LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 19

Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 2

Như trên đã nói: Do sức của đẳng khởi, nên hai nghiệp thân ngữ thành thiện, bất thiện.

Vậy đẳng khởi có bao nhiêu thứ? Sức của đẳng khởi nào khiến cho hai nghiệp thân ngữ thành thiện, bất thiện? Đẳng khởi cùng đối chiếu có sai biệt như thế nào?

Tụng nêu:

Đẳng khởi có hai thứ

Nhân và sát-na kia

Như thứ lớp nên biết

Gọi chuyển, gọi tùy chuyển.

Kiến đoạn, thức chỉ chuyển

Chỉ tùy chuyển năm thức

Tu đoạn, ý chung hai

Cùng phi, do tu thành.

Nơi chuyển tánh như thiện

Tùy chuyển đều cùng ba

Mâu-ni thiện tất đồng

Vô ký tùy hoặc thiện.

Luận nói: Đẳng khởi của hai nghiệp thân ngữ có hai. Nghĩa là đẳng khởi của nhân và đẳng khởi của sát-na. Vì ở trước làm nhân, nên sát-na kia có. Như thứ lớp đầu gọi là chuyển. Thứ hai gọi là tùy chuyển. Nghĩa là đẳng khởi của nhân khi sắp tạo nghiệp, khởi tư duy này: Ta nay sẽ tạo tác các nghiệp đã ứng hợp như thế, như thế, vì có thể dẫn phát, nên gọi là chuyển.

Đẳng khởi của sát-na là khi đang tạo nghiệp, cùng với tâm chuyển trước đã dẫn phát nghiệp. Vì đều cùng thời hành, nên gọi là tùy chuyển. Nếu không có tùy chuyển, thì tuy có nhân trước làm chủ thể dẫn phát. Như nơi phần vị không tâm, hoặc như tử thi, biểu tức nên không chuyển. Tùy chuyển đối với biểu có công năng chuyển. Vô biểu thì không dựa vào tùy chuyển mà chuyển, vì không tâm cũng có vô biểu chuyển.

Như trên đã nói: Hoặc do kiến đạo đoạn, vì theo môn nội chuyển, nên không thể phát khởi biểu.

Nếu như vậy thì do đâu Đức Bạc-già-phạm nói: Do tà kiến nên khởi tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp và tà mạng v.v…

Điều này không trái nhau. Vì thức của kiến đạo đoạn, ở nơi phát khởi biểu nghiệp, chỉ có thể làm chuyển, ở trong khả năng phát khởi biểu tầm, tứ sinh, vì làm tư lương, nên không làm tùy chuyển. Nơi lúc tâm của môn ngoài đang khởi nghiệp, vì ở đây không có, do đấy nên nói là tâm của kiến đạo đoạn, làm đẳng khởi của nhân, phát ra nghiệp thân ngữ, quyết định không thể làm đẳng khởi của sát-na. Thức của kiến đạo đoạn tuy có thể suy xét nhưng không có công năng cử động thân, phát sinh ngữ, nhưng ở trong động tác phát khởi một biểu nghiệp, là cùng có nhiều tâm lường xét, phát động. Chỉ một niệm sau cùng với biểu đều cùng hành. Khác với biểu này, tức nên không phải là tánh sát-na. Thức của kiến đạo đoạn tuy có thể làm chuyển phát khởi hữu biểu nghiệp, nhưng không phải biểu nghiệp ở sau thức này vô gián tức sinh. Tâm theo môn trong chuyển, không thể dẫn khởi thức cùng với thân ngữ biểu đều cùng hành. Nếu khác với thân, ngữ biểu này thì tâm của kiến đạo đoạn cũng nên ở nơi biểu nghiệp làm đẳng khởi của sát-na. Vì ý thức gia hạnh của tu đạo đoạn có khả năng vô gián dẫn biểu, nên tâm đều cùng hành, cũng cùng với biểu đều cùng hành làm đẳng khởi của sát-na.

Nên do kiến đạo đoạn, tuy có thể làm nhân dẫn các biểu nghiệp. Nhưng lìa tâm đẳng khởi của nhân thì biểu đều cùng hành không cùng được khởi. Thế nên ở cõi dục không có biểu nghiệp hữu phú vô ký. Nhưng trong Khế kinh chỉ căn cứ theo chỗ lần lượt làm đẳng khởi của nhân, mật ý nói: Do tà kiến nên khởi tà ngữ v.v… A-tỳ-đạt-ma thì căn cứ nơi kinh kia, cho là không thể vô gián dẫn sinh thức của biểu đều cùng hành, nên mật ý nói: Tâm của kiến đạo đoạn, vì theo môn trong chuyển, nên không thể phát khởi biểu. Thế nên kinh luận về lý là không trái nhau. Lại do kiến đạo đoạn, nếu phát khởi biểu sắc, thì sắc này tức nên là sắc do kiến đạo đoạn, không phải trước kiến đạo đoạn đã thành lập. Nếu năm thức thân chỉ làm tùy chuyển, vì không phân biệt, vì theo môn ngoài chuyển, thì ý thức của tu đạo đoạn có chung hai thứ: Vì có phân biệt, vì theo môn ngoài chuyển, do đấy nên thành bốn trường hợp phân biệt:

1. Có chuyển không phải là tùy chuyển: Nghĩa là tâm của kiến đạo đoạn.

2. Có tùy chuyển không phải là chuyển: Nghĩa là năm thức như nhãn v.v…

3. Có chuyển cũng là tùy chuyển: Nghĩa là một phần ý thức của tu đạo đoạn.

4. Có không phải chuyển cũng không phải tùy chuyển: Nghĩa là tất cả thức còn lại do tu tạo thành. Do tu tạo thành là không phân biệt, nên thức của dị thục sinh cũng là tùy chuyển. Như nơi Luận Thuận Chánh Lý đã thành lập nghĩa này.

