Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật
(Phật Bản Hạnh Tập Kinh)
Hán dịch: Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2012- 2014
QUYỂN THỨ BA MƯƠI BẢY
Thứ bốn mươi Phẩm Phú Lâu Na Xuất gia
Khi đó làng Kiêu Tát La. Tới thành ấp Ca Tì La Bà Tô Đô. Giữa chúng không xa. Có một thôn Mạch. Thôn đó có một Bà La Môn lớn. Vì Vua Tịnh Phạn làm được Quốc sư. Nhà đó lớn giàu có nhiều tiền tài báu vật. Thậm chí nhà cửa giống như cung điện Trời Tì Sa Môn ở phương Bắc không khác. Bà La Môn có được một con trai. Tên là Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử (tiếng Tùy là Mãn Túc Từ Giả). Đoan chính bậc nhất đáng vui mừng ít có hai. Vì tất cả mọi người trông thấy được vui. Nhanh trí thông tuệ. Ý tế nhị tâm tế nhị. Có thể ca tụng thấu suốt tất cả luận Vi Đà. Đã tự hiểu rồi. Lại có thể dạy người. Hiểu đầy đủ ba loại Vi Đà, từ lâu đã hiểu luận Ni Kiền Đà, luận Kì Chu Bà, luận Giải Phá Tự. Lại còn có thể nói đọc các việc trước kia, luận Ngũ Minh. Một câu nửa câu, một bài kệ nửa bài kệ. Đều có thể phân biệt cũng lại hiểu thông suốt luận Thụ Kí. Trong tranh luận với đời. Đều cùng hiểu đầy đủ mười sáu loại việc. Có hình tướng của người lớn.
Ngày đang sinh Thái Tử Tất Đạt con của Vua lớn Tịnh Phạn. Di Đa La Ni Tử này cũng cùng đồng thời mà sinh. Tính vốn có của người đó chán ghét rời xa Thế gian. Chí cầu Giải thoát. Ở trong Phiền não thường có hoảng sợ. Tâm thường Yên lặng. Xa xưa đã từng thấy với các Phật. Ở bên các Phật đó trồng các Căn thiện. Làm nhiều Nghiệp Phúc. Luyện tập tâm mình ôn hòa. Chí tới môn Niết Bàn. Không thích Phiền não. Ở bên trong các sinh chết, tất cả Có. Đều cùng rời xa đã làm được Hạnh. Các ràng buộc hỏng nát. Cầm lấy nhân do được lực. Được Trí thành thục. Do được Pháp Thánh.
Thời Phú Lâu Na ngồi một mình suy nghĩ. Cha của Ta đã vì Vua Du Đầu Đàn mà làm Quốc sư. Cần sang sửa nhiều. Đầy đủ nhiều loại tài năng. Ở trong phép Vua. Thay mặt Vua quyết đoán công việc.
Lại còn Thái Tử Tất Đạt bé nhỏ này. Quyết định giúp đỡ Vua Du Đầu Đàn đó. Một loại không khác.
Cần phải nhất định làm Vua Thánh Chuyển Luân. Cha của Ta nếu không có. Thân Ta quyết định giúp cho Tất Đạt Vua Thánh Chuyển Luân đó mà làm Quốc sư. Cha Ta đã là Quốc sư của Vua nhỏ. Nay đã như thế không có tạm thời rảnh rỗi. Huống chi lại muốn làm Quốc sư lớn của Vua Thánh Chuyển Luân. Rộng ở bên trong Nước phân biệt việc có rảnh rỗi. Cuối cùng không có nơi đó. Ta nay dự định trước. Cần làm việc gì ? Cần làm kế sách gì ? Ta nay chỉ có rời bỏ gia đình đi Xuất gia.
Thời Phú Lâu Na nghĩ nhớ như thế xong. Thời đang đêm Bồ Tát đi Xuất gia. Nửa đêm im lặng. Không hỏi cha mẹ. Cùng với bạn của mình. Đủ ba mươi người. Từ gia đình mà ra đi. Đi thẳng tới ở trong Pháp của Ba Lê Bà Già Ca. Cầu xin Xuất gia. Sống ở núi Tuyết. Hạnh khổ cầu Đạo. Những người đó dũng mãnh Tinh tiến. Không tạm ngừng nghỉ. Ba mươi người đó cùng một lúc thành công. Được bốn bậc Thiền gồm cả năm Thần thông. Thời người Tiên Hạnh khổ Phú Lâu Na. Tự suy nghĩ nói rằng :
Ta nay cần bên trong tự quan sát Thái Tử Tất Đạt nhận ngôi vị Vua Thánh. Thời gian tới chưa. Mà Phú Lâu Na dùng mắt Trời quan sát. Trông thấy Thế Tôn trong vườn Lộc Dã ở Ba La Nại. Chứng được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Đã chuyển vầng Pháp vi diệu Bình Đẳng. Vì các người Trời phân biệt nói Pháp. Thấy xong tức thời tới bên các bạn. Mà bảo nói rằng :
Các Ngài nay có thể sinh tâm vui mừng làm dũng mãnh lớn. Nay Thái Tử Tất Đạt Thánh lớn đó Xuất gia. Đã chứng Bình Đẳng Bồ Đề. Chứng Bồ Đề rồi. Đã chuyển vầng Pháp Thanh tịnh Bình Đẳng. Thế Tôn ngày nay hiện ở bên trong vườn Lộc Dã thành Ba La Nại đó. Vì các người Trời nói Pháp mở tỏ. Các Ngài nay có thể đi theo cùng với Ta. Tới ở bên Phật thực hành Hạnh Phạm. Lúc đó các vị bạn kia. Vui mừng trả lời nói rằng : Người Hiền nói cũng hay. Chúng ta thuận đi theo.
