoa đều an chữ vi diệu. Lại làm kết Giới, tưởng chữ Hồng (猲:HŪṂ) ngay trên đầu của Bảo Trượng Tất Lệ Đa. Tưởng chữ Án (輆:OṂ) mà làm hiện trước mặt. Tưởng chữ Án nẵng mạc (OṂ NAMAḤ)
làm cúng dường, chữ A (A) làm Diệm Man Đắc Ca Minh Vương Tối Thắng Tam Muội Đại Minh là:
“Án, nẵng mô một đà, đạt lý-ma, tăng kỳ tỳ-dược (1) tát lý-phộc một đà tỳ (2) tăng tốt-đổ đa (3)”
*)OṂ NAMO BUDDHA DHARMA SAṂGHEBHYAḤ SARVA BUDDHA ABHISAṂ-STUTA
Trước tiên, tụng Minh này để quy mệnh Tam Bảo, sau đó dùng mỗi mỗi Bản Minh với Bản Tam Muội của tất cả Bảo Trượng, rồi tác phẫn nộ nhìn ngó, ở khoảng sát na thì tất cả chỗ mong cầu thảy đều thành tựu. Đây là nơi hóa hiện (sở hóa) của Như Lai
Lại nữa, y theo Pháp đều tụng Bản Đại Minh xong, tụng tiếng A làm Tối Thắng Diệm Man Đắc Ca Minh Vương, ngó nhìn làm Bản Tam Muội. Sau đó tụng chữ Hồng (HŪṂ) thì hết thảy nhóm Tức Tai, Tăng Ích, Kính Ái, Câu Triệu, Điều Phục, Phát Khiển… tất cả thành tựu
Nếu người trì Minh làm Pháp Tức Tai (Śāntika). Trước tiên dùng chữ Án (OṂ) với Bản Đại Minh, sau đó tụng Biệt Đại Minh. Đây là Như Lai Tam Muội hay phá tất cả tai nạn. Nếu trước tiên tụng Đại Minh, sau đó tụng chữ Hồng (HŪṂ) với Diệm Man Đắc Ca Đại Minh Vương. Đây là Như Lai Tướng hay làm việc tối thượng. Nếu Pháp Kính Ái (Vaśikaraṇa). Y theo Đại Minh, Bản Pháp sau đó tụng chữ Toa Hạ (SVĀHĀ) hay khiến cho chư Thiên kính yêu. Hành Nhân muốn cầu giàu có lớn, nên tụng Như Lai Bộ Đại Minh, như vậy thường làm ắt được giàu có lớn.
Nếu làm Pháp Tăng Ích (Puṣṭika) cũng tụng Bản Đại Minh, sau đó tụng chữ Hồng (HŪṂ) sẽ mau được tăng ích
Nếu giết Thiết đổ lỗ (Śatrū: oan gia), trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ) sau đó tụng chữ Phát Tra (PHAṬ) tức hay giết kẻ kia
Nếu muốn Phát Khiển, trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), sau đó tụng Bản Đại Minh với chữ Phát Tra (PHAṬ), làm cúng dường bí mật rồi hay phát khiển.
Như vậy hết thảy Bảo Trượng ở chín nơi: bốn phương, bốn góc với khoảng chính giữa của Mạn Noa La lúc trước… tuy dùng hương, hoa cúng dường thức ăn uống xuất sinh. Nếu chẳng trì tụng Đại Minh thì trọn chẳng thành tựu nhóm PháP: Tăng Ích, Kính ái, Tức Tai, Điều Phục, giết oan gia như vậy
Người trì Minh ấy biết rõ Ấn Pháp bí mật với nhóm Nghi Quỹ của Mạn Noa La trọn đủ thì chẳng cần chọn lựa ngày, nhà cửa, giờ giấc, chiêm quán Tinh Diệu (các ngôi sao), cũng chẳng mượn Chí trì Trai Giới, tắm gội, thanh tịnh… tự nhiên thành tựu, mãn tất cả nguyện.
