KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Ma
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 5
Phẩm thứ 12: NHẪN NHỤC CỦA ĐỊA BỒ TÁT
Thế nào là tánh nhẫn của Bồ-tát Ma-ha-tát? Do lực của trí tuệ nên có thể gắng chịu vô số sự việc khổ não. Tất cả nhẫn, hết thảy mọi nhẫn do có thương xót nên đạt được tâm từ. Tánh nhẫn có hai hạng: Một là xuất gia. Hai là tại gia. Tại gia và xuất gia đều có ba thứ: Một là có thể nhẫn chịu khi bị chúng sinh đánh đập mắng nhiếc. Hai là có thể tự nhẫn chịu tất cả các khổ. Ba là nhẫn vui thích pháp thiện.
Có thể nhẫn chịu khi bị chúng sinh đánh đập mắng nhiếc: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát lúc bị đánh đập mắng nhiếc liền suy nghĩ: Do thân này của ta tạo các nghiệp ác, nên nay tự chịu quả báo, vì sao đối với những người kia sinh tâm sân hận? Ta cũng không cầu có phiền não khổ này, nay nếu không nhẫn thì sau sẽ tăng thêm nhiều. Không nhẫn nhục là nhân của phiền não khổ. Ta thọ thân này và các phiền não chẳng phải là lỗi của chúng sinh mà là lỗi của ta. Nếu có việc ác thật không ưa nhận, nay nếu không nhẫn thì đó là tự tạo tác, nếu tự tạo tác thì phải tự thọ tánh khổ của sinh tử. Thân nếu thọ khổ vì sao không nhẫn. Hàng Thanh văn, Duyên giác vì tự lợi hãy còn tu nhẫn nhục, huống chi là ta nay vì nhằm đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh mà không nhẫn nhục sao. Nếu ta không nhẫn thì không được đầy đủ giới Bồ-tát, tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo vô thượng.
Bồ-tát Ma-ha-tát lúc suy nghĩ như vậy nên tu năm thứ nhẫn: Một là đối với kẻ oán người thân, hoặc không oán thân đều tu hạnh nhẫn nhục. Hai là đối với ba hạng người thượng, trung, hạ cũng tu hạnh nhẫn nhục. Ba là đối với người thọ khổ, thọ vui, thọ không khổ không vui đều tu tập nhẫn nhục. Bốn là đối với người có phước đức, không có phước đức, chẳng phải có chẳng phải không phước đức, đều tu tập nhẫn nhục. Năm là ở trong tất cả người ác, luôn tu tập nhẫn nhục.
Bồ-tát thành tựu năm thứ nhẫn như vậy thì tu tập năm thứ tưởng: Một là tưởng chúng sinh. Hai là tưởng pháp. Ba là tưởng vô thường. Bốn là tưởng khổ. Năm là tưởng vô ngã, vô ngã sở.
Thế nào là tưởng chúng sinh? Nếu Bồ-tát bị người ác đánh, làm sao có thể tạo tưởng thân thuộc. Bồ-tát quán xét kỹ: Thời quá khứ lưu chuyển trong sinh tử, không có chúng sinh nào chẳng phải là cha mẹ, sư trưởng, Hòa thượng, quyến thuộc, thân tộc đáng cho ta cung kính cúng dường. Lúc quán xét như vậy thì tưởng oán ghét diệt, tưởng thân thuộc sinh, do tưởng thân thuộc sinh nên có thể tu tập nhẫn nhục. Lúc này tức thành tựu tưởng chúng sinh.
Tưởng pháp: Nghĩa là Bồ-tát quán xét kỹ: Chúng sinh gọi là pháp giới, là pháp hữu vi, là pháp hữu lậu. Nếu là pháp giới thì đối với pháp giới ai đánh ai sân, không có ngã, ngã sở, thọ mạng, sĩ phu. Lúc dùng sức trí tuệ tác quán tưởng này, thì diệt tưởng chúng sinh thành tựu tưởng pháp.
Tưởng vô thường: Nghĩa là Bồ-tát suy nghĩ: Tất cả chúng sinh, tất cả pháp hữu vi, hữu lậu thảy đều là vô thường. Do vô thường nên có ai đánh mắng, có ai thọ nhận? Nếu khiến đánh mắng cùng thọ nhận khổ tạm thời dừng trụ, tức không thể nói các pháp là vô thường. Nếu khiến là thường thì ai đánh mắng, ai thọ nhận? Trong thường và vô thường đều không là hai, đều không tạo tác, thọ nhận, hãy còn không nên sinh tâm ác nhỏ, có gì là đánh mắng. Cho nên Bồ-tát phá bỏ tưởng thường tu tưởng vô thường, do có thể tu tập tưởng vô thường nên thành tựu tâm nhẫn, vì thành tựu tâm nhẫn nên tu tập đạo Bồ-đề, cho đến chứng đắc đạo quả giác ngộ vô thượng.
Thế nào là Bồ-tát tu tập tưởng khổ? Bồ-tát Ma-ha-tát quán xét kỹ: Hoặc chúng sinh trong cõi dục được đại tự tại, giàu có lớn nhiều của báu như Chuyển luân Thánh vương hãy còn có ba sự khổ, huống chi là người khác. Ba thứ khổ là Lại biến khổ, Sinh tử khổ, Khổ khổ. Lúc tác quán tưởng này, nếu khiến chúng sinh có ba thứ khổ ấy nên ta không sân, ta nếu sân hận thì sao có thể cứu độ ba sự khổ ấy cho chúng sinh? Nếu ta sân tức là làm tăng trưởng ba khổ của chúng sinh. Khi khởi quán tưởng ấy thì tưởng vui diệt, tưởng khổ sinh, vì nhân duyên tu tập tưởng khổ nên có thể tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Thế nào là Bồ-tát tu tập tưởng vô ngã, vô ngã sở? Bồ-tát quán xét kỹ: Có các ngoại đạo nói ngã là thường. Nếu ngã là thường thì chúng sinh không có ngã. Vì sao? Vì chúng sinh tức là năm ấm, năm ấm thì vô thường. Nếu không có ngã thì sao có ngã sở, cho nên không có ngã, không có ngã sở. Bồ-tát lại quán xét ngã tức là tâm Bồ-đề. Bồ-tát lúc ban đầu phát tâm Bồ-đề, ở trong chúng sinh có được một thứ tâm, đó gọi là ngã sở. Nếu ta đối với một thứ tâm kia có tâm sân hận, làm sao được gọi là có ngã, có ngã sở? Nếu ta tăng trưởng tâm sân hận, thì không thể độ thoát tất cả chúng sinh. Lúc tạo quán như vậy là thành tựu nhẫn nhục, tăng trưởng tâm vô ngã, vô ngã sở, được tưởng vô ngã, dùng nhân duyên này tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Thế nào là Bồ-tát có thể tự nhẫn chịu tất cả các khổ? Lúc này Bồ-tát nên quán xét: Vào đời quá khứ ta vì năm dục nên chịu đủ các khổ. Tại gia làm các việc cày cấy, gieo trồng, thọ nhận vô số các sự khổ nhọc. Hoặc phụng sự quốc vương, hoặc ở chợ mua bán chịu nhiều sự khổ. Lúc ấy, tuy ta chịu các khổ lớn như vậy nhưng không tạo được lợi ích. Nay nếu ta vì nhằm độ chúng sinh nên chịu các khổ não tức tạo được lợi ích, nếu được lợi ích lớn thì nhận chịu vô lượng khổ cũng không đáng kể. Khi phát nguyện này, tức Bồ-tát có thể gắng nhẫn các khổ. Thọ khổ gọi là tất cả khổ. Tất cả khổ gồm có tám thứ: Một là y khổ. Hai là thế pháp khổ. Ba là oai nghi khổ. Bốn là nhiếp pháp khổ. Năm là khất thực khổ. Sáu là tinh tấn khổ. Bảy là làm lợi ích cho chúng sinh khổ. Tám là làm việc khổ.
