KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Ma
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 7

Phẩm thứ 19: PHÁP SỐ TRỢ BỒ ĐỀ CỦA ĐỊA BỒ TÁT

Thế nào là Đà-la-ni của Bồ-tát Ma-ha-tát? Đà-la-ni có bốn thứ: Một là pháp Đà-la-ni. Hai là nghĩa Đà-la-ni. Ba là từ Đà-la-ni. Bốn là nhẫn Đà-la-ni.

Pháp Đà-la-ni: Tức là tâm Bồ-tát đạt được ức niệm, do niệm lực nên được đại trí tuệ. Do lực của đại trí tuệ nên nhận biết các pháp giới, ngôn từ câu chữ, kiên tâm thọ trì, trải qua vô lượng đời không có quên mất.

Nghĩa Đà-la-ni: Tức là như pháp Đà-la-ni, tùy thuận giải nghĩa, ở trong vô lượng đời thọ trì không quên.

Từ Đà-la-ni: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì phá trừ vô số thứ ác của chúng sinh, nên thọ trì thần chú, đọc tụng thông suốt, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Vì chú thuật nên thọ trì năm pháp: Một là không ăn thịt. Hai là không uống rượu. Ba là không ăn năm thứ cay nồng. Bốn là không dâm dục. Năm là không ở trong nhà bất tịnh để ăn uống. Bồ-tát đầy đủ năm thứ như vậy, có thể tạo lợi ích cho vô lượng chúng sinh, các thứ quỷ thần xấu ác, các thứ độc, các thứ bệnh, không gì là không đối trị được.

Nhẫn Đà-la-ni: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát do lực của trí tuệ, tâm ưa thích vắng lặng, không cùng với mọi người đều trụ, im lặng không nói, ở một mình không bạn, ăn uống biết đủ, tọa thiền tư duy, đêm không ngủ nghỉ. Bấy giờ, Đức Phật liền dùng chú Đà-la-ni dạy cho khiến tụng: Ất trí, mật trí, ký trí tỳ, sằn đề, bát đàn na, sa ha. Lúc ấy, Bồ-tát thọ nhận từ Phật rồi, thâm tâm quán xét biết chữ không có nghĩa. Do vô nghĩa nên không có nghĩa ngữ. Nếu không có nghĩa ngữ thì Từ cũng vô nghĩa. Pháp cũng vô nghĩa. Do vô nghĩa nên tất cả pháp đều không thể nói nêu. Nghĩa tức là nghĩa của tất cả các pháp vô nghĩa. Nhờ lực nhẫn nên có thể nhận biết rõ bốn thứ Đà-la-ni. Do biết rõ nên được đầy đủ nhẫn Đà-la-ni. Vì đầy đủ nhẫn Đà-la-ni nên không lâu sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Bồ-tát Ma-ha-tát vào A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất lúc tu tập hạnh, đắc hai Đà-la-ni là Pháp và Nghĩa. Nhân nơi hai Đà-la-ni Pháp và Nghĩa ấy nên tu tập Tam-muội. Vì tu tập Tam-muội, phát thệ nguyện, nên được hai Đà-la-ni là Từ và Nhẫn.

Bồ-tát nếu có thể tu tập bốn việc nên đắc bốn thứ Đà-la-ni: Một là không tham năm dục. Hai là không sinh tâm đố kỵ đối với chúng sinh. Ba là có thể bố thí. Bốn là ưa nghe chánh pháp, thọ trì đọc tụng, biên chép giải nói Pháp tạng Bồ-tát.

Bồ-tát phát đại thệ nguyện gồm có năm thứ: Một là Phát tâm phát nguyện. Hai là Hữu phát nguyện. Ba là Hành phát nguyện. Bốn là Thiện phát nguyện. Năm là Đại phát nguyện.

Lúc mới phát tâm Bồ-đề gọi là Phát tâm phát nguyện. Vì tạo lợi ích cho chúng sinh sinh nơi nẻo trời người, nên gọi là Hữu phát nguyện. Vì chúng sinh nên tu tâm vô lượng gọi là Hành phát nguyện. Tu tập tất cả pháp thiện của Bồ-tát gọi là Thiện phát nguyện. Không tiếc thân mạng để hộ trì chánh pháp, gọi là Đại phát nguyện.

Bồ-tát Ma-ha-tát nếu dùng mười thứ cúng dường Phật Pháp Tăng bảo, hộ trì chánh pháp, thấy người hộ trì pháp thì cung kính cúng dường. Đó gọi là đại thệ nguyện.

Bồ-tát Ma-ha-tát sinh nơi cõi trời Đâu suất cho đến Đại Niếtbàn. Đó gọi là đại thệ nguyện.

Bồ-tát Ma-ha-tát từ ban đầu phát tâm cho đến chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là đại thệ nguyện.

Bồ-tát Ma-ha-tát vì hóa độ chúng sinh nên có mặt khắp các cõi, tùy loại thọ thân. Đó gọi là đại thệ nguyện.

Bồ-tát Ma-ha-tát thường dùng pháp tạng Bồ-tát, luận tạng Bồtát Đại thừa để giáo hóa chúng sinh. Đó gọi là đại thệ nguyện.

Bồ-tát Ma-ha-tát phàm mọi sự diễn nói đều vì lợi ích, người không có căn thiện khiến được sinh căn thiện. Đó gọi là đại thệ nguyện.

Thế nào gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát tu Tam-muội không? Bồ-tát quán sâu tất cả các pháp, tánh có thể thuyết, nêu. Tánh có thể thuyết nêu này ở trong tánh không thể thuyết giảng là không nên gọi là Tammuội không.

Thế nào gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát tu Tam-muội vô nguyện? Bồtát Ma-ha-tát do tất cả pháp có thể tuyên thuyết nên có ngã có ngã sở. Có ngã và ngã sở nên gọi là khổ. Bồ-tát Ma-ha-tát phá bỏ tưởng tà, biết tất cả pháp không thể tuyên thuyết, cho nên không chấp trước nơi ngã và ngã sở. Vì không có ngã và ngã sở nên không nguyện cầu, thế nên gọi là Tam-muội vô nguyện.

Thế nào gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát tu Tam-muội vô tướng? Bồ-tát Ma-ha-tát nhận biết tất cả pháp là không thể tuyên thuyết. Do không thể tuyên thuyết nên đều không có tướng của tất cả phiền não. Vì không có tướng nên gọi là tịch tĩnh. Vì tu tập tịch tĩnh nên gọi là Tam-muội vô tướng.

