LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 11

Chương 1: TẠP UẨN

Phẩm 2: BÀN VỀ TRÍ, phần 3

Hỏi: Trong đời vị lai có đẳng vô gián duyên không? Giả sử nêu như thế thì có lỗi gì? Nếu có, thì các pháp ở vị lai nên trụ theo thứ lớp, tu chánh gia hạnh tức nên thành vô dụng. Vì sao? Vì nếu pháp trụ ở nơi vô gián ấy, thì pháp đó từ vô gián ấy tất sinh, tu chánh gia hạnh còn có công dụng gì? Lại nên không có nghĩa điều phục các phiền não, dẫn sinh pháp đối trị, như thế là không hoàn toàn giải thoát, và như chương Kiến Uẩn đã nói làm thế nào thông suốt? Như nói: Nếu pháp này cùng với pháp kia làm đẳng vô gián, hoặc có lúc không cùng với pháp kia làm đẳng vô gián chăng? Đáp: Khi pháp này chưa đến tức đã sinh? Nếu không, thì vì sao pháp thế đệ nhất vô gián chỉ sinh khổ pháp trí nhẫn, không sinh cho đến tận trí, vô sinh trí, và như Kinh Bát Phần nói lại làm sao thông suốt? Như nói: Như thế, Bổ-đặc-già-la tạo nghiệp đó xong, hoặc mười ba kiếp, hoặc mười bốn kiếp, hoặc cho đến hai mươi kiếp, không đọa vào nẻo ác. Lại làm thế nào để kiến lập ba thứ nghiệp: Tùy thuận thọ nhận hiện pháp. Tùy thuận thọ nhận đời kế tiếp. Tùy thuận thọ nhận đời kế tiếp sau nữa?

Đáp: Vị lai không có đẳng vô gián duyên.

Hỏi: Nếu như thế vì sao pháp thế đệ nhất vô gián chỉ sinh khổ pháp trí nhẫn, không sinh cho đến tận trí, vô sinh trí?

Đáp: Đây gọi là số lượng định, không phải là sự tướng định. Vì sao? Vì khổ pháp trí nhẫn ở nơi sáu địa, chưa biết thuộc về địa nào sẽ sinh. Ba căn tương ưng, nhưng chưa biết căn nào tương ưng sẽ sinh. Có bốn hành tướng, chưa biết là hành tướng nào sẽ sinh. Vô lượng sát-na, chưa biết là sát-na nào sẽ sinh? Cho đến lúc trụ nơi nhẫn tăng thượng, khổ pháp trí nhẫn chỉ ở nơi ba sự việc an định. Nghĩa là địa định, căn định, hành tướng định. Đối với hai sự việc không định, là sát-na không định, đẳng vô gián duyên không định. Nếu lúc trụ nơi pháp thế đệ nhất, thì đối với năm sự việc đều định.

Lại nữa, không nhất thiết phải có đẳng vô gián duyên, các pháp vẫn sinh khởi nối tiếp nhau theo thứ lớp. Vì sao? Vì nếu pháp này nương dựa lệ thuộc pháp kia, từ sau pháp kia, vô gián mới được sinh, ngoài ra không như vậy. Cũng như sự vật bên ngoài tuy không có đẳng vô gián duyên, nhưng chúng nương dựa vào nhau, lệ thuộc trước sau, theo thứ lớp sinh khởi. Như hạt giống thì mầm, cộng, nhánh, cành, hoa, quả đều nương dựa, lệ thuộc hạt giống đó, là vô gián sinh, ngoài ra thì không như thế. Như vậy pháp bên trong ở đời vị lai tuy không có đẳng vô gián duyên, nhưng nương dựa và lệ thuộc nơi ấy, là vô gián kia sinh, ngoài ra thì không như vậy. Khổ pháp trí nhẫn nương dựa lệ thuộc vào pháp thế đệ nhất, nhưng khổ pháp trí v.v… tức không như vậy, cho nên pháp thế đệ nhất vô gián chỉ sinh khổ pháp trí nhẫn, không sinh cho đến tận trí, vô sinh trí.

Lại nữa, pháp vị lai sinh khởi dựa vào pháp hiện tại. Nếu pháp hiện tại hòa hợp thì pháp vị lai kia tất được sinh. Nếu không hòa hợp thì pháp vị lai kia sẽ không sinh. Tuy không có sự việc ấy, nhưng vì phân biệt mà nói. Giả sử tu đạo sinh duyên, vì trước đã hòa hợp cũng nên sinh trước, nhưng không có sự việc này, chỉ có khổ pháp trí nhẫn dựa vào pháp thế đệ nhất hòa hợp mà sinh. Khổ pháp trí v.v… đều nương dựa vào sự hòa hợp khác, vì thế pháp thế đệ nhất vô gián chỉ sinh khổ pháp trí nhẫn, không sinh cho đến tận trí, vô sinh trí.

Hỏi: Kinh Bát Phần nói lại làm sao thông suốt?

Đáp: Có thuyết cho: Đức Thế Tôn căn cứ vào quá khứ đến hiện tại, so sánh nhận biết được vị lai nên mới nói như vậy. Nghĩa là Đức Thế Tôn quán sát về quá khứ, hiện tại các Bổ-đặc-già-la, chủng loại như thế, tạo nghiệp như thế, trong từng ấy kiếp, không đọa vào nẻo ác. Chủng loại Bổ-đặc-già-la như thế, tạo nghiệp như thế, thọ nhận quả ở đời hiện tại, tạo nghiệp như thế để đời sau thọ nhận quả, tạo nghiệp như thế để đời kế sau nữa thọ nhận quả. Do ở đây hiện thấy chủng loại Bổ-đặc-già-la như thế, tạo nghiệp như thế, nên so sánh nhận biết được việc sẽ đến là trong từng ấy kiếp, không đọa vào nẻo ác. Chủng loại Bổ-đặc-già-la như thế, tạo nghiệp như thế, hiện tại sẽ thọ nhận quả. Tạo nghiệp như thế, nơi đời tiếp sẽ thọ nhận quả. Tạo nghiệp như thế nơi đời sau sẽ thọ nhận quả.

Có Sư khác nêu: Trong thân hữu tình có tướng như thế là thuộc về hành uẩn không tương ưng. Đức Thế Tôn quán sát uẩn đó, biết ngay: Bổ-đặc-già-la như thế, ở đời vị lai, trong từng ấy kiếp, sẽ không đọa vào nẻo ác. Cũng biết Bổ-đặc-già-la đã tạo các nghiệp như thế, hoặc sẽ hiện thọ nhận, hoặc sẽ sinh thọ nhận, hoặc sẽ thọ nhận về sau.

