LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 27

Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ TÙY MIÊN, phần 3

Như trên đã biện về mười thứ tùy miên. Theo thứ lớp lúc sinh, tùy miên nào trước, tùy miên nào sau?

Các tùy miên khởi theo thứ lớp không nhất định. Có thể tất cả sau, tất cả sinh. Nhưng có một loại phiền não hiện hành, trước sau dẫn dắt nhau, không phải không có thứ lớp.

Căn cứ theo một loại này để biện về thứ lớp. Tụng nêu:

Vô minh, nghi, tà kiến

Biên kiến, giới kiến thủ

Tham, mạn, sân, thứ lớp

Do trước dẫn sau sinh.

Luận nói: Nghĩa là phiền não kia lúc theo thứ lớp sinh, trước do vô minh đối với đế không hiểu rõ, không muốn quán khổ. Cho đến đạo đế, do không thấu tỏ, nên không thể quán xét. Đã nghe nói về hai đường liền mang giữ do dự, là khổ hay, không phải khổ, cho đến nói rộng. Nếu gặp phải tà luận liền sinh tà kiến, bác bỏ cho là không có khổ đế, cho đến nói rộng.

Ở trong thủ uẩn đã bác bỏ cho là không có khổ, nhân đấy liền khởi Tát-ca-da-kiến. Từ đây lại chấp ngã có đoạn, thường, tùy chấp một biên, cho là có thể đạt được thanh tịnh. Đối với chấp như thế, cho là bậc nhất. Khởi kiến rồi, kiến đức, duyên nơi đấy khởi tham, cho đức này là hơn người khác, ỷ cậy nên sinh mạn. Đối với người khác đã khởi kiến trái với mình thì sinh sân. Như đám chấp ngã thì ghét kẻ không có ngã kiến. Hoặc ở trong phần vị xả bỏ kiến thủ của mình, tất nên khởi giận, ghét, ngờ vực đối tượng xả bỏ.

Đây là dựa nơi một loại để biện về mười tùy miên, dẫn dắt nhau hiện hành theo thứ lớp trước sau. Về lý thật thì phiền não hành, theo thứ lớp là vô biên, do duyên của đối tượng đối đãi có sai biệt. Các phiền não khởi do bao nhiêu nhân duyên? Khởi nhân duyên này, chính là có nhiều thứ. Tùy nơi thô đến thắng, chủ yếu chỉ có ba. Tụng nêu:

Do chưa đoạn tùy miên

Cùng tùy cảnh ứng hiện

Tác ý phi lý khởi

Nói Hoặc đủ nhân duyên.

Luận nói: Do ba nhân duyên nên các phiền não khởi. Lại như sắp khởi tùy miên dục tham, vì tùy miên dục tham chưa đoạn, chưa nhận biết khắp, vì thuận với cảnh của dục tham hiện ở trước, vì duyên nơi tác ý phi lý kia khởi. Tùy miên khác khởi, so sánh với đây, nên biết.

Tùy miên dục tham chưa đoạn, chưa nhận biết khắp: Do ba duyên nên nói chưa đoạn, chưa nhận biết khắp. Nghĩa là vì được chưa đoạn, vì đối trị chưa sinh, vì chưa nhận biết khắp cảnh. Lại, đoạn có hai: (1) Đoạn có phần. (2) Đoạn không phần. Nên nói câu chưa đoạn, chưa nhận biết khắp. Đây là nói tùy miên do sức của nhân khởi.

Thuận với cảnh của dục tham hiện ở trước: Nghĩa là có cảnh thật, thuận với triền dục tham. Triền này nếu hiện tiền thì dục tham liền khởi. Đây là nói tùy miên do sức của cảnh giới khởi.

Duyên nơi tác ý phi lý kia khởi: Nghĩa là có cảnh giới như gỗ hiện tiền và có tác ý phi lý như chiếc khoan lấy lửa khởi. Khoan dùi nơi cảnh giới gỗ thì lửa dục tham sinh.

Trong đây, cái gì gọi là tác ý phi lý?

Nghĩa là đối với y phục thượng diệu, tràng hoa, vật dụng trang nghiêm, hương xoa, tơ lụa màu trang sức, tư cách duyên dáng, đã hiển bày về tưởng người nữ. Từ đống phân khởi tưởng nơi chốn cư trú của hữu tình, tâm đều cùng có cảnh giác điên đảo, gọi là tác ý phi lý. Đây là nói tùy miên do sức của gia hạnh khởi. Hoặc tùy miên khởi gồm đủ ba nhân duyên.

Vì sao thừa nhận có A-la-hán thoái chuyển?

Không phải A-la-hán chưa đoạn trừ tùy miên. Lại, không phải quyết định thừa nhận phiền não hiện tiền mới được gọi là A-la-hán thoái chuyển. Nhưng ở đây tức căn cứ từ phiền não trước, vô gián dẫn sinh, nên nói không có lỗi. Do phiền não sinh gồm chung có hai thứ: (1) Từ phiền não vô gián dẫn sinh. (2) Tiếp theo pháp khác, không phải là phiền não khởi.

Nếu khác với đây thì tâm thiện, vô ký vô gián tức không nên có phiền não khởi.

Trong ấy, không căn cứ theo thứ lớp nơi pháp khác sinh, vì thế không nên nêu dẫn sự thoái chuyển để làm vấn nạn. Hoặc ở đây tức căn cứ theo đủ nhân duyên để nói là thật có, chỉ nhờ ở sức của cảnh giới sinh, không có sức của nhân.

Sức của gia hạnh: Tức tùy miên và trợ bạn đã nói ở trên. Đức Phật nói là lậu, bộc lưu, ách, thủ. Lậu, nghĩa là ba lậu: (1) Dục lậu. (2) Hữu lậu. (3) Vô minh lậu.

Bộc lưu có bốn: (1) Bộc lưu dục. (2) Bộc lưu hữu. (3) Bộc lưu kiến. (4) Bộc lưu vô minh.

Ách, nghĩa là bốn ách, như nói về bộc lưu.

Thủ, nghĩa là bốn thủ: (1) Dục thủ. (2) Kiến thủ. (3) Giới cấm thủ. (4) Ngã ngữ thủ.

Lậu v.v… như thế, Thể của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Dục phiền não và triền

Trừ si, gọi dục lậu

Hữu lậu, hai cõi trên

Chỉ phiền não, trừ si.

Đồng vô ký đối trị

Địa định nên hợp một

Vô minh, gốc các hữu

Nên riêng làm một lậu.

Bộc lưu, ách cũng vậy

Lập riêng kiến nhanh nhẹn

Kiến không thuận theo trụ

Không nơi lậu lập riêng.