Vì sao Đức Như Lai thuyết ba Tam-muội? Do tất cả các pháp gồm có hai thứ: Một là có của hữu vi. Hai là có của vô vi. Có của hữu vi: Nghĩa là ngã và ngã sở. Có của vô vi: Nghĩa là Niết-bàn. Có của hữu vi tức là Bồ-tát Ma-ha-tát quán tất cả khổ, không sinh nguyện cầu. Đó gọi là Tam-muội vô nguyện. Có của vô vi tức là Niết-bàn. Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong Niết-bàn không nghĩ tưởng vui. Đó gọi là Tam-muội vô tướng. Vô vi là cũng có cũng không, nên Bồ-tát chẳng phải nguyện, chẳng phải không nguyện. Bồ-tát Ma-ha-tát thấy có có, thấy không không, trong có thì không không, trong không thì không có. Đó gọi là không. Bồ-tát bấy giờ tu Tam-muội không, được trí chân thật. Tam-muội như vậy hàng Thanh văn, Duyên giác cũng tu cũng học nhưng không thể nói, tất cả các pháp là không thể tuyên thuyết. Chư Phật, Bồ-tát, vì khiến cho chúng sinh đạt được tịch tĩnh nên thuyết giảng bốn pháp này. Tất cả các pháp hữu vi là vô thường, khổ, không, vô ngã, Niết-bàn là tịch tĩnh. Chư Phật, Bồ-tát vì các chúng sinh nên thuyết giảng bốn pháp này, phải biết là đã thuyết giảng về các pháp căn bản của tất cả pháp giới. Đó gọi là Ưu-đà-na. Ưu-đà-na: Nghĩa là thời quá khứ, vô lượng tất cả Phật cũng thuyết giảng như vậy, có thể tạo sự hơn hết, gọi là Ưu-đà-na. Có thể làm tăng trưởng pháp thiện, gọi là Ưu-đà-na.

Vì sao Bồ-tát thấy pháp hữu vi đều là vô thường? Bồ-tát Maha-tát nhận biết pháp hữu vi có thể thuyết về vô thường, thế nên tất cả hữu vi là vô thường. Nhận biết tánh của các pháp trong nghĩa chân thật, không có nhân quả, nên không thể tuyên thuyết, vì vậy tác tướng nói tất cả pháp đều là sinh diệt. Cho nên hữu vi quá khứ cũng sinh cũng diệt, pháp của quá khứ không thấy có nhân, không thấy có tánh. Do không thấy nhân và tánh nên nói pháp của quá khứ đều là vô thường. Pháp hiện tại biết sinh nhưng không biết diệt. Pháp của hiện tại không thấy nhân nhưng thấy quả, thấy tánh. Do không diệt nên nhận biết tánh không nhận biết nhân. Pháp hữu vi vị lai không thấy sinh diệt, cho nên nhận biết nhân, không nhận biết quả, không nhận biết tánh. Do chưa sinh thế nên Bồ-tát nhận biết nhân không nhận biết tánh.

Bấy giờ, quán sát ba đời, trong mỗi mỗi niệm có ba tướng, nếu qua một niệm tức có bốn tướng. Pháp trước đã diệt, lần lượt sinh ra pháp tương tợ. Đó gọi là sinh. Sinh rồi tạo việc. Đó gọi là trụ. Tướng của pháp trước diệt, pháp diệt rồi thấy tương tợ. Đó gọi là già. Sinh rồi không trụ đến nơi hai niệm. Đó gọi là hoại. Bồ-tát thấy một thứ tướng của pháp hữu vi, như sinh, thì trụ, lão cũng lại như vậy, chỉ có tướng hoại là khác. Vì sao? Vì không cùng với ba tướng kia trụ. Như vậy bốn tướng thấy có hai thứ: Một là có. Hai là không. Có là ba tướng. Không là tướng thứ tư. Bồ-tát thấy pháp hữu vi, không thấy sinh, không thấy trụ, không thấy già, không thấy hoại. Vì sao? Vì sinh, trụ, già, hoại, không có tánh chân thật. Bồ-tát Ma-ha-tát thấy sắc pháp sinh, sắc pháp trụ, sắc pháp già, sắc pháp hoại, không thấy sinh, trụ, già, hoại. Bồ-tát Ma-ha-tát do phương tiện quán, nên không thấy bốn tướng. Phương tiện quán tức là Bồ-tát quán. Nếu lìa sắc pháp riêng có sinh, thì lúc sắc pháp sinh, sinh cũng nên sinh. Nếu như vậy thì tất cả các pháp đều nên có hai thứ sinh: Một là sắc sinh. Hai là sinh sinh. Hai thứ sinh như vậy hoặc tức là pháp, hoặc tức là lìa pháp. Nếu không lìa thì không có sinh. Nếu nói lìa pháp riêng có sinh, thì nghĩa này không đúng. Nếu không lìa thì lúc ấy sắc không có sinh, do nhân duyên sinh nên sinh, thì trụ, già, hoại cũng như vậy. Nếu tự tánh của hoại là có, phải biết hoại này cũng sinh cũng hoại. Nếu hoại sinh, nên biết tất cả pháp hữu vi đều không có diệt. Lúc nhập định diệt, tâm tâm số pháp thường nên sinh trở lại. Lúc sắc pháp diệt cũng nên sinh trở lại. Vì sao? Vì hoại này sinh, thế nên các pháp đều phải là thường, vì thế Bồtát lìa sắc pháp rồi không thấy bốn tướng, biết tánh của pháp hữu vi là vô thường, nên cũng thường tuyên thuyết hữu vi là vô thường. Bồ-tát quán thấy pháp hữu vi có ba thứ khổ, là khổ khổ, hành khổ, hoại khổ, cho nên Đức Như Lai nói tất cả pháp hữu vi là khổ.

