KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Ma
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 2

Phẩm thứ 5: NGHĨA CHÂN THẬT CỦA ĐỊA BỒ TÁT

Thế nào gọi là nghĩa chân thật? Nghĩa chân thật gồm có hai thứ: Một là pháp tánh. Hai là pháp đẳng. Lại có bốn thứ: Một là thế gian lưu hành khắp. Hai là phương tiện lưu hành khắp. Ba là làm sạch chướng phiền não. Bốn là làm tịnh chướng trí tuệ.

Thế nào là thế gian lưu hành khắp? Pháp của thế gian đồng danh hiệu ấy, chúng sinh thấy đất chân thật là đất trọn không nói là lửa. Lửa chân thật là lửa trọn không nói là đất. Cho đến nước, gió, sắc, thanh, hương, vị, xúc, y phục, thức ăn, chuỗi anh lạc, đồ vật, kỹ nhạc, tối, sáng, nam, nữ, phòng nhà, ruộng vườn, khổ, vui. Khổ chân thật là khổ trọn không nói là vui. Vui chân thật là vui trọn không nói là khổ. Đây là phải, đây là trái, định và bất định. Tất cả trên thế gian từ xưa đến nay lưu truyền danh, tướng này tự nhiên mà biết, không phải từ sự tu tập sau đó mới biết. Đó gọi là nghĩa chân thật nơi thế gian lưu hành khắp.

Thế nào là phương tiện lưu hành khắp? Như người trí ở đời, trước tính toán, sau đó mới làm ra kinh sách luận nghị. Đó gọi là nghĩa chân thật tạo phương tiện lưu hành khắp.

Thế nào là làm sạch chướng phiền não? Tất cả Thanh văn, Phậtbích-chi đều dùng trí vô lậu, đạo vô lậu để phá trừ phiền não, nên được trí vô ngại. Đó gọi là nghĩa chân thật làm sạch chướng phiền não.

Thế nào là làm tịnh chướng trí tuệ? Vì phá trừ phiền não nên trí được thanh tịnh sáng suốt. Trí tuệ thanh tịnh nên thân tâm vô ngại. Đó gọi là nghĩa chân thật làm tịnh chướng trí tuệ.

Vì sao lại gọi là chân thật? Chân thật gọi là tứ đế, tức khổ, tập, diệt, đạo. Quán xét bốn đế này thì được trí tuệ chân thật, đó gọi là Thanh văn, Phật-bích-chi. Thanh văn, Phật-bích-chi phân quán năm ấm, cho nên lìa ấm đều không thấy ngã, ngã sở. Phân quán mười hai nhân duyên, vì thế lìa ấm không thấy chúng sinh cho đến sĩ phu. Đây gọi là nghĩa chân thật làm tịnh chướng trí tuệ. Nếu trí không thể nhận biết cảnh giới thì gọi là trí chướng. Nếu có thể phá bỏ chướng, nhận biết cảnh giới thì gọi là nghĩa chân thật làm tịnh trí chướng.

Nghĩa chân thật tức là Phật và Bồ-tát quán sâu tất cả năm ấm, sáu nhập, mười tám giới, quán ngã vô ngã, chúng sinh chẳng phải là chúng sinh, sĩ phu chẳng phải là sĩ phu. Đây gọi là làm tịnh trí chướng. Quán các pháp giới không thể nêu bày, biết đế thế gian nên phân biệt pháp giới, biết tánh chân thật của các pháp giới nên gọi là tuệ vô thắng. Tuệ vô thắng hay phá diệt tất cả chướng thế nên gọi là nghĩa chân thật làm tịnh chướng trí tuệ.

Nghĩa chân thật lại có hai thứ: Một là hữu. Hai là vô. Hữu gọi là thế gian lưu hành khắp. Thế gian lưu hành khắp đó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, đất, nước, gió, lửa, sắc, thanh, hương, vị, xúc, thiện, bất thiện, vô ký, pháp xuất, pháp diệt, pháp từ duyên sinh, quá khứ, hiện tại, vị lai, hữu vi, vô vi, đời này, đời khác, mặt trời, mặt trăng, thấy nghe, hiểu biết, giác quán đã đạt được, tu tập, thọ trì, cho đến Niết-bàn. Đó gọi là hữu của thế gian lưu hành. Thế gian hữu, đó là pháp tánh. Vô là hữu của thế gian lưu hành khắp, từ sắc cho đến Niết-bàn, tánh ấy là không nên gọi là vô. Chúng sinh thấy được nên gọi là hữu. Pháp tánh vốn không nên gọi là vô. Chư Phật Như Lai thuyết giảng về hữu, vô, gọi là chân thật. Chân thật gọi là trung đạo, chẳng phải có chẳng phải không gọi là trung đạo, trung đạo gọi là đạo vô thượng. Trung đạo như vậy, chư Phật Thế Tôn trừ phá chướng ngại, thế nên gọi là Nhất thiết trí.