Dục hữu, ách và si

Kiến phân hai gọi thủ

Vô minh không lập riêng

Không phải chủ thể thủ.

Luận nói: Phiền não và triền thuộc cõi dục, trừ si, có bốn mươi mốt vật, gọi chung là dục lậu. Nghĩa là phiễn não căn bản hệ thuộc cõi dục có ba mươi mốt thứ và mười triền.

Phiền não thuộc cõi sắc, vô sắc, trừ si, có năm mươi hai vật, gọi chung là hữu lậu. Nghĩa là phiền não căn bản của hai cõi trên đều có hai mươi sáu. Cõi sắc, vô sắc tuy lại cũng có hôn trầm, trạo cử, nhưng triền thì không nên dựa vào cõi để phân biệt. Triền của cõi trên thì ít, vì không tự tại. Do đó hữu lậu chỉ nói về phiền não. Nếu triền cũng dựa vào cõi để phân biệt, thì thể của hữu lậu có năm mươi sáu. Nên Luận Phẩm Loại Túc nói như thế này: Thế nào là hữu lậu? Nghĩa là trừ vô minh.

Các thứ kiết phược, tùy miên, tùy phiền não, triền còn lại đã hệ thuộc hai cõi sắc, vô sắc. Do đâu hợp nói phiền não của hai cõi là một hữu lậu? Do đồng là tánh vô ký, đồng một đối trị, đồng là địa của định.

Vì cũng duyên nơi sắc, thanh, xúc làm cảnh. Tức không nên chỉ nói ở nơi môn trong chuyển. Về nghĩa căn cứ theo đấy. Mười lăm thứ vô minh của ba cõi là thể của vô minh lậu, nên Tụng không nói riêng.

Vì sao chỉ vô minh này được lập riêng tên lậu?

Vì nhằm làm rõ lỗi lầm tai hại của vô minh là hơn hẳn. Nghĩa là riêng có thể tạo ra cội rễ của sinh tử. Như Khế kinh nói: “Vô minh làm nhân sinh ra tham nhiễm, cho đến nói rộng”. Lại như Tụng nói:

Các nẻo ác hiện có

Đây và thế gian khác

Đều vô minh làm gốc

Dục tham đã cùng khởi.

Nay ở trong đây chỉ căn cứ theo chỗ hơn hẳn để nêu rõ về một trăm lẻ tám các Hoặc là lậu. Nghĩa là không phải tư v.v…, nhiễm ô, hận v.v… không phải thuộc về lậu. Chỉ các Hoặc này đã giữ chân hữu tình trụ lâu trong sinh tử. Hoặc khiến lưu chuyển ở trong sinh tử, từ trời Hữu đảnh đến ngục vô gián. Vì có tác dụng mạnh dễ hiểu rõ, thế nên nói riêng.

Bộc lưu và ách thể đồng với lậu. Nhưng ở trong ấy, kiến cũng được lập riêng. Nghĩa là dục lậu ở trước, tức bộc lưu dục và ách dục.

Như thế hữu lậu, tức bộc lưu hữu và ách hữu. Các kiến phân làm bộc lưu kiến và ách kiến, do mạnh mẽ nhanh nhẹn. Tức là nghĩa trôi nổi hợp chấp, lập bộc lưu, ách, thủ. Như phiền não khác, chỉ trừ vô minh, gồm cùng hỗ trợ có thể khiến trôi nổi hợp chấp. Các kiến cũng như vậy. Do mạnh mẽ nhanh nhẹn, nên lìa tương trợ khác, cũng có thể khiến trôi nổi hợp chấp, nên cũng lập riêng nơi bộc lưu, ách, thủ. Lại, các phiền não đều khiến chúng sinh chìm nổi nơi pháp nhiễm, lìa các phẩm thiện. Không hiểu biết, hiểu biết sai lạc. Sóng dữ cuồn cuộn, xô đẩy nhận chìm các chúng sinh, nên đối với phẩm thiện lại càng xa, nên kiến vô minh ở đây đã lập riêng.

Nếu như vậy vì sao không lập riêng kiến lậu? Khiến trụ gọi là lậu, như phần sau sẽ nói. Kiến không thuận với lậu kia vì nghĩa có riêng khác. Nghĩa là khiến hàng phàm phu và các Thánh giả cùng trụ nơi sinh tử, nên gọi là lậu. Các kiến thì không có khả năng khiến cho Thánh trụ, vì theo nghĩa của lậu là không hoàn toàn, nên không lập riêng. Về nghĩa trôi nổi hợp chấp, vì Thánh và phàm phu khác nhau, nên ba môn sau đều lập riêng kiến. Nghĩa là các Hoặc này có thể làm cho phàm phu trôi nổi, chấp nhận hữu khiến lìa bỏ tất cả phẩm thiện. Khiến các Thánh giả trôi nổi thì không thể như vậy. Trôi nổi rồi, lại có thể khiến cho các loài phàm phu khắp cùng hợp sinh nơi cõi, nẻo phi ái. Khiến cho Thánh giả hợp sinh thì không thể như thế. Hợp rồi, lại có thể khiến cho các loài phàm phu đều dựa chấp. Còn khiến cho Thánh dựa chấp thì không như vậy.

Do ba môn này, tức phàm phu khác với Thánh, trong đó kiến là hơn hẳn, thế nên lập riêng.

Có Sư khác nói: Vì kiến vội vã, nhanh nhẹn, nên đối với nghĩa khiến trụ, riêng không thể thực hiện. Tức ở nơi môn lậu cùng với thứ khác hợp lập. Nếu cùng với thứ khác hợp liền có khả năng trụ. Như đối với voi chúa đã được điều phục, đã trói buộc sinh voi con.

Như thế là đã hiển bày về hai mươi chín vật, gọi là bộc lưu dục. Nghĩa là tham, sân, mạn đều có năm thứ, nghi bốn, triền mười. Hai mươi tám vật gọi là bộc lưu hữu. Nghĩa là tham cùng với mạn đều mười, nghi tám. Nếu thêm hôn trầm, trạo cử, thành ba mươi hai. Tức nơi cõi sắc, vô sắc đều có hai. Ba mươi sáu vật gọi là bộc lưu kiến. Nghĩa là trong ba cõi đều có mười hai kiến. Mười lăm vật gọi là bộc lưu vô minh. Nghĩa là vô minh của ba cõi đều có năm. Nên biết bốn ách cùng với bộc lưu là đồng. Bốn thủ nên biết thể là đồng với bốn ách, nhưng dục thủ, ngã ngữ thủ đều hợp với vô minh, kiến phân làm hai so với ách trước là khác, tức ách dục và vô minh dục ở trước. Ba mươi bốn vật gọi chung là dục thủ. Nghĩa là tham, sân, mạn, vô minh đều có năm, nghi có bốn và mười triền. Tức ách hữu ở trước và vô minh của hai cõi. Ba mươi tám vật gọi chung là ngã ngữ thủ. Nghĩa là tham, mạn, vô minh đều có mười, nghi có tám. Nếu thêm hôn trầm, trạo cử, thì thành bốn mươi hai. Ở trong ách kiến, trừ giới cấm thủ. Ba mươi vật còn lại gọi chung là kiến thủ. Sáu vật đã trừ, gọi là giới cấm thủ.

