KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Ma
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 4
Phẩm thứ 10: BỐ THÍ CỦA ĐỊA BỒ TÁT
Bồ-tát Ma-ha-tát cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng, trang nghiêm đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Đó là Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-lamật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-lamật, Trí tuệ Ba-la-mật.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành Bố thí Ba-la-mật? Bồ-tát bố thí có chín thứ: Một là tánh thí. Hai là thí tất cả. Ba là thí nan hành. Bốn là tất cả tự thí. Năm là thí thiện nhân. Sáu là thí tất cả hành. Bảy là thí vì trừ diệt. Tám là thí tự lợi lợi tha. Chín là thí tịch tĩnh.
Thế nào là tánh thí? Tức là tự lợi lợi tha, mình và người đều lợi, bên trong phát tâm thiện, thân khẩu ý nghiệp thiện, đối với tài vật tâm không tham tiếc. Đó gọi là thí. Bồ-tát thực hành bố thí trì giới tinh tấn, tin mười hai bộ kinh, tin nhân tin quả, tùy vật của các chúng sinh mong cầu tâm không keo kiệt, dùng thân khẩu ý nghiệp như vậy bố thí tài sản vật dụng, năm sự việc như thế tức là năm ấm. Đó gọi là tánh thí.
Thế nào là thí tất cả? Thí tất cả có hai thứ: Một là vật bên trong. Hai là vật bên ngoài. Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong vô lượng đời vì bố thí chúng sinh mà thọ thân ấm ấy, đó gọi là vật bên trong. Bồtát Ma-ha-tát vì loài quỷ ăn đồ vứt bỏ, tự ăn rồi nhả ra bố thí cho loài quỷ, đó gọi là vật bên trong. Không phải hai việc này, tức gọi là bố thí bên ngoài.
Bồ-tát Ma-ha-tát xả thân bố thí gồm hai việc: Một là Bồ-tát không được tự tại. Hai là thuộc người khác. Có người cầu nhưng không bố thí thì không thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đó gọi là Bồ-tát không được tự tại. Thuộc người khác: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát vì đạo Bồ-đề, nên thân thuộc về chúng sinh như người thế gian, vì thức ăn uống, y phục nên vì người khác mà làm nô bộc, Bồtát Ma-ha-tát đối trong tự thân không được tự tại, nhưng tất cả chúng sinh đối với thân, đầu, mắt, tủy não, tay chân của Bồ-tát, tùy ý lấy dùng mà được tự tại.
Bố thí bên ngoài có hai việc: Một là vì lợi ích cho chúng sinh. Hai là tâm không tham tiếc.
Bồ-tát Ma-ha-tát đối với hai việc bố thí trong ngoài này, có bố thí và không bố thí.
Bồ-tát Ma-ha-tát quán sát các chúng sinh sau khi thọ thí rồi không được lợi lạc thì không thực hành bố thí, nếu sau khi thọ thí đạt được lợi lạc thì liền thực hành bố thí.
Nếu Bồ-tát biết do dùng thân bố thí khiến chúng sinh thọ khổ bị trở ngại nơi việc thực hành pháp thiện, và biết rõ người cầu phi pháp thì cũng không nên bố thí. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát thấy trăm ngàn vạn ức chúng sinh vì nhân duyên phi pháp nên cầu chẳng được, thì dẫu tan thân mất mạng cũng không vì việc này mà thực hành bố thí. Người cầu phi pháp đó là hoặc giết hại, hoặc trộm cắp, lừa dối. Như vậy gọi là không bố thí.
Lại có trường hợp không thí: Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tự biết thân mình có thể làm nhiều lợi ích, nếu có vô lượng chúng sinh đến cầu thì không nên bố thí. Vì sao? Vì có tâm tịnh nên nếu biết là ma và quyến thuộc của ma thì không nên bố thí. Nếu có người bị ma làm mê loạn, lúc đến dốc cầu cũng không nên bố thí. Như có người cuồng si và muốn làm não loạn, người như vậy dốc cầu cũng không nên bố thí. Đó gọi là nội không thí.
Ngoại không thí: Tức là lửa, chất độc, dao, rượu có thể làm nhân duyên ác cho chúng sinh, nên Bồ-tát trọn không dùng những thứ này bố thí cho chúng sinh, nếu có thể làm việc lợi ích thì dùng để bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát trọn không vì người mà tạo nghiệp ác. Nếu biết có người sau khi thọ thí rồi tất làm việc ác thì cũng không bố thí cho họ. Đó cũng gọi là thí. Vì sao? Vì tâm tịnh. Tay tuy không thí mà tâm đã xả. Vì sao? Vì Bồ-tát biết nhất định người này sau khi thọ thí, tất tạo vô lượng nghiệp ác, đọa vào ba đường ác, thế nên không thí. Nếu Bồ-tát biết người thọ được vật tâm sinh hoan hỷ, nhưng biết họ không tránh khỏi sự khổ trong ba đường ác, thì cũng không nên thí. Bồ-tát Ma-ha-tát hoàn toàn không dạy người giăng bẫy, săn bắn, cũng không dạy người phụng sự trời Bà Tẩu. Tự mình không giết dê để cúng tế thiên thần, cũng không dạy người giết dê cúng tế trời, không dùng lưới bẫy bố thí cho người đến cầu. Tất cả sự đánh đập mắng nhiếc, cột trói, oán ác đều không bố thí cho người. Nếu có người khốn khổ bần cùng sầu não, muốn tự giết mình, đến cầu dao, rựa, cũng không nên bố thí, cũng không dạy người nhảy từ non cao xuống vực thẳm, hoặc nhảy vào lửa để mất thân mạng. Nếu có người bệnh đến cầu xin thuốc, nếu là thuốc cấm thì không thí cho họ. Người tham ăn khi thấy họ no rồi cũng không nên bố thí. Đó gọi là không bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát không đem cha mẹ, sư trưởng để bố thí. Nếu làm quốc vương không nên tự ý lấy thê thiếp của kẻ khác để bố thí cho người, chỉ trừ trong thành ấp, thôn xóm, thuộc quốc độ, nếu là thê thiếp của mình, cho đến đầy tớ, quyến thuộc, trước nên dùng lời dịu dàng an ủi, khuyên nhủ, nhưng tâm họ không chịu thì cũng không nên bố thí. Giả sử họ ưng chịu thì cũng không nên thí cho người ác, La-sát, quỷ ác, hạng Chiên-đà-la, kẻ oán đối. Tuy dùng thành ấp, thôn xóm, quốc độ bố thí cho người, nhưng trọn không bố thí cho người bạo ác, cũng không riêng lấy của cải hiện có của cha mẹ, sư trưởng, vợ con, tôi tớ, người hầu để bố thí cho người. Bồ-tát không dùng phi pháp cầu được tài sản vật dụng để bố thí. Lúc thực hành thí, không sân hận, đánh đập, mắng nhiếc quyến thuộc của mình, nên dùng lời thiện dạy dỗ khiến họ hoan hỷ, nói rõ phước báo như vậy ngươi cũng có phần. Bồ-tát hành thí tâm luôn bình đẳng, không xét phước điền và chẳng phải phước điền, không xét oán thân, chủng tánh tôn quý hay thấp kém, vật đã hứa cho trọn không hối hận, vật hứa cho nhiều đều không lấy bớt, trước hứa đồ tốt sau không dùng đồ xấu để cho, tuy hứa cho đồ xấu hoặc ít có thể cho nhiều cho đồ tốt. Bồ-tát hành thí không có tâm buồn sầu sân hận tán loạn, thí rồi trọn không tính toán việc báo ân với người thọ thí. Lúc bố thí không vì người thọ là tôn quý mà cung kính tay dâng, người thọ là thấp kém cũng không quăng ném để cho. Nếu người thọ nhận đánh mắng hoặc cướp đoạt, Bồ-tát trọn không vì vậy mà sinh sân hận, chỉ trách phiền não, không trách người này, đối với người ấy nên sinh tâm thương xót, trọn không suy nghĩ nhân sự thí này mà ta sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng, không nghĩ nhân bố thí này cũng có thể trang nghiêm Bồ-đề. Không vì cầu quả mà hành bố thí, tất cả chỗ thí đều hồi hướng về đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Không vì người khác dạy nên thực hành bố thí. Không vì nghe có quả báo của bố thí mà thực hành bố thí. Như trong kinh nói, thí thức ăn được sức lực, thí y phục được sắc đẹp, thí xe cộ được sự an vui, thí đèn được mắt sáng, thí phòng nhà được vật tùy ý, hoàn toàn không mong các quả như vậy mà hành bố thí, chỉ vì thương xót mà hành bố thí, vì phá trừ sự bần cùng nên hành bố thí, vì điều phục chúng sinh đạt được đạo quả giác ngộ tột bậc nên hành bố thí, không bố thí vật phi thí. Phi thí là không dùng thức ăn thừa để bố thí cho Thánh nhân, nếu chẳng phải Thánh nhân, không cầu thì không thí, không đem thức ăn thừa bố thí cho cha mẹ, sư trưởng và người có đức, nếu họ dốc cầu thì nên bố thí, trọn không dùng các thứ thức ăn có lẫn đờm dãi, mồ hôi, phân dơ mà bố thí, không đem thức ăn uế mà bố thí cho người.
Phàm khi bố thí thức ăn hoặc nhiều hoặc ít, trước nói sau thí không nói không thí. Người không ăn hành không dùng thức ăn có hành bố thí. Người không ăn thịt không dùng thức ăn có thịt bố thí. Người không uống rượu không dùng thức ăn có rượu bố thí. Nếu có rượu thơm cũng không dùng để bố thí. Đó gọi là vật bất tịnh không nên dùng bố thí.
Bồ-tát Ma-ha-tát khi thấy người đến cầu xin liền bố thí, trọn không dùng vật bố thí để sai khiến họ, không vì sự vui nơi cõi trời mà bố thí, không vì danh xưng mà bố thí, không cầu báo ân mà bố thí, không vì cầu thân làm Chuyển luân Thánh vương mà bố thí, không vì cầu thân Ma thiên, Phạm thiên mà bố thí, không vì được các hàng quốc vương, trưởng giả cung kính cúng dường tôn trọng mà hành bố thí. Có ít vật hãy còn bố thí huống là có nhiều. Không vì lừa dối mà hành bố thí, không vì phá bỏ quyến thuộc người khác thành quyến thuộc mình, cho đến xóm làng, thành ấp, quốc độ mà thực hành bố thí. Bồ-tát hành bố thí tay dâng bậc thượng tòa, cho đến các vị Sa-di và người trì giới, hủy giới, tâm không mệt mỏi. Lúc Bồ-tát bố thí trọn không trách mắng người xin, không vì kiêu mạn mà bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát đối với tất cả vật thường sinh tâm xả, nếu có cất chứa vật đều vì chúng sinh. Nếu biết Bồ-tát đã xả vật mà mình có phần trong ấy, tự lấy phần của mình thì không có tội. Bồ-tát Ma-ha-tát lúc thấy người đến cầu xin, tâm sinh hoan hỷ, như người bệnh nặng gặp thầy thuốc hay, tùy theo chỗ họ cần mà thí cho. Ba thời hoan hỷ, đó là chưa thí, lúc thí và thí rồi. Bồ-tát lúc thí thường phát tâm này: Giả sử trong một lúc có người giàu và nghèo đến xin, Bồ-tát nên tự suy nghĩ, nếu vật có nhiều nên bố thí cho cả hai, như vật có ít thì trước cứu người bần khổ. Làm được nguyện này ấy là nhân của đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
Keo kiệt có ba hạng là hạ, trung, thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát trước phá trừ bậc hạ, do phá trừ bậc hạ thì có thể phá trừ hai bậc trung và thượng, đã tự phá trừ rồi lại vì chúng sinh giảng nói pháp phá bỏ tham lam keo kiệt, do thuyết pháp nên chúng sinh được lợi.