Nếu người trì Minh phát Tâm Bồ Đề, dùng hương, hoa, quả trái, thức ăn uống… tùy theo sức cúng dường Diệm Man Đắc Ca Minh Vương, tụng Tâm Đại Minh ấy đủ sáu tháng thì tùy theo ý mong cầu đều được thành tựu
PHẪN NỘ MINH VƯƠNG TẤT LỆ ĐA NẴNG TỲ BẢO TRƯỢNG ẤN MẠN NOA LA BÍ MẬT CÚNG DƯỜNG NGHI QUỸ PHẦN THỨ NĂM
Lại nữa, người trì Minh: ban đêm đi đến trong rừng Thi Đà (Śita-vana) dùng tro xác chết vẽ Mạn Noa La vuông vức, làm bốn cửa. Bên trên dùng lụa màu che ngăn bụi, treo phất trần, gương, vòng hoa. Lại ở bốn phương an tám cái đầu lâu, thắp tám chén đèn, chính giữa vẽ nửa xác chết, trên xác chết vẽ Bảo Trượng Ấn, vẽ riêng một Tất Lệ Đa (Preta). Đây gọi là Tất Lệ Đa Nẵng Tỳ Mạn Noa La hay làm tất cả thành tựu.
Thời người trì Minh y theo Pháp xuất sinh cúng dường, liền tụng Đại Minh một lạc xoa (10 vạn biến) khiến cho Pháp tinh thục. Dùng đầu lâu chứa đầy Du Ni Đế, hiến Bảo Trượng Ấn. Người trì minh dùng Xích Đàn xoa bôi thân, khiết tịnh xong mặc áo màu đỏ, dùng Đại Minh Giáp Trụ để tự ủng hộ, lại dùng ba người: Từ Biện, Dũng Mãnh, Tinh Tiến làm Đồng Bạn.
Vào ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, người trì Minh chận dừng các Căn khiến cho Tâm vắng lặng, cùng với ba người lúc trước đồng vào Tất Lệ Đa Nẵng Tỳ Mạn Noa La. Người trì Minh an định mà ngồi, dùng bàn tay kết Ấn, tụng Đại Minh này. Hoặc thấy mọi loại Ma Cảnh thì chẳng được khiếp sợ, trọn đêm trì tụng ắt được thành tựu. Giáng Ma, trừ Oán rất ư bậc nhất, cho đến Pháp khó thành cũng mau được thành tựu
_Lại nữa, người trì Minh trì Diệm Man Đắc Ca Đại Minh xong, liền tụng chữ
Hồng (HŪṂ) với tụng Đại Minh của nhóm Hạ nẵng, vĩ sa bố tra, bạn nhạ bạn nhạ (HANA VISPHUṬA BHAṂJA BHAṂJA) thời người trì Minh làm tướng phẫn nộ, đứng như thế múa, trải qua khoảng sát na, hay khiến cho núi non với châu thành, lầu gác… thảy đều phá hoại
_Lại nữa, người trì Minh trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng Đại
Minh của nhóm nại la, vĩ sa bố tra, bạn nhạ bạn nhạ (DARA VISPHUṬA BHAṂJA BHAṂJA) hay phá xé nát núi, sông, đại địa với mở cửa cung A Tu La, cho đến tất cả điều mong cầu đū được tùy theo ý.
_Lại nữa, trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng Đại Minh của nhóm bát tả, vĩ đặc tông sa du sa dã (PACA VIDHVAṂSAYUSAYA) hay khiến cho sông, suối, ao, đầm cho đến sông lớn, sông nhỏ, biển lớn thảy đều khô cạn.
_lại nữa, trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng sa đam bà (STAMBHA) hay khiến cấm phục tất cả việc Ma. Nếu tụng hai biến thì hay cấm quân ở nơi khác hoàn toàn không cử động được, dùng như người vẽ trên bức vách
_Nếu trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng Nột-Lăng (DRŪṂ) hay khiến cho Thiết Đốt Lỗ (Śatrū: Oan Gia) hoảng loạn. Hoặc đem hai câu lúc trước đồng dùng thì chỗ làm đều thành. Nếu làm tướng phẫn nộ trì tụng thì hay khiến cho quân phương khác tự rối loạn, bỏ chạy
_Nếu trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng để sắt tra, để sắt tra (TIṢTA TIṢTA). Minh này hay cấm phộc La Nhạ (Rāja: vua chúa)
_Nếu trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng nhóm hạ nẵng, vĩ đặctông bà sa, ma la dã, phát tra (HANA VIDHVAṂ PĀŚA MĀRĀYA PHAṬ) thì hay diệt quân phương khác
_Nếu trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng nhóm khiết khiết, khư hứ khư hứ (KHAKHA KHĀHI KHĀHI) thì hay khiến cho quân phương khác mau tự gây loạn.