Do đấy, riêng vì oán Thánh đạo, lừa dối cả hai chúng tại gia, xuất gia.

Vì sao vô minh không lập riêng làm thủ?

Vì dựa vào nghĩa có thể thủ để kiến lập tên thủ, nhưng các vô minh không phải là có thể thủ. Nghĩa là tướng không hiểu rõ gọi là vô minh. Vô minh kia không phải là có thể thủ, vì không mạnh mẽ, nhanh nhẹn, nên chỉ có thể cùng với pháp khác hợp lập làm thủ.

Đã biện về mười thứ tùy miên và triền. Kinh nói là lậu, bộc lưu, ách, thủ.

Danh xưng như tùy miên v.v… này có nghĩa gì? Tụng nêu:

Vi tế hai tùy tăng

Theo đuổi với tùy buộc

Trụ trôi nổi hợp chấp

Là nghĩa của tùy miên v.v…

Luận nói: Phiền não căn bản lúc hiện ở trước, vì hành tướng khó nhận biết, nên gọi vi tế. Thế nên Thánh giả A-nan-đà nói: “Ta nay không nhận biết, đối với người đồng phạm hạnh, có khởi tâm mạn chăng? Không nói là hoàn toàn không có, vì hành tướng của tùy miên mạn là vi tế. Thánh giả kia hãy còn không hiểu rõ tâm mạn là có hay không, huống chi là các phàm phu. Các pháp còn lại so sánh nên như vậy”.

Có chỗ giải thích: Ở nơi cực vi của một sát-na cũng có tùy tăng, nên gọi là vi tế. Hai tùy tăng: Nghĩa là ở nơi đối tượng duyên và đối tượng tương ưng đều là tùy tăng.

Vì sao phiền não có tùy tăng ở nơi đối tượng duyên tương ưng?

Như trước đã biện, hoặc như kẻ oán hại, dọ xét, tìm kiếm chỗ sơ hở, tỳ vết, cùng như thấy chất độc. Nên biết phiền não ở nơi đối tượng duyên của chính mình, có nghĩa tùy tăng. Như thỏi sắt nóng đỏ có thể khiến cho nước nóng và như chạm phải chất độc. Nên biết phiền não ở nơi tự tương ưng có nghĩa tùy tăng. Hai thứ ấy đều đồng với mẹ nuôi, khiến con trẻ tùy tăng. Mẹ nuôi có thể khiến cho con trẻ tăng trưởng và khiến cho tài nghệ của chúng dần dần chứa nhóm. Đối tượng duyên tương ưng khiến cho các phiền não cùng nối tiếp tăng trưởng và được tích tập.

Nói theo đuổi: Nghĩa là từ vô thủy đến nay, ở trong sự cùng nối tiếp đã khởi đắc theo đuổi.

Nói tùy buộc: Nghĩa là rất khó lìa, như bệnh sốt rét bốn ngày và chất độc của chuột v.v…

Có thuyết cho: Tùy buộc nghĩa là luôn được tùy theo. Như đi trên không thì bóng đi theo nơi nước biển.

Do đấy đã nói: Vì các nhân duyên nên mười thứ phiền não được lập tên tùy miên. Dựa ở môn huấn từ để giải thích danh xưng này. Nghĩa là tùy lưu: Là miên trong sự cùng nối tiếp, nên gọi là tùy miên. Tức thuận lưu: Là an trụ trong thân, là nghĩa tăng thêm tối tăm, ngưng trệ. Hoặc tùy thắng: Là miên trong phần cùng nối tiếp, nên gọi là tùy miên. Tức là hướng nhập nơi phần vị giải như thật, là nghĩa mờ tối, mê lầm. Hoặc trong ngục hữu đã theo đuổi trong thời gian dài, vì che lấp loài hữu tình, nên gọi là tùy miên.

Vì sao tùy miên chỉ có mười thứ như tham v.v…, không phải thứ khác như phẫn v.v…? Vì chỉ mười thứ này có tập khí bền chắc, không phải như phẫn v.v… Lưu giữ hữu tình trụ lâu trong sinh tử. Hoặc khiến lưu chuyển ở trong sinh tử, từ trời Hữu đảnh đến ngục vô gián.

Do tùy miên kia cùng nối tiếp ở nơi sáu lỗ bất tịnh chảy ra các thứ lỗi lầm là vô cùng nên gọi là lậu. Vì phẩm thiện khiến cho luôn trôi nổi nên gọi là bộc lưu. Ở nơi cõi, nẻo, sinh hòa hợp gọi là ách. Chấp giữ lấy các phiền não kia làm tự thể nên gọi là thủ.

Đã biện mười thứ tùy miên và triền. Đức Thế Tôn nói là lậu, bộc lưu, ách, thủ, vì chỉ từng ấy hay lại có hơn? Tụng nêu:

Do các kiết sai biệt

Lại nói có năm loại.

Luận nói: Tức các phiền não, kiết phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, nghĩa có riêng khác, nên lại nói có năm loại. Như kiết là gì? Tụng nêu:

Kiết chín vật như thủ v.v…

Lập hai kiết kiến, thủ

Do hai chỉ bất thiện

Cùng là tự tại khởi.

Trong triền chỉ tận, xan

Kiến lập làm hai kiết

Hoặc hai thường hiện hành

Là nhân của nghèo hèn.

Rõ khắp tùy nơi Hoặc

Não loạn nơi hai bộ.

Luận nói: Kiết có chín thứ: (1) Kiết ái. (2) Kiết giận. (3) Kiết mạn. (4) Kiết vô minh. (5) Kiết kiến. (6) Kiết thủ. (7) Kiết nghi. (8) Kiết tật (ganh ghét). (9) Kiết xan (keo kiệt).

Do chín thứ này, đối với cảnh, đối với sinh có khả năng trói buộc, nên gọi là kiết. Như khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Không phải mắt trói buộc sắc. Không phải sắc trói buộc mắt. Mà trói buộc chính là dục tham hiện có trong ấy.

