LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 28
Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ TÙY MIÊN, phần 4
Đã biện về phiền não tương ưng với các thọ. Nay tiếp theo lại nên biện về tùy phiền não. Tụng nêu:
Trong các tùy phiền não
Tật, hối, phẫn cùng não
Hại, hận, ưu cùng khởi
Xan tương ưng hỷ thọ.
Siểm, cuống và miên, phú
Tương ưng chung ưu, hỷ
Kiêu, hỷ, lạc đều xả
Bốn còn tương ưng khắp.
Luận nói: Trong tùy phiền não sáu thứ như tật v.v…, tất cả đều cùng với ưu căn tương ưng, do hành buồn bã chuyển, chỉ ở nơi ý địa.
Có Sư khác nói: Não tương ưng với hỷ, vì là đẳng lưu của kiến thủ, nên là hành vui mừng. Xan tương ưng với hỷ, do hành vui mừng chuyển, chỉ ở nơi ý địa. Hành vui mừng chuyển: Là vì tướng của xan (keo kiệt) so với tham là rất giống nhau.
Siểm, cuống, miên, phú, tương ưng với ưu, hỷ, do hành vui buồn chuyển, chỉ ở nơi ý địa. Hành vui buồn: Nghĩa là hoặc có khi dùng tâm hoan hỷ mà hành siểm (dua nịnh) v.v… Hoặc có khi dùng tâm lo buồn để hành dua nịnh.
Có Sư khác cho: Đã nói cuống (lừa dối) là đẳng lưu của tham, tức chỉ nên nói là hành vui, không nên nói là cùng với ưu căn tương ưng. Vì là đẳng lưu của hoan hỷ thì không nên buồn bã. Lại, khi đang lừa dối thì không nên buồn bã. Hoặc nên nói cuống là đẳng lưu của si. Kiêu tương ưng với hỷ lạc, vì hành vui mừng chỉ ở nơi ý, nên tại tĩnh lự thứ ba cùng với lạc tương ưng. Nếu ở các địa dưới thì cùng với hỷ tương ưng.
Trên đây đã nói về các tùy miên não, tất cả đều cùng với xả thọ tương ưng, vì khi cùng nối tiếp đoạn đều trụ ở xả. Vì có hành chung còn lại, chỉ ở nơi địa xả, nên xả đối với tất cả tương ưng không có ngăn chận. Ví như vô minh tương ưng khắp, nên bốn thứ không hổ, không thẹn, hôn trầm, trạo cử khác đều tương ưng khắp với năm thọ. Hai thứ trước là thuộc về pháp của địa đại bất thiện. Hai thứ sau là thuộc về pháp của địa đại phiền não.
Nói tiếng hai cùng là nhằm làm rõ về vấn nạn và giải thích. Nghĩa là đối với não, cuống nêu ra vấn nạn như trước. Lý nên giải thích: Nhân quả cùng riêng khác. Như không hổ, trạo cử, tuy là đẳng lưu của tham, nhưng cùng với ưu khổ có nghĩa tương ưng. Nên biết các thứ đã nói cùng với thọ tương ưng, không chỉ vì nhân đồng, mà chỉ căn cứ theo chỗ cùng dị biệt, thừa nhận có kẻ lo buồn mà hành lừa dối, tình có lo lắng mà hành lừa dối. Nên trong phiền não, tùy phiền não đã nói có khi dựa vào môn khác, Đức Phật nói là cái.
Nay tiếp theo nên biện về tướng của cái như thế nào? Tụng nêu:
Cái năm chỉ tại dục
Thực trị nên dụng đồng
Tuy hai lập một cái
Chướng uẩn nên chỉ năm.
Luận nói: Như khế kinh nói: Nếu nói năm cái là tụ bất thiện thì đấy là chánh thuyết. Vì sao? Vì năm thứ như thế thuần là tụ bất thiện trọn đủ. Năm cái đó là: (1) Cái dục tham. (2) Cái giận dữ. (3) Cái hôn miên. (4) Cái trạo hối. (5) Cái nghi.
Khế kinh đã nói cái chỉ là bất thiện, nên biết chỉ ở tại cõi dục, không phải cõi sắc, vô sắc. Do đấy tức chứng biết hôn trầm, trạo cử, nghi, thể của chúng tuy đều chung nơi ba cõi dục, sắc, vô sắc, nhưng chỉ ở cõi dục có được danh xưng cái.
Vì làm rõ hai thứ hôn trầm, trạo cử chỉ ở nơi cõi dục mới có lập làm cái, nên cùng với miên, hối hòa hợp mà lập. Miên, hối chỉ là hệ thuộc cõi dục. Vì chứng tỏ miên, hối chỉ là nhiễm ô, tức có được danh xưng cái, nên cùng với hai thứ hôn trầm, trạo cử hòa hợp mà lập. Vì hôn, trạo chỉ là tánh nhiễm ô. Nghi căn cứ theo bốn cái trước ở nơi cõi dục có thể nhận biết.
Do đâu cái dục tham, giận dữ, nghi đều ở nơi một thể lập riêng tên cái, mà hai cái hôn miên, trạo hối kia đều ở nơi hai thể hợp lập tên cái?
Vì thức ăn đối trị của ba thứ dục tham, giận dữ, nghi đều riêng, thế nên mỗi mỗi thứ đã lập riêng tên cái. Do thức ăn, chủ thể đối trị và sự dụng của hôn cùng miên, trạo cùng hối đều đồng, nên thể tuy khác, nhưng đều cùng hợp lập một. Thức ăn của cái dục tham là tướng đáng yêu thích. Đối trị cái này là tưởng bất tịnh. Thức ăn của cái giận dữ là tướng đáng ghét bỏ. Đối trị cái này là căn thiện từ. Thức ăn của cái nghi là ba đời. Như khế kinh nói: Ở nơi đời quá khứ sinh nghi như thế, cho đến nói rộng. Đối trị cái này là khả năng quán xét như thật về duyên tánh duyên khởi. Thức ăn của cái hôn miên là năm thứ pháp: (1) Mắt mờ tối. (2) Không vui. (3) Than thở về bệnh khổ. (4) Tánh ăn không bình đẳng. (5) Tánh của tâm tối kém.
Đối trị cái này là tưởng sáng tỏ. Sự dụng của cái ấy là đều cùng có thể khiến cho tâm tánh chìm đắm, mờ tối.
Thức ăn của cái trạo, hối là bốn thứ pháp: (1) Tầm bà con. (2) Tầm quốc độ. (3) Tầm không chết. (4) Tùy thuận nhớ nghĩ. Tức nhớ nghĩ về vô số sự việc ngày trước đã trải qua như cười đùa, vui vẻ, thừa hành v.v… Đối trị cái này là tu Xa-ma-tha. Sự dụng của cái ấy là đều cùng có thể khiến tâm không tịch tĩnh. Do đấy nên nói thức ăn, đối trị sự dụng là đồng, tức hai cặp hôn miên, trạo hối mỗi cặp hợp làm một cái. Hoặc tham, sân, nghi là phiền não đầy đủ, mỗi mỗi đều có thể tự nhận lấy một dụng của cái che lấp. Hôn miên, trạo hối không phải là những phiền não đầy đủ, nên hai thứ hợp lại mới tự nhận lấy một dụng của cái che lấp.