Lại nữa, Bồ-tát đối với người không cầu xin gắng dùng vật bố thí, nếu không có tài vật, nên dùng phương tiện, sức lực tìm cầu để bố thí, nếu không có của cải nên dùng pháp thí để giáo hóa chúng sinh: Nay ông vì sao không thực hành bố thí? Thấy người thực hành bố thí tâm sinh hoan hỷ, dùng thân lực giúp đỡ họ, nếu không có của cải nên dùng trí tuệ chỉ bày thiện ác cho chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát không dùng kinh sách chân chánh bố thí cho người tà kiến, không vì sự sống mà bày bán kinh luật, như có người đọc tụng thì nên tặng cho họ, nếu keo kiệt không cho, đây gọi là bỏn sẻn về pháp. Nếu có thể thuyết pháp nhưng không vì họ mà thuyết giảng, cũng gọi là bỏn sẻn về pháp. Nếu ta không thể dùng pháp bố thí cho người, làm sao phá trừ phiền não cho tất cả chúng sinh? Bồtát trọn không thể nói: Nay ta không có của cải thì không thể thực hành bố thí, cũng không sân hận sầu não, tự đốt tâm họ, nên dùng phương tiện thiện xảo an ủi người cầu xin: Nay ta chưa có nên không vừa ý. Vì sao? Vì từ lúc ban đầu phát tâm tự nói sẽ bố thí cho tất cả chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát nghe có người cầu thí đến, tức liền nghênh đón, vì họ mà thí giường tòa, lúc gặp rồi trước dùng lời nhỏ nhẹ thăm hỏi, tùy theo vật họ cần mà cung cấp đầy đủ. Bồ-tát Ma-ha-tát ban đầu phát tâm tự nói: Những vật nay ta hiện có sẽ thí cho mười phương chư Phật, Bồ-tát và các chúng sinh, ví như đệ tử dùng y bát dâng lên cho thầy, tuy thầy không nhận nhưng đệ tử này được phước vô lượng. Bồ-tát cũng như vậy. Vật hiện có đem dâng cho chư Phật, Bồ-tát, tuy chư Phật, Bồ-tát không thọ nhận nhưng cũng khiến người thí được vô lượng phước, thường theo Bồ-tát như hằng hà sa. Bồ-tát Ma-ha-tát xem của cải của mình như chỗ gởi của mười phương chư Phật, Bồ-tát, biết Phật, Bồ-tát đối với vật này tâm không tham tiếc, nên Bồ-tát tự tại tùy ý bố thí cho chúng sinh. Cũng lại quán sát người không nên bố thí, nên can ngăn khuyến dụ, như vật này chẳng phải vật của ta, chính là vật hiện có của chư Phật, Bồ-tát, dùng lời dịu dàng khuyên bảo khiến người cầu xin không sân hận, vì thế Bồ-tát thành tựu đầy đủ tài thí và pháp thí. Đủ hai thứ thí rồi, biết tánh, biết nhân, biết quả, biết phân biệt. Nếu Bồ-tát bố thí cho người oán ghét, là nhân duyên của từ, nếu bố thí cho người khổ là nhân duyên của bi, nếu bố thí cho người có đức là nhân duyên của hỷ, nếu bố thí cho quyến thuộc, anh em, tôi tớ, là nhân duyên của xả. Đó gọi là nhân nơi trí tuệ thí của Bồ-tát.
Lại nữa, Bồ-tát biết hại tâm bố thí có bốn việc: Một là từ vô lượng đời đến nay không thực hành bố thí. Hai là của cải ít. Ba là tham đắm vật tốt. Bốn là không cầu quả báo thiện ở đời sau. Bồ-tát Ma-ha-tát thấy người đến cầu, dẫu có nhiều của cải nhưng không phát tâm thí. Đó gọi là Bồ-tát trong vô lượng đời không thực hành tâm thí. Lúc này, Bồ-tát nên dùng trí lực tự suy nghĩ: Ta vì từ vô lượng kiếp về trước không thực hành bố thí nên không phát tâm liền. Nay ta có nhiều tài vật và có người đến xin, nếu lại không bố thí thì đời vị lai sẽ tăng trưởng tâm keo kiệt, trọn không tùy thuận, không tu tâm thí.
Lại nữa, Bồ-tát thấy người đến xin, vì của cải ít mà không phát tâm thí, Bồ-tát nên dùng lực trí tuệ để tự suy nghĩ: Ta vì nhân duyên của vô lượng nghiệp ác, trong vô lượng đời thân thuộc về người khác, chịu khổ não, đói khát, lạnh nóng, không thể tạo lợi ích cho vô lượng chúng sinh, vì duyên nghiệp này khiến thân ít của cải, nay nếu không bố thí thì đời sau lại tăng trưởng sự bần cùng khốn khổ. Nay ta nên dùng vật này bố thí cho người, tuy phải nghèo khổ nhưng không đến nỗi bị khổ như nơi ba đường ác. Suy nghĩ như vậy, có thể trừ bớt tâm keo kiệt.
Lại nữa, Bồ-tát thấy người đến cầu xin, đối với vật tốt sinh tâm tham đắm, không phát tâm thí. Lúc ấy, Bồ-tát nên dùng trí tuệ tự suy nghĩ: Ta đối với vật vô thường mà nghĩ là thường, trong chỗ không có ngã sở mà nghĩ là có ngã sở, nếu ta không bố thí thì sẽ tăng trưởng tâm tham đắm, đấy là ta điên đảo, nên Bồ-tát có thể phá tan tâm tham đắm vật tốt.
Lại nữa, Bồ-tát không cầu quả báo nên không thực hành bố thí. Lúc ấy, Bồ-tát nên tự suy nghĩ: Tất cả các pháp là vô thường không định, nếu là thường là định thì không cần bố thí. Vì sao? Vì không có nhân quả, do vô thường nên tất có nhân quả, nay nếu không thí thì làm sao được đạo quả Bồ-đề, cho nên Bồ-tát có thể phá trừ tâm không cầu quả báo để thực hành bố thí. Bồ-tát Ma-ha-tát biết rõ bốn sự điên đảo, pháp không có nhất định, không có tướng thường, nên có thể phá trừ bốn tâm ác oán.
Lại nữa, Bồ-tát trong thân vắng lặng, chí tâm tự suy nghĩ: Giả sử ta có của cải, sẽ đem cúng dường chư Phật, Bồ-tát, hoặc cúng dường Pháp Tăng. Đó gọi là trí tuệ bố thí của Bồ-tát. Có của cải hoặc không cũng thường suy nghĩ như vậy. Pháp thí cũng như vậy. Đó gọi là thí tất cả.
Thế nào là Bồ-tát thí nan hành có thể thí? Bồ-tát Ma-ha-tát nếu có ít của cải thường đem bố thí. Đó gọi là nan thí. Đối với vật khiến tâm quý trọng tham đắm, trong vô lượng đời siêng năng dốc cầu mà có, hoặc dùng phương tiện sức lực nên được, dùng những vật như vậy bố thí cho người. Đó gọi là nan thí.
Thế nào là tất cả tự thí? Bồ-tát Ma-ha-tát hoặc tự mình bố thí, hoặc giáo hóa cha mẹ, anh em, quyến thuộc, vợ con, tôi tớ, khiến họ thực hành bố thí. Đó gọi là tất cả tự thí.
Thế nào là thí thiện nhân? Nếu thiện nam dùng tâm thiện thí, tâm tín thí, chí tâm thí, tự tay thí, thí đúng thời, thí như pháp đắc tài.
Đó gọi là thí thiện nhân.
Thế nào là Bồ-tát thí tất cả hành? Do không cầu quả báo nên gọi là thí tất cả hành. Thường thí gọi là thí tất cả hành. Thí phước điền gọi là thí tất cả hành. Thí không quán phước điền và phi phước điền gọi là thí tất cả hành. Không quán thời và phi thời, đó gọi là thí tất cả hành. Không quán tài vật là có thể thí hay không thể thí, đó gọi là thí tất cả hành.
Thế nào là Bồ-tát vì diệt trừ nên thí? Nếu có chúng sinh đói khát khổ não, vì trừ sự việc này mà hành bố thí. Nếu lạnh thì thí áo, cầu xe thí xe, cầu anh lạc thí anh lạc, cho đến hương xoa, hương bột, tạp hoa, đèn đuốc, phòng nhà, mền nệm, thuốc thang, cũng lại như vậy. Đó gọi là vì diệt trừ nên thí.