Lại, Khế kinh nói: Các loại người ngu, phàm phu không có hiểu biết, vì kiết trói buộc nên sinh, vì kiết trói buộc nên tử. Vì kiết trói buộc nên từ thế gian này đi đến thế gian kia. Hoặc vì có những thứ ấy, nên khiến các hữu tình hợp với rất nhiều khổ, nên gọi là kiết. Vì là xứ an đủ của mọi thứ khổ não.

Trong đây, kiết ái nghĩa là tham của ba cõi. Đây là căn cứ theo đối tượng nương dựa và đối tượng duyên. Nếu ở nơi tưởng trái ngược và tách lìa trong hành thuộc về dục, khiến tâm ghét bỏ, gọi là kiết giận.

Kiết mạn nghĩa là bảy mạn, như trước đã nói. Nói kiết vô minh nghĩa là không hiểu biết của ba cõi. Đây là căn cứ theo đối tượng nương dựa, không phải là đối tượng duyên, vì các pháp vô lậu không rơi vào cõi, nên vô minh cũng dùng các pháp kia làm đối tượng duyên. Kiết kiến nghĩa là ba kiến. Kiết thủ nghĩa là hai thủ. Do đâu ba kiến lập riêng kiết kiến? Hai thủ lập riêng kiết thủ? Do ba kiến, hai thủ là vật đã chấp giữ. Nghĩa là ba kiến kia có mười tám vật. Hai thủ cũng như vậy, nên gọi là vật v.v…

Nói vật này v.v…, về nghĩa có ích gì?

Vì ở trong nghĩa của kiết, kiến tức có ích. Lời nói này ý cho như tham, sân v.v… mỗi mỗi riêng có thể thành một sự kiết. Ba kiến, hai thủ đều có mười tám vật, hòa hợp đều thành một sự kiết. Nếu khác với đây, nên nói năm kiến đều là một kiết. Như tham, sân v.v…, nên kiến và thủ đều có mười tám vật, cùng lập một kiết mới ngang với tham v.v…

Nếu như vậy thì thân kiến, biên kiến, kiến thủ có mười tám vật, giới cấm thủ, tà kiến cũng như vậy, tức có mười tám, há không phải là vật v.v…?

Không phải thế. Vì Bản thích lý kia đã quyết định. Vì sao? Do thủ v.v… nên ba kiến cùng là đối tượng chấp thủ. Hai thủ cùng là chủ thể chấp thủ. Đối tượng chấp thủ và chủ thể chấp thủ là có sai biệt. Nghĩa là đối với các hành, chấp ngã đoạn thường, hoặc bác bỏ cho là không có. Về sau khởi hai thủ, chấp kiến là thứ nhất. Hoặc chấp là tịnh, không tạp loạn. Bản thích là thiện.

Có thuyết nói: Do vật và âm thanh v.v…

Có thuyết cho: Kẻ tham đắm nơi hữu và của cải thì kiết kiến đối với kẻ kia trói buộc dùng làm tăng thượng. Nếu có kẻ tham vướng nơi lạc của Niết-bàn, thì kiết thủ đối với kẻ kia trói buộc dùng làm tăng thượng.

Kiết nghi: Nghĩa là đối với bốn đế luôn có do dự. Do dự này khác với tuệ. Do có Thể của pháp riêng, khiến tâm không vui mừng, gọi là ganh ghét (tật). Ganh ghét này khác với sân. Vì có Thể của pháp riêng, nên có giải thích về ganh ghét là không nhẫn chịu trước những vinh hiển của người khác. Khiến tâm luôn tiếc của bỏn sẻn, gọi là keo kiệt. Nghĩa là chớ khiến những thứ của cải này lìa bỏ nơi ta. Khiến tâm chấp giữ chặt, nên gọi là keo kiệt.

Vì sao trong triền hai thứ ganh ghét, keo kiệt được kiến lập làm kiết, không phải là triền khác?

Nếu lập tám triền thì nên tạo ra giải thích này. Do cả hai chỉ là bất thiện và tự tại khởi. Nghĩa là chỉ hai thứ này thì hai nghĩa đầy đủ. Sáu thứ còn lại không một thứ nào đủ cả hai nghĩa. Không hổ, không thẹn, tuy chỉ là bất thiện, nhưng không phải tự tại khởi. Hối thì tự tại khởi, nhưng không phải chỉ là bất thiện. Số còn lại thì hai nghĩa đều không có.

Nếu lập mười triền thì nên giải thích thế này: Chỉ hai thứ ganh ghét, keo kiệt vì lỗi lầm là rất nặng, nên trong mười triền lập hai thứ ấy làm kiết.0

Do hai thứ ấy thường hiện hành. Nghĩa là sinh trong nẻo trời người của cõi dục thì tật và xan này luôn luôn hiện khởi. Lại, hai thứ ấy có thể làm nhân của sự nghèo hèn. Nghĩa là sinh trong nẻo trời, người của cõi dục, phần nhiều bị nghèo hèn, khổ sở, làm khốn ách. Hiện thấy những kẻ hèn kém, thiếu của, cho đến người rất thân cũng không kính ái. Lại vì hai thứ ấy đã hiện bày khắp các tùy phiền não. Nghĩa là tùy phiền não gồm chung có hai loại: (1) Buồn bã đều cùng hành. (2) Hân hoan đều cùng hành.

Hai thứ tật, xan đã hiển bày khắp nơi hai tướng như thế. Lại, hai thứ này có thể não loạn hai bộ. Nghĩa là ở nơi chúng tại gia trong phần vị của cải, do tật và xan đã não loạn cùng cực. Nếu là chúng xuất gia thì ở trong giáo hành, do tật xan đã não loạn hết mực. Hoặc có thể não loạn các các thứ trời, A-tố-lạc. Nghĩa là nhân nơi hình sắc, hương vị, hai thứ kia đã tạo nên nhiều nhiễu loạn cho cả hai chúng. Hoặc hai thứ này có thể não loạn hai chúng người, trời. Như Đức Thế Tôn nói với Kiều-thi-ca: Do kiết ganh ghét, keo kiệt nên hàng trời người đã bị não loạn. Hoặc hai thứ này có thể xúc não chúng tự tha. Nghĩa là do ganh ghét, nên não loạn bạn bè người khác. Do bên trong mang giữ keo kiệt, nên não loạn bạn bè của mình. Vì vậy trong mười triền đã lập hai thứ này làm kiết.

Đức Phật ở nơi xứ khác đã dựa vào môn sai biệt, tức dùng tiếng kiết để nói có năm thứ.