Tánh thức của chuyển, tùy chuyển tất là đồng chăng?

Không phải vậy. Vì sao?

Nghĩa là thức của chuyển trước, nếu là tánh thiện, thì thức của tùy chuyển sau là chung cho ba tánh như thiện v.v… Bất thiện, vô ký làm chuyển cũng như vậy. Chỉ thức của chuyển, tùy chuyển nơi Mâu Ni Tôn phần nhiều là đồng tánh, ít có không đồng. Nghĩa là tâm chuyển nếu thiện thì tùy chuyển cũng thiện. Tâm chuyển nếu vô ký thì tùy chuyển cũng như vậy. Đối với sát-na nối tiếp nhất định không có mê lầm. Nhưng hoặc có phần vị thiện tùy theo vô ký chuyển, từng không có lúc nào vô ký tùy theo thiện chuyển. Do Đức Phật Thế Tôn đối với pháp thuyết giảng v.v…, tâm hoặc tăng trưởng, không hề khô kiệt.

Đã nói chuyển, tùy chuyển như thiện v.v… đều có ba. Căn cứ trong phần nêu lên giải thích này, đủ để minh chứng, các nghiệp đã phát khởi thành thiện, ác v.v…, là tùy theo đẳng khởi của nhân, không phải tùy theo sát-na. Vì khác với tâm thiện này đã dẫn phát nghiệp, đã cùng với tâm bất thiện vô ký đều cùng có.

Lý nào có thể ngăn chận thành ác, vô ký?

Tức là nên có từ tư duy riêng làm nhân dẫn sinh nghiệp của loại tánh riêng.

Như vậy, người siêng năng gắng sức muốn làm thiện, trái lại là có nghiệp bất thiện, vô ký sinh.

Hoặc chỗ cùng trái này liền trái với chánh lý, nên nghiệp thành thiện v.v…, nhất định do sức của chuyển, không phải do sức của tùy chuyển, lý ấy là khéo thành. Nhưng tùy theo các tâm định vô biểu nghiệp cùng với tâm đều cùng thời khởi một quả. Do sức của tùy chuyển khiến tánh thiện được thành, quyết định hệ thuộc tâm này nên được sinh.

Biện về địa, cõi của nghiệp, luận thêm đã trọn. Lại nên biện về tướng của biểu, vô biểu ở trước. Tụng nêu:

Vô biểu: Ba luật nghi

Không luật nghi, không hai.

Luận nói: Nên biết vô biểu lược nêu có ba: (1) Luật nghi. (2) Không luật nghi. (3) Không phải hai.

Không phải hai, nghĩa là không phải là luật nghi, không phải là không luật nghi (phi luật nghi phi bất luật nghi). \/ì khả năng ngăn chận, khả năng diệt trừ giới ác cùng nối tiếp, nên gọi là luật nghi.

Luật nghi như thế có sai biệt là có bao nhiêu thứ?

Tụng nêu:

Luật nghi biệt giải thoát

Tĩnh lự và đạo sinh.

Luật nghi có sai biệt lược có ba thứ: (1) Luật nghi biệt giải thoát: Nghĩa là giới của cõi dục. (2) Luật nghi tĩnh lự sinh: Nghĩa là giới của cõi sắc. (3) Luật nghi đạo sinh: Nghĩa là giới vô lậu.

Tướng của luật nghi thứ nhất có sai biệt như thế nào?

Tụng nêu:

Luật nghi đầu, tám thứ

Thể thật chỉ có bốn

Vì hình chuyển danh khác

Đều riêng không trái nhau.

Luận nói: Tướng của luật nghi biệt giải thoát sai biệt có tám:

(1) Luật nghi Bí-sô. (2) Luật nghi Bí-sô ni. (3) Luật nghi Chánh học. (4) Luật nghi Cần sách. (5) Luật nghi Cần sách nữ. (6) Luật nghi Cận sự. (7) Luật nghi Cận sự nữ. (8) Luật nghi Cận trụ.

Tướng của tám thứ luật nghi như thế có sai biệt, gọi là chung là luật nghi biệt giải thoát thứ nhất.

Trong đây, dựa vào Bổ-đặc-già-la có thể tu lìa hành ác cùng lìa hành dục để an lập năm luật nghi trước có sai biệt. Do loại Bổ-đặcgià-la như thế, cho đến mạng chung, có thể lìa bỏ các hành ác như sát sinh v.v… và có thể xa lìa phi phạm hạnh. Tiếp theo lại dựa vào Bổ-đặc-già-la có thể tu lìa hành ác không phải lìa hạnh dục để an lập luật nghi có sai biệt của hai chúng tại gia nơi suốt đời.

Do loại Bổ-đặc-già-la như thế, cho đến mạng chung, có thể lìa các hành ác như sát sinh v.v…, không thể xa lìa phi phạm hạnh. Do đó, trong kinh chỉ nói thế này: Lìa hành tà dục, không phải là phi phạm hạnh. Sau đó, lại dựa vào Bổ-đặc-già-la có thể tu tập không phải hoàn toàn lìa hành ác, hành dục, để an lập luật nghi có sai biệt trong một ngày một đêm của hàng tại gia.

Vì loại Bổ-đặc-già-la như thế, không thể hoàn toàn lìa hành ác, các dục, vì khiến tu tập dần sự việc hoàn toàn lìa hành ác và các dục nên hành theo phương tiện để trụ. Danh tuy có tám, nhưng thật thể chỉ có bốn: (1) Luật nghi Bí-sô. (2) Luật nghi Cần sách. (3) Luật nghi Cận sự. (4) Luật nghi Cận trụ.

Chỉ bốn thứ luật nghi biệt giải thoát này đều có thật thể, tướng đều riêng. Vì sao? Vì lìa luật nghi Bí-sô thì không có luật nghi Bí-sô-ni riêng. Lìa luật nghi cần sách thì không có luật nghi cần sách nữ, chánh học riêng. Lìa luật nghi cận sự thì không có luật nghi cận sự nữ riêng.