_Nếu trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng phát tra, phát tra, nộtlăng nột-lăng, toản toản, nột-lăng nột-lăng (PHAṬ PHAṬ_ DRŪṂ DRŪṂ_ TAṂ TAṂ DRŪṂ DRŪṂ). Như vậy Minh này hay giết Thiết đốt lộ (oan gia)
_Nếu trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng hạ hạ, hạ hạ, phệ vi đa la, phát tra (HA HA, HĀ HĀ, VIŚVATRA). Hoặc nếu trước tiên tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng nhóm hạ hạ hạ hạ…phát tra (HA HA HĀ HĀ PHAṬ). Hai loại Minh này hay thành tựu tất cả việc của Thế Gian.
_Nếu trước tiên tụng hồng hồng (HŪṂ HŪṂ), tiếp theo tụng nột-lăng, nộtlăng, toản toản, nột lý, phát tra (DRŪṂ DRŪṂ TAṂ TAṂ DRĪ PHAṬ). Minh này hay ở trong khoảng sát na rộng lợi ích cho Thế Gian.
Minh Vương như vậy đã nói Nghi Quỹ, Ấn Pháp… trong khoảng tu tập tinh thục, trì tụng thì hộ trì tất cả Bồ Tát Tam Muội, làm tất cả việc tùy theo ý thành tựu.
_Lại nữa, người trì Minh bắt đầu làm Pháp thành tựu (Siddhi). Trước tiên, tụng một lạc xoa (10 vạn biến) khiến cho Pháp tinh thục, tức liền làm Pháp.
Nếu Pháp chưa thành, dùng Như Lai Tam Muội với Câu Triệu Đại Minh lúc trước, sau đó dùng Đỉnh Lễ Đại Minh với chữ Án (OṂ) xong. Lại chữ Án (OṂ) làm thứ nhất, chữ A (ĀḤ) làm thứ hai, chữ Hồng (HŪṂ) làm câu sau cùng. Như vậy tụng câu Phẫn Nộ Minh Vương Đại Minh xong, lại tụng chữ Hồng (HŪṂ), tiếp theo tụng chữ Án (OṂ), chữ A (ĀḤ), sau đó tụng chữ Hồng (HŪṂ). Như vậy tụng xong, lại tụng Như Lai Đại Minh, liền kín đáo kết Ấn Pháp tụng Đại Minh một lạc xoa (10 vạn biến) thì hay làm tất cả thành tựu
Đây là y theo Pháp tinh thục Nghi Tắc. Nếu chẳng thành tựu, nên lại y theo Pháp lúc trước làm. Nếu chẳng y theo Pháp làm thì người trì Minh tự bị phá hoại.
Tối Thắng Diệm Man Đắc Ca Minh Vương Pháp Ấn này ở tại chỗ nào thì người trì Minh y theo Pháp trì tụng sẽ hay thành tựu tất cả việc. Cho đến Thế Gian, Xuất Thế Gian hay làm thành hoại, chân thật chẳng hư dối. Ở ngoài 7 do tuần hay điều phục Ma Oán với Bộ Đa (Bhūta), Tất Lệ Đa (Preta), Phệ Đa Noa (Vetāḍa: Khởi Thi Quỷ) đều hay phá hoại. Cho đến câu triệu chư Thiên, ngưng dứt tai vạ, trừ hoạn nạn, giết Thiết Đốt Lỗ (oan gia). Y theo Tam Muội, Tâm Ấn, Nghi Quỹ đầy đủ này thì Minh Vương vui vẻ dùng Uy Thế lớn hay khiến cho chỗ làm của Hành Nhân được thành tựu.
Đây là Diệm Man Đắc Ca Tối Thượng Đại Vô Úy Minh Vương Tâm Ấn, cũng gọi là Bảo Trượng Ấn Bí Mật pháp
PHẬT NÓI KINH
ĐẠI GIÁO CĂN BẢN TỐI THƯỢNG CỦA DIỆU CÁT TƯỜNG
_QUYỂN THƯỢNG (Hết)_