Y khổ còn gọi là tứ y khổ. Nếu Tỳ-kheo thọ bốn y rồi, được xuất gia thọ giới, được gọi là cụ túc Tỳ-kheo. Nếu thiếu thốn y áo, thức ăn, ngọa cụ, thuốc thang, không sinh tâm sầu khổ, không sinh hối hận, do có thể tu tập tâm hoại khổ, nên tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là y khổ.
Thế pháp khổ có chín thứ: Một là cầu không được khổ. Hai là tiếng xấu khổ. Ba là hiện đối pháp ác khổ. Bốn là khổ khổ. Năm là mất mát khổ. Sáu là vật dụng hết khổ. Bảy là già khổ. Tám là bệnh khổ. Chín là chết khổ. Đó gọi là thế pháp khổ. Lúc Bồ-tát thọ nhận chín thứ khổ này, không sinh sầu não, tâm không hối hận, không phế bỏ tâm Bồ-đề Vô thượng. Do không hối hận nên Bồ-đề tăng trưởng. Do Bồ-đề tăng trưởng nên chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Oai nghi khổ là bốn oai nghi của thân, tức đi, đứng, ngồi, nằm. Bồ-tát hoặc đi hoặc ngồi, đêm ngày thường điều phục tâm của nghiệp ác, nhẫn chịu đi khổ ngồi khổ, phi thời không nằm, phi thời không đứng, trong ngoài chỗ ở hoặc giường, hoặc đất, hoặc cỏ, hoặc lá, bốn chỗ như vậy thường nghĩ đến việc cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo, khen ngợi kinh pháp, thọ trì giới cấm, trì pháp vô thượng, rộng vì người giảng nói, suy nghĩ chánh nghĩa, như pháp mà trụ, phân biệt pháp giới, tu chỉ quán. Lúc Bồ-tát tu tập pháp như vậy, nếu có các khổ đều vui vẻ thọ nhận. Đó gọi là oai nghi khổ.
Nhiếp pháp khổ có bảy thứ: Một là thân xả bỏ đồ trang sức. Hai là cạo bỏ râu tóc. Ba là mặc y cắt rọc. Bốn là tất cả việc đời không được tự tại, mạng thuộc người khác. Năm là xin ăn tự nuôi mạng. Sáu là xa lìa nghiệp sinh sống, ít ham muốn, biết đủ. Bảy là xả bỏ thân tộc, sự vui năm dục. Đó gọi là nhiếp pháp khổ.
Khất thực khổ: Tức là những vật cung cấp cho thân như y phục, thức ăn, phòng nhà, mền nệm, thuốc thang, tất cả đều xin ở người khác, không có được thì không sầu não, khi được nên biết đủ, cho đến hết đời nhẫn chịu không hưởng sự vui của năm dục. Đó gọi là khất thực khổ.
Tinh tấn khổ: Tức là Bồ-tát siêng năng cúng dường Tam bảo, thọ trì đọc tụng kinh tạng Bồ-tát, biên chép giải nói, suy nghĩ ý nghĩa, đêm ngày không phế bỏ, tinh tấn tu tập Thánh đạo, do tinh tấn nên gắng nhẫn chịu các khổ. Đó gọi là tinh tấn khổ.
Làm lợi ích cho chúng sinh khổ: Tức mười một việc lợi ích trong ngoài như trên đã nói. Đó gọi là làm lợi ích cho chúng sinh khổ.
Làm việc khổ: Tức là nung bát, may y, giặt rửa, chúng Tăng sai khiến, cung cấp sư trưởng, hoặc vì cúng dường nên lau dọn tháp Phật, vì hành pháp thiện nên trọn không ngơi nghỉ, vì cầu đạt Bồ-đề Vô thượng nên nhẫn chịu các khổ. Đó gọi là làm việc khổ.
Nhẫn vui thích pháp thiện khổ có tám thứ nhẫn: Nhẫn thọ công đức hiện có của Tam bảo. Nhẫn đối với Phật, Bồ-tát không thể nghĩ bàn. Nhân nhẫn. Quả nhẫn. Phương tiện thiện nhẫn. Tánh Phật, Bồtát lại có hai nhẫn: Một là nhẫn cứu cánh, hai là nhẫn tịnh trí tuệ. Đó gọi là pháp nhẫn.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành khó nhẫn? Khó nhẫn có ba thứ: Một là có vô số chúng sinh đánh mắng Bồ-tát nhưng Bồ-tát có thể nhẫn. Hai là Bồ-tát có lực tự tại, nên dù bị đánh mắng vẫn nhẫn chịu, không báo oán. Ba là Bồ-tát ở nơi chủng tộc tôn quý có thể nhẫn đối với hàng thấp kém.
Thế nào là tất cả tự nhẫn? Bồ-tát Ma-ha-tát ở nơi kẻ oán người thân, hoặc không phải oán thân mà nhẫn với đủ các bậc hạ nhẫn, trung nhẫn, thượng nhẫn. Đó gọi là tất cả tự nhẫn.
Nhẫn thiện nhân có năm thứ công đức nhận biết nhẫn: Một là không chấp tâm ác, tâm sân. Hai là hủy hoại tâm ngăn trở. Ba là tâm không sầu não. Bốn là khi chết không hối hận. Năm là chết rồi hưởng sự an vui nơi nẻo trời, người. Bồ-tát quán xét nhẫn có công đức như vậy, giáo hóa chúng sinh khiến thực hành nhẫn, tự mình tu nhẫn cũng được tăng trưởng, khen ngợi nhẫn nhục, thấy người hành nhẫn tức cung kính tôn trọng tán thán lễ bái. Đó gọi là nhẫn thiện nhân.
Nhẫn nơi tất cả hành: Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát quán sát không nhẫn nhục tức có lỗi ác. Thế nào gọi là quả báo ác? Tức có thể rơi vào ba đường ác. Vì sợ đường ác nên tu hạnh nhẫn nhục. Vì thương xót nên nhẫn. Vì tu từ bi nên nhẫn. Vì tâm nhu hòa thuận hợp nên nhẫn. Vì chí tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng nên nhẫn. Vì để đầy đủ nhẫn nhục Ba-la-mật nên nhẫn. Vì xuất gia nên nhẫn. Vì thọ giới nên nhẫn. Vì đầy đủ tánh nên nhẫn. Vì muốn vô lượng đời tu tập nhẫn nên nhẫn. Vì đạt được tánh nhẫn nên nhẫn. Vì đạt được không tham ái, không sân hận nên nhẫn. Vì thấy pháp giới nên nhẫn. Vì thấy rõ chúng sinh giới nên nhân. Nơi tất cả thời nhẫn. Nơi tất cả quốc độ nhẫn. Tất cả tâm nhẫn. Đó gọi là nhẫn tất cả hành.