Thế nào là thí tự lợi lợi tha? Bồ-tát Ma-ha-tát nếu dùng tài thí pháp thí bố thí cho người, có thể vì thân mình và thân chúng sinh tạo hai đời vui, thường ban sự vui vô úy cho chúng sinh. Nếu gặp thú dữ như hổ lang, sư tử, các thứ lũ lụt, hỏa hoạn, nạn vua, giặc cướp, đều có thể cứu giúp. Đó gọi là vô úy thí. Bồ-tát Ma-ha-tát dùng pháp bố thí, phàm có tuyên thuyết đều không điên đảo. Đó gọi là pháp thí. Có thể khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh. Đó gọi là pháp thí tịnh. Bồ-tát thí của cải tức tạo lợi ích trong hiện tại, thực hành pháp thí thì có thể tạo lợi ích cho đời này đời sau. Lại có tài thí, hoặc vì chúng sinh nên chịu sự khổ nơi hiện tại. Pháp thí không như vậy, vì có thể làm an vui cho đời này đời sau. Tài thí là bất tịnh, pháp thí là thanh tịnh. Hành tài thí không gọi là vô biên. Hành pháp thí gọi là vô biên thí. Tài thí dễ đạt pháp thí khó gặp. Đó gọi là thí tự lợi lợi tha.
Thế nào là thí tịch tĩnh? Thí tịch tĩnh có mười thứ: Một là thí vô ngại. Hai là thí không sai lầm. Ba là thí phi trang nghiêm. Bốn là thí không có tâm tự cao. Năm là thí không có tâm tham đắm. Sáu là thí không xấu hổ. Bảy là thí không ưu sầu. Tám là thí nên chăm chú.
Chín là thí không cầu báo ân. Mười là thí không cầu quả báo.
Thí vô ngại: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát khi thực hành bố thí, không bị tất cả công việc đời làm cho trở ngại. Tuy biết người cầu tâm không áy náy, nhưng nên mau đáp ứng chỗ cầu của họ. Đó gọi là thí vô ngại.
Thí không sai lầm: Tức Bồ-tát Ma-ha-tát trọn không nghĩ bố thí không có quả báo, không có báo thiện ác, cũng không nói sát sinh hành thí được quả báo thiện như thuyết của Bà Tẩu. Do nhân duyên thí không tham đắm nên được sự an vui ở thế gian và đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Đó gọi là thí không sai lầm.
Thí phi trang nghiêm: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát trọn không chứa vật vì trang nghiêm tốt đẹp mà hành bố thí, tùy chỗ bố thí trọn không cất chứa. Vì sao? Vì Bồ-tát biết rõ thân mạng và của cải là vô thường khó giữ, gặp người đến cầu thường bố thí, trọn không nói đợi ta trang nghiêm rồi sau đó mới cho. Vì sao? Vì trang nghiêm thí thì không được gọi là Bồ-tát trang nghiêm đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Nếu đợi trang nghiêm thí thì khiến chúng sinh chịu nhiều khổ não. Đó gọi là thí phi trang nghiêm.
Thí tâm không có tự cao: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát thấy người đến cầu, sinh tâm nhún nhường, không tự khen ngợi ta là thí chủ, không cầu báo ân, không cầu hơn người, không vì danh xưng để hành bố thí. Đó gọi là thí tâm không có tự cao.
Thí tâm không tham đắm: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát không đắm nơi danh xưng. Bồ-tát quán xét danh xưng như hư không, như gió, như sợi tơ trong cộng sen, nếu cầu danh mà thí thì không thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng, nên Bồ-tát cầu đạo quả giác ngộ ấy thì không cần danh xưng. Đó gọi là thí tâm không tham đắm.
Thí không xấu hổ: Tức là khi thực hành bố thí, ba thời luôn hoan hỷ. Đó gọi là thí không xấu hổ.
Thí không ưu sầu: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát dùng vật quý giá bố thí rồi tâm không hối hận. Đó gọi là thí không ưu sầu.
Thí nên chăm chú: Tức là Bồ-tát quán xét tất cả chúng sinh, tâm luôn bình đẳng, thảy đều vui vẻ nhìn ngắm. Đó gọi là thí nên chăm chú.
Thí không cầu báo ân: Tức là vì tâm thương xót nên tu tập từ bi, ban sự an vui, không cầu sự đền đáp. Đó gọi là thí không cầu báo ân.
Thí không cầu quả báo: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát lúc thực hành bố thí, không cầu thân Chuyển luân Thánh vương, hoặc ở cõi trời Ba Mươi Ba, Ma thiên, Phạm thiên, của cải tự tại. Vì sao? Vì Bồ-tát quán xét các pháp hữu vi đều không bền chắc như là thân cây chuối, nên lúc bố thí không cầu quả báo. Đó gọi là thí không cầu quả báo.
Mười việc như vậy có thể khiến Bồ-tát thành tựu đầy đủ Bố thí Ba-la-mật, chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.
*********
Phẩm thứ 11: TRÌ GIỚI CỦA ĐỊA BỒ TÁT
Thế nào gọi là giới của Bồ-tát Ma-ha-tát? Giới có chín thứ: Một là giới tự tánh. Hai là giới tất cả. Ba là giới nan hành. Bốn là giới tất cả tự. Năm là giới thiện nhân. Sáu là giới tất cả hạnh. Bảy là giới trừ diệt. Tám là giới tự lợi lợi tha. Chín là giới tịch tĩnh.
Giới tự tánh: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát đầy đủ giới tự tánh, có bốn công đức: Một là dùng tâm thanh tịnh thọ nhận từ người khác. Hai là tâm không thanh tịnh hủy giới đã thọ. Ba là nên chí tâm hổ thẹn sám hối. Bốn là sám hối rồi chuyên tâm không dám phạm lại. Bồ-tát Ma-ha-tát từ người khác thọ nhận giới, sinh tâm hổ thẹn, do tâm hổ thẹn nên hộ trì không phạm, nếu tâm không tịnh hủy giới đã thọ, do tâm hổ thẹn nên không dám che giấu dù là một đêm. Bồ-tát phạm giới trải qua một đêm, nếu muốn sám hối, không nên sám hối một lần phạm, mà phải suy nghĩ về việc phạm vô lượng lần để sám hối. Vì sao? Vì nếu phạm nhiều mà sám hối một lần thì không gọi là sám hối, người thọ nhận có tội.
Lúc Bồ-tát thọ trì giới từ người khác gồm có bốn việc: Một là xấu hổ. Hai là chí tâm kiên trì. Bồ-tát Ma-ha-tát chí tâm trì giới, trọn không sinh tâm hủy phạm. Ba là thọ rồi nhất tâm hộ trì. Bốn là tịnh tâm thọ trì.