Lời bình: Không nên tạo thuyết như thế, nếu tạo thuyết như vậy chứng tỏ: Đức Thế Tôn chỉ có trí tỷ lượng đối với sự việc ở vị lai, không có trí hiện lượng. Điều này không hợp lý. Nên nói như thế này: Đức Phật nhận biết sự việc ở vị lai, là trí hiện lượng, không phải trí tỷ lượng. Nghĩa là trí kiến của Đức Phật rất sáng tịnh, dũng mãnh, nhạy bén. Các pháp vị lai tuy trụ nơi tạp loạn không có thứ lớp vẫn có khả năng nhận biết. Chủng loại Bổ-đặc-già-la như thế, tạo nghiệp như thế, nơi đời vị lai trong từng ấy kiếp, không đọa vào nẻo ác. Chủng loại Bổ-đặc-già-la như thế, tạo nghiệp như thế, hoặc sẽ hiện thọ nhận, hoặc sẽ sinh thọ nhận, hoặc sẽ thọ nhận về sau, thảy đều phân minh không nhầm lẫn.

Có Sư khác nói: Vị lai cũng có đẳng vô gián duyên.

Hỏi: Nếu như thế các pháp vị lai nên trụ theo thứ lớp và tu chánh gia hạnh tức nên thành vô dụng. Lại nên không có nghĩa điều phục các phiền não, sinh khởi các đối trị, như thế là không có hoàn toàn giải thoát chăng?

Đáp: Các pháp vị lai tuy có tánh, tướng nhất định của đẳng vô gián duyên, nhưng không có thứ tự trước sau nhất định. Nghĩa là phần vị tâm tâm sở chưa sinh, có nên từ pháp vô gián kia sinh, không có xếp lớp theo thứ tự hàng lối rõ ràng trước sau. Đến phần vị đã sinh, có nên từ pháp vô gián kia sinh, cũng có xếp lớp theo thứ tự hàng lối rõ ràng trước sau. Như nhiều Sa-môn nếu trụ lẫn lộn phức tạp, tuy lớn nhỏ đã định, nhưng sự xếp lớp thứ tự chưa định. Nếu trụ theo thứ tự, lớn nhỏ cũng định, xếp lớp thứ tự cũng định. Đây cũng như thế, thế nên không có lỗi.

Tu chánh gia hạnh không phải trở thành vô dụng, vì một tâm vô gián có hai tâm, đó là một tâm vô gián ở đời vị lai có hai tâm an trụ: 1. Thiện. 2. Nhiễm. Nếu trong đời hiện tại tu chánh gia hạnh thì tâm thiện sinh, tâm nhiễm không sinh. Nếu trong đời hiện tại khởi gia hạnh tà thì tâm nhiễm sinh, tâm thiện không sinh. Như sau một hạt giống phải có thêm hai sự việc mới sinh: 1. Mầm. 2. Tro. Nếu mầm duyên nơi sự hòa hợp thì mầm sinh, tro không sinh. Nếu chất tro duyên nơi sự hòa hợp thì tro sinh, mầm không sinh. Ở đây cũng như thế. Do đấy cũng có nghĩa hàng phục các phiền não, phát sinh đối trị, dần dần chứng giải thoát rốt ráo.

Hỏi: Theo như nơi chương Kiến Uẩn nói làm thế nào thông suốt? Như nói: Nếu pháp này cùng với pháp kia làm đẳng vô gián, hoặc có lúc không cùng với pháp kia làm đẳng vô gián chăng?

Đáp: Nếu khi pháp này chưa đến đã sinh là đáp lại thuyết kia, đã dựa vào thứ lớp trước sau nhất định mà nói, không căn cứ vào sự duyên nơi tánh, tướng nhất định để nói, nên không mâu thuẫn.

Lời bình: Nên nói như vầy: Vị lai không có đẳng vô gián duyên. Vì sao? Vì đẳng vô gián duyên không an trụ xen tạp lẫn lộn, còn pháp của đời vị lai thì an trụ lẫn lộn xen tạp. Đẳng vô gián duyên trụ theo thứ lớp, còn pháp của đời vị lai không có thứ lớp. Đẳng vô gián duyên căn cứ vào nghĩa mở rộng cửa để kiến lập, còn pháp ở đời vị lai không có nghĩa mở rộng cửa.

Lại nữa, nếu vị lai có đẳng vô gián duyên, người muốn tu thiện sẽ thường xuyên làm việc thiện, kẻ muốn làm việc ác sẽ thường xuyên làm việc ác. Tuy nhiên, hiện nay nhận thấy người muốn tu thiện, về sau lại làm điều ác, như Thiên Thọ v.v…, kẻ muốn tạo ác, về sau lại làm điều thiện như Chỉ Man v.v… Do đó, nên đời vị lai nhất định không có đẳng vô gián duyên.

Hỏi: Vì sao sắc pháp không phải là đẳng vô gián duyên?

Đáp: Nếu là pháp tương ưng thì có đối tượng nương dựa, có hành tướng, có sự cảnh giác, có đối tượng duyên, tức pháp đó có thể lập đẳng vô gián duyên. Vì sắc pháp không như vậy, thế nên không phải là đẳng vô gián duyên.

Có thuyết cho: Đẳng vô gián duyên hiện ở trước không rối loạn. Sắc pháp thì có rối loạn, nên không là đẳng vô gián duyên. Nghĩa là trong một sát-na sinh khởi sắc nơi cõi dục và sắc nơi cõi sắc. Hoặc trong một sát-na sinh khởi sắc nơi cõi dục và sắc không hệ thuộc. Hoặc trong một sát-na sinh khởi sắc của cõi sắc và sắc không hệ thuộc.

Tôn giả Thế Hữu nói: Sắc của một dị thục nối tiếp nhau, chưa diệt, có sắc nuôi lớn và sắc đẳng lưu, lại nối tiếp nhau sinh nhiều loại cùng sinh, do vậy chúng không phải là đẳng vô gián duyên.