Nhẫn dứt trừ: Nghĩa là có người bần cùng đến Bồ-tát cầu xin vật cần dùng, lại có người ác cũng đến cầu xin, lại có người phá giới cũng đến cầu xin. Vì phá trừ tâm ác nên tu tập tâm nhẫn, vì phá trừ khổ cho nên bố thí việc vui. Đó gọi là nhẫn dứt trừ.
Nhẫn tự lợi lợi tha: Nghĩa là Bồ-tát nhẫn chịu mọi sự đói khát, lạnh nóng, gió mưa, thú dữ, trọn không hành phóng dật, thọ khổ sinh tử vì thương xót chúng sinh. Bồ-tát Ma-ha-tát đạt được các nhẫn như vậy, hiện tại tăng trưởng tất cả pháp thiện, xa lìa phiền não, đời sau có được vô lượng quả thiện, tất có thể điều phục tâm ác của chúng sinh. Do điều phục tâm ác nên tất cả phiền não không thể tùy tiện khởi, hiện tại an lạc, sau được quả thiện. Đó gọi là nhẫn tự lợi lợi tha.
Nhẫn tịch tĩnh: Nghĩa là Bồ-tát nếu bị các chúng sinh ác đánh mắng, nhưng đều không sinh tâm ác với họ, không khởi tưởng oán nhưng nghĩ là bạn thiện: Nếu không có các người ác như vậy, làm sao pháp thiện của ta được tăng trưởng. Thấy có người đánh mắng thì dùng lời dịu dàng khuyến dụ, do tu tập từ bi nên có thể phá diệt phiền não hiện có trong cõi dục.
Bồ-tát hành đầy đủ mười pháp nhẫn như trên, có thể tu tám chánh đạo và chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
*******
Phẩm thứ 13: TINH TẤN CỦA ĐỊA BỒ TÁT
Thế nào gọi là tánh tinh tấn của Bồ-tát? Tánh tinh tấn tức là tâm siêng năng tinh tấn, vì thâu giữ pháp thiện, vì tạo lợi ích cho chúng sinh, vì khiến chúng sinh chứng đắc đạo vô thượng, vì phá trừ điên đảo, vì tánh tinh tấn nên ba nghiệp thân khẩu ý được thiện. Đó gọi là tánh tinh tấn.
Tất cả tinh tấn có hai hạng: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian.
Lại có hai hạng: Một là tại gia. Hai là xuất gia.
Lại có ba thứ: Một là trang nghiêm. Hai là thâu giữ pháp thiện. Ba là tạo lợi ích cho chúng sinh.
Trang nghiêm tức Bồ-tát Ma-ha-tát lúc ban đầu phát tâm, siêng năng tinh tấn trang nghiêm và nguyện: Nếu ta có thể khiến một người giải thoát, thì sẽ ở trong địa ngục chịu khổ não lớn nơi vô lượng kiếp. Thọ khổ não rồi sau đó mới chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Chứng đắc Bồ-đề rồi, cho đến có thể khiến một người được giải thoát, cũng sẽ chịu khổ trong địa ngục tâm không ngơi nghỉ. Đó gọi là trang nghiêm.
Bồ-tát đầy đủ trang nghiêm tinh tấn, hơn tất cả công đức có được của hàng Thanh văn Duyên giác, không thể tính đếm. Vì sao? Vì muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh nên chịu khổ não lớn. Nếu vì một chúng sinh nên phải chịu khổ não lớn hãy còn đạt được vô lượng vô biên công đức, huống chi là vì tất cả chúng sinh. Đó gọi là Bồ-tát trang nghiêm tinh tấn thâu giữ pháp thiện.
Chuyên cần tinh tấn, như là tu bố thí Ba-la-mật, trì giới Ba-lamật, nhẫn nhục Ba-la-mật, tinh tấn Ba-la-mật, thiền định Ba-la-mật, trí tuệ Ba-la-mật, tất cả đều chuyên cần tinh tấn, gọi là bất động. Tức tất cả phiền não, tất cả nghiệp ác, tất cả tà kiến, tất cả khổ não không làm lay động. Cũng gọi là kiên cố, do dũng mãnh trang nghiêm. Lại gọi là nhất thiết, vì nhận biết phương thuật thế gian và pháp xuất thế. Lại gọi là phương tiện đầy đủ, do nhân duyên chân thật tu tập đạo. Lại gọi là chân thật, do được nghĩa chân thật. Lại gọi là rộng, do trong tất cả thời không có dừng nghỉ. Lại gọi là điều phục, do chuyên cần tinh tấn không sinh kiêu mạn. Bảy việc như vậy làm tăng trưởng pháp thiện. Đó gọi là tinh tấn thâu giữ pháp thiện. Do chuyên cần tinh tấn, nên đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Pháp chuyên cần tinh tấn, đối với các chốn đều hướng đến pháp Bồ-đề, nhân duyên gần này là vô thượng, vô thắng, nên trong kinh Đức Như Lai dạy: “A-nan! Siêng năng tinh tấn thì mau chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng”. Siêng năng tinh tấn tạo lợi ích cho chúng sinh gồm có mười một thứ, như trong phần Giới đã nói.
Tinh tấn khó hành: Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát không khởi tưởng về y phục, không khởi tưởng về thức ăn, không khởi tưởng về ngọa cụ, không khởi tưởng về ngã, không khởi tưởng về ngã sở, không khởi tưởng về pháp, không khởi tưởng về đạo, không khởi tưởng về Bồ-đề, cũng vì Bồ-đề nên siêng năng tinh tấn. Đó gọi là tinh tấn khó hành. Đối với tất cả thời, tất cả quốc độ, tất cả tâm, đều siêng năng tinh tấn, không gấp không chậm nơi sự thực hành, cũng gọi là tinh tấn khó hành. Tinh tấn khó hành có hai thứ nhân: Một là bi. Hai là tuệ.
Tất cả tự tinh tấn gồm có bốn thứ: Một là xa lìa pháp ác. Hai là tăng trưởng pháp thiện. Ba là trau dồi pháp thiện. Bốn là tăng trưởng trí tuệ. Xa lìa pháp ác: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát siêng năng tinh tấn, pháp ác chưa sinh thì siêng năng tạo phương tiện khiến nó không sinh. Tăng trưởng pháp thiện: Tức là pháp thiện đã sinh thì tạo phương tiện khiến được tăng rộng. Trau dồi pháp thiện: Tức là siêng tu nhân duyên của ba nghiệp thân khẩu ý, chí tâm thọ trì pháp thiện. Tăng trưởng trí tuệ: Tức là Bồ-tát chuyên cần tu tinh tấn đa văn, tu định khiến tăng trưởng trí tuệ. Đó gọi là tất cả tự tinh tấn.
Tinh tấn thiện nhân: Nghĩa là Bồ-tát vì pháp thiện, lúc siêng năng tinh tấn dẫu đốt thân đầu không cho là nóng. Khi Bồ-tát tu pháp thiện siêng năng tinh tấn hãy còn tự không biết lửa nóng nơi địa ngục, huống gì là lửa thế gian. Bồ-tát tinh tấn không nhiều không ít, bình đẳng thực hành, tăng trưởng tinh tấn khéo điều phục. Vì sao? Vì tâm thanh tịnh, tâm không ngơi nghỉ, không hối hận, nên được lợi ích lớn, không có điên đảo, rốt ráo có thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là tinh tấn thiện nhân.