Vì sao Bồ-tát thấy pháp hữu vi là vô ngã? Vô ngã có hai thứ:

Một là chúng sinh vô ngã. Hai là pháp vô ngã. Chúng sinh vô ngã tức chúng sinh chẳng phải là pháp có, chẳng phải là pháp không, chẳng phải là pháp lìa có, không. Đây gọi là chúng sinh vô ngã. Pháp vô ngã tức là tất cả các pháp có thể tuyên thuyết, tánh có thể tuyên thuyết là không, cho nên gọi là pháp vô ngã. Có hai thứ vô ngã như vậy, vì thế Đức Như Lai nói tất cả pháp hữu vi là vô ngã. Như vậy hữu vi đoạn, nhân hiện tại đoạn, là chướng ngại nơi nhân vị lai đoạn. Đó gọi là Niết-bàn, do không có phiền não kiết nên gọi là tịch tĩnh.

Nếu Bồ-tát dùng tâm bất tịnh quán về Niết-bàn, hàng Thanh văn chưa được đạo quả, quán về Niết-bàn, đây đều là chưa thật nhận biết tánh của Niết-bàn, cũng là tướng của Niết-bàn. Ví như đại vương vì các người con nên tạo ra các thứ voi, ngựa, nai, thỏ, bằng gỗ. Các người con cũng đối với các tượng giả này tưởng là chân thật. Có lúc vua khen ngợi voi ngựa này, các con cũng khen voi ngựa mình. Sau đó ra khỏi nhà, thấy voi ngựa thật liền sinh tâm xấu hổ, nghĩ: Vì sao chúng ta đối với các thứ voi ngựa giả này tưởng là chân thật? Vì sao đối với vật đồng tên đồng tướng này khởi tưởng là thật? Như Lai cũng nói, tâm Bồ-tát không thanh tịnh. Thanh văn chưa chứng đạo quả, ở trong nhà sinh tử, Như Lai vì họ nên thuyết giảng Niết-bàn tịch tĩnh. Bồ-tát, Thanh văn nghe rồi cũng sinh tưởng Niết-bàn chân thật, nhưng thật sự không thể nhận biết Niết-bàn chân thật. Lúc nghe Phật nói, sinh tâm tác tưởng nói là Niết-bàn. Sau khi tu tập tám chánh đạo rồi, được trí tuệ thanh tịnh, ra khỏi nhà sinh tử, lúc ấy mới thật nhận biết tánh của Niết-bàn và sinh tâm xấu hổ, nghĩ: Vì sao chúng ta đối với chỗ không phải là Niết-bàn, sinh khởi tưởng Niết-bàn. Ví như người bệnh đến chỗ thầy thuốc. Bấy giờ thầy thuốc vì chữa bệnh nên tùy bệnh cho thuốc. Người bệnh được thuốc, tâm sinh hoan hỷ, khởi tưởng thuốc này là hay nhất rồi liền uống, sau khi uống xong tuy bệnh đã lành nhưng lại phát sinh bệnh khác. Lúc này thầy thuốc bỏ thuốc cũ, trao cho thuốc mới, người bệnh nói: Đại sư! Thuốc trước kia là tốt, có thể trị bệnh, chẳng phải là thuốc này. Tuy thầy thuốc nói đây là thuốc tốt, nhưng người bệnh không chịu tin. Người bệnh sau khi uống thuốc bệnh lành mới chịu tin và sinh tâm xấu hổ. Lúc Đức Phật thuyết giảng pháp cũng lại như vậy, chúng sinh nghe rồi trừ được ít phiền não, liền sinh ý tưởng là chân thật, sau đó lại khởi phiền não, nói Phật là vô thường, Như Lai vì họ thuyết giảng pháp thâm diệu, tuy nghe nhưng vẫn không sinh tin, lấy pháp trước kia làm thật. Nếu Bồ-tát được đạo thanh tịnh, lúc ấy mới sinh tâm xấu hổ, biết Như Lai là thường, vì sao ta nói Như Lai là vô thường. Thế nên Như Lai nói tất cả pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã.

Niết-bàn là tịch tĩnh.

**********

Phẩm thứ 20: CÔNG ĐỨC CỦA ĐỊA BỒ TÁT

Bồ-tát Ma-ha-tát tu hành Bồ-đề có năm việc không thể nghĩ bàn: Một là thương xót tất cả chúng sinh. Hai là vì tạo lợi ích cho chúng sinh nên thọ khổ của sinh tử. Ba là dùng phương tiện thiện xảo để điều phục chúng sinh. Bốn là phát tâm muốn biết nghĩa thâm diệu khó lãnh hội. Năm là muốn nhận biết về thần túc không thể nghĩ bàn. Năm pháp như vậy không cùng chung với tất cả chúng sinh, nên gọi là không thể nghĩ bàn.

Bồ-tát Ma-ha-tát lại có năm việc không thể nghĩ bàn: Bồ-tát Ma-ha-tát vì tạo lợi ích cho các chúng sinh nên thọ nhân khổ, vì thọ nhân khổ nên được thọ an lạc, do thọ an lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát quán sinh tử là hoạn nạn, Niết-bàn là tịch tĩnh, vì chúng sinh nên không ưa chứng đắc Niết-bàn mà lại lưu chuyển trong sinh tử. Đó gọi là thọ lạc. Do thọ lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát ưa ở chỗ vắng lặng an nhiên, vì các chúng sinh diễn nói chánh pháp. Đó gọi là thọ lạc. Do thọ lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát vì chúng sinh nên thực hành sáu pháp Ba-la-mật, cũng lại không cầu quả của sáu Ba-la-mật. Đó gọi là thọ lạc. Do thọ lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát hành tác sự nghiệp cho người khác như làm việc cho mình, tâm tùy thuận vui vẻ không từ lao khổ. Đó gọi là thọ lạc. Do thọ lạc nên thành tựu đầy đủ pháp không thể nghĩ bàn.

Trên đây là năm việc làm, đạt được pháp không thể nghĩ bàn của Bồ-tát.

Bồ-tát lại có năm việc đối với chúng sinh tâm luôn bình đẳng: Một là lúc ban đầu phát tâm Bồ-đề, khắp vì tất cả, chẳng phải vì một người. Đó gọi là bình đẳng. Hai là Bồ-tát lúc tu tập đại bi, khắp vì tất cả, chẳng phải vì một người. Đó gọi là bình đẳng. Ba là lúc Bồ-tát tu tập một loại địa, khắp vì tất cả, chẳng phải vì một người. Đó gọi là bình đẳng. Bốn là Bồ-tát quán khắp mười hai nhân duyên, tất cả là có. Đó gọi là bình đẳng. Năm là Bồ-tát lúc cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng, khắp vì tất cả, chẳng phải vì một người. Đó gọi là bình đẳng.