Đại đức nói: Do các sắc pháp thì ít, vô gián sinh lại nhiều. Vì nhiều vô gián sinh mà sinh khởi ít, nên không phải là đẳng vô gián duyên. Ít vô gián mà sinh nhiều, như mưa mùa hè, ít mây mà vô gián nổi lên vô lượng mây che khắp cả hư không. Từ hạt giống cây thì nhỏ, sinh trưởng cây cao lớn, như cây Nặc-cù-đà. Từ Yết-lạt-lam bé nhỏ, sinh thân sắc rộng lớn. Nhiều vô gián mà sinh ít, là như đốt một đống cỏ thật to, nhưng tro lại ít.

Hỏi: Nếu như thế tâm sở pháp cũng nhiều mà vô gián sinh ít, ít mà vô gián sinh nhiều, nên không kiến lập đẳng vô gián duyên?

Nhiều mà vô gián sinh ít: Nghĩa là như từ địa có tầm có tứ nhập địa không tầm không tứ.

Ít mà vô gián sinh nhiều: Nghĩa là như từ địa không tầm không tứ nhập địa có tầm có tứ.

Đáp: Đây là căn cứ vào địa đồng với số lượng trước sau mà nói, không dựa vào địa khác, nên không có lỗi.

Có thuyết nêu: Vô gián này là căn cứ vào số lượng trước sau của loại đồng mà nói, không dựa vào loại khác, nên không có lỗi. Nghĩa là trong một tâm, nếu một thọ đẳng vô gián, thì hai thọ cùng sinh. Hai thọ đẳng vô gián thì một thọ cùng sinh. Có thể có lỗi này, nhưng vì không có sự việc ấy, nên cùng với sắc thì khác biệt. Do các sắc pháp đồng loại với cực vi, ở trong một nhóm rất đông cùng khởi, nên không thể lập đẳng vô gián duyên. Tâm tâm sở pháp không có sự việc như thế.

Hỏi: Vì sao hành không tương ưng không phải là đẳng vô gián duyên?

Đáp: Nếu là pháp tương ưng thì có đối tượng nương dựa, có hành tướng, có sự cảnh giác, có đối tượng duyên, tức pháp đó có thể lập đẳng vô gián duyên. Vì hành không tương ưng không như thế, nên không phải là đẳng vô gián duyên.

Có thuyết nói: Đẳng vô gián duyên hiện ở trước không tạp lọan, còn hành không tương ưng hiện ở trước có tạp loạn, nên không phải là đẳng vô gián duyên. Nghĩa là trong một sát-na có khởi hiện hành không tương ưng của ba cõi và không hệ thuộc. Ngoài ra tùy thuộc vào đối tượng thích hợp như trước đã nói rộng.

Luận Phẩm Loại Túc nói thế này: Thế nào là pháp đẳng vô gián của tâm? Đáp: Nếu tâm đẳng vô gián, tâm tâm sở pháp khác đã sinh, đang sinh và định vô tưởng, định diệt tận đã sinh, đang sinh, thì đấy gọi là pháp đẳng vô gián của tâm.

Hỏi: Vì sao Luận kia không nói là dị thục vô tưởng?

Đáp: Có thuyết cho: Nên nói nhưng không nói, phải biết nghĩa này là nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nêu: Hai định vô tâm có gia hạnh, có công dụng, siêng năng, khó nhọc mà được, nên Luận kia nói đến. Vì dị thục vô tưởng mâu thuẫn với định vô tâm này, nên Luận kia không đề cập.

Có thuyết nói: Hai định vô tâm là thiện nên mới nói đến, còn dị thục vô tưởng vì là vô phú vô ký nên không được nói đến.

Có thuyết cho: Nếu do lực của tâm vô gián dẫn khởi, không tạp loạn, thì có thể gọi là pháp đẳng vô gián của tâm. Dị thục vô tưởng là lực của nhân dị thục được dẫn khởi, tự nhiên chuyển biến, không nhập vào uy lực đã dẫn khởi của tâm kia, nên không gọi là pháp đẳng vô gián của tâm.

Hỏi: Nếu như vậy tâm tâm sở pháp của dị thục cũng là lực của nhân dị thục đã dẫn khởi, tự nhiên chuyển biến, do vậy không gọi là pháp đẳng vô gián của tâm chăng?

Đáp: Vì tự loại cùng dẫn khởi có uy lực mạnh hơn, không đồng với đẳng vô gián kia, vì đều là tương ưng có đối tượng nương dựa v.v… nên nói là tự loại.

Hỏi: Vì sao hai định vô tâm là pháp đẳng vô gián của tâm nhưng không phải là đẳng vô gián duyên của tâm?

Đáp: Vì công dụng gia hạnh siêng năng, khó nhọc của tâm kia đã dẫn khởi mà được, nên gọi là pháp đẳng vô gián của tâm, nó mâu thuẫn với tâm, vì ngăn chận tâm đoạn, nên không phải là đẳng vô gián duyên của tâm.

Có thuyết nói: Do uy lực đã dẫn khởi của tâm kia, nên gọi là pháp đẳng vô gián của tâm. Vì pháp kia không tương ưng, không có đối tượng nương dựa, không có hành tướng, không có cảnh giác, không có đối tượng duyên, nên không phải là đẳng vô gián duyên của tâm.

Có thuyết cho: Do tâm có uy lực kia được tăng trưởng, có tác dụng, nên gọi là pháp đẳng vô gián của tâm. Vì tâm tổn giảm, khiến không sinh khởi tác dụng, nên không phải là đẳng vô gián duyên của tâm.

Hỏi: Vì sao hai định vô tâm, trước sau đều giống nhau, không tạp loạn, nối tiếp nhau sinh, nhưng trước không làm đẳng vô gián duyên cho sau?

Đáp: Do uy lực của tâm nhập định đã dẫn khởi, không do năng lực đã nhớ nghĩ trước dẫn sinh, nên cái trước không làm đẳng vô gián duyên cho sau.

Hỏi: Nếu thế, tâm tâm sở pháp dị thục do uy lực của nhân dị thục dẫn khởi, tự nhiên mà chuyển, nên trước không làm đẳng vô gián duyên cho sau?

Đáp: Tâm tâm sở pháp là pháp tương ưng có đối tượng nương dựa, có hành tướng, có cảnh giác, có đối tượng duyên. Vì sự nghĩ nhớ trước đối với sau, có uy lực thù thắng dẫn phát, mở rộng cửa nên đều là đẳng vô gián duyên cho pháp sau. Vì hành không tương ưng mâu thuẫn với tâm tâm sở pháp này, nên không thể so sánh.