Bồ-tát đầy đủ bốn công đức giới có thể làm bốn việc: Một là không phạm. Hai là nếu phạm liền sám hối. Ba là tâm sinh hổ thẹn. Bốn là không sinh hối hận. Đó gọi là giới tánh. Giới tánh của Bồ-tát gọi là giới chân thật, gọi là giới tự lợi lợi tha, gọi là giới tạo lợi ích cho chúng sinh, gọi là giới nghĩa lợi ích cho chúng sinh, gọi là giới tăng trưởng trời người, gọi là giới vô lượng công đức.
Bồ-tát thành tựu giới như vậy, sinh tâm thương xót tức có thể giáo hóa vô lượng chúng sinh. Bồ-tát nếu bị khách trần phiền não mà không sám hối, nên thường vì người khen ngợi trì giới, chê trách phá giới, nói tội lỗi hủy phạm giới cấm, nếu có thể như vậy tuy gọi là hủy phạm nhưng tội lỗi nhẹ, cũng có thể chứng đắc trọn vẹn đạo quả Bồđề Vô thượng. Đó gọi là giới tự tánh.
Giới tất cả: Tức là những giới người tại gia và xuất gia đều thọ trì. Có ba thứ: Một là giới. Hai là giới thọ pháp thiện. Ba là giới vì tạo lợi ích cho chúng sinh nên hành trì.
Thế nào gọi là giới? Đó là bảy thứ giới, là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Bồ-tát Maha-tát nếu muốn thọ trì giới Bồ-tát, trước phải tịnh tâm thọ bảy thứ giới, nghĩa là tâm tịnh hướng đến giới Bồ-tát, như người thế gian muốn thỉnh đại vương, trước phải quét dọn phòng nhà, chỗ ở. Bảy thứ giới này là chỗ thọ trì của người tại gia và xuất gia. Giới Bồ-tát cũng lại như vậy, đều là người tại gia và xuất gia hành thọ. Đó gọi là giới.
Thế nào gọi là giới thọ pháp thiện? Giới pháp thiện tức là Bồtát Ma-ha-tát không có bảy thứ giới trên, vì Bồ-đề nên tu mười thứ pháp thiện nơi nghiệp thân khẩu ý. Đó gọi là giới thọ pháp thiện. Thân khẩu ý tức là Bồ-tát Ma-ha-tát trụ vào giới địa rồi, đọc tụng biên chép, phân biệt giải nói, suy nghĩ tu tập hai pháp chỉ và quán, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán các bậc sư trưởng, Hòa thượng, trưởng lão có đức, luôn luôn cung kính hầu hạ, hoặc bệnh, hoặc già, hoặc đi giữa đường mệt mỏi, phải liền thay thế mang y bát, nếu thấy thuyết pháp thì tán thán: Lành thay! Thấy người trì giới hết sức ủng hộ, khen ngợi giới pháp, nguyện các chúng sinh đều trì tịnh giới. Thấy người phá giới sinh tâm thương xót, dùng lời hay quở trách và dạy họ sám hối. Các việc thiện do thân khẩu ý làm đều phát thệ nguyện hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Lúc thân khẩu ý còn có khí lực, siêng năng cúng dường Phật Pháp Tăng bảo. Vì tăng pháp thiện nên siêng tu tinh tấn. Vì được tất cả pháp thiện nên tu không phóng dật. Thường phải chí tâm niệm giới, hộ giới, điều phục các căn, ăn uống biết đủ, không ưa ngủ nghỉ, đầu đêm cuối đêm đọc tụng kinh điển, nhớ nghĩ về Tam bảo, gần gũi bạn thiện, ưa nghe lời dạy, tự xét lỗi mình, biết rồi sám hối, tâm sinh hổ thẹn, chí tâm nhớ nghĩ không còn hủy phạm, hướng đến Phật Pháp Tăng, đồng sư, đồng pháp, đồng giới, đồng học, phát lồ sám hối. Đó gọi là giới thọ pháp thiện.
Giới vì tạo lợi ích cho chúng sinh mà hành trì có mười một thứ. Nếu có chúng sinh muốn tu pháp thiện, tức đến khuyến khích cùng làm bạn, cùng hành nghiệp thiện. Có người chăm sóc bệnh cũng đến khuyến khích cùng làm bạn. Nếu có chúng sinh muốn hiểu ý nghĩa của pháp thế gian, xuất thế gian tức dùng phương tiện vì họ giải nói, có chỗ thọ ân luôn nghĩ nhớ báo đáp. Báo đáp đó là kiên trì giới cấm, đọc tụng, biên chép mười hai bộ kinh, suy nghĩ về nghĩa chánh, phân biệt giảng giải, có thể cứu giúp các sự sợ hãi của chúng sinh. Đó là sợ hãi về sư tử, hổ lang, hỏa hoạn, lũ lụt, giặc cướp, nạn vua quan, ủng hộ chúng sinh khiến được xa lìa các thứ sợ hãi như vậy. Nếu có chúng sinh mất hết thân thuộc, hao tổn của cải, do ái biệt ly nên tâm sinh sầu khổ, có thể vì họ thuyết pháp khiến lìa khổ não. Nếu có chúng sinh bần cùng khốn khổ, tức có thể bố thí của cải mà họ cần dùng. Vì giữ gìn pháp nên nuôi dạy đệ tử, không vì danh lợi. Vì giữ gìn pháp nên qua lại nơi bốn chúng, cùng chung giảng luận không vì lợi dưỡng. Vì giữ gìn pháp nên gần gũi các hàng quốc vương, đại thần, trưởng giả, không vì lợi dưỡng, không vì đàn-việt cung phụng mà thân khẩu nghiệp tạo tác phi pháp. Không được phi thời qua lại nhà người. Tại gia, xuất gia đều có phi thời. Phi thời tức là lúc tham, lúc sân, lúc si, lúc gió to mưa lớn, lúc cưới hỏi, lúc yến tiệc, trừ những phi thời trên thì gọi là thời. Tùy theo công đức pháp thiện mà mình có được, đều đem chuyển dạy cho tất cả chúng sinh, tâm không tham tiếc. Thấy người hủy giới sinh tâm thương xót, dùng tâm thanh tịnh và lời thiện để chỉ dạy, cũng như cha mẹ dạy dỗ các con: Điều ngươi đã phạm thì nên phát lồ, như pháp sám hối, nếu họ không nghe thì không nên cung cấp, phụ giúp như trước, lại nên tùy việc để nêu ra khiển trách, nếu vẫn không chịu thọ nhận thì phải đuổi ra khỏi trụ xứ, vì muốn cho pháp Phật được tăng trưởng nên làm vậy. Nếu không chỉ dạy, trách phạt, đuổi ra, lại cùng ở chung, thì đó gọi là phá giới, là chẳng phải Sa-môn, chẳng phải là phạm hạnh. Trong pháp Phật gọi kẻ xấu là Chiên-đà-la, là kẻ giết mổ súc vật. Hạng Chiên-đà-la và kẻ giết mổ súc vật, tuy làm việc ác nhưng không phá hoại chánh pháp của Như Lai, không nhất định bị đọa trong ba đường ác. Làm thầy không thể dạy dỗ đệ tử, tức là phá hoại pháp Phật, nhất định bị đọa nơi địa ngục. Vì danh tiếng mà nuôi chứa đồ chúng, đó gọi là tà kiến, gọi là đệ tử ma. Không nuôi đệ tử thì không thể duy trì chánh pháp của Như Lai. Nuôi đệ tử xấu ác tức phá hoại pháp Phật, do phá hoại pháp Phật nên gọi là đệ tử ma. Vì lợi dưỡng nên nuôi chứa đồ chúng, đó gọi là tà kiến. Nếu có thần túc thông, tha tâm thông và túc mạng thông, sau đấy mới có thể dùng giới Bồ-tát giáo hóa người khác. Người này có thể không nuôi chứa đệ tử xấu ác. Vì sao? Vì nhận biết phương tiện. Do biết phương tiện nên phá trừ pháp ác, khai thị pháp thiện. Nếu có Tỳ-kheo không đủ ba thứ trí tuệ như vậy, nhưng nói ta đủ ba thứ trí tuệ, có thể nuôi chứa đệ tử xấu ác, nên biết người này là phạm tội nặng. Nếu lìa sự việc ấy gọi là giới lợi tha. Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu giới, giới thiện, giới lợi ích cho mọi người như vậy, gọi là giới tốt, giới thâu giữ tất cả, gọi là giới đến bờ giải thoát, là giới giải thoát, là giới vô thượng, là giới không nhân quả, là giới thường lạc ngã tịnh, là giới cứu cánh vô biên, là giới tất cả phương tiện thiện xảo. Nếu Bồ-tát có thể chí tâm nhớ nghĩ về giới Bồ-tát, thì hơn tất cả Thanh văn Duyên giác. Nếu có thể đầy đủ giới Bồ-tát, cũng hơn cả Bồ-tát sáu địa. Nếu có Bồtát xả bỏ ngôi vị Chuyển luân vương, xuất gia học đạo thọ giới giải thoát, từ bỏ năm thứ dục như bỏ đờm dãi, không nhớ, không cầu, không sinh hối tiếc, cho đến sự vui của năm dục ở cõi trời cũng lại như vậy. Không vì thọ hoan lạc nơi cõi trời, người nên thọ trì giới cấm, quán xét năm thứ dục lạc như lửa lớn, rắn độc, như ba nẻo ác, được người khác cúng dường xem như thức ăn nhổ ra, tâm không tham đắm. Người thế gian nếu vì thọ vui nơi nẻo trời người, hoặc vì danh dự, lợi dưỡng mà thọ trì giới cấm, nên biết người này không gọi là đắc giới. Người thành tựu giới hoặc ở trong Tăng chúng, hoặc ở nơi vắng lặng. Đó gọi là tịch tĩnh.
Không thể giáo hóa chúng sinh nên không thể hộ trì giáo pháp. Vì tiếc thân mạng nên không thể hộ trì giáo pháp. Vì tham lợi dưỡng nên không thể hộ trì giáo pháp. Vì oán giận nên không thể hộ trì giáo pháp. Vì sợ hãi nên không thể hộ trì giáo pháp. Vì kiêu mạn nên không thể hộ trì giáo pháp. Vì không ưa thích pháp nên không thể hộ trì giáo pháp. Vì không có tâm thương xót nên không thể hộ trì giáo pháp. Vì không sợ xấu hổ nên không thể hộ trì giáo pháp. Đó gọi là phá giới, gọi là không tịch tĩnh.
Nếu người đối với giới sinh tâm biết đủ, nên biết người này không gọi là trì giới. Biết nhân nơi giới nên được vô lượng Tammuội của chư Bồ-tát. Nếu không có giới thì không tăng trưởng vô lượng Tam-muội, vì Tam-muội nên hộ trì giới cấm. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, thà mất thân mạng chứ trọn không nghe lời phi pháp hoặc cùng ở với người ác, không nhớ không khởi các giác quán xấu ác. Nếu có khởi tâm liền hối hận quở trách, sám hối. Khi ở trong chúng nếu nghe lời nói ác, việc ác, pháp ác, tiếng ác, nghĩa ác, tức liền đứng dậy bỏ đi, nếu sức mình có thể ngăn được, nhưng không dạy dỗ, quở trách mà bỏ đi, đó gọi là phạm. Nếu sức mình không thể ngăn cản mà ở lại nghe cũng gọi là phạm. Nếu tâm không nghe gọi là trì giới, nếu tâm lắng nghe gọi là phá giới, hoặc ưa thích nghe đó gọi là phá giới. Không ưa thích nghe gọi là trì giới, sinh tâm hối hận gọi là trì giới, tâm không hối hận gọi là phá giới. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, trọn không tự nghĩ giới ta thọ là từ Hòa thượng mà đắc, tự nghĩ chính là từ thập phương chư Phật, Bồ-tát mà thọ. Nếu ta từ Hòa thượng thọ đắc giới, thì không gọi là giới Bồ-tát, nếu từ thập phương chư Phật, Bồtát thọ đắc giới mới gọi là giới Bồ-tát. Bồ-tát Ma-ha-tát nếu phân biệt mười tám bộ tăng thì không gọi là đắc giới Bồ-tát. Nếu có thể xem tất cả đều là đệ tử của thập phương chư Phật, Bồ-tát thì đó gọi là đắc giới Bồ-tát. Nếu xem tất cả đều là đệ tử của thập phương chư Phật, Bồ-tát, trụ ở đại địa, vì nhân duyên trụ nơi đại địa nên đều chứng đắc đạo quả giác ngộ vô thượng. Cõi chúng sinh không thể nghĩ bàn, pháp giới chúng sinh không thể nghĩ bàn, tánh chúng sinh không thể nghĩ bàn, giới chúng sinh không thể nghĩ bàn, ta chưa chứng đắc nhất thiết trí, vì sao phân biệt mười tám bộ tăng. Nếu ta phân biệt thì không thể đắc giới nhất thiết, giới vô ngại, giới vô thượng. Do có thể quán như vậy nên đắc giới Bồ-tát, như đời quá khứ Bồ-tát đã chứng đắc giới cấm. Nếu Bồ-tát có thể quán như vậy, thì đạt được vô lượng vô biên phước đức, có thể biết tâm của Phật và Bồ-tát trong mười phương, cũng biết người đầy đủ giới Bồ-tát sẽ chứng đắc đạo vô thượng. Bồtát Ma-ha-tát quán xét chư Phật và Bồ-tát trong quá khứ, lúc chưa thành tựu đạo vô thượng, đầy đủ phiền não học giới Bồ-tát, đầy đủ thành rồi đắc đạo vô thượng. Nay thân này của ta cũng là chúng sinh, cũng có năm ấm, cũng có đủ phiền não, cũng thọ giới Bồ-tát, tu tập đạo Bồ-đề, cũng sẽ chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Ta cũng có thể điều phục nghiệp ác của thân khẩu ý, tất cũng sẽ chứng đắc đạo quả ấy. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, chí tâm chuyên niệm tự xét lỗi mình, không nêu điều xấu của người, thấy người làm ác tâm không sân hận, thấy người phá giới tâm sinh thương xót, không có sân, não. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, nếu bị người ác dùng dao gậy đánh đập hoặc dùng lời ác mắng nhiếc, đối với người này không nên khởi tâm ác hoặc nói lời thô sẽ báo thù. Bồ-tát nếu học giới Bồ-tát có năm việc không phóng dật: Một là xét mình đã phạm tội nên như pháp sám hối. Hai là xét mình sẽ phạm tội nên như pháp sám hối. Ba là xét mình hiện phạm tội nên như pháp sám hối. Bốn là chí tâm kiên trì không khởi tưởng phạm. Năm là phạm rồi nên chí tâm sám hối. Đó gọi là năm việc không phóng dật. Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, nơi các công đức hiện có thì nên che giấu, các tội đã phạm phải nên phát lồ, ít ham muốn biết đủ, gắng nhận các khổ, thường ưa vắng lặng, tâm không hối hận, không tự cao, không khinh suất, tu hạnh tịch diệt và hạnh vi tế, phá bỏ tà mạng. Bồ-tát thành tựu pháp như vậy, gọi là Bồ-tát an trụ trong giới Bồ-tát.