Thời người Tiên Hạnh khổ Phú Lâu Na. Chuyển động thân tức thời cùng với ba mươi bạn. Từ núi Tuyết đi xuống bay lên cao mà đi. Giống như Vua nhạn bay ở trong khoảng không. Tới hạ xuống vườn Lộc Dã thành Ba La Nại. Đi tới bên Phật. Đã tới nơi ở của Phật. Đỉnh lễ chân Phật. Dùng hai tay cầm chân Thế Tôn xoa lên đỉnh đầu. Ngẩng đầu dùng miệng hôn chân Như Lai. Đứng dậy quỳ lâu ở trước Phật. Dùng bài kệ ca ngợi Phật nói rằng :
Trước ở trên Trời Đâu Suất Đà. Nhớ đúng hóa làm hình voi trắng.
Muốn vào thai Ma Da gửi thân. Đi tới nhà họ Thích làm con.
Như hoa Sen đẹp không nhờ nước. Ở trong thai mẹ thân không bẩn.
Mẹ Ngài nhận vui sướng vô lượng. Không cầu năm Tham chỉ vui Pháp.
Chỉ làm Hạnh thiện bỏ các ác. Thấy Phật trong thai như vàng đúc.
Vui mừng dũng mãnh không biết chán. Nhìn không biết đủ lại càng nhìn.
Phật ở trong thai thường nói Pháp. Các người Trời sinh tâm Từ Bi.
Đều rất vui mừng uống cao Pháp. Thế Tôn mới sinh nói lời hay.
Ta thoát khổ sinh chết của Chúng. Ra khỏi sườn phải đi bảy bước.
Không sợ giống như Vua Sư Tử. Ta là Như Lai rốt diệt khổ.
Thế Tôn mới sinh tắm ao nước. Nước không lạnh nóng đầy bằng bờ.
Tắm xong bôi hương thân trang nghiêm. Trong không tự nhiên hiện lọng phất.
Thế gian hiếm có thấy việc này. Vì thế chúng con đỉnh lễ Phật.
Nói xong bài kệ đó. Phú Lâu Na cùng với rất nhiều người Tiên. Cất giọng nói đi theo Phật. Cầu xin Xuất gia. Như thế báo cáo nói rằng : Chỉ nguyện Thế Tôn thương xót chúng con. Tâm chúng con nguyện muốn được Xuất gia. Vì Từ Bi thương xót độ thoát chúng con.
Khi đó Phật bảo Phú Lâu Na nói rằng : Ngài Phú Lâu Na nay có thể nhanh đứng dậy. Đang tùy theo ý Ngài. Ta và các Ngài theo tâm nguyện. Thời Phú Lâu Na được Như Lai đồng ý. Họ Xuất gia xong. Xin nhận mười Giới thiện. Và bạn của mình hai mươi chín người. Các Trưởng lão đó đã được Xuất gia nhận mười Giới thiện xong. Thời gian chưa lâu từng người sử dụng tâm. Một mình nằm, một mình đi, một mình ngồi, một mình đứng. Dũng mãnh Tinh tiến. Đi ngồi nơi Rừng núi vắng rỗng không. Từng người đặc biệt thực hành sử dụng tâm cẩn thận. Chưa từng phóng túng. Thường ở nơi vắng vẻ. Thời gian không lâu. Vì như người nam thiện cầu lợi lớn. Tâm đúng tin đúng. Bỏ gia đình đi Xuất gia. Vì muốn cầu được Hạnh Phạm Bình Đẳng. Đã hết cảnh tham muốn. Thấy các tướng Pháp muốn tu các thông suốt. Liền chứng Pháp đó. Đã cắt bỏ các sinh. Được quả báo của Hạnh Phạm. Làm được đã làm xong. Sau không nhận Có. Tất cả các bậc Trưởng lão đó. Đã chứng biết xong. Đều thành La Hán. Dùng tâm thiện được tất cả Giải thoát. Đều thành Đức lớn. Tất cả đều cùng có thể làm việc lớn. Lợi ích chúng sinh.
Khi đó Thế Tôn bảo các Tì Kheo. Làm lời nói như thế. Các Ngài cần biết ! Trong số người nói Pháp là bậc cao nhất. Tức thời Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử này cũng như thế. Mà có đọc bài kệ.
Thế Tôn sống ở Ba La Nại. Lời vi diệu bảo các Chúng rằng.
Đây là Tì Kheo đủ chân thực. Trong số nói Pháp bậc cao nhất.
Khi đó Thế gian tất cả hợp thành chín mươi mốt A La Hán. Gọi là Phật Thế Tôn. Gồm cả năm Tì Kheo. Trưởng lão Da Du Đà. Cùng Nước Ba La Nại của Da Du Đà. Cùng thời sinh được bốn bạn Trưởng Giả tốt nhất. Lại tốt trong số tốt các người nam thiện. Gọi là Tì Ma La, Thiện Tý, Mãn Túc cùng với Ngưu Chủ. Lại còn người buôn bán ở nhà của Da Du Đà. Người làm nghề buôn bán. Năm mươi bạn. Tiếp theo người nam thiện Trưởng lão Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử. Gồm cả hai mươi chín người Tri thức cũ.
Phần đầu thứ bốn mươi mốt Phẩm Na La Đà Xuất gia
Khi đó đất Nam Thiên Trúc của Diêm Phù Đề. Có một Đất nước tên là A Bàn Đề. Trong Đất nước đó có một làng xóm. Tên là Di Hầu Thực. Bên trong làng này có một Bà La Môn giàu có lớn. Họ là Đại Ca Chiên Diên. Nhà đó có nhiều tiền tài châu báu. Nô tì sáu vật nuôi lúa gạo đậu vừng. Nhà cao vườn rừng. Đủ loại đầy đủ. Thậm chí như cung điện Tì Sa Môn đó. Không có khác biệt.