Năm thứ này gọi là cái, nghĩa ấy là thế nào?
Nghĩa là quyết định có thể ngăn che Thánh đạo và gia hạnh của Thánh đạo, nên lập tên cái.
Nếu như vậy thì các phiền não v.v… đều nên được gọi là cái, vì tất cả chúng đều có thể ngăn che Thánh đạo và gia hạnh của Thánh đạo. Như Đức Thế Tôn nói với các Bí-sô: Nếu bị một pháp đã ngăn che, tức không thể hiểu rõ mắt là vô thường. Một pháp ấy nghĩa là tham, cho đến nói rộng.
Mỗi mỗi nói riêng, như trong phần biện về Tạp sự. Vì sao Đức Thế Tôn nói cái chỉ có năm?
Lý thật tức nên như vậy. Nhưng Đức Phật, Thế Tôn ở nơi môn lập cái chỉ nói có năm, tức chỉ năm cái này đối với năm uẩn có thể làm chướng ngại hơn hết. Nghĩa là hai cái tham, sân có thể làm chướng ngại giới uẩn, vì như thứ lớp đã khiến xa lìa dục ác. Hôn trầm, thùy miên thì có thể làm chướng ngại tuệ uẩn. Hai thứ này đều cùng khiến xa lìa Tỳ-bát-xá-na. Trạo cử, ố tác tức có thể làm chướng ngại định uẩn. Hai thứ này đều cùng khiến xa lìa Xa-ma-tha.
Bốn cái như thế dần dần khiến vượt ra ngoài pháp bạch. Do đấy về sau khiến đối với nghiệp quả nơi bốn đế sinh nghi. Vì nghi nên có thể khiến cho đến giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn đều không được khởi. Nên chỉ năm thứ này kiến lập làm cái.
Nếu như vậy thì cái trạo hối tức nên nói trước cái hôn miên, vì thuận với giới, định, tuệ uẩn, là theo thứ lớp mà nêu dẫn. Không phải trong đây đã hủy bỏ thứ lớp. Mà ý của Đức Thế Tôn muốn hiển bày về nghĩa riêng khác. Nghĩa là trong khế kinh, Đức Phật đã dựa nơi chánh lý để nói về cái hôn miên do Tỳ-bát-xá-na (Quán) có thể đối trị không phải là chỉ (Xa-ma-tha). Nói cái trạo hối chỉ do Xa-ma-tha có thể đối trị không phải là quán. Đây là dựa nơi phục đoạn để nêu bày về môn chỉ quán đối trị riêng hai cái hôn miên, trạo hối. Nếu dựa vào sự đoạn dứt vĩnh viễn thì môn chỉ quán này dùng đối trị tất cả không có sai biệt. Vì hiển bày lý ấy nên đã hủy bỏ thứ lớp.
Vì sao vô minh không lâp làm cái?
Vì không nói mà thành. Như khế kinh nói: Vô minh đã che lấp. Che lấp tức là cái.
Có Sư khác nói: Cùng tự nhận lấy gánh nặng thì lập trong các cái, vô minh ở đây đã tự nhận lấy riêng nặng. Vì thế không nói.
Do đâu mạn không lập làm cái?
Vì có người do mạn có thể tu pháp thù thắng. Vì nghĩa của cái thì yếu kém, nên mạn không lập trong cái.
Có Sư khác cho: Phàm nói về cái là khiến tâm hướng đến pháp dưới. Mạn thì không như vậy, vì có thể khiến tâm hướng đến pháp trên.
Vì sao các kiến không lập trong cái?
Vì kiến nơi các hữu tình đã thiếu vô ngã kiến. Tuy chấp có ngã mà cho là có thể lìa nhiễm.
Có thuyết nêu: Vì tánh của các kiến là nhanh nhạy, lanh lợi, không thuận với nghĩa của cái. Tánh của cái thì chậm chạp, nên trong cái không lập các kiến. Pháp còn trong tùy phiền não không lập làm cái.
Căn cứ theo trước đã nói, nên như lý tư duy.
Hoặc của hai cõi trên không lập làm cái: Vì lìa nhiễm của ba cõi, đầu tiên không phải là chướng. Lại, hoặc của cõi trên là vô ký, còn cái chỉ là bất thiện.
Nay nên xét chọn.
Các tùy miên v.v… do gì để đoạn trừ?
Do tuệ quán thấy rõ đối tượng duyên của tùy miên kia, nên tùy miên v.v… liền đoạn.
Nếu như vậy thì các Hoặc duyên nơi hữu lậu trong ba cõi do kiến diệt, kiến đạo đoạn cùng biến hành thuộc cõi dục, cõi khác, nên không có nghĩa đoạn. Duyên nơi khổ, tập đế thì pháp trí nhẫn sinh, vì chỉ duyên nơi khổ, tập đế của cõi dục. Duyên nơi diệt, đạo đế thì các trí nhẫn sinh, vì chỉ duyên nơi vô lậu làm cảnh giới. Nên không có lỗi như thế.
Tôi thừa nhận các Hoặc được đoạn trừ vĩnh viễn, theo phương tiện có nhiều thứ, là có bao nhiêu thứ?
Gồm chung có bốn thứ. Những gì là bốn? Tụng nêu:
Biết khắp đối tượng duyên
Đoạn chủ thể duyên kia
Đoạn đối tượng duyên ấy
Đối trị khởi nên đoạn.
Luận nói: Đoạn trừ Hoặc do kiến đạo đoạn do ba phương tiện trước.
1. Do nhận biết khắp về đối tượng duyên nên đoạn. Nghĩa là Hoặc duyên nơi tự cõi hệ thuộc cõi dục do kiến khổ, kiến tập đoạn. Các Hoặc hiện có nơi cõi sắc, vô sắc do kiến khổ, kiến tập đoạn. Do duyên nơi địa của cõi khác thuộc hai cõi trên, cũng do nhận biết khắp về đối tượng duyên nên đoạn. Duyên nơi khổ, tập đế thì loại trí nhẫn sinh. Đều cùng có thể quán tức khắc cảnh của ba cõi và chung cho Hoặc duyên nơi vô lậu thuộc do kiến diệt, kiến đạo đoạn.
Các Hoặc như thế đều do nhận biết khắp về đối tượng duyên tức đoạn.
2. Do đoạn chủ thể duyên của Hoặc kia nên đoạn. Nghĩa là Hoặc duyên nơi cõi khác hệ thuộc cõi dục do kiến khổ, kiến tập hệ thuộc cõi dục đoạn. Hoặc duyên nơi tự cõi là chủ thể duyên nơi cõi kia. Hoặc này ở nơi cõi kia có thể tạo ra chỗ nương dựa, giữ gìn. Khi chỗ nương dựa, giữ gìn đã đoạn, thì Hoặc kia cũng đoạn theo. Như người bị bệnh gầy yếu trở lại nhờ vào chỗ dựa mà đứng. Khi chỗ dựa bị loại bỏ thì người kia liền ngã theo. Vì sao ở nơi cõi kia Hoặc có thể tạo ra chỗ nương dựa, giữ gìn? Do Hoặc này đối với cõi kia có thể làm nhân.
Há không phải là Hoặc này tức nói do trừ bỏ nhân nên đoạn?