Bồ-tát Ma-ha-tát lại có năm việc vì tạo tạo lợi ích cho chúng sinh: Một là dạy tu chánh mạng. Hai là dạy tập phương tiện của việc đời. Ba là thấy người nghèo khó tìm phương tiện dạy họ khiến phá trừ nghèo khổ. Bốn là vì người thượng thiện thuyết giảng đạo chân thật. Năm là vì người của ba thừa thuyết giảng pháp của ba thừa. Đó gọi là năm sự tạo lợi ích.

Chúng sinh có năm pháp để báo ân Bồ-tát: Một là thọ trì pháp thiện và tất cả giới cấm. Hai là người bần cùng thọ nhận lời dạy rồi y theo đấy thực hành, trừ bỏ sự bần cùng. Ba là cúng dường Tam bảo. Bốn là ở chỗ Bồ-tát nghe pháp rồi thọ trì, đọc tụng, biên chép, phân biệt giải nói, chuyển dạy cho người khác. Năm là thấy người thọ trì liền cung kính cúng dường.

Bồ-tát Ma-ha-tát hành trì đạo Bồ-đề, chí tâm lập nguyện thường cầu năm việc: Một là thường nguyện thế gian có Phật ra đời. Hai là thường nguyện đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Ba là thường nguyện tìm cầu pháp tạng và luận tạng của Bồ-tát. Bốn là thường nguyện sẽ được giải thoát. Năm là thường nguyện quyến thuộc thành tựu.

Bồ-tát lại có năm việc tạo lợi ích cho các chúng sinh, như trong phẩm tự lợi lợi tha đã nói. Bồ-tát lại có năm việc mau chóng chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Một là hộ trì chánh pháp. Hai là tu hành hạnh thiện. Ba là có lực trí tuệ. Bốn là chuyên tâm tịch tĩnh. Năm là nhất định đạt được tánh Bồ-tát.

Hộ trì chánh pháp: Tức là Bồ-tát đầy đủ hộ Đà-la-ni, từ người khác nghe pháp mau được hiểu rõ. Lại nữa, Bồ-tát đầy đủ hộ niệm, do hộ niệm nên thọ pháp không quên. Lại nữa, Bồ-tát đầy đủ hộ trí tuệ, do hộ trí tuệ nên phân biệt pháp giới. Lại nữa, Bồ-tát đầy đủ hộ tâm, điều phục các căn. Lại nữa, Bồ-tát đầy đủ hộ tha tâm, tùy người thực hành. Đó gọi là hộ pháp tu hành hạnh thiện.

Tu hành hạnh thiện: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát đối với pháp thuận giải thuận thuyết, thường tu pháp thiện, bốn tâm vô lượng, nguyện hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là tu hành hạnh thiện.

Lực trí tuệ: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát từ lúc mới phát tâm Bồ-đề tu tập cho đến chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là lực trí tuệ.

Chuyên tâm tịch tĩnh: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát dùng mười pháp thanh tịnh cúng dường Như Lai, như trên đã nói. Đó gọi là tịch tĩnh.

Nhất định đạt được tánh Bồ-tát: Tức là Bồ-tát trụ nơi một loại địa, là địa không thoái chuyển. Đó gọi là nhất định đạt được tánh Bồ-tát.

Bồ-tát Ma-ha-tát có năm việc khiến pháp thiện tổn giảm: Một là không thể cúng dường đối với pháp và người thuyết pháp. Hai là phóng dật, biếng nhác. Ba là ưa dấy khởi phiền não, tâm động không yên. Bốn là đối với Bồ-tát đồng hạng tâm sinh kiêu mạn. Năm là đối với Tạng Bồ-tát lại giải nghĩa điên đảo.

Bồ-tát có năm việc làm cho pháp thiện tăng trưởng: Một là cúng dường đối với pháp và người thuyết pháp. Hai là thâu giữ tâm hành tinh tấn. Ba là có khởi phiền não, tâm dốc trừ diệt. Bốn là đối với Bồ-tát đồng hạng tâm sinh cung kính. Năm là đối với Tạng Bồtát luôn tùy thuận giải nghĩa.

Có năm việc thật chẳng phải là Bồ-tát, giả gọi là Bồ-tát, thật chẳng phải là Sa-môn, giả gọi là Sa-môn, thật chẳng phải là bậc phạm hạnh, giả gọi là bậc phạm hạnh, không đắc giới Bồ-tát, không cùng ở chung: Một là tánh ác. Hai là hộ trì người hủy giới. Ba là không được thiền định mà hiển bày tướng được thiền. Bốn là tự nuôi sống bằng tà mạng. Năm là thấy người có trí sinh tâm ganh ghét, phỉ báng.

Có năm việc đúng thật là Bồ-tát, thật gọi là Sa-môn, thật gọi là bậc phạm hạnh, đắc giới Bồ-tát, được cùng ở chung: Một là tánh thiện điều hòa. Hai là đối trị người hủy giới. Ba là thật đắc thiền định, không hiện bày tướng. Bốn là tự sống bằng chánh mạng. Năm là thấy người có trí sinh tâm hoan hỷ, khen ngợi.

Bồ-tát Ma-ha-tát giáo hóa chúng sinh có mười điều: Một là vì phá trừ pháp ác. Hai là vì nhận biết pháp giới. Ba là không tạo phạm. Bốn là phạm rồi thì hổ thẹn sám hối. Năm là điều phục các căn. Sáu là không phóng dật. Bảy là xa lìa tri thức ác. Tám là ở chỗ vắng lặng. Chín là xa lìa phiền não. Mười là được giải thoát.

Thọ ký cho Bồ-tát có sáu việc: Một là định có tánh Bồ-tát nhưng chưa phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Hai là chưa có tánh Bồ-tát nhưng phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Ba là có tánh Bồ-tát và phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Bốn là ở trong vô lượng đời vì Bồ-đề nên tu hành hạnh thiện. Năm là quyết định chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng nhưng không nói thời nhất định. Sáu là nhất định chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng, cũng nói thời nhất định.

Có ba việc Bồ-tát quyết định chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Một là quyết định có tánh. Hai là được tâm bất thoái. Ba là phàm làm việc đều vì chúng sinh nên sinh khởi chủng tử của pháp thiện. Bồ-tát do ba việc này nên được Phật thọ ký.