Vì sao nhận biết như thế?

Do hình đổi thể chuyển, tuy không xả đắc, nhưng danh có khác. Hình, nghĩa là hình tướng, tức căn nam, nữ. Do hai căn này, nên hình tướng nam, nữ riêng khác. Chỉ do chuyển hình, khiến các luật nghi được gọi là Bí-sô, Bí-sô-ni v.v… Nghĩa là phần vị căn chuyển khiến luật nghi Bí-sô gốc, gọi là luật nghi Bí-sô-ni. Hoặc luật nghi Bí-sô-ni gọi là luật nghi Bí-sô. Khiến luật nghi Cần sách gốc gọi là luật nghi Cần sách nữ. Hoặc luật nghi Cần sách nữ và luật nghi Chánh học gọi là luật nghi Cần sách. Khiến luật nghi Cận sự gốc gọi là luật nghi Cận sự nữ. Hoặc luật nghi Cận sự nữ gọi là luật nghi Cận sự. Không phải phần vị căn chuyển có nhân duyên xả luật nghi trước được, đạt được luật nghi trước chưa được. Nên bốn luật nghi không phải khác với ba thể. Nếu từ luật nghi Cận sự thọ luật nghi Cần sách, lại từ luật nghi Cần sách thọ luật nghi Bí-sô, thì ba luật nghi này là do thêm đủ phương tiện xa lìa để lập riêng tên riêng. Như một đồng hai đồng vàng và năm, mười, hai mươi làm thể, đều đầy đủ riêng lập tức sinh. Thể của ba thứ luật nghi không lìa nhau, tướng của chúng đều riêng, đầy đủ tức khắc sinh.

Trong ba luật nghi gồm đủ ba lìa sát. Mỗi mỗi lìa sát, thể của chúng đều khác. Số còn lại tùy theo đối tượng ứng hợp, nên biết cũng như vậy.

Do nhân duyên riêng nên thể không đồng. Như như cầu thọ nhiều thứ học xứ.

Như thế, như thế có thể lìa nhiều thứ: Tòa, giường cao rộng, uống các thứ rượu v.v…, thời gian, ở nơi xứ kiêu mạn, phóng dật, tức lìa rất nhiều các thứ duyên khởi như sát v.v… Do các thứ xa lìa là dựa nơi nhân duyên phát khởi, nên nhân duyên riêng biệt thì xa lìa có khác. Nếu không có sự việc này, thì xả luật nghi Bí-sô, bấy giờ tức nên ba luật nghi đều xả. Hai luật nghi trước gồm thâu ở trong một luật nghi sau.

Đã không thừa nhận như vậy, nên cả ba luật nghi đều riêng khác. Nhưng ba thứ này đều cùng không trái nhau, ở trong một thân đều cùng thời mà chuyển. Không phải do sau khi thọ xả luật nghi trước. Chớ cho xả giới Bí-sô, liền không phải là cận sự v.v…, vì trước đã xả hai luật nghi kia.

Bốn thứ luật nghi: Cận sự, Cận trụ, Cần sách, Bí-sô được an lập như thế nào?

Tụng nêu:

Thọ lìa năm, tám, mười

Tất cả chỗ nên lìa

Lập Cận sự, Cận trụ

Cần sách cùng Bí-sô.

Luận nói: Nên biết trong đây như số thứ lớp, dựa vào bốn thứ xa lìa để lập bốn luật nghi. Nghĩa là thọ lìa năm pháp nên lìa thì kiến lập luật nghi thứ nhất là Cận sự. Những gì là năm pháp nên lìa? Đó là: (1) Sát sinh. (2) Không cho mà lấy. (3) Hành dục tà. (4) Nói lời lừa dối. (5) Uống các thứ rượu.

Nếu thọ lìa tám pháp nên lìa thì kiến lập luật nghi thứ hai là Cận trụ. Tám pháp nên lìa đó là: (1) Sát sinh. (2) Không cho mà lấy. (3) Phi phạm hạnh. (4) Nói lời lừa dối. (5) Uống các thứ rượu. (6) Xoa, trang sức hương, tràng hoa, xem nghe múa ca. (7) Ngồi nằm tòa giường cao rộng đẹp đẽ. (8) Ăn thức ăn phi thời.

Nếu thọ lìa mười pháp nên lìa thì kiến lập luật nghi thứ ba là Cần sách. Những gì là mười pháp nên lìa? Nghĩa là nơi tám pháp trước thì xoa hương, đeo tràng hoa, xem nghe múa ca, được phân làm hai thứ. Lại thêm thọ chứa các báu như vàng, bạc v.v… là thành thứ mười. Vì đối với các hữu tình tại gia có thể dẫn sinh sợ hãi về rất nhiều học xứ, lại nhằm hiển bày để dễ thọ trì, nên ở nơi tám giới đã hợp hai làm một. Như Đức Phật đã vì Lật Thị Tử lược nói học xứ có ba.

Nếu thọ lìa tất cả nghiệp thân ngữ nên lìa, kiến lập luật nghi thứ tư là Bí-sô. Các danh xưng có sai biệt của luật nghi biệt giải thoát là gì? Tụng nêu:

Cùng được tên Thi la

Luật nghi nghiệp hành diệu

Chỉ đầu biểu, vô biểu.

Gọi riêng giải nghiệp đạo.

Luận nói: Do trong mát nên gọi là Thi la. Trong đây Thi la là nghĩa bình trị. Vì giới có thể bình trị nghiệp hiểm ác, nên được danh xưng Thi la. Vì được người trí xưng dương, nên gọi là hành diệu. Hoặc tu hành Thi la này thì được quả đáng yêu thích. Vì là tự thể của đối tượng tạo tác, nên gọi là nghiệp, cũng gọi là luật nghi, như trước đã giải thích.