Thật sự là như vậy, vì đây kia chỉ là tên gọi khác. Nhưng vì nhằm ngăn chận chỗ lẫn lộn, nên nói như thế. Nghĩa là Hoặc của cõi dục duyên nơi cõi tự tha đều có nghĩa đây kia đều cùng làm nhân, nhưng không có đây kia lần lượt cùng duyên. Nên ở trong đây nói chủ thể duyên đoạn. Muốn khiến dễ hiểu rõ, chỉ nói duyên nơi cõi khác. Do đoạn nhân này, nên Hoặc kia liền đoạn theo.
3. Do đoạn đối tượng duyên của Hoặc kia nên đoạn. Nghĩa là các Hoặc duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, kiến đạo đoạn. Do Hoặc duyên nơi vô lậu có thể làm đối tượng duyên cho Hoặc kia. Khi đối tượng duyên đoạn thì Hoặc kia đoạn theo. Như người bệnh gầy yếu nhờ chống gậy mà đi, khi gậy kia bị dứt bỏ thì kẻ ấy liền ngã theo.
Do đâu ở trong Hoặc đã đoạn này có đoạn chủ thể duyên, nên nói đối tượng duyên đoạn?
Như khi duyên nơi khổ, tập của cõi dục khởi hiện quán thì có đoạn đối tượng duyên, nên nói chủ thể duyên đoạn. Như khi duyên nơi các diệt, đạo khởi hiện quán, tuy thật sự bấy giờ khổ, tập này diệt, đạo kia đều cùng đoạn, nhưng do đối tượng đoạn có hơn, có kém, nên khi đoạn hơn thì nói đoạn kém là đoạn theo. Nghĩa là nếu ở trong đối tượng duyên của Hoặc kia, tuệ vô lậu sinh có thể làm đối trị Hoặc ấy, thì gọi là hơn. Các pháp còn lại gọi là kém.
Vì sao Hoặc đã được đoạn kia riêng được mang tên là hơn?
Vì ở nơi đối tượng duyên của Hoặc kia, tuệ vô lậu khởi, chuyên vì đối địch với Hoặc ấy, nên đã phát ra công dụng. Nếu thừa nhận phương tiện đoạn trừ Hoặc có nhiều, thì có do chủ thể duyên đoạn nên đoạn theo, và có do đối tượng duyên đoạn nên đoạn theo.
Vì sao trước nói do tuệ quán thấy đối tượng duyên của tùy miên kia nên tùy miên v.v… liền đoạn?
Ở đây chỉ nên trước là lập tông nói: Đoạn trừ vĩnh viễn các Hoặc do nhiều phương tiện. Chớ cho trước lập tông so với sau giải thích, vì ngôn nghĩa đều khác, nên trước sau trái nhau. Như trước lập tông, sau giải thích không khác, thì trước là căn cứ ở nơi đối tượng duyên của Hoặc tất quán. Sau thì căn cứ trong ấy có sai biệt. Hoặc trước nêu lên chỗ hơn, sau thì gồm biện về chỗ kém. Chính là đối địch gọi là hơn.
Đã nói về ba phương tiện đoạn Hoặc do kiến đạo đoạn, đoạn Hoặc do tu đạo đoạn. Do phương tiện thứ tư. Nghĩa là Hoặc kia chỉ do đối trị khởi nên đoạn. Do nếu đạo đối trị của phẩm này sinh, tức các Hoặc trong phẩm ấy được đoạn trừ tức khắc. Như lúc đạo đối trị của phẩm hạ hạ khởi, thì Hoặc của phẩm thượng thượng tức đều đoạn trừ tức khắc. Đến khi đạo đối trị của phẩm thượng thượng khởi, thì Hoặc của phẩm hạ hạ tức đều đoạn trừ tức thì. Nghĩa lý sâu xa như thế, phần sau sẽ biện rộng.
Há không phải là khi tất cả Hoặc do kiến đạo đoạn cũng do đạo đối trị khởi?
Vì nếu đạo đối trị của bộ này sinh, thì các Hoặc trong bộ này được đoạn, lý thật tức nên như vậy. Nhưng ở trong đây, vì làm rõ Hoặc của ba cõi do tu đạo đoạn thảy đều do đạo đối trị của chín phẩm đạo đoạn quyết định, nên nói lời ấy. Trong các Hoặc do kiến đạo đoạn, chỉ Hoặc của xứ Hữu đảnh là đối trị quyết định như trước đã biện về Hoặc. Khi các Hoặc được đoạn do kiến đạo đoạn, vì phương tiện nhất định có ba, nên căn cứ theo đấy để nói riêng. Hoặc do tu đạo đoạn, vì phương tiện có thể đoạn không quyết định, nên căn cứ theo chung mà nói.
Há không phải là phương tiện thứ tư đã nêu rõ, so với nghĩa của tông ở trước có không tương quan?
Nghĩa là trong phần vị tu dùng trí diệt, đạo có thể đoạn trừ Hoặc của ba cõi do tu đạo đoạn. Vì tuệ không phải kiến là đối tượng duyên của Hoặc ấy, nên nghĩa này so với nghĩa của tông thật sự là không tương quan. Vì ở trước tông chỉ biện về phần do kiến đạo đoạn. Nếu như tông kia gồm thâu chung cũng không trái nhau. Thấy rõ đối tượng duyên của Hoặc kia thì đạo đối trị Hoặc này sinh.
Nói đối trị thì gồm có bao nhiêu thứ?
Tụng nêu:
Đối trị có bốn thứ
Tức đoạn, trì, xa, chán.
Luận nói: Các môn đối trị gồm có bốn thứ:
1. Đối trị đoạn: Nghĩa là đạo gần, có thể thể đoạn các Hoặc đắc. Tức đạo vô gián.
2. Đối trị trì: Nghĩa là đạo đầu tiên cùng với đoạn đắc đều cùng sinh. Tức đạo giải thoát. Do đạo như thế đã duy trì đoạn đắc, khiến các Hoặc đắc không cùng nối tiếp sinh.
3. Đối trị phần xa: Nghĩa là đạo có thể khiến cho Hoặc đắc đã đoạn ở trước chuyển biến lại thành xa. Tức đạo thắng tấn. Ở sau đạo giải thoát đã khởi đạo gọi là thắng tấn. Cho đến đắc sau đều cùng khởi sinh v.v…, cũng được mang tên đạo. Khiến cùng với Hoặc đắc là trái nhau, vì các đắc nối tiếp nhau tăng.
4. Đối trị chán bỏ: Nghĩa là đạo tùy thuận ở trong cõi nào, địa nào, thấy rõ các lỗi lầm, sinh chán bỏ sâu xa. Tức là ở nơi địa kia, dùng vô số môn quán về nghĩa lỗi lầm. Đây là chỉ thuộc về các tụ tác ý nhàm chán. Do uy lực này vào thời gian sau, nếu như thuộc về cảnh giới tốt đẹp cũng không tham vướng. Nên biết phần nhiều là đạo gia hạnh. Vì không phải là quyết định nên không nói. Ở nơi đoạn đầu, nói từ phần nhiều nên biết là hiển bày trong đạo vô gián, giải thoát, thắng tấn duyên nơi khổ, tập đế cũng là đối trị chán bỏ.
