LUẬN TÔN BÀ TU MẬT BỒ TÁT SỞ TẬP
Tác giả: Tôn giả Tôn Bà Tu Mật
Hán dịch: Đời Phù Tần, Tam Tạng Tăng Già Bạt Trừng, người nước Kế Tân
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 8

Phẩm thứ 9: KIỀN ĐỘ HÀNH (Nghiệp)

Hỏi: A-la-hán ở nơi cõi dục nhập Niết-bàn vì sao lại thọ nhận báo tương ưng với cõi sắc, vô sắc?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do nhanh chóng thọ báo nên nhận lấy hành và thân tĩnh lặng của cõi sắc và vô sắc.

Hỏi: Nếu có thể thọ nhận ấm, vì sao không hoàn toàn diệt hết các hành, không chứng đắc A-la-hán, lại thọ báo của cõi sắc và vô sắc? Nếu như đạt được quả A-la-hán thì ở trong hiện pháp thọ cảnh giới báo, do đấy đời sau thọ nhận duyên của báo tức có được báo vi diệu? Nếu hành kia trở lại A-la-hán, không bỏ nhân duyên, do hành xen tạp trở lại A-la-hán, tức có hành tương ưng với duyên kia, là quả của hành chưa thành thục, nhận lấy báo vi diệu?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nơi địa của thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba duyên với hành kia thọ nhận báo khổ vui. Địa của thiền thứ tư và cõi vô sắc tương ưng thọ nhận báo không khổ không vui. Điều này cũng như trên đã nói.

Lại nữa, A-la-hán nếu nhập Niết-bàn thì thọ nhận báo thiện, đoạn trừ nguồn của các khổ, duyên của thiện và bất thiện. A-la-hán kia khởi suy niệm: Vì sao nhập Niết-bàn lại có xứ sở này? Vì sao xứ kia là vô sở hữu? Nên khởi quán này: Nếu như hành của A-la-hán kia không có báo, hành ấy tức vô sở hữu, cũng không có quả thật, hành cũng vô sở hữu. Như lúa trong lẫm, muốn khiến không được thành tựu, không sinh khởi mầm, thì người làm ruộng kia tức vô sở hữu. Nếu hành quả của A-la-hán đã hư hoại, đó gọi là quả báo, thì A-la-hán cũng là vô sở hữu. Thế nên ở đây không như thế, vì hành là sở hữu.

Hỏi: Từng có người tự hại thân mạng, không phải là A-la-hán, cha mẹ, thì có nhận lãnh tội năm nghịch không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Có. Vì đã khởi tưởng cha, dẫn đến giết người, nên phải thọ nhận tội năm nghịch. Lại nữa, mẹ hóa làm người nam, người kia tạo ra tưởng mẹ, dẫn đến giết người, tức nhận lấy tội năm nghịch.

Hỏi: Từng có giết người nữ, không phải là mẹ, không phải là A-la-hán, thì có nhận lãnh tội năm nghịch không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Có. Vì đã khởi lên tưởng mẹ, giết người nữ khác, tức phải thọ nhận tội năm nghịch. Lại nữa, mẹ hóa làm người nữ, người nữ kia tạo ra tưởng cha, nên giết người, tức phải thọ nhận tội năm nghịch.

Hỏi: Không thành người nam mà giết cha mẹ, nên nói là nhận lấy tội năm nghịch hay nên nói là không nhận lấy tội năm nghịch?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Không nhận lãnh tội năm nghịch. Vì sao? Vì không thành người nam, ngu si, không thể khởi kiết sử phẩm thượng, không ở nơi trung gian có kiết phẩm thượng, nên không là tội tình.

Hoặc có thuyết nêu: Kiết phẩm thượng không thành người nam, ở trong phương tiện tất thọ nhận tội năm nghịch. Xuất yếu như thế là tội năm nghịch. A-la-hán kia không có tội năm nghịch, vì thế không thọ nhận. Nên tạo ra quán này.

Hoặc có thuyết nói: Nên nói là không thọ báo. Vì sao? Vì người kia không có ân từ, hướng về cha mẹ, tâm không nhất định. Nếu như nên thọ báo, thì phải nhận lãnh tội năm nghịch. Hoặc tạo ra tưởng thầy, nên tạo ra luận này, thế gian thuần là tội năm nghịch.

Hỏi: Nếu súc sinh trở lại tự hại cha mẹ, nên nói là thọ nhận tội năm nghịch hay nên nói là không thọ nhận tội năm nghịch?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nên nói là không thọ nhận tội năm nghịch. Vì sao? Vì súc sinh không có trí này, không có tưởng cao thấp, không ở nơi cõi này có tội năm nghịch.

Hoặc có thuyết nêu: Chúng sinh có trí, nên thọ nhận tội năm nghịch. Có trí nên có thể tạo ra kiết sử. Cũng như người chuyên chế ngự ngựa, dùng chiếc áo quấn buộc nơi đầu ngựa. Khi giao hợp với ngựa cái, ngựa đực liền biết ngựa kia là mẹ của nó, bèn trở lại tự cắn đứt căn.

Hoặc có thuyết nói: Pháp kia là tự như vậy. Chúng sinh có trí không có hạn lượng. Loài súc sinh như nghe tiếng vang, Thiên thu (Mặt người thân chim) sinh con, trở lại hại mẹ mình. Về sau đạt được quả A-la-hán.

Lại nữa, nên nói là không có tội năm nghịch. Người kia không có ân từ đối với hai cha mẹ. Nếu như có tâm từ, nhưng ngày ngày suy tổn, thọ nhận tội năm nghịch, nên dùng tưởng về thầy, lại tạo ra luận này. Nếu như nên như thế, thì tất cả thế gian đều là tội năm nghịch.

Hỏi: Người phàm phu trụ nơi tâm sát hại, nên nói là đã tạo thành tâm thiện hay nên nói là không tạo thành tâm thiện?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nên nói là không tạo thành, vì người kia không có trí tuệ để có thể đều phân biệt. Người kia không có giới cấm.

Hỏi: Hiện tại người phàm phu không sinh lên cõi trời, chỉ nghe người trì giới sinh lên cõi trời chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Nên nói là hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu. Nếu sinh lên cõi trời thì người kia thành tựu. Nếu vào địa ngục thì người kia không thành tựu.

Hỏi: Nghĩa này là không đúng. Vì sao cũng nghe được hành lớn? Khế kinh Phân Biệt nói: Ở nơi bảy xứ nếu phạm tội tức vào địa ngục. Không phạm tội tức được sinh lên cõi trời.

Lại nữa, hoặc có thành tựu hoặc không thành tựu. Người nào thành tựu? Nếu ở nơi tam muội, giới đầy đủ, không phạm giới luật, thiền không thoái chuyển, cho đến sau khi mạng chung, đó gọi là thành tựu. Người nào không thành tựu? Ở nơi tam muội, giới không đầy đủ, phạm giới luật, đối với thiền thì thoái chuyển, liền mạng chung, đó gọi là không thành tựu.

Hỏi: Bậc A-la-hán tâm sau cùng trụ ở cảnh giới hữu lậu, nên nói là thành tựu hay nên nói là không thành tựu?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói là thành tựu, vì không xả giới luật.

Hỏi: Thế nào là thọ nhận quả báo? Ở nơi tâm sau cùng của A-la-hán kia thọ nhận quả báo? Hành cùng với báo là như nhau, không có khác, điều này không phải là luận, thế nên không có ở đây?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nên nói là không thành tựu, vì người kia nơi tam muội giới không thọ nhận báo ấy.

Hỏi: Suốt cả đời, tam muội giới không đầy đủ. Lại nữa, A-lahán đầy khắp thế giới. Lại nữa, nên nói là thành tựu. Suốt cả đời, A-la-hán kia liền khởi suy nghĩ: Vì sao hiện nay lại thọ báo? A-lahán kia hoặc trước, hoặc sau, vì sao ở nơi khoảng giữa có thọ nhận quả thật chăng? Nếu tạo nên giảng đường, nhà phòng, nên nói là hành của thân hay nên nói là hành của ý?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Nên nói là hành của thân, vì thân cầu tìm phương tiện, siêng năng khó nhọc, nên có công.

Hỏi: Những thân nào là thuộc về hành thiện?

Đáp: Không phải đều là hành của thân. Thân này thuộc về ba hành thiện.

Hoặc có thuyết nói: Nên nói là hành của miệng, vì miệng có đối tượng bày tỏ: Ta thí cho chúng Tăng nhà phòng, nên là hành của miệng đã tạo.

Hỏi: Nên nói là thuộc về hành thiện của những miệng nào?

Đáp: Lời nói chí thành. Lời nói biết thời. Lời nói không thô ác.

Hoặc có thuyết cho: Nên nói là hành của ý, vì ý có quyết định dứt khoát đem vật thí cho chúng Tăng. Ý đã quyết định xong, sau đấy mới phát ngôn ở miệng: Tôi nay chí thành thí cho, không nói dối.

Hỏi: Là thuộc về những hành thiện nào?

Đáp: Ba hành thiện của ý: Không khởi tham ganh, không có kiến như giận dữ v.v…

Lại nữa, nếu răn dạy thân: Ta đã có đối tượng hành thí tức thân người kia có răn dạy, là ta có đối tượng hành thí, người kia nên nói là hành của thân, hành của ý. Nếu miệng có lời răn dạy: Ta có đối tượng hành thí, thì người kia nên nói là thân biểu hiện, khẩu ý biểu hiện, không ở nơi trung gian khởi ý niệm phước của phòng nhà, nên các căn thiện thành tựu. Ở nơi cõi này, nếu như trở lại sinh làm người xuất gia, hoặc ở tục tu pháp.

Hỏi: Người kia vì sao không ở trong hiện pháp, không xuất gia tu hành pháp?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Vì căn thiện của người kia chưa thành thục, lại sinh các căn thiện liền thành thục.

Hoặc có thuyết nói: Người kia do nhân duyên thiện có trở ngại, nên không được xuất gia. Lại do nhân duyên này được làm nhà hào quý. Lại nữa, ở nơi đây, hoặc có người nhờ dựa vào sức bên ngoài nên có được thành tựu về đối tượng nương dựa. Các kiết mạnh mẽ đã dứt hết, các hành thiện đầy đủ. Nếu không có phương tiện, thì các pháp thiện suy tổn, người kia ở nơi cõi này sau cùng lại sinh, lại được xuất gia. Nên khởi quán này, tức có từng ấy sự việc.

Hỏi: Vì sao kiết có quả thật còn hành không có quả thật?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Báo của hành là đối với kiết đã thọ nhận báo này. Các kiết sử diệt hết nên đạo là đối với báo ấy, đạo chưa sinh nhưng đã có quả thật.

Hỏi: Hành cũng là đối với đạo, vì đạo sinh thì kiết diệt. Lại nữa, có báo thọ nhận là báo của đạo kia, tất cả đều diệt mất chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nếu hành thường có quả thật thì đạo trên cũng không có quả thật, thế nên không đoạn dứt hẳn. Muốn khiến không đoạn dứt hẳn chăng? Lại nữa, hành này đều cùng có hai quả chung một pháp. Vì sao? Vì không quả, lại nói có quả, hoặc người kia có hành tự nhiên.

Thọ báo, dạy nam nữ

Không thành nam cũng vậy

Người phàm phu tâm sau

Thí giảng đường, phòng nhà.