Như thế nên biết, giới biệt giải thoát là chung cho phần vị đầu, sau không có tên gọi sai biệt. Chỉ biểu và vô biểu của sát-na đầu tiên thì được mang tên biệt giải thoát và nghiệp đạo. Nghĩa là lúc thọ giới, thì biểu vô biểu đầu tiên đã riêng từ bỏ vô số thứ ác, nên dựa nơi nghĩa xả riêng đầu tiên, lập tên gọi biệt giải thoát. Hoặc vì đầu tiên đã nên tu tập, nên gọi là biệt giải thoát. Hoặc hành giả kia đầu tiên đã khởi khả năng tối thắng để vượt qua như nơi ngục hiểm nẻo ác, nên gọi là biệt giải thoát. Tức biểu cùng với vô biểu của sát-na đầu tiên, cũng được gọi là nghiệp đạo căn bản. Đầu tiên vì để phòng giữ thân ngữ, nên thông hợp tư nghiệp. Từ niệm thứ hai cho đến chưa xả, thì không gọi là biệt giải thoát mà gọi là luật nghi biệt giải. Không gọi là nghiệp đạo, chỉ gọi là hậu khởi.

Đã biện về sự an lập luật nghi có sai biệt. Sẽ biện về luật nghi thành tựu có sai biệt. Những người nào thành tựu những luật nghi nào?

Tụng nêu:

Tám thành biệt giải thoát

Thánh giả được tĩnh lự

Thành tĩnh lự đạo sinh

Hai sau tùy tâm chuyển.

Luận nói: Tám chúng đều thành tựu luật nghi biệt giải thoát. Nghĩa là từ Bí-sô cho đến Cận trụ. Tĩnh lự sinh: Nghĩa là luật nghi này do từ hoặc dựa vào tĩnh lự sinh. Nếu người được tĩnh lự thì nhất định thành tựu luật nghi này. Quyến thuộc của tĩnh lự cũng gọi là tĩnh lự. Luật nghi đạo sinh thì Thánh giả đều thành tựu luật nghi này. Lại hai thứ, nghĩa là học và vô học. Ở trong ba luật nghi đã nói nơi trước, thì tĩnh lự đạo sinh, tùy tâm mà chuyển, không phải là biệt giải thoát. Vì sao? Vì tâm khác và không tâm cũng luôn chuyển. Hai thứ luật nghi tĩnh lự vô lậu cũng gọi là luật nghi đoạn.

Dựa nơi phần vị nào để kiến lập? Tụng nêu:

Vị chí, chín vô gián

Câu sinh hai, gọi đoạn.

Luận nói: Trong định vị chí thì chín đạo vô gián đều cùng sinh luật nghi tĩnh lự vô lậu. Do có khả năng vĩnh viễn đoạn trừ giới ác cùng có thể dấy khởi Hoặc của triền dục, nên gọi là luật nghi đoạn, vì chỉ trong định vị chí có đối trị đoạn. Do đấy, chỉ gồm thâu chín đạo vô gián. Trong đây, Thi la vì diệt trừ giới ác, do đấy hoặc có luật nghi tĩnh lự, không phải là luật nghi đoạn. Nên tạo ra bốn trường hợp: (1) Là trừ chín đạo vô gián của định vị chí, còn lại là luật nghi tĩnh lự hữu lậu. (2) Là luật nghi vô lậu dựa nơi chín đạo vô gián của định vị chí. (3) Là luật nghi hữu lậu dựa nơi chín đạo vô gián của định vị chí. (4) Là trừ chín đạo vô gián của định vị chí, còn lại là tất cả luật nghi vô lậu.

Như vậy, hoặc có luật nghi vô lậu, không phải là luật nghi đoạn. Nên tạo ra bốn trường hợp. Nghĩa là theo thứ tự trái ngược với bốn trường hợp trước, nên biết.

Như vậy nên Đức Thế Tôn đã lược nói về giới. Tụng nói:

Lành thay! Luật nghi thân

Lành thay! Luật nghi ngữ

Lành thay! Luật nghi ý

Lành thay! Luật nghi khắp.

Lại, Khế kinh nói: Nên khéo giữ gìn. Nên khéo an trụ nơi luật nghi nhãn căn.

Luật nghi ý căn này dùng gì làm tự tánh?

Tự tánh của luật nghi này có hai, không phải là vô biểu sắc.

Như vậy là thế nào?

Tụng nêu:

Chánh tri chánh niệm hợp

Gọi luật nghi ý căn.

Luận nói: Luật nghi ý căn, mỗi mỗi đều dùng chánh tri, chánh niệm hợp làm tự thể. Nên Khế kinh nói: Mắt thấy sắc xong, không mừng, không lo, luôn an trụ nơi xả, chánh tri, chánh niệm. Như vậy cho đến ý nhận biết rõ về pháp rồi, nêu ra danh riêng xong, lại nói chữ hợp. Ngăn chận, nghĩa là hai luật nghi, như thứ lớp dùng hai thứ làm thể. Nay nên xét chọn về biểu và vô biểu.

Những người nào thành tựu tới mức độ nào? Thời phần nào? Lại biện về phần thành luật nghi, bất luật nghi vô biểu.

Tụng nêu:

Trụ biệt giải vô biểu

Chưa xả luôn thành hiện

Sau sát-na thành quá

Không luật nghi cũng vậy.

Được luật nghi tĩnh lự

Nhiều luôn thành quá, vị

Thánh đầu trừ quá khứ

Nhập trong định đạo thành.

