KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH
_QUYỂN THỨ NHẤT_
Hán dịch: Đại Đường Tam Tạng Sa Môn NGHĨA TỊNH phụng chế dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
SƠ LƯỢC VỀ KINH KIM QUANG MINH
Kinh Kim quang Minh tên Phạn là Suvarṇa-prabhāsa, tên Tây Tạng là Gser-ḥoddam-pa mdo-sḍcḥi dbaṅ-poḥi rgyai-po. Tên đầy đủ là Kim quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (Suvarṇa-prabhāsottama-rāja-sūtra) hay Kim Quang Minh Tối Thắng Kinh (Suvarṇa-prabhāsottama-sūtra)
Đời Bắc Lương, niên hiệu Huyền Thủy (312_427): Đàm Vô Sấm (Dharma-kṣema, hay Dharma-rakṣa) dịch bộ Kim Quang Minh Kinh gồm 4 quyển, 18 Phẩm
Tiếp đến đời Lương, Thiên Thánh năm đầu tiên (552): Chân Đế (Paramārtha) dịch thành 7 quyển, hiệu chỉnh các Phẩm trong bản dịch Bắc Lương và bổ sung thêm 4 Phẩm: Tam Thân phân biệt, Nghiệp Chướng diệt, Đà La Ni Tối Tịnh Địa, Y Không mãn nguyện thành 22 Phẩm
Đời Bắc Chu, thời Vũ Đế (561_578): Gia Xá Quật Đa (Yaśo-gupta) lại dịch thành 5 quyển. Ngoài các Phẩm trong bản dịch Bắc Lương, dịch bổ sung thêm hai Phẩm: Thọ Lượng và Đại Biện Đà La Ni
Đời Tùy, Xà Na Quật Đa (Jñāna-gupta) lại dịch bồ sung thêm hai Phẩm: Ngân Chủ Đà La Ni và Chúc Lụy
Đời Tùy, Khai Hoàng năm thứ 17 (597): Sa Môn Bảo Quý ở chùa Đại Hưng Thiện đã tổng hợp bản dịch của các nhà, san đồng bổ sung vào chỗ thiếu thành Hợp Bộ Kim Quang Minh Kinh gồm 8 quyển, 24 Phẩm
Cuối cùng, đời Vũ Chu, Trường An năm thứ 3 (703) Nghĩa Tịnh dịch ra bộ Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh gồm 10 quyển, 31 Phẩm. Do Phẩm Mục, Nghĩa Lý của bản dịch này rất ư hoàn bị, phong cách tao nhã và rõ ràng nên được lưu hành rộng rãi.
_Ý nghĩa nội dung của 31 Phẩm này là:
Tự Phẩm đầu tiên là phần Tựa.
9 Phẩm kế tiếp là phần Chính Tông
21 Phẩm còn lại là phần Lưu Thông
Lại dựa theo nghĩa lý trong 9 Phẩm của phần Chính Tông thì: 2 Phẩm đầu minh họa về Quả, 5 Phẩm kế tiếp minh họa về Hành, 2 Phẩm cuối minh họa về Cảnh
1_Trong 2 phẩm minh họa về Quả thì: Phẩm Thọ Lượng: do Diệu Tràng nghi ngờ hỏi Thọ Mệnh của Đức Như Lai do nhân nào mà lại ngắn ngủi? Để nói Thọ Lượng của Đức Như Lai là vô lượng, chỉ vì lợi ích cho chúng sinh nên hiện bày ngắn ngủi. Lại nói mọi loại 10 Pháp hay giải Lý Thú chân thật của Như Lai, nói có Đại Bát Niết Bàn
Tiếp đến Phẩm Phân biệt ba Thân: Do Hư Không Tạng thỉnh hỏi, nên nói rõ Phật có 3 Thân Pháp, Ứng, Hóa. Ở đây giải thích vấn đề Thân Phật được phát sinh trong thời kỳ đầu tiên của Đại Thừa, tương thông với Phẩm Thọ Lượng trong Kinh Pháp Hoa
2_Trong 5 Phẩm minh họa về Hành thì: Phẩm Mộng Kiến Sám Hối đầu tiên nói Diệu Tràng nằm mộng thấy vị Bà La Môn đánh cái trống vàng phát ra âm thanh, nói Pháp Sám Hối
Tiếp đến, Phẩm Diệt Nghiệp Chướng: Do Đế Thích hỏi nên nói tu hành Đại Thừa, nhiếp nhận hữu tình điên đảo nghiêng lệch từng tạo nghiệp chướng, Pháp Sám Hối trừ diệt… dùng phần trên làm Địa Tiền Hành
Tiếp đến, Phẩm Tối Tịnh Địa Đà La Ni nói Hạnh của mười Địa, phát Tâm Bồ Đề làm Nhân của mười Độ (10 Ba La Mật). Lại y theo mọi loại 5 Pháp thành tựu mười Độ, tướng trạng của mười Địa với danh nghĩa, chướng ngại của mười Địa; các Độ (Ba La Mật) mà mười Địa đã hành, Tam Ma Địa được sinh ra, cuối cùng nói Đà La Ni mà các Địa đã được hộ trì
Tiếp đến, Phẩm Liên Hoa Dụ Tán nói nhân duyên của Pháp Sám Hối, tức quá khứ Kim Long Chủ Vương thường dùng hoa sen ví dụ khen ngợi chư Phật, kèm theo nói văn xưng tán
Tiếp đến, Phẩm Kim Thắng Đà La Ni nói thọ trì Đà La Ni này tức là cúng dường chư Phật, được Thọ Ký ấy, tùy theo chỗ mong cầu, không có gì chẳng viên mãn
3_Trong 2 Phẩm minh họa về Cảnh thì: Phẩm Trùng hiển Không Tính lược nói Pháp Không (Śūnya: trống rỗng) khiến cho người nghe ngộ nhập vào nghĩa thù thắng, chính đúng tu Xuất Ly
Tiếp đến, Phẩm Y Không mãn nguyện nói y theo Không Tính (Śūnyatā: Tính trống rỗng) hành Pháp Bồ Đề, tu Hạnh bình đẳng. Trong Phẩm này Như Ý Bảo Quang Diệu Thiên Nữ nghe Pháp khai ngộ, liền chuyển thân nữ làm thân Phạm Thiên, được Đức Phật thọ Ký, tương tự như Long Nữ chuyển thân thành Phật trong Kinh Pháp Hoa
4_Từ cuối phần Chính Tông trở xuống có 21 Phẩm rộng nói về chư Thiên hộ giúp đời, tăng tiền của, biện luận khéo léo, trừ tai vạ, hiển lợi ích của Kinh, Thọ Ký, trừ nghi, thỉnh nói nhân xưa kia, Khổ Hạnh. Cuối cùng là Bồ Tát đồng khen ngợi cùng với Đức Như Lai phó chúc đều thuộc phần Lưu Thông.
So sánh với Lược Bản được dịch trong Đời Lương thì bản dịch này tăng thêm Đà La Ni rất nhiều, do vậy có người đem Kinh Bản này nhập vào Bí Mật Bộ (như Tây Tạng Tạng Văn Đại Tạng Kinh)
_Hiện nay, ở Nepal có lưu giữ bản Phạn 21 Phẩm, đại đồng với bản dịch đời Lương
Bản tiếng Phạn của kinh Kim Quang Minh được biên tập lần đầu tiên vào năm 1898 tại Calcutta, Ấn Độ bởi hai tác giả S.C. Das và S.C. Shastri chỉ có 25 Phẩm, chẳng hoàn toàn
Kinh Kim Quang Minh được biết đến tại Nhật Bản vào thế kỷ thứ 7 và đóng một vai trò quan trọng đối với Phật giáo Nhật Bản, cùng với Kinh Pháp Hoa, Kinh Nhân Vương được xem là ba bộ Kinh trấn hộ đất nước. Dưới sự bảo trợ của Hoàng gia, bốn bản kinh đã được dịch ra tiếng Nhật bởi Jina-mitra, Śīlendra-bodhi và những dịch giả khác. Một phiên bản tiếng Nhật cũng được
soạn thảo bởi Nanjio và được xuất bản bởi môn đồ của ông là Izumiin vào năm 1931.