Hỏi: Như núi chúa Tu Di của địa này, chúng sinh thọ nhận hành, giáo, chúng sinh nhập Niết-bàn, địa kia tức nhỏ kém dần chăng?

Đáp: Không nhỏ kém. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh duyên nơi hành báo kia. Nếu không thọ nhận báo, thì ở địa kia, hoặc có chúng sinh thọ nhận báo, không thọ nhận báo. Điều này không phải lỗi của cõi kia.

Hỏi: Như có ít kém các thứ cỏ lạ, cỏ thuốc, lúa thóc, cây cối, nên nói là tự nhận lấy hành báo hay nên nói là thọ nhận báo tăng thượng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Nên nói là thọ nhận báo của hành.

Hỏi: Tức không có không cho mà lấy chăng?

Đáp: Người khác đã thọ nhận nên không có không cho mà lấy.

Hỏi: Là thọ nhận vật gì?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu có đối tượng thọ nhận, thì vật kia là báo của hành. Nếu không có đối tượng thọ nhận, thì vật kia cũng là báo của hành.

Hỏi: Vật kia cũng là thọ nhận báo. Vật kia cũng là không thọ nhận báo. Là muốn khiến cho vật ấy là báo của hành? Lại nữa, thọ nhận hành tăng thượng. Vì sao? Vì không do hành báo nên nhận lấy quả thật kia, không dứt trừ nguồn khổ, nguồn vui, như cỏ cây, vườn quả. Vì sao người thời xa xưa, khi tu mười hành thiện, thì mạng được kéo dài, sống lâu, ruộng phước phong phú, thành thục? Như người ngày nay, khi tu mười hành thiện, cũng không sống lâu, cũng không có phước đức?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Người thời xa xưa, trong suốt đêm dài sinh tử đã tu mười thiện. Như người ngày nay, không tu mười thiện trong suốt đêm dài sinh tử.

Hỏi: Như hiện nay, không tu mười thiện trong suốt đêm dài sinh tử, nhưng những người kia cũng được sống lâu, cũng được phước điền tốt đẹp chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Người thời xa xưa kia tu mười thiện, nhưng người ngày nay không tu mười thiện.

Hỏi: Người không cấu uế tu hạnh thanh tịnh, nay có thể được thọ hưởng sống lâu chăng? Cùng phước đức lớn mạnh chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Người kia không phải thọ nhận báo của hành hiện tại, mà nhận lãnh báo của hành ở xứ khác, vào thời đó tức sống lâu và được phước đức lớn. Đối với quả của hành kia sẽ được thọ nhận ở nơi chốn khác. Như ngày nay tu hành mười thiện, vào thời kia tức nhận báo ở nơi xứ khác.

Hỏi: Như hiện nay cũng không quán xét, hoặc nhận hành báo ở nơi chốn khác, cũng được sống lâu và phước đức lớn. Lại nữa, có vô lượng các sự việc khiến thọ mạng của chúng sinh được nối dài, cũng có phước đức, không chỉ riêng mỗi hành của hành này. Cũng có vô lượng các sự việc, như nay có thể quán xét: Hoặc có phương tục nơi các nẻo. Hoặc có các hành kéo dài thọ mạng để sống lâu. Vì sao người giữ giới chỉ bảo kẻ khác không giữ giới, liền tự mắc tội đọa lạc. Hoặc người không giữ giới chỉ bảo người khác trì giới khiến có giới luật?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Người trì giới chỉ bảo kẻ khác không trì giới, thế nên là phạm giới, hoặc phạm oai nghi. Nhưng người tinh tấn thì được oai nghi, người không tinh tấn thì không được oai nghi. Nếu người trì giới chỉ bảo người khác không giữ giới, khiến họ không giữ giới. Nhưng người không trì giới thì không chỉ bảo người trì giới khiến người này trì giới.

Hoặc có thuyết nêu: Người tinh tấn chỉ bảo kẻ khác không giữ giới, là ở tại chỗ hy vọng. Hy vọng do hủy hoại giáo giới. Người không giữ giới chỉ bảo người khác giữ giới thì không khởi hy vọng. Hy vọng hoại thì giới hoại. Lại nữa, người giữ giới chỉ bảo kẻ khác không giữ giới, nếu khởi tưởng niệm, tức gọi là không giữ giới, là có sức trì giới nhưng không thoái chuyển. Người không trì giới chỉ bảo kẻ khác không trì giới, nếu khởi tưởng niệm, nên nói là người trì giới, do sức tinh tấn đã đạt tới.

Hỏi: Từng có một hành của miệng là có phước báo hay không có phước báo?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là có. Yêu mến người này, chỉ dạy người kia, nên có hai tâm miệng cùng có một lời chỉ giáo. Gốc khởi tưởng niệm tạo ra lời nói này: Thu nhận người ấy, ràng buộc người ấy.

Hỏi: Phát khởi tâm thiện có giáo hóa nên có công đức sinh. Pháp thiện đầy đủ khởi các lời răn dạy. Nếu tâm bất thiện có giáo hóa, tức có phước bất thiện sinh. Vậy tâm đã suy niệm có thiện, bất thiện sinh. Lại nữa, sự răn dạy có các tưởng sinh chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Miệng không có hành thiện, còn tâm thiện thì có chỉ dạy. Hành của miệng bất thiện, hành của miệng tâm bất thiện, không do một lời chỉ dạy có tâm thiện sinh thế nên không có. Lại nữa, miệng chỉ dạy giống nhau, cũng có hư, cũng có thật, tâm thiện sinh, tâm bất thiện cũng sinh, tâm vô ký cũng sinh. Lại nữa, tất cả đều thuộc về tâm hành, cũng có thiện, cũng có bất thiện, cũng có vô ký, là tâm đã suy niệm. Xứ sở nơi hành của miệng nên nói là hành của miệng theo một tâm, cũng là thiện, cũng là bất thiện, vì thế tức không có.

Hỏi: Vì sao hành của thân cũng là thiện, cũng là bất thiện?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Có tạo tưởng sát hại, một xứ có giáo hóa, thân vốn khởi niệm nên giết kẻ ấy, nên thưởng cho kẻ ấy.

Hỏi: Nếu như với tâm thiện có giáo hóa, tức có phước sinh tâm thiện đã sinh. Nếu tâm bất thiện có giáo hóa, tức không có phước thiện sinh. Tâm bất thiện có giáo hóa, tâm ấy là gốc của thân. Nếu tâm đã suy niệm có phước hoặc không có phước nhưng người răn dạy thì có hai tâm sát hại?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thân thiện, hành thân thiện, miệng chỉ dạy bất thiện. Hành của thân bất thiện, thân tâm có giáo hóa, không do một sự giáo hóa, nên nói là thiện, nói là bất thiện, vì thế tức không có.

Lại nữa, giáo hóa giống nhau, cũng thấy lễ kính, phát khởi tâm thiện, tâm bất thiện, tâm vô ký. Lại nữa, tất cả tâm đã suy niệm đều có thiện, bất thiện, vô ký của sự giáo hóa này. Thế nên tâm đã suy niệm không do niệm có thiện, có bất thiện, do vậy nên không có.

Hỏi: Vì sao nhận biết được giới hữu lậu của A-la-hán đã thành tựu?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Giới kia không phải có đầy đủ đều là oai nghi, cũng như oai nghi này không trở lại nơi A-la-hán. Nếu trở lại nơi A-la-hán thì không khác.

Hoặc có thuyết nêu: Nếu như giới hữu lậu của A-la-hán không thành tựu, thì A-la-hán kia không có tội. Vì phạm rồi trở lại ăn năn, sám hối, nên là giới hữu lậu đã thành tựu A-la-hán. Lại nữa, nếu A-la-hán không khởi giới hữu lậu, cũng không lường xét về hữu lậu, thì đây là thế tục, đó gọi là nhân duyên, cũng không che giấu để khởi tưởng chúng sinh, do đồng với tâm phương tiện của Thánh đế, đồng với pháp vi diệu của Hiền Thánh. Ở nơi giới này thuận theo tánh không, nên tạo ra quán ấy.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Ở đây, A-nan, Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo, nếu thọ nhận tám pháp kính trọng, tức là phần chính yếu của người xuất gia, cũng là giới cấm, cũng là hạnh của Tỳ-kheo-ni.

Hỏi: Thế nào là phần chính yếu của người xuất gia? Thế nào là giới cấm? Thế nào là hạnh của Tỳ-kheo-ni?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vâng nhận hành theo pháp trọng yếu, cũng là giới cấm của người xuất gia, cũng là hạnh của Tỳ-kheo-ni.

Cũng có thuyết cho: Giới kia tức là giới cấm, là hạnh của Tỳkheo-ni.

Hoặc có thuyết nêu: Từ bỏ nghiệp nhà, đó gọi là xuất gia. Vâng nhận hành theo pháp trọng yếu, đó gọi là giới cấm. Đến giờ hành khất thực, không mất oai nghi, đó gọi là hạnh của Tỳ-kheo-ni.

Lại nữa, ở trong hiện pháp, học tập oai nghi, mặc pháp phục Samôn, xuất gia học đạo, được giới cụ túc. Do phương tiện được giới này, thuận theo không mất thời tiết, đó gọi là hạnh của Tỳ-kheo-ni.

Đáp: Thế nào là học giới tăng thượng? Thế nào là học tâm tăng thượng? Thế nào là học trí tuệ tăng thượng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thân oai nghi, miệng oai nghi, các hành thanh tịnh, đó gọi là học giới tăng thượng. Bốn thiền gọi là học tâm tăng thượng. Phân biệt về bốn đế, đó gọi là học trí tuệ tăng thượng.

Hoặc có thuyết cho: Đẳng ngữ, đẳng hành nghiệp, đẳng phương tiện, đó gọi là học giới tăng thượng. Đẳng niệm, đẳng định, đó gọi là học tâm tăng thượng. Đẳng kiến, đẳng chí, đẳng trị, đó gọi là học trí tuệ tăng thượng.

Hoặc có thuyết nêu: Nếu giới dựa vào tư duy, đó gọi là học giới tăng thượng. Nếu dựa vào chỉ, quán, đó gọi là học tâm tăng thượng. Nếu dùng chỉ quán đoạn trừ các kiết sử, đó gọi là học trí tuệ tăng thượng.

Hoặc có thuyết nói: Thấy người không trì giới, chí cho là cấu uế, có thể lìa bỏ. Người kia chí nguyện ở giới cấm, mỗi mỗi đều học, đó gọi là học giới tăng thượng. Thấy lìa bỏ cấu uế, ý không nhiễm chấp, hành tập tam muội, ở nơi tam muội ấy mỗi mỗi đều học, đó gọi là học tâm tăng thượng. Không có phương tiện, thấy các cấu uế biểu lộ, có thể xả bỏ. Dùng phương tiện trí tuệ nhằm gần gũi thiện hữu, ở nơi ấy mỗi mỗi đều học, đó gọi là học trí tuệ tăng thượng.

Lại nữa, thuận gần với tám đạo Hiền Thánh để phân biệt và học oai nghi, đó gọi là học giới tăng thượng. Suốt đời vâng giữ giới, nên bỏ ác đến với thiện, theo đạo Hiền Thánh, khởi các tam muội, dùng trí tuệ học tâm tăng thượng. Ở nơi tam muội này có phương tiện nên tăng ích, ở trung gian của phương tiện kia được trí tuệ nơi đạo của các Hiền Thánh, đó gọi là học trí tuệ tăng thượng, đối với trí tuệ này, dùng phương tiện tu hành.