Bồ-tát Ma-ha-tát tuy học trung đạo như vậy nhưng còn có chướng ngại, nên không được gọi là nhất thiết trí. Trí tuệ của Bồ-tát là phương tiện, gọi là nhân của đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì sao? Vì Bồ-tát Ma-ha-tát tuy không đầy đủ trí tuệ trung đạo nhưng giảng nói về tướng sinh tử cũng có cũng không, cũng là lưu hành khắp pháp Phật vô thượng, tuy ở trong sinh tử mà cũng có thể nhận biết rõ về những lỗi lầm tai họa của sinh tử, tâm không nhàm chán hối hận. Nếu không nhận biết lỗi lầm của sinh tử thì không thể phá trừ phiền não kiết, nếu tâm nhàm chán thì không thể giáo hóa chúng sinh, hộ trì pháp của chư Phật, mau đạt được Niết-bàn. Nếu được Niết-bàn thì không thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu không thể giáo hóa các chúng sinh thì sao có thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, cho nên Bồ-tát nếu ở trong sinh tử tu đạo Bồ-đề, không sợ Niết-bàn, không cầu Niết-bàn. Nếu Bồ-tát sợ Niết-bàn thì không thể chứng đắc đầy đủ đạo Bồ-đề trang nghiêm, cũng không thể vì vô lượng chúng sinh khen ngợi về Niết-bàn, đối với cảnh giới Niết-bàn không thể sinh tâm tin vui, chuyên niệm. Do đấy Bồ-tát đối với Niết-bàn không sinh sợ hãi. Nếu Bồ-tát ấy cầu Niết-bàn tức có thể đạt được, nếu đạt được thì không thể thành tựu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, không thể dùng pháp của chư Phật giáo hóa chúng sinh. Nếu Bồ-tát không thể quán sâu về lỗi lầm tai họa của sinh tử, hoặc sinh tâm nhàm chán sợ hãi Niết-bàn, hoặc cầu Niết-bàn, đây gọi là Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo. Nếu Bồ-tát có thể quán sâu về lỗi lầm của sinh tử, vui ở trong ấy, không sợ Niết-bàn, không cầu Niết-bàn, đó gọi là Bồ-tát có phương tiện thiện xảo. Phương tiện thiện xảo là hiểu rõ về đệ nhất nghĩa không. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập đệ nhất nghĩa không như vậy gọi là đại phương tiện của giới Bồ-tát, là được trí vô thượng của Như Lai. Nếu có tu tập giới Bồ-tát này thì được trí chân thật, thấy biết tất cả các pháp là vô ngã, ngã sở, nhận rõ các pháp tánh, thế nên đối với pháp tâm không tham đắm, cũng nói là thế đế, đệ nhất nghĩa đế. Thấy tất cả pháp mà tâm bình đẳng, có thể tạo tác bố thí lớn, do nhân duyên bố thí nên khéo nhận biết việc đời, tuy học việc đời nhưng tâm không nhàm chán hối hận, tất được hiểu biết rõ, đạt được đại niệm lực. Tuy biết việc đời nhưng tâm không kiêu mạn, thường chỉ dạy chúng sinh tâm không tiếc lẫn, dùng phương tiện thiện xảo dẫn dạy chúng sinh về sự việc ở thế gian, nhằm khiến họ chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Bồ-tát đối với sự việc thế gian này siêng năng tu tập không nhàm chán, nếu khi thấy chúng sinh thọ nhận khổ não, tức được tăng trưởng tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Bồ-tát tăng trưởng pháp thiện như vậy nhưng không sinh kiêu mạn, đối với các chúng sinh, luôn sinh tâm thương xót. Bồ-tát tăng trưởng trí tuệ như vậy, không sinh kiêu mạn, nên có thể phá trừ các thứ tà kiến của chúng sinh. Nếu Bồ-tát đắc Tam-muội thế gian và xuất thế gian, không hiển bày đức của mình khiến người khác cung kính cúng dường, không bị pháp thế gian làm cho nhiễm ô. Bồ-tát bấy giờ thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, gọi là giới Bồ-tát. Như Bồtát Ma-ha-tát có được pháp thiện đều đem hồi hướng về đạo Bồ-đề, đó gọi là giới Bồ-tát. Đời quá khứ Bồ-tát chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đều do thành tựu giới cấm của Bồ-tát, vị lai hiện tại cũng vậy. Bồ-tát Ma-ha-tát thọ trì các pháp Bồ-tát trong ba đời, có thể dùng pháp Phật giáo hóa chúng sinh, chí tâm tu hành đạo Bồ-đề, vì đạo Bồ-đề nên không tiếc thân mạng, không tiếc thân mạng là giới Bồ-tát, nếu tiếc thân mạng thì trọn không thể đắc giới cấm của Bồ-tát, cho đến tham tiếc vật nhỏ bằng một tiền, cũng không thể đạt được giới cấm của Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát vì chúng sinh cho nên thọ thân và cất chứa của cải, nếu đối với hai thứ này sinh tâm tham tiếc, tức là Bồ-tát giả danh, là Bồ-tát phi nghĩa. Nếu Bồ-tát có thể không tiếc thân mạng, tài vật, nên biết đó là Bồ-tát có thể đem lại lợi ích cho chúng sinh, có thể thực hành nhẫn nhục, có thể phá trừ tâm sân hận ganh ghét, hiểu rõ việc đời, khéo nhận biết phương tiện, có thể phá tan tâm nghi của chúng sinh, có thể tự tăng trưởng nhân của quả Bồđề, khéo điều phục các căn, không bị bốn điên đảo khuấy động, có thể hiểu nghĩa thâm diệu của các pháp, có thể hành đầy đủ bốn tâm vô lượng, thành tựu năm thông, bốn trí vô ngại, quán sát rốt ráo mười hai nhân duyên, mau chứng đắc địa Bồ-tát, được thân thường lạc ngã tịnh, được đại tự tại nơi Niết-bàn vô thượng, khéo có thể khai thị phương tiện Niết-bàn. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu vô lượng công đức như vậy, đều do nhân duyên của giới cấm mà được. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu đầy đủ giới Bồ-tát, có thể làm người giúp việc cho hết thảy chúng sinh, nếu khi bị chúng sinh giận dữ mắng nhiếc đánh đập cướp đoạt thì sinh tâm từ. Nếu thấy chúng sinh bị phiền não bức bách nặng nề tức phát tâm thương xót, vì muốn phá diệt phiền não cho chúng sinh, nên nhất tâm suy nghĩ các phương tiện hay khéo. Đối với chúng sinh tâm không gian trá, tùy theo sức lực mà ban vui cho chúng sinh, không cầu báo ân, cũng không ôm tâm sân hận, vì phá trừ tâm sân hận ưu não của chúng sinh mà suy nghĩ về phương tiện biết ân và nhớ ân. Nếu người thiếu thốn đến mong cầu trước thực hành bố thí, nếu mình có mà không bố thí là không thành tựu giới cấm của Bồ-tát. Người mong cầu đến ba lần mà không bố thí đó là phạm tội nặng, nếu dùng phương tiện lời lẽ hay để an ủi họ, khiến người cầu xin không sinh tâm oán hận, đó là không phạm.

Người mong cầu có hai hạng: Một là nghèo thiếu. Hai là tà kiến. Không bố thí cho người nghèo thì liền đắc tội, không bố thí cho người tà kiến thì không gọi là phạm. Người nếu không phạm gọi là hạnh thiện. Bồ-tát hạnh thiện biết rõ pháp giới không thể nêu nói, biết tánh của pháp giới, biết thế gian lưu hành khắp. Thế gian lưu hành khắp tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến Niết-bàn, tất cả đều không gọi là chân thật. Vì sao? Vì sắc này chẳng phải có chẳng phải không, cho đến Niết-bàn cũng chẳng phải có chẳng phải không. Nếu chẳng phải có chẳng phải không thì thế nào là chân thật? Thế nào là chẳng phải có? Chúng sinh điên đảo chấp sắc là ngã, cho đến Niết-bàn cũng cho là ngã. Đó gọi là chẳng phải có. Thế nào là chẳng phải không? Thế gian lưu hành khắp nên không phải là hư dối, có thể tuyên thuyết. Đó gọi là chẳng phải không. Vì thế nên gọi là chẳng phải có chẳng phải không.

Nếu chỗ thuyết pháp như nói là có, thì trong một pháp nên có vô lượng danh, vô lượng danh tức có vô lượng tánh. Vì sao? Vì trong mỗi một pháp có vô lượng danh. Thế nào gọi là vô lượng danh? Như một pháp là sắc cũng nói là xanh, vàng, trắng, đỏ, dài, ngắn, vuông, tròn, thô, tế, có thể thấy, không thể thấy, có đối, không đối, trơn, nhám, nặng, nhẹ. Đó gọi là có thể thuyết. Tùy theo chỗ nói là có, nên trong một pháp có vô lượng tướng, chỗ có thể tuyên thuyết thật không có tánh nhất định, dùng lời nói để lưu hành khắp ở đời, thật sự là không thuyết vì không đạt tới tánh chân thật. Tất cả các pháp cũng lại như vậy.

Như trong sắc cho đến Niết-bàn là có thật tánh, không nên nói xanh, vàng, trắng, đỏ, cho đến nặng nhẹ. Nếu không có thật tánh, thì lúc chưa lưu hành khắp làm sao có thể truyền, do tánh lưu hành khắp là có, lại không có chỗ bắt đầu, nên có thể lưu hành khắp. Nếu lúc chưa có sắc mà có lưu hành khắp, thì do nhân duyên nào, lúc không có sắc thì không lưu hành khắp? Nếu sự lưu hành khắp ấy có thể làm tánh của sắc, thì vì sao lưu hành khắp không thể làm tánh của vô lượng sắc, thế nên pháp tánh là không thể tuyên thuyết. Như sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến Niết-bàn cũng lại như vậy.

Có hai hạng người xa lìa pháp Phật, chẳng phải là đệ tử của Phật, mãi mãi mất pháp Phật: Một là nói từ sắc cho đến Niết-bàn có tánh chân thật. Hai là không tin tánh thế gian lưu hành khắp. Hai hạng người như vậy không thể thọ trì giới cấm của Bồ-tát, nếu có thọ nhận tức không đắc giới, vị thầy tất có tội. Vì sao không đạt được? Vì đã phỉ báng pháp thật và tham đắm vào pháp sai, nên tuy thọ nhận nhưng trọn không đắc giới, nếu không đắc giới thì không được ở trong pháp này gọi là đệ tử của Phật, vì thế gọi là xa lìa pháp Phật.