Luận nói: Bổ-đặc-già-la trụ nơi biệt giải thoát, từ sát-na đầu tiên cho đến chưa gặp các duyên xả giới như xả học xứ v.v…, thì luôn thành đời hiện tại. Vô biểu của luật nghi biệt giải thoát này, sau sát-na đầu tiên cũng thành quá khứ. Nói chưa xả trước là truyền khắp đến sau. Như nói an trụ nơi luật nghi biệt giải, thì trụ nơi không luật nghi nên biết cũng như vậy. Nghĩa là từ niệm ban đầu cho đến chưa gặp duyên xả giới ác như thọ luật nghi v.v…, luôn thành đời hiện tại. Vô biểu của giới ác, sau sát-na đầu tiên cũng thành quá khứ. Các hữu tình đạt được luật nghi tĩnh lự, cho đến chưa xả tiếp theo, phần nhiều luôn thành quá khứ, vị lai. Đời trước đã mất luật nghi định của quá khứ.

Nay nơi sát-na đầu tiên, tất trở lại được luật nghi kia, do luật nghi định là thuộc về thuận phần quyết trạch. Trong sát-na đầu tiên, không thành quá khứ. Đời khác đã được khi mạng chung thì xả. Đời hiện nay không cùng được lần nữa pháp kia. Vì phân biệt với pháp ấy, nên nói chữ phần nhiều.

Luật nghi vô lậu thì tất cả Thánh giả phần nhiều thành quá khứ, vị lai, chỉ sát-na đầu tiên là không thành quá khứ. Vì loại Thánh đạo này trước kia chưa sinh. Xưa từng chưa được, nay mới vừa được, nên gọi là đầu tiên. Trước được rồi mất, nay khi khi được cũng được quá khứ.

Đã từng sinh là sau sát-na đầu tiên cho đến chưa xả, cũng thành quá khứ, thành tựu vị lai. Cho đến chưa bát Niết-bàn vô dư. Nếu nhập tĩnh lự và đạo vô lậu, thì như thứ lớp thành luật nghi tĩnh lự đạo của hiện tại, không phải khi xuất quán có thành hiện tại. Vô biểu của định đạo tùy tâm chuyển. Tâm tán hiện tiền, tất không có vô biểu của định đạo kia.

Đã biện về phần an trụ nơi luật nghi thiện, ác. Trụ nơi giữa thì thế nào?

Tụng nêu:

Trụ trong có vô biểu

Đầu thành giữa, sau hai.

Luận nói: Nói trụ nơi giữa, nghĩa là phi luật nghi phi bất luật nghi. Nghiệp kia đã khởi không hẳn tất cả đều có vô biểu. Nếu có vô biểu tức là giới thiện. Hoặc là thuộc về chủng loại của giới ác. Hoặc không phải hai loại. Sát-na đầu liên kia chỉ thành đời giữa, nghĩa là thành hiện tại. Đây là ở giữa của quá khứ, vị lai. Sau sát-na đầu tiên chưa xả đến nay, luôn thành quá khứ, hiện lại.

Vô biểu của hai đời nếu có an trụ nơi luật nghi, không luật nghi, thì cũng có thành vô biểu thiện, ác không? Nếu như có thành thì trải qua thời gian bao lâu?

Tụng nêu:

Trụ luật, không luật nghi

Khởi vô biểu nhiễm, tịnh

Đầu thành giữa, sau hai

Đến thế nhiễm, tịnh trọn.

Luận nói: Nếu trụ nơi luật nghi, vì phiền não vượt hơn đã tạo các nghiệp bất thiện như sát sinh, trói buộc v.v…, do đó phát khởi vô biểu bất thiện. Trụ nơi không luật nghi, do tín tịnh thuần nhất, tạo các nghiệp thiện thù thắng như lễ Phật v.v…, do đấy cũng phát khởi các vô biểu thiện. Cho đến hai tâm này chưa đoạn đến nay, vô biểu đã phát luôn luôn cùng nối tiếp, nhưng nơi niệm đầu tiên kia chỉ thành hiện tại. Niệm thứ hai v.v… thì thành chung quá khứ, hiện tại.

Đã biện về thành tựu vô biểu. Thành tựu biểu nghiệp thì thế nào?

Tụng nêu:

Biểu đang tạo thành giữa

Sau thành quá, phi vị

Hữu phú cùng vô phú

Chỉ thành tựu hiện tại.

Luận nói: Tất cả an trụ nơi luật nghi, không luật nghi và trụ ở giữa, cho đến đang tạo tác các biểu nghiệp đến nay, luôn thành hiện tại. Biểu kia sau sát-na đầu tiên cho đến chưa xả tới nay, luôn thành quá khứ, tất không thành tựu biểu vị lai, là tâm không tùy thuận sắc, vì uy thế yếu kém. Các vô biểu tán cũng đồng với giải thích này.

Hữu phú vô phú cũng là biểu vô ký, nhất định không có khả năng thành tựu quá khứ, vị lai. Vì sức của pháp yếu kém, nên chỉ có thể dẫn khởi pháp đều cùng có hành đắc. Do sức của đắc thua kém, nên không thể dẫn sinh tự loại cùng nối tiếp. Pháp có thể diệt rồi, đuổi theo đắc, nói là thành, cũng không có công năng nghịch với pháp nên đắc.

Há không phải là biểu này, như tâm có thể khởi, cũng tức nên có thành đời quá khứ, vị lai, vì sức của biểu ấy thì yếu kém.

Do biểu kia yếu kém, nên vấn nạn này là phi lý. Vì đối tượng phát khởi thì yếu kém so với tâm của chủ thể phát khởi. Sở dĩ như vậy vì như tâm vô ký là chủ thể phát khởi biểu nghiệp, nên biểu nghiệp của đối tượng phát khởi, vì không sinh vô biểu, nên biết đối tượng phát khởi là yếu kém so với tâm của chủ thể phát khởi.

Như danh xưng luật nghi đã có sai biệt, thì danh hiệu bất luật nghi cũng có dị biệt chăng?

Cũng có. Vì sao?

Tụng nêu:

Hành ác, nghiệp giới ác

Nghiệp đạo không luật nghi.