Đã nói về đối trị Hoặc. Sẽ biện về lý đoạn Hoặc.
Các Hoặc được đoạn trừ vĩnh viễn là quyết định từ đâu? Là từ đối tượng duyên, từ tương ưng, hay là từ tự tánh?
Vì sao sinh nghi, tức đối với ba thứ này đều thấy lỗi lầm. Lại, không nên nói là đoạn từ đối tượng duyên. Nghĩa là nếu pháp này là đối tượng duyên của pháp kia, vì chưa từng có lúc nào không phải là đối tượng duyên. Cũng không thể nói là đoạn từ tương ưng. Nghĩa là pháp tương ưng đều cùng làm nhân, nên pháp này không lúc nào không phải là tánh của nhân. Lại do Hoặc này khiến tâm thành nhiễm, tức tâm này không có lúc nào thành không nhiễm. Cũng không thể nói là đoạn từ tự tánh. Nghĩa là pháp không cùng xả bỏ tự tánh, do khi đoạn Hoặc thì không thể khiến các pháp của đối tượng đoạn kia mất đi tánh đã đoạn.
Vì thế nên suy xét Hoặc từ đâu đoạn?
Tụng nêu:
Nên biết từ sở duyên
Khiến các Hoặc được đoạn.
Luận nói: Các Hoặc vĩnh viễn đoạn trừ quyết định từ đối tượng duyên, do ở nơi đối tượng duyên có sức mạnh nhận biết khắp, khiến Hoặc vĩnh viễn đoạn trừ như trước đã nói. Nhưng đối tượng duyên của Hoặc gồm có hai thứ: Nghĩa là sự có trói buộc và sự không trói buộc. Các Hoặc duyên nơi sự có trói buộc làm cảnh và từ sức của Hoặc này đã dẫn sinh. Các Hoặc không duyên nơi sự này làm cảnh. Hai hoặc như thế ở nơi một hữu tình đã dẫn khởi các đắc trong hiện cùng nối tiếp. Nếu như tâm không nhiễm ô hiện ở trước, thì đắc này luôn hành không có gián đoạn, làm nhân quả của các Hoặc ở đời quá khứ, vị lai.
Như thế nên biết các Hoặc duyên nơi sự không trói buộc làm cảnh và nhân nơi thế mạnh của Hoặc này đã dẫn theo đấy cùng hiện hành, các Hoặc không duyên nơi sự này làm cảnh đã dẫn khởi loại đắc cũng đồng với trước.
Nói làm nhân quả của các Hoặc ở đời quá khứ, vị lai: Nghĩa là các đắc này khi ở đời hiện tại, là tánh đẳng lưu của Hoặc quá khứ, nói đấy là quả. Là tánh sinh duyên của Hoặc vị lai, nên nói đấy là nhân. Nhưng các đắc này là cùng trái nhau với các đắc hiện hành, thuộc đẳng lưu của đối trị đoạn, có thể giữ gìn các Hoặc đã được của quá khứ, vô ký, nên khiến tất cả Hoặc duyên nơi sự này và Hoặc khác duyên nơi phần cùng nối tiếp mà chuyển. Khi duyên nơi cảnh của sự này, thì đẳng lưu của các đối trị đoạn khởi, Hoặc đắc liền dứt. Các Hoặc đã đắc đối với đối tượng duyên của chính mình, tuy thể cũng có, nhưng do đắc của nhân quả nên vĩnh viễn dứt tuyệt, nên có thể gọi là đoạn. Do ở nơi một ít cảnh, nếu chưa nhận biết khắp thì Hoặc duyên nơi cảnh ấy và nhân nơi sức mạnh của Hoặc này đã dẫn khởi, Hoặc duyên nơi cảnh khác đã dẫn đắc nhân của quả nơi Hoặc quá khứ, vị lai, trong hiện cùng nối tiếp vô gián mà chuyển. Nếu khi ở nơi cảnh ít có được nhận biết khắp, thì Hoặc đã dẫn đắc liền không còn chuyển. Nên biết Hoặc được đoạn dứt nhất định từ đối tượng duyên.
Như trước đã nói về đối trị phần xa. Tất cả tánh xa gồm có bao nhiêu thứ? Tụng nêu:
Tánh xa có bốn thứ
Tức tướng, trị, xứ, thời
Như đại chủng Thi la
Khác phương nơi hai đời v.v… Luận nói: Tất cả tánh xa gồm có bốn thứ:
1. Tánh xa của tướng: Như bốn đại chủng tuy lại đều cùng ở trong một tụ sinh, do tướng khác nhau, nên cũng gọi là xa.
2. Tánh xa của đối trị: Như trì, phạm giới, tuy lại đều cùng ở trong một thân hiện hành, do cùng đối trị, nên cũng gọi là xa.
3. Tánh xa của xứ: Như hai bờ của biển tuy lại đều cùng ở bên của một biển cả, vì phương xứ cách biệt, nên cũng gọi là xa.
4. Tánh xa của thời: Như đời quá khứ, vị lai, tuy lại đều cùng dựa trên một pháp để lập, vì thời phần cách xa, nên cũng gọi là xa.
Đối chiếu với gì để nói là xa?
Đối chiếu với đời hiện tại vô gián đã diệt và lúc đang sinh cùng hiện gần nhau.
Vì sao gọi là xa?
Vì các cảnh không phải như mắt v.v… Hoặc vì không có tác dụng, nên vô vi không phải là thời, không thể làm vấn nạn. Thể của hư không hiện có khắp nơi hai diệt đắc khắp. Nên trong Khế kinh cũng nói là gần. Tiếng vân vân (Nơi sau cùng của câu tụng thứ tư) là làm rõ việc nêu pháp chưa hết.
Đã biện về đối trị phiền não có sai biệt. Tu đạo có thể đối trị, trong phần vị thắng tấn các Hoặc đã đoạn là đoạn lần nữa không?
Ly hệ đã được có đắc lần nữa chăng? Tụng nêu:
Các Hoặc không đoạn lại
Ly hệ có được nữa
Tức trị sinh đắc quả
Luyện căn trong sáu thời.
Luận nói: Các Hoặc đã đoạn do đạo vô gián đắc tự phần, nên liền tức thì đoạn trừ vĩnh viễn. Thời gian sau lìa thoái chuyển, không có nghĩa đoạn lần nữa. Vì đoạn rồi lại đoạn, tức là vô ích.
Ly hệ đã đạt được, tuy không có lý tùy theo đạo dần thắng tấn, nhưng khi đạo tiến tới thì cùng có khởi lần nữa, đắc hơn hẳn trước kia, lý do ly hệ đắc là thuộc về đạo. Khi xả đạo đã đắc, ly hệ kia cũng xả đắc, nên các thứ ly hệ có lý đắc lần nữa. Đắc này dựa nơi cùng có thời, gồm có sáu. Nghĩa là đạo đối trị khởi đắc quả luyện căn.
Nói tự đối trị sinh là nói chung về hai nghĩa: Nếu căn cứ theo trụ nơi có thể chứng ly hệ này, là nói về đạo vô gián. Nếu căn cứ theo trụ nơi đang chứng ly hệ này, là nói về đạo giải thoát.
Nói đắc quả: Nghĩa là đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.