Tinh tấn nơi tất cả hành: Nghĩa là thường siêng năng tinh tấn, chí tâm tinh tấn, trí tuệ tinh tấn, tinh tấn không đoạn, tinh tấn trang nghiêm, tinh tấn nhẫn khổ, tinh tấn bất động, tinh tấn không thời, tinh tấn không hề chán đủ. Bồ-tát thành tựu tất cả hành tinh tấn gọi là đại lực, thường siêng năng tinh tấn, an trụ nơi xứ thiện, kiên cố trang nghiêm, không dừng không nghỉ việc đạt được pháp thiện. Bồ-tát Ma-ha-tát muốn tâm tinh tấn nên cầu Bồ-đề Vô thượng. Bồtát Ma-ha-tát chí tâm muốn tinh tấn, nên tăng trưởng tâm Bồ-đề. Bồ-tát Ma-ha-tát với tâm phương tiện tinh tấn, thì các phiền não không làm nhiễm ô tâm, dùng thân làm pháp khí để thành tựu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát hành tinh tấn thù thắng là đối với pháp thiện luôn dốc tinh tấn hành trì như lửa đốt thân đầu không được cứu hộ. Như vậy, Bồ-tát hơn tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát Ma-ha-tát cầu tinh tấn, tức cầu các phương thuật nơi pháp thế gian và xuất thế gian. Bồ-tát Ma-ha-tát học tinh tấn, tức mau đạt được pháp thế gian và xuất thế gian. Bồ-tát Maha-tát hành tinh tấn tạo lợi ích cho mọi người, có mười một thứ như trong phần Giới đã nói.
Tinh tấn dứt trừ và tinh tấn tự lợi lợi tha, như trong phần Nhẫn đã nói.
Tinh tấn tịch tĩnh: Tức có mười thứ: Một là thích nghi. Hai là tu tập. Ba là không động. Bốn là kiên trì. Năm là tất cả thời. Sáu là duyên nơi ba tướng. Bảy là xả. Tám là không tán loạn. Chín là điều phục. Mười là hướng đến Bồ-đề.
Nếu Bồ-tát khởi các thứ phiền não, vì trừ bệnh nên tùy theo đấy để đối trị. Như tham dục khởi thì quán tướng bất tịnh. Sân hận khởi thì tu tâm từ bi. Ngu si khởi thì quán mười hai nhân duyên. Tư giác khởi thì quán pháp sổ tức. Vì phá bỏ kiêu mạn nên quán cõi chúng sinh. Đó gọi là tinh tấn thích nghi.
Bồ-tát tinh tấn không có bắt đầu và kết thúc, trong vô lượng đời thường được thành tựu. Đó gọi là tinh tấn tu tập.
Bồ-tát tinh tấn thường siêng năng tu tập cũng như lúc ban đầu đạt được. Đó gọi là tinh tấn bất động. Do trong tất cả thời luôn siêng năng tinh tấn, nên gọi là bất động.
Bồ-tát Ma-ha-tát có thể thường gần gũi các bậc sư trưởng, trưởng lão có đức để tu học đa văn, hoặc tu Tam-muội, suy nghĩ nghĩa lý, siêng năng tinh tấn tùy thuận lắng nghe. Đó gọi là tinh tấn kiên trì.
Bồ-tát Ma-ha-tát tâm không điên đảo, lúc nên tu chỉ thì tu chỉ, lúc nên tu quán thì tu quán, lúc nên tu xả thì tu xả. Đó gọi là tinh tấn nơi tất cả thời.
Bồ-tát khéo nhận biết định tuệ xả thì luôn tu tập ba tướng, đó là tướng nhập, tướng trụ, tướng khởi, không mất chánh niệm, chí tâm tinh tấn. Đó gọi là tinh tấn duyên nơi ba tướng.
Bồ-tát nếu nghe chư Phật, Bồ-tát do siêng năng tinh tấn nên không thể nghĩ bàn, nghe rồi trong tâm không tự khinh, không sầu não, không chán đủ. Đó gọi là tinh tấn xả.
Bồ-tát Ma-ha-tát luôn điều phục các căn, các nhập, ăn uống biết đủ, đầu đêm cuối đêm đều bớt ngủ nghỉ, chí tâm không tán loạn, không có phóng dật, suy cầu trang nghiêm, phát khởi tinh tấn, tu nghĩa chân thật, tâm không điên đảo, tùy thuận tu đạo. Đó gọi là tinh tấn không tán loạn.
Bồ-tát tinh tấn không gấp không chậm, ở trong chỗ làm việc theo đấy thực hành. Đó gọi là tinh tấn điều phục.
Tất cả tinh tấn của Bồ-tát đều đem hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tánh tinh tấn cho đến tinh tấn tịch tĩnh, đều vì đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là tất cả tinh tấn đều đem hồi hướng nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đời quá khứ, chư Bồ-tát hành trì tinh tấn, đều vì đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đời vị lai, chư Bồ-tát hành trì tinh tấn, cũng vì đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đời hiện tại, chư Bồ-tát chí tâm không phóng dật, hành trì tinh tấn, cũng vì đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là tinh tấn hướng đến Bồ-đề.
********
Phẩm thứ 14: THIỀN ĐỊNH CỦA ĐỊA BỒ TÁT
Thế nào là tánh thiền của Bồ-tát Ma-ha-tát? Bồ-tát hoặc nghe Tạng pháp của Bồ-tát, hoặc suy nghĩ về nghĩa nơi thiền thế gian và xuất thế gian, buộc giữ tâm một xứ, trí định phần tu tập nơi đạo. Đó gọi là tánh thiền.
Tất cả thiền có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian.
Hai thứ này lại có ba hạng: Một là nhập thiền hiện tại thọ an vui. Hai là nhập thiền tăng trưởng Bồ-đề. Ba là nhập thiền tạo lợi ích cho chúng sinh.
Nhập thiền hiện tại thọ an vui: Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát phá trừ các lưới nghi, thân tâm vắng lặng, thọ sự vui xa lìa, phá trừ kiêu mạn, không tham đắm vị, lìa tất cả tướng. Đó gọi là nhập thiền hiện tại thọ an vui.
Nhập thiền tăng trưởng Bồ-đề: Nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát hành thiền định có vô số các thứ duyên, không thể suy nghĩ, không thể tính kể, không có hạn lượng, thâu tóm tánh của mười lực, đắc vô số các pháp Tam-muội. Tam-muội như vậy, tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác còn không biết tên, huống chi là có thể tu tập. Lại có cộng pháp, đó là tám thắng xứ, mười nhất thiết xứ, bốn trí vô ngại, trí nguyện, trí vô tranh, trí đảnh. Do tăng trưởng cộng pháp như vậy, nên gọi là nhập thiền tăng trưởng Bồ-đề.
Nhập thiền tạo lợi ích cho chúng sinh gồm có mười một thứ, như trong phần Giới đã nói. Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập đầy đủ mười một thứ thiền như vậy, có thể giáo hóa chúng sinh phá bỏ phiền não khổ, tu tập pháp thiện, tu các thứ trí tuệ, biết ân báo ân, có thể cứu độ các khổ não của chúng sinh, có thể bố thí các vật chúng sinh cần, khéo nhận biết phương tiện, giỏi nuôi đệ tử, có thể khiến đệ tử tùy ý thọ hành.
Các thiền như vậy gọi là Tất cả thiền.