Bà La Môn đó thông minh Trí tuệ. Đọc tụng nhận giữ ba luận Vi Đà. Thông suốt các vật. Một việc mười tên Kì Chu Bà. Câu văn luận chữ Quá khứ xa xưa. Tất cả các việc. Luận năm Sáng biết một câu nửa câu. Phân biệt các luận Ghi nhớ truyền cho của Thế gian cùng mười sáu loại. Đều cùng đầy đủ Tướng của người lớn. Đọc tụng hiểu thông suốt. Làm Thầy lớn của Đất nước cho Vua Dữ Nghiêm Sí.
Thời con trai cả thứ nhất của Quốc sư Bà La Môn lớn đó. Từ biệt gia đình đi qua các Nước. Học hỏi đủ không biết chán. Tìm thầy khắp nơi. Hiểu đủ các luận. Đã thành công kĩ nghệ. Lại trở về gia đình của mình. Đã cung kính gặp cha. Liền báo cáo nói rằng : Thiện thay Cha kính yêu ! Con nay học hỏi. Thông tỏ đủ loại. Vì Con tụ tập tất cả Đại chúng. Con muốn tụng luận Vi Đà nổi tiếng cùng với các kĩ năng. Cha nghe vui mừng tức thời làm việc tập hợp Đại chúng. Con trẻ thấy người tập trung tức thời ở trước Đại chúng. Tụng được tất cả luận Vi Đà cùng các kĩ năng. Đều không che giấu. Đều cùng nói rõ mà Đại chúng đó. Liền cùng tôn trọng con trai của Bà La Môn đó. Lựa chọn làm nơi ngồi cao. Cha anh ta tức thời đem đủ các loại châu báu mà cúng dưỡng.
Thời Quốc sư Bà La Môn lớn đó. Đặc biệt lại có con trai thứ hai. Tên là Na La Đà (tiếng Tùy là Bất Khiếu). Người cha này bảo với người con trai thứ hai đó nói rằng : Con Na La Đà ! Nay có thể rời gia đình đi ra Nước khác nhận học tập nói rõ các luận Vi Đà. Làm được như anh của con. Mà anh của cậu bé Na La Đà. Đang nói rõ tất cả luận Vi Đà. Thời Na La Đà này. Nghe một lần Liền nhận giữ tất cả.
Thời Na La Đà nghe lời này xong, liền báo cáo với cha nói rằng : Thiện thay cha kính yêu ! Con đã thông tỏ hiểu tất cả Vi Đà và các chú thuật. Cha kính yêu nay có thể vì Con. Tụ tập tất cả Đại chúng. Con ở trước Đại chúng. Nói rõ các Vi Đà cùng với kĩ năng. Người cha đó nghe con nói lời như thế xong. Tâm sinh hiếm có. Tức thời tập hợp Đại chúng. Tập hợp Đại chúng xong. Ổn định các loại. Thời Na La Đà ở trước Đại chúng. Nói rõ tất cả loại luận của các Vi Đà.
Khi đó Đại chúng nghe xong, tâm từng người sinh vui mừng. Ca ngợi người đó nói rằng : Thiện thay, thiện thay ! Cậu bé Trí tuệ lớn ! Có thể nhanh học tập nói rõ các luận Vi Đà. Người cha đó lại đem đủ các loại châu báu tiền tài dùng để cúng dưỡng.
Khi đó người anh nghe em nói rõ thông suốt tất cả các luận. Tâm sinh khổ não. Làm nghĩ nhớ như thế.
Ta rất nhiều năm đi qua các Nước. Học tập nói rõ được đủ loại chú luận. Tâm lo âu Phiền não lao khổ.
Mới bắt đầu nói rõ giữ các chú thuật được. Na La Đà này vì sao nghe xong ? Đều ít thời gian nhận giữ Thanh tịnh khắp. Mà nó thiếu niên còn được như thế. Nếu sau này trưởng thành, nhất định cần phải làm Quốc sư của Vua. Vì Nhân duyên đó. Ta cần Phương tiện bỏ mất thân thể của nó. Như thế chắc là Ta được thành lợi lớn. Nếu không như thế cuối cùng đoạt lấy địa vị của Ta.
Khi đó người cha này tự biết nội tâm của con trưởng. Như thế với Na La Đà sinh ra thù riêng nghĩ ác. Đã hiểu biết rồi làm suy nghĩ như thế. Con nhỏ này của Ta thông tuệ đáng thương. Đừng để cho bị anh đoạt lấy mệnh. Làm nghĩ nhớ như thế xong. Cần phải có Phương cách đừng làm cho nó biết.
Khi đó phương Nam có một thành tên là Ưu Thiền Da Ni. Đến thành không xa có núi Tần Đà. Trong núi đó có một người Tiên già tên là A Tư Đà. Sống ở trong đó. Tiên đó hiểu thông tỏ tất cả Vi Đà cùng với các luận. Đã được bốn bậc Thiền đầy đủ năm Thần thông. Cậu bên ngoại của cậu bé Na La Đà đó.
Lúc đó Quốc sư Bà La Môn lớn gồm cả vợ của mình. Tức thời tự thân đem con của họ Na La Đà. Đi tới bên trong núi đó. Cùng nhau phó thác cho Tiên A Tư Đà. Dùng làm Đệ tử. A Tư Đà này đã nhận lấy được Na La Đà rồi. Dạy bảo tỏ ra rõ. Không lâu thành công thu được bốn bậc Thiền đầy đủ năm Thần thông.