Các bản dịch tiếng Tây Tạng từ kinh bản tiếng Phạn đã được tổng hợp và biên tập bởi giáo sư Nobel. Bản tiếng Tây Tạng đầu tiên được dịch bởi Sud-guśoka (?Mūla-śoka) và Jñāna-kumāra vào nửa đầu thế kỷ thứ 8. Bản thứ hai được dịch bởi Jina-mitra (Thắng Hữu) , Śīlendra-bodhi và Ye-śes-sde vào đầu thế kỷ thứ 9. Bản thứ ba được dịch bởi Chos-grub. Bản thứ hai căn cứ trên một bản tiếng Phạn không khác mấy so với bản Phạn đã sử dụng cho bản thứ nhất, nhưng bản thứ ba lại là một bản dịch từ phiên bản nổi tiếng của Nghĩa Tịnh. Các bản kinh thuộc Chính Tạng “Kanjur” do Nobel sử dụng cho thấy có hai phiên bản: một phiên bản được thuộc về Hồng Tạng (Kanjur đỏ) được in block lưu trữ tại thư viện quốc gia – Paris và Tạng “Kanjur” chép tay lưu trữ tại thư viện quốc gia Phổ – Berlin. Phiên bản sau đã đã hiệu đính, lại có trong Hồng Tạng được lưu trữ tại Đại học Cambridge.
Kinh Kim Quang Minh không những được dịch sang tiếng Tây Tạng và Trung Hoa mà còn được dịch sang các thứ tiếng như: Anh (English), Duy Ngô Nhĩ (Uighur), Mông Cổ (Mongol), Túc Đặc (Sogdian), Vu Điền (Khotanese), Đảng Hạng (Tangut).
Kinh Kim Quang Minh được lưu trữ thông qua số lượng lớn những bản chép tay bằng nhiều loại ngôn ngữ Trung Á khác nhau. Thư viện Anh quốc lưu giữ 8 mảnh thủ bản kinh Kim Quang Minh rất cổ có nguồn gốc từ Färhäd Beg Yailiki. Một mảnh thủ bản nhỏ không còn nguyên vẹn được in block kiểu bản xếp của kinh này được khai quật trong chuyến thám hiểm của người Đức đầu tiên tại Trung Á, Grunwedel (1902-1903). Ngay sau khi khám phá, bản kinh đã được nghiên cứu và ấn hành bởi Heinrich Stonner vào năm 1904. Từ đó trở đi, bản kinh dần dần được nhiều học giả người Đức khác nghiên cứu. Trong danh mục của mình, Ernest Waldschmidt đã biên tập bản kinh rất kỹ lưỡng. Trong thời gian gần đây (2004) Akira Yuyama đã khảo sát tất cả các thủ bản Trung Á.
Phiên bản tiếng Duy Ngô Nhĩ của kinh này có hai bộ sưu tập chính: bộ Altun Yaruq (hiện được bảo tồn tại Viện Vostokovedenija, St. Petersburg) và bộ Turfansammlung. Bộ thứ nhất đã được biên dịch sang Hán ngữ vào thế kỷ thứ 10.
_Nay do sự yêu cầu của các bạn đồng tu muốn tự mình hiểu rõ hơn về nghĩa thú của Kinh Kim Quang Minh; nên tôi cố gắng sưu tầm và phục hồi các
Đà La Ni, phiên dịch lại bộ Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Điều không thể tránh khỏi là bản phiên dịch này vẫn còn nhiều thiếu sót. Ngưỡng mong các Bậc Cao Tăng Đại Đức, chư vị Thiện Tri Thức hãy rũ lòng Từ Bi chỉ dạy, giúp cho tôi kịp thời sửa chữa những lỗi lầm và hoàn thiện phần ghi chép này.
Mọi Công Đức có được trong tập ghi chép này, con xin kính dâng lên hương linh của Thân Phụ (Nguyễn Vũ Nhan) và Thân Mẫu (Vũ Thị Ni) là hai bậc ân nhân đầu tiên của con.
Con xin kính dâng các Công Đức có được lên Thầy Thích Quảng Trí và Thầy Thích Pháp Quang là các bậc Thầy luôn theo dõi, hỗ trợ và thúc đẩy con nghiên cứu Phật Pháp cho chính đúng.
Tôi xin cám ơn em Mật Trí (Tống Phước Khải) đã nhiệt tình hỗ trợ các tư liệu Phạn Hán Anh giúp cho việc hoàn tất bản dịch này.
Tôi xin chân thành cám ơn người bạn đường Ngọc Hiếu (Vũ Thị Thanh Hà) đã cam chịu mọi sự khó khăn trong cuộc sống để giúp tôi an tâm trên con đường tìm hiểu Chính Pháp Giải Thoát của Đấng Phật Đà.
Cuối cùng nguyện xin hồi hướng Công Đức này đến toàn thể chúng hữu tình trong ba cõi sáu đường đều mau chóng xa lìa mọi ách nạn khổ đau, thường được an vui, thọ hưởng Pháp Vị Giải Thoát của Đấng Phật Đà.
Mùa Thu năm Giáp Ngọ (2014)
Huyền Thanh (Nguyễn Vũ Tài) kính ghi
***
TỰA _PHẨM THỨ NHẤT_
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự trên ngọn núi Kỳ Xà Quật (Gṛdhra-kuṭa) tại thành Vương Xá (Rāja-gṛha), ở Pháp Giới (Dharma-dhātu) rất thanh tịnh thâm sâu, là cảnh của chư Phật, nơi cư ngụ của Như Lai, cùng với Chúng Đại Bật Sô (Mahatā bhikṣu-saṃgha) gồm chín vạn tám ngàn người đều là A La Hán (Arhate), hay khéo điều phục như voi chúa lớn (Mahā-hāsti-rāja: đại Tượng Vương), đã trừ các Lậu (Āsvara:sự chảy rỉ, tên riêng của phiền não) không có phiền não nữa, Tâm khéo giải thoát, Tuệ khéo giải thoát, chỗ cần làm đã làm xong, buông bỏ các gánh nặng, đạt được lợi mình, hết các Hữu Kết (quả báo của sinh tử), được đại tự tại, trụ Giới thanh tịnh, phương tiện khéo léo, Trí Tuệ trang nghiêm, chứng tám Giải Thoát, đã đến bờ bên kia (Pāramita). Các vị ấy tên là: Cụ Thọ (Āyuṣmat: lời tôn xưng hàng A La Hán) A Nhã Kiều Trần Như (Ājñātakauṇḍinya), Cụ Thọ A Thuyết Thị Đa (Aśvajita), Cụ Thọ Bà Thấp Ba (Vāṣpa), Cụ Thọ Ma Ha Na Ma (Mahā-nāma), Cụ Thọ Bà Đế Lợi Ca (Bhadra), Cụ Thọ Đại Ca Nhiếp Ba (Mahā-kāśyapa), Ưu Lâu Tần Loa Ca Nhiếp (Urubilvā-kāśyapa), Già Gia Ca Nhiếp (Gayā-kāśyapa), Na Đề Ca Nhiếp (Nadī-kāśyapa), Xá Lợi Tử (Śāriputra), Đại Mục Kiền Liên (Mahāmaudgalyāyana). Chỉ có A Nan Đà (Ānanda) trụ ở Học Địa. Các Đại Thanh Văn (Mahā-śrāvaka) của nhóm như vậy đều ở sau bữa trưa, từ Định khởi dậy, đi đến chỗ của Đức Phật, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, rồi lui ra ngồi một bên.
Lại có Bồ Tát Ma Ha Tát đủ trăm ngàn vạn ức người, có uy đức lớn, như vua Rồng lớn (Mahā-nāgarāja: đại long vương); danh tiếng vang khắp, mọi người đều biết; Thí (Dāna) Giới (Śīla) thanh tịnh, thường ưa thích phụng trì Nhẫn Hạnh (Kṣānti) Tinh Cần (Vīrya) trải qua vô lượng kiếp; vượt qua các
Tĩnh Lự (Dhyāna:Thiền Định) cột niệm ở trước mặt; mở toang cửa Tuệ (Prajña-mukhe), khéo tu phương tiện (Upāya), du hý tự tại, Thần Thông (Abhijñā) vi diệu, đạt được Tổng Trì (Dhāraṇī), Biện Tài không tận; chặt đứt các phiền não, trói nhiễm đều quên; chẳng lâu sẽ thành Nhất Thiết Chủng Trí (Sarvathā-jñāna), giáng phục quân chúng Ma, rồi đánh cái trống Pháp (Dharmadundubhi) chế ngự Ngoại Đạo (Tīrthaka) khiến khởi Tâm trong sạch; chuyển bánh xe Diệu Pháp (Saddharma) hóa độ chúng Trời Người; đều đã trang nghiêm cõi Phật ở mười phương; hữu tình trong sáu nẻo không có ai chẳng nương nhờ lợi ích; thành tựu Đại Trí, đầy đủ Đại Nhẫn; trụ Tâm Đại Từ Bi, có sức thật bền chắc; trải qua việc phụng sự chư Phật, chẳng vào Niết Bàn (Nirvāṇa); phát Tâm thệ nguyện rộng, cùng tận bờ mé vị lai; Rộng ở chỗ của Đức Phật gieo trồng trồng sâu Nhân (Hetu) trong sạch; nơi Pháp của ba đời ngộ Vô Sinh Nhẫn (Anutpattika-kṣānti). Dạo chơi nơi cảnh giới mà hàng nhị Thừa đã thực hành, dùng sự khéo léo rộng lớn hóa đạo Thế Gian, đối với sự dạy bảo của Đại Sư đều hay diễn bày Pháp bí mật, đều đã biết rõ Tính trống rỗng (Śūnyatā: Không Tính) thâm sâu, không có nghi ngờ nữa.