Thiền khó hành gồm có ba thứ: Một là Bồ-tát Ma-ha-tát lúc nhập thiền định, chỗ thọ diệu lạc hơn tất cả mọi diệu lạc nơi thế gian và xuất thế gian, vì chúng sinh nên xả thiền định diệu lạc thọ thân nơi cõi dục. Hai là Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập thiền định vô lượng vô biên A-tăng-kỳ không thể nghĩ bàn, không thể tính kể, tu tập Tam-muội, tất cả Thanh văn, Duyên giác không thể nhận biết cảnh giới hội nhập của Bồ-tát. Ba là Bồ-tát Ma-ha-tát do nhân duyên thiền nên chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là thiền khó hành.
Tất cả tự thiền có bốn thứ: Một là cùng với giác quán. Hai là cùng với hỷ. Ba là cùng với lạc. Bốn là cùng với xả. Đó gọi là tất cả tự thiền.
Thiền thiện nhân có năm thứ: Một là không ái. Hai là cùng với từ. Ba là cùng với bi. Bốn là cùng với hỷ. Năm là cùng với xả. Đó gọi là thiền thiện nhân.
Thiền nơi tất cả hành có mười ba thứ: Một là thiện vô ký. Hai là thần túc. Ba là hướng đến Chỉ. Bốn là hướng đến Quán. Năm là tự lợi. Sáu là lợi tha. Bảy là được năm thần thông nơi công đức thiền. Tám là nhân duyên của ngôn từ. Chín là nhân duyên nghĩa. Mười là nhân duyên của tướng Chỉ. Mười một là nhân duyên của tướng Quán. Mười hai là nhân duyên của tướng Xả. Mười ba là nhân duyên của hành hiện tại thọ vui. Đó gọi là thiền tất cả hành.
Thiền dứt trừ có tám thứ: Một là Bồ-tát lúc nhập Tam-muội, có thể trừ diệt các thứ khổ độc của chúng sinh như gió bão, mưa đá, bệnh nhiệt, bệnh quỷ, đó gọi là thiền. Hai là nếu nhập Tam-muội có thể đối trị các khổ do bốn đại trong thân của chúng sinh không hòa hợp, đó gọi là thiền. Ba là nếu nhập Tam-muội có thể bố thí mưa cam lồ trong đời bị nạn mất mùa đói kém, đó gọi là thiền. Bốn là nếu nhập Tam-muội có thể khiến chúng sinh xa lìa sự sợ hãi như sợ người, sợ quỷ, sợ nước, sợ đất, đó gọi là thiền. Năm là nếu nhập Tam-muội có thể bố thí thức ăn hoặc các vật cần dùng cho những chúng sinh đói khát nơi đồng trống vắng, đó gọi là thiền. Sáu là nếu nhập Tam-muội có thể bố thí các vật cần dùng cho những người bần cùng khốn khổ, đó gọi là thiền. Bảy là nếu nhập Tam-muội có thể phá trừ mười thứ phóng dật của chúng sinh, đó gọi là thiền. Tám là nếu nhập Tammuội có thể phá trừ các lưới nghi của chúng sinh, đó gọi là thiền. Tám thứ trên đây gọi là thiền dứt trừ.
Thiền tự lợi lợi tha có chín thứ: Một là do nhập thiền được thần túc thông nên điều phục chúng sinh. Hai là do nhập thiền được tha tâm thông nên điều phục chúng sinh. Ba là do nhập thiền thuyết giảng chân thật nên điều phục chúng sinh. Bốn là nhập thiền vì chúng sinh ác nên chỉ bày địa ngục khổ. Năm là nhập thiền khiến người câm được nói. Sáu là nhập thiền khiến người mất niệm có niệm. Bảy là nhập thiền tùy thuận giải nói về mười hai bộ kinh và Tạng pháp của Bồ-tát, khiến cho giáo pháp ở đời lâu dài. Tám là nhập thiền có thể chỉ dạy chúng sinh các sự việc ở đời, như sách vở, toán số, đọc tụng, in ấn các ngành nghề v.v… Chín là nhập thiền vì phóng ra ánh sáng lớn, phá trừ khổ não của chúng sinh trong ba đường ác. Đó gọi là thiền tự lợi lợi tha.
Thiền tịch tĩnh có mười thứ: Một là pháp thế gian tịch tĩnh. Hai là pháp xuất thế gian tịch tĩnh. Ba là phương tiện tịch tĩnh. Bốn là căn bản tịch tĩnh. Năm là tịch tĩnh hơn hết. Sáu là nhập tịch tĩnh. Bảy là trụ tịch tịch. Tám là khởi tịch tĩnh. Chín là tịch tĩnh tự tại. Mười là tịch tĩnh làm sạch hai chướng phiền não và trí tuệ. Mười thứ tịch tĩnh như vậy, gọi là thiền tịch tĩnh, Bồ-tát tu tập mười thứ thiền như vậy, thành tựu vô lượng vô biên công đức, vì nhằm đạt quả Bồ-đề Vô thượng. Bồ-tát trong đời quá khứ hiện tại vị lai đều tu thiền này nên chứng đắc đạo quả giác ngộ vô thượng.
*********
Phẩm thứ 15: TRÍ TUỆ CỦA ĐỊA BỒ TÁT
Thế nào là tánh tuệ của Bồ-tát? Do nhất thiết trí nên phân biệt pháp giới. Đó gọi là tánh tuệ.
Lại nữa, khéo học năm thứ phương thuật, như nội phương thuật, nhân luận, thanh luận, y phương luận, tất cả việc đời. Đó gọi là tánh tuệ.
Tất cả tuệ có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Hai thứ này lại có ba loại: Một là biết như thật đúng như thật, tức biết năm thứ thuật, biết ba tụ của chúng sinh, biết phương tiện tạo lợi ích cho chúng sinh, biết pháp giới không thể nêu bày, biết bốn chân đế vô ngã vô ngã sở, ở nơi các pháp giới không có giác quán, quán các pháp giới tâm luôn bình đẳng, không xả, không đắm, không thường, không đoạn, thuyết ở trung đạo, đó gọi là trí tuệ. Hai là biết việc thế gian và pháp xuất thế gian, vì cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đó gọi là trí tuệ. Ba là quán sâu về pháp giới, phân biệt diễn nói, vì tạo lợi ích cho chúng sinh, đó gọi là trí tuệ. Như thế gọi là tất cả tuệ.
Tuệ khó hành có mười một thứ, như trong phần Giới đã nói. Vì điều phục chúng sinh nên khéo nhận biết tâm, đó gọi là tuệ khó hành. Nhận biết tất cả pháp giới không có chướng ngại, đó gọi là tuệ khó hành. Vì các chúng sinh nên thuyết giảng về pháp giới, đó gọi là tuệ khó hành. Khéo biết không có ngã và ngã sở, đó gọi là tuệ khó hành.
Tất cả tự tuệ: Nghĩa là nếu có thể thọ trì đọc tụng giải nói tạng pháp của Thanh văn, của Bồ-tát, thì được tu trí. Nhân nơi tu trí nên được lực trí tuệ. Nhân nơi lực trí tuệ nên nhận biết điều có thể tu – không thể tu, có thể làm – không thể làm, chí tâm quán sát vô lượng sự việc. Đó gọi là tất cả tự tuệ.