Luận nói: Năm thứ tên khác như hành ác này là danh xưng không luật nghi có sai biệt. Là điều khiến các người trí đã chê trách, nhàm chán. Vì là quả phi ái, nên lập tên hành ác. Vì chướng ngại Thi la thanh tịnh, nên gọi là giới ác. Vì là đối tượng tạo tác của thân ngữ, nên gọi là nghiệp. Vì thuộc căn bản có thể thông hợp nơi nghiệp. Vì là con đường du hành của tư nghiệp, nên gọi là nghiệp đạo. Do thân ngữ bất tịnh nên gọi là không luật nghi. Nhưng danh xưng nghiệp đạo chỉ nói về niệm đầu tiên, chung nơi phần vị trước sau để lập bốn danh xưng còn lại. Nay nên xét chọn.

Nếu đã thành tựu biểu thì cũng thành tựu vô biểu chăng?

Nên tạo ra bốn trường hợp. Tụng nêu:

Thành biểu phi vô biểu

Trụ giữa kém tự tạo

Xả chưa sinh biểu định

Thành vô biểu, phi biểu.

Luận nói: Chỉ thành tựu biểu không phải là vô biểu: Nghĩa là trụ nơi phi luật phi bất luật nghi. Thiện, ác yếu kém nói tư tạo thiện, tạo ác. Hai nghiệp thân ngữ chỉ có thể phát khởi biểu. Đây hãy còn không thể phát khởi vô biểu nghiệp, huống chi là các tư vô ký mà đã phát khởi biểu. Trừ hữu tình dựa vào phước và thành nghiệp đạo. Tư kia tuy yếu kém, nhưng khi khởi thì cũng phát khởi vô biểu.

Chỉ thành tựu vô biểu không phải là biểu: Nghĩa là Bổ-đặc-giàla đạt được tĩnh lự, nay biểu chưa sinh, trước sinh đã xả.

Hai trường hợp còn lại: Đều cùng thành (Trường hợp thứ ba). Đều không phải (Trường hợp thứ tư), như lý nên tư duy.

Như thế, kiến lập biểu cùng với vô biểu và thành tựu xong, trong đó ba thứ luật nghi có sai biệt làm thế nào mà được?

Tụng nêu:

Định sinh đạt tĩnh lự

Thánh kia được đạo sinh

Luật nghi biệt giải thoát

Đắc do người khác giáo.

Luận nói: Luật nghi tĩnh lự cùng với tâm là đều cùng có được. Nếu đạt được tâm nơi địa của tĩnh lự căn bản cận phần hữu lậu, luật nghi tĩnh lự, thì bấy giờ liền được tâm đều cùng có kia. Từ cõi vô sắc mất, khi sinh nơi cõi sắc, tùy theo đấy đạt được tĩnh lự sinh đắc trong địa kia, tức cũng đạt được luật nghi đều cùng hành ấy. Luật nghi vô lậu cũng đều cùng có nơi tâm. Nếu đạt được tâm nơi địa của tĩnh lự căn bản cận phần vô lậu, lúc ấy liền được tiếng vô lậu kia làm sáng tỏ tâm của tĩnh lự trước. Lại nói chữ Thánh là để phân biệt nhận lấy sáu địa tĩnh lự vô lậu, có tâm vô lậu. Nghĩa là định vị chí, trung gian và bốn định căn bản, không phải ba cận phần. Như phần sau sẽ biện.

Luật nghi biệt giải thoát, do người khác chỉ giáo v.v… nên đạt được. Có thể giáo hóa người khác, gọi là tha (Người khác).

Từ nơi sức giáo hóa của người khác như thế đã phát sinh giới, nên nói giới này do người khác chỉ giáo mà đạt được. Giới này lại có hai thứ, nghĩa là từ Tăng già, Bổ-đặc-già-la có sai biệt. Từ Tăng già được: Nghĩa là giới của Bí-sô, Bí-sô-ni và chánh học. Từ Bổđặc-già-la được: Nghĩa là năm thứ giới còn lại. các thứ sư Tỳ-bà-sa trong Tỳ-nại-da nói có mười thứ đạt được pháp cụ giới (Pháp của cụ túc giới). Vì gồm thâu mười thứ kia, nên lại nói chữ vân vân. Mười thứ đó là:

    1. Do tự nhiên: Nghĩa là Phật, Độc giác là tự nhiên. Tức trí do không từ sư chứng, khi trí này đạt được cụ túc giới.

 

  • Do Đức Phật bảo: Thiện lai Bí-sô! Như Da xá v.v…, do sức của bản nguyện cùng oai thần của Phật gia hộ.
  • Do được nhập chánh tánh ly sinh: Như năm Bí-sô do chứng kiến đạo, được cụ túc giới.
  • Do tín thọ Phật là bậc Đại sư: Như Tôn giả Đại Ca-diếp.
  • Do khéo léo thưa đáp những điều đã hỏi: Như Tô-đà-di.
  • Do kính thọ tám pháp tôn trọng: Như Đại Sinh chủ.
  • Do sai khiến: Nghĩa là pháp truyền trao cho ni.

 

  1. Do trì luật là người thứ năm: Nghĩa là ở nơi vùng biên của nước.
  2. Do thập chúng: Nghĩa là ở nơi vùng giữa nước.
  3. Do ba lần nói: Quy y Phật, Pháp, Tăng. Như là sáu mươi Hiền bộ cùng tập hợp thọ cụ giới.

Trong đây, hoặc do sức của bản nguyện. Hoặc do ý lạc viên mãn tột cùng. Hoặc được oai thần của Đức Bạc-già-phạm gia hộ, tùy nơi chỗ thích ứng đạt được cụ túc giới.

Như thế là đã nói về luật nghi biệt giải thoát. Nên bằng với bao nhiêu thời gian là kỳ hạn cần thiết mà thọ. Tụng nêu:

Luật nghi biệt giải thoát

Suốt đời, hoặc ngày đêm.