Các vị ấy tên là: Vô Chướng Ngại Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, Thường Phát Tâm Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, Thường Tinh Tiến Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Tổng Trì Tự Tại Bồ Tát, Đại Biện Trang Nghiêm Vương Bồ Tát, Diệu Cao Sơn Vương Bồ Tát, Đại Hải Thâm Vương Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Đại Bảo Tràng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Bảo Thủ Tự Tại Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Hoan Hỷ Lực Bồ Tát, Đại Pháp Lực Bồ
Tát, Đại Trang Nghiêm Quang Bồ Tát, Đại Kim Quang Trang Nghiêm Bồ Tát, Tịnh Giới Bồ Tát, Thường Định Bồ Tát, Cực Thanh Tịnh Tuệ Bồ Tát, Kiên Cố Tinh Tiến Bồ Tát, Tâm Như Hư Không Bồ Tát, Bất Đoạn Đại Nguyện Bồ Tát, Thí Dược Bồ Tát, Liệu Chư Phiền Não Bệnh Bồ Tát, Y Vương Bồ Tát, Hoan Hỷ Cao Vương Bồ Tát, Đắc Thượng Thọ Ký Bồ Tát, Đại Vân Tịnh Quang Bồ Tát, Đại Vân Trì Pháp Bồ Tát, Đại Vân Danh Xưng Thiện Lạc Bồ Tát, Đại Vân Hiện Vô Biên Xưng Bồ Tát, Đại Vân Sư Tử Hống Bồ Tát, Đại Vân Ngưu Vương Hống Bồ Tát, Đại Vân Cát Tường Bồ Tát, Đại Vân Bảo Đức Bồ Tát, Đại Vân Nhật Tạng Bồ Tát, Đại Vân Nguyệt Tạng Bồ Tát, Đại Vân Tinh Quang Bồ Tát, Đại Vân Hỏa Quang Bồ Tát, Đại Vân Điện Quang Bồ Tát, Đại Vân Lôi âm Bồ Tát, Đại Vân Tuệ Vũ Sung Biến Bồ Tát, Đại Vân Thanh Tịnh Vũ Vương Bồ Tát, Đại Vân Hoa Thụ Vương Bồ Tát, Đại Vân Thanh Liên Hoa Hương Bồ Tát, Đại Vân Bảo Chiên Đàn Hương Thanh Lương Thân Bồ Tát, Đại Vân Trừ Ám Bồ Tát, Đại Vân Phá Y Bồ Tát. Vô lượng chúng Đại Bồ Tát của nhóm như vậy đều ở sau bữa trưa, từ Định khởi dậy, đi đến chỗ của Đức Phật, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, rồi lui ra ngồi một bên.
_Lại có Lê Xa Tỳ Đồng Tử (Litsavi-kumāra) gồm năm ức tám ngàn người. Các vị ấy tên là: Sư Tử Quang Đồng Tử, Sư Tử Tuệ Đồng Tử, Pháp Thụ Đồng Tử, Nhân Đà La Thụ Đồng Tử, Đại Quang Đồng Tử, Đại Mãnh Đồng Tử, Phật Hộ Đồng Tử, Pháp Hộ Đồng Tử, Tăng Hộ Đồng Tử, Kim Cương Bộ Đồng Tử, Hư Không Bộ Đồng Tử, Hư Không Hống Đồng Tử, Bảo Tạng Đồng Tử, Cát Tường Diệu Tạng Đồng Tử. Nhóm người như vậy là bậc Thượng Thủ (Pramukha) thảy đều an trụ Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi), ở trong Đại Thừa (Mahā-yana) vui vẻ tin tưởng sâu xa, đều ở sau bữa trưa, đi đến chỗ của Đức Phật, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, rồi lui ra ngồi một bên.
_Lại có bốn vạn hai ngàn vị Thiên Tử (Devaputra). Các vị ấy tên là: Hỷ Kiến Thiên Tử, Hỷ Duyệt Thiên Tử, Nhật Quang Thiên Tử, Nguyệt Kế Thiên Tử, Minh Tuệ Thiên Tử, Hư Không Tịnh Tuệ Thiên Tử, Trừ Phiền Não Thiên Tử, Cát Tường Thiên Tử. Nhóm Thiên Tử như vậy là bậc Thượng Thủ, đều phát Nguyện rộng hộ trì Đại Thừa, kế thừa phát dương Chính Pháp hay khiến cho chẳng dứt, đều ở sau bữa trưa, đi đến chỗ của Đức Phật, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, rồi lui ra ngồi một bên.
_Lại có hai vạn tám ngàn vị Long Vương (Nāga-rāja): Liên Hoa Long Vương, Y La Diệp Long Vương, Đại Lực Long Vương, Đại Hống Long Vương, Tiểu Ba Long Vương, Trừ Quyết Thủy Long Vương, Kim Diện Long Vương, Như Ý Long Vương. Nhóm Long Vương như vậy là bậc Thượng Thủ, đối với Pháp Đại Thừa thường ưa thích thọ trì, phát Tâm tin tưởng sâu xa, đều ở sau bữa trưa, đi đến chỗ của Đức Phật, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, rồi lui ra ngồi một bên.
_Lại có ba vạn sáu ngàn các chúng Dược Xoa (Yakṣa) do Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa) làm Thượng Thủ. Các vị ấy tên là: Am Bà Dược Xoa, Trì Am Bà Dược Xoa, Liên Hoa Quang Tạng Dược Xoa, Liên Hoa Diện Dược Xoa, Tần My Dược Xoa, Hiện Đại Bố Dược Xoa, Động Địa Dược Xoa,
Thôn Thực Dược Xoa. Nhóm Dược Xoa đó thảy đều yêu thích Chính Pháp của Như Lai, thâm tâm hộ trì chẳng sinh mệt mỏi lười biếng, đều ở sau bữa trưa, đi đến chỗ của Đức Phật, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, rồi lui ra ngồi một bên.
_Lại có bốn vạn chín ngàn Yết Lộ Trà Vương (Garuḍa-rāja) do Hương Tượng Thế Lực Vương là bậc Thượng Thủ với hàng Kiện Thát Bà (Gandharva), A Tô La (Asura), Khẩn Na La (Kiṃnara), Mạc Hô Lạc Già (Mahoraga), tất cả Thần Tiên ở núi, rừng, sông, biển kèm với hết thảy chúng vua, Hậu Phi trong cung, Nam Nữ có niềm tin trong sạch ở các nước lớn, Đại chúng người Trời thảy đều vân tập, đều nguyện ủng hộ Đại Thừa vô thượng, đọc tụng, thọ trì, viết chép, lưu bày, đều ở sau bữa trưa, đi đến chỗ của Đức Phật, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, rồi lui ra ngồi một bên.
Như vậy, nhóm Thanh Văn, Bồ Tát, Đại Chúng NgườiTrời, tám Bộ Rồng Thần đã vân tập xong, mỗi mỗi đều chí Tâm, chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Thế Tôn chẳng chớp mắt, vui nguyện muốn nghe Pháp màu nhiệm thù thắng.