Khi đó Tiên Phạm Chí A Tư Đà. Tự thân đem Đệ tử Na La Đà của mình. Tức thời rời núi hướng về thành Ba La Nại. Liền ở bên ngoài thành tạo dựng lều cỏ. Sống ở trong đó. Ngày đêm sáu thời khắc làm lời dạy như thế. Âm thanh lớn ca lên nói rằng : Thiện thay, thiện thay ! Con Na La Đà ! Phật nay xuất hiện ở đời (nói như thế ba lần). Con nên ở bên Phật. Cắt tóc Xuất gia. Tu hành Hạnh Phạm. Nhất định đang trong đêm dài được lợi ích lớn. Được vui sướng lớn. Tự lợi bản thân rồi lại cần lợi người. Khi đó Tiên già A Tư Đà kia. Làm lời nói như thế. Dạy Đệ tử của mình Na La Đà xong. Thời gian không lâu mà cầm lấy bỏ mệnh. Sau khi Tiên A Tư Đà bỏ mệnh.
Thời người Tiên A Tư Đà Phạm Chí đó. Tất cả lợi dưỡng danh tiếng của Thế gian. Đều là Đệ tử Na La Đà được. Thời Na La Đà do vì nhiều danh lợi ở đời. Tâm tham tiếc nương nhờ. Không có Nhớ đúng lại không làm tưởng nhớ. Cầu tìm cao hơn. Không tin có Phật, có Pháp, có Tăng.
Khi đó bên trong biển Vua Rồng Y La Bát (tiếng Tùy là Hoắc Hương Diệp). Đã nhận thân Rồng. Tâm sinh chán ghét rời bỏ muốn cầu Giải thoát. Không vui với ý tưởng ác đục bẩn. Mà làm nghĩ nhớ như thế. Xa xưa Thế Tôn Ca Diệp Như Lai Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Tự thân nhớ truyền cho Ta. Ngài Vua Rồng lớn ! Từ nay về sau qua rất nhiều năm. Rất nhiều trăm năm, rất nhiều nghìn năm. Rất nhiều trăm nghìn năm. Rất nhiều trăm nghìn vạn trăm triệu năm. Đang có một Phật xuất hiện ở đời. Tên hiệu Thích Ca Mâu Ni Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Mà nay đã qua vô lượng vô biên trăm triệu số trăm nghìn vạn năm. Nếu như có Phật Thích Ca Như Lai đó xuất hiện ở đời như thế không ?
Khi đó lại còn có một Vua Rồng. Tên là Thương Khư (tiếng Tùy là Loa). Cung điện của Vua Rồng đó có vô lượng các chúng Rồng tụ họp. Mà nơi hội họp đó nhiều các Vua Rồng. Trăm nghìn đám tụ tập. Rồng Y La Bát cũng ở trong cung đó. Lúc đó có một Vua Dạ Xoa. Tên là Kim Tề. Cùng là bạn tốt với Vua Rồng Y La Bát. Cũng ngồi trong hội chúng Rồng đó.
Khi đó Vua Rồng Y La Bát. Tức thời ở trong chúng bảo với Vua Dạ Xoa. Làm lời nói như thế. Người hiền ! Ngài nay có thể biết ! Thế gian Thích Ca Như Lai Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà chưa xuất hiện ở đời.
Lúc đó Dạ Xoa trả lời Vua Rồng nói rằng : Vua Rồng thiện lớn ! Ta thực không biết Thích Ca Như Lai đã xuất hiện chưa. Tuy nhiên Vua Rồng chỉ có Ta nay biết. Trong nơi hoang dã đó có với một thành. Thành này vốn dĩ là cung điện của Dạ Xoa. Tên là A La Ca Bàn Đà (tiếng Tùy là Khoáng Dã Cung Điện). Thành đó từ trước tới nay có hai bài kệ. Mà bài kệ đó nói là. Nếu không có Phật xuất hiện ở Thế gian. Cuối cùng không có người có thể đọc được bài kệ này. Nếu lại có người đọc cũng không thể hiểu ý của bài kệ này. Nếu đang có Phật xuất hiện ở đời. Thời liền được đọc biết. Không có người hiểu nghĩa. Chỉ có Như Lai Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Có thể nói nghĩa này. Hoặc sẽ từ Phật nghe mà được hiểu.
Khi đó Rồng Y La Bát bảo với Vua Dạ Xoa như thế nói rằng : Người hiền ! Ngài nay có thể đi tới nơi đó đọc lấy bài kệ đó đem tới được không ?
Lúc đó Vua Dạ Xoa Kim Tề. Từ bên Vua Rồng Y La Bát. Nhận lời nói như thế xong. Liền đi tới cung điện A La Ca Bàn Đà đó. Nhận đọc được bài kệ đó rồi. Nhanh trở lại hướng về bên Vua Rồng Y La Bát. Tới rồi liền báo cáo Y La Bát nói rằng :
Vua Rồng thiện lớn ! Ngày nay cần phải tâm sinh vui mừng. Sở dĩ thế nào ? Thích Ca Mâu Ni Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà Như Lai Thánh lớn. Nay đã xuất hiện ở đời. Biết được do cái gì ? Bèn có thể giúp Ta đọc được bài kệ đó. Ta đã nhận giữ bài kệ đó đem về. Nếu có người có thể hiểu được ý của bài kệ này, lại có thể đọc nói. Tức thời cần phải biết, đây là Phật chân thực.
Khi đó Vua Rồng Y La Bát tâm rất vui mừng. Dũng mãnh tràn khắp thân thể. Không thể tự hơn được. Tức thời từ bên Vua Dạ Xoa nhận lấy bài kệ đó.