Hỏi: Vì sao Thư ni nhị thập ức (tên Sa-môn) chỉ dùng một phòng nhà thí cho chúng Tăng mà được chín mươi mốt kiếp không bị đọa vào nẻo ác. Còn Bồ-tát ở trong cõi này tạo nên vô số công đức mà phải vào địa ngục?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Thư ni nhị thập ức tâm nghiêng về bố thí cho chúng sinh. Do công đức bố thí tốt đẹp này, nên ở nơi xứ đã sinh thường ưa tuệ thí, ý nối tiếp không dứt, do đấy nên không bị đọa vào nẻo ác. Nhưng Bồ-tát thì ý thiên về trí tuệ, ý chí rất dũng mãnh, tức không đọa vào nẻo ác.

Hoặc có thuyết nêu: Thư ni nhị thập ức ý ở nơi chốn vắng lặng, có tín giải thoát. Do đức của sự việc ở chốn vắng lặng này, nên không bị đọa vào nẻo ác. Còn Bồ-tát thì tu hành đạo nghiệp, hoặc có khi không đọa vào nẻo ác. Nếu mất chí nguyện liền bị đọa vào nẻo ác. Nếu không mất chí nguyện thì không đọa vào nẻo ác, liền sinh lên cõi trời.

Hoặc có thuyết nói: Bồ-tát trong suốt chín mươi mốt kiếp không vào nẻo ác. Từ xa xưa đã từng trải qua ra khỏi vô số sinh tử của chín mươi mốt kiếp.

Tôn giả Đàm-ma-đa-la tạo ra thuyết này: Đối với lời nói hủy báng ấy là phương tiện của Bồ-tát, nên không bị đọa vào nẻo ác. Bồtát phát tâm đến nay, luôn cầu đến đạo tràng, từ đấy trở đi không vào địa ngục, không vào súc sinh, ngạ quỷ, không sinh vào xứ bần cùng, đi chân trần. Vì sao? Vì tu hành trí tuệ nên không thể bị tan hoại. Lại nữa, Bồ-tát phát tâm trở lại được ba pháp không thoái chuyển, dũng mãnh ưa bố thí nên trí tuệ tức tăng ích, thuận theo, vì thế nên biết là Bồ-tát không rơi vào pháp ác.

Đại vương, thời xưa trước

Trì giới, hành thân, miệng

La-hán, Cù-đàm-di

Học, không đọa nẻo ác.

Hỏi: Vì sao A-la-hán gọi là phước điền?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Tâm không cấu uế, vướng chấp, nếu người có thể cúng dường bậc A-la-hán kia, tức đạt được phước lớn. Như đám ruộng đã trừ bỏ cỏ dại thì cây lúa xanh tốt.

Hỏi: Đối với A-la-hán kia không cung kính sẽ mắc tội lớn. Ở đây nên nói là phước điền bất thiện chăng?

Đáp: Không có phước điền. Như khéo trừ bỏ hết cỏ dại trong ruộng lúa. Nếu như có một ngày đã gieo trồng cỏ khác, nên gọi là ruộng lúa như thật, không nghi.

Hoặc có thuyết nêu: Tâm tu hành căn, lực, giác ý, tức duyên nơi tâm thiện sinh các nghiệp phước, thế nên A-la-hán được gọi là phước điền.

Hỏi: Tâm bất thiện cũng phát sinh là muốn khiến A-la-hán kia không phải là phước điền chăng?

Đáp: A-la-hán không có niệm bất thiện duyên nghiệp đức của mình. Vì sao? Vì ác thì duyên nơi niệm bất thiện, nhưng A-la-hán không có ác ấy, nên duyên là phi duyên.

Hoặc có thuyết nói: A-la-hán có thể khiến cho người khác có niềm tin, thế nên A-la-hán nói là phước điền. Tuy đối với A-la-hán kia sinh niệm ác, nhưng ý cũng không dời động. Lại nữa, tâm chính là gốc của các pháp tuệ thí, đó gọi là phước điền. A-la-hán kia sinh, tức có tăng trưởng rộng khắp ở quả lớn. Thế nên A-la-hán gọi là phước điền.

Đối với A-la-hán kia, liền khởi suy nghĩ: A-la-hán kia không phải là phước điền thật, nhưng là phước điền thật. Tuy đối với A-lahán kia đã gây tạo nghiệp tà, nhưng không trụ ở trong đó, tùy nơi sự việc tà của người khác. Nếu thí cho một nắm sẽ được phước sinh lên xứ trời Thiện lạc. Ở cõi trời ấy tức có được các thứ cung điện, phòng nhà.

Hỏi: Nên thí cho một nắm mà được từng ấy phước hay nên không phải riêng thí cho một nắm mà được từng ấy phước?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói là do thí cho một nắm nên có được từng ấy phước. Vì sao? Vì đã có thể do hành nên sinh nơi cõi trời kia. Hành này đã tạo ra vô số thứ cung điện, phòng nhà.

Hỏi: Vì sao từ một hành mà có được vô số thứ cung điện, phòng nhà?

Đáp: Do các hành được tụ tập.

Hoặc có thuyết cho: Không phải chỉ thí cho một nắm mà có được từng ấy phước, mà vì có thể duyên nơi pháp đã suy niệm của tâm thiện. Do nhân duyên ấy nên được sinh vào cõi trời kia. Hành bố thí ấy cũng đã tạo ra vô số thứ cung điện, phòng nhà như thế.

Hoặc có thuyết nêu: Không phải do thí cho một nắm mà được sinh nơi cõi trời kia, mà chính là do trì giới nên mới được sinh.

Cũng có thuyết nói: Thí cho tức đạt được phước lớn. Trì giới thì được sinh lên cõi trời.

Hỏi: Như về cung điện là nói duyên nơi phước của thí cho một nắm, như vậy thì bảy lần sinh lên cõi trời cùng trong nhân gian là thọ nhận phước tự nhiên chăng?

Đáp: Do nhân duyên này, nên giới kia được thành tựu. Vì thế được thọ nhận phước ở cõi trời kia. Nếu như tạo ra thuyết này: Báo của thí cho một nắm nên bảy lần sinh lên cõi trời cùng trong nhân gian thọ nhận phước tự nhiên, không do một hành mà bảy lần thọ nhận phước. Vì vậy phước kia là tự nhiên. Như thế không do báo của thí cho một nắm mà sinh nơi cõi kia. Sự việc này như đã xét kỹ về việc thí cho một nắm.

Lại nữa, thí cho một nắm là có tương ưng. Phước kia cũng ở nơi bên ngoài, không có thân căn mà sinh.

Từng có hành thí cho kia là thân căn, lần lượt cùng nhân nơi tăng thượng để sinh nhân duyên tương ưng với hành, thọ nhận vô số quả báo. Như một thứ hành có tăng ích, có vô số thứ báo ngẫu nhiên. Như họa sư kia đã tạo ra vô số hình tượng như thật.

Hỏi: Vì sao âm thanh không có báo?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Âm thanh có báo là tiếng vang, vì trung gian của báo là không có báo, thế nên âm thanh không có báo.

Hỏi: Tâm trung gian của tâm sinh ra báo, là muốn khiến tâm không phải là báo chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Âm thanh do hiện tại hội hợp nên có tiếng, nhưng báo thì không như vậy, thế nên âm thanh không phải là báo.

Hỏi: Đã do cảnh giới hiện tại hội hợp mà có, là muốn khiến cho âm thanh kia không phải là báo chăng?

Hoặc có thuyết nói: Âm thanh cũng là báo. Đức Thế Tôn cũng nói: Hoan hỷ muốn nghe âm thanh, tức nên có ngay.

Đáp: Âm thanh kia hoặc là hoan hỷ, hoặc không phải là hoan hỷ, như hiện nay không có báo. Như hai người đều cùng nên có báo, nghe âm thanh cũng nên có báo.

Hỏi: Nghe hoặc có khi hoan hỷ, hoặc có khi không phải hoan hỷ, là muốn khiến cho sự nghe kia không phải là báo chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Âm thanh cũng là báo. Phạm âm của Bồ-tát, tưởng của bậc đại nhân đã thọ nhận thật báo của các hành.

Hỏi: Bốn đại của yết hầu đây là báo của hành, do có phạm âm nên bốn đại kia không phải là thọ nhận báo chăng?

Đáp: Sắc vàng ròng do bốn đại tạo nên là cũng muốn khiến cho sắc vàng ròng ấy không phải là báo sao? Lại nữa, âm thanh không phải là báo, cũng không là không phải là báo. Vì sao? Vì âm thanh là thợ thiện xảo. Có một tâm, trở lại được tham dục tạo ra, sinh hỷ, sinh ưu, nhưng báo thì không như thế. Vì thế nên âm thanh không phải là báo.

Hỏi: Từng có sát sinh thuộc về hành của miệng chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Như đại vương đã ra lệnh cho vị quan giám sát kia sát sinh.

Hỏi: Hành của thân, hành của miệng thì không có nhất định. Lại nữa, nhân duyên nơi hành của miệng đã tạo ra sát sinh, sự giết hại ấy không được nói thuộc về hành của miệng. Vì người kia ở đây đã khởi suy niệm: Vì sao hôm nay lại ban lệnh khiến giết người? Vua ấy có miệng hành ác chăng? Nếu là sát sinh tức có sát hại, đố kỵ không dứt hết, do ý sát hại nên bị đọa nơi nẻo ác.

Hỏi: Từng có nói dối thuộc về hành của thân chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Có. Cũng như in dấu của tay, miệng không phát ngôn nhưng có vô số chỉ dạy người khi dẫn chứng.

Hỏi: Cũng không có hành của thân, hành của miệng. Lại nữa, không có tức không có hành của thân. Người kia lại khởi suy nghĩ: Nay vì sao lại in dấu tay cùng hành của thân? Nên tạo ra quán này: Tướng hành không như nhau. Nếu ở trong mộng tu hành mười thiện thì nên nói là hành của thân chăng? Nên nói là hành của miệng chăng? Nên nói là hành của ý chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nên nói cả ba thứ, do ba thứ hành gồm thâu mười hành thiện.

Hỏi: Nếu ở trong mộng sát hại chúng sinh, nên nói là phạm giới sát chăng? Lại nữa, nên nói là hành của ý, vì chỗ suy nghĩ của ý là ở đấy nên là có. Như trong mộng thấy hành của thân, hành của miệng.

Đây không phải là dụ.

Hỏi: Nếu phi pháp tạo ra tưởng pháp, là phá hoại làm rối loạn chúng Tăng. Nếu pháp tạo ra tưởng phi pháp như thế là tội rất nặng chăng?

Đáp: Tưởng phi pháp là phá hoại, làm rối loạn chúng Tăng, tội ấy là rất nặng.

Hỏi: Nếu như đều cùng tạo ra tưởng hai pháp, tranh chấp, gây rối loạn chúng Tăng, thì cả hai tội đều cùng như nhau chăng? Lại nữa, nếu giận dữ bùng lên, tâm phát sinh niệm ác thì tội ấy là rất nặng?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Ba thứ nghiệp đức là thí, giới, tư duy. Đối với Tỳ-kheo kia thì thí giới là vi diệu hay tư duy giới là vi diệu?

Hỏi: Vì sao thí giới là vi diệu? Giới tư duy là vi diệu?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Thí được phước lớn, giới được sinh lên cõi trời. Tư duy thì xa lìa nẻo ác, vì vi diệu nên người kia được sinh lên cõi trời. Do sinh lên cõi trời nên lìa nẻo ác.