_Bấy giờ, Đức Bạc Già Phạm (Thế Tôn) ở sau bữa trưa, từ Định khởi dậy, quán sát Đại Chúng rồi nói Tụng là:
“Diệu Pháp Kim Quang Minh (Suvarṇa-prabhāsa)
Vua các Kinh tối thắng
Thâm sâu, khó được nghe
Cảnh giới của chư Phật
Ta sẽ vì Đại Chúng
Tuyên nói Kinh như vậy
Kèm bốn Phật bốn phương
Uy Thần cùng gia hộ
Phương Đông A Súc Tôn (Akṣobhya)
Phương Nam: Bảo Tướng Phật (Ratna-ketuna)
Phương Tây: vô Lượng Thọ (Amitāyuḥ)
Phương Bắc: Thiên Cổ Âm (Divya-duṇḍubhi-svara)
Ta lại diễn Diệu Pháp
Thắng (thù thắng) trong Sám cát tường
Hay diệt tất cả tội
Tịnh trừ các nghiệp ác
Với tiêu mọi nạn khổ
Thường cho vô lượng vui
Gốc rễ Nhất Thiết Trí (Sarva-jñā)
Các Công Đức (Guṇa) trang nghiêm
_Chúng sinh: chẳng đủ thân
Tướng thọ mệnh tỗn giảm
Các tướng ác hiện tiền
Thiên Thần đều buông lìa
Thân hữu ôm sân hận
Quyến thuộc đều chia lìa
Nhóm ấy cùng trái ngược
Trân tài đều tan mất
Sao ác gây biến quái
Bị Tà Cổ xâm hại
Hoặc lại nhiều lo buồn
Mọi nỗi khổ ép bức
Nằm ngủ thấy mộng ác
Nhân đây, sinh phiền não.
_Người đó nên tắm gội
Nên mặc áo sạch mới
Nơi Diệu Kinh Vương này
Nơi Phật khen sâu xa
Chuyên chú Tâm không loạn
Đọc tụng, nghe, thọ trì
Do uy lực Kinh này
Hay lìa các tai vạ
Với mọn nạn khổ khác
Không gì chẳng trừ diệt
Cúng bốn vương Hộ Thế (Loka-pāla)
Với Đại Thần, quyến thuộc
Vô Lượng các Dược Xoa
Một lòng đều bảo vệ
Đại Biện Tài Thiên Nữ (Sarasvatī)
Thủy Thần sông Ni Liên (Nairañjanavāsinī-devatā)
Ha Lợi Đế Mẫu Thần (Hārītī)
Chúng Kiên Lao Địa Thần (Dṛḍhā-pṛthivī-devatā)
Phạm Vương (Brahma), Đế Thích Chủ (Indra)
Long Vương (Nāga-rāja), Khẩn Na La (Kiṃnara) Với Kim Sí Điểu Vương (Garuḍa-rāja)
A Tô La (Asura), chúng Trời (Deva-gaṇa)
Nhóm Thiên Thần như vậy
Cùng đem các Quyến thuộc
Đều đến giúp ngưới đó
Ngày đêm thường chẳng lìa
_Ta sẽ nói Kinh này
Phật Hành Xứ (Buddha-gocara:
Hành Xứ của Đức Phật) thâm sâu
Giáo bí mật của Phật
Ngàn vạn kiếp khó gặp
Nếu có nghe Kinh đó
Hay vì người diễn nói
Hoặc Tâm sinh tùy vui
Hoặc bày biện cúng dường
Các nhóm người như vậy
Sẽ ở vô lượng kiếp
Thường được các Trời, Người
Rồng, Thần đều cung kính
Nhóm Phước này vô lượng
Hơn số cát sông Hằng
Người đọc tụng Kinh đó
Sẽ được Công Đức này
Cũng được mười phương Tôn
Các Bồ Tát hạnh sâu
Ủng hộ người trì Kinh
Khiến lìa các nạn khổ
_Người cúng dường Kinh này
Như trước, tắm gội thân
Thức ăn uống, hương hoa
Luôn khởi ý Từ Bi
Nếu muốn nghe Kinh đó
Khiến Tâm sạch, không dơ
Thường sinh niệm vui vẻ
Tăng trưởng các Công Đức
_Nếu dùng Tâm tôn trọng
Người lắng nghe Kinh này
Khéo sinh vào cõi người
Xa lìa các nạn khổ
Căn lành ấy thành thục
Nơi chư Phật khen ngợi
Mới được nghe Kinh đó
Với dùng Pháp Sám Hối”
THỌ LƯỢNG CỦA NHƯ LAI _PHẨM THỨ HAI_
Bấy giờ, Đại Thành Vương Xá có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Diệu Tràng (Rucira-ketu: Diệu Tràng, hay Tín Tướng) đã ở chỗ của vô lượng câu chi na dữu đa trăm ngàn Phật trong quá khứ, thừa sự, cúng dường, gieo trồng các căn lành.
Lúc đó, Diệu Tràng Bồ Tát ở một mình tại nơi yên tĩnh, tác suy nghĩ này: “Do nhân duyên nào mà Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai có thọ mạng ngắn ngủi, chỉ có tám mươi năm?”
Lại tác niệm này: “Như Đức Phật đã nói, có hai nhân duyên được thọ mạng lâu dài. Thế nào là hai? Một là chẳng hại sinh mạng, hai là cho người khác thức ăn uống. Mà Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai từng ở vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số Đại Kiếp chẳng hại sinh mạng, hành Thập Thiện Đạo, thường đem thức ăn uống ban cho tất cả chúng sinh đói khát, cho đến máu thịt xương tủy của thân mình cũng cầm, đem cho khiến họ được no đủ, huống chi là thức ăn uống khác?!…”
Khi Vị Bồ Tát ấy ở chỗ của Đức Thế Tôn tác niệm này thời do uy lực của
Đức Phật, cái thất ấy đột nhiên rộng rãi nghiêm tịnh, với Đế Thanh (Indranilamuktā: ngọc báu màu xanh), Lưu Ly (Vaiḍurya) mọi loại vật báu đủ màu xen kẽ tô điểm như tịnh thổ của Phật, có hương thơm màu nhiệm vượt hơn các thứ hương của cõi Trời, thơm phức tràn đầy. Ở bốn mặt ấy đều có tòa sư tử thượng diệu do bốn báu tạo thành, dùng áo báu của cõi Trời phủ lên trên. Lại ở tòa này có hoa sen màu nhiệm, dùng mọi loại trân bảo nghiêm sức tương xứng với Đức Như Lai tự nhiên hiển hiện. Ở trên hoa sen có bốn Đức Như Lai: Bất Động (Akṣobhya) ở phương Đông, Bảo Tướng (Ratna-ketuna) ở phương Nam, Vô Thượng Thọ (Amitāyuḥ) ở phương Tây, Thiên Cổ Âm (Divya-duṇḍubhisvara) ở phương Bắc. Bốn Đức Như Lai đó đều ngồi Kiết Già trên tòa ấy, phóng ánh sáng lớn chiếu sáng vòng khắp đại thành Vương Xá (Rāja-gṛha) với ba ngàn Đại Thiên Thế Giới cho đến cõi nước của hằng hà sa đẳng chư phật ở mười phương, tuôn mưa các hoa của cõi Trời, tấu các âm nhạc của cõi Trời
Bấy giờ, ở trong Thiệm Bộ Châu (Jambu-dvīpa) này với ba ngàn Đại Thiên Thế Giới: hết thảy chúng sinh do uy lực của Đức Phật nhận được niềm vui màu nhiệm thù thắng, không có thiếu thốn. Nếu thân chẳng đủ đều nhận được đầy đủ, người mù được nhìn thấy, người điếc được nghe, người câm hay nói được, người ngu được Trí. Nếu người loạn tâm thì được lại Bản Tâm, nếu người không có quần áo thì được quần áo, kẻ xấu xí hèn mọn được người kính trọng, kẻ dơ bẩn thì được thân thanh khiết. Ở Thế Gian này, hết thảy lợi ích, việc chưa từng có thảy đểu hiển hiện
Khi ấy, Diệu Tàng Bồ Tát thấy bốn Đức Như Lai với việc hiếm có thì vui mừng hớn hở, chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng tướng thù thắng của chư Phật, cũng lại suy nghĩ: “Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai có vô lượng Công Đức, chỉ đối với thọ mạng thì sinh Tâm nghi ngờ. Tại sao Như Lai có Công Đức vô lượng mà thọ mạng ngắn ngủi, chỉ có 80 năm?!…”
Bấy giờ, bốn Đức Phật bảo Diệu Tràng Bồ Tát rằng: “Này Thiện Nam Tử! Nay ông chẳng nên suy nghĩ về thọ mạng dài ngắn của Đức Như Lai. Tại sao thế? Thiện Nam Tử! Chúng Ta chẳng thấy chư Thiên (Deva), Thế Gian (Laukika), Phạm (Brahma), Ma (Mārā), Sa Môn (Śramaṇa), Bà La Môn (Brāhman), Người (Manuṣa) với Phi Nhân (Amanuṣa) nào có thể tính biết Thọ lượng (Āyuḥ-pramāṇa: lượng tuổi thọ) của Đức Phật, biết được hạn cùng cực ấy.