Bồ-tát Ma-ha-tát nếu có đủ năm việc thì không chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Một là không phát tâm Bồ-đề. Hai là không có tâm thương xót. Ba là không siêng năng tinh tấn. Bốn là không kính trọng giới. Năm là không hiểu biết tất cả việc ở thế gian. Bồ-tát nếu có đủ năm việc như vậy, thì không chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Nếu nói có năm pháp như thế nhưng vẫn chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng, thì thật không có việc ấy.

Có năm việc Bồ-tát thường tu tập: Một là không phóng dật. Hai là vì phá trừ sự bần cùng khốn khổ cho chúng sinh. Ba là cúng dường Tam bảo. Bốn là chí tâm trì giới có phạm liền nhận biết. Năm là làm được việc thiện đều hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Bồ-tát Ma-ha-tát có mười pháp hơn tất cả pháp: Một là tánh Bồ-tát hơn tất cả tánh. Hai là ban đầu phát tâm Bồ-đề hơn tất cả sự phát tâm ở thế gian và xuất thế gian. Ba là tinh tấn Ba-la-mật và trí tuệ Ba-la-mật hơn tất cả các thứ Ba-la-mật. Bốn là dùng lời nói nhu hòa hành nhiếp pháp hơn cả các nhiếp pháp khác. Năm là Như Lai hơn tất cả chúng sinh. Sáu là tâm bi hơn tất cả tâm vô lượng. Bảy là chỗ tu tứ thiền hơn tất cả thiền. Tám là Tam-muội không hơn tất cả Tam-muội. Chín là định diệt tận hơn tất cả định diệt. Mười là phương tiện thanh tịnh hơn tất cả phương tiện.

Có bốn việc chỉ có Phật và Bồ-tát mới có thể lưu hành khắp, nếu từ Phật nghe thì có thể lưu hành khắp: Một là pháp lưu hành khắp. Hai là thật lưu hành khắp. Ba là phương tiện lưu hành khắp. Bốn là thừa lưu hành khắp.

Pháp lưu hành khắp: Tức là thứ lớp diễn nói mười hai bộ kinh.

Thật lưu hành khắp có một thứ, đó là không vọng ngữ. Lại có hai thứ: một là thế đế, hai là đệ nhất nghĩa đế. Lại có ba thứ: một là tướng thật, hai là khẩu thật, ba là hành thật. Lại có bốn thứ: một là khổ, hai là tập, ba là diệt, bốn là đạo. Lại có năm thứ: một là nhân thật, hai là quả thật, ba là trí thật, bốn là nhận biết cảnh giới thật, năm là vô thượng thật. Lại có sáu thứ: một là thật thật, hai là hư vọng thật, ba là trí thật, bốn là xa lìa thật, năm là chứng thật, sáu là tu thật. Lại có bảy thứ: một là ái thật, hai là khổ thật, ba là giải thoát thật, bốn là pháp thật, năm là hiểu thật, sáu là Thánh thật, bảy là phi Thánh thật. Lại có tám thứ: một là hành khổ thật, hai là khổ khổ thật, ba là sinh khổ thật, bốn là diệt thật, năm là phiền não thật, sáu là giải thoát thật, bảy là hành thiện thật, tám là quả thiện thật. Lại có chín thứ: một là vô thường thật, hai là khổ thật, ba là bất tịnh thật, bốn là không thật, năm là vô ngã thật, sáu là hữu ái thật, bảy là đoạn ái thật, tám là đoạn phương tiện hai ái thật, chín là Niết-bàn hữu dư thật. Lại có mười thứ: một là chẳng phải phần mà gắng làm khổ thật, hai là bần cùng là khổ thật, ba là bốn đại không điều hòa là khổ thật, bốn là ái xa nhau là khổ thật, năm là oán ghét gặp nhau là khổ thật, sáu là nghiệp thật, bảy là quả báo thật, tám là phiền não thật, chín là khéo tư duy thật, mười là chánh kiến thật. Mười thứ trên đây gọi là thật lưu hành khắp.

Phương tiện lưu hành khắp: Tức như trong Phẩm Phương Tiện đã nói.

Thừa lưu hành khắp: Tức là thừa Thanh văn, thừa Duyên giác và Phật thừa.

Bồ-tát Ma-ha-tát quán tất cả phương tiện có năm thứ vô lượng: Một là cõi chúng sinh vô lượng. Hai là thế giới vô lượng. Ba là pháp giới vô lượng. Bốn là cảnh giới điều phục vô lượng. Năm là phương tiện điều phục vô lượng.

Cõi chúng sinh: Tức có sáu mươi mốt thứ. Bồ-tát trụ ở địa hỷ, quán cõi chúng sinh chuyển làm vô lượng.

Thế giới vô lượng: Nghĩa là có vô lượng tên gọi về thế giới, như thế giới này gọi là Ta bà, Phạm thiên gọi là chủ Ta bà.

Pháp vô lượng: Tức là thiện, bất thiện và vô ký, chuyển làm vô lượng.

Điều phục vô lượng: Có một thứ đó là điều phục. Lại có hai thứ: đó là phiền não đầy đủ và phiền não không đầy đủ. Lại có ba thứ: đó là căn trí bậc thượng, trung và hạ. Lại có bốn thứ: đó là Bà-la-môn, Sát-lợi, Tỳ-xá và Thủ-đà. Lại có năm thứ: đó là nhiều tham, nhiều sân, nhiều si, nhiều mạn, nhiều giác quán ác. Lại có sáu thứ: đó là xuất gia, tại gia, chưa thành thục, đã thành thục, chưa giải thoát, đã giải thoát. Lại có bảy thứ: Một là nghe rồi liền hiểu. Hai là do thí dụ nên được hiểu. Ba là một câu hiểu một câu. Bốn là một chữ hiểu một chữ. Năm là hiện tại thành thục. Sáu là đời sau thành thục. Bảy là tùy nhân duyên nên thành thục. Lại có tám thứ: đó là tám chúng. Lại có chín thứ: Một là Như Lai điều phục. Hai là Thanh văn điều phục. Ba là Duyên giác điều phục. Bốn là Bồ-tát điều phục. Năm là khó điều phục. Sáu là dễ điều phục. Bảy là dùng lời nhu hòa điều phục. Tám là dùng quở trách điều phục. Chín là dùng lời nhu hòa quở trách điều phục. Lại có mười thứ: Một là địa ngục. Hai là ngạ quỷ. Ba là súc sinh. Bốn là trời người thuộc dục giới. Năm là trung ấm. Sáu là sắc. Bảy là phi sắc. Tám là tưởng. Chín là vô tưởng. Mười là phi tưởng phi phi tưởng. Trên đây là năm mươi lăm thứ quán tạo vô lượng.