Lại nữa, do thí tương ưng với cung kính, nên đạt được đức của thí. Nếu thí cho một ít, cùng với tâm có sai trái thì có thể khiến cho chúng sinh trụ nơi giới nhưng không thể khiến cho chúng sinh được tự tâm được giải thoát. Thế nên thí giới là vi diệu, giới tư duy là vi diệu.

Hỏi: Như đã nói hai thứ đức nghiệp nơi chủ thể thí, đối tượng thí. Người của chủ thể ăn là tín thí, người kia vì sao có đối tượng thí? Vì sao người của chủ thể ăn là tín thí?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu cắt phần tuệ thí của mình, đó gọi là thí. Nếu thọ nhận thí, có thể tiêu hóa, đó gọi là người ăn là tín thí.

Hỏi: Vì sao nhận biết được là có phước đức?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nếu duyên nơi tâm thí, đó gọi là thí.

Nếu duyên nơi thức ăn, theo tâm thí, đó gọi là người thọ nhận tín thí.

Hoặc có thuyết nêu: Nếu cắt đứt tâm tuệ thí của mình, đó gọi là thí. Nếu duyên nơi tâm tôn kính, đó gọi là người ăn là tín thí. Lại nữa, các công đức lâu dài, như thuận theo việc gieo trồng chủng loại phước đức, bị hệ thuộc, hoặc tạo cho phước đức kia được tăng ích, hoặc hành thí không có chán đủ, thường cầu phương tiện.

Lại như Đức Thế Tôn nói:

Trồng vườn cây quả tốt

Hoặc làm cầu người qua

Bệnh dùng thuốc cứu chữa

Ngày đêm được phước lớn.

Hỏi: Thế nào là người kia đạt được phước lớn?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Người thọ nhận thí có được phước.

Hỏi: Vì sao nhận biết được phước lớn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do thí được phước, đối với sự việc ấy nên tư duy, vì thế được phước lớn, như trước đã nói.

Khéo biết, người hay biết

Là đệ tử Cù-đàm

Ngày đêm tu khổ hạnh

Niệm thường không lìa Phật.

Đệ tử của Đức Phật kia không tạo ra niệm khác, thường tư duy niệm Phật.

Hoặc có thuyết cho: Như gieo trồng hạt lúa, hoặc có khi được tốt tươi, hoặc có khi không được tốt tươi. Phước cũng như thế, tất cả đều tạo nên phước thiện, tùy thời tiết được tươi tốt.

Hoặc có thuyết nêu: Như đã nói là đạt được phước lớn.

Hoặc có thuyết nói: Như đã nói: Niệm có được phước lớn. Lại nữa, người kia đối với thân được phước. Hoặc có khi thân người kia đối với phước ấy dần dần do phương tiện nên được phước.

Ruộng nghiệp sinh xứ thiện

Hai tụ, mộng oai nghi

Vì sao phước rất trọng

Phước gọi là vườn gác.

Hỏi: Nếu chúng sinh từ trời Quả thật mạng chung sinh nơi trời Tịnh cư, thì chúng sinh kia nên nói là cùng với duyên của hành nên sinh nơi cõi trời ấy, hay nên nói do kiết sử sinh lên cõi trời ấy?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói là do duyên của hành nên sinh vào trời kia. Bốn thiền vi diệu do tư duy nên được sinh vào trời kia. Do tu hành bốn thiền nên được sinh trong cõi kia. Vì thế nên nói là do nhân duyên của hành tức được sinh vào trời kia.

Hoặc có thuyết cho: Đều cùng do hai sự việc nên sinh vào cõi trời kia. Thọ nhận đối của kiết sử, nên có tên kiết sử, là có tên hành. Lại nữa, do nhân của hành nên sinh. Đức Thế Tôn cũng nói: Do nhân của hành sinh. Thế nên nói do duyên của hành nên sinh.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Ở đây, Sa-môn Bất-na, hoặc có một người gây tạo ác, nối tiếp các hành của thân.

Hỏi: Thế nào là người kia gây tạo các hành của thân?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Hành của thân có ba loại: hạ, trung thượng. Loại hạ là gây tạo ác, gây tạo liên tục là loại thượng, gây tạo ác nối tiếp là loại trung. Quán xét loại thượng kia là gây tạo ác nối tiếp gây tạo. Quán xét loại hạ gọi là tạo ác nối tiếp gây tạo. Nếu là loại hạ, là cả hai đều cùng quán xét, gọi là tạo ác, nối tiếp tạo. Thế nên trung có hạ cũng gây tạo ác, tạo ra hành của thân.

Hoặc có thuyết nói: Hướng tới ba đường ác, đó gọi là gây tạo ác. Sinh nơi cõi sắc, vô sắc, đó gọi là nối tiếp tạo. Người trời nơi cõi dục gây tạo ác, nối tiếp tạo ác. Xứ không có định, chủ yếu gây tạo ác, nối tiếp tạo ra các thứ hành.

Hoặc có thuyết cho: Ba thứ vô minh duyên nơi hành. Người có phước, người không có phước, người có phước vô lậu, đối với kẻ không có hành phước kia, đó gọi là gây tạo ác. Người có phước vô lậu là nối tiếp gây tạo. Người có phước, gây tạo ác, nối tiếp tạo. Tạo ra các hành phước, đó gọi là tạo ác, nối tiếp tạo.

Lại nữa, người tạo ra vô số thứ hành, vô số xứ giải thoát. Người này không thể cùng một lúc biện biệt về việc đã làm của một tâm, như nơi tất cả nẻo ác mà có ba thọ.

Hỏi: Vì sao tất cả tạo ác là nối tiếp gây tạo?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Không do nẻo ác sinh khởi báo của các hành.

Hoặc có thuyết nói: Không ở nơi trung gian kia sinh khởi báo của các hành.

Hoặc có thuyết cho: Không do tích tụ hành mà sinh nơi cõi kia.

Lại nữa, các thứ cùng hưng thịnh mà có xứ định, ở nơi xứ không từng trải mà có hành khổ vui.

Hỏi: Vì sao trong nẻo người, trời tạo các hành thiện gọi đó là thọ báo?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Do cảnh giới của người, trời kia là tự như thế. Hoặc có sự vi diệu thuộc ác. Hoặc có thuyết nói sự vi diệu thuộc thiện, được nói là ngã sở.

Hỏi: Trong nẻo ác cũng có việc thiện, nói là ngã sở, là muốn khiến cho việc thiện kia sinh khởi chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu có thể cứu vớt, thì người kia không có hành của kiết ác do kiết sinh. Thế nên bất thiện ở khắp tất cả.

Hỏi: Như đã nói: Trì giới được sinh lên cõi trời, sự việc này là không đúng chăng?

Đáp: Giới cứu vớt nẻo ác, do kiết của hành bất thiện nên sinh vào cõi ấy. Đó gọi là do giới nên sinh lên cõi trời.

Như đã nói: Năm kiết phần dưới đã dứt hết, gọi là sinh lên cõi trên, không có không dứt hết mà sinh. Lại nữa, không có báo sinh ra báo vô ký. Lại nữa, duyên nơi hành thiền mà sinh, do nhân duyên sinh nên có danh hưng khởi. Như ở đây mà sinh trong cõi kia. Như xứ sở của phương tục, không có được xứ sở, ở nơi ý kia mà sinh tâm, do đây mà sinh kia. Như thế, nhân duyên của báo thiện sinh ra nhân duyên nên có danh khởi lên tức sinh lên cõi trời.

Hỏi: Thế nào là hành chướng ngại?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Sinh các tâm ăn năn. Do tâm ăn năn kia nên không tạo chướng ngại đối với đạo, Lại nữa, có xứ sở của tham dục, do nghiệp hư hoại. Đối với chỗ cần thiết kia, do nghiệp đều hết làm việc ngăn che.

Như đã nói: Có năm tội hành. Hoặc có người không có hổ thẹn, không xấu hổ, không biết xấu hổ đối với nhiều người, giả dối, không có tâm chí, tình ý mê lầm.

Hỏi: Những người này có khác biệt gì?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Ở trong cõi này, hoặc có người tạo nên sắc tượng kia để tư duy, tất cả đều không có hổ thẹn, vĩnh viễn trụ nơi tâm không hổ thẹn. Đã có tâm không hổ thẹn, lại phạm thêm các điều xấu ác.

Ở trong cõi này, hoặc có người không biết có thứ tự cao, thấp, người dạy trao giới luật cũng không chịu lãnh nhận, không biết làm thấm nhuần tâm mình, lại còn phạm nhiều tội khác.

Ở trong cõi này, hoặc có người theo như sắc tượng kia mà tư duy, tất cả hổ thẹn đều diệt hết, trụ nơi không có tâm thẹn. Lại do không có tâm thẹn, nên phạm các hành ác, nên ở nơi cõi này học.

Người kia không còn nhớ, lại phạm tội khác.

Ở trong cõi này, hoặc có người không nhận biết, nên tạo ra học này: Người kia về sau không nhận biết, lại phạm các thứ ác khác. Đây là sự đồng dị của những người kia.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Không nhận biết dấu vết giải thoát, không nhận biết nói về dấu vết giải thoát.

Hỏi: Thế nào là dấu vết giải thoát? Thế nào là nói về dấu vết giải thoát?

Đáp: Có hai dấu vết giải thoát: Trước mắt Tỳ-kheo Tăng, nói về giới Tỳ-kheo thanh tịnh cùng tương ưng, đó gọi là dấu vết giải thoát của Tỳ-kheo. Ở trước mắt Tỳ-kheo-ni, Tăng, nói về giới thanh tịnh cùng tương ưng chung, đó gọi là dấu vết giải thoát của Tỳ-kheo-ni. Dấu vết giải thoát này có năm tướng: Ở trước các vị Tăng khác mà nói về giới thanh tịnh, cùng tụng đọc, diễn giảng rộng, khiến người vâng làm, đó gọi là nói về dấu vết giải thoát.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Không hiểu giới, không hiểu thuyết giới.

Hỏi: Thế nào là giới? Thế nào là thuyết giới?

Đáp: Giới thanh tịnh, đó gọi là giới. Năm thứ tụ của Hiền Thánh, đó gọi là giới hạnh.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo trở lại các hành tức vận động tụ tập, thuộc về người truyền trao, dẫn đến hành thuộc về sự truyền trao.

Hỏi: Thế nào là thuộc về truyền trao? Thế nào là thuộc về người truyền trao hành?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đối tượng hành của bốn bộ được bốn hành, phần còn lại thuộc về người truyền trao dẫn đến hành. Đối tượng hành của mười bộ là mười hành, phần còn lại thuộc về người truyền trao dẫn đến hành. Đối tượng hành của hai mươi bộ được hai mươi hành, phần còn lại thuộc về người truyền trao dẫn đến hành. Đối tượng hành của chúng sự được các hành cùng giới, thuộc về người truyền trao dẫn đến hành.

Lại nữa, nếu đức hạnh của Tỳ-kheo thành tựu, Tỳ-kheo ấy nói là được hành. Nếu bị bệnh không thể nhận việc nhập chúng, thì người ấy gọi là thuộc về người truyền trao dẫn đến hành.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Ở đây, Tôn giả Mục-kiền-liên an trú trong pháp thâm diệu dần dần hành khắp, dần dần học, dần dần mang dấu vết, dần dần thọ nhận lời chỉ dạy.