Bồ-tát thọ học giới Bồ-tát, không nhớ sự vui của năm dục trong quá khứ, không cầu sự vui của năm dục đời vị lai, tâm không tham đắm với năm dục hiện tại, thường ưa tịch tĩnh, phá bỏ giác quán xấu ác, thành tựu đầy đủ hạnh không phóng dật, không dám khinh chê tất cả chúng sinh, thành tựu nhẫn nhục, đầy đủ tâm tịnh. Người học tịnh giới không tiếc thân mạng, không tiếc của cải, khéo nhận biết nhân duyên của phiền não phá giới, khéo có thể điều phục phiền não phá giới, điều phục tâm sân hận, có thể điều phục tâm não hại của chúng sinh, hiểu rõ phiền não, biết nhân quả thiện, do biết nhân quả thiện nên tâm siêng năng cầu, phá trừ tâm không tín nhân quả thiện, quán tất cả pháp không có tướng thường, ngã, không có tướng lạc, tịnh. Phá trừ bốn thứ điên đảo: vô thường cho là thường, không lạc cho là lạc, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh của chúng sinh, tu học giới thiện, tu tập nhân bố thí, nhân trì giới, nhân nhẫn nhục, nhân tinh tấn, nhân thiền định, nhân trí tuệ. Bồ-tát thọ trì giới vì tạo lợi ích cho mọi người nên giáo hóa chúng sinh khiến hành nghiệp thiện, cùng làm bạn với người tu thiện, thường chỉ dạy chúng sinh cúng dường Tam bảo. Nếu thấy ly biệt thì dùng phương tiện khéo khiến được hòa hợp. Thấy người bệnh khổ tự thân cung cấp, giúp đỡ. Thấy người mù lòa cung cấp vật cần dùng như y phục, thức ăn, chỉ bày đường đi, khéo vì họ thuyết pháp. Gặp người bị điếc thì vạch đất chỉ bày nghĩa. Gặp người bị què bố thí xe cộ, nếu không có xe cộ thì tự thân cõng vác. Thấy người vì tham nên thọ khổ, có thể thuyết pháp khiến họ trừ khổ. Đối với sân hận, ngu si cũng lại như vậy. Gặp người đi đường mệt nhọc thay họ mang vác, bố thí thức ăn, mền nệm, các thứ cần dùng.
Lại có chúng sinh ưa tạo nghiệp tội, Bồ-tát thấy rồi nên khéo thuyết pháp, lời thiện nghĩa thiện, lời hợp câu hợp, lời nghĩa lần lượt tăng trưởng pháp thiện, nêu nghĩa đầy đủ. Vì muốn trang nghiêm đạo Bồ-đề nên dùng phương tiện thiện xảo dạy phá nghiệp ác. Vì người tham lam keo kiệt dạy pháp phá trừ tham lam keo kiệt, tăng trưởng pháp thiện và phá trừ tranh chấp nơi các tài vật. Nếu có chúng sinh không tin pháp Phật, khéo thuyết pháp khiến họ sinh tâm tin. Vì nhằm phá diệt phiền não nghiệp ác nơi chúng sinh, khiến được tám chánh đạo cho nên vì họ thuyết pháp.