Tuệ thiện nhân có năm thứ: Một là nhân nghe chánh pháp nên chứng đắc. Hai là nhân suy nghĩ về chánh pháp nên chứng đắc. Ba là nhân hành tự lợi lợi tha nên chứng đắc. Bốn là nhân thấy chỗ pháp không điên đảo nên chứng đắc. Năm là nhân phá trừ phiền não nên chứng đắc. Lại có năm thứ: Một là có thể nhận biết nghĩa thâm diệu vi tế. Hai là tu tập thiền định nhận biết pháp giới. Ba là cùng với tuệ trang nghiêm nên đạt được trí tuệ. Bốn là từ Phật, Bồ-tát đi đến. Năm là có đầy đủ tâm vắng lặng cho đến tâm rốt ráo. Đó gọi là tuệ thiện nhân.
Tuệ tất cả hành có mười ba thứ: Một là trí khổ. Hai là trí tập. Ba là trí diệt. Bốn là trí đạo. Năm là trí tận. Sáu là trí không sinh. Bảy là trí pháp. Tám là trí so sánh. Chín là trí thế gian. Mười là trí thông. Mười một là trí nhân. Mười hai là trí lực. Mười ba là trí của tâm ban đầu. Đó gọi là tuệ tất cả hành.
Tuệ dứt trừ: Nghĩa là trí vô ngại, trí thế gian, trí xuất thế gian, phá trừ tất cả tối tăm. Đó gọi là tuệ dứt trừ.
Tuệ tự lợi lợi tha, như đã nói ở phần đầu trong năm thứ phương thuật. Do nhân duyên của năm phương thuật này nên chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là tuệ tự lợi lợi tha.
Tuệ tịch tĩnh: Nghĩa là vì chân thật nên tu tập. Vì chúng sinh nên tu tập. Vì chứng đắc nghĩa nên tu tập. Vì nhận biết nhân quả nên tu tập. Vì phá trừ điên đảo nên tu tập. Vì khéo nhận biết phương tiện nên tu tập. Vì nhận biết việc làm và không làm nên tu tập. Vì chứng đắc rốt ráo nên tu tập. Đó gọi là tuệ tịch tĩnh.
Bồ-tát đạt đầy đủ mười tuệ như vậy, nên gọi là trí tuệ, cũng gọi là rốt ráo, cũng gọi là chân thật, cũng gọi là vô lượng tuệ. Do nhân duyên của vô lượng tuệ ấy, nên Bồ-tát đầy đủ Bát-nhã Ba-la-mật. Do đầy đủ Bát-nhã Ba-la-mật, nên chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Như trong kinh Đức Phật có nói Bát-nhã đầy đủ và Bát-nhã không đầy đủ, phải biết mười thứ tuệ từ tánh cho đến tịch tĩnh, hoặc nói một Ba-la-mật, hoặc nói hai, ba, bốn, năm, sáu Ba-la-mật. Nếu nói một thì thâu tóm cả sáu, cho đến nói sáu cũng thâu tóm cả sáu. Nếu có chúng sinh nghe mỗi mỗi danh tự trong mười thứ trên, tin thọ phụng trì đọc tụng biên chép phân biệt nói rộng để giáo hóa chúng sinh, cuối cùng sẽ thành tựu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật.
********
Phẩm thứ 16: LỜI NHU HÒA CỦA ĐỊA BỒ TÁT
Thế nào là tánh lời nhu hòa của Bồ-tát? Bồ-tát Ma-ha-tát nói lời hoan hỷ, nói lời ưa nghe, nói lời đúng pháp, lời đúng nghĩa, lời lợi ích cho chúng sinh. Đó gọi là tánh của lời nhu hòa.
Tất cả lời nhu hòa: Là Bồ-tát Ma-ha-tát nếu gặp người ban đầu chưa quen biết, thấy rồi dùng lời nhu hòa cùng nói chuyện. Nếu thấy người đoan nghiêm có đức hơn mình, không mang tâm ganh ghét, phá bỏ kiêu mạn, cung kính thăm hỏi: Thân được an ổn chăng, đi đường mệt mỏi chăng, có khổ não không? Có người tốt đến thăm, nên sắp đặt giường tòa, cung cấp thức ăn uống. Tùy ý chúng sinh, Bồ-tát trọn không vì chúng sinh mà nói lời thô ác, như giết chết, phá hoại, cướp đoạt. Chỉ nói lời thiện, như con của ngươi lớn rồi, nay đã thành hôn, tài sản có đủ, lúa gạo dồi dào, trí tuệ thành tựu, tin bố thí, trì giới, tinh tấn, học rộng nghe nhiều. Bồ-tát đầy đủ pháp ngữ như vậy là vì tạo lợi ích cho chúng sinh, nên gọi là tất cả lời nhu hòa.
Phân tích lời nhu hòa có hai thứ: Một là tùy thế gian. Hai là tùy xuất thế gian. Thế gian có hai: Một là hạ thế. Hai là thượng thế. Xuất thế gian có hai: Một là chánh pháp tự lợi xuất thế. Hai là chánh pháp lợi tha xuất thế. Bồ-tát Ma-ha-tát vì pháp hạ thế, thượng thế nên nói lời nhu hòa, vì tự lợi lợi tha xuất thế gian nên nói lời nhu hòa. Đó gọi là phân tích lời nhu hòa.
Lời nhu hòa khó hành: Tức là nếu có chúng sinh đến hại Bồ-tát, Bồ-tát quán tưởng chúng sinh như con một, chí tâm nói lời nhu hòa.
Hại Bồ-tát tức là đánh đập, mắng nhiếc, cướp đoạt. Đó gọi là lời nhu hòa khó hành. Lại nữa, lời nhu hòa khó hành, là Bồ-tát Ma-ha-tát thường vì người si nên thuyết pháp bằng lời nhu hòa, thân khẩu ý nghiệp phần nhiều chịu các khổ, tuy chịu khổ lớn nhưng lại tiếp tục dạy dỗ: Ngươi nên siêng học sau sẽ được như ta. Đó gọi là lời nhu hòa khó hành. Lại nữa, Bồ-tát thấy có người sân, người ganh ghét, người bủn xỉn, không nghe lời sư dạy, lừa dối sư trưởng, cha mẹ cùng bậc có đức, ác hại, theo tà kiến hoặc đám Chiên-đà-la, Bồ-tát cùng họ nói lời nhu hòa nhưng không sinh tâm ác. Đó gọi là lời nhu hòa khó hành.
Tất cả tự nói lời nhu hòa có bốn thứ: Một là vì phá trừ nhân duyên của phiền não nên nói lời nhu hòa. Hai là vì nhân duyên sinh nơi nẻo nhân thiên nên nói lời nhu hòa. Ba là vì nhân duyên tăng trưởng pháp thiện nên nói lời nhu hòa. Bốn là vì nhân duyên nói về Bồ-đề trang nghiêm nên nói lời nhu hòa. Lại có bốn thứ: Một là nói bốn chân đế khiến những người kia được hiểu. Hai là phá trừ điên đảo. Ba là phá bỏ phóng dật. Bốn là phá trừ tâm nghi. Đó gọi là tất cả tự nói lời nhu hòa.
Nói lời nhu hòa thiện nhân: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát lúc giáo hóa chúng sinh, vì có nhân duyên nên thuyết pháp. Đó là vì nhân duyên giải nêu nên thuyết pháp. Vì nhân duyên trang nghiêm Bồ-đề nên thuyết pháp. Vì nhân duyên hiện thần túc nên thuyết pháp. Vì nhân duyên trì giới nên thuyết pháp. Vì thế các pháp từ duyên nên sinh, từ duyên nên diệt. Đó gọi là nói lời nhu hòa thiện nhân.