Hỏi: Thế nào là ở trong pháp thâm diệu, dần dần hành khắp, dần dần học, dần dần thọ nhận lời chỉ dạy?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Đệ tử của Tôn giả là Mã-sư Mãn-túc, ở trong chúng này đã được niềm tin mà tu hành. Nghe pháp vi diệu, nghe pháp để vâng làm. Quan sát các pháp, lường xét các pháp, thích ứng không trái với thân nên thọ chứng. Trí tuệ phân biệt, dùng thiền để quán.

Hoặc có thuyết nêu: Như đã nói: Khế kinh Kiền Na Mục Kiền Liên nói: Oai nghi của thân, oai nghi của miệng, cùng với mạng thanh tịnh nên dần dần mà học. Oai nghi của căn, oai nghi của niệm, dần dần hành khắp bốn thiền, gọi là dần dần mang dấu vết. Lời giáo hóa của Đức Như Lai như thế, như thế là thọ nhận lời chỉ dạy của Đức Như Lai.

Hoặc có thuyết nói: Đầu tiên dẫn đến giới tràng, lại xướng lên rồi xướng lần ba, xướng lần bốn, bốn hành đầy đủ, đó gọi là dần dần hành. Thọ cụ túc như thế, là học giới tăng thượng như thế. Sau đấy là học tâm tăng thượng, học trí tuệ tăng thượng. Như thế là dần dần học giới tâm tuệ. Nếu học thì vào thời này, đầu tiên là bốn đế đoạn trừ kiết hết, nên tạo được dấu vết của đạo. Sau là do tư duy đoạn pháp tương ưng của cõi dục, pháp tương ưng của cõi sắc, pháp tương ưng của cõi vô sắc, dần dần như thế mà nhận biết. Đối với tất cả pháp này, dần dần nhận biết. Như thế là dần dần thọ nhận lời chỉ dạy.

Lại nữa, dùng sắc thân thuyết pháp, Tỳ-kheo tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán Tỳ-kheo Tăng, ý gắng nhẫn, tâm ưa hoan hỷ, thường không xa lìa, không dùng miệng để bày tỏ, tâm tịnh là tịnh, nên thọ quy mạng. Cũng nói đầy đủ giới luật của người xuất gia đầu tiên. Hành vốn đã tạo, lìa bỏ hành sai trái, cũng không đề cập ở đây, cũng không đề cập ở kia. Dần dần giáo hóa khắp như thế, dần dần như thế mà làm, dần dần phụ giúp công việc của chúng. Luật tăng thượng, dấu vết tăng thượng, theo đấy giới giải thoát.

Như thế, dần dần dạy bảo khắp, đối với thời học kia, thuận theo thời học giới tăng thượng, thuận theo thời học tâm tăng thượng, thuận theo thời học trí tuệ tăng thượng. Như thế là ban bố đầy đủ dấu vết theo hành. Vào thời ấy, dần dần thọ nhận lời chỉ dạy của Đức Như Lai, đó gọi là đoạn diệt, đó gọi là thọ chứng, đó gọi là dẫn đến nhập, chủ yếu là thọ nhận sự chỉ dạy như thế.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Đủ mười công đức, Như Lai vì Samôn kiết giới.

Sử dục tăng, sử tụ tăng, khéo trụ không dời đổi, là muốn khiến thêm yên ổn. Người không tin khiến tin. Kẻ đã tin lại khiến tin thêm. Hàng phục người xấu ác, biết hổ thẹn, làm đạo sư ở trong hiện pháp giáo hóa khắp. Đều có giáo hóa chúng sinh chưa sinh khởi khiến dứt hết hữu lậu, trụ nơi phạm hạnh.

Hỏi: Đây có những gì là khác biệt?

Đáp: Nên học giới bản này. Chúng Thanh văn không có Đức Như Lai, nên có hệ thuộc nhưng không hư hoại. Cùng với tương ưng chung, đồng học nói các giới, nên đồng nói được các thứ giải thoát, cùng một loại kia. Đây là nghĩa tụ tập nào? Nên nói có vượt hơn, nên nói là tụ tập tăng thêm. Lúc tạo ra học này, là muốn hàng phục chúng về nghĩa phân biệt, pháp phân biệt, muốn khiến thành tựu khéo trụ vào pháp vi diệu của Sa-môn, nên nói là thâu nhận tăng thêm.

Lúc học giới như thế, là hàng phục chúng về nghĩa phân biệt, pháp phân biệt, muốn khiến thành tựu khéo trụ vào pháp của Samôn, nên nói là muốn khiến trụ thiện tăng thêm.

Lúc học giới như thế, là nhằm hàng phục khiến Sa-môn lần lượt không có dục, lần lượt không có oán đối, lần lượt không cùng xúc não, nên nói là muốn khiến yên ổn tăng thêm.

Lúc học giới như thế, nhằm giáo hóa tự tướng chưa từng được hoan hỷ nay tức được, nên nói là người không tin khiến tin.

Lúc học giới như thế, giáo hóa tự tướng xong, được tín trọng, khiến cho tăng ích, cảnh giới không can hệ nhau, nên nói là người đã tin lại khiến cho tin thêm. Như người không tin đã sinh tin, lại khiến tu hành. Ỏ trong đó, chúng sinh đang đi trên đường tà, được dẫn dắt bảo cho biết đường lớn, đường chánh, không vượt thứ lớp giới, nên nói là hàng phục người ác. Đã hàng phục người ác, ở đây chúng sinh biết hổ thẹn không gặp phải bạn bè xấu ác, không có khổ não.

Người ác có những gì khác biệt? Dùng lời chỉ dạy thứ ba: Thứ ba là tất cả chúng sinh đều tạo ra quán này: Tự tướng của bảy sự việc hoàn tất, nên nói là muốn khiến người biết hổ thẹn yên ổn hàng phục.

Giới như thế là ở trong hiện pháp, đối với hành ác đã tự tu hành, nên nói là ở trong hiện pháp, dùng sự giáo hóa để hàng phục diệt hết hữu lậu.

Giới ấy tức sinh nơi xứ thiện, đóng cửa nẻo ác. Vì giới luật thành tựu, nên nói là chúng sinh chưa sinh, khiến diệt hết hữu lậu cùng hữu lậu. Nên nói là nên tạo ra quán này chăng?

Tạo ra học giới như thế, là giới tăng thượng, tâm tăng thượng, trí tuệ tăng thượng, nhưng không đoạn tuyệt. Vì pháp thâm diệu như thế được trụ lâu, nên nói là phạm hạnh trụ lâu.

Vô số nghiệp đã tạo

Như ba thiện bị ngăn

Không hổ, giới hiện tại

Dặn trao cùng chỉ dạy.

Lại như Đức Thế Tôn nói: A-nan! Nay là lỗi của ông. Ông đã làm việc bất thiện, vì sao ba lần bảo ông mà ông không đáp? Ta khiến cho Đức Như Lai trụ một kiếp. Nếu như nên đáp thì Đức Như Lai là trụ một kiếp chăng?

Hoặc có thuyết cho: Đức Như Lai trụ nơi một kiếp, nhưng Đức Như Lai không có xứ sở.

Hỏi: Nay vì sao tạo ra lời này: Các người tu hành bốn thần túc, ý muốn trụ nơi một kiếp cũng có thể trụ hết số kiếp ấy chăng?

Đáp: Là hiện bày uy lực của thần túc.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn khéo tu hành nhưng không trụ, làm sao hiện bày uy lực của thần túc kia?

Đáp: Thanh văn ở kiếp trụ nên có thể trụ kiếp.

Hỏi: Nếu vì Thanh văn nói thì như thế là không có tướng căn chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Cũng có thể trụ kiếp. Lại nữa, vì người hầu cận có thể trụ lậu, cũng không cầu xin. Nếu như nên thỉnh cầu khiến trụ liền trụ, cho đến khi Tôn giả A-nan được quả A-la-hán.

Hoặc có thuyết nói: Hoặc duyên nơi lời thỉnh cầu trước, hoặc duyên nơi lời thỉnh cầu sau, cầu mong Đức Thế Tôn trụ, nhưng Đức Thế Tôn không tạo ra thuyết này. Nay vì sao lại nói như thế? Trước kia vì sao không nói? Ví như có người đi qua nước khác, người ấy liền khởi suy nghĩ: Không thỉnh khiến trụ. Nếu như thỉnh khiến trụ liền trụ. Cho đến Tôn giả A-nan được quả A-la-hán.

Hoặc có thuyết cho: Hoặc thỉnh trước, hoặc thỉnh sau, nhưng Đức Thế Tôn không trụ, vì sao nay lại nói như thế? Cũng như có người vừa đi đến nước khác, khi trở lại, liền có người bảo: Nếu cầu thỉnh trước, hoặc cầu thỉnh sau nhưng không trụ. Nếu như nên nói vì sao trước kia không bảo không nói?

Hoặc có thuyết nêu: Không trụ. Vì sao không có xứ sở? Hai A duy tam Phật đều cùng xuất thế. Ở trong kiếp này, Đức Thế Tôn DiLặc sẽ xuất hiện ở đời, thế nên không trụ. Từng ấy sự việc này, trước kia đã tán thán nói xong. Lại nữa, nếu như Tôn giả A-nan không nghe Đức Như Lai bảo, vì bị ma bức bách. Đức Thế Tôn nhận biết ma bức bách, vì sao lại bảo A-nan nói? Cho đến hai, ba lần bảo, trong đó có lỗi gì? Đã bị bức bách nên không thể đáp. Người kia liền khởi suy nghĩ: Tuy lúc Đức Thế Tôn bảo thì Tôn giả A-nan chưa bị ma bức bách, ở nơi trung gian ấy ma bèn khởi ý bức bách. Thế nên Tôn giả A-nan không thể ứng đáp. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo nói không có uy lực, có thể về sau, bèn tạo ra lời này: Trước mắt ta, nghe lời nói của Đức Như Lai, nên vâng nhận phụng hành.

Thế nào là mệt chán cùng nhớ lại việc đã làm trước kia? Nếu như có người muốn Đức Thế Tôn an trụ ở đời lâu dài, nên tu tập nuôi giữ hy vọng ấy. Đức Thế Tôn cũng muốn giáo hóa dẫn dắt chúng sinh, như đã nghe Bồ tát Nhất sinh bổ xứ Di Lặc được thọ ký. Cũng nghe là không có hai Đức Như Lai Chánh đẳng Chánh giác cùng xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì nên nói là khiến cho Đức Thế Tôn trụ kiếp. Ở đây đến ba sự việc, nên tạo ra quán ấy.

Hỏi: Vì sao nói mười hai nhập, bốn là thiện bất thiện, vô ký, tám là vô ký?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tám báo của bốn hành là báo không phải là hành.

Hỏi: Ý nhập không phải là hành, là muốn khiến cho ý nhập kia là vô ký chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Bốn báo cùng với tâm tương ưng, cùng với tâm đều cùng khởi.

Hỏi: Nếu như hiện nay tự nhiên thiện bất thiện, tâm kia làm sao có khởi, có phương tiện?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Tâm tự nhiên thiện, bất thiện, pháp đã suy niệm của tâm tương ưng kia và tâm bất tương ưng hành đều cùng khởi hành của thân, miệng.