Lại nữa, Bồ-tát học giới Bồ-tát nên phát thệ nguyện lớn, vì phá các ác kiến của chúng sinh, vì biết ân báo ân, nên dùng lời dịu dàng thăm hỏi, cúng dường sư trưởng, trưởng lão có đức, có thể phá trừ sự sợ hãi ưu sầu, đó là sợ hãi về sư tử, hổ lang, nước lửa, nạn vua, giặc cướp. Nếu có chúng sinh chết mất cha mẹ, anh em, quyến thuộc, vợ con, tôi tớ, hao tổn của cải, thân ái biệt ly, có thể dùng phương tiện thích ứng thuyết pháp để diệt trừ khổ não, thường bố thí vật cần dùng cho chúng sinh như y phục, thức ăn, phòng nhà, mền nệm, thuốc thang, hương hoa, anh lạc, đèn đuốc. Nếu Bồ-tát thọ trì giới Bồ-tát, nuôi chứa đệ tử nhưng không khéo dạy dỗ, nói pháp, chỉ bày khiến điều phục tham sân si, cũng không thể cung cấp y phục thức ăn phòng nhà thuốc thang, không thể vì đệ tử mà cầu đàn-việt tốt, hoặc vì đàn-việt thuyết giảng pháp yếu, có được vật dụng không thể phân chia bình đẳng, nên biết người này vì danh tiếng mà nuôi chứa đệ tử, không phải vì pháp. Nếu có thể tùy thời nói pháp dạy dỗ, vì tánh, vì lực, vì tạng Bồ-tát, vì muốn đầy đủ giới Bồ-tát nên tu tám chánh đạo, chứng đắc đạo quả giác ngộ tột bậc, đó gọi là Bồ-tát nuôi chứa đệ tử đúng đắn không vì danh xưng. Bồ-tát thọ học giới Bồ-tát, trước phải quán biết tánh giới chúng sinh, sau đó cùng ở vì chuyển tánh giới, thuyết pháp thích ứng, tùy ý cùng đi, khiến họ được điều phục không tạo các ác, có thể phá trừ pháp ác, tăng trưởng pháp thiện. Có thể ban cho các vật cần dùng. Thấy người làm ác sinh tâm thương xót sâu xa. Thấy người không nghe lời dạy sinh tâm buồn khổ, đối với các nghiệp ác mình đã tạo tâm không ưu sầu, thấy người tạo tác sinh tâm thương xót hết mực. Vì sao? Vì Bồ-tát đối với thân khẩu ý ác của mình, có thể nhanh chóng điều phục, mở tâm sám hối, vì có lực nhân duyên của đại trí. Bồ-tát vì người khác cũng lại tạo tác nghiệp ác nơi thân khẩu, vì muốn điều phục nghiệp ác của họ. Tùy theo tâm người nên Bồ-tát hoặc có lúc hiện thọ sự hoan lạc, vì để điều phục người khác. Bồ-tát Ma-ha-tát vì mọi người nên không sớm chứng đắc đạo quả giác ngộ vô thượng. Bồ-tát Ma-ha-tát tuy tùy thuận chúng sinh nhưng không khinh không chê, không đánh không mắng, không nói việc ác, không khen đức của mình để tự cao. Không gần gũi người chẳng phải là không gần gũi, tuy lại gần gũi nhưng phi thời thì không làm. Thấy người khác sinh tham đắm không nên nói lỗi họ. Kẻ không tham ái thì cũng không khen ngợi. Chưa biết căn tánh của người thì không thuyết giảng nghĩa sâu xa. Không nên theo người khác cầu xin, tuy được thí nhiều nên sinh tâm biết đủ, tâm không ưa thọ nhận người thường cúng dường, ưa xả bỏ của cải, cung cấp cho mọi người, thường ưa khen ngợi người khác làm thiện. Thấy người phạm giới thì không vì họ nói giới. Đối với người không có tâm tín thì không khen ngợi sự tín. Nơi người có tâm tham thì không khen ngợi bố thí. Người không ưa đọc tụng thì không tán thán việc đa văn. Đối với người si ám thì không khen ngợi trí tuệ. Nếu vì người phạm giới mà khen ngợi giới, tức khiến họ không ưa không vui, sinh tâm xấu hổ sân hận. Vì sân hận nên đối với pháp Phật và người thuyết pháp sinh tâm đại ác, do tâm đại ác nên tăng trưởng nhân địa ngục. Bồ-tát Maha-tát nếu làm như vậy, tức là ban cho chúng sinh nhân duyên địa ngục, không gọi là Bồ-tát. Người tùy ý thuyết pháp, cho đến đối với người si, khen ngợi trí tuệ cũng lại như vậy. Nếu có Bồ-tát đạt thần thông lớn, như vậy mới có thể vì người không tin thuyết giới Bồ-tát. Vì sao? Vì Bồ-tát này có thể dùng lực thần thông, chỉ bày cho người kia thấy địa ngục nóng, địa ngục lạnh, địa ngục lớn, địa ngục nhỏ. Lại nói: Nay ngươi vì sao không tin lời ta, xem quả ác này do trong nẻo người tạo tác, nên nay phải chịu khổ nơi địa ngục. Nếu ngươi lại không tin nơi giới Bồ-tát, thì sẽ phải chịu quả ác như vậy. Người không tin thấy việc này rồi, trong lòng sợ hãi liền sinh tâm tin.
Lại có Bồ-tát vì người không tin, dùng lực thần thông hiện hình La-sát, nói: Nay ta đi tìm những người không tin để đoạn mạng sống của họ, nếu có người tin ta sẽ hộ niệm. Người không tin khi thấy nghe sự việc như vậy rồi liền sinh tâm sợ hãi, do sợ hãi nên tin giới Bồ-tát.
Lại dùng thần lực hiện tượng Mật Tích cầm chày kim cang, nói: Nếu có người không tin giới Bồ-tát, ta sẽ phá vỡ đầu người ấy làm bảy phần. Người không tin khi thấy nghe như vậy liền sinh sợ hãi, do sợ hãi nên sinh tâm tin.
Lại dùng thần lực tạo vô số thân, hoặc tạo một thân, hoặc tạo nhiều thân, hoặc tạo thân rừng cây sông núi, hoặc thân vô ngại, thân lớn thân nhỏ, thân xuất ra nước lửa. Người kia không tin thấy rồi liền hỏi những việc như vậy đều là quả gì? Đáp: Đây là quả của giới Bồtát. Người kia nghe rồi sinh tâm tín đối với giới Bồ-tát. Nếu không có thần thông mà thuyết giới Bồ-tát cho người không tin tức mắc vô lượng tội. Vô lượng tội tức là chịu khổ trong vô lượng đời. Đó gọi là vô lượng, tuy có tội ngũ nghịch nhưng chưa đủ để ví dụ. Vì sao? Vì tội ngũ nghịch có thể dời chuyển, như vua A-xà-thế. Còn tội không tin kia thì không thể chuyển. Tội ngũ nghịch tối đa đến một đời. Tội không tin thì chịu khổ trong vô lượng đời. Thế nên nói là không thể ví dụ.
Nếu lấy vật của Phật, của Pháp, của Tăng, của Tăng hiện tiền, tội báo như vậy cũng không thể ví dụ. Vì sao? Vì tội báo như vậy tối đa chỉ đến một đời. Tội không tin thì đến vô lượng đời. Như mười hằng hà sa chúng sinh phát tâm Bồ-đề, giả sử có người có thể khiến hằng hà sa chúng sinh như vậy thoái tâm Bồ-đề, dạy cho họ tà kiến, tội báo như vậy cùng với tội không tin là bằng nhau, không sai khác.
Lại khiến hằng hà sa chúng sinh như vậy đều trụ ở năm địa, giả sử có người đoạt hết mắt của họ, tội báo này cũng như tội báo không tin. Nếu lại có người phá hoại tất cả tháp miếu của chư Phật, giết hại tất cả đệ tử của chư Phật, thiêu đốt tất cả kinh điển của chư Phật, tội báo như vậy cũng như tội báo thuyết giới Bồ-tát cho người không tin. Vì sao? Vì từ nhân nên sinh ra địa ngục, từ nhân nên vào Niết-bàn. Nhân đối với người thuyết có vô lượng khổ, thế nên người thuyếtmắc vô lượng tội. Tuy biết vô lượng chúng sinh trong đại chúng có thể tạo nghiệp thiện nơi nẻo trời, người và phát tâm tín, nhưng ở trong chúng ấy nếu có một người không tin thì cũng không thể thuyết giới Bồ-tát. Đó gọi là giới thiện của Bồ-tát tạo lợi ích cho chúng sinh.
HẾT – QUYỂN 4