Nói luyện căn: Nghĩa là căn tăng tiến, do sáu thời này được đạo chưa từng được có xả đạo từng được ly hệ. Nói câu đắc quả là đã không có sai biệt. Như gồm thâu bốn quả, tức nên gồm thâu luyện căn, do lúc chuyển căn tất đạt được quả, nên đâu nhọc sức để nói lớn câu nói luyện căn này. Vì nhằm làm rõ luyện căn khác với đoạn Hoặc đắc quả. Vì ngoài đắc quả đã nói về luyện căn là không lỗi. Nhưng đắc ly hệ, tùy theo đối tượng ứng hợp kia có đủ sáu thời. Cho đến chỉ hai thời, nghĩa là kiến bốn đế đoạn hệ thuộc cõi dục và kiến ba đế đoạn thuộc cõi sắc, vô sắc.
Ly hệ đắc đã được có đủ sáu thời. Kiến đạo đế đoạn của cõi sắc, vô sắc, ly hệ đắc đã được chỉ có năm thời, do thời đối trị sinh, tức đắc quả.
Nói đắc quả rồi, không nói đối trị sinh. Năm phẩm ly hệ thuộc cõi dục do tu đạo đoạn cũng là năm thời đắc, trừ quả Dự lưu. Ly hệ đắc thứ sáu chỉ có bốn thời, vì thời đối trị sinh đắc quả là không khác. Phẩm thứ bảy, thứ tám cũng chỉ bốn thời vì trừ hai quả trước trong bốn quả đã đắc. Ly hệ đắc thứ chín chỉ có ba thời, cũng do thời đối trị sinh tức đắc quả.
Trong cõi sắc, vô sắc do tu đạo đoạn, chỉ trừ xứ Hữu đảnh, ly hệ còn lại của ly hệ thứ chín cũng chỉ có ba thời, vì trừ ba quả trước trong bốn quả đã đắc. Đắc thứ chín của xứ Hữu đảnh chỉ có hai thời, vì đắc quả đối trị sinh là đồng một thời.
Trên đây là căn cứ theo hàng độn căn mà nói. Nếu căn cứ theo loại lợi căn, thì trừ đắc của luyện căn trong các phần vị trước.
Há không phải là tám địa cùng đạo thế tục đoạn, nên phân làm hai thứ đắc của thời đối trị sinh? Không phải vậy, vì ở đây nói là đắc dần dần. Hoặc ở đây chỉ căn cứ theo vô lậu đắc. Nếu dựa nơi chỗ vượt thứ lớp, chung cho hữu lậu đắc, thì thuộc đạo thế tục.
Trong tám địa nhiễm, theo đấy lìa ít nhiều. Người nhập Thánh đạo, đắc ly hệ kia, tùy theo đối tượng ứng hợp có đủ sáu thời, cho đến chỉ một thời, do là loại lợi căn, trừ thời luyện căn. Nghĩa là trong cõi dục, người trước đã đoạn năm phẩm nhập kiến đế, người kia do kiến đạo đoạn năm phẩm ly hệ thì có đủ sáu thời đắc. Tức có hai thứ: Là thời tự đối trị sinh và thời đắc quả. Lại, bốn thành sáu. Người kia do tu đạo đoạn năm phẩm ly hệ chỉ có năm thời đắc, trừ quả Dự lưu. Người trước đã đoạn sáu phẩm nhập kiến đế, người kia do kiến đạo đoạn sáu phẩm ly hệ cũng có năm thời đắc, trừ một như trước. Người kia do tu đạo đoạn sáu phẩm ly hệ, chỉ là đạo thế tục nơi thời đối trị sinh đắc, tất không khởi vô lậu đối trị kia, là thuộc về đạo của hướng quả Nhất lai, không phải là thời trụ nơi quả khởi đạo của hướng kia. Do trụ nơi quả hơn, không khởi phần kém. Người trước đã đoạn tám phẩm nhập kiến đế, người kia do kiến đạo đoạn tám phẩm ly hệ cũng có năm thời đắc, trừ một như trước. Người kia do tu đạo đoạn sáu phẩm ly hệ ở trước, chỉ có một thời đắc, như trước nên biết.
Bảy, tám ly hệ, chỉ bốn thời đắc. Nghĩa là hai thời đối trị sinh và hai thời đắc quả. Người trước đã đoạn chín phẩm, dựa vào địa vị chí nhập kiến đế, người kia do kiến đạo đoạn chín phẩm ly hệ cũng có bốn thời đắc, như trước nên biết.
Người dựa nơi địa căn bản nhập kiến đế, người ấy do kiến đạo đoạn chín phẩm ly hệ cũng có một thời đắc, như trước nên biết, vì căn bản không phải đối trị đoạn của cõi dục. Nếu dựa vào vị chí, hoặc dựa vào căn bản, người kia do tu đạo đoạn chín phẩm ly hệ cũng có một thời đắc, như trước nên biết, tất không khởi đối trị vô lậu kia, vì là thuộc về đạo của hướng quả Bất hoàn. Người trước đã đoạn bảy địa trên, nhập kiến đế, người ấy kiến ba đế đoạn bảy địa ly hệ, cũng có bốn thời đắc, như trước nên biết. Do kiến đạo đế đoạn bảy địa ly hệ, chỉ có ba thời đắc. Nghĩa là một thời đối trị sinh và hai đắc thời quả, vì vô lậu đối trị sinh tức đắc quả. Người kia do tu đạo đoạn bảy địa ly hệ, chỉ có ba thời đắc. Nghĩa là hai thời đối trị sinh và một thời đắc quả.
Người lìa đủ tám địa nhập Thánh đạo, trong phần vị kiến, tu đoạn Hoặc của xứ Hữu đảnh, do kiến đế đoạn ly hệ có ba thời đắc, nghĩa là một thời đối trị sinh và hai thời đắc quả. Do kiến đạo đế đoạn ly hệ có hai thời đắc, do thời đối trị sinh tức đắc quả. Do tu đạo đoạn tám phẩm ly hệ có hai thời đắc, tức một thời đối trị sinh và một thời đắc quả. Ly hệ thứ chín chỉ một thời đắc, do thời đối trị sinh tức đắc quả.
Các phần lìa nhiễm, trong phần vị kiến, tu đã tiến đoạn. Số còn lại căn cứ theo đây nên nói.
Do nhân gì khi chứng đắc quả sau đã đắc lần nữa ly hệ đã đoạn của thời trước?
Do Chí giáo (Thánh giáo lượng). Nghĩa là trong Khế kinh dựa nơi lúc đang chứng đắc quả A-la-hán, để nói câu như thế này: Nên biết như thế. Nên thấy như thế. A-la-hán kia từ tâm dục lậu đạt được giải thoát. Cho đến nói rộng.
Do trong phần vị này cũng đạt được đối trị chán bỏ của cõi dục, cùng với pháp trí vô học, nên biết ly hệ kia cũng nên đắc lần nữa.
Trước nói người đoạn sáu phẩm, chín phẩm của cõi dục nhập kiến đế. Người kia trước do tu đạo đoạn sáu phẩm, chín phẩm ly hệ, không có vô lậu đắc, vì vĩnh viễn không đắc hay là tạm thời không đắc?