Hỏi: Tâm trung gian nhập xuất định vô tưởng, diệt tận, hoặc trải qua nửa kiếp, một kiếp, vì sao có thể nói là đẳng vô gián?

Đáp: Vì tâm trung gian không có thứ khác làm ngăn cách. Nghĩa là tâm xuất nhập cùng cách nhau tuy xa, nhưng trung gian lại không có tâm sở khác xen vào, nên sau đối với trước gọi là đẳng vô gián. Cũng như hai người cùng vượt trên quãng đường xa, một đi trước, một đi sau, cách nhau một khoảng khá xa. Có người hỏi: Ông có bạn đồng hành không? Đáp: Có. Người sau kế lại đi đến, khoảng trung gian giữa hai người tuy có chim thú nhưng không có người nào làm ngăn cách, nên nói là sau kế. Đây cũng như thế, vì không có tâm làm ngăn cách, nên gọi là đẳng vô gián.

Hỏi: Nếu pháp là đẳng vô gián của tâm thì cũng là tâm vô gián chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có pháp là đẳng vô gián của tâm, không phải là tâm vô gián: Nghĩa là trừ hai định vô tâm của sát-na đầu tiên và tâm tâm sở pháp có tâm vị, còn lại là các sự nối tiếp nhau với hai định vô tâm và tâm tâm sở pháp xuất định.

2. Có pháp là tâm vô gián, không phải là đẳng vô gián của tâm: Nghĩa là hai định vô tâm trong sát-na ban đầu và tâm tâm sở pháp có tâm vị, sinh, lão, trụ, vô thường.

3. Có pháp là đẳng vô gián của tâm cũng là tâm vô gián: Nghĩa là hai định vô tâm trong sát-na đầu và tâm tâm sở pháp có tâm vị.

4. Có pháp không phải đẳng vô gián của tâm cũng không phải tâm vô gián: Nghĩa là trừ hai định vô tâm trong sát-na đầu và tâm tâm sở pháp có tâm vị, sinh, lào, trụ vô thường. Còn lại là các sự nối tiếp nhau với hai định vô tâm và tâm tâm sở pháp xuất định, sinh, lão, trụ, vô thường.

Hỏi: Nếu pháp là đẳng vô gián của tâm cũng là định vô tâm vô gián chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có pháp là đẳng vô gián của tâm không phải là định vô tâm vô gián: Nghĩa là hai định vô tâm ở sát-na đầu và tâm tâm sở pháp có tâm vị.

2. Có pháp là định vô tâm vô gián không phải là đẳng vô gián của tâm: Nghĩa là trừ hai định vô tâm ở sát-na đầu và tâm tâm sở pháp có tâm vị, sinh, lão, trụ, vô thường. Còn lại là các sự nối tiếp nhau với hai định vô tâm và tâm tâm sở pháp xuất định, sinh, lão, trụ, vô thường.

3. Có pháp là đẳng vô gián của tâm cũng là định vô tâm vô gián: Nghĩa là trừ hai định vô tâm ở sát-na đầu và tâm tâm sở pháp có tâm vị. Còn lại là các sự nối tiếp nhau với hai định vô tâm và tâm tâm sở pháp xuất định.

4. Có pháp không phải là đẳng vô gián của tâm cũng không phải là định vô tâm vô gián: Nghĩa là hai định vô tâm ở sát-na đầu và tâm tâm sở pháp có tâm vị, sinh, lão, trụ, vô thường.

Có ba thứ tác ý: Đó là tác ý tự tướng, tác ý cộng tướng và tác ý thắng giải.

Tác ý tự tướng: Nghĩa là tư duy về Sắc là tướng đổi thay, trở ngại, Thọ là tướng nhận lãnh, Tưởng là tướng giữ lấy hình tượng, Hành là tướng tạo tác, Thức là tướng phân biệt nhận biết. Đất là tướng chắc, Nước là tướng ướt, Lửa là tướng ấm, Gió là tướng lay động, cứ như thế v.v…

Tác ý cộng tướng: Nghĩa là như mười sáu hành tướng v.v…

Tác ý thắng giải: Nghĩa là như quán bất tịnh, quán sổ tức, vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v…

Hỏi: Ba thứ tác ý này có bao nhiêu thứ là Thánh đạo vô gián? Có bao nhiêu thứ là Thánh đạo hiện tiền vô gián? Có bao nhiêu thứ hiện tiền?

Đáp: Có thuyết cho: Có ba thứ Thánh đạo vô gián, ba thứ Thánh đạo hiện tiền vô gián, ba thứ hiện tiền. Như thế là khéo thông suốt nơi Khế kinh đã nói: Quán bất tịnh cùng hành với tu giác chi như niệm v.v… nương vào sự nhàm chán, nương vào sự lìa bỏ, nương vào sự diệt trừ, hồi hướng nơi xả. Trong đây, tiếng cùng hành là chỉ rõ nghĩa vô gián.

Có thuyết nêu: Có hai thứ Thánh đạo vô gián hiện tiền, trừ tác ý tự tướng nơi Thánh đạo vô gián có ba thứ hiện tiền.

Có thuyết nói: Chỉ có tác ý cộng tướng, Thánh đạo vô gián, Thánh đạo hiện tiền vô gián, ba thứ hiện tiền.

Hỏi: Theo Khế kinh đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Quán bất tịnh cùng hành với tu giác chi như niệm v.v…?

Đáp: Vì căn cứ nơi nhân lần lượt, nên nói như thế. Như pháp của con cháu là vì truyền thừa cùng sinh. Tức là tác ý thắng giải dẫn khởi tác ý cộng tướng. Tác ý cộng tướng dẫn khởi Thánh đạo.

Có thuyết cho: Tác ý cộng tướng vô gián, Thánh đạo hiện tiền. Thánh đạo vô gián, tác ý cộng tướng hiện tiền.

Hỏi: Nếu thế căn cứ vào định vị chí, nhập chánh tánh ly sinh, lúc xuất Thánh đạo, có thể khởi tác ý cộng tướng nơi cõi dục chăng? Nếu dựa vào địa trên, nhập chánh tánh ly sinh, khi xuất Thánh đạo, tâm cõi dục kia đã không được khởi hiện, vì rất xa. Lại vì chưa được tác ý cộng tướng của cõi sắc, nên người kia tuy đã được thuận phần quyết định lựa chọn, nhưng sau đó Thánh đạo không còn hiện tiền, người kia sẽ dùng tác ý cộng tướng nào để xuất Thánh đạo?