Giới Bồ-tát chẳng phải do nơi miệng mà được, tâm và miệng hòa hợp sau đó mới được. Như hai hạng người này đều không có tâm thật thì làm sao đạt được. Nếu ở trong sắc vọng sinh chấp trước, thì đối với pháp Phật tức là vĩnh viễn bị mất. Nếu không tin sắc là lưu hành khắp, đó gọi là hủy báng tất cả pháp, người này mãi mãi mất hẳn pháp Phật, vì thế không thể tuyên thuyết hoặc có hoặc không. Vì sao? Như nhân nơi năm ấm tức có ngã, nhân, chúng sinh, sĩ phu, nếu không có năm ấm thì các danh như vậy do đâu lưu hành khắp. Sắc cũng như thế, vì có sắc cho nên có vô số các thứ danh tự lưu hành khắp. Pháp chân thật thì không có lưu hành khắp, lìa pháp chân thật cũng không có lưu hành khắp. Người ngu si nói các pháp là không thì mắc tội lớn. Nếu có người cho trong kinh Đại thừa nói tất cả pháp là không, cũng mắc tội lớn, vì không thể khéo hiểu nghĩa của kinh Đại thừa, sinh tâm kiêu mạn nói là ta khéo hiểu, tùy theo tâm vọng tưởng suy nghĩ, rộng nói cho người cũng mắc tội lớn. Nếu nói tánh của tất cả các pháp là không, làm sao có thể lưu hành khắp ở đời thì cũng mắc tội lớn. Vì sao? Vì đã hủy báng tất cả pháp. Hủy báng tất cả pháp tức là đệ tử của ngoại đạo Phú-lan-na. Phú-lan-na cho tánh của các pháp là không, nhưng trong pháp Phật thì nói cũng có cũng không. Nếu có người nói tất cả pháp là không, tức biết không nên cùng người này ở chung, cùng bàn luận, cùng bố-tát, thuyết giới, nếu cùng ở chung cho đến thuyết giới thì mắc tội lớn. Vì sao? Vì không hiểu rõ về nghĩa không, nên người này không thể tự lợi, lợi tha. Do đó, trong kinh Đại thừa nói: “Nếu không hiểu rõ về nghĩa không thì còn tệ hơn người ngu si”. Vì sao? Vì người ngu si nói sắc là ngã, cho đến thức là ngã, là kẻ có ngã kiến nhưng không hủy hoại pháp Phật. Nếu không hiểu rõ về nghĩa không tức phá hoại pháp Phật, làm cho diệt mất. Người sinh ngã kiến không rơi vào ba đường ác, còn người không hiểu rõ về nghĩa không lại vì những người khác nêu bày rộng, nên biết người này tất đọa vào ngục A-tỳ. Người có ngã kiến không hủy báng Tam bảo, còn người vọng nói về không tức phỉ báng Tam bảo. Người nói có ngã không lừa dối chúng sinh, không phỉ báng thật tánh, không làm trở ngại pháp tánh, không ngăn ngại chúng sinh, có thể được giải thoát, vì không chỉ dạy người khác hủy phạm giới cấm. Người không hiểu về nghĩa không là phỉ báng tất cả pháp, không hiểu thật tánh, không hiểu pháp tánh, gây trở ngại cho giải thoát, cùng với nhiều chúng sinh làm tri thức ác, tự mình không trì giới lại dạy người phá giới, thường ưa nêu bày, không làm, không thọ, khiến nhiều chúng sinh tăng trưởng nhân địa ngục, vì nghĩa này nên gọi là xa lìa pháp Phật vô thượng.

Thế nào gọi là không hiểu về nghĩa không? Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, không tin thọ không, không hiểu đối với không, không hiểu đối với pháp, thì đây gọi là không hiểu về nghĩa không. Vì sao? Vì nói tất cả pháp bản tánh tự là không, chẳng có nhân duyên không, là nói tất cả pháp cũng không có xứ sở. Nếu không có xứ sở thì vì sao gọi là không? Đây tức là không hiểu về nghĩa không.

Thế nào gọi là hiểu đúng về nghĩa không? Nếu Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nói trong tất cả pháp không có tự tánh, đó gọi là không, pháp cũng chẳng phải không. Đấy tức là hiểu về nghĩa không. Hiểu như vậy là không vướng mắc nơi nghĩa, không hủy báng Tam bảo, đó gọi là hiểu đúng đắn, không có sai lầm.

Thế nào là hiểu đúng đắn? Như sắc nói là sắc, cho đến Niếtbàn, phân biệt không có các thứ tướng tánh. Đây gọi là sắc không, do sắc chân thật lưu hành khắp ở đời, đó gọi là chẳng không. Vì nghĩa này nên nói một pháp sắc là cũng có cũng không. Hiểu hai thứ này nên cũng là pháp cũng là không, trọn không ở trong ấy vọng sinh chấp trước. Đây gọi là hiểu đúng về nghĩa không. Cho nên trong kinh Đại thừa nói kệ:

Một pháp có nhiều tên

Trong pháp thật tức không

Do không mất tánh pháp

Lưu hành khắp thế gian.

Như từ sắc cho đến Niết-bàn có nhiều tên gọi. Sắc không có tự tánh. Không tự tánh thì không có nhiều tên. Có nhiều tên gọi là lưu hành khắp. Vì nghĩa này nên trong Tạp Tạng nói: Chư Phật Thế Tôn không vướng mắc ở chỗ lưu hành khắp, hoặc thấy hoặc nghe, suy nghĩ hiểu biết. Như tên sắc cho đến tên Niết-bàn, gọi là lưu hành khắp. Chư Phật Thế Tôn trọn không nói có tánh lưu hành khắp mà sinh nhiễm chấp. Vì sao? Vì đã trừ bỏ điên đảo. Người có nhiễm chấp gọi là điên đảo. Như Lai đã đoạn trừ tất cả ác kiến cho nên không nhiễm chấp, do không thấy, không nói, không nhiễm chấp nên gọi là chánh kiến. Vì thế Đức Như Lai đã vì Tỳ-kheo Ca-chiên-diên nói:

–Này Ca-chiên-diên! Thế nào, đệ tử của Ta không chấp ở địa định, thủy, hỏa, phong định, không định, thức định, vô sở hữu định, phi hữu tưởng phi vô tưởng định, chẳng phải đời này, chẳng phải đời khác, chẳng phải ngày, chẳng phải tháng, chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng suy nghĩ, chẳng so lường, chẳng thủ, chẳng đắc, chẳng giác, chẳng quán. Đó gọi là thiền định.

Thế nào là Tỳ-kheo không chấp ở địa định? Tỳ-kheo đối với địa không nghĩ về tướng của địa, cho đến giác quán không nghĩ về tướng giác quán. Đây gọi là không chấp nơi địa định, cho đến giác quán cũng lại như vậy. Nếu có Tỳ-kheo có thể tu tập định như thế, tức được chư thiên, Đế thích, Phạm thiên, cũng như chư Phật, Đại Bồ-tát trong mười phương khen ngợi: Nam mô Đại sĩ! Nam mô Đại sĩ! Và cùng nói: Ta đều không biết ông ở tại định nào, tu tập định nào.