Nên quyết định nói người kia vĩnh viễn không đắc.
Há không phải là khi chứng đắc A-la-hán, tất đắc các vô lậu đắc của tất cả ly hệ do kiến đạo, tu đạo đoạn nơi thời trước. Nếu người kia nơi thời trước đã đoạn ly hệ có vô lậu đắc, thời nay xả, thì đối với ly hệ kia, hiện nay tức nên được vô lậu đắc. Nếu trước không có, thì thời nay cũng không có. Khi được ly hệ, chỉ tự đối trị khởi, và khi xả bỏ đạo kém, được đạo hơn, các hữu tình trước dựa vào tĩnh lự căn bản nhập kiến đế, khi được vô học đâu thể từ tâm dục lậu được giải thoát?
Căn cứ theo người dựa vào vị chí nhập kiến đế và người theo thứ lớp để nói, nên không có lỗi. Tức các thứ ly hệ trong những phần vị kia được mang tên nhận biết khắp, là theo chỗ hơn để lập.
Nhận biết khắp có hai: (1) Trí nhận biết khắp. (2) Đoạn nhận biết khắp.
Trí nhận biết khắp, thể tức là tuệ, chỉ là vô lậu. Đoạn nhận biết khắp, thể tức là ly hệ, là quả của trí, nên được mang tên nhận biết khắp. Như nghiệp giải thích danh đã giảng giải nghiệp giải thích quả.
Nếu như vậy thì quả của nhẫn tức nên không phải là nhận biết khắp?
Vì là quyến thuộc của trí, nên gọi nhận biết khắp, là không lỗi. Hoặc ở nơi thời gian sau, chuyển thành quả của trí.
Là mỗi mỗi đạo đoạn đã được ly hệ đều lập một nhận biết khắp, hay là tất cả đạo đoạn đã được ly hệ lập chung một nhận biết khắp?
Cả hai đều không hợp, vì có lỗi quá rộng, quá lược.
Nếu như vậy thì thế nào? Tụng nêu:
Đoạn biết khắp có chín
Dục hai đầu, đoạn một
Hai đều một hợp ba
Cõi trên ba cũng vậy.
Còn năm thuận phần dưới
Sắc tất cả đoạn ba.
Luận nói: Các thứ đoạn lập chung chín thứ nhận biết khắp cùng chỉ lập chín duyên, như phần sau sẽ biện.
Những gì gọi là chín thứ nhận biết khắp?
Lại, phiền não hệ thuộc ba cõi do kiến đế đoạn lập sáu thứ nhận biết khắp. Nghĩa là hai bộ đầu (do kiến khổ, kiến tập đoạn) hệ thuộc cõi dục đoạn lập một nhận biết khắp. Hai bộ tiếp theo (do kiến diệt, kiến đạo đoạn) đều một. Cõi trên cũng như vậy, nên hợp thành sáu. Phiền não hệ thuộc ba cõi còn lại do tu đạo đoạn lập ba thứ nhận biết khắp. Nghĩa là phiền não hệ thuộc cõi dục do tu đạo đoạn lập một nhận biết khắp, nên biết tức là năm kiết thuận phần dưới đều nhận biết khắp và lập trước. Phiền não hệ thuộc cõi sắc do tu đạo đoạn lập một nhận biết khắp, nên biết nhận biết khắp này tức là nhận biết khắp về sắc ái đã hết. Phiền não hệ thuộc cõi vô sắc do tu đạo đoạn lập một nhận biết khắp, tức nhận biết khắp tất cả kiết vĩnh viễn dứt hết, nhận biết khắp này cũng cùng với trước lập một.
Như thế là đã lập chín thứ nhận biết khắp. Nên biện trong đó có bao nhiêu thứ là quả của đạo nào? Tụng nêu:
Trong ấy quả nhẫn sáu
Ba còn là quả trí
Quả vị chí, tất cả
Căn bản năm, hoặc tám.
Quả biên vô sắc một
Ba căn bản cũng vậy
Quả tục hai, Thánh chín
Pháp trí ba, loại hai.
Quả phẩm pháp trí sáu
Quả phẩm loại trí năm.
Luận nói: Ở trong chín thứ nhận biết khắp này, trước nên biện về cùng với đạo nhẫn trí làm quả có sai biệt. Quả của nhẫn có sáu. Nghĩa là sáu thứ nhận biết khắp do pháp đoạn, kiến đạo đoạn, hệ thuộc ba cõi. Quả của trí có ba. Nghĩa là nhận biết khắp về kiết thuận phần dưới dứt hết, sắc ái dứt hết và tất cả kiết dứt hết. Do ba nhận biết khắp này là quả của tu đạo.
Do đấy đã biện về quả của kiến đạp, tu đạo cùng với địa của tĩnh lự làm quả riêng khác. Quả của tĩnh lự vị chí có đủ chín. Nghĩa là quả này tức dựa nơi đoạn tất cả. Quả của tĩnh lự căn bản có năm, hoặc tám.
Nói năm: Sư Tỳ-bà-sa cho: Vì tĩnh lự căn bản không phải là đối trị đoạn của cõi dục.
Nói tám: Như Tôn giả Diệu Âm cho: Tĩnh lự căn bản cũng đối trị đoạn cõi dục. Trừ nhận biết khắp do kiến đạo đoạn thuộc cõi sắc, vô sắc, khi đạo loại trí nhận biết khắp chung nơi tập. Tĩnh lự trung gian, như nói về căn bản.
Há không phải là khi nương dựa nơi tĩnh lự căn bản, nhập kiến đế, cũng tu vị lai, dựa vào địa vị chí, đạo đối trị đoạn của cõi dục đạt được đối trị đoạn, cũng nên chứng biết do kiến đạo đoạn, pháp đoạn thuộc cõi dục kia là có vô lậu đắc. Đâu thể nói căn bản chỉ được năm quả?
Vấn nạn này là không hợp lý. Vì bấy giờ người đã tu dựa vào đối trị đoạn của địa vị chí, chỉ là đối trị đoạn của cõi sắc, vô sắc. Đạo của địa căn bản đã không thể làm đối trị đoạn của cõi dục, thì nơi phần vị hiện khởi kia, làm sao có thể tu đạo đối trị đoạn của cõi dục? Do người kia đã tu đối trị đoạn của vị chí, chỉ đối trị cõi trên, nên quả chỉ có năm. Cùng với địa của cõi vô sắc làm quả riêng khác. Quả của địa biên vô sắc chỉ có một. Nghĩa là dựa vào đạo của địa cận phần thuộc không xứ, được quả nhận biết khắp về sắc ái đã dứt hết. Thánh dựa vào phần vị của đạo thế tục, lìa các nhiễm, quả đoạn đã đạt được, cũng gọi là nhận biết khắp, do được ly hệ đắc vô lậu, nên quả của ba tĩnh lự căn bản trước cũng chỉ có một. Nghĩa là dựa vào vô sắc và ba căn bản trước, được quả của nhận biết khắp về tất cả kiết đã dứt hết.