Đáp: Người kia đối với trung gian thuận phần quyết định lựa chọn, đã tu được hành tướng như thế. Nghĩa là tất cả hành là vô thường, hết thảy pháp là vô ngã, Niết-bàn tịch tĩnh v.v… nay đề xuất Thánh đạo, khởi hiện tác ý kia.

Lời bình: Người kia không nên lập thuyết này. Như thuyết trước nói là đúng. Nghĩa là ba thứ Thánh đạo vô gián, ba thứ Thánh đạo hiện tiền vô gián, ba thứ hiện tiền.

Lại nữa, ở cõi dục có ba thứ tác ý, là tác ý do văn tạo thành, tác ý do tư tạo thành và tác ý sinh đắc. Cõi sắc có ba thứ tác ý, là tác ý do văn tạo thành, tác ý do tu tạo thành và tác ý sinh đắc. Cõi vô sắc có hai thứ tác ý, là tác ý do tu tạo thành và tác ý sinh đắc. Vô lậu chỉ có một tác ý là tác ý do tu tạo thành.

Trong đây, cõi dục chỉ do tư tạo thành Thánh đạo vô gián, Thánh đạo hiện tiền vô gián, ba thứ hiện tiền. Cõi sắc chỉ do tu tạo thành, Thánh đạo vô gián, Thánh đạo hiện tiền vô gián, hai thứ hiện tiền, trừ sinh đắc. Cõi vô sắc chỉ do tu tạo thành, Thánh đạo vô gián, Thánh đạo hiện tiền vô gián, cũng chỉ do tu tạo thành hiện tiền.

Hỏi: Thế nào là Thánh đạo vô gián? Sinh đắc của cõi dục hiện tiền không phải là sinh đắc của cõi sắc, cõi vô sắc chăng?

Đáp: Vì sinh đắc của cõi dục dũng mãnh, nhạy bén, còn sinh đắc của cõi sắc và cõi vô sắc không mạnh mẽ, lanh lợi. Nếu nương vào định vị chí đắc quả A-la-hán, người kia hoặc do tâm của cõi dục khởi xuất Thánh đạo, hoặc do tâm của định vị chí khởi xuất Thánh đạo. Nếu nương vào Vô sở hữu xứ đắc quả A-la-hán, người kia hoặc dùng tâm của Vô sở hữu xứ khởi xuất Thánh đạo, hoặc dùng tâm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ khởi xuất Thánh đạo. Nếu nương vào địa khác đắc quả A-la-hán, người kia chỉ dùng tâm của địa mình khởi xuất Thánh đạo.

Lại nữa, tĩnh lự thứ nhất có ba thứ, là vị tương ưng, tịnh, vô lậu. Như thế, cho đến Vô sở hữu xứ đều có ba thứ. Phi tưởng phi phi tưởng xứ chỉ có hai thứ, là trừ vô lậu. Trong đây, vị tương ưng vô gián có hai thứ hiện tiền, trừ vô lậu. Tịnh vô gián có ba thứ hiện tiền. Vô lậu vô gián có hai thứ hiện tiền, trừ vị tương ưng.

Tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất lại có bốn thứ, đó là thuận phần thoái chuyển, thuận phần an trụ, thuận phần thắng tấn, thuận phần quyết định lựa chọn. Như thế, cho đến Vô sở hữu xứ đều có bốn thứ. Phi tưởng phi phi tưởng xứ chỉ có ba thứ, trừ thuận phần thắng tấn. Trong đây, thuận phần thoái chuyển vô gián có hai thứ hiện tiền, đó là thuận phần thoái chuyển và thuận phần an trụ. Thuận phần an trụ vô gián có ba thứ hiện tiền, là trừ thuận phần quyết định lựa chọn. Thuận phần thắng tấn vô gián có ba thứ hiện tiền, là trừ thuận phần thoái chuyển. Thuận phần quyết định lựa chọn vô gián có hai thứ hiện tiền, đó là thuận phần quyết định lựa chọn và thuận phần thắng tấn.

Hỏi: Nếu sinh vào tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư, lúc khởi các thức thân của tĩnh lự đầu tiên, có bao nhiêu tâm vô gián nhập, có bao nhiêu tâm vô gián xuất?

Đáp: Tùy thuộc vào địa đã sinh. Nếu người chưa lìa nhiễm có ba thứ tâm vô gián, các thức thân của họ hiện tiền. Các thức thân của họ vô gián có ba thứ tâm hiện tiền, là thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký. Nếu đã lìa nhiễm có hai thứ tâm vô gián, các thức thân của họ hiện tiền. Các thân thức của họ vô gián có hai thứ tâm hiện tiền, nghĩa là trừ nhiễm ô.

* Có mười hai tâm: Cõi dục có bốn: Nghĩa là thiện, bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký. Cõi sắc và cõi vô sắc, mỗi cõi đều có ba: Nghĩa là trong bốn thứ trước trừ bất thiện. Vô lậu có hai: Học, vô học.

Hỏi: Mười hai tâm này, mỗi mỗi đều vô gián sinh bao nhiêu tâm? Lại từ bao nhiêu tâm vô gián sinh?

Đáp: Tâm thiện ở cõi dục vô gián sinh chín tâm. Nghĩa là cõi dục có bốn, cõi sắc có hai là tâm thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi vô sắc có một là tâm hữu phú vô ký, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học. Tâm này lại từ tám tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi dục có bốn, cõi sắc có hai là tâm thiện và tâm hữu phú vô ký, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học.

Tâm bất thiện ở cõi dục vô gián sinh bốn tâm. Nghĩa là bốn tâm của cõi dục. Tâm này lại từ mười tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi dục có bốn, cõi sắc và cõi vô sắc mỗi cõi đều có ba.

Như tâm bất thiện ở cõi dục, tâm hữu phú vô ký ở cõi dục cũng như vậy.

Tâm vô phú vô ký ở cõi dục vô gián sinh bảy tâm. Nghĩa là cõi dục có bốn, cõi sắc có hai là tâm thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi vô sắc có một là tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ năm tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi dục có bốn, cõi sắc có một là tâm thiện.

Tâm thiện ở cõi sắc vô gián sinh mười một tâm. Nghĩa là trong mười hai tâm trừ tâm vô phú vô ký của cõi vô sắc. Tâm này lại từ chín tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi sắc có ba, cõi dục có hai là tâm thiện và tâm vô phú vô ký, cõi vô sắc có hai là tâm thiện và tâm hữu phú vô ký, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học.