Hỏi: Tâm kia như trên đã nói: Niết-bàn không có thiện. Lại nữa, sắc nhập là sắc không thể hoại. Thanh nhập là thanh không thể hoại. Sự tụ tập của nhân duyên này là như thế nên có thiện bất thiện đã tương ưng với tác ý, không trụ trong sắc, thanh, riêng không có bạn, thế nên phải quán. Nếu như lúc thức phạm tội, thì lúc ngủ say có thanh tịnh không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Có. Như dùng cỏ trải khắp trên đất, rồi năm vóc gieo sát đất, khởi ăn năn, nên ngủ say. Lại nữa, cầu xin sám hối lỗi của mình, thỉnh nhiều người giải tỏa lỗi, tạo ra ba hành, liền ngủ say, thế nên ngủ không phải thức.

Hỏi: Từng có giữ giới không là phạm hạnh chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Có. Người Ưu-bà-tắc vâng giữ năm giới xem vợ mình là đủ. Và như Ưu-bà-tắc khác, vâng giữ giới của Hiền Thánh nhưng hành dâm với vợ mình là hạnh bất tịnh. Tỳ-kheo trì giới tinh tấn, oai nghi của thân đầy đủ, nhưng có ý dâm không dứt hết, lại cùng tương ưng, nên nói là phi phạm hạnh. Lại như Tỳ-kheo khác, tinh tấn đối với giới của Hiền Thánh, nhưng ý dâm chưa dứt hết, còn cùng tương ưng, nên nói là phi phạm hạnh.

Hỏi: Nếu A-la-hán đã nhập Niết-bàn mà còn được cúng dường, nên nói là A-la-hán kia đã được báo của hành chăng? Nên nói là hiện tại người kia có công đức chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Nên nói là được báo của hành. Nếu trước đó đã tạo phước đức, thì A-la-hán kia liền được cúng dường. Nếu vốn không tạo phước đức, thì người kia nay sinh trong đời hiện tại cầu ăn mặc cũng khó huống chi nói đến việc được cúng dường.

Hỏi: Thế nào là hiện nay thọ nhận báo? Lại nữa, hiện tại đã tạo phương tiện, tất cả đối với công đức ấy đều đầy đủ. Phương tiện được tạo kia cũng như hư không nên không thể thọ nhận báo. Như Đức Thế Tôn nói: Cũng như có người ở nơi cõi này không chịu hỏi rõ về báo của nhân duyên ấy, nên tạo ra hành như thế cùng sự việc như thế. Do vậy, người kia rơi vào nẻo ác tức sinh trong chốn địa ngục. Nếu sinh trở lại trong nhân gian thì không có trí tuệ. Đây là báo của hành nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do ngu si nên người kia không tìm hiểu các sự việc rõ ràng, nên phải đọa vào nẻo ác.

Lại có thuyết cho: Lúc không thỉnh hỏi, ý cho là thanh tịnh, đây là trộm giới nên do khổ đế đoạn. Lại nữa, như người kiến tín này luôn phụng trì giới pháp, nên ở trong đó phát sinh các phương tiện, và là bạn hay không phải là bạn cũng hiện bày đạo lý. Do tin nơi lời thâm diệu của Khế kinh, A-hàm trong pháp sâu xa này, nên không phải ở trong đó nhận có các phương tiện. Như thế, giáo pháp thân chứng nơi ba ngữ vi diệu của A-tỳ-đàm, A-hàm không ở trong đó để tạo phương tiện. Như thế nơi ngữ vi diệu của cấm luật A-hàm đã tin, hướng tới, cũng không ở trong đó tạo phương tiện. Lại nữa, do pháp này nên nghi cho là không có trí tuệ, cho đây là con đường trí tuệ. Nếu như không thỉnh hỏi về việc hướng đến đường ác, thì người kia tức trụ nơi đời đầy chúng sinh này.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Người kia thân hành ác, miệng, ý hành ác, đều cùng dẫn dắt nhanh chóng đi đến đường ác.

Hỏi: Thế nào là hành cùng dẫn dắt nhau nhanh chóng đi đến đường ác?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Thấy có hành ác, cũng thấy ứng hiện điềm lành. Trước lúc mạng chung, liền nói lời này: Thấy ngọn lửa sáng dấy khởi cùng thấy chó sủa. Nếu người làm việc thiện, trước khi mạng chung, tức nói lên lời này: Tôi thấy vườn cây ăn quả, phòng nhà, cung điện báu của cõi trời.

Hoặc có thuyết nói: Có báo của các duyên, có điềm lành này ứng hợp với hành, đó gọi là ác, đó gọi là thiện.

Hoặc có thuyết cho: Quán gần nơi báo dần dần, ôm giữ các hy vọng. Như quán gần không khéo nhận biết rõ về thành hoại, đó gọi là duyên nơi hành vô nghĩa, dẫn dắt nhanh chóng.

Hoặc có thuyết nêu: Chìm mất ở nơi nẻo ác, nếu như tâm cũng bị che lấp, đó gọi là dẫn dắt nhanh chóng. Lại nữa, thế nào là duyên nơi hành quá khứ? Lại nữa, như hành ác ở đây, ý liền ưa vui, ngay vào lúc ấy liền có chứng có nghiệm, cũng thấy các kiết sử tạo nhiều thương tổn tức là hành ác gia tăng.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Ở trong hiện pháp nên có ý ăn năn.

Hỏi: Ý ăn năn của người kia, nên nói là thiện, nên nói là bất thiện hay là vô ký?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nên nói là thiện. Ác tự thấy ác, đối với ý nghĩ của hành ác do người kia đã gây tạo.

Hỏi: Hiện nay không bị đọa trong nẻo ác chăng?

Đáp: Hành thiện của người kia ít, sức bất thiện thì lớn. Người ấy lại nói: Cùng với một ít thiện, tức được sinh nơi xứ thiện. Như đã nói: Được tâm niệm thiện, pháp cùng với đẳng kiến đều cùng có.

Hoặc có thuyết nêu: Nên nói là bất thiện, vì cùng với tà kiến tương ưng. Tuy lại nhớ nghĩ, nhưng sau đấy thì quên mất. Còn ở nơi chốn không nên nhớ nghĩ thì sau đó lại nhớ. Vì thế nên nói là bất thiện.

Lại nữa, vì sao Đức Thế Tôn nói: Thí dụ cùng với không tương ưng là tự không tương ưng? Đây không phải là thí dụ. Tất cả người tạo ra hành ác, tức có ý ăn năn, có thể tự tu xong, thì được sinh lên cõi trời. Đức Thế Tôn cũng nói: Nếu như người kia ăn năn, cũng là tâm thiện, vì sao tâm thiện không có lúc mạng chung là thiện? Nếu ăn năn là bất thiện, vì sao tâm bất thiện lại phần nhiều tương ưng với trí của người kia? Nếu ăn năn là vô ký, thì vì sao tâm vô ký không có lúc mạng chung là thiện? Thế nên đây không phải là lời Phật.

Hỏi: Vì sao giáo pháp vị lai không được thành tựu?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không do giáo pháp vị lai mà có giáo hóa.

Hỏi: Giáo pháp quá khứ cũng không có giáo hóa, là muốn khiến không thành tựu giáo pháp quá khứ chăng?

Đáp: Giáo pháp đã xong là quá khứ.

Vị lai cũng nên có giáo pháp chăng?

Lại nữa, tuy không tạo ra hành nhưng nên có chỗ thu đạt. Như thế không có hành tác mà có quả thật. Đối với người kia nên khởi suy nghĩ: Vì sao hiện nay không tư duy cũng có phước đức? Người kia nên tạo ra quán ấy.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Hữu duyên sinh.

Hỏi: Thế nào là hữu duyên sinh?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Năm ấm trong trung ấm, đó gọi là hữu duyên sinh.

Hoặc có thuyết nêu: Đối tượng sinh ra năm ấm, đó gọi là hữu duyên sinh.

Hoặc có thuyết nói: Đã ở nơi thai mẹ, đó gọi là hữu duyên sinh.

Hoặc có thuyết cho: Đối tượng sinh ra năm ấm là các thứ có được hành duyên để thọ nhận số báo. Tâm này luôn tùy theo việc thọ nhận báo của các sắc. Mạng căn nơi tâm bất tương ưng hành, đó gọi là hữu duyên sinh.

Lại nữa, kẻ sinh nơi nẻo ác, trước hết là được hữu, đó gọi là hữu duyên sinh. Tức có hữu thì có sinh.

Đảnh lễ bậc Tỉnh giác

Hoặc cúng dường La-hán

Không hỏi ma bức bách

Bảo nói duyên không lại.

Hỏi: Vì sao hành đã gây tạo từ xưa gọi là duyên của một kiết? Như hiện nay vô minh là đối tượng tạo ra hành, là duyên của tất cả hành.

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Như hiện nay là tất cả duyên của quá khứ. Quá khứ cũng là duyên của tất cả kiết. Lại nữa, quá khứ nói một cách tóm tắt là hiện tại được nói rộng, nhằm hiện bày giáo pháp thiện của Đức Thế Tôn.

Hỏi: Không như là duyên của tất cả kiết kia chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Vốn do hành đã tạo ra tất cả kiết là duyên. Âm thanh của vô minh quá khứ đã nói là cùng với vô minh tương ưng. Âm thanh được gây tạo trong hiện tại, tương ưng với vô minh, là âm thanh đã tạo ra ở hiện tại.

Như đã nói vô minh gây tạo ra âm thanh tương ưng.

Hỏi: Không do âm thanh của vô minh hiện tại để tạo ra thuyết này: Âm thanh cùng với vô minh tương ưng chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì sinh không có sức của trí, ít đủ, nên dùng thí dụ về chúng sinh để thị hiện. Nếu vô minh, hành đối với sinh này là duyên, do kiết nên sinh các hành, vì vậy dùng thí dụ về chúng sinh hiện tại như hành.

Hỏi: Xoay chuyển hành kia để thí dụ về chúng sinh, nhằm hiện bày hành thiện của họ, thì tất cả kiết của thời quá khứ là duyên? Lại nữa, kiết kiết cùng sinh hành, duyên nơi căn chúng sinh, sinh ra kiết của chúng sinh kia. Kiết là do hành sinh, hành do kiết sinh. Hành lại do hành sinh, đó gọi là vô minh duyên hành sinh, kiết duyên hành sinh?

Đáp: Lại có thuyết nói: Ái duyên nơi hành hữu rồi tạo ra các hành phong phú nên tạo ra quán ấy.

Hỏi: Vì sao người đã lìa cấu uế của cõi sắc nói là đã thành tựu giới vô lậu, nhưng không phải là hữu lậu?

Đáp: Vì người nơi cõi sắc này không bỏ đạo Hiền Thánh, liền thành tựu giới, du hóa ở mỗi mỗi cõi, đã diệt trừ sự việc của thế tục. Du hóa ở mỗi mỗi cõi, không có cõi vô sắc, giới định của cõi vô sắc, thế nên không được gọi là thành tựu.

Hỏi: Vì sao do báo của hành nên sinh nơi cõi trời vô sắc?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì báo của chúng sinh hành tam muội vô tướng, nên sinh nơi cõi trời vô sắc.

Hỏi: Tam muội vô tưởng cũng không phải là tâm, cũng không phải là pháp đã suy niệm của tâm, vì sao nói do báo này nên sinh?

Đáp: Vì tam muội vô tưởng là tâm bất tương hành của thiện hữu lậu nên có báo.

Hỏi: Nếu như tam muội vô tưởng kia có báo, tam muội đó không cùng với hành tương ưng, Đức Thế Tôn cũng nói do hành sinh chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nếu ở nơi tâm trung gian nhập tam muội vô tưởng, do duyên báo của tâm đó, nên sinh nơi cõi trời vô sắc.