Khi đó Vua Rồng Thương Khư có con gái. Tên là Thường Phần Đoan Chính Khả Hỉ. Sắc đẹp tối cao. Được mọi người yêu mến. Đời không có hai.
Lúc đó các Vua Rồng của hội kia. Làm nghĩ nhớ như thế. Ta nay cần phải tới ngày mồng tám, ngày mười bốn, mười lăm, hoặc ngày hai mươi ba và ngày hai mươi chín kể cả ngày ba mươi của tháng. Đem bát vàng tốt chứa đầy gạo bạc. Với bát bằng bạc chứa đầy gạo vàng. Đem theo con gái Rồng này, trang sức thân thể nó. Dùng đủ loại chuỗi ngọc vi diệu trang nghiêm trên thân. Từ cung điện Rồng này ra đi. Đặt ở trên bờ sông Hằng đó. Đặt ở nơi đất trống. Đọc hai bài kệ này. Dùng mách bảo cho mọi người.
Ở nơi nào Tự do. Nhờ nhiễm tên là nhiễm.
Thanh tịnh nó ra sao. Được tên ngu thế nào.
Người ngu mê cái gì. Người Trí tên ra sao.
Biết gì đã ly biệt. Tên là Nhân duyên hết.
Thời Vua Rồng đó đọc bài kệ này xong. Bảo khắp với tất cả các Thế gian nói rằng : Nếu người có thể hiểu nói rõ bài kệ này. Chúng ta tức thời sẽ dùng bát vàng bạc này đầy tràn gạo cùng với cô gái Rồng. Lấy dùng để Bố thí. Tức thời nhận lấy người đó. Làm giống như tưởng nhớ Phật. Nếu đang có người truyền tin, nghe từ người khác, tới vì Ta nói. Cũng Bố thí như thế.
Thời Vua Thương Khư cùng các Vua Rồng Y La Bát. Muốn thấy Thế Tôn. Khát ngưỡng Thế Tôn. Nhớ đợi Thế Tôn. Thường lấy ngày mồng tám ngày mười bốn, mười lăm, Trăng sáng Trăng tối. Đem bát vàng tốt đầy tràn gạo bạc. Bên trong bát bạc đầy tràn gạo vàng. Cùng con gái Rồng của họ đủ loại trang nghiêm trên thân. Đem tới trên bờ sông Hằng. Ổn định ở trên đất liền. Hai Vua Rồng đó cùng nhau mà đọc hai bài kệ đó nói rằng :
Ở nơi nào Tự do. Thậm chí Nhân duyên hết. Lại làm lời nói như thế. Nếu có người có thể giảng giải nghĩa của bài kệ này. Chúng ta đem hai bát vàng bạc này. Gồm cả cô gái Rồng đoan chính đáng vui mừng. Dùng để Bố thí.
Mà Vua Rồng đó nói về việc này. Tám phương nghe được âm thanh. Tất cả núi rừng hoặc lại ở trong nước. Hoặc ở trên đất liền. Hoặc Bà La Môn. Hoặc lại Trưởng Giả. Đều cùng nhau nói rằng : Trăng sáng Trăng tối. Thường dùng sáu ngày. Hai Vua Rồng đó từ dưới nước mà hiện ra. Đem theo hai bát đầy tràn vàng bạc. Cùng một cô gái Rồng chuỗi ngọc trang nghiêm trên thân. Từ sông Hằng hiện ra. Ở trên bờ nơi nào đó, đứng ở trên đất liền. Đọc hai bài kệ này. Ở nơi nào Tự do. Thậm chí Nhân duyên hết. Làm lời nói như thế. Nếu có người có thể đọc, giảng giải bài kệ này. Chúng ta đem hai bát này cùng cô gái mà Bố thí.
Thời các Bà La Môn cùng Trưởng Giả. Từ hai Vua Rồng nghe lời nói như thế. Đều từ tám phương cạnh tranh nhau tới. Tập hợp ở nơi Vua Rồng đó. Đều tự kêu lên nói rằng : Tôi có thể đọc giảng giải hai bài kệ này. Và tới bên cạnh Rồng đọc kệ không được. Lại còn không giảng giải nghĩa. Hoặc lại có người đọc bài kệ này xong. Hỏi ngược lại hai Vua Rồng đó nói rằng : Bài kệ này thế nào vậy. Lại hỏi bài kệ này nghĩa của nó ra sao ?
Thời người Tiên cậu bé Na La Đà. Sống dừng lại ở Nước Ma Già Đà. Vì mọi người dân mà làm Thầy hướng dẫn. Nam nữ của Nước đó tôn trọng cung cấp vâng theo ca hát, ca ngợi Tiên Na La Đà. Đều cùng nhau nói rằng : Ma Na Bà này tự đã biết rồi. Lại dạy người biết, tự đã thấy rồi. Lại dạy người thấy.
Lúc đó bên trong Nước Ma Già Đà đó. Tất cả nhân dân làm nghĩ nhớ như thế. Cậu bé Tiên Thánh Na La Đà này. Đã tự thấy biết. Dạy người thấy biết. Chúng ta ở bên hai Vua Rồng đó. Nghe hai bài kệ đó.
Không có người có thể nói rõ. Không có người có thể trả lời. Chúng ta nay có thể tới bên cậu bé Tiên Na La Đà. Tới rồi cần nói việc này như thế. Làm nghĩ nhớ như thế xong. Các Bà La Môn của Nước Ma Già Đà. Cùng các Trưởng Giả. Liền đi tới nơi ở của cậu bé Tiên Na La Đà.