Tâm hữu phú vô ký ở cõi sắc vô gián sinh sáu tâm. Nghĩa là cõi sắc có ba, cõi dục có ba trừ tâm vô phú vô ký. Tâm này lại từ tám tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi sắc và cõi vô sắc mỗi cõi đều có ba, cõi dục có hai là tâm thiện và tâm vô phú vô ký.

Tâm vô phú vô ký ở cõi sắc vô gián sinh sáu tâm. Nghĩa là cõi sắc có ba, cõi dục có hai là tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi vô sắc có một là tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ ba tâm vô gián sinh. Nghĩa là ba tâm ở cõi sắc.

Tâm thiện ở cõi vô sắc vô gián sinh chín tâm. Nghĩa là cõi vô sắc có ba, cõi dục có hai là tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi sắc có hai là tâm thiện và tâm hữu phú vô ký, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học. Tâm này lại từ sáu tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi vô sắc có ba, cõi sắc có một là tâm thiện, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học.

Tâm hữu phú vô ký ở cõi vô sắc vô gián sinh bảy tâm. Nghĩa là cõi vô sắc có ba, cõi dục có hai là tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi sắc có hai là tâm thiện và tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ bảy tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi vô sắc có ba, cõi dục và cõi sắc mỗi cõi đều có hai là tâm thiện và tâm vô phú vô ký.

Tâm vô phú vô ký ở cõi vô sắc vô gián sinh sáu tâm. Nghĩa là cõi vô sắc có ba, cõi dục có hai là tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi sắc có một là tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ ba tâm vô gián sinh. Nghĩa là ba tâm thuộc cõi vô sắc.

Tâm học vô gián sinh năm tâm. Nghĩa là tâm thiện của ba cõi, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học. Tâm này lại từ bốn tâm vô gián sinh. Nghĩa là tâm thiện của ba cõi cùng vô lậu có một là tâm học.

Tâm vô học vô gián sinh bốn tâm. Nghĩa là tâm thiện của ba cõi cùng vô lậu có một là tâm vô học. Tâm này lại từ năm tâm vô gián sinh. Nghĩa là tâm thiện của ba cõi cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học.

* Có hai mươi tâm: Cõi dục có tám: Là tâm gia hạnh thiện, sinh đắc thiện, bất thiện, hữu phú vô ký, đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh, thông quả.

Cõi sắc có sáu: Là trong tám tâm trước, trừ tâm bất thiện và xứ công xảo.

Cõi vô sắc có bốn: Là tâm gia hạnh thiện, sinh đắc thiện, hữu phú vô ký, dị thục sinh.

Vô lậu có hai: Là tâm học, tâm vô học.

Hỏi: Hai mươi tâm này, mỗi mỗi đều vô gián sinh bao nhiêu tâm? Lại từ bao nhiêu tâm vô gián sinh?

Đáp: Tâm gia hạnh thiện nơi cõi dục vô gián sinh mười tâm: Nghĩa là cõi dục có bảy trừ tâm thông quả, cõi sắc có một là tâm gia hạnh thiện, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học. Tâm này lại từ tám tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi dục có bốn trừ bốn tâm vô phú vô ký, cõi sắc có hai là tâm gia hạnh thiện và tâm hữu phú vô ký, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học.

Có Sư khác nói: Tâm này lại từ mười một tâm vô gián sinh. Nghĩa là gồm tám tâm trước và tâm dị thục sinh, tâm xứ công xảo, tâm đường oai nghi của cõi dục. Vì sao? Vì tâm gia hạnh thiện tu tập thuần thục là khởi từ đường oai nghi thuộc giới của mình và xứ công xảo cùng với tâm di thục sinh vô gián cũng hiện tiền.

Tâm sinh đắc thiện nơi cõi dục vô gián sinh chín tâm. Nghĩa là cõi dục có bảy trừ tâm thông quả, cõi sắc và cõi vô sắc đều có một là tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ mười một tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi dục có bảy trừ tâm thông quả, cõi sắc có hai là tâm gia hạnh thiện và tâm hữu phú vô ký, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học.

Tâm bất thiện nơi cõi dục vô gián sinh bảy tâm. Nghĩa là cõi dục có bảy trừ tâm thông quả. Tâm này lại từ mười bốn tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi dục có bảy trừ tâm thông quả, cõi sắc có bốn trừ tâm gia hạnh thiện và tâm thông quả, cõi vô sắc có ba trừ tâm gia hạnh thiện.

Như tâm bất thiện nơi cõi dục, tâm hữu phú vô ký nơi cõi dục cũng như thế.

Tâm đường oai nghi của cõi dục vô gián sinh tám tâm. Nghĩa là cõi dục có sáu trừ tâm gia hạnh thiện và tâm thông quả, cõi sắc và cõi vô sắc mỗi cõi đều có một tâm là tâm hữu phú vô ký.

Có Sư khác nói: Tâm này vô gián sinh chín tâm. Nghĩa là tám tâm trước và tâm gia hạnh thiện ở cõi dục, vì người tu tập thuần thục có thể hiện tiền. Tâm này lại từ bảy tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi dục có bảy trừ tâm thông quả.

Như tâm đường oai nghi ở cõi dục, tâm dị thục sinh ở cõi dục cũng như thế.

Tâm xứ công xảo vô gián sinh sáu tâm. Nghĩa là sáu tâm ở cõi dục trừ tâm gia hạnh thiện và tâm thông quả.

Có Sư khác nói: Tâm này vô gián sinh bảy tâm. Nghĩa là sáu tâm trước và tâm gia hạnh thiện của cõi dục, vì người tu tập thuần thục có thể hiện tiền. Tâm này lại từ bảy tâm vô gián sinh. Nghĩa là bảy tâm ở cõi dục trừ tâm thông quả.

Tâm thông quả ở cõi dục vô gián sinh hai tâm. Nghĩa là tâm thông quả ở cõi dục và tâm gia hạnh thiện ở cõi sắc. Tâm này lại từ hai tâm vô gián sinh. Nghĩa là tâm thông quả ở cõi dục và tâm gia hạnh thiện ở cõi sắc.