Tụng nêu:

Lại, năm thuận phần dưới

Do hai không vượt dục

Do ba, trở lại dưới

Gồm môn căn nên ba.

Hoặc không muốn phát hướng

Mê lầm đạo nghi đạo

Hay chướng hướng giải thoát

Nên chỉ nói đoạn ba.

Luận nói: Những gì là năm? Nghĩa là hữu thân kiến, giới cấm thủ, nghi, dục tham, giận dữ.

Năm thứ như thế đối với pháp của phần dưới có thể làm thuận ích, nên gọi là phần dưới. Nhưng pháp của phần dưới lược có hai thứ: (1) Cõi dưới. Nghĩa là cõi dục. (2) Hữu tình dưới. Nghĩa là các phàm phu tuy đạt được Thánh pháp, nhưng vẫn không thể vượt qua cõi của phần dưới, vì bị hai kiết dục tham, giận dữ đã trói buộc. Tuy đã lìa dục tham nhưng không thể vượt khỏi hai hữu tình dưới, vì bị các kiết thân kiến, giới cấm thủ, nghi đã trói buộc. Các hữu tình trụ trong ngục cõi dục thì dục tham và giận dữ cũng như lính ngục. Do lính ngục kia đã cấm ước nên không vượt qua ngục. Ba kiết như thân kiến v.v… thì như lính tuần tra, canh giữ. Nếu như có phương tiện vượt qua ngục cõi dục, thì ba lính tuần tra kia bắt giữ đem đặt trở lại trong ngục. Kiết thuận phần dưới do đấy chỉ có năm.

Người đã kiến đế, do dục tham, giận dữ, nên không thể vượt qua cõi, nghĩa ấy có thể như vậy, chính vì người này chỉ là hệ thuộc cõi dục.

Người lìa dục tham, kiến đoạn tất cả, đều khiến không vượt qua hàng hữu tình của phần dưới. Vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói có ba thứ?

Tuy có vấn nạn này, nhưng Đức Phật, Thế Tôn đã lược gồm thâu môn căn, nên nói có ba thứ. Nói gồm thâu môn: Tức loại Hoặc do kiến đạo đoạn gồm chung có ba, chỉ có một thứ là chung cho hai, chung cho bốn bộ. Nên nói ba thứ này gồm thâu ba môn kia. So sánh để làm rõ môn kia. Nói gồm thâu căn: Tức ba kiết như hữu thân kiến v.v… là ba căn còn lại do biên chấp kiến, kiến thủ, tà kiến, như thứ lớp ấy đã tùy theo ba thứ căn, hơn hẳn là hữu thân kiến, giới cấm thủ, nghi mới được chuyển. Nên nói ba thứ này gồm thâu ba căn kia. Tức kiết thuận phần dưới chỉ có năm thứ này.

Những người được quả Dự lưu, sáu phiền não đã đoạn, do đâu chỉ nói đoạn ba kiết?

Ở đây cũng như trước đã nói về gồm thâu môn, căn, tuy chỉ có một thứ chung cho hai bộ, tức nêu lên tướng kia để làm rõ về Thể của môn đó. Do đấy nên nói là gồm thâu ba môn kia.

Hoặc có Sư khác giải thích như thế này: Hướng đến phương khác, có ba thứ chướng: (1) Không muốn phát khởi: Nghĩa là vì nhận thấy công đức lỗi lầm của phương khác này, nên thôi dứt tâm không hướng đến. (2) Mê chánh đạo: Nghĩa là tuy đã phát khởi hướng đến, nhưng vì dựa vào đường tà, nên không đến phương kia. (3) Nghi chánh đạo: Nghĩa là không am tường, đều thấy có hai đường, người thường đi tới, liền đối với chánh đạo mang giữ do dự: Đường này đối với sự việc hướng đến đường kia là đúng hay là sai.

Như thế nên biết, người hướng đến giải thoát cũng có ba chướng tương tợ như thế. Nghĩa là do thân kiến nên đối với uẩn, Niết-bàn có lỗi lầm, công đức đã khởi kiến chấp ngã đoạn, đối với giải thoát không muốn phát khởi hướng đến.

Do giới cấm thủ nên tuy cầu giải thoát, nhưng mê lầm nơi đường chánh, dựa vào đạo thế gian, tức luống trải qua khổ sở mà không đến Niết-bàn.

Do nghi nên không thể khéo tự quán sát, thấy các tà đạo có nhiều người tu, liền ở nơi chánh đạo tâm mang do dự: Đối với việc hướng đến giải thoát là đúng hay là không đúng? Đức Phật vì chỉ rõ người được Dự lưu đã vĩnh viễn đoạn chướng ngại nơi việc hướng đến giải thoát như thế, nên nói đoạn ba kiết. Tuy kiến hành thường, cũng không hướng đến giải thoát, vì thấy đạo thế gian là hơn, tức cũng mê lầm mất chánh đạo. Kẻ bác bỏ cho là không có Thánh đạo, cũng không tin chánh đạo. Nhưng ba thứ trước là gốc của ba thứ sau. Ba thứ sau tất tùy theo ba thứ trước chuyển. Nêu lên gốc gồm thâu ngọn, nên chỉ nói ba thứ trước.

Đức Phật ở nơi kinh khác, như kiết thuận phần dưới nói kiết thuận phần trên cũng có năm thứ. Tụng nêu:

Thuận phần trên cũng năm

Sắc, vô sắc hai tham

Trạo cử, mạn, vô minh

Khiến không vượt khỏi trên.

Luận nói: Thể của năm thứ như thế, có tám vật. Ba thứ như trạo cử v.v… cũng vì cõi riêng nên chỉ do tu đạo đoạn, gọi là thuận phần trên. Vì thuận ích nơi phần trên, nên gọi là kiết thuận phần trên. Nếu cần đoạn do kiến đạo đoạn thì phương kia hiện hành, nên Hoặc do kiến đạo đoạn, khi chưa đoạn vĩnh viễn, tức cũng có thể giúp cho Hoặc kia khiến thuận phần dưới. Thế nên chủ yếu là đoạn vĩnh viễn Hoặc do kiến đạo đoạn, thì năm phiền não này mới hiện hành, gọi là thuận phần trên. Trong đây đã nói về tham của cõi sắc, vô sắc và nói là thuận nơi cõi trên. Nên biết trạo cử v.v… cũng ở nơi cõi sắc, vô sắc, không phải hệ thuộc cõi dục.