Tới rồi yên lành cùng nhau báo cáo cậu bé Tiên Na La Đà nói rằng : Ngài nếu biết thời ! Trên bờ sông Hằng có hai Vua Rồng. Một người tên là Thương Khư người thứ hai tên là Y La Bát. Thường lấy sáu ngày Trăng sáng Trăng tối. Từ dưới nước sông Hằng hiện ra ở trên đất liền. Đem gạo đầy tràn bát vàng bạc cùng cô gái. Thậm chí ai có thể giảng giải nghĩa của bài kệ này. Tức thời cho người đó. Đọc hai bài kệ đó. Bài kệ là : Ở nơi nào Tự do. Thậm chí Nhân duyên hết.
Khi đó cậu bé người Tiên Na La Đà làm suy nghĩ như thế. Ta nay đã vì nhân dân bên trong Nước Ma Già Đà này. Làm người Thầy tôn kính. Người dân này đều cúng dưỡng Ta. Tôn trọng vâng theo việc, ngưỡng mộ khâm phục với Ta. Lại còn cho là Ta tự đã thấy biết. Có thể chuyển sang dạy người. Ta nay nếu ở trước người dân đó. Nói Ta không biết nghĩa của hai bài kệ này. Người dân này tức thời hủy nhục Ta. Tất cả lợi dưỡng danh tiếng giảm bớt. Ta đều mất hết. Làm nghĩ nhớ như thế xong. Liền bảo các Bà La Môn các Trưởng Giả lớn của Nước Ma Già Đà. Làm lời nói như thế. Ta cùng với các Ngài cùng lúc đi tới bên hai Vua Rồng đó. Mời nói hai bài kệ tìm lấy nghĩa của nó.
Lúc đó cậu bé người Tiên Na La Đà. Cùng với các Trưởng Giả Bà La Môn nhân dân của Nước Ma Già Đà. Vây quanh hai bên phải trái. Chọn cậu bé người Tiên Na La Đà là người đứng đầu. Hướng về bên hai Vua Rồng. Tới rồi bảo nói rằng : Hai Vua Rồng lớn ! Nguyện vì chúng ta nói về hai bài kệ. Ta nghe được xong suy nghĩ cầm lấy nghĩa.
Khi đó Thương Khư hai Vua Rồng. Tức thời vì người Tiên đó đọc hai bài kệ là : Ở nơi nào Tự do. Thậm chí Nhân duyên hết.
Lúc đó cậu bé Tiên Na La Đà bảo với hai Vua Rồng đó. Làm lời nói như thế. Ta nay ở bên hai Ngài Vua Rồng. Nhận hai bài kệ này. Từ nay về sau qua ngoài bảy ngày. Sẽ tới bên Ngài trả lời ý của bài kệ.
Thời hai Vua Rồng đó báo cáo cậu bé Tiên Na La Đà nói rằng : Như người hiền dạy. Làm việc như thế. Thời Na La Đà từ hai Vua Rồng. Nhận được bài kệ xong trở lại hướng về nơi ở của mình.
Thời tất cả người dân của Nước Ma Già Đà. Tất cả người dân của Nước Kiêu Tát La. Cùng với tất cả người dân của Nước Bát Già La và Nước Cưu Lưu. Truyền tin nghe cậu bé Tiên Na La Đà. Từ bên cạnh hai Vua Rồng Thương Khư và Y La Bát. Nhận giữ hai bài kệ. Nói rằng : Từ nay tới qua bảy ngày. Trở lại nơi này nói nghĩa của hai bài kệ. Mà người dân đó đóng các loại xe hỗn tạp. Gọi là xe voi xe ngựa xe bò cùng các người đi bộ. Cùng nhau tập hợp thành đoàn. Khi đó hai bên bờ đây kia của sông Hằng. Có tới tám vạn bốn nghìn loại chúng sinh. Đột nhiên tụ tập. Đều cùng muốn nghe Tiên Na La Đà. Cùng với hai Vua Rồng khi giảng giải bài kệ.
Thời có sáu Thầy sống ở tại thành Ba La Nại. Từng người tự nói rằng : Ta là Tôn Giả. Gọi là Phú Lan Ca Diệp, Ma Tát Ca Lê Cồ Xa Lê, Ca A Kì Đa Kì Xa, Ca Ma La Ba La Phù Đa. Ca Già Da Na San Xà Di Tì La Sư Thùy Phú La La, Ni Kiền Tha Nhã Kì Phú Ta La.
Thời cậu bé người Tiên Na La Đà. Liền hướng về bên sáu Thầy đó. Muốn hỏi nghĩa của bài kệ đó. Tới rồi tức thời hỏi ý của hai bài kệ này. Mà sáu Thầy đó đã không thể hiểu ý nghĩa của bài kệ này. Lại còn tăng cao sinh ra tâm cáu giận ở bên người Tiên đó. Hỏi ngược trở lại với Tiên Na La Đà. Làm lời nói như thế. Hai bài kệ này có ý ra sao ?
Khi đó Thế Tôn mới chứng Chính Giác. Sống ở rừng của người Tiên cũ bên trong vườn Lộc Dã thành Ba La Nại.