Do đấy đã biện về tĩnh lự, vô sắc, đạt được chung về quả nhận biết khắp có nhiều, ít riêng khác. Cùng với đạo thế tục, Thánh đạo làm quả riêng. Quả của đạo thế tục có hai. Nghĩa là sức của đạo thế tục chỉ có thể đạt được quả nhận biết khắp về kiết thuận phần dưới và sắc ái đều dứt hết. Quả của Thánh đạo có chín. Nghĩa là sức của Thánh đạo, cho đến có thể vượt qua hai xứ Hữu đảnh. Nên biết trong chín quả thì hai là quả chung, bảy là quả không chung, vì chỉ Thánh quả. Cùng với pháp loại trí làm quả riêng. Quả của pháp trí có ba. Nghĩa là sức của pháp trí có thể đoạn trừ phiền não của ba cõi do tu đạo đoạn. Quả của loại trí có hai. Nghĩa là sức của loại trí đã đoạn phiền não của cõi sắc, vô sắc do tu đạo đoạn. Cùng với phẩm pháp loại làm quả riêng. Quả của phẩm pháp trí có sáu. Tức là sáu quả đã đạt được của pháp trí, pháp nhẫn ở trước. Quả của phẩm loại trí có năm. Tức là năm quả đã đạt được của loại trí, loại nhẫn ở trước.
Chữ phẩm là gồm thâu chung trí và nhẫn. Trong sáu quả của phẩm pháp, bốn quả là quả không chung, ba thuộc về pháp nhẫn, một thuộc về pháp trí. Hai quả là quả chung, nghĩa là hai thứ quả sau cùng là cùng thuộc về hai thứ trí pháp, loại. Trong năm quả của phẩm loại, thì ba quả là quả không chung, đều thuộc về loại nhẫn. Hai quả là quả chung, nghĩa là hai quả sau cùng, nghĩa như trước đã giải thích.
Do đâu nơi mỗi mỗi đạo đã được đoạn đều không lập làm một nhận biết khắp?
Vì khi đoạn vĩnh viễn mới nói là nhận biết khắp. Như Khế kinh nói: Ta nay vì ông nói rõ về nhận biết khắp. Cho đến nói rộng.
Trong đây, những gì gọi là nhận biết khắp?
Nghĩa là tham vĩnh viễn đoạn. Sân vĩnh viễn đoạn. Si vĩnh viễn đoạn. Cho đến nói rộng.
Nói câu vĩnh viễn đoạn là hiển bày về đoạn đã đạt được đều không có trói buộc theo mới gọi là nhận biết khắp.
Vì sao gọi là đoạn có tùy buộc? Vì sao gọi là đoạn không có tùy buộc?
Đoạn đủ ba thứ hoặc bốn thứ duyên gọi là không có tùy buộc. Đoạn không đủ thì gọi là có tùy buộc. Nghĩa là hoặc có đoạn, tuy được ly hệ đắc, nhưng vì thiếu đắc khác, nên chấp nhận trở lại xả bỏ vĩnh viễn. Hoặc lại có đoạn, đắc khác tuy sinh, nhưng chưa làm thiếu giảm phần sinh tử bền chắc là hàng đầu, do nhiễm của tám địa tuy luôn từng lìa, nhưng vì chưa thể làm thiếu giảm phần sinh tử hàng đầu kia, nên trở lại rơi vào ngục của nẻo ác. Hoặc lại có đoạn, tuy cũng đã làm thiếu giảm phần sinh tử hàng đầu kia, nhưng các phiền não còn lại đã trói buộc thì chưa trừ bỏ, nên đối với nghĩa đoạn dứt vĩnh viễn chưa được viên mãn. Hoặc lại có đoạn, các thứ trói buộc khác cũng đã đoạn trừ, nhưng chưa có thể vượt qua cõi đã hệ thuộc, do Hoặc đồng loại chưa đoạn rốt ráo, nên đối với nghĩa đoạn vĩnh viễn cũng chưa viên mãn.
Các đoạn như thế đều có tùy buộc. Thế nên ở nơi các phần vị kia, không lập nhận biết khắp. Chỉ ở trong chín phần vị, đoạn đủ ba bốn thứ duyên, là không có tùy buộc, tức có thể lập nhận biết khắp.
Thế nào gọi là duyên đủ? Tụng nêu:
Đắc vô lậu, đoạn đắc
Và thiếu hữu thứ nhất
Diệt hai nhân, vượt cõi
Nên lập chín biết khắp.
Luận nói: Kiến đạo đoạn, pháp đoạn gồm đủ ba duyên tức lập nhận biết khắp. Tu đạo đoạn, pháp đoạn gồm đủ bốn duyên mới lập nhận biết khắp.
Kiến đạo đoạn, pháp đoạn gồm đủ ba duyên: Nghĩa là được ly hệ đắc vô lậu, vì làm thiếu giảm xứ Hữu đảnh, vì diệt hai nhân. Trong đây, hàng phàm phu tuy lại cũng có lìa nhiễm của tám địa, gọi là diệt hai nhân, nhưng là đoạn không phải là nhận biết khắp, vì thiếu hai duyên khác. Nơi phần vị kiến Thánh đế, các đoạn của sát-na thứ hai, thứ ba, tuy đã có ly hệ đắc vô lậu, nhưng vì thiếu hai duyên khác, nên chưa lập nhận biết khắp. Sát-na thứ tư, thứ năm, tuy cũng làm thiếu giảm xứ Hữu đảnh, nhưng hai nhân chưa diệt, nên không lập nhận biết khắp. Kiến tập đoạn nhân, vì có chưa diệt, ở nơi phần vị tập pháp trí, hai bộ của cõi dục đoạn, vì đủ ba duyên, nên được tên nhận biết khắp. Nơi phần vị pháp loại trí của năm sát-na sau, vì đoạn đủ ba duyên, nên đều được mang tên nhận biết khắp.
Tu đạo đoạn, pháp đoạn gồm đủ bốn duyên: Nghĩa là ba duyên như trên, vượt cõi là thứ tư. Nghĩa là trong các cõi Thánh chưa vượt khỏi địa, Thánh kia đã được đoạn, chỉ đủ ba duyên. Nếu đã vượt địa, chưa vượt cõi, thì Thánh kia đã được đoạn cũng thiếu một duyên. Nếu khi vượt khỏi cõi, thì bốn duyên mới đủ. Tùy theo chỗ ứng hợp kia được mang tên nhận biết khắp.
Có thuyết cho: Năm duyên. Tức thêm lìa đều cùng trói buộc, nghĩa khác với trước. Nên nói hai nhân diệt, vì đều cùng có ly hệ thành, nên ở đây không nói. Lìa thì thành tựu bao nhiêu nhận biết khắp? Tụng nêu:
Vị trụ kiến đế, không
Hoặc thành một đến năm
Tu thành sáu, một, hai
Vô học chỉ thành một.
Luận nói: Trong phần vị phàm phu tuy có thể lìa nhiễm, cho đến tám địa, cũng không thành nhận biết khắp. Ở trong phần vị Thánh, dựa vào định vị chí nhập kiến đế, từ phần vị đầu tiên cho đến phần vị tập pháp nhẫn, cũng không có nhận biết khắp. Đến phần vị tập pháp trí, tập loại nhẫn, chỉ thành tựu một. Đến phần vị tập loại trí, diệt pháp nhẫn, liền thành tựu hai. Đến phần vị diệt pháp trí, diệt loại nhẫn, tức thành tựu ba. Đến phần vị diệt loại trí, đạo pháp nhẫn, là thành tựu bốn. Đến phần vị đạo pháp trí, đạo loại nhẫn, thì thành tựu năm. Người dựa vào định căn bản nhập kiến đế, đến tập loại nhẫn cũng không có nhận biết khắp. Các phần vị sau, tùy chỗ ứng hợp nên như lý xét chọn.