Nếu có chấp trước về tướng của địa, danh của địa, nên biết người này gọi là không tu pháp không. Nếu ở trong sắc không chấp trước về danh tướng, đó gọi là tu pháp không. Vì lưu hành khắp cho nên tuyên thuyết về tướng của địa và danh của địa. Nếu chấp trước nơi tướng của sắc và danh của sắc, gọi là tăng trưởng tướng. Nếu hủy hoại tướng của sắc và danh của sắc, gọi là xả bỏ tướng, không tăng không xả gọi là trung đạo. Tu tập hai tướng như vậy, gọi là Tỳ-kheo tu tập địa định, cho đến giác quán. Nếu có Tỳ-kheo tu định này đó gọi là thật tướng, do thật tướng nên Tỳ-kheo đối với pháp không có ngôn thuyết, vì tánh của các pháp là không thể nêu bày, do đó Tỳkheo không ngôn thuyết. Nếu tất cả pháp là không thể nói, thì vì sao nói là không thể nói. Nếu không thể nói vì sao được nghe. Nếu không nói, không nghe, làm sao được biết tất cả các pháp là không thể tuyên thuyết? Vì có thể biết cho nên nói, khiến được lưu hành khắp.

Người ngu si không biết, không hiểu thế gian lưu hành khắp, ở trong các pháp sinh ra tám thứ sai lầm: Một là tánh sai lầm. Hai là phân biệt sai lầm. Ba là tụ sai lầm. Bốn là ngã sai lầm. Năm là ngã sở sai lầm. Sáu là ái sai lầm. Bảy là bất ái sai lầm. Tám là phi ái phi bất ái sai lầm. Trong tám thứ sai lầm này, ba thứ sai lầm trước chính là căn bản của tất cả sai lầm, chấp tánh chấp danh, không hiểu về lưu hành khắp, từ đấy lần lượt sinh ra vô lượng sai lầm. Ngã và ngã sở sai lầm gọi là ngã kiến. Ngã kiến lại là căn bản của các kiến, hai thứ sai lầm này từ kiêu mạn sinh ra, cho nên kiêu mạn là căn bản của các kiến. Ba thứ sai lầm sau là từ tham sân si sinh ra. Tám thứ sai lầm ấy thâu giữ tất cả phiền não, kiết sử khiến các chúng sinh luân hồi trong ba cõi.

Thế nào gọi là tánh sai lầm? Như sắc tạo tưởng chấp về sắc, cho đến nặng, nhẹ, đều tạo tưởng chấp về nặng nhẹ. Đây gọi là tánh sai lầm.

Thế nào là phân biệt sai lầm? Như phân biệt sắc là sắc, là chẳng phải sắc, là có thể thấy, là không thể thấy, là có đối, là không đối. Đây gọi là phân biệt sai lầm.

Thế nào là tụ sai lầm? Như ở trong sắc thấy ngã, chúng sinh, sĩ phu, thọ mạng, phòng nhà, bốn chúng, quân binh, y thực, hoa sen, xe cộ, rừng cây tích tụ. Như vậy trong ấy mỗi thứ làm một tướng. Đây gọi là tụ sai lầm.

Thế nào là ngã, ngã sở sai lầm? Ở trong hữu lậu chấp lấy ngã, ngã sở, ở trong vô lượng đời thường sinh chấp trước nơi ngã, ngã sở. Đây gọi là ngã, ngã sở sai lầm.

Thế nào là ái sai lầm? Ở trong vật tịnh sinh tâm tham ái. Đây gọi là ái sai lầm.

Thế nào là bất ái sai lầm? Ở trong vật bất tịnh sinh tâm sân hận. Đây gọi là bất ái sai lầm.

Thế nào là phi ái phi bất ái sai lầm? Ở trong tất cả vật tịnh và bất tịnh sinh tâm tham ái sân giận. Đây gọi là phi ái phi bất ái sai lầm.

Bồ-tát Ma-ha-tát làm sao có thể nhận biết tám thứ sai lầm này? Phải nên suy cầu bốn việc: Một là suy cầu về danh. Hai là suy cầu về vật. Ba là suy cầu về tánh. Bốn là suy cầu về phân biệt.

Thế nào là suy cầu về danh? Bồ-tát Ma-ha-tát chỉ nhận biết danh của danh, không thấy vật của danh. Đây gọi là suy cầu về danh.

Thế nào là suy cầu về vật? Chỉ nhận biết vật này, không nhận biết thứ khác. Đây gọi là suy cầu về vật.

Thế nào là suy cầu về tánh? Tức nhận biết danh lưu hành khắp. Đây gọi là suy cầu về tánh.

Thế nào là suy cầu về phân biệt? Danh không thấy vật, vật không thấy danh. Đây gọi là suy cầu về phân biệt.

Bồ-tát Ma-ha-tát vì sao suy cầu về danh? Là nhận biết danh thật danh đúng nên suy cầu về danh. Bồ-tát quán xét kỹ, nếu không có sắc, danh thì do đâu nói sắc. Nếu không nói sắc thì làm sao quán sắc. Nếu không quán sắc làm sao chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng? Cho nên Bồ-tát suy cầu nhận biết về danh.

Bồ-tát vì sao suy cầu về vật? Nếu không có vật thì sao có danh này, danh này chẳng phải là không thể nói, nếu không thể nói làm sao biết được tánh của các pháp, cho nên Bồ-tát suy cầu về vật.

Bồ-tát vì sao suy cầu về tánh? Bồ-tát Ma-ha-tát nhận biết tánh của sắc cho đến tánh của Niết-bàn, nhận biết sắc lưu hành khắp cho đến Niết-bàn lưu hành khắp. Thế nào gọi là nhận biết tánh của sắc? Tức nhận biết tánh của sắc này như hình tượng trong gương, cảnh mộng huyễn hóa, như tiếng vang, như dợn nắng, như trăng trong nước. Đó gọi là suy cầu về tánh.

Bồ-tát vì sao suy cầu về phân biệt? Bồ-tát Ma-ha-tát nếu phân biệt danh, phân biệt vật, phân biệt tánh, phân biệt pháp, phân biệt phi pháp, phân biệt hữu, vô, thị sắc, phi sắc, có thể thấy, không thể thấy. Đó gọi là phân biệt. Do phân biệt nên chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì thế Bồ-tát suy cầu về phân biệt.

Bồ-tát Ma-ha-tát vì dứt trừ tám thứ sai lầm nên suy cầu bốn việc. Vì sao Bồ-tát dứt trừ tám thứ sai lầm này? Do tám thứ sai lầm này là nhân duyên làm tăng trưởng tà kiến. Tà kiến tăng trưởng nên phiền não tăng trưởng. Phiền não tăng trưởng nên sinh tử tăng trưởng. Sinh tử tăng trưởng nên mười hai nhân duyên tăng trưởng.

Nếu Bồ-tát tu tập bốn việc như vậy tức đoạn trừ được tà kiến. Tà kiến đoạn nên các phiền não diệt. Phiền não diệt nên sinh tử diệt. Sinh tử diệt nên biết mười hai nhân duyên diệt. Biết mười hai nhân duyên diệt nên tu đạo vô thượng. Do tu đạo vô thượng nên chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì chứng đắc đạo quả ấy nên có thể phá trừ tám thứ sai lầm của chúng sinh, có thể giáo hóa chúng sinh, nhận biết thế gian lưu hành khắp và thuyết giảng nghĩa chân thật. Nếu trừ bỏ tám thứ sai lầm của chúng sinh như vậy, thì gọi là Đại Niết-bàn, có thể được đại tự tại ngay nơi đời này, được đại thần thông, được đại phương tiện, được đại thiền định, được đại nhất thiết trí, cầu được xứ không thoái, không đọa. Đó gọi là Đại Niết-bàn.