Chúng sinh giới và điều phục giới có gì khác nhau? Chúng sinh giới hoàn toàn không phân biệt có tánh hay không tánh. Điều phục giới thì phân biệt có tánh và không tánh.

Phương tiện điều phục vô lượng tức như trong phẩm đầu đã thuyết. Thế nên Bồ-tát có năm thứ vô lượng này thâu lấy tất cả phương tiện.

Bồ-tát Ma-ha-tát muốn nhận biết chân thật phải cầu bốn việc: Một là suy cầu nơi vật. Hai là suy cầu nơi tên. Ba là suy cầu nơi tánh. Bốn là suy cầu phân biệt. Bốn việc như vậy cũng như trước đã nói. Chư Phật, Bồ-tát vì chúng sinh thuyết pháp có năm việc: Một là lúc thuyết giảng liền tỏ ngộ bốn đế. Hai là lúc thuyết giảng tức được giải thoát. Ba là lúc thuyết giảng tức phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Bốn là lúc thuyết giảng được pháp nhẫn nhục của Bồ-tát. Năm là chúng sinh nghe rồi thì thọ trì, đọc tụng biên chép giải nói, hộ trì chánh pháp. Đó gọi là chư Phật, Bồ-tát vì chúng sinh thuyết pháp, được công đức lớn không thể nghĩ bàn.

Thế nào gọi là Đại thừa? Có bảy việc lớn nên gọi là Đại thừa: Một là pháp lớn. Pháp lớn: Nghĩa là pháp tạng của Bồ-tát ở trong mười hai bộ kinh là tối đại tối thượng nên gọi là Phương đẳng. Hai là tâm lớn. Tâm lớn: Nghĩa là phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Ba là hiểu biết lớn. Hiểu biết lớn: Nghĩa là hiểu biết về tạng Bồ-tát, kinh Phương đẳng. Bốn là thanh tịnh lớn. Thanh tịnh lớn: Nghĩa là Bồ-tát phát tâm rồi tâm ấy luôn thanh tịnh, cho đến chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Năm là trang nghiêm lớn. Trang nghiêm lớn: Nghĩa là Bồ-tát đầy đủ công đức trang nghiêm, trí tuệ trang nghiêm, chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Sáu là thời gian lớn. Thời gian lớn: Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát vì Bồ-đề Vô thượng, trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp tu hành khổ hạnh. Bảy là đầy đủ lớn. Đầy đủ lớn: Nghĩa là Bồ-tát đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm, chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Pháp lớn, tâm lớn, hiểu biết lớn, thanh tịnh lớn, trang nghiêm lớn, thời gian lớn, sáu thứ lớn như vậy gọi là nhân. Đầy đủ lớn gọi là quả.

Có tám pháp có thể thâu tóm tất cả Đại thừa: Một là diễn nói pháp tạng Bồ-tát. Hai là thuyết giảng nghĩa của tạng Bồ-tát. Ba là nói về chư Phật, Bồ-tát không thể nghĩ bàn trong tạng Bồ-tát. Bốn là suy nghĩ về ý nghĩa trong ấy. Năm là tu tập ý nghĩa. Sáu là đạt được đầy đủ nghĩa. Bảy là đạt được quả tu tập. Tám là hiểu rõ nghĩa sâu xa. Bồ-tát Ma-ha-tát học tám pháp như vậy, tức chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Bồ-tát tu học Bồ-đề của Bồ-tát gồm có mười thứ: Một là tánh trụ. Hai là nhập. Ba là tâm bất tịnh. Bốn là tâm tịnh. Năm là không thành thục. Sáu là thành thục. Bảy là không định. Tám là định. Chín là một đời chứng đắc. Mười là hiện thân đạt được tánh định. Tâm tịnh học các pháp, đó gọi là trụ. Phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng gọi là nhập. Người nhập chưa đắc địa tịnh nên gọi là bất tịnh. Đắc địa tịnh rồi gọi là tịnh. Người tịnh lúc chưa nhập địa rốt ráo gọi là không thành thục. Nhập địa rốt ráo rồi gọi là thành thục. Người thành thục chưa nhập định địa gọi là không định. Nhập rồi gọi là định. Thành thục có hai thứ: Một là một đời chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Hai là hiện thân chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Mười thứ như vậy, Bồ-tát Ma-ha-tát có thể thọ giới Bồ-tát, hành trì giới Bồ-tát. Mười thứ này Bồ-tát gồm thâu tất cả Bồ-tát. Nếu có thể chí tâm thọ trì, tu hành giới Bồ-tát, đó gọi là Bồ-tát, gọi là Ma-ha-tát, gọi là người trí, gọi là dũng mãnh, gọi là vô thượng, gọi là Phật tử, gọi là Phật trì, gọi là đại thắng, gọi là Phật giới, gọi là vô úy, gọi là Đại Thánh, gọi là Thương chủ, gọi là Thuyền sư, gọi là đại danh xưng, gọi là thương xót, gọi là đại công đức, gọi là tự tại, gọi là pháp trì, gọi là không thể nghĩ bàn, gọi là có thể nhận biết về vô lượng thế giới trong mười phương, như xem quả A-ma-lặc trong lòng bàn tay.

Nếu có người nói: Ta là Bồ-tát, không thọ giới Bồ-tát, không thể chí tâm hành trì giới Bồ-tát, nhưng sinh tâm tín, nên biết là Bồ-tát muốn chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Nếu có người nói: Ta là Bồ-tát, không thể chí tâm thọ trì giới Bồ-tát, tâm không sinh tín. Đó gọi là Bồ-tát danh tự, thật lâu mới chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Nếu có người nói: Ta là Bồ-tát, thọ trì giới Bồ-tát, chí tâm tu hành, tin giới Bồ-tát. Đó gọi là đã vào trong mười thứ của Bồ-tát, không lâu nhất định sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Nếu có người nói: Ta là Bồ-tát, thọ giới Bồ-tát, không thể chí tâm hộ trì giới cấm, hủy giới đã thọ, tâm không sinh tín. Đó gọi là Bồ-tát Chiên-đà-la, không gọi là danh Bồ-tát, không gọi là nghĩa Bồ-tát.