Hỏi: Thế nào là nếu ở nơi tâm trung gian, nhập thiền thứ hai, do duyên báo của tâm kia, sinh lên cõi trời Quang Âm chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Tam muội vô tưởng không có tâm. Do báo của tâm tương ưng với tam muội vô tưởng nên sinh trong cõi vô sắc kia, không có tâm tương ưng với tam muội vô tưởng.

Hỏi: Vì sao vô tưởng kia không có tưởng? Đức Thế Tôn cũng nói: Tưởng của vô tưởng kia có biểu hiện, không biểu hiện. Vậy có tâm biểu hiện chăng?

Đáp: Sự việc này không có xứ sở. Lại nữa, tâm kia của tam muội vô tưởng tức có, là không do hành mà sinh tâm ấy, cũng không do phương tiện của hành. Đức Thế Tôn cũng nói: Do báo của hành mà có sinh. Lại nữa, tâm của tam muội vô tưởng tương ưng với tâm đã sinh ra báo là duyên, có thể tạo ra trụ này cũng như sinh ở cõi trời vô tưởng. Như người khéo điều khiển xe luôn hướng tới đích, không nghi. Như duyên của báo, trừ báo vô tưởng kia, tức thọ nhận hữu ấy.

Hỏi: Từng có duyên nơi báo của tam muội diệt tận, sinh nơi trời hữu tưởng vô tưởng chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Có. Có báo hữu lậu của tam muội kia, không phải là trời hữu tưởng vô tưởng, lại nhận lấy duyên sinh là do báo mà sinh.

Hỏi: Tam muội diệt tận cũng không cùng với hành tương ưng, vì sao Đức Thế Tôn cũng nói: Do hành mà sinh?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Tam muội diệt tận có tâm, vì thế báo của tâm tương ưng với tam muội diệt tận, nên sinh nơi trời hữu tưởng vô tưởng.

Hỏi: Không có tâm của tam muội diệt tận tương ưng với thọ. Vì sao vô tưởng kia, Đức Thế Tôn cũng nói: Hữu tưởng, vô tưởng, tâm giác nên có giác, cũng không có xứ sở?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Không sinh. Vì sao? Vì đã vượt qua trời hữu tưởng vô tưởng, do tam muội diệt tận, không do báo của tam muội vi diệu nên sinh nơi chín địa.

Hỏi: Duyên của tam muội diệt tận nơi địa kia là do quả báo mà sinh trong cõi ấy chăng? Như đã nói: Vượt qua trời hữu tưởng vô tưởng, nhập tam muội tưởng nhẫn, tức có địa kia, cũng nói đều vượt qua định của xứ bất dụng, tu định hữu tưởng vô tưởng, địa kia cũng là địa của định bất dụng?

Đáp: Tam muội diệt tận, nhập tam muội này, không do tham dục, nên dục ái chưa diệt hết, nhập tam muội hữu tưởng vô tưởng, không phải không là dục hết, ở xứ bất dụng nhập định hữu tưởng vô tưởng. Lại nữa, như đã nói: Tam muội diệt tận không có tâm, tam muội hữu tưởng kia thì có, tam muội diệt tận không có báo, không có tâm. Lại nữa, báo của tam muội diệt tận nơi trời hữu tưởng vô tưởng đã thọ nhận, tam muội diệt tận kia không phải là duyên của báo.

Lại như Đức Thế Tôn nói:

Người hoan hỷ thí

Điều được hoan hỷ

Từ tâm tốt đẹp

Xứ thí chân chánh.

Hỏi: Thế nào là quán sự hoan hỷ này? Là quán người thọ nhận hay quán người thí?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên quán người thí, nghĩa là theo nhân duyên của vật. Nếu khi thí cho người kia, thì người kia tức thọ nhận báo.

Hỏi: Nếu như người kia thọ nhận thì có phước hoan hỷ chăng?

Đáp: Người kia không phải là xứ chân chánh, cũng nói là từ tâm tốt đẹp nên thí cho là xứ chân chánh.

Hoặc có thuyết cho: Từ tâm của đàn việt, như trưởng giả Úc Già nói: Đây là hai tấm giạ đã dệt của Đức Như Lai, là vật được tôi yêu quý, nguyện xin Đức Thế Tôn nhận cho. Do tâm đại từ mà không thấy nghịch. Ta từ Đức Như Lai nghe, người thí hoan hỷ liền được hoan hỷ.

Lại nữa, nên quán ý của người thí. Lúc trưởng giả kia thí tấm giạ liền khởi suy nghĩ này: Nay ta cắt bỏ ý thí, tạo ra tâm này xong, là thọ nhận báo lớn.

Như Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Nếu hành bố thí đời sau thọ nhận báo thì người kia không thể được thọ nhận báo của hiện đời. Nếu như hành thọ nhận báo của hiện đời, người kia không thể được thọ nhận báo của đời sau. Đức Thế Tôn cũng nói: Hoặc có Ni-kiền-tử, nếu hành thọ nhận báo của hiện đời, thì ông ta không thể được thọ nhận báo của đời sau chăng? Nếu như hành thọ nhận báo của đời sau, thì người ấy không thể được thọ nhận báo ở hiện tại. Như thế là đám Ni-kiền-tử ngu si đều không có quả thật.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Ni-kiền-tử tạo ra kiến này: Hành hết, khổ hết. Hành hết là một ý thức, thì không thể được thọ nhận báo của đời sau. Hành thọ nhận thọ báo của hiện đời, nếu người kia ngu si, thì đều không có quả thật. Ở trong pháp này cấu uế đã hết thì khổ hết. Nếu khi đạo sinh, tức diệt các kiết sử. Nếu không ngu si thì không có quả thật.

Hỏi: Nếu ở trong pháp này, không diệt tận gốc hành, thì không được nhập Niết-bàn, cũng không có sinh lên cõi trời?

Đáp: Như A-la-hán nhanh chóng thọ nhận báo.

Hỏi: Như Khế kinh đã nói tức có sai trái. Hoặc có A-la-hán báo của hành dần dần mỏng, quả không tương ưng liền diệt. Nếu A-la-hán có thể hành báo, thì cũng có thể phát triển các hành rộng lớn chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Cũng như hành của người kia là thật tại. Người kia hành đạo cũng lại thật tại.

Hoặc có thuyết nêu: Các hành thật tại là có tụ tập. Nếu như hành không thật tại, thì có thể khiến tạo tụ tập. Lại nữa, đây không phải là nghĩa của hành báo. Ở trong pháp thâm diệu, không mất pháp thâm diệu. Như chỗ diệu dụng của nghĩa lý ấy, người kia không có nghi gì về nghĩa thâm diệu ấy. Người kia khởi suy nghĩ: Như hiện nay vì sao thân sau thọ báo, nên tạo ra quán này. Như thế A-la-hán không được các hành để thọ nhận báo.

Hỏi: Vì sao cúng tế ngạ quỷ thì được, nhưng nẻo khác thì không được?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Sinh nơi nẻo này là tự như vậy.

Hỏi: Đây là điều nghi của tôi: Vì sao sinh nơi nẻo này là tự như vậy?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Vì ngạ quỷ mang tâm ý ganh ghét nên là điên đảo: sông, không có tưởng về sông, nhưng thấy nước bất tịnh và các thức ăn, nước uống. Nếu cúng tế cho ngạ quỷ thức ăn uống, thì chúng liền sinh tâm ý hoan hỷ, không điên đảo. Nếu ngạ quỷ kia khi được hành tăng thượng, thì chúng nhận được thức ăn.

Hoặc có thuyết nêu: Ngạ quỷ do ý ganh ghét, nên chúng không thể tạo ra cảnh giới tốt đẹp. Nếu ngạ quỷ kia có được người cúng tế phát khởi ý hoan hỷ, thì đối với chúng được tâm tốt, đi đến cảnh giới tốt.

Hoặc có thuyết nói: Ngạ quỷ do ý ganh ghét nên thân thể dài lớn, nhưng tâm thường lười biếng, mệt mỏi. Do tâm lười mỏi, nên không đi đến chỗ ngạ quỷ thần diệu. Nếu vì ngạ quỷ kia mà cúng tế thức ăn, các quỷ kia đối với sự cúng thí ấy khởi tâm hoan hỷ, tức được thân lớn, tâm rộng. Do thân tâm rộng lớn kia, nên được đi đến chốn của các ngạ quỷ lớn. Ngạ quỷ kia cũng quy phục, lễ quỳ. Do thân lớn, nên ngạ quỷ kia được hành tăng thượng, nhận thức ăn ở chỗ cúng tế ấy.

Lại nữa, cùng với người làm phước, người kia không được như cùng với ngạ quỷ thí thức ăn. Nếu là tâm thiện ưa thí cho đối với ngạ quỷ thì ngạ quỷ kia liền thọ hành hoặc được ăn uống. Thế nên không phải là ở nẻo khác.

Hỏi: Các tâm cùng với hành của thân đều cùng khởi, cùng với hành của miệng đều cùng khởi. Nên nói là cùng với tâm cùng đồng chăng? Nên nói là không cùng với tâm cùng đồng chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nên nói là cùng với tâm cùng đồng, cùng với tâm đều cùng khởi.

Hỏi: Thế nào là tâm không cùng với hành đồng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Nên nói là không cùng với tâm cùng đồng. Tâm vốn đã sinh, cùng với hành đều cùng khởi. Nếu không sinh thì không có khởi. Vì thế nên nói là không cùng với tâm cùng đồng.

Hoặc có thuyết nói: Hoặc cùng với tâm cùng đồng, hoặc không cùng với tâm cùng đồng. Những thứ cùng với tâm xoay chuyển thì cùng với tâm cùng đồng. Những gì không cùng với tâm xoay chuyển, thì không cùng với tâm cùng đồng. Lại nữa, duyên nơi hành có tâm kia, có xoay chuyển, cũng đều cùng gồm thâu, trước có xoay chuyển nên có hệ thuộc.

Hỏi: Hành cùng với kiết có gì khác biệt?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Hành là thân, là miệng, là ý. Còn kiết là ý.

Hỏi: Nếu hành là ý thì cùng với kiết kia có gì khác biệt?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Hành là thiện, bất thiện, vô ký. Kiết là bất thiện.

Hỏi: Nếu hành là bất thiện thì cùng với kiết kia có gì khác biệt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Ý hành là ý hành, kiết cũng không là ý, cũng không phải không là ý.

Thế nào là ý không có báo? Lại nữa, tất cả tâm đã suy niệm, nên nói đều là hành. Nhưng Đức Thế Tôn nhìn xem từng ấy thứ hành, dần dần có nghi.

Hỏi: Thế nào là không có trùng liền có ý sát hại?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Như không có trùng liền có tưởng sát hại trùng. Như không có trùng liền có ý sát hại. Nếu là xứ có trùng, người kia không có ý sát hại.

Vì sao trùng kia, hoặc có thường, hoặc vô thường. Nếu như có thường, thì cũng không thể rơi vào tướng không có này. Nếu như có thường, như thế là được đoạn diệt. Lại nữa, năm ấm được tạo đã khởi tư tưởng về trùng nên nói: Ta suốt đời không sát hại. Nếu vượt khỏi ý kia thì hành đều ly tán nơi một xứ. Thế nên người kia liền có tưởng hại. Nếu đối với trùng kia liền có ý sát hại.