Tâm gia hạnh thiện ở cõi sắc vô gián sinh mười hai tâm. Nghĩa là cõi sắc có sáu, cõi dục có ba là tâm gia hạnh thiện, tâm sinh đắc thiện và tâm thông quả, cõi vô sắc có một là tâm gia hạnh thiện, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học. Tâm này lại từ mười tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi sắc có bốn trừ tâm đường oai nghi và tâm dị thục sinh, cõi dục có hai là tâm gia hạnh thiện và tâm thông quả, cõi vô sắc có hai là tâm gia hạnh thiện và tâm hữu phú vô ký, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học.

Tâm sinh đắc thiện ở cõi sắc vô gián sinh tám tâm. Nghĩa là cõi sắc có năm trừ tâm thông quả, cõi dục có hai là tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi vô sắc có một là tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ năm tâm vô gián sinh. Nghĩa là năm tâm của cõi sắc trừ tâm thông quả.

Tâm hữu phú vô ký ở cõi sắc vô gián sinh chín tâm. Nghĩa là cõi sắc có năm trừ tâm thông quả, cõi dục có bốn là tâm gia hạnh thiện, tâm sinh đắc thiện, tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ mười một tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi sắc có năm trừ tâm thông quả, cõi dục có ba là tâm sinh đắc thiện, tâm đường oai nghi và tâm dị thục sinh, cõi vô sắc có ba trừ tâm gia hạnh thiện.

Tâm đường oai nghi ở cõi sắc vô gián sinh bảy tâm. Nghĩa là cõi sắc có bốn trừ tâm gia hạnh thiện và tâm thông quả, cõi dục có hai là tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi vô sắc có một là tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ năm tâm vô gián sinh. Nghĩa là năm tâm ở cõi sắc trừ tâm thông quả.

Như tâm đường oai nghi ở cõi sắc, tâm dị thục sinh ở cõi sắc cũng như thế.

Tâm thông quả ở cõi sắc vô gián sinh hai tâm. Nghĩa là tâm gia hạnh thiện và tâm thông quả của cõi sắc . Tâm này lại từ hai tâm vô gián sinh. Nghĩa là tâm gia hạnh thiện và tâm thông quả của cõi sắc.

Tâm gia hạnh thiện ở cõi vô sắc vô gián sinh bảy tâm. Nghĩa là cõi vô sắc có bốn, cõi sắc có một là tâm gia hạnh thiện, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học. Tâm này lại từ sáu tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi vô sắc có ba trừ tâm dị thục sinh, cõi sắc có một là tâm gia hạnh thiện, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học.

Tâm sinh đắc thiện của cõi vô sắc vô gián sinh bảy tâm. Nghĩa là cõi vô sắc có bốn, cõi dục có hai là tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi sắc có một là tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ bốn tâm vô gián sinh. Nghĩa là bốn tâm của cõi vô sắc.

Tâm hữu phú vô ký ở cõi vô sắc vô gián sinh tám tâm. Nghĩa là cõi vô sắc có bốn, cõi dục có hai là tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi sắc có hai là tâm gia hạnh thiện và tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ mười tâm vô gián sinh. Nghĩa là cõi vô sắc có bốn, cõi dục và cõi sắc mỗi cõi đều có ba là tâm sinh đắc thiện, tâm đường oai nghi, tâm dị thục sinh.

Tâm dị thục sinh ở cõi vô sắc vô gián sinh sáu tâm. Nghĩa là cõi vô sắc có ba, trừ tâm gia hạnh thiện, cõi dục có hai là tâm bất thiện và tâm hữu phú vô ký, cõi sắc có một là tâm hữu phú vô ký. Tâm này lại từ bốn tâm vô gián sinh. Nghĩa là bốn tâm của cõi vô sắc.

Tâm học vô gián sinh sáu tâm. Nghĩa là cõi dục có hai là tâm gia hạnh thiện và tâm sinh đắc thiện, cõi sắc và cõi vô sắc mỗi cõi đều có một là tâm gia hạnh thiện, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học. Tâm này lại từ bốn tâm vô gián sinh. Nghĩa là ở ba cõi mỗi cõi đều có một là tâm gia hạnh thiện cùng tâm học.

Tâm vô học vô gián sinh năm tâm. Nghĩa là cõi dục có hai là tâm gia hạnh thiện và tâm sinh đắc thiện, cõi sắc và cõi vô sắc mỗi cõi đều có một là tâm gia hạnh thiện, cùng tâm vô học. Tâm này lại từ năm tâm vô gián sinh. Nghĩa là ở ba cõi mỗi cõi đều có một là tâm gia hạnh thiện, cùng vô lậu có hai là tâm học và tâm vô học.

***

* Bổ-đặc-già-la đã không thể thủ đắc, lại không có lý là tâm trước đi đến tâm sau, thì duyên vào cái gì để có thể nhớ lại sự việc trước kia đã làm? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận Tông chỉ của người khác và để làm sáng tỏ nghĩa của mình. Nghĩa là: Hoặc có lối chấp: Tự thể của Bổđặc-già-la là thật có, như Độc Tử Bộ. Bộ đó nói thế này: Ngã thừa nhận có ngã, có thể ghi nhớ lại sự việc trước kia đã làm. Vì trước mình đã tự nhận lãnh, nay tự gợi nhớ lại. Nếu không có ngã thì duyên vào đâu để có thể nhớ lại sự việc xưa kia mình đã làm?

Hoặc lại có lối chấp: Tính chất của sự vật luôn che giấu lẫn nhau, như nói: Các pháp cùng che giấu. Về phía ngoại đạo họ nói như thế này: Các pháp hữu vi đều có chia ra ngày và đêm, luôn che giấu lẫn nhau. Thời gian ban đêm đi vào ban ngày, tính chất ban ngày trong đêm tuy tồn tại nhưng không hiện rõ. Thời gian ban ngày đi vào trong đêm, tính chất đêm trong ngày tuy vẫn có đấy nhưng không hiện rõ. Như thế là có thể ghi nhớ lại việc vốn đã làm trong phần ngày đêm. Có ngày đêm nên có những việc đã làm trong ngày đêm và có khả năng nhớ lại lúc ngày và đêm. Nếu không như vậy thì duyên vào gì để có thể ghi nhớ lại việc trước đây mình đã làm?

Hoặc lại có lối chấp: Tính chất của sự việc luôn thay đổi cho nhau, như nói: Các pháp cùng biến đổi. Ngoại đạo kia đã nói thế này: Tức phần vị Yết-lạt-lam thay đổi làm phần vị Át-bộ-đàm, cho đến tức phần vị bền chắc biến đổi thành phần vị già yếu, như chính chiếc lá xanh biến đổi thành lá úa vàng. Như thế là có thể ghi nhớ lại những gì xưa kia mình đã làm, vì Thể tánh của vị trước vị sau không sai biệt, phần vị trước đã làm, phần vị sau có thể ghi nhớ. Nếu không như thế thì duyên vào đối tượng nào để có thể ghi nhớ sự việc vốn đã làm?