*********

Phẩm thứ 1: TƯỚNG BỒ TÁT CỦA NHƯ PHÁP TRỤ

Bồ-tát chân thật có năm thứ tướng. Bồ-tát do đầy đủ năm thứ tướng, nên gọi là Bồ-tát chân thật: Một là tâm thương xót. Hai là lời nhu hòa. Ba là dũng mãnh. Bốn là không tham. Năm là giải nói nghĩa sâu.

Năm pháp như vậy có năm thứ trí: Một là tánh. Hai là nhân duyên. Ba là quả công đức. Bốn là thứ lớp. Năm là thâu giữ.

Tánh thương xót có hai thứ: Một là chí tâm. Hai là như pháp.

Chí tâm: Tức là bố thí các sự an ổn. Đó gọi là tánh.

Như pháp: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát đem sự an vui như mình để bố thí chúng sinh. Đó gọi là như pháp.

Tánh nhu hòa: Tức là trước hết dùng lời hợp ý, lời hoan hỷ, lời xa lìa ác, lời tạo lợi ích. Đó gọi là tánh nhu hòa.

Tánh dũng mãnh: Tức là tâm không sợ hãi, quả cảm, dũng mãnh, có thể phá bỏ sự sợ hãi cho chúng sinh. Đó gọi là tánh mạnh mẽ.

Tánh không tham: Tức là hành tất cả thí, thí thanh tịnh, thí rồi không hối hận. Đó gọi là tánh không tham.

Tánh giải nói nghĩa sâu: Tức là bốn trí vô ngại. Đó gọi là tánh giải nói nghĩa sâu.

Nhân duyên của thương xót gồm có năm thứ: Một là chúng sinh thọ khổ. Hai là chúng sinh hành ác. Ba là chúng sinh phóng dật. Bốn là chúng sinh tà kiến. Năm là chúng sinh ưa phiền não. Chúng sinh thọ khổ tức là thường chịu khổ não, cho đến không có một niệm vui vẻ. Đó gọi là thọ khổ. Lại có chúng sinh tuy không thọ khổ, nhưng tạo mười nghiệp đạo ác nơi thân khẩu ý. Đó gọi là chúng sinh hành ác. Lại có chúng sinh không tạo nghiệp ác, không thọ khổ não, nhưng tham đắm năm dục, say mê vui chơi, tham ái tự thân không tu pháp thiện. Đó gọi là phóng dật. Lại có chúng sinh không thọ khổ não, không tạo nghiệp ác, cũng không phóng dật, vì cầu giải thoát, nhưng chẳng phải nhân lại cho là nhân, chẳng phải quả lại thấy là quả. Đó gọi là tà kiến, như hàng ngoại đạo. Lại có chúng sinh không thọ khổ não, không tạo nghiệp ác, cũng không phóng dật, cũng không tà kiến, nhưng có nhiều phiền não trói buộc ngăn che nên không tu tập pháp thiện. Đó gọi là ưa phiền não. Trên đây là năm nhân duyên khiến Bồ-tát thương xót. Do nhân duyên này nên tâm thương xót được tăng trưởng.

Nhân duyên của nhu hòa gồm có năm thứ: Một là nói lời hỏi thăm thiện. Hai là nói lời vui thiện. Ba là nói lời vô úy thiện. Bốn là nói lời thanh tịnh thiện. Năm là lời giáo hóa thiện. Năm nhân duyên này gọi là nói lời nhu hòa như trong Phẩm Bốn Nhiếp đã nói.

Nhân duyên của dũng mãnh gồm có năm loại: Như trong Phẩm Ba Mươi Bảy Pháp Trợ Bồ Đề đã nói.

Không tham gồm có năm nhân duyên: Một là bố thí không phân biệt. Hai là hoan hỷ bố thí. Ba là chí tâm bố thí. Bốn là thanh tịnh bố thí. Năm là như pháp đạt được tài thí. Đó gọi là năm nhân duyên của không tham, như trong Phẩm Bố Thí đã thuyết.

Thuyết giảng nghĩa sâu xa có năm nhân duyên: Một là thuyết giảng nghĩa sâu xa của kinh, giải nói về nghĩa không, ba đời, trung ấm, thoái, bất thoái, ngã và ngã sở, Phật tánh, tánh Bồ-tát, Như Lai, Niết-bàn, ba thừa, sắc, tạo sắc, mười hai nhân duyên. Đó gọi là nghĩa của kinh. Hai là có thể thuyết giảng nghĩa của Tỳ-ni, tức là luật: đây là phạm, đây là không phạm; đây có thể sám hối, đây không thể sám hối; đây là nhẹ, đây là nặng; đây là tánh trọng, đây là giá trọng. Đó gọi là thuyết giảng nghĩa sâu xa về luật. Ba là thuyết giảng nghĩa về luận. Đức Phật lúc ấy vì chúng sinh nên nói là phạm, vì người khác phạm nên nói nhẹ làm nặng, nói nặng làm nhẹ, vì khiến một người được sám hối, cho đến trong đại chúng được sám hối. Đó gọi là thuyết giảng nghĩa sâu xa về luận. Bốn là có thể tự giải nói về nghĩa chánh. Năm là có thể nhận biết danh tự của các pháp.

Quả công đức của thương xót: Tức là Bồ-tát hành trì tâm từ là vì chúng sinh, vì phá trừ tâm ác nên tu tập tâm từ, có thể tạo lợi ích cho chúng sinh tâm không hối hận. Do thường tu tập nên hiện được đời an vui. Thế nên Đức Như Lai thuyết giảng quả công đức của từ bi, độc không thể hại, dao không thể làm tổn thương, ngủ không có mộng ác, được chư thiên ủng hộ, xả thân này rồi được sinh nơi cõi sơ thiền. Đó gọi là quả công đức của thương xót.

Quả công đức của nhu hòa: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập lời nói nhu hòa, có thể phá trừ bốn lỗi ác về miệng trong hiện tại. Lời nhu hòa này là tự lợi lợi tha, có thể khiến chúng sinh yêu thích vui nghe. Đó gọi là quả công đức của nhu hòa.