Luận nói: Bảy chúng đã dựa vào giới biệt giải thoát, nên chỉ theo kỳ hạn cần thiết là suốt đời mà thọ.

Cận trụ đã nương theo giới biệt giải thoát, chỉ theo kỳ hạn cần thiết là trong một ngày đêm mà thọ.

Thời gian này được ấn định như vậy là nhân nơi gì nên như thế?

Vì không phải là nghĩa lý tương ưng với Tỳ-nại-da. Không phải là bậc Nhất thiết trí đã lường xét về sự thật kia.

Có Sư khác nói: Đức Thế Tôn nhận biết rõ về biên vực thời gian của giới chỉ có hai thứ: (1) Biên vực của thọ mạng. (2) Biên vực của ngày đêm.

Lại nói lần nữa về ngày đêm là nửa tháng v.v…, nên Đức Phật chỉ nói hai thời lượng thọ giới. Do trong kinh, Đức Phật chỉ nói ngày đêm, nên phái Đối Pháp cũng nói như thế này: Luật nghi cận trụ chỉ thọ trong một ngày đêm. Tất nên có pháp có thể làm chướng ngại, khiến quá ngày đêm mà giới kia không sinh. Nên trong kinh, Phật chỉ nói ngày đêm, không nói thời gian hoặc năm, hoặc mười v.v…

Nhưng có thuyết cho: Đức Phật đã quán xét căn trí của hữu tình được giáo hóa là khó điều phục, nên lại trao cho giới một ngày đêm, không phải là không có vượt quá thời hạn này.

Dựa vào lý giáo nào để nói như thế?

Vì vượt quá thời hạn này, giới sinh, là không trái với lý.

Lại, giảm đối với thời hạn này thì trái nhau với lý nào?

Nghĩa là căn của đối tượng được giáo hóa có khó điều phục, tức đã thừa nhận là nói về luật nghi ngày đêm, vì sao không vì họ điều phục dần kẻ khó điều phục?

Nói chỉ một đêm, một ngày là chốc lát, do căn khó điều phục, thì có nhiều phẩm loại. Nhưng từng không nói do đấy nhận biết có thời gian nhất định của cận trụ, nếu giảm, nếu tăng liền không phát giới.

Vì Đức Thế Tôn đã quán thấy, nên chỉ nói như thế. Dựa nơi biên vực nào để được không luật nghi?

Tụng nêu:

Giới ác không ngày đêm

Do không như thọ thiện.

Luận nói: Kỳ hạn chủ yếu nơi sự việc gây tạo các nghiệp ác là suốt đời để được không luật nghi, không phải là một ngày đêm như giới cận trụ. Vì sao? Vì giới ác này không phải thọ nhận như giới thiện. Nghĩa là tất không có lập kỳ hạn, đối trước sự thọ không luật nghi như giới cận trụ: Tôi trong một ngày đêm quyết dính thọ không luật nghi. Đây là nghiệp đã bị người trí chê trách, nhàm chán, tuy cũng không có lập kỳ hạn, đối trước sư: Tôi sẽ suốt đời tạo các nghiệp ác, nhưng do phát khởi ý lạc hủy hoại thiện, muốn vĩnh viễn tạo ác, được không luật nghi, không phải khởi ý lạc tạo ác tạm thời, vì không có sư mà có được không luật nghi, nên không luật nghi không có một ngày đêm. Nhưng công đức của giới cận trụ là đáng vui thích. Do hiện đối sư, kỳ hạn cần thiết theo sức thọ. Tuy không hoàn toàn hủy hoại ý lạc ác, nhưng nơi một ngày đêm có được luật nghi cận trụ. Vì thế nên được không luật nghi so với được luật nghi là khác nhau.

Nói luật nghi cận trụ là một ngày đêm, khi muốn chánh thọ thì nên thọ như thế nào?

Tụng nêu:

Cận trụ nơi sáng sớm

Tòa thấp từ sư thọ

Tùy giáo nói đủ chi

Ngày đêm lìa trang sức.

Luận nói: Luật nghi cận trụ thọ vào lúc sáng sớm. Nghĩa là thọ giới này chính là khi mặt trời mọc. Giới này chủ yếu trải qua một ngày đêm. Các hữu tình trước hết lập ra kỳ hạn cần thiết như thế này: Tôi sẽ luôn ở nơi ngày mồng tám của tháng quyết định thọ luật nghi cận trụ này. Nếu sáng sớm có duyên trở ngại, thì sau khi thọ trai xong cũng được thọ.

Nói tòa thấp: Là ở trước sư, trụ nơi tòa thấp kém, thể hiện thân tâm khiêm kính. Thân khiêm kính là hoặc ngồi xổm, hoặc quỳ, đầu cúi thấp xuống, chấp tay, chỉ trừ có bệnh.

Tâm khiêm kính: Là đối với sư thí giới, tâm không khinh mạn. Đối với Tam bảo phát sinh tâm tín thanh tịnh, hết mực tôn trọng, ân cần, vì các luật nghi từ sự kính tín phát khởi. Nếu không khiêm kính thì luật nghi không phát. Luật nghi này tất phải từ sư, không chấp nhận tự thọ. Do về sau, nếu gặp các duyên phạm giới, vì hổ thẹn đối với giới, sư nên có thể không trái phạm. Nghĩa là người thọ kia tuy thiếu tăng thượng của tự pháp, nhưng do tăng thượng của thế gian, cũng có thể không phạm.

Thọ luật nghi này nên tùy thuận Sư giáo huấn. Người thọ giới thì nói sau không nên nói trước. Nói cùng lúc, như vậy mới thành từ nơi Sư giáo huấn mà thọ. Khác với đây thì hai sự trao giới, thọ giới đều không thành. Phải thọ đủ tám chi mới thành cận trụ. Tùy có chỗ thiếu thì cận trụ không thành, vì các chi xa lìa là cùng hệ thuộc nhau. Do đấy bốn thứ chi như lìa sát v.v…, ở trong một thân có thể đều cùng thời ghi nhận, do các thứ xa lìa cùng trong hệ thuộc, hoặc nhiều, hoặc ít, cùng có sai biệt.