Hoặc lại có lối chấp: Tính chất của vật là cùng đi đến với nhau, như nói: Các pháp cùng đi đến. Ngoại đạo kia lại nói như vầy: Yếtlạt-lam đi đến nhập trong vị Át-bộ-đàm, cứ thế đi đến sự vững chắc rồi nhập vào trong sự già nua yếu đuối. Như vậy là có thể ghi nhớ lại sự việc vốn đã từng làm, vì có pháp trước trong vị sau, cho nên vị trước đã làm thì vị sau có thể ghi nhớ. Nếu không như thế thì duyên vào gì để có thể ghi nhớ sự việc vốn đã làm?

Hỏi: Tánh của vật cùng thay đổi và đi đến với nhau. Hai lối chấp của ngoại đạo kia có khác biệt gì không?

Đáp: Ngoại đạo chấp sự vật cùng thay đổi, tức vị trí trước biến đổi thành phần vị sau, không có phần vị trước trong phần vị sau. Ngoại đạo chấp sự vật đi đến với nhau, tức phần vị trước đi đến thì phần vị sau đã đến, tướng đó của phần vị sau không hư hoại, tức phần vị trước cùng với phần vị sau đều cùng lúc tăng trưởng.

Có thuyết cho: Ngoại đạo chấp sự thay đổi lẫn nhau, sau với trước không là một, không là khác. Ngoại đạo chấp cùng đi đến với nhau, sau với trước cũng là một, cũng là khác.

Hoặc lại có lối chấp: Giác tánh là một, như nói: Trước, sau là một giác luận. Nghĩa là người kia nói thế này: Trước biết sự việc đã làm, sau biết ghi nhớ lại. Tướng dụng của chúng tuy sai biệt, nhưng Thể tánh của chúng là một. Như thế là có thể ghi nhớ lại sự việc vốn đã làm, vì Thể giác của vị trước sau vẫn là một. Vị trước đã làm, vị sau có thể ghi nhớ. Nếu không như thế thì duyên vào gì để có thể ghi nhớ sự việc xưa kia đã làm?

Hoặc lại có lối chấp: Giới của ý là thường. Như chấp giới của ý là thường, Luận giả đó lại nói như thế này: Sáu thức tuy có sinh ra và diệt đi, nhưng giới của ý là thường. Như thế là có thể ghi nhớ lại sự việc vốn đã làm. Công việc đã làm của sáu thức, ý giới có khả năng ghi nhớ. Nếu không như thế thì duyên vào đối tượng nào để có thể ghi nhớ lại sự việc đã làm trước kia?

Hoặc lại có lối chấp: Có hai thứ uẩn: 1. Uẩn căn bản. 2. Uẩn tác dụng. Uẩn trước là thường, uẩn sau không phải là thường. Họ lại nói thế này: Hai uẩn căn bản và tác dụng tuy riêng khác, nhưng hòa hợp chung sẽ thành một hữu tình. Như vậy là có thể ghi nhớ lại sự việc vốn đã làm. Do những việc uẩn tác dụng đã làm, uẩn căn bản có thể ghi nhớ. Nếu không như thế thì duyên vào gì để có thể nhớ lại sự việc trước kia đã làm?

Hoặc lại có lối chấp: Tâm trước đi đến bảo với tâm sau: Tôi làm sự việc này, ông có thể nhớ giữ được không? Tâm sau nói: Tâm thông suốt cả những chỗ tối tăm, nhỏ nhặt. Tâm trước có làm việc gì, phải bảo cho tâm sau được biết. Như thế là có thể ghi nhớ lại sự việc đã làm trước đây. Nếu không như vậy thì duyên vào đối tượng nào để có thể ghi nhớ sự việc xưa kia đã làm?

Nhưng vượt qua số cát của sông Hằng, chư Phật và đệ tử của Phật, tuy không nói là có Bổ-đặc-già-la, cũng không nói là có tánh, tướng của sự vật cùng che giấu, cùng thay đổi, đi đến với nhau, một giác tánh, giới của ý là thường, uẩn căn bản khác, uẩn tác dụng khác, tâm trước đi đến bảo với tâm sau, nói có thể ghi nhớ lại sự việc xưa kia đã làm, quyết định những nghĩa này là vi tế, thật sâu xa khó có thể nhận biết tường tận.

Vì muốn chỉ rõ những quyết định về các nghĩa hết sức vi tế sâu xa như thế là rất khó có thể nhận thức đầy đủ về Thể tánh, tướng dụng của các pháp và cũng vì để ngăn chận Tông chỉ không hợp lý của người khác nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Trong đây, nên nói đủ là Bổ-đặc-già-la đã không thể thủ đắc, cũng không có tánh, tướng của sự vật che giấu nhau, thay đổi nhau, đi đến với nhau, một giác tánh, giới của ý là thường, uẩn căn bản khác, uẩn tác dụng khác, lý của tâm trước bảo với tâm sau, duyên với gì để có thể ghi nhớ lại sự việc xưa kia đã làm. Vì sao chỉ nói Bổ-đặc-già-la đã không thể thủ đắc? Lại nói không có lý tâm trước đi đến bảo với tâm sau?

Đáp: Ở đây nói Bổ-đặc-già-la không thể thủ đắc: Nghĩa là ngăn chận riêng một luận Bổ-đặc-già-la đầu tiên. Lại, không có lý tâm trước đi đến tâm sau: Nghĩa là ngăn chận chung cho cả bảy luận sau.

Có thuyết nói: Ở đây nói Bổ-đặc-già-la đã không thể thủ đắc: Nghĩa là nhằm ngăn chận luận Bổ-đặc-già-la đầu tiên. Lại, không có lý tâm trước đi đến tâm sau: Nghĩa là nhằm ngăn chận luận thứ tám về tâm trước đi đến bảo tâm sau. Vậy là đã ngăn chận cái đầu tiên và sau cuối, nên biết là đã ngăn chận sáu luận trung gian. Nghĩa là Sư của bản luận đã lược nêu phần đầu và sau, khiến các đệ tử thọ trì được dễ dàng.

HẾT – QUYỂN 11