Bồ-tát Ma-ha-tát đạt được đại tự tại tức thành tựu năm việc: Một là tâm được vắng lặng. Hai là hiểu biết về sự việc thế gian và xuất thế gian. Ba là vì chúng sinh nên ở trong sinh tử tâm không sầu não. Bốn là nhận biết rõ về tạng bí mật thâm diệu của Như Lai. Năm là tâm Bồ-đề không thể hủy hoại.

Vì sao Bồ-tát tâm được vắng lặng? Do có thể phá trừ phiền não hiện tại của chúng sinh nên tâm được vắng lặng. Vì điều phục chúng sinh, chứng đắc pháp Phật, nên Bồ-tát hiểu biết về sự việc thế gian và xuất thế gian. Vì khiến chúng sinh được căn tánh lanh lợi, nên Bồ-tát ưa thích ở trong sinh tử, tâm không sầu não. Vì nhằm khiến tâm nghi của chúng sinh được trừ bỏ, nên Bồ-tát thọ trì đọc tụng nhận biết rõ về tạng bí mật thâm diệu của Như Lai. Do có người ở nơi pháp nói là phi pháp, có thể khiến pháp Phật bị diệt, làm cấu uế pháp Phật, phạm nói không phạm, lãnh nhận cất chứa tám thứ vật bất tịnh. Vì muốn diệt bỏ các thứ người xấu ác như vậy, nên Bồ-tát thọ trì giải nói nghĩa bí mật thâm diệu của Như Lai. Tuy nhận biết sách luận vi tế của ngoại đạo và hiểu rõ về nghĩa lý, nhưng trọn không hủy hoại tâm Bồ-đề. Năm việc như vậy thâu giữ các sự việc Bồ-đề của Bồ-tát, cũng gọi là năm sự việc, cũng gọi là năm công đức.

Những gì gọi là sự việc Bồ-đề? Là có thể tự tạo lợi ích, điều phục chúng sinh, thọ trì pháp Phật không phá bỏ giới cấm đã tu tập của Bồ-tát, tâm Bồ-đề trọn không lay động, siêng năng tinh tấn diệt trừ tà kiến, tuyên thuyết đạo ba thừa. Bồ-tát thành tựu năm sự việc như vậy có ba hạng là hạ trung thượng. Đầy đủ hai sự việc gọi là hạ. Đầy đủ ba sự việc gọi là trung. Nếu đủ bốn sự việc gọi là thượng.

*********

Phẩm thứ 6: BẤT KHẢ TƯ NGHÌ CỦA ĐỊA BỒ TÁT

Thế nào là Bồ-tát Ma-ha-tát bất khả tư nghì? Tức Bồ-tát Maha-tát được Tam-muội tự tại, phát tâm rồi được vô lượng công đức, không tạo tác nghiệp nhưng được quả báo, không tu Thánh đạo nhưng được Thánh tâm. Đó gọi là Bồ-tát bất khả tư nghì. Ít tạo nghiệp thiện mà được quả báo lớn, vì Bồ-đề nên ở trong vô lượng đời tu các hạnh khổ, Bồ-tát nhận biết thật không có chúng sinh nhưng có thể siêng tu hạnh khổ, nhận biết không người tạo tác, không người thọ nhận nhưng có thể tạo tác có thể thọ nhận. Đó gọi là Bồ-tát bất khả tư nghì.

Bất khả tư nghì gồm có năm thứ: Một là sáu thông không thể nghĩ bàn. Hai là pháp không thể nghĩ bàn. Ba là cộng sinh không thể nghĩ bàn. Bốn là bất cộng sinh không thể nghĩ bàn. Năm là cộng sinh, bất cộng sinh không thể nghĩ bàn.

Thế nào là sáu thông? Đó là thần túc, thiên nhĩ, thiên nhãn, tha tâm trí, túc mạng trí, và lậu tận trí. Đó gọi là sáu thông không thể nghĩ bàn.

Thế nào là pháp không thể nghĩ bàn? Pháp nghĩa là Bố thí Bala-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-lamật, Thiền định Ba-la-mật và Bát-nhã Ba-la-mật. Đó gọi là pháp không thể nghĩ bàn.

Thế nào là thần thông? Thần thông có hai thứ: Một là biến. Hai là hóa.

Những gì là thần thông biến? Tức là chấn động phát ra lửa, thị hiện ánh sáng, tự chuyển thân mình, hoặc hiện sự đi đến, hiện các thứ sắc, ẩn hiện tự tại giữa đại chúng, ngăn che thần thông của người khác, ngôn từ vô ngại, ban sự nhớ nghĩ cho người khác, ban sự vui thích cho mọi người, phóng ra ánh sáng lớn. Đó gọi là thần thông biến.

Thế nào là chấn động? Bồ-tát Ma-ha-tát được Tam-muội tự tại, có thể làm chấn động phòng nhà, xóm làng, thôn ấp, thành quách, quốc độ, từ bốn châu thiên hạ cho đến ngàn thế giới, hai ngàn thế giới, ba ngàn đại thiên thế giới, một trăm ba ngàn đại thiên thế giới, một ngàn ba ngàn đại thiên thế giới, ngàn vạn ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến vô lượng vô biên thế giới. Đó gọi là chấn động.

Thế nào là phát ra lửa? Tức trên thân hiện ra lửa dưới thân phát ra nước, trên thân phát ra nước dưới thân hiện ra lửa, hoặc cử thân phát ra lửa tạo ra vô số thứ sắc xanh, vàng, đỏ, tía, trắng, đen. Đó gọi là phát ra lửa.

Thế nào là ánh sáng? Tức thân phát ra ánh sáng đầy khắp một nhà, thôn ấp, xóm làng, cho đến vô lượng vô biên ba ngàn đại thiên thế giới. Đó gọi là ánh sáng.

Thế nào là thị hiện? Tức chư Phật, Bồ-tát vì độ chúng sinh nên thị hiện các loại địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. Hoặc lại thị hiện hằng hà sa quốc độ của chư Phật, cùng thân Phật và chư Đại Bồ-tát nơi vô lượng vô biên thế giới trong mười phương, nói về danh hiệu của chư Phật khiến các chúng sinh đều được nghe biết. Đó gọi là thị hiện.

Thế nào là chuyển? Tức chư Phật, Bồ-tát được Tam-muội tự tại, có thể biến đất thành lửa, biến lửa thành nước, gió cũng như vậy. Biến sắc thành hương, biến hương làm sắc, sắc hương vị xúc biến làm cỏ cây, y phục, thức ăn, anh lạc, vật dụng, thạch bối, lưu ly, chân châu, vàng bạc, cùng núi non, sắc tốt thành xấu, sắc xấu làm tốt. Đó gọi là chuyển.

Thế nào là đi đến? Hoặc đi đến xứ Phạm thiên, hoặc từ xứ Phạm thiên trở về. Hoặc đi đến xứ trời A-ca-nị-trá, hoặc từ xứ trời này trở về. Hoặc đến các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng trên dưới, cho đến vô lượng vô biên thế giới cũng đều như vậy. Xa có thể làm gần, gần có thể làm xa, có thể khiến núi Tu-di nhỏ như vi trần, khiến vi trần lớn bằng núi Tu-di. Đó gọi là đi đến.

Thế nào là các thứ sắc? Hoặc có thể hiện thân mình, hoặc hiện thân nam, nữ, lớn nhỏ, các hạng tớ, cỏ cây, vườn rừng. Đó gọi là các thứ sắc.