Nói lời nhu hòa tất cả hành: Tức là nếu khi thuyết pháp có điều đáng nghe, có điều đáng ngăn lại, Bồ-tát dùng lời nhu hòa, tùy thuận pháp tánh để thuyết giảng câu chữ không đảo lộn. Có người sợ hãi tức dùng lời nhu hòa khiến trừ sợ hãi. Có người cầu xin cũng dùng lời nhu hòa đồng ý và ban cho họ. Đó gọi là nói lời nhu hòa tất cả hành.
Nói lời nhu hòa trừ dứt: Tức là xa lìa lời nói ác, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời vô nghĩa. Thấy tức nói thấy, nghe thì nói nghe, biết thì nói biết, hiểu thì nói hiểu, không thấy không nghe không biết không hiểu cũng lại như vậy. Nói lời nhu hòa trừ dứt.
Nói lời nhu hòa tự lợi lợi tha: Tức là nếu thấy người chịu khổ, vì họ nói lời nhu hòa. Hoặc dùng lời nhu hòa giáo hóa chúng sinh. Hoặc dùng lời nhu hòa dẫn dạy chúng sinh. Hoặc dùng lời nhu hòa dạy khiến đạt chánh kiến. Hoặc dùng lời nhu hòa thuyết giảng chánh pháp. Hoặc dùng lời nhu hòa dạy thực hành bố thí. Hoặc dùng lời nhu hòa dạy về chánh mạng. Đó gọi là nói lời nhu hòa tự lợi lợi tha.
Nói lời nhu hòa tịch tĩnh có hai mươi thứ, như nơi phần đầu Phẩm Tánh Lực đã nói.
Tánh lợi tha: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì dẫn dạy mọi người, nên phân biệt nghĩa giới, thuyết giảng nghĩa trụ như pháp, vì thương xót chúng sinh nên tu tập tâm từ bi, chí tâm giáo hóa điều phục chúng sinh. Đó gọi là tánh lợi tha.
Tất cả lợi tha: Tức là chúng sinh chưa thành thục khiến được giải thoát, được an vui trong hiện tại và đời sau, dạy họ xuất gia đó tức là đời sau vui. Thuyết giảng pháp khiến phá kiết sử nơi cõi dục tức là hiện tại vui đời sau vui. Vì phá trừ các phiền não nơi cõi dục, nên thân tâm vắng lặng, do thâm tâm vắng lặng nên thọ nhận an vui. Đó gọi là tất cả lợi tha.
Lợi tha khó hành có ba thứ: Một là nếu có chúng sinh chưa gieo trồng căn thiện, chưa có nhân thiện nên khó giáo hóa. Đó gọi là lợi tha khó hành. Hai là có chúng sinh tiền của nhiều, uy lực tự tại, nhưng tâm tham lam bủn xỉn nên khó giáo hóa. Vì sao? Vì do phóng dật. Đó gọi là lợi tha khó hành. Ba là có hạng ngoại đạo tà kiến khó có thể giáo hóa. Vì sao? Do họ cuồng si. Có thể giáo hóa các loại như vậy đạt được lợi ích. Đó gọi là lợi tha khó hành.
Lợi tha tất cả tự lợi có bốn thứ: Một là người chưa tin chỉ dạy họ khiến sinh tín. Hai là người chưa có giới chỉ dạy họ khiến trì giới. Ba là người tham lam keo kiệt dạy họ hành bố thí. Bốn là người ngu si thì dẫn dạy họ khiến được trí tuệ. Đó gọi là lợi tha tất cả tự lợi.
Lợi tha thiện nhân: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát giáo hóa chúng sinh, khiến nhận biết chân thật, nhận biết thời, nhận biết nghĩa, nhận biết lời nhu hòa, giáo hóa tu từ bi. Đó gọi là lợi tha thiện nhân.
Lợi tha tất cả hành: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát thấy các chúng sinh đáng được khen ngợi, thì dùng lời nói hay để khen ngợi. Người đáng quở trách thì dùng lời thiện để quở trách. Nếu có chúng sinh đối với chánh pháp của Phật phát tâm tin tưởng, thì có thể điều phục họ. Người chưa nhập pháp Phật thì dẫn dạy họ khiến nhập. Người đã nhập rồi tức vì họ thuyết giảng chánh pháp, khiến căn thiện luôn được tăng trưởng, điều phục an trí ở trong ba thừa. Người căn tánh đã thành thục tức thuyết giảng về giải thoát. Người ưa Thanh văn thì dạy khiến phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Người chưa có trang nghiêm thiện tức dạy khiến đạt trang nghiêm. Người tánh không định tức dẫn dạy khiến tâm tánh định. Đó gọi là lợi tha tất cả hành.
Lợi tha dứt trừ: Tức là nếu có chúng sinh không biết xấu hổ thì dạy họ khiến xấu hổ. Người thô lỗ thì dạy họ khiến tu tâm. Vì người hay ganh ghét trừ bỏ tâm ganh ghét. Vì người keo kiệt trừ bỏ tâm keo kiệt. Vì người có tâm nghi phá bỏ lưới nghi. Đó gọi là lợi tha dứt trừ.
Lợi tha tự lợi: Là Bồ-tát Ma-ha-tát thường dùng mười điều thiện để giáo hóa chúng sinh. Đó gọi là lợi tha tự lợi.
Lợi tha tịch tĩnh có mười thứ: Nội tịch tĩnh có năm thứ. Ngoại tịch tĩnh cũng có năm thứ. Năm thứ nội tịch tĩnh: Một là tịnh. Hai là không chuyển. Ba là thứ lớp. Bốn là hiện hữu khắp. Năm là tùy thuận pháp thiện.
Tịnh: Tức là Bồ-tát không dùng pháp ác, pháp bất tịnh, pháp bất thiện để giáo hóa chúng sinh. Đó gọi là tịnh.
Không chuyển: Tức là Bồ-tát ở trong giải thoát không nói là phi giải thoát, trong pháp thanh tịnh không nói là bất tịnh, trong pháp không điên đảo không nói là điên đảo. Đó gọi là không chuyển. Lại đối với phi giải thoát không nói là giải thoát, trong pháp bất tịnh không nói là thanh tịnh, trong pháp điên đảo không nói là không điên đảo. Đó gọi là không chuyển.
Thứ lớp: Tức là Bồ-tát thấy có người si liền thuyết giảng nghĩa cạn và dễ để điều phục họ. Người căn cơ trung bình thì thuyết giảng pháp bậc trung. Người căn tánh lanh lợi thì thuyết giảng pháp bậc thượng. Trước nói bố thí, sau nói trì giới, sau nữa nói trí tuệ. Đó gọi là thứ lớp.
Hiện hữu khắp: Tức là Bồ-tát lúc thuyết pháp không quán sát dòng tộc của chúng sinh là sang hay hèn, chỉ tùy sức tùy trí vì họ thuyết giảng pháp khiến được an lạc. Đó gọi là hiện hữu khắp.
Tùy thuận pháp thiện: Tức là quán sát chúng sinh nên đạt được pháp thượng, hoặc trung, hoặc hạ, tùy đó thuyết pháp. Đó gọi là tùy thuận pháp thiện.