Chỉ trừ bậc Vô Thượng Chính Biến Tri”
_Thời bốn Đức Như Lai muốn nói hết thảy thọ lượng của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Do uy lực của Đức Phật: chư Thiên của cõi Dục (Kāma-dhātu) với cõi Sắc (Rūpa-dhātu), các Rồng (Nāga), Quỷ (Preta), Thần (Deavatā), Kiện Thát Bà (Gandharva), A Tô La (Asura), Yết Lộ Trà (Garuḍa), Khẩn Na La (Kiṃnara), Mạc Lô Lạc Già (Mahoraga) với vô lượng trăm ngàn ức na dữu đa Bồ Tát Ma Ha Tát thảy đều tập hội, vào trong cái thất màu nhiệm thanh tịnh của Diệu Tràng Bồ Tát.
Bấy giờ, bốn Đức Phật ở trong Đại Chúng, muốn hiển hết thảy thọ lượng của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, nên nói Tụng rằng:
“_Tất cả nước các biển
Có thể biết số giọt
Không có thể đếm biết
Thọ Lượng của Thích Ca
_Chẻ các núi Diệu Cao (Sumeru:núi Tu Di)
Thành các hạt cải nhỏ
Vẫn có thể biết số
Không có thể đếm biết
Thọ Lượng của Thích Ca
_Tất cả đất Đại Địa
Có thể biết số bụi
Không có thể đếm biết
Thọ Lượng của Thích Ca
_Giả sử lượng Hư Không
Vẫn biết tận bờ mé
Không có thể đo biết
Thọ Lượng của Thích Ca
_Nếu người trụ ức kiếp
Hết sức thường tính đếm
Cũng lại chẳng thể biết
Thọ Lượng của Thế Tôn
_Chẳng hại mạng chúng sinh
Với cho thức ăn uống
Do hai loại Nhân (Hetu) này
Được thọ mạng lâu dài
Thế nên, Đại Giác Tôn
Thọ mạng khó biết số
Như kiếp không bờ mé
Thọ lượng cũng như vậy
_Diệu Tràng! Ông nên biết
Chẳng nên khởi nghi ngờ
Thọ tối thắng vô lượng
Không ai biết được số”
Khi ấy, Diệu Tràng Bồ Tát nghe bốn Đức Như Lai nói thọ lượng của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật không có giới hạn, nên bạch rằng: “Thế Tôn! Vì sao Đức
Như Lai hiện bày lượng tuổi thọ ngắn ngủi như vậy?”
Thời bốn Đức Thế Tôn bảo Diệu Tràng Bồ Tát rằng: “Này Thiện Nam Tử! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ấy ở đời năm Trược [Pañca-kaṣāya: gồm có Kiếp Trược (Kalpa–kaṣāya), Kiến Trược (Dṛṣṭi-kaṣāya), Phiền Não Trược (Kleśakaṣāya), Chúng Sinh Trược (Satva-kaṣāya), Mệnh Trược (āyuskaṣāya)]. Khi hiện ra thời tuổi thọ của con người khoảng một trăm năm, bẩm tính thấp kém, căn lành nhỏ bé mỏng manh, lại không có Tín Giải (Adhimukti: y theo lời nói mà được sự hiểu biết thù thắng). Các chúng sinh này, phần lớn có quan điểm sai lầm là cố chấp thật có ta, thật có người, thật có chúng sinh, thật có thọ mạng. Nuôi dưỡng Tà Kiến (Mithyā-dṛṣṭi: kiến giải trái ngược chẳng hợp lý), quan điểm: thật có ta (Ātman: ngã), thật có cái của ta (Mama-kāra: ngã sở) với nhóm Đoạn Kiến (Uccheda-dṛṣṭi: quan điểm cho rằng khi thân này chết là đoạn diệt hết, không còn gì nữa), Thường Kiến (Nitya- dṛṣṭi: quan điểm cho rằng thế giới là thường trụ chẳng biến đổi, tự ngã của nhân loại chẳng diệt, sau khi loài người chết thì tự ngã cũng chẳng bị tiêu diệt, lại hay tái sinh mà lại dùng hiện trạng nối tiếp, tức nói cái Ta là thường trụ). Vì muốn lợi ích cho các Dị Sinh (Pṛthag-jna: phàm phu, chúng sinh) này với chúng Ngoại Đạo (Tīrthika), đẳng loại như vậy khiến sinh sự hiểu biết chính đúng (chính giải) mau được thành tựu Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi). Thế nên Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai hiện bày thọ mạng ngắn ngủi như vậy.
Này Thiện Nam Tử! Như vậy, Đức Như Lai ấy muốn khiến cho chúng sinh thấy Ngài vào Niết Bàn (Nirvāṇa) xong thì sinh tưởng khó gặp, nhóm tưởng lo khổ…đối với Kinh Giáo mà Đức Phật Thế Tôn đã nói, mau sẽ thọ trì, đọc tụng, thông lợi, vì người giải nói, chẳng sinh chê bai chế diễu. Chính vì thế cho nên Đức Như Lai hiện tuổi thọ ngắn ngủi này. Tại sao thế? Vì các chúng sinh ấy nếu thấy Đức Như Lai chẳng Bát Niết Bàn (Parinirvāṇa: nhập vào Niết Bàn) thì chẳng sinh tưởng cung kính, khó gặp. Kinh Điển thâm sâu do Đức Như Lai đã nói cũng chẳng thọ trì, đọc tụng, thông lợi. vì người tuyên nói. Tại sao thế? Do thường thấy Phật nên chẳng tôn trọng vậy.
Này Thiện Nam Tử! Ví như có người thấy cha mẹ của mình có nhiều tài sản, châu báu dư thừa. Liền đối với tài vật chẳng sinh tưởng hiếm có khó gặp.
Tại sao thế? Vì đối với tài sản của cha, sinh tưởng thường có vậy
Thiện Nam Tử! Các chúng sinh kia cũng lại như vậy. Nếu thấy Đức Như Lai chẳng vào Niết Bàn thì chẳng sinh tưởng hiếm có khó gặp. Tại sao thế? Vì do thường thấy vậy.
_Này Thiện Nam Tử! Ví như có người, cha mẹ nghèo cùng, thiếu thốn tiền của. Nhưng người nghèo ấy hoặc đến ngà của vua, hoặc nhà của Đại Thần thấy thương khố ấy có mọi loại châu báu thảy đều tràn đầy nên sinh Tâm hiếm có, Tưởng khó gặp. Thời người nghèo kia vì muốn cầu tiền, rộng bày phương tiện nhắc nhở siêng năng không có lười biếng. Tại sao thế? Vì buông bỏ nghèo cùng, thọ nhận an vui vậy
Thiện Nam Tử! Các chúng sinh kia cũng lại như vậy. Nếu thấy Đức Như Lai nhập vào Niết Bàn thì sinh tưởng khó gặp, cho đến nhóm tưởng loa khổ. Lại tác niệm này: “Ở vô lượng kiếp, chư Phật Như Lai hiện ra ở đời như hoa Ô Đàm Bạt (Udumbara: Thụy Ứng Hoa) đúng thời mới hiện một lần. Các chúng sinh kia phát Tâm hiếm có, khởi tưởng khó gặp. Nếu gặp Đức Như Lai thì Tâm sinh kính tin, nghe nói Chính Pháp, sinh tưởng Thật Ngữ (lời nói chân thật), hết thảy Kinh Điển thảy đều thọ trì, chẳng sinh hủy báng.
Này Thiện Nam Tử! Do Nhân Duyên đó nên Đức Phật Thế Tôn ấy chẳng trụ lâu ở đời mà mau vào Niết Bàn.
Thiện Nam Tử! Các Như Lai đấy dùng phương tiện khéo léo của nhóm như vậy mà thành tựu chúng sinh”
_Bấy giờ, bốn Đức Phật nói lời đó xong, đột nhiên chẳng hiện.