Luận Phẩm Loại Túc đã nói thế này: Pháp kiết là thế nào? Nghĩa là chín kiết. Pháp không phải kiết là thế nào? Nghĩa là pháp còn lại trừ chín kiết. Do đấy chứng thành, một loại trạo cử có phần ít là kiết, tức hệ thuộc hai cõi. Phần ít không phải là kiết, tức hệ thuộc cõi dục. Nơi phần ít là kiết nghĩa là Thánh giả. Nơi phần ít không phải là kiết nghĩa là phàm phu. Có phần vị là kiết, nghĩa là đã lìa dục tham. Có phần vị không phải là kiết, nghĩa là chưa lìa dục tham. Do những sai biệt không nhất định như thế v.v…, nên Luận Phẩm Loại Túc không nói là kiết. Vì trạo cử nhiễu loạn Tam-ma-địa, nên đối với thuận phần trên kiến lập làm kiết. Tức do lý này nên trong thuận phần trên, không nói hôn trầm thuận với đẳng trì.

Đã biện về kiết. Phược là thế nào?

Tụng nêu:

Phược ba do ba thọ.

Luận nói: Do có thể trói buộc, nên lập tên phược. Tức là nghĩa có thể ngăn chận sự việc hướng đến lìa nhiễm. Hai tướng kiết, phược tuy không có sai biệt, nhưng dựa nơi Bản Mẫu để nói thì phược có ba: (1) Phược tham. (2) Phược sân. (3) Phược si.

Vì phẩm loại của các kiết còn lại là đồng, nên gồm thâu ở trong ba. Nghĩa là năm kiến, nghi đồng với phẩm loại si. Hai kiết mạn, xan đồng với phẩm loại tham. Kiết tật đồng với sân, nên đều thuộc về ba phược. Lại vì hiển bày chỉ rõ người đã kiến đế, ở nơi pháp còn lại nên làm, tức nói về ba phược đã trói buộc chung sáu thức thân, đặt để nơi ngục sinh, tử. Lại, Đức Phật riêng vì người có tuệ giác yếu kém đã hiển bày phiền não của tướng thô, nên chỉ nói ba phược.

Có Sư khác cho: Do tùy theo thế mạnh của ba thọ đã dẫn, nên nói phược có ba. Nghĩa là tham phần nhiều ở nơi hai thứ đối tượng duyên và tương ưng của tự lạc thọ đã tùy tăng. Phần ít cũng ở nơi không khổ không lạc. Đối với khổ của mình và người khác cùng lạc xả của người khác, chỉ có một thứ đối tượng duyên là tùy tăng. Sân cũng phần nhiều ở nơi hai thứ đối tượng duyên và tương ưng của tự khổ thọ đã tùy tăng. Phần ít cũng ở nơi không khổ không lạc. Đối với lạc của mình và người khác và khổ xả của người khác, chỉ có một thứ đối tượng duyên là tùy tăng. Si cũng phần nhiều ở nơi hai thứ đối tượng duyên và tương ưng của tự xả thọ là đã tùy tăng. Phần ít cũng ở nơi lạc thọ, khổ thọ, đối với tất cả thọ của người khác chỉ nơi đối tượng duyên là tùy tăng.

Thế nên, Đức Thế Tôn đã dựa vào lý của phần nhiều nói là tùy theo ba thọ để kiến lập ba phược.

Loại tham v.v… nào đã ngăn chận việc hướng đến lìa nhiễm gọi là phược?

Nghĩa là chỉ loại hiện hành. Nếu khác với đây tức đều thành ba, tức nên hoàn toàn ngăn chận hướng đến lìa nhiễm.

Đã phân biệt phược. Tùy miên là thế nào?

Tụng nêu:

Tùy miên trước đã nói.

Luận nói: Tùy miên có sáu, hoặc bảy, hoặc mười, hoặc chín mươi tám, như trước đã nói.

Tùy miên đã nêu bày xong. Tùy phiền não thì thế nào?

Tụng nêu:

Tùy phiền não khác đây

Tâm nhiễm nơi hành uẩn.

Luận nói: Có thể làm nhiễu loạn, nên gọi là phiền não. Tùy theo các phiền não chuyển, nên được tên gọi tùy phiền não.

Có Sư xưa nói: Nếu pháp không gồm đủ tướng phiền não, thì gọi là tùy phiền não. Như mặt trăng không tròn đầy thì được mang tên là tùy mặt trăng. Nhưng các tùy miên gọi là phiền não, tức tùy miên này cũng được mang tên tùy phiền não, vì là phẩm phiền não đã trọn đủ. Do đấy nên nói, tức các phiền não có nghĩa kiết, phược. Tùy miên, tùy phiền não có nghĩa triền. Tâm sở, hành uẩn nhiễm ô còn lại là tùy phiền não khởi tâm tùy não hại, nên được mang tên tùy phiền não, không được gọi là phiền não, vì thiếu tướng phiền não trọn đủ. Danh xưng tùy phiền não là nói về bao nhiêu pháp? Vì vô số kinh đã nói, nên có rất nhiều. Nghĩa là các loại phẫn phát, bất nhẫn và khởi lời nói ác. Như Đức Thế Tôn nói với Bà-la-môn: Có hai mươi mốt các tùy phiền não có thể não loạn tâm, cho đến nói rộng. Phần sau sẽ lược biện. Thuộc về triền phiền não cấu lại nên biện trước.

Tướng của triền như thế nào?

Tụng nêu:

Triền tám: Không hổ thẹn

Tật, xan và hối, miên

Cùng trạo cử, hôn trầm

Hoặc mười, thêm phẫn, phú.

Không hổ, xan, trạo cử

Đều từ nơi tham sinh

Không thẹn, miên, hôn trầm

Từ vô minh đã khởi.

Tật, phẫn từ sân khởi

Hối từ nghi phú tránh.

Luận nói: Phiền não căn bản cũng gọi là triền. Kinh nói: Triền dục tham làm duyên. Nếu khác với đây thì tham v.v… vì sao có thể được gọi là phiền não trọn đủ? Tuy nhiên, các Luận giả cho lìa các tùy miên, căn cứ theo chỗ hơn để nói là triền. Hoặc tám, hoặc mười. Nghĩa là Luận Phẩm Loại Túc nói có tám triền. Tông Tỳ-bà-sa nói triền có mười, tức ở tám trước lại thêm phẫn, phú.

Vì mười thứ như thế đã buộc hàm thức đem đặt nơi ngục sinh tử, nên gọi là triền. Hoặc mười thứ ấy làm nhân khởi các hành ác, khiến bị giữ lại ở nẻo ác, nên gọi là triền.