Người trụ nơi vị tu đạo chưa lìa dục, đạo loại trí là đầu tiên, cho đến chưa được hoàn toàn lìa nhiễm của cõi dục và thoái chuyển lìa dục, đều thành tựu sáu. Đến hoàn toàn lìa dục, do lìa dục, thì đạo giải thoát thứ chín là đầu tiên. Cho đến đạo vô gián sau cùng lìa cõi sắc, nơi người trước đã lìa dục, từ đạo loại trí, cho đến trước khi chưa khởi đạo sắc tận, chỉ thành một nhận biết khắp. Nghĩa là kiết thuận phần dưới đã dứt hết, từ sắc ái dứt hết và vị vô học, khởi triền sắc thoái chuyển, cũng có một như trước.
Người có sắc ái, từ sắc ái vĩnh viễn dứt hết. Người trước đã lìa sắc, từ khởi đạo sắc tận, đến trước khi chưa hoàn toàn lìa vô sắc ái, thành phần dưới dứt hết. Sắc ái dứt hết hai thứ từ vô học thoái chuyển, khởi triền vô sắc, thành hai nhận biết khắp, danh xưng như trước đã nói. Trụ nơi vị vô học chỉ thành tựu một. Nghĩa là nhận biết khắp về tất cả kiết vĩnh viễn đoạn dứt hết.
Nếu dựa vào căn bản, nhập chánh quyết định, khi có đạo loại trí, thì trí kia hiện có đoạn cũng được đoạn kiết thuận phần dưới. Danh xưng nhận biết khắp đâu thể thừa nhận quả của căn bản chỉ có năm. Vì nhận biết khắp này chỉ do kiến đạo đoạn, pháp đoạn của cõi sắc, vô sắc, được mang tên nhận biết khắp kia, nên không có lỗi.
Do đâu chỉ kiến đạo đoạn, pháp đoạn này cũng được mang tên nhận biết khắp kia?
Do dần dần được quả Bất hoàn, vì ở trên đoạn này lập tên nhận biết khắp kia. Lại, đạo thế tục trước đã đoạn phần dưới. Nay do sức của Thánh đạo khiến vĩnh viễn không sinh, nên đoạn đã được kia giả nêu là quả này. Nay thật sự không được đoạn nhận biết khắp của cõi dục.
Vì sao quả Bất hoàn, A-la-hán tập hợp chung các đoạn, lập một nhận biết khắp?
Tụng nêu:
Vì vượt cõi, đắc quả
Hai xứ, hợp biết khắp.
Luận nói: Vì đủ hai duyên, nên đối với đoạn đã đạt được, tập hợp chung kiến lập làm một nhận biết khắp: (1) Vượt qua cõi. (2) Đắc quả.
Nói tập hợp: Là nghĩa hợp làm một. Nếu ở nơi cõi vô sắc, vì lìa phần nhiễm nên được quả Dự lưu, thì do hoàn toàn lìa nhiễm, nên được quả A-la-hán.
Nếu ở nơi cõi dục, vì lìa phần nhiễm nên được quả Nhất lai, thì do hoàn toàn lìa nhiễm, nên được quả Bất hoàn.
Nếu ở nơi cõi sắc lìa một phần, hoàn toàn lìa, đều cùng không đắc quả. Tức chỉ ở nơi hai xứ, đầy đủ hai duyên. Nghĩa là khi đắc quả, cũng tức là vượt qua cõi. Nên quả A-la-hán và quả Bất hoàn, do tập hợp đoạn đã đạt được, lập một nhận biết khắp. Bấy giờ là khởi chung một vị đắc. Hai quả còn lại khi đắc, tuy là một vị nhưng chưa vượt qua cõi. Khi sắc ái dứt hết, tuy là vượt qua cõi, nhưng không có một vị đắc, nên ở nơi phần vị kia không tập hợp làm nhận biết khắp, vì chủ yếu đủ hai duyên mới tập hợp chung.
Người nào bỏ, người nào được bao nhiêu thứ nhận biết khắp?
Tụng nêu:
Bỏ một, hai, năm, sáu
Được cũng vậy, trừ năm.
Luận nói: Nói bỏ một: Nghĩa là từ vô học và sắc ái dứt hết, hoàn toàn lìa dục rồi thoái chuyển.
Nói bỏ hai: Nghĩa là các người Bất hoàn từ sắc ái hết, khởi triền dục rồi thoái chuyển. Và người Bất hoàn kia, khi đạt được A-la-hán. Những người trước đã lìa dục, dựa vào định căn bản nhập kiến đế, khi được đạo loại nhẫn.
Nói bỏ năm: Kinh chủ giải thích nói: Nghĩa là nơi phần vị đạo loại trí trước đã lìa dục. Ở đây chỉ nên nói là lúc được đạo loại nhẫn, vì khi được đạo loại trí thì người kia đã bỏ.
Phàm nói về được, bỏ, là căn cứ theo sắp đến để nói. Lại nên phân biệt câu nói.
Người dựa vào định vị chí nhập kiến đế, nếu dựa vào định căn bản nhập kiến đế, thì đối với đoạn của cõi dục, không được vô lậu, vì ly hệ đắc, nên không được ba thứ nhận biết khắp do kiến đạo đoạn, pháp đoạn của cõi dục. Không phải trước không được để có thể nói là nay bỏ.
Nói bỏ sáu: Nghĩa là Thánh giả chưa lìa dục hiện có khi được quả Bất hoàn.
Được cũng như vậy. Nghĩa là có được một, được hai, được sáu.
Nói được một: Nghĩa là trong chín thứ phần vị như tập pháp nhẫn v.v… của phần vị thắng tấn và từ vô học khởi triền sắc rồi thoái chuyển.
Nói được hai: Nghĩa là từ vô học, khi khởi các triền thuộc cõi vô sắc rồi thoái chuyển.
Nói được sáu: Nghĩa là người Bất hoàn thoái chuyển.
Không có được năm. Về lý là không chấp nhận. Nghĩa là người trước đã lìa dục, dựa vào định vị chí, nhập kiến đế, khi được đạo loại nhẫn, bỏ năm nhận biết khắp được quả Bất hoàn. Quả ấy nếu thoái chuyển có thể được năm nhận biết khắp. Vì thoái chuyển này đã không có, nên không chấp nhận được năm.
Há không phải là thắng tấn khi được Thánh quả, đối với các vô vi, lại khởi đắc hơn hẳn, liền có thể gọi là được?
Đâu thể bỏ nhận biết khắp? Căn cứ theo đoạn thì thật như vậy, vì luôn thành tựu. Song hiện nay lại căn cứ trong chín nhận biết khắp, nếu được tên gọi khác, thì tên gọi gốc liền mất, nên gọi là bỏ, cũng không có lỗi, vì kiến lập nhận biết khắp so với đoạn là riêng khác.
HẾT – QUYỂN 28