Quả công đức của dũng mãnh: Tức là Bồ-tát có thể phá trừ mọi sự biếng nhác trong hiện tại, thọ nhận sự hoan hỷ, an vui ưa thích tịch tĩnh, hộ trì giới cấm, tâm không hối hận, tự tu nhẫn nhục, dạy người hành nhẫn, tu các hạnh khổ, trang nghiêm Bồ-đề, tâm không thoái chuyển. Đó gọi là quả công đức của dũng mãnh.

Quả công đức của không tham và quả công đức của việc giải nói nghĩa sâu xa: Tức như trên đã nói.

Thứ lớp: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát trước tu tâm từ, vì điều phục chúng sinh, tiếp theo nói lời nhu hòa, vì phá dứt nghiệp ác. Thấy các chúng sinh thọ nhận nghiệp ác, tâm không sợ hãi, sinh khởi việc cứu hộ, gọi là dũng mãnh. Vì điều phục chúng sinh nên hành bố thí. Kế đến nói không tham và giải nói về nghĩa sâu xa.

Bồ-tát Ma-ha-tát tùy theo năm tướng để thâu tóm sáu pháp Bala-mật: Tướng thương xót tức thâu tóm thiền Ba-la-mật. Lời nhu hòa tức thâu tóm trì giới Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật. Tướng dũng mãnh tức thâu tóm tinh tấn Ba-la-mật, nhẫn nhục Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật. Tướng không tham thâu tóm bố thí Ba-la-mật. Thuyết giảng nghĩa sâu xa thâu tóm Bát-nhã Ba-la-mật và bố thí Ba-la-mật.

*******

Phẩm thứ 2: THIỀN CỦA NHƯ PHÁP TRỤ

Bồ-tát Ma-ha-tát hoặc tại gia hoặc xuất gia đều có bốn pháp có thể tu học, tức chứng đắc hành nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó là phương tiện của nghiệp thiện và thương xót chúng sinh.

Phương tiện của nghiệp thiện: Tức là bố thí Ba-la-mật nên tu hành thiện, hành chuyên tâm, hành thường, hành tịnh.

Hành thiện: Tức là Bồ-tát nếu có tài vật, khi bố thí cho người đến xin, không quán có ân và không ân, không quán phước điền và không phước điền, tuy có trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn, nhưng đều không thể làm trở ngại tâm bố thí của Bồ-tát. Đó gọi là hành thiện.

Hành chuyên tâm: Tức là Bồ-tát lúc bố thí có người đến cầu xin, xả bỏ nội vật, ngoại vật, tất cả vật thí cùng tâm không tham tiếc. Đó gọi là hành chuyên tâm.

Hành thường: Tức Bồ-tát lúc bố thí có người đến xin, không quán thời và phi thời, tùy vật có nên bố thí. Đó gọi là hành thường.

Hành tịnh: Tức là Bồ-tát lúc bố thí có người đến xin, không vì danh tiếng để bố thí, không vì sự an vui nơi nẻo trời mà bố thí, như trong Phẩm Bố Thí đã nói. Đó gọi là hành tịnh.

Như bố thí có bốn việc là hành thiện, hành chuyên tâm, hành thường, hành tịnh, thì Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật cũng có bốn việc như vậy.

Thế nào là phương tiện thiện của Bồ-tát? Nếu có người sinh tâm muốn phá bỏ pháp Phật, vì điều phục họ nên thực hành phương tiện thiện. Muốn khiến người thuộc căn trí bậc trung nhập pháp Phật, nên thực hành phương tiện thiện. Tuy đã hội nhập nhưng chưa thành thục, vì khiến thành thục nên thực hành phương tiện thiện. Đã thành thục rồi, vì khiến được giải thoát nên thực hành phương tiện thiện. Bồ-tát vì thuyết giảng về y phương kỹ thuật các luận của thế gian nên thực hành phương tiện thiện. Vì muốn chí tâm thọ giữ giới Bồ-tát, kiên trì không hủy phạm, nên thực hành phương tiện thiện. Phương tiện của nguyện thiện, phương tiện của thừa Thanh văn, phương tiện của thừa Duyên giác, phương tiện của Đại thừa, trong các phương tiện trên đây có thể làm năm việc: Bốn phương tiện đầu là vì tạo lợi ích cho chúng sinh nên thực hành. Phương tiện về bốn phương kỹ thuật của thế gian là để phá trừ luận tà. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát trọn không hủy phạm, nếu có phạm liền như pháp sám hối. Phương tiện phát nguyện thiện là tùy theo chỗ cầu nên có thể được. Phương tiện của ba thừa nơi Bồ-tát là tùy theo căn cơ để thuyết pháp. Thế nên Bồtát có mười thứ phương tiện như vậy để có thể làm năm việc, do năm việc nên nhất định đầy đủ, có thể đạt được tất cả sự việc ở thế gian, hoặc hiện tại hoặc đời sau.

Thế nào là Bồ-tát tạo lợi ích cho người? Tức như trong Phẩm Bốn Nhiếp đã nêu. Thế nào là Bồ-tát phát nguyện thiện? Tức là Bồtát hành tất cả nghiệp thiện, hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai đều không cầu quả báo, chỉ cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là phát nguyện thiện. Đức Như Lai nếu vì hàng xuất gia hoặc tại gia nên thuyết giới, tất cả đều thâu lấy bốn sự việc như thế. Nếu Bồ-tát xuất gia hoặc tại gia, hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai, thọ trì giới Bồ-tát, thì đều chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Bồ-tát xuất gia hơn Bồ-tát tại gia. Vì sao? Vì Bồ-tát xuất gia có được tất cả giới Bồ-tát. Bồ-tát tại gia không được tất cả giới Bồ-tát. Bồ-tát xuất gia có thể hành trì phạm hạnh tịch tĩnh thanh tịnh, Bồ-tát tại gia không thể tu hành phạm hạnh tịch tĩnh. Bồ-tát xuất gia có thể hành trì ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Bồ-tát tại gia không thể hành trì ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Bồ-tát xuất gia giải nói tất cả sự việc thế gian. Bồ-tát tại gia bị công việc của thế gian ràng buộc.

HẾT – QUYỂN 7

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9