Không hổ không thẹn, tật (ganh ghét), xan (keo kiệt) và hối (ăn năn), trạo cử, hôn trầm, như trước đã biện. Khiến tâm mờ tối, là tương ưng với hôn trầm. Không thể giữ gìn thân, đây là tướng của miên. Miên tuy cũng có mờ tối, nhưng không tương ưng.

Đấy chỉ biện về triền, nên nói như thế. Ở đây nói tức khắc về ba tướng của miên: Vì ba tướng này cùng với nghĩa của miên là tương thuận. Nhân nơi tự trở lại tổn hại oán, theo tăng ích mà sinh, thì giận dữ là trước nhất. Tâm phẫn nộ gọi phẫn.

Có Sư khác nêu: Nhân nơi xứ, phi xứ trái ngược mà sinh. Sức mạnh có thể khiến tâm không đoái nghĩ mà chuyển, cho đến trên con, khiến tâm phẫn phát, gọi là phẫn.

Ẩn giấu tội mình, gọi là phú. Tội nghĩa là điều đáng chê trách. Tức là tội hủy phạm phép tắc của Thi la và các tịnh mạng. Ẩn giấu tức là giấu tội nhân của dục.

Có cách giải thích khác: Bôi xóa gọi là che. Nghĩa là bên trong mang giữ điều ác, bôi xóa bên ngoài, là nghĩa muốn khiến cho người khác không xét biết.

Trước đã nói nếu pháp từ phiền não khởi mới có thể kiến lập tên gọi tùy phiền não.

Trong đây, pháp nào từ nơi phiền não nào khởi?

Không hổ, xan, trạo cử là đẳng lưu của tham. Chủ yếu có tham làm nhân gần mới được sinh. Không thẹn, miên, hôn trầm là đẳng lưu của vô minh. Vì các thứ ấy cùng với tướng của vô minh là rất gần gũi. Tận, phẫn là đẳng lưu của sân. Do tướng của các thứ này là đồng với sân. Hối là đẳng lưu của nghi, vì nhân nơi do dự sinh. Phú, có thuyết nói là đẳng lưu của tham, có thuyết cho là đẳng lưu của vô minh, có thuyết nói là đẳng lưu của cả hai. Các kẻ có hiểu biết thì nhân nơi ái sinh. Các người không hiểu biết thì nhân nơi si sinh. Tức do tướng này.

Có thuyết cho: Tâm vướng mắc tiếng khen, lợi dưỡng, cung kính, không hiểu rõ hành ác đã chiêu cảm quả đương lai, là ở nơi tội của mình đã che giấu nhân của dục, là quả đẳng lưu của hai thứ ái, vô minh. Pháp của tâm tùy não gọi là phú.

Mười thứ như thế từ phiền não sinh là đẳng lưu của phiền não, nên gọi là tùy phiền não.

Phiền não cấu còn lại, tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Phiền não cấu sáu não

Hại, hận, siểm, cuống, kiêu

Cuống, kiêu từ tham sinh

Hại, hận từ sân khởi

Não từ kiến thủ khởi

Siểm từ các kiến sinh.

Luận nói: Đối với sự việc đáng chê trách, quyết định chấp chặt khó khiến bỏ nhân, gọi là não.

Do có não này nên thế gian nói là không thể dẫn dắt. Chấp những điều ác, đối với các hữu tình khác đã chấp không phải hoàn toàn không đoái nghĩ để thâu nhận lần nữa. Vì là nhân tổn não, tâm bi bị não chướng ngại, gọi là hại.

Đối với tướng phi ái, tùy miên phân biệt, sinh phẫn nối tiếp. Về sau khởi tâm kết oán, gọi là hận.

Đối với sự tình của chính mình, dùng phương tiện để che giấu. Giả vờ bày ra mưu mô, dụ dỗ lấy tình của người khác, tâm quanh co cùng trái với thật trí, gọi là siểm.

Đối với danh lợi v.v… tham là trước tiên. Muốn khiến người khác mê lầm, thị hiện nhân tà, cùng trái với chánh định tâm hiểm ác, gọi là cuống.

Tướng của tâm hiểm ác, tâm quanh co có sai biệt. Nghĩa là như đường đi, như cây gậy ở nơi người khác, ở nơi mình, nhân nơi tham, nhân nơi kiến nên có sai biệt. Tướng của kiêu, như trước đã phân biệt đủ.

Có Sư khác cho: Từ tham sinh. Như cậy mình tuổi trẻ, không có bệnh. Các sự việc hưng thịnh như sống lâu v.v…, tâm khởi ngạo mạn, gọi là kiêu.

Có Sư khác nói: Đối với các hành hưng thịnh của phần tự cùng nối tiếp, đắm nhiễm là đứng đầu, không hề quan tâm đến người khác, cho mình là hơn hẳn, tâm tự ỷ thị đề cao, gọi là kiêu. Do không hề quan tâm đến người khác, nên so với mạn có khác.

Sáu thứ như thế từ phiền não sinh. Tướng ô uế thô hiện bày, gọi là phiền não cấu.

Ở trong sáu thứ phiền não cấu này, thì cuống và kiêu là đẳng lưu của tham. Hại, hận là đẳng lưu của sân. Não là đẳng lưu của kiến thủ. Siểm là đẳng lưu của các kiến. Như nói A khúc, nghĩa là các ác kiến. Nên siểm nhất định là đẳng lưu của các kiến.

Sáu thứ này cũng từ phiền não sinh, như triền cũng được mang tên tùy phiền não.

Đã nói về các triền và phiền não cấu. Nay tiếp theo nên biện về đối trị đoạn các thứ kia. Trong các triền cấu thì dùng gì để đoạn? Tụng nêu:

Triền, không hổ thẹn, miên

Hôn, trạo, kiến, tu đoạn

Còn và phiền não cấu

Tự tại nên chỉ tu.

Luận nói: Lại, trong mười triền thì không hổ, không thẹn là chung với tất cả tâm bất thiện đều cùng có.

Miên trong cõi dục thì chung với tất cả ý thức đều cùng khởi.

Hôn trầm, trạo cử thì chung với tất cả tâm nhiễm ô đều cùng có.

Nên năm triền ấy đều chung do kiến đạo, tu đạo đoạn. Tật, xan, hối, phẫn, phú còn lại và cấu, vì tự tại khởi, nên chỉ do tu đạo đoạn. Chỉ cùng với vô minh của tha lực do tu đạo đoạn cùng tương ưng, nên gọi là tự tại khởi. Cùng với các triền cấu tự tại khởi tương ưng với vô minh hiện có, nên chỉ do tu đạo đoạn.

Các triền cấu này thì những thứ nào chung nơi tánh nào?

Tụng nêu:

Dục ba, hai, khác ác

Cõi trên đều vô ký.