Thế nào là ẩn hiển tự tại giữa đại chúng? Tức có thể đem đại chúng vào trong thân mình mà tâm không sợ sệt, thân không trở ngại, nhưng các đại chúng này đều không tự biết đi đến chỗ nào. Hoặc có lúc đi đến chúng Bà-la-môn, hiện thân đồng như vậy: Đồng sắc, đồng y phục, đồng hình tướng như họ, âm thanh cũng không khác, kia nói đây cũng có thể nói, kia không thế nói thì nay cũng không thể nói. Có thể dùng phương tiện khéo dắt dẫn những người ấy, chỉ bày rồi liền mất, khiến chúng kia không biết là từ đâu đến, mất về đâu, là trời hay là người. Như chúng Bà-la-môn, thì các chúng Sát-lợi, chúng Đại hội, chúng Trưởng giả, chúng Tứ thiên vương, chúng Tam thập tam thiên, chúng Dạ ma thiên, chúng Đâu suất đà thiên, chúng Hóa tự tại thiên, chúng Tha hóa tự tại thiên, chúng Phạm, chúng Phạm sư thiên, chúng Đại Phạm thiên, chúng Thiểu quang thiên, chúng Vô lượng quang thiên, chúng Tịnh quang thiên, chúng Thiểu thiện thiên, chúng Đại thiện thiên, chúng Vô biên thiện thiên, chúng Vô vân thiên, chúng Phước sinh thiên, chúng Quảng quả thiên, chúng Vô noãn thiên, chúng Vô cuống thiên, chúng Thiện kiến thiên, chúng Ái kiến thiên, chúng A-ca-ni-trá thiên, tất cả cũng lại như thế. Ở nơi các chúng chư thiên như vậy, chỉ trong khoảnh khắc có đến trăm lần hiện ra, trăm lần ẩn mất, ngàn lần hiện ra, ngàn lần ẩn mất, ngàn vạn lần hiện ra, ngàn vạn lần ẩn mất. Đó gọi là ẩn hiển tự tại giữa đại chúng.

Thế nào là ngăn che thần thông của người khác? Trừ Đức Phật

Thế Tôn, còn Bồ-tát Ma-ha-tát là đồng hành, đồng tánh, đồng định, Bồ-tát sinh nơi biên địa đạt được thần thông hơn tất cả thần thông nội ngoại khác. Đó gọi là ngăn che thần thông của người khác.

Thế nào là ngôn từ vô ngại? Lúc Bồ-tát Ma-ha-tát thuyết pháp, thì ngôn từ vô tận, nghĩa vị vô tận, lạc thuyết vô tận. Đó gọi là ngôn từ vô ngại.

Thế nào là ban sự nhớ nghĩ cho người khác? Lúc Bồ-tát Maha-tát thuyết pháp, có vô lượng chúng sinh trong vô lượng đời bị mất niệm đều khiến nhớ lại. Đó gọi là ban sự nhớ nghĩ cho người khác.

Thế nào là ban sự vui thích cho mọi người? Lúc Bồ-tát Ma-ha-tát thuyết pháp, có thể khiến thân tâm của chúng sinh được an lạc, diệt trừ chướng phiền não, người nghe cảm thấy vui thích như ở nơi xứ thiền thứ ba, các thứ bệnh tật trong thân bốn đại đồng thời tiêu diệt, các quỷ ác đều không thể quấy nhiễu. Đó gọi là ban sự vui thích cho mọi người.

Thế nào là phóng ra ánh sáng lớn? Bồ-tát Ma-ha-tát phóng ra hào quang lớn chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, chiếu đến địa ngục phá trừ khổ nạn trong ấy, chiếu đến xứ trời phóng dật chỉ dạy pháp tu, khiến họ được thân người, chiếu đến trụ xứ Phật, thỉnh mời vô lượng Bồ-tát trong mười phương tập hợp nơi trụ xứ Phật để giáo hóa chúng sinh. Đó gọi là phóng ra ánh sáng lớn.

Các sự việc thần thông như vậy, vì chuyển pháp tánh nên gọi là thần thông biến.

Thế nào là thần thông hóa? Tức vật không tạo ra có vật, nên gọi là hóa. Hoặc là hóa thân, hoặc hóa hiện âm thanh.

Hóa thân: Tức là hóa tợ như thân mình, hoặc tợ như thân khác, có căn đầy đủ hoặc không đầy đủ. Phần còn lại như trong phần Chuyển ở trước. Lại còn hóa làm vô lượng thân. Tức chư Phật, Bồtát vì chúng sinh nên hóa làm vô lượng thân, hiện bày khắp vô lượng thế giới, có Phật, Bồ-tát hiện thân biến hóa, hoặc có như huyễn, hoặc có chân thật. Các thứ y phục, thức ăn uống, vàng bạc, lưu ly, chân châu, pha lê cũng lại như vậy. Vì nhằm phá bỏ sự bần cùng khốn khổ nơi các chúng sinh. Đó gọi là hóa thân.

Hóa âm thanh: Tức là chư Phật, Bồ-tát hóa hiện âm thanh vi diệu, âm thanh mau chóng, âm thanh tự thuyết nghĩa, âm thanh tha thuyết nghĩa, âm thanh không nghĩa, âm thanh thuyết pháp, âm thanh giáo hóa. Do các âm thanh này có thể phá trừ tâm phóng dật của chúng sinh. Đó gọi là hóa âm thanh.

Âm thanh của Phật, Bồ-tát sâu xa như tiếng sấm, như tiếng Calăng-tần-già, tiếng người ưa thích nghe, tiếng hiện hữu khắp, tiếng tư duy, tiếng thấu tỏ, tiếng dễ hiểu, tiếng nghe vui, tiếng không tham đắm, tiếng không chê trách, tiếng vô tận. Bồ-tát Ma-ha-tát có các âm thanh như vậy, tất cả chúng trời, chúng người, chúng Thanh văn, chúng Duyên giác, chúng Bồ-tát hiện có trong ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc gần hoặc xa, tất cả đều được nghe. Trong âm thanh ấy phát ra vô số các pháp tạo lợi ích cho chúng sinh.

Âm thanh tự hóa, là cũng như tự thuyết pháp, vì chúng sinh phóng dật nên nói.

Âm thanh tha hóa, tức như hóa thân của Phật, vì người khác thuyết pháp, cũng vì chúng sinh phóng dật.

Âm thanh không nghĩa, tức như hư không phát ra tiếng.

Âm thanh thuyết pháp, là vì chúng sinh ngu si.

Âm thanh giáo hóa, tức vì các chúng sinh phóng dật, muốn làm tăng trưởng hạnh không phóng dật.

Chư Phật, Bồ-tát hóa hiện các sự việc về thần thông như vậy, lần lượt đến vô lượng không thể xưng kể, thần thông biến hóa vô lượng như thế là vì hai việc: Một là muốn khiến chúng sinh sinh khởi tâm tin hướng đến pháp Phật. Hai là vì thị hiện phước điền vô thượng cho các chúng sinh bần cùng khốn khổ.

Thế nào là túc mạng trí? Bồ-tát Ma-ha-tát tự nhận biết về đời trước và những chúng sinh cùng ở cùng làm như vậy, tự nhận biết danh tự và danh tự của người khác, nhận biết chủng tánh của mình và chủng tánh của người khác, nhận biết thức ăn uống của mình và thức ăn uống của người khác, nhận biết khổ vui của mình và khổ vui của người khác. Bồ-tát tự nhận biết các việc ở đời trước như thế, cũng có thể giáo hóa người khác khiến họ nhận biết đời trước. Tự nhận biết về vô lượng đời, cũng có thể giáo hóa người khác nhận biết về sự việc nơi vô lượng đời, hoặc thô hoặc tế. Đó gọi là túc mạng trí. Do uy lực của túc mạng trí ấy nên có thể nói về nhân duyên đời trước của Bồ-tát, khiến các chúng sinh sinh khởi tâm tín đối với pháp Phật. Nói kinh bản nhân duyên của các Bồ-tát như kinh Xà Đà Già, kinh A Phù Đà Na, nói về nhân duyên của nghiệp nơi nghiệp ác nghiệp thiện, để phá bỏ thường kiến, đoạn kiến của chúng sinh. Đó gọi là túc mạng trí của Bồ-tát.