Khi ấy, Diệu Tràng Bồ Tát Ma Ha Tát cùng với vô lượng trăm ngàn Bồ
Tát với vô lượng ức na dữu đa trăm ngàn chúng sinh cùng nhau đi đến chỗ của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Chính Biến Tri trong núi Thứu Phong (Gṛdhrakuṭa), đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi đứng ở một bên. Thời, Diệu Tràng Bồ
Tát đem việc như bên trên thưa trình đầy đủ với Đức Thế Tôn
Lúc đó, bốn Đức Như Lai cũng đến Thứu Phong, đến chỗ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều tùy theo phương của mình chọn tòa ngồi mà ngồi, bảo Bồ
Tát Thị Giả (Ante-vāsi) rằng: “Thiện Nam Tử! Nay ông có thể đến chỗ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thay mặt Ta thăm hỏi Ngài có ít bệnh, ít buồn bực, cuộc sống thường ngày có nhẹ nhàng thuận lợi, đi lại an vui chăng?”. Lại nói lời này: “Lành thay! Lành Thay! Thích Ca Mâu Ni Như Lai nay có thể diễn nói Pháp Yếu thâm sâu của Kinh Kim Quang Minh, vì muốn nhiêu ích cho tất cả chúng sinh, trừ khử đói khát khiến được an vui. Ta sẽ tùy vui”
Thời Thị Giả ấy đều đến chỗ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đỉnh lễ hai bàn chân của Đức Phật rồi lui ra đứng một bên, đều bạch Phật rằng: “Đấng Thiên Nhân Sư kia thăm hỏi bậc Vô Lượng có ít bệnh, ít buồn bực, cuộc sống thường ngày có nhẹ nhàng thuận lợi, đi lại an vui chăng?”. Lại nói lời này: “Lành thay! Lành Thay! Thích Ca Mâu Ni Như Lai nay có thể diễn nói Pháp Yếu thâm sâu của Kinh Kim Quang Minh, vì muốn nhiêu ích cho tất cả chúng sinh, trừ khử đói khát khiến được an vui”.
Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác bảo các Bồ Tát Thị Giả ấy rằng: “Lành thay! Lành thay! Bốn Đức Như Lai ấy mới hay vì nhiêu ích an vui cho các chúng sinh mà khuyến thỉnh Ta tuyên dương Chính pháp”
Lúc đó, Đức Thế Tôn nói Tụng rằng:
“Ta thường ở núi Thứu
Tuyên nói báu Kinh này
Thành tựu chúng sinh nên
Hiện bày Bát Niết Bàn (Parinirvāṇa: nhập vào Niết Bàn)
Phàm Phu khởi Tà Kiến
Chẳng tin điều Ta nói
Vì thành tựu kẻ ấy
Hiện bày Bát Niết Bàn”
Thời trong Đại Hội có vị Bà La Môn (Brāhmaṇa) họ là Kiều Trần Như (Kauṇḍiya), tên là Pháp Sư Thọ ký (Ācārya-vyākaraṇa-prāpta) cùng với vô lượng trăm ngàn chúng Bà La Môn cúng dường Đức Phật xong, nghe Đức Thế Tôn nói vào Bát Niết Bàn thì nước mắt nước mũi giao nhau tuôn chảy, tiến lên phía trước lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu thật Đức Như Lai đối với chúng sinh có Đại Từ Bi, thương xót lợi ích khiến được an vui giống như cha mẹ, ngoài ra không có ai bằng, Hay làm chỗ quy y cho Thế Gian như mặt trăng tròn đầy thanh tịnh, dùng Đại Trí Tuệ hay làm chiếu sáng như mặt trời mới mọc. Quán khắp chúng sinh, yêu thương không có thiên lệch như La Hỗ La (Rāhula). Nguyện xin Đức Thế Tôn ban cho con một Nguyện”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn yên lặng mà dừng. Do uy lực của Đức Phật cho nên ở trong Chúng này có vị Lê Xa Tỳ Đồng Tử (Litsavi-kumāra) tên là Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến (Sarva-satva-priya-darśana) bảo Bà La Môn Kiều Trần Như rằng: “Đại Bà La Môn! Nay ông theo Đức Phật, muốn xin nguyện gì? Tôi có thể cho ông”
Bà La Môn nói: “Này Đồng Tử! Tôi muốn cúng dường Đức Thế Tôn vô thượng. Nay theo Đức Như Lai cầu thỉnh Xá Lợi (Śarīra) khoảng như hạt cải. Tại sao thế? Tôi từng nghe nói nếu kẻ trai lành, người nữ thiện được Xá Lợi của Phật khoảng như hạt cải mà cung kính cúng dường thì người này sẽ sinh vào cõi Tam Thập Tam Thiên (Trāyastriṃśat-deva) mà làm Đế Thích (Indra)”.
Lúc đó, Đồng Tử bảo Bà La Môn rằng: “Nếu người muốn nguyện sinh vẻo cõi Tam Thập Tam Thiên thọ nhận quả báo thù thắng thì cần phải chí Tâm lắng nghe Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh này, ở trong các Kinh rất ư thù thắng, khó hiểu khó vào, là nơi mà Thanh Văn Độc Giác chẳng thể biết, Kinh này hay sinh vô biên Phước Đức Quả Báo, cho đến thành biện Vô Thượng Bồ Đề, Nay tôi vì ông lược nói việc ấy”.
Bà La Môn nói: “Lành thay Đồng Tử! Kim Quang Minh này thâm sâu tối thượng, khó hiểu khó vào, Thanh Văn Độc Giác còn chẳng thể biết, huống chi là chúng tôi, người ở biên thùy, Trí Tuệ nhỏ hẹp mà có thể hiểu rõ. Thế nên, nay tôi cầu Xá Lợi của Phật khoảng như hạt cải, cầm về bản xứ, để trong hộp báu, cung kính cúng dường, sau khi mệnh chung được làm Đế Thích, thường thọ nhận an vui. Tại sao ông chẳng thể vì tôi, theo Đức Minh Hạnh Túc (Vidyācaraṇa-saṃpanna) cầu một Nguyện này?”
Nói lời đấy xong. Bấy giờ, Đồng Tử liền vì Bà La Môn mà nói Tụng là:
“Sông Hằng, nước chảy mau
Có thể sinh sen trắng
Chim vàng (hoàng điểu) làm hình trắng
Chim đen (hắc điểu) biến làm đỏ
Giả sử cây Thiệm Bộ (Jambū)
Lại sinh quả Đa La (Tāla-phala)
Trong cành Khiết Thụ La (Kharjūra)
Hay sinh lá Am La (Amra)
Nhóm này, vật hiếm có
Hoặc có thể chuyển biến
Xá Lợi của Thế Tôn
Rốt ráo chẳng thể được
_Giả sử dùng lông rùa
Dệt thành áo thượng diệu
Khi lạnh có thể mặc
Mới cầu Xá Lợi Phật
_Giả sử chân ve, muỗi
Hay khiến thành lầu quán
Bền chắc chẳng lay động
Mới cầu Xá Lợi Phật
_Giả sử Thủy Điệt Trùng (con đỉa)
Trong miệng sinh răng trắng
Dài, lớn, bén như Phong (mũi nhọn)
Mới cầu Xá Lợi Phật
_Giả sử cầm sừng thỏ
Dùng thành các bậc thanh
Có thể lên cung Trời
Mới cầu Xá Lợi Phật
_Chuột duyên trên thang này
Trử khử A Tô La
Hay che trăng trong không
Mới cầu Xá Lợi Phật
_Nếu ruồi uống rượu say
Đi vòng trong thành ấp
Rộng tạo làm nhà cửa
Mới cầu Xá Lợi Phật
_Nếu khiến màu môi lừa (con lừa)
Đỏ như quả Tần Bà (Bimbara, hay Bimba)
Khéo làm nơi ca múa
Mới cầu Xá Lợi Phật
_Quạ với chim cú vọ
Cùng nhau dạo một chỗ
Đó đây cùng thuận tùng
Mới cầu Xá Lợi Phật
Giả sứ lá Ba La
Có thể thành dù lọng
Hay ngăn che mưa lớn
Mới cầu Xá Lợi Phật
_Mượn khiến tàu thuyền lớn
Chứa đầy các tài bảo
Khiến đi trên lục địa
Mới cầu Xá Lợi Phật
_Giả sử chim Tiêu Liêu (chim Hồng Tước)
Dùng mỏ ngậm Hương Sơn (Gandha-mādana: tục gọi là núi Côn Lôn)
Tùy theo xứ, du hành
Mới cầu Xá Lợi Phật”
Lúc đó, Bà La Môn Pháp Sư Thọ Ký nghe Tụng này xong, cũng dùng Già Tha (Kệ Tụng) đáp Đồng Tử Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng:
“_Lành thay! Đại Đồng Tử
Cát Tường trong Chúng này
Tâm phương tiện khéo léo
Được Phật Vô Thượng Ký
Như Lai: uy đức lớn
Hay cứu giúp Thế Gian
Nhân Giả chí Tâm nghe
Nay tôi thứ tự nói
_Cảnh chư Phật khó nghĩ
Thế Gian không gì bằng
Pháp Thân, Tính thường trụ
Tu hành không không sai biệt
_Thể chư Phật đều đồng
Pháp đã nói cũng thế
Chư Phật, không người làm
Cũng lại vốn không sinh
_Thế Tôn, Thể Kim Cương
Quyền hiện ở Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya)
Thế nên Xá Lợi Phật
Không như một hạt cải
_Phật chẳng phải là thân máu thịt
Làm sao có Xá Lợi
Phương tiện lưu xương cốt
Vì lợi các chúng sinh
_Pháp Thân là Chính Giác
Pháp Giới tức Như Lai
Là Chân Thân của Phật
Cũng nói Pháp như vậy”
Bấy giờ, trong Hội: ba vạn hai ngàn vị Thiên Tử nghe nói Thọ Mệnh lâu dài của Đức Như Lai, đều phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác) vui mừng hớn hở được điều chưa từng có, khác miệng đồng âm mà nói Tụng rằng:
“Phật chẳng Bát Niết Bàn (vào Niết Bàn)
Chính Pháp cũng chẳng diệt
Vì lợi chúng sinh nên
Hiện bày có diệt tật
Thế Tôn chẳng nghĩ bàn
Diệu Thể không tướng khác
Vì lợi chúng sinh nên
Hiện mọi loại trang nghiêm”
Khi ấy, Diệu Tràng Bồ Tát ở gần trước mặt Đức Phật với bốn Đức Như Lai kèm hai vị Đại Sĩ, chỗ của các Thiên Tử… nghe nói việc Thọ Lượng của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai xong, lại từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu thật như vậy thì chư Phật Như Lai chẳng Bát Niết Bàn, không có Xá Lợi. Thế tại sao trong Kinh nói có Niết Bàn với Xá Lợi của Phật, khiến cho các Người Trời cung kính cúng dường. Chư Phật quá khứ hiện có xương cốt của thân lưu bày ở đời, Người Trời cúng dường được Phước vô biên, nay lại nói không có!…nên sinh nghi ngờ. Nguyện xin Đức Thế Tôn thương xót chúng con, rộng vì phân biệt”
Bấy giờ, Đức Phật bảo Diệu Tràng Bồ Tát với các Đại Chúng: “Các ngươi nên biết, nói Bát Niết Bàn, có Xá Lợi là Mật Ý nói, Nghĩa như vậy, nên một lòng lắng nghe!.