Luận nói: Ba thứ miên, hối, trạo cử, hệ thuộc cõi dục, đều chung nơi hai tánh bất thiện, vô ký. Tất cả các thứ còn lại đều chỉ là bất thiện. Tức bảy triền, sáu cấu hệ thuộc cõi dục. Trong hai cõi trên tùy chỗ ứng hợp hiện có tất cả chỉ là thuộc về tánh vô ký. Tức siểm, cuống, kiêu, hôn trầm, trạo cử.

Những triền cấu này, thứ nào hệ thuộc cõi nào?

Tụng nêu:

Siểm, cuống dục định đầu

Ba ba cõi khác dục.

Luận nói: Siểm, cuống chỉ ở nơi cõi dục và định đầu. Vì sao nhận biết nơi trời Phạm Thế có siểm, cuống?

Do Đại Phạm vương đã che giấu sự tình của mình, hiện bày tướng lừa dối mê hoặc. Bí-sô Mã Thắng nghe truyền cho đây chỉ là phàm phu khởi, không phải các Thánh giả cũng có thể hiện tiền. Ba thứ hôn trầm, trạo cử, kiêu thì hệ thuộc chung nơi ba cõi. Tất cả các thứ còn lại đều chỉ ở nơi cõi dục. Nghĩa là năm trong mười sáu thứ, như trước đã biện. Mười một thứ còn lại chỉ hệ thuộc cõi dục.

Đã nêu bày về tùy miên và tùy phiền não. Trong đó, có bao nhiêu thứ chỉ dựa vào ý địa? Có bao nhiêu thứ dựa chung nơi địa của sáu thức khởi? Tụng nêu:

Mạn, miên do kiến đoạn

Tùy phiền não tự tại

Đều chỉ ý địa khởi

Khác, dựa chung sáu thức.

Luận nói: Tất cả mạn, miên do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn và trong tùy phiền não tự tại khởi. Ba thứ như thế đều dựa nơi ý thức, vì dựa vào năm thức thân thì không cùng khởi. Tất cả các thứ còn lại đều dựa chung nơi sáu thức. Nghĩa là tham, sân vô minh do tu đạo đoạn và các tùy phiền não tương ưng với ba thứ kia. Tức không hổ, không thẹn, hôn, trạo và các tùy phiền não thuộc về pháp đại phiền não địa còn lại. Tức là phóng dật, biếng trễ, bất tín. Vì dựa vào sáu thức thân đều cùng khởi, về lý nên nói chung là các tùy phiền não.

Nay ở đây lại dựa vào thô hiển để nói. Lại, nên xét chọn. Như trước đã biện về đối trị căn của năm thọ như lạc v.v… Trong đây đã biện về tất cả phiền não, tùy phiền não.

Phiền não nào v.v… tương ưng với căn nào? Trước nên biện về các phiền não. Tụng nêu:

Các phiền não cõi dục

Tương ưng tham, hỷ, lạc

 Sân, ưu, khổ, si khắp

Tà kiến, ưu và hỷ.

Nghi, ưu, năm hỷ khác

Tương ưng tất cả xả

Địa trên đều tùy ứng

Các thọ tự thức khắp.

Luận nói: Trong các phiền não hệ thuộc nơi cõi dục, thì tương ưng với tham, hỷ, lạc, do hành vui mừng chuyển khắp nơi sáu thức. Tương ưng với sân, ưu, khổ, do hành buồn bã chuyển khắp nơi sáu thức. Tương ưng với vô minh cùng với khắp nơi bốn thọ trước. Vì hành vui buồn chuyển khắp nơi sáu thức, vì tương ưng khắp cùng với phiền não khác. Tương ưng với tà kiến chung với ưu, hỷ, vì hành vui buồn chuyển chỉ ở nơi ý địa. Như thứ lớp trước đã tạo nghiệp tội, phước. Tương ưng với nghi, ưu, do hành buồn bã chuyển chỉ ở nơi ý địa.

Kẻ mang giữ do dự, cầu nhận biết quyết định vì tâm sầu buồn. Bốn kiến, mạn còn lại tương ưng với hỷ, do hành vui chuyển chỉ ở nơi ý địa. Nói chung đều cùng với xả thọ tương ưng, do nói xả thọ vì si nên tùy tăng, tức si tương ưng khắp với các Hoặc. Các phiền não cùng nối tiếp khi đến cứu cánh, nhận lấy dục của cảnh quá hoãn khởi xứ trung, dần dần suy kém thì cùng nối tiếp liền dứt. Bấy giờ, phiền não cùng với xả thuận nhau, thế nên đều cùng với xả thọ tương ưng.

Há không phải là xả căn, là không phải vui, không phải buồn. Vì sao tương ưng với phiền não vui buồn? Vì như người ở giữa nên đều cùng không trái nhau.

Cõi dục đã như thế, địa trên thì thế nào?

Đều tùy theo đối tượng ứng hợp khắp cùng với tự địa, tự thức đều cùng khởi, tương ưng với các thọ. Nghĩa là nếu trong địa có đủ bốn thức, thì nơi mỗi mỗi thức kia đã khởi phiền não đều hiện có khắp ở tự thức tương ưng với các thọ. Nếu trong các địa chỉ có ý thức, tức ý thức kia đã khởi phiền não, hiện có khắp cùng với ý thức, tương ưng với các thọ.

Trong các địa trên, thức có ít nhiều. Nghĩa là nơi tĩnh lự đầu đủ bốn. Số còn lại chỉ một. Thọ cũng có ít nhiều. Nghĩa là nơi một hai ba bốn, như thứ lớp đủ hỷ, lạc, xả, hỷ xả, lạc xả. Chỉ xả nên biết, tùy theo phiền não hiện có trong các địa, như chỗ ứng hợp cùng tương ưng với thọ của thức kia.

Do đâu hai nghi đều cùng không quyết định, nhưng ở trên được cùng với hỷ lạc tương ưng? Không phải nghi, hỷ thọ của cõi dục đều cùng khởi. Do các phiền não ở nơi địa lìa dục, tuy không quyết định, cũng không lo buồn. Tuy ôm giữ lưới nghi, nhưng không bỏ tình vui vẻ. Như ở nơi nhân gian mong cầu được chỗ yêu thích, tuy gặp nhiều nhọc mệt, nhưng vẫn sinh tưởng vui.

Có thuyết nói: Cõi sắc tuy còn hoài nghi, nhưng ở trong nghi đã sinh khởi tưởng về phẩm thiện, nên nghi kia được cùng với hỷ lạc tương ưng.

HẾT – QUYỂN 27