Thời cậu bé người Tiên Na La Đà. Tự tâm suy nghĩ, nghĩ nhớ như thế nói rằng : Sa Môn này ở bên trong rừng nơi ở của người Tiên trước kia, vườn Lộc Dã thành Ba La Nại. Ta nay có thể hướng về bên người đó, thăm hỏi ý của hai bài kệ này. Lại suy nghĩ thêm. Tự Sa Môn khác và Bà La Môn. Tuổi cao Đức lớn. Kham chịu vì tất cả Quốc Vương làm Thầy. Xuất gia từ lâu tới nay. Gọi là Phú Lan Ca Diệp thậm chí các Ni Kiền Đà Nhã Kì Phú Ta La. Ta tới bên họ hỏi hai kệ này. Còn không thể hiểu huống chi lại như Sa Môn ít tuổi này. Sinh tới nay chưa lâu. Xuất gia mới gần đây. Ta hỏi về ý của hai bài kệ này. Người đó có lẽ có thể trả lời. Lại thêm suy nghĩ. Sa Môn ít tuổi. Hoặc Bà La Môn. Không thể coi nhẹ. Sở dĩ thế nào ? Hoặc người Sa Môn ít tuổi đó. Hoặc Bà La Môn cũng có người thông minh Trí tuệ sắc bén. Ta nay chỉ có thể đi tới ở bên Sa Môn lớn đó. Hỏi nghĩa của bài kệ này.
Lúc đó cậu bé Tiên Na La Đà. Tức thời tới nơi bên Phật. Tới nơi ở của Phật rồi. Cùng nhau chiêm ngưỡng Tướng mạo của Phật. Thăm hỏi thành thực các mặt. Đủ loại lời nói thiện. Lời nói hay đàm luận đã xong. Liền lùi sang một bên. Tiên Na La Đà Ma Na Bà này đã ngồi một bên. Liền báo cáo Phật nói rằng : Tôn Giả Đức lớn Sa Môn Cồ Đàm. Con muốn hỏi thăm Tôn Giả một nghĩa. Chưa hỏi xem Tôn Giả. Đồng ý cho Con hỏi không ?
Khi đó Phật bảo với Ma Na Bà nói rằng : Ngài Ma Na Bà tùy ý hỏi tất cả. Ta đang vì giảng giải. Thời Tiên Na La Đà Ma Na Bà. Được Phật đồng ý rồi. Liền đọc bài kệ mà hỏi Phật nói rằng :
Ở nơi nào Tự do. Nhờ nhiễm tên là nhiễm.
Thanh tịnh nó ra sao. Được tên ngu thế nào.
Người ngu cớ sao mê. Người Trí tên ra sao.
Biết gì đã biệt ly. Tên là Nhân duyên hết.
Lúc đó Thế Tôn nghe lời nói kia xong. Liền dùng bài kệ trả lời lại Na La Đà Ma Bà nói rằng :
Trời thứ sáu Tự do. Nhiễm lớn tên là nhiễm.
Không nhiễm và có nhiễm. Vì thế tên là ngu.
Do chìm dưới nước lớn. Nên tên Phương tiện hết.
Hết tất cả Phương tiện. Nên tên là người Trí.
Khi đó cậu bé Tiên Na La Đà. Từ Phật nghe được bài kệ như thế xong. Tâm ý khai sáng sinh vui mừng lớn. Dũng mãnh tràn khắp thân thể. Không thể tự thí dụ. Nghe xong liền chạy nhanh đi tới nơi ở của Thương Khư đó. Cùng với Y La Bát hai bên Vua Rồng. Tới bên hai Vua Rồng lớn đó rồi. Liền bảo với hai Vua Rồng đó nói rằng : Các Ngài Vua Rồng đọc bài kệ hỏi Ta. Thời hai Vua Rồng dựa vào hai bài kệ. Hỏi cậu bé Tiên Na La Đà nói rằng : Ở nơi nào Tự do. Thậm chí hết Nhân duyên.
Khi đó cậu bé Tiên Na La Đà. Dùng hai bài kệ trả lời lại Vua Rồng nói rằng :
Trời thứ sáu Tự do. Thậm chí tên là Trí.
Lúc đó Vua Rồng Y La Bát nghe bài kệ này xong. Tâm làm suy nghĩ, nghĩ nhớ như thế nói rằng : Ta nay đã được Thế Tôn Bình Đẳng. Ta nay đã được Thiện Thệ lớn. Ta nay đã biết Thế Tôn xuất hiện. Biết Thiện Thệ Thế Tôn Thánh lớn. Nay vì Ta sinh, vì Ta xuất hiện ở đời. Vì giác ngộ ta (nói lại như thế).
Thời Y La Bát hai Vua Rồng lớn. Nghĩ nhớ như thế xong. Báo cáo Na La Đà Ma Na Bà nói rằng : Ngài Ma Na Bà ! Thực vì Ta nói. Đây là ý của Tiên, tự lực tài hùng biện. Hay nghe từ người khác mà hiểu nghĩa này. Tiên Ma Na Bà ! Ta thực không thấy. Nay trong Thế gian cùng với trên Trời. Nếu có các Sa Môn Bà La Môn. Hoặc Trời hoặc Người. Có thể tự tài hùng biện thông tỏ hai bài kệ này. Có thể tự nói. Không có nơi đó. Chỉ trừ Như Lai Thế Tôn Bình Đẳng. Hoặc Phật Sa Môn. Từ bên các người đó nghe mà biện luận ngay thẳng.
Lúc đó cậu bé Tiên Na La Đà. Liền dùng bài kệ bảo Y La Bát hai Vua Rồng nói rằng :
Như Vua Rồng nói Ta làm sai. Thế Tôn Thánh lớn đã ra đời.
Các Tướng đầy đủ thân trang nghiêm. Người hay nói tài hùng biện đó.
Khi đó Vua Rồng Y La Bát. Tức thời lại dùng bài kệ báo cáo cậu bé Tiên Na La Đà nói rằng :
Tiên lớn nói đây là lời Phật. Như đang nằm ngủ nghe trong mộng.
Nếu là rõ ràng đối diện nhận. Chỉ nguyện Ngài nay giúp nói lại.