_Này Thiện Nam Tử! Bồ Tát Ma Ha Tát nên biết như vầy: có mười Pháp hay giải thích được Lý Thú chân thật của Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, nói có Đại Niết Bàn cứu cánh. Thế nào là mười?
1_Chư Phật Như Lai rốt ráo chặt đứt hết các Phiền Não Chướng (Kleśāvaraṇa), Sở Tri Chướng (Jñeyāvaraṇa) cho nên gọi là Niết Bàn (Nirvāṇa)
2_Chư Phật Như Lai khéo hay hiểu thấu Hữu Tình Vô Tính với Pháp Vô Tính, cho nên gọi là Niết Bàn
3_Hay chuyển Thân Y với Pháp Y cho nên gọi là Niết Bàn
4_Đối với các hữu tình mặc tình (nhậm vận) ngưng nghỉ nhân duyên cảm hóa, cho nên gọi là Niết Bàn.
5_Chứng được tướng không có sai biệt của sự chân thật, Pháp Thân bình đẳng cho nên gọi là Niết Bàn
6_Hiểu thấu sinh tử với Niết Bàn không có hai Tính cho nên gọi là Niết Bàn
7_Đối với tất cả Pháp, hiểu thấu căn bản ấy, chứng thanh tịnh cho nên gọi là Niết Bàn
8_Đối với tất cả Pháp không có sinh, không có diệt, khéo tu hành cho nên gọi là Niết Bàn
9_Chân Như Pháp Giới Thật Tế bình đẳng, được Chính Trí cho nên gọi là Niết Bàn
10_Đối với Tính của các Pháp với Tính của Niết Bàn, được không có sai biệt cho nên gọi là Niết Bàn
Đây là mười Pháp nói có Niết Bàn.
_Lại nữa, Thiện Nam Tử! Bồ Tát Ma Ha Tát nên biết như vầy: lại có mười Pháp hay giải thích được Lý Thú chân thật của Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, nói có Đại Niết Bàn cứu cánh. Thế nào là mười?
1_Tất cả phiền não dùng nguyện cầu ước muốn (lạc dục) làm gốc, từ nguyện cầu ước muốn (lạc dục) mà sinh. Chư Phật Thế Tôn chặt đứt nguyện cầu ước muốn (lạc dục) cho nên gọi là Niết Bàn.
2_Do các Như Lai chặt đứt các nguyện cầu ước muốn (lạc dục), chẳng nhận lấy một Pháp. Do chẳng nhận lấy cho nên không có đi không có đến, không có chỗ chọn lấy cho nên gọi là Niết Bàn.
3_Do không có đi đến với không có chỗ chọn lấy, Đấy tức là Pháp Thân chẳng sinh chẳng diệt. Do không có sinh diệt cho nên gọi là Niết Bàn.
4_Không có sinh diệt này chẳng phải là nơi mà lời nói thông suốt được. Vì ngôn ngữ bị chặt đứt cho nên gọi là Niết Bàn.
5_Không có ta người, chỉ có Pháp sinh diệt được Chuyển Y (āśrayaparivṛtti, hoặc āśraya-parāvṛtti) cho nên gọi là Niết Bàn.
6_Phiền não (Kleśa) tùy theo Hoặc (trạng huống mê loạn của nội tâm) đều là Khách Trần. Pháp Tính (Dharmatā) là chủ không có đến không có đi. Do Đức Phật biết rõ cho nên gọi là Niết Bàn.
7_Chân Như (Bhūta-tathatā, hay Tathatā) là thật, ngoài ra đều hư vọng. Thể của Thật Tính tức là Chân Như, Tính của Chân Như tức là Như Lai, nên gọi là Niết Bàn.
8_Tính của Thật Tế (Bhūta-koṭi) không có hý luận. Chỉ có một mình Đức Như Lai chứng Pháp Thật Tế, chặt đứt hẳn hý luận, cho nên gọi là Niết Bàn.
9_Không có sinh (vô sinh) là thật, sinh là hư vọng. Người ngu si chìm đắm sinh tử. Thể của Như Lai thật không có hư vọng, cho nên gọi là Niết Bàn.
10_Pháp chẳng thật là từ Duyên sinh, Pháp chân thật chẳng từ Duyên dấy lên. Thể Pháp Thân của Như Lai là chân thật, cho nên gọi là Niết Bàn. Thiện Nam Tử! Đây là mười Pháp nói có Niết Bàn.
_Lại nữa, Thiện Nam Tử! Bồ Tát Ma Ha Tát nên biết như vầy: lại có mười Pháp hay giải thích được Lý Thú chân thật của Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, nói có Đại Niết Bàn cứu cánh. Thế nào là mười?
1_Như Lai khéo biết Thí (Dāna: bố thí) với quả của Thí (Dāna-phala), không có cái ta (Ātman: ngã) cái của ta (Mama-kāra: ngã sở). Thí với Quả này, chẳng phân biệt chính đúng được trừ diệt vĩnh viễn, cho nên gọi là Niết Bàn.
2_Như Lai khéo biết Giới (Śīla: trì Giới) với quả của Giới (Śīla-phala), không có cái ta (Ātman: ngã) cái của ta (Mama-kāra: ngã sở). Giới với Quả này, chẳng phân biệt chính đúng được trừ diệt vĩnh viễn, cho nên gọi là Niết Bàn.
3_Như Lai khéo biết Nhẫn (Kṣānti: nhẫn nhục) với quả của Nhẫn (Kṣānti-phala), không có cái ta (Ātman: ngã) cái của ta (Mama-kāra: ngã sở). Nhẫn với Quả này, chẳng phân biệt chính đúng được trừ diệt vĩnh viễn, cho nên gọi là Niết Bàn.
4_Như Lai khéo biết Cần (Vīrya: tinh tiến) với quả của Cần (Vīryaphala), không có cái ta (Ātman: ngã) cái của ta (Mama-kāra: ngã sở). Cần với Quả này, chẳng phân biệt chính đúng được trừ diệt vĩnh viễn, cho nên gọi là Niết Bàn.