Người thọ giới này, tâm lìa mọi thứ trang sức và xứ kiêu mạn, phóng dật, còn các vật dụng thường để trang nghiêm thân bất tất phải bỏ. Do duyên nơi các thứ kia không thể sinh kiêu mạn, phóng dật. Như vì mới khác, nên thọ luật nghi này, tâm cần ngày đêm. Nghĩa là đến sáng sớm, lúc mặt trời mới mọc, trải qua thời gian như thế, giới luôn cùng nối tiếp. Khác với người thọ này, tuy sinh khởi hành diệu nhưng không được luật nghi. Tuy nhiên, vì khiến chiêu cảm quả khả ái, nên cũng là thọ.

Nói cận trụ: Nghĩa là luật nghi này trụ gần với bậc A-la-hán, do học theo A-la-hán kia.

Có thuyết nói: Luật nghi này trụ gần với giới suốt đời.

Có thuyết cho: Giới này theo thời gian gần mà trụ.

Luật nghi như thế hoặc gọi là nuôi lớn, tức nuôi lớn căn thiện mỏng ít của hữu tình khiến căn thiện kia dần tăng nhiều.

Do đâu thọ luật nghi cận trụ này, tất gồm đủ tám chi, không tăng, không giảm?

Tụng nêu:

Chi giới cấm không dật

Bốn, một, ba thứ lớp

Vì ngăn các tánh tội

Thất niệm và kiêu, dật.

Luận nói: Trong tám chi thì bốn trước là chi Thi la. Nghĩa là lìa sát sinh đến lìa nói lời hư dối. Do bốn thứ này lìa tánh tội. Tiếp theo một thứ là chi không phóng dật. Nghĩa là lìa xứ uống các thứ rượu, sinh phóng dật. Tuy thọ Thi la, nhưng nếu uống các thứ rượu thì tâm phóng dật, hủy phạm Thi la, say tất không thể giữ gìn chi khác. Sau có ba thứ là chi cấm buộc. Nghĩa là lìa bôi xoa trang sức hương, tràng hoa, cho đến ăn phi thời, do có thể tùy thuận tâm chán lìa, tức chán lìa có thể chứng quả luật nghi.

Vì sao phải thọ đủ ba chi như thế? Nếu chi không đủ liền không thể lìa lỗi lầm của thất niệm, kiêu mạn, phóng dật, là thuộc về tánh tội. Nghĩa là đầu tiên lìa sát sinh, đến nói lời hư dối, tức có thể ngăn chận lìa bỏ các thứ tham, sân, si thuộc tánh tội đã khởi các nghiệp ác như sát sinh v.v… Tiếp theo lìa uống rượu, là có thể đề phòng thất niệm, do khi uống rượu có thể khiến quên mất các sự việc nên làm, không nên làm. Tức không thể bảo vệ các chi xa lìa khác. Sau đấy lìa ba pháp còn lại thì có thể ngăn trừ kiêu mạn, phóng dật. Vì nếu thọ dụng vô số thứ hương, tràng hoa, tòa giường cao rộng, quen gần với ca múa thì tâm liền kiêu mạn, cao ngạo, tức hủy hoại giới. Do lìa các sự việc kia, nên tâm tức lìa kiêu mạn. Nghĩa là hương xoa, tràng hoa v.v… nếu luôn thọ dụng, hãy còn thuận với kiêu mạn là duyên phạm giới, huống chi là thọ dụng thứ mới lạ, từng chưa thọ dụng, nên tất cả thứ ấy đều nên lìa bỏ. Nếu người có khả năng vâng giữ dựa nơi đúng thời mà ăn, do có thể ngăn dứt lối ăn luôn liền nhớ nghĩ về sự việc tự thọ luật nghi cận trụ, có thể ở nơi thế gian sinh khởi chán lìa sâu xa. Nếu hai sự ăn đúng thời ăn phi thời đều cùng không có, nên thường ăn có thể khiến tâm phóng túng, buông lung. Do đấy, vì nghĩa lớn nên thọ đủ ba. Ở trong tám chi này, lìa ăn phi thời là trai, cũng chi trai. Bảy chi còn lại là chi trai, không phải là trai. Như chánh kiến là đạo, cũng là chi đạo. Bảy chi còn lại là chi đạo, không phải là đạo.

Vì chỉ cận sự được thọ cận trụ, hay là loại khác cũng có thọ cận trụ chăng?

Tụng nêu:

Cận trụ khác cũng có

Không thọ ba quy, không.

Luận nói: Các hữu tình chưa thọ luật nghi cận sự, trong một ngày đêm quy y Tam bảo, nói ba quy xong, thọ giới cận trụ, thì hữu tình kia cũng được thọ luật nghi cận trụ. Khác với đây thì không có. Trừ người không biết, do sức mạnh của ý lạc cũng phát sinh luật nghi.

Há không phải là ba quy y thì thành cận sự. Như Khế kinh nói: Đức Phật bảo Tôn giả Đại Danh: Có các nam tử bạch y tại gia, nam căn thành tựu, quy y Phật, Pháp, Tăng, khởi tâm tịnh đủ, phát khởi lời nói thành khẩn chân thật, tự xưng con là Ô-ba-sách-ca, xin Tôn sư nhớ giữ, từ bi hộ niệm. Ngang bằng với đây gọi là Ô-ba-sách-ca.

Điều này không trái nhau. Vì ở phần vị thọ ba quy là chưa thành cận sự. Vì sao? Vì chủ yếu là phát sinh luật nghi mới thành cận sự.

HẾT – QUYỂN 19