Lúc đó cậu bé Tiên Na La Đà dựa vào trông thấy. Liền dùng bài kệ trả lời Vua Rồng nói rằng : Người Trời, Đàn ông lớn Tự do. Nay ở Lộc Uyển Ba La Nại.
Đã chuyển vầng Pháp Bình Đẳng vậy. Giống như Sư Tử gầm vang rừng.
Khi đó Vua Rồng Y La Bát. Lại còn dùng bài kệ báo cáo cậu bé Tiên Na La Đà nói rằng :
Ngài nay do nói Phật Thế Tôn. Ta lâu không nghe, nay nghe nói.
Đã nghe cùng Ngài, cùng nhau tới. Xem người hiếm hiện, khó nghĩ bàn.
Trước xem, nay lại được xem thêm. Các Tướng Hảo Như Lai Chính Giác.
Ngày nay mới lại hiện ở đời. Khó gặp giống như hoa Ưu Đàm.
Qua nhiều thời gian mới xuất hiện. Thanh tịnh như Trăng trong rỗng đó.
Các tướng đầy đủ thân trang nghiêm. Chính Giác tối cao được Bồ Đề.
Xa dài vắng đứt không nghe tiếng. Sạch mát giống như âm vang Phạn.
Nếu các chúng sinh được nghe nó. Theo Phật được vào môn Giải thoát.
Lúc đó Vua Rồng Y La Bát. Đọc bài kệ ca ngợi Phật Thế Tôn xong. Lại còn báo cáo thêm Tiên Na La Đà. Làm lời nói như thế. Tiên Na La Đà ! Ngài nói Phật cũng vậy. Thời Tiên Na La Đà Ma Na Bà trả lời Vua Rồng nói rằng :
Ta nói Phật cũng vậy (văn bản Phạn hỏi lại đáp lại). Vua Rồng lại nói rằng : Tiên Na La Đà ! Như tiếng kêu này. Hiện ở đời rất khó. Gọi là Phật đó, Phật Thế Tôn cũng vậy. Tiên Na La Đà ! A la ha Tam miểu Tam Phật Đà đó. Nay ở tại nơi nào ?
Thời Tiên Na La Đà Ma Na Bà. Tức thời chỉnh sửa quần áo vai phải áo lệch. Chắp mười ngón tay hướng về nơi ở của Phật. Bảo Vua Rồng nói rằng : Các Ngài Vua Rồng ! Nếu muốn biết được. Phật Như Lai Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà đó. Nay ở tại nơi nào.
Thời Vua Rồng Y La Bát biết nơi của Phật rồi. Tức thời chỉnh sửa quần áo vai phải áo lệch. Đầu gối phải chạm đất. Hướng về nơi ở của Phật. Chắp mười ngón tay. Ba lần đọc lời này. Nam mô Thế Tôn Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà (nói ba lần như thế).
Thời Vua Rồng Y La Bát. Báo cáo cậu bé Tiên Na La Đà nói rằng : Tiên Na La Đà ! Đi theo cùng nhau hướng về nơi ở của Thế Tôn Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà đó. Lễ bái cúng dưỡng.
Thời Na La Đà trả lời Vua Rồng nói rằng : Thiện thay Vua Rồng ! Chúng ta cùng nhau đến. Thời Y La Bát cùng cả Thương Khư hai Vua Rồng lớn. Vô lượng các quyến thuộc Rồng khác của chính mình.
Tiên Na La Đà các Ma Na Bà. Tám vạn bốn nghìn các loại chúng sinh. Muốn hướng về nơi Phật ở. Khi đó Vua Rồng Y La Bát làm suy nghĩ như thế. Ta nay nếu dùng thân biến hóa. Thấy được Phật giả.
Đây là Ta không thiện. Ta nay nên dùng thân báo ứng tự được. Đi tới thấy Thế Tôn.
Lúc đó Vua Rồng Y La Bát tới cung điện Rồng của mình. Dùng thân tự báo ứng mà muốn thấy Phật.
Từ thành Đặc Xoa Thi La phía Bắc Thiên Trúc. Hướng về Nước Ba La Nại. Khoảng chừng ba trăm sáu mươi Do tuần. Thời Vua Rồng đó hiện ra muốn thấy Phật. Đầu Rồng đó đã tới nơi ở của Thế Tôn. Mà đuôi vẫn còn ở trong tự cung điện của mình. Mà đầu Rồng đó. Hình dáng của nó giống như một cây tạo thành uốn khúc. Gáy của nó giống như vòi voi phun nước. Tai mắt giống như bát đồng của nước Kiêu Tát La. Miệng xuất ra lửa sáng. Giống như tầng mây hiện ra ánh điện lóe sáng. Khí ngừng lại làm ra âm thanh. Như tiếng sấm rền. Làm ra âm thanh gây hại. Mà tám vạn bốn nghìn loại chúng sinh đó. Tất cả toàn bộ đi theo Y La Bát.
Mà Y La Bát từ xa thấy Như Lai rất đoan chính quang tướng phi thường. Tâm sinh vui mừng. Thậm chí giống như trong khoảng không Sao trang nghiêm hiển hách. Đã thấy rồi hướng về bên Phật. Tâm sinh Thanh tịnh, tâm tin chân chính. Vui mừng dũng mãnh tiến hướng về nơi ở của Phật.
Khi đó Thế Tôn từ xa đã thấy Rồng Y La Bát dần dần mà tới. Thấy rồi bảo nói rằng : Thiện tới, thiện tới ! Vua Rồng Y La Bát ! Qua nhiều thời gian chưa từng gặp mặt. Vua nay thân thể yên ổn phải không ? Ít bệnh ít Phiền não. Và các thân quyến đều không có bệnh chứ !
Kinh Tập hợp Việc làm trước kia của Phật, quyển thứ ba mươi bảy.