Thế nào là thiên nhãn? Do thiên nhãn tịnh của Bồ-tát Ma-ha-tát là hơn hẳn nhục nhãn của con người, nên Bồ-tát thấy rõ chúng sinh chết đây sinh về kia, hoặc sắc tốt, hoặc sắc thô, hoặc đẹp hoặc xấu, thấy rõ nghiệp thiện ác và quả thiện ác của chúng sinh, hoặc già hoặc trẻ, hoặc tự làm hoặc khiến người khác làm, hoặc thô, hoặc tế. Hoặc thấy sắc ở các nẻo trời, người, hoặc sắc ở ba đường ác, cho đến sắc của chúng sinh trong vô lượng thế giới khắp mười phương, vô lượng cõi Phật, thấy rõ lúc chư Phật ở nơi vô lượng mười phương diễn nói chánh pháp. Đó gọi là thiên nhãn.

Thế nào là thiên nhĩ? Các thứ âm thanh do Bồ-tát Ma-ha-tát nghe được, như là âm thanh của trời, người, Thánh, phi Thánh, âm thanh thô, tế, âm thanh hóa hiện, chân thật, xa, gần, tất cả đều nghe.

Âm thanh của trời: Là từ sáu xứ trời nơi cõi dục đến trời A-canị-trá, cho đến vô lượng thế giới trong mười phương, mọi âm thanh của chư thiên thảy đều được nghe. Đó gọi là âm thanh của trời.

Âm thanh của người: Là vô lượng thế giới trong mười phương.

Âm thanh của Thánh: Là chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, vì giáo hóa chúng sinh nên tuyên thuyết pháp Phật, hoặc khen ngợi bố thí, trì giới, nghiệp thiện, phá bỏ nghiệp ác, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Phật. Đó gọi là âm thanh của Thánh.

Âm thanh phi Thánh: Tức là nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói lời vô nghĩa. Trên từ các trời nơi cõi dục, dưới đến ba đường ác, chúng sinh, chư thiên hiện có trong mười phương, có bốn thứ lời nói xấu ác như vậy. Đó gọi là âm thanh phi Thánh.

Âm thanh thô: Tức là âm thanh của đại chúng, tiếng nói của những chúng sinh to lớn, tiếng nói nơi địa ngục, tiếng sấm sét, tiếng loa, tiếng trống. Đó gọi là âm thanh thô.

Âm thanh tế: Tức là tiếng nói trộm lén, tiếng nói không rõ, tiếng của nước Đà-tỳ-la, tiếng Túc đặc, tiếng Nguyệt chi, tiếng Đại Tần, tiếng An Tức, tiếng Chân Đan, tiếng Pháp Sa, tiếng Lõa Hình, tiếng Tiên Ty. Các thứ tiếng nơi biên địa như vậy gọi là tiếng tế. Vì sao? Vì nhân duyên của phiền não ganh ghét nên như vậy.

Bồ-tát thành tựu thiên nhĩ như thế, nghe các chúng sinh phát ra âm thanh thiện, khen ngợi cung kính, Bồ-tát giáo hóa khiến trụ trong pháp Phật, sinh khởi tâm tín, rộng vì họ phân biệt mười hai bộ kinh và tạng bí mật của Bồ-tát. Nếu nghe âm thanh xấu ác thì liền chê trách, nói lỗi lầm của nghiệp ác, mở bày pháp môn đối trị. Đó gọi là thiên nhĩ.

Thế nào là tha tâm trí? Nghĩa là Bồ-tát đều nhận biết tâm của các chúng sinh hiện có trong mười phương thế giới: Tâm cùng với phiền não, tâm không cùng với phiền não, tâm hệ thuộc phiền não, tâm không hệ thuộc, tâm nguyện thiện, tâm nguyện ác, tâm nghi, tâm không nghi, tâm thượng, tâm hạ, tâm tham sân si, tâm cõi dục, tâm cõi sắc, tâm cõi vô sắc. Cho đến tâm thọ khổ, tâm thọ vui, tâm không khổ không vui của tất cả chúng sinh trong đường súc sinh. Dùng một tâm quán tâm của một chúng sinh. Dùng một tâm quán tâm của vô lượng chúng sinh. Đó gọi là tha tâm trí.

Tha tâm trí thông của chư Phật, Bồ-tát là nhận biết căn tánh lợi độn của chúng sinh, nhận biết các chủng tánh của chúng sinh, nhận biết chúng sinh nào có tâm thiện rồi liền vì họ diễn nói về mười hai bộ kinh và Tạng Bồ-tát. Nhận biết chúng sinh có tâm ác rồi, liền chê trách cùng nói lỗi lầm của nghiệp ác. Đó gọi là tha tâm trí thông của Bồ-tát.

Thế nào là lậu tận trí? Tức Bồ-tát Ma-ha-tát vì đoạn dứt phiền não nên tu tập đạo. Vì tự diệt trừ phiền não nên tu tập đạo. Vì dứt trừ các phiền não của chúng sinh nên vì họ thuyết pháp, cũng là nhằm diệt trừ hữu lậu và kiêu mạn của chúng sinh, phá bỏ phi đạo chấp tà đạo nơi chúng sinh. Bồ-tát Ma-ha-tát tuy vì chúng sinh thuyết pháp dứt trừ lậu, nhưng tự mình không dứt hết lậu, tuy chưa dứt sạch hết lậu nhưng không bị cấu nhiễm. Lậu tận trí thông của Bồ-tát Ma-hatát là không thể nghĩ bàn, tu lậu tận thông là vì giáo hóa chúng sinh, phá trừ kiêu mạn. Đó gọi là lậu tận trí.

Thế nào gọi là pháp? Nghĩa là quả của Bố thí Ba-la-mật cho đến quả của Bát-nhã Ba-la-mật. Đó gọi là pháp.

Sáu thứ quả này mỗi thứ có bốn việc: Một là tu tập đạo. Hai là trang nghiêm Bồ-đề. Ba là tự lợi lợi tha. Bốn là đời sau được quả thiện lớn.

Bồ-tát hành thí là phá trừ tham lam keo kiệt. Trang nghiêm đạo Bồ-đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề nên khiến thực hành bố thí. Khi cần thí liền thí, thí rồi sinh hoan hỷ. Đó gọi là tự lợi. Đoạn trừ những thứ đói khát, khổ não, nóng lạnh, sợ hãi của chúng sinh. Đó gọi là lợi tha. Xả bỏ thân này rồi đạt được tự tại, tôn quý, nhiều của cải. Đó gọi là quả lớn. Trên đây là bốn sự việc bố thí của Bồ-tát.

Bồ-tát Ma-ha-tát thọ trì giới cấm trừ diệt giới ác, trang nghiêm đạo Bồ-đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề nên khiến hành trì giới cấm, xa lìa sợ hãi về phá giới, ngủ yên, thức yên, tâm không hối hận, vui vẻ an lạc. Đó gọi là tự lợi. Đối với các chúng sinh không có tâm hại, ban sự vô úy cho chúng sinh. Đó gọi là lợi tha. Trì giới nên thọ nhận an lạc nơi nẻo trời người, được đạo Niết-bàn. Đó gọi là quả lớn. Trên đây là bốn sự việc trì giới của Bồ-tát.

Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập nhẫn nhục phá trừ bất nhẫn, trang nghiêm đạo Bồ-đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề nên khiến tu trì nhẫn nhục, hoặc tự mình hoặc khiến người khác xa lìa sợ hãi. Đó gọi là tự lợi lợi tha. Do nhân duyên nhẫn nhục nên không có tâm sân hận, quyến thuộc không ly tán, không thọ khổ não, tâm không hối hận, xả thân này rồi được thọ nhận an vui nơi nẻo trời người, đắc đạo Niết-bàn. Đó gọi là quả lớn. Trên đây là bốn sự việc nhẫn nhục của Bồ-tát.

Bồ-tát Ma-ha-tát siêng tu tinh tấn phá trừ biếng trễ, trang nghiêm đạo Bồ-đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề nên khiến tu hành tinh tấn, ngủ an, thức an, lìa các phiền não, tăng trưởng pháp thiện, thân được an lạc. Đó gọi là tự lợi. Bồ-tát tinh tấn không đánh đập mắng nhiếc làm não loạn chúng sinh. Đó gọi là lợi tha. Xả thân này rồi thọ nhận an lạc nơi nẻo trời người, thân có lực lớn, được đạo Bồ-đề. Đó gọi là quả lớn. Trên đây là bốn sự việc tinh tấn của Bồ-tát.

Bồ-tát tu thiền định diệt trừ tâm loạn động, trang nghiêm đạo Bồ-đề để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồ-đề nên khiến tu tập thiền định, hiện đời hưởng vui, thân tâm tịch tĩnh. Đó gọi là tự lợi. Vì thân tâm tịch tĩnh nên không não loạn chúng sinh. Đó gọi là lợi tha. Xả thân này rồi, thọ thân thanh tịnh, an ổn diệu lạc, được đạo Niết-bàn. Đó gọi là quả lớn. Trên đây là bốn sự việc thiền định của Bồ-tát.

Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu trí tuệ phá trừ vô minh, trang nghiêm đạo Bồ-đề, dùng bốn nhiếp pháp để thâu giữ chúng sinh, vì đạo Bồđề nên tu hành trí tuệ, do nhận biết pháp giới nên thân thọ an lạc. Đó gọi là tự lợi. Có thể dùng sự việc thế gian và xuất thế gian để giáo hóa chúng sinh. Đó gọi là lợi tha. Có thể phá diệt hai chướng phiền não, trí tuệ. Đó gọi là quả lớn. Trên đây là bốn sự việc trí tuệ của Bồ-tát.

Thế nào là cộng sinh không thể nghĩ bàn? Tức Bồ-tát Maha-tát chẳng phải chỉ vì túc mạng trí nên nhớ lại sự việc đời trước, nhưng quán xét các nghiệp thiện ác của chúng sinh, đồng chịu khổ là vì muốn tạo lợi ích. Bồ-tát Ma-ha-tát ở nơi trời Đâu Suất, thành tựu thọ mạng có ba việc thù thắng: Một là thọ mạng thù thắng. Hai là sắc thân thù thắng. Ba là danh xưng thù thắng. Lúc đầu hạ sinh, đã phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, tự nhận biết rõ lúc vào thai mẹ, lúc ở trong thai, lúc ra khỏi thai, lúc đi bảy bước mặt hướng khắp mười phương, không người dìu đỡ, tự nói lời: Thân này của Ta hôm nay là thân sau cùng. Chư thiên, quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, dùng các hoa hương, kỹ nhạc, cờ phướn, lọng báu vi diệu để cúng dường. Ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân không gì có thể hơn. Dùng lực từ thiện phá diệt quân ma, mỗi mỗi chi tiết trong thân đồng như đại lực đã đạt được của Na-la-diên. Lúc tuổi nhỏ không học sự việc thế gian nhưng có thể nhận biết. Lớn lên tự học, không thầy mà tự chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Phạm thiên đến khuyến thỉnh, vì các chúng sinh nên chuyển bánh xe chánh pháp. Khi chánh thọ Tam-muội, các tiếng sấm chấn động đều không thể khiến động. Các loài thú đã gần gũi thương kính như cha mẹ, súc sinh hiến thức ăn, biết được tâm Phật. Thần mây tuôn mưa xuống tắm gội thân ấy. Cây theo cành cong che mát trên thân. Khi thành đạo rồi, trong sáu năm ma ác luôn dò xét nhưng không thấy có chút khuyết điểm nào. Thường ở trong thiền định thành tựu tâm niệm, khéo có thể nhận biết rõ về giác quán khởi diệt. Đó gọi là cộng sinh không thể nghĩ bàn của Bồ-tát.

Thế nào là bất cộng sinh không thể nghĩ bàn? Tức là nhằm đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Như người cuồng loạn kia nhờ thấy Như Lai mà tâm thức được trở lại như cũ. Người mù được mắt sáng, kẻ sinh ngược được thuận, người điếc được nghe, người tham sân si được trừ diệt hết. Đó gọi là bất cộng sinh không thể nghĩ bàn của Bồ-tát.

Lại nữa, cộng sinh là việc làm của Như Lai không thể nghĩ bàn. Thường nằm nghiêng theo hông bên phải như sư tử chúa. Hoặc là cỏ hay lá đều không có loạn động. Tùy theo gió mạnh nhưng không động y phục. Khởi chân bước đi như sư tử vương, như ngỗng chúa trắng. Nếu khi muốn đi, trước khởi chân phải, nơi chốn đi đến cao thấp đều bằng phẳng. Ăn uống luôn gọn gàng, thuận hợp. Đó gọi là cộng sinh không thể nghĩ bàn.

Lúc Đức Như Lai, Thế Tôn nhập Niết-bàn, đại địa chấn động, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương cõi, tất cả đều nghe âm thanh của kỹ nhạc. Đó gọi là cộng sinh không thể nghĩ bàn.

Thế nào gọi là bất cộng? Thanh văn, Duyên giác tức không cùng chung. Không cùng với Thanh văn, Duyên giác gồm có ba: Một là tế. Hai là hành. Ba là cõi. Như Lai đều nhận biết về vô lượng phiền não của tất cả chúng sinh cùng vô lượng pháp đối trị. Đó gọi là tế. Hành tức là sáu thông, sáu pháp Ba-la-mật, pháp tánh tự sinh không thể nghĩ bàn. Đó gọi là hành. Cõi là trí tuệ vô ngại trong tất cả thế gian. Đó gọi là cõi.

Trên đây là bất cộng sinh không thể nghĩ bàn. Thần thông của Thanh văn ngang với hai ngàn thế giới. Thần thông của Duyên giác ngang với ba ngàn đại thiên thế giới. Chư Phật, Bồ-tát thông đạt vô lượng vô biên thế giới. Đó gọi là bất cộng. Cộng là trừ ba sự việc trên, tất cả pháp còn lại gọi là cộng.

Thế nên Thanh văn, Duyên giác hãy còn không được cùng với chư Phật, Bồ-tát gọi là cộng, huống là hàng trời, người, phàm phu, ngoại đạo, tà kiến. Sáu pháp Ba-la-mật của Đại Bồ-tát là tánh cộng sinh và bất cộng sinh, là pháp cộng, bất cộng của hàng Thanh văn, Duyên giác. Đó gọi là không thể nghĩ bàn.

HẾT – QUYỂN 2

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9