Ngoại tịch tĩnh cũng có năm thứ: Một là Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập vô lượng tâm từ bi là vì chúng sinh. Hai là vì chúng sinh nên chịu vô lượng khổ. Ba là vì tạo lợi ích cho các chúng sinh nên có được sự vui thấy lớn. Bốn là được tự tại lớn cũng luôn gắn bó với chúng sinh, như kẻ giúp việc. Năm là Bồ-tát có đầy đủ oai đức lớn, vẫn luôn khiêm nhường như kẻ Chiên-đà-la.
Trên đây là lợi tha tịch tĩnh nội ngoại.
Thế nào gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát đồng lợi? Tức Bồ-tát Ma-hatát đã tự thành tựu đầy đủ pháp thiện, lại dùng pháp này chuyển để khuyên chúng sinh. Đó gọi là Bồ-tát hành đồng lợi. Bồ-tát Ma-ha-tát vì đồng hành nên giáo hóa chúng sinh, chúng sinh thọ pháp thiện rồi tâm luôn kiên cố không thể lay động. Vì sao? Vì chúng sinh nhận biết chắc Bồ-tát thành tựu pháp thiện này thì chuyển để khuyên mình, vì muốn khiến mình có sự an lạc. Nếu tu pháp thiện mà được việc ác, Bồ-tát Ma-ha-tát trọn không tự tu để khuyên dạy ta. Lúc Bồ-tát khuyến hóa vô lượng chúng sinh đồng lợi như mình, không người nào có thể nói Bồ-tát tự không thành tựu mà khuyến hóa cho người, cũng không một người nào nói ông tự không thiện làm sao khuyên người khác thực hành pháp thiện.
Lại nữa, Bồ-tát có lúc tự thành tựu nhưng không thể khuyến hóa người khác. Có lúc tự không thành tựu nhưng có thể khuyến hóa người khác. Có lúc tự thành tựu cũng có thể khuyến hóa người khác. Có lúc tự không thành tựu cũng không khuyến hóa người khác.
Tự thành tựu nhưng không thể khuyến hóa người khác: Tức là đồng thầy, đồng học, đòng pháp, đồng đức, nhưng không hiển bày công đức của mình. Đó gọi là tự thành tựu nhưng không thể khuyến hóa người khác.
Tự không thành tựu nhưng có thể khuyến hóa người khác: Tức là Bồ-tát thấy chúng sinh ác tạo pháp ác, như đám Chiên-đà-la cho đến súc sinh, vì nhằm điều phục nên thọ thân như họ, đồng làm việc, vì muốn phá bỏ nghiệp ác. Đó gọi là tự không thành tựu nhưng có thể khuyến hóa người khác.
Tự thành tựu cũng có thể khuyến hóa người khác: Tức là Bồtát Ma-ha-tát tự thành tựu pháp thiện, cũng khuyến hóa người khác khiến thành tựu pháp thiện, phá trừ tâm kiêu mạn, tâm nóng nảy, vội vã. Đó gọi là tự thành tựu cũng khuyến hóa người khác.
Tự không thành tựu cũng không khuyến hóa người khác: Tức là Bồ-tát nếu tự mình hành phóng dật, nên không thể giáo hóa và điều phục chúng sinh. Đó gọi là tự không thành tựu cũng không khuyến hóa người khác.
Bồ-tát Ma-ha-tát dùng sáu pháp Ba-la-mật tự trang nghiêm thân, dùng bốn nhiếp pháp để trang nghiêm cho chúng sinh. Bồ-tát Ma-ha-tát dùng sáu pháp Ba-la-mật tự điều phục tâm mình, dùng bốn nhiếp pháp để điều phục tâm của chúng sinh. Do thân khẩu ý thanh tịnh nên pháp số Bồ-đề thanh tịnh. Do tự thân thanh tịnh nên tâm chúng sinh tịnh. Do thành tựu thân tâm thiện, nên gọi là vô thượng, vô thắng, không chung. Do vô thượng, vô thắng, ko chung này nên giáo hóa chúng sinh. Đó gọi là đồng lợi.
Bồ-tát Ma-ha-tát đối với các chúng sinh, hoặc đối với thời, vật đều không phân biệt. Đối với chúng sinh không có phân biệt: Tức là Bồ-tát vì chúng sinh nên thực hành bố thí Ba-la-mật cho đến Bát-nhã Ba-la-mật, vì cầu các pháp thiện. Đối với thời không phân biệt: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong tất cả thời đều vì chúng sinh nên siêng năng tinh tấn cầu pháp thiện. Đối với vật không phân biệt: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì chúng sinh nên thọ chứa tạp vật, nhưng đối với các vật ấy tâm không tham đắm. Do ba nhân duyên không phân biệt ấy nên chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Bồ-tát Ma-ha-tát ưa tu tập tất cả hành thiện, tâm không hối hận. Do nhân duyên tu tập nên có thể phá trừ các pháp tà, ác kiến của chúng sinh. Từ chỗ tu học căn thiện tăng trưởng, chí tâm quán sát công đức của hành thiện, tất cả tà kiến không thể làm trở ngại, trọn không cầu thân Chuyển luân vương, thân Đế thích, thân Phạm thiên, không cầu báo ân, lợi dưỡng, danh tiếng, sống lâu. Bồ-tát tu tập các pháp như vậy, thì được đầy đủ pháp bố thí Ba-la-mật cho đến Bátnhã Ba-la-mật. Đó gọi là đồng lợi.
Bồ-tát Ma-ha-tát lúc tu tập đồng lợi, tâm không lay động, luôn thanh tịnh, vắng lặng, sáng suốt không bị ngăn che, Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nơi địa tâm tịnh, thành tựu đầy đủ pháp thiện vô thượng, pháp thiện quang minh.
Pháp thiện quang minh: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát thực hành pháp thiện, tất cả không ai có thể phá hủy. Bồ-tát Ma-ha-tát tâm không lay động, tức là tu tập pháp thiện không có chuyển động, đêm ngày tăng trưởng như ánh trăng mới hiện.
Pháp thiện tịch tĩnh: Tức là Bồ-tát chứng đắc Tam-muội tịch tĩnh đồng như Phật, gần gũi Bồ-đề Vô thượng.
Bồ-tát Ma-ha-tát do nhân duyên của tất cả thí, giới, bốn nhiếp pháp, nên được quả là thân kim cang, là pháp thân. Bồ-tát Ma-ha-tát do nhân duyên thí giới khó hành, nên được quả là công đức vi diệu không thể nghĩ bàn của Như Lai. Do nhân duyên tất cả tự thí, tất cả tự giới, nên được quả là hàng trời người cung kính cúng dường. Do nhân duyên của thiện nhân thí giới, nên ở trong chúng sinh là hơn hết. Do nhân duyên của tất cả hành thí giới, nên được thân Như Lai gồm ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Do nhân duyên của thí giới dứt trừ, nên được ngồi nơi đạo tràng, bên cội Bồ-đề, Ma vương và quyến thuộc không thể làm cho nghiêng động. Do nhân duyên của thí giới tự lợi lợi tha, nên được giải thoát thường lạc như Như Lai. Do nhân duyên của thí giới tịch tĩnh, nên được bốn quả tịch tĩnh, đó là thân tịch tĩnh, duyên tịch tĩnh, tâm tịch tĩnh, trí tịch tĩnh, mười lực, bốn thứ vô úy, đại bi, ba niệm xứ, năm trí Tam-muội, vì chúng sinh nên có mười tám pháp bất cộng, vì trí tuệ lanh lợi nên có vô lượng pháp bất cộng.
HẾT – QUYỂN 5