5_Như Lai khéo biết Định (Dhyāna: thiền định) với quả của Định (Dhyāna-phala), không có cái ta (Ātman: ngã) cái của ta (Mama-kāra: ngã sở). Định với Quả này, chẳng phân biệt chính đúng được trừ diệt vĩnh viễn, cho nên gọi là Niết Bàn.
6_Như Lai khéo biết Tuệ (Prajñā: Trí Tuệ) với quả của Tuệ (Prajñāphala), không có cái ta (Ātman: ngã) cái của ta (Mama-kāra: ngã sở). Tuệ với Quả này, chẳng phân biệt chính đúng được trừ diệt vĩnh viễn, cho nên gọi là Niết Bàn.
7_Chư Phật Như Lai khéo hay biết rõ tất cả Hữu Tình, Phi Hữu Tình, tất cả các Pháp đều không có Tính, chẳng phân biệt chính đúng được trừ diệt vĩnh viễn, cho nên gọi là Niết Bàn.
8_Nếu người tự yêu thương mình, liền dấy lên sự theo đuổi tìm kiếm
(truy cầu). Do theo đuổi tìm kiếm cho nên nhận chịu mọi khổ não. Vì chư Phật Như Lai trừ bỏ sự tự yêu thương mình cho nên dứt hẳn sự theo đuổi tìm kiếm. Do không có theo đuổi tìm kiếm cho nên gọi là Niết Bàn.
9_Pháp của Hữu Vi (Saṃskṛta) đều có số lượng, Pháp của Vô Vi (Asaṃskṛta) đều trừ bỏ số lượng. Đức Phật lìa Hữu Vi, chứng Pháp Vô Vi. Do không có số lượng cho nên gọi là Niết Bàn.
10_Như Lai hiểu rỏ Thể Tính của hữu tình với Pháp đều trống rỗng (Śūnya:không), lìa trống rỗng chẳng phải là có. Tính trống rỗng (Śūnyatā:
Không Tính) tức là Pháp Thân chân thật, cho nên gọi là Niết Bàn.
Thiện Nam Tử! Đây là mười Pháp nói có Niết Bàn.
_Lại nữa Thiện Nam Tử! Há chỉ có Như Lai chẳng Bát Niết Bàn là điều hiếm có. Lại có mười loại Pháp hiếm có là Hạnh của Như Lai (Tathāgata-caryā: Như Lai Hạnh). Thế nào là mười?
1_Sinh tử lỗi lầm, Niết Bàn vắng lặng. Do ở Sinh Tử cùng với Niết Bàn, chứng bình đẳng cho nên chẳng ở lưu chuyển, chẳng trụ Niết Bàn, đối với các chúng sinh chẳng sinh chán bỏ. Là Hạnh của Như Lai.
2_ Đức Phật đối với chúng sinh chẳng tác niệm này: Các Ngu Phu này thực hành cái thấy điên đảo (điên đảo kiến) bị các phiền não ràng buộc ép bức, nay Ta khai ngộ khiến cho họ giải thoát. Nhưng do sức căn lành của lòng Từ (Từ thiện căn lực) xưa kia, đối với hữu tình ấy, tùy theo căn tính của họ, ý ưa thích Thắng Giải (Adhimokṣa: hiểu thấu sự thù thắng), chẳng khởi phân biệt, mặc tình tế độ, chỉ bày dạy bảo lợi vui, tận bờ mé vị lai không có cùng tận. Là Hạnh của Như Lai.
3_Đức Phật không có niệm này: Nay Ta diễn nói mười hai phần Giáo lợi ích hữu tình. Nhưng do sức căn lành của lòng Từ (Từ thiện căn lực) xưa kia, vì hữu tình ấy rộng nói, cho đến tận bờ mé vị lai, không có cùng tận. Là Hạnh của Như Lai.
4_Đức Phật không có niệm này: Nay Ta đến thành ấp, thôn xóm kia, nhà của nhóm vua chúa với Đại Thần, Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Bệ Xá, Thú Đà La… theo nơi ấy xin thức ăn. Nhưng do sức quán tập của Hạnh thân miệng ý xưa kia cho nên mặc tình đến chốn ấy, vì việc lợi ích mà đi khất thực (xin thức ăn). Là Hạnh của Như Lai.
5_Thân của Như Lai không có đói khát, cũng không có tướng đại tiểu tiện, mệt nhọc quẫn bách, tuy đi xin lấy thức ăn mà không có chỗ ăn (vô sở thực), cũng không có phân biệt. Nhưng vì nhậm vận lợi ích hữu tình, bày có tướng ăn. Là Hạnh của Như Lai.
6_Đức Phật không có niệm này: Các chúng sinh này có thượng trung hạ, tùy theo tính chất căn cơ (cơ tính) của họ mà nói Pháp. Nhưng Đức Phật Thế Tôn không có phân biệt, tùy theo khí lượng ấy, khéo ứng với cơ duyên vì kẻ ấy nói Pháp. Là Hạnh của Như Lai.
7_Đức Phật không có niệm này: Loại hữu tình này chẳng cung kính Ta, thường ở chỗ của Ta phát ra lời mắng chửi, chẳng thể cùng với kẻ ấy nói năng luận bàn được. Loại hữu tình kia cung kính Ta, thường ở chỗ của Ta cùng nhau khen ngợi, Ta nên cùng với kẻ ấy nói chuyện. Thế nhưng Đức Như Lai khởi Tâm Từ Bi, bình đẳng không có hai. Là Hạnh của Như Lai.
8_Chư Phật Như Lai không có yêu ghét, kiêu mạn, tham tiếc với các phiền não. Thế nhưng Đức Như Lai thường ưa thích vắng lặng, khen ngợi ít ham muốn (dục), lìa các chỗ ồn áo náo nhiệt (huyên náo). Là Hạnh của Như Lai.
9_Như Lai không có một Pháp nào chẳng biết, chẳng khéo thông đạt, ở tất cả nơi chốn, Kính Trí (Trí như cái gương sáng) hiện trước mặt không có phân biệt. Thế nhưng Đức Như Lai thấy sự nghiệp mà hữu tình kia đã làm, tùy theo ý của kẻ ấy chuyển phương tiện ví dụ dẫn dắt khiến được xuất ly (Naiṣkramya: vượt thoát nỗi khổ sinh tử luân hồi mà thành biện Phật Đạo). Là Hạnh của Như Lai.
10_ Như Lai nếu thấy một phần hữu tình được giàu có thịnh vương (phú thịnh) thời chẳng sinh vui vẻ, thấy họ bị suy sụp hao tổn cũng chẳng khởi lo lắng. Thế nhưng Đức Như Lai thấy hữu tình ấy tu tập Chính Hạnh thì Vô Ngại Đại Từ tự nhiên cứu nhiếp. Nếu thấy hữu tình tu tập Tà Hạnh thì Vô Ngại Đại Bi tự nhiên cứu nhiếp. Là Hạnh của Như Lai.
Thiện Nam Tử! Như vậy nên biết Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác nói có vô biên Chính Hạnh như vậy. Các ông nên biết đấy là tướng chân thật của Niết Bàn, hoặc khi thấy có vị Bát Niết Bàn thì đấy là Quyền phương tiện với lưu Xá Lợi khiến cho hữu tình cung kính cúng dường, đều là sức căn lành của lòng Từ (Từ thiện căn lực) của Như Lai. Nếu người cúng dượng thì ở đời vị lai, xa lìa tám nạn gặp được chư Phật, gặp Thiện Tri Thức, chẳng mất Tâm thiện, Phước Báo vô biên, mau sẽ xuất ly, chẳng bị sinh tử ràng buộc. Diệu Hạnh như vậy, các ông siêng tăng tu, đừng có phóng dật”.
Bấy giờ, Diệu Tràng Bồ Tát nghe Đức Phật tự nói chẳng Bát Niết Bàn với Hạnh thâm sâu thời chắp tay cung kính, bạch rằng: “Nay con mới biết Như Lai Đại Sư chẳng Bát Niết Bàn với lưu Xá Lợi lợi ích cho khắp cả chúng sinh, nên thân tâm hớn hở vui thích, khen chưa từng có”
Khi nói Phẩm Thọ Lượng của Như Lai đó thời vô lượng vô số vô biên chúng sinh đều phát Tâm Vô Đẳng Đẳng A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.
Thời bốn Đức Như Lai đột nhiên chẳng hiện. Diệu Tràng Bồ Tát lễ bàn chân của
Đức Phật xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, quay trở về chỗ cũ (bản xứ)
KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH
_QUYỂN THỨ NHẤT (Hết)_