Vì sao do trùng kia, nên nhân duyên hội họp tức có sai trái? Nếu như không sai trái tức không thể có đối tượng khởi. Nếu có sai trái tức có đối tượng khởi.

Thế nào là không có đối tượng khởi tức có đối tượng khởi? Nếu có sai trái, thì không được không có sai trái, không được không có sức để có thể khởi. Nếu có được đối tượng khởi, vì sao khởi không có sai trái, hoặc không thể khởi?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Có bốn sự việc không thể nghĩ bàn: Thế gian không thể nghĩ bàn. Hành, báo của chúng sinh không thể nghĩ bàn. Cảnh giới Phật không thể nghĩ bàn.

Hỏi: Vì sao những thứ này nói là không thể nghĩ bàn?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Vì sức của phương tiện ít, không đủ để nghĩ bàn.

Hoặc có thuyết nói: Không có phương tiện khác để tạo nên hiểu biết như thế, như Đức Phật Thế Tôn.

Hoặc có thuyết cho: Không thể nghĩ bàn vì nghĩa thâm diệu, khó cứu xét, thế nên không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, tạo ra sự nghĩ bàn về ngã, trở thành điên cuồng. Tâm ngu si tư duy cũng lẫn lộn. Hành báo của chúng sinh và cảnh giới Phật không phải là đối tượng hiểu rõ của tâm mình nên cũng không thể quán.

Vô minh, cõi vô sắc

Cùng người không cấu nhiễm

Vô tưởng và diệt tận

Xá-lợi-phất, ngạ quỷ

Vô số tướng các căn

Chúng sinh khó nghĩ bàn.

Tam muội của các nhập bất thiện, các nhập kia đều phạm hai tội chăng? Hoặc có thuyết nêu: Các phạm là bất thiện thì đều phạm hai tội. Lúc phạm tội kia đã trở thành năm nghịch.

Hỏi: Thế nào là lúc phạm năm nghịch, không phạm hai tội? Lại nữa, chỉ phạm một tội, vì sao như Đức Thế Tôn nói có năm tội? Nếu khi phạm tội bất thiện mà khởi hai tội, thì tạo ra thuyết rộng này để tư duy nêu bày. Một thời, người kia không có tội, thế nên phạm một tội. Nếu Chuyển luân Thánh vương có người nữ báu được sắc, thanh, hương, vị, nên nói là do báo của hành mà được hay nên nói không do báo của hành tăng thượng mà được?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói là do báo của hành mà được.

Hỏi: Thế nào là báo của hành khác là thọ nhận báo?

Đáp: Người nữ báu do báo của hành nên có được người nữ báu ấy. Nếu người nữ báu ấy được thì Chuyển luân Thánh vương kia được là báo. Lại nữa, do hành tăng thượng nên được. Nếu do báo của hành nên được, thì không tạo hành mà thọ nhận báo, người nữ báu kia tức có hư hoại. Chuyển luân Thánh vương không do hành khác để thọ nhận báo.

Hỏi: Tăng đấu loạn, nếu tăng đấu loạn, nên nói là một kiếp nhập địa ngục hay nên nói là trung kiếp thọ tội ở địa ngục?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nên nói là một kiếp thọ tội ở địa ngục. Đức Thế Tôn cũng nói: Tăng đấu loạn là trải qua một kiếp.

Hỏi: Đã quá nửa kiếp, vì sao nay thọ nhận tội một kiếp?

Đáp: Từ cõi nước của phương khác đến địa ngục kia, như người phạm trọng tội, thường dời đường vào ngục sâu, sau đấy thoát khỏi tội lỗi kia. Nếu lại thọ nhận kiếp tội, thì thọ tội một kiếp trong địa ngục.

Hỏi: Người thọ tội trong địa ngục không có lý này, tức đến thọ tội nơi địa ngục của phương khác, mạng chưa hết liền chết chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Trong hai mươi kiếp cùng bốn kiếp là đại kiếp của kiếp. Thọ tội hai mươi trung kiếp, đó gọi là thọ tội một kiếp. Nếu khi kiếp bị đốt cháy tiêu tan, liền sinh hai mươi trung kiếp, vì sao sự việc kia chỉ trải qua từng ấy thời gian? Lại nữa, nếu trung kiếp thọ tội của địa ngục, thì không có chúng sinh ở cõi dục thọ mạng là một kiếp.

Hỏi: Các Tăng đấu loạn (Phá hoại hòa hợp Tăng), tất cả Tăng ấy đều trụ một kiếp để thọ tội chăng? Nếu như trụ một kiếp thọ tội thì tất cả đấy là Tăng đấu loạn chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Các Tăng đấu loạn thì tất cả Tăng ấy thọ tội một kiếp. Người phá hoại Tăng là tội rất nặng.

Hoặc có thuyết nêu: Tăng đấu loạn không phải trụ một kiếp để thọ tội. Nếu có ý phá hoại, tạo loạn tranh chấp với Tăng, thì thọ tội năm nghịch. Lại nữa, hoặc trụ một kiếp thọ tội, người kia không phải là Tăng đấu loạn, biểu hiện báo ở địa ngục kia. Hoặc Tăng đấu loạn cùng một kiếp thọ tội chăng? Nếu dùng phi pháp để phá hoại, ý tạo đấu loạn để hủy hoại Tăng thì hoặc không là Tăng đấu loạn, cũng không một kiếp thọ tội chăng? Là trừ từng ấy sự việc trên.

Hỏi: Tăng đấu loạn nên nói là tánh thọ tội hay nên nói là phi tánh thọ tội?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói là tánh thọ tội. Vì sao? Vì Tăng đấu loạn là tội rất nặng. Nếu Tăng này không thọ tội, thì vì sao hiện nay tánh thọ tội?

Hỏi: Các Tăng đấu loạn, tất cả Tăng ấy đều thọ tội không cứu chữa chăng?

Đáp: Như người sát sinh thọ tánh tội, các người không sát hại thọ tội, tội hại như thế. Tăng đấu loạn tánh tự thọ tội. Các Tăng không đấu loạn tất cả Tăng ấy không thọ tội không cứu chữa. Lại nữa, nên nói là phi tánh thọ tội. Vì sao? Vì Vì Tăng đã tạo thành tội đấu loạn, nhưng không phải là tội không cứu chữa. Các Tăng hành ác tranh chấp, nên nói là tánh thọ tội.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Hành của ý rất là nặng, như Khế kinh Pháp Tuệ nói: Một hành tội rất nặng là Tăng đấu loạn, không phải hành của ý là Tăng đấu loạn.

Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Tất cả hành là tội rất nặng, trừ tội năm nghịch kia cùng hành khác, hành của ý là tội rất nặng.

Hoặc có thuyết nêu: Hành của ý miệng tư duy. Hành của ý phát khởi rồi là hành của miệng, nên hành của ý là đệ nhất, là hơn hết. Hành của ý vì thế có tội rất nặng. Tư duy về hành Tăng đấu loạn là tội rất nặng. Lại nữa, không phải ở nơi trung gian hành của ý có Tăng đấu loạn. Chẳng phải chỉ tư duy mà thành Tăng đấu loạn. Các hành xấu ác là Tăng đấu loạn, nên nói hành kia là tội rất nặng.

Hỏi: Vì sao chẳng phải năm người thì không thể là Tăng đấu loạn?

Đáp: Tất nên có hai bộ Tăng để truyền dạy. Như Điều-đạt tranh chấp với chúng Thanh văn của Đức Thế Tôn. Ông ta phá hoại phàm phu tăng, không thể phá hoại người Hiền Thánh.

Hỏi: Hiện nay không thọ tội năm nghịch chăng?

Đáp: Tạo ra tưởng Tăng để phá hoại chúng phàm phu thì thọ tội năm nghịch. Như cha khởi tạo tưởng cha để sát hại mạng mình, thì thọ tội năm nghịch.

Hỏi: Nếu hiện nay Đức Thế Tôn nói Tăng đấu loạn thì thọ tội một kiếp chăng?

Đáp: Đây là lời răn dạy của Đức Thế Tôn. Điều-đạt tạo ra tưởng này: Ta phá hoại Tăng.

Hoặc có thuyết cho: Chúng Tỳ-kheo nói là Tỳ-kheo Tăng. Đối với người phàm phu kia, dạy bảo khiến tranh chấp, tạo loạn. Hoặc lại như người Hiền Thánh ở bên cạnh Đức Thế Tôn nên không thể phá hoại, gây rối loạn.

Hoặc có thuyết nêu: Có mười bốn điều trong các sự việc tranh chấp, gây rối loạn. Người không cấu uế thì không thể hư hoại. Những kẻ kia cũng không thể phá hoại Đức Thế Tôn. Vì vậy Đức Thế Tôn không thể bị hủy hoại. Lại nữa, trong chúng Thanh văn của Đức Thế Tôn không có người cấu uế. Người phàm phu bên ngoài chỉ phá hoại được những kẻ phàm phu ở bên ngoài. Người ở trong chúng không có cấu uế nên không thể phá hoại, tức là chúng Tăng của Đức Thế Tôn không ai có thể phá hoại.

Hỏi: Vì sao đã ghi nhận về kiết nhưng nói là không có báo?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì là vô ký tức không có báo.

Hoặc có thuyết cho: Kiết kia không ở nơi thân thể có nhiều tăng trưởng.

Hoặc có thuyết nêu: Không tạo ra hành của thân, miệng, ý.

Lại có thuyết nói: Pháp đã suy niệm của tâm vô ký, tự nương dựa vào hữu là khổ não, thâu giữ các pháp nên có báo. Lại nữa, pháp không có báo của vô ký cũng là có báo. Như đã nói: Ta nay không hành, cho đến không nhận biết là hướng đến nơi chốn nào nhưng đã thấy ánh sáng.

Thế nào là báo? Lại nữa, các pháp thiện, bất thiện, hoặc có nhân, hoặc có duyên, có các quả thật. Đối với người kia, tạo ra tưởng báo. Pháp vô ký, hoặc có nhân, hoặc có duyên, có các quả thật. Thế nên pháp vô ký có báo.

Tánh của Tu-đà-hoàn có tội tỳ vết, nên nói tánh không có tỳ vết cấu uế.

Hoặc có thuyết cho: Không có tội tỳ vết. Tội tỳ vết là hiện bày các bệnh cấu uế.

Hoặc có thuyết nêu: Không có tội tỳ vết, dựa vào thiện, không tĩnh lặng.

Lại nữa, nên nói có tưởng tỳ vết cấu uế, vì tâm tà kiến chưa diệt.

Phạm tội ưa tranh chấp

Trụ kiếp và tánh tội Không diệt năm chúng hoại Hạnh tịnh, tánh vô ký.

Hỏi: Người uống rượu nên nói là tánh tội hay nên nói không phải là tánh tội?

Đáp: Nên nói không phải là tánh tội. Vì sao? Vì nếu người uống rượu, thì rượu thấm, có biểu hiện khác do đã vào bụng. Nếu dùng chú thuật đối với thuật ăn uống, nên khởi quán này: Đó là phi phạm hạnh.

Hỏi: Nên nói là tánh tội hay nên nói không phải là tánh tội?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nên nói là thọ tánh tội, vì không ở nơi trung gian cấu uế của kiết để có phạm hạnh kia. Lại nữa, nên nói là phi phạm hạnh, vì tâm là tội của mình nên quán tánh nhiễm ô. Lại do kiết phát khởi nên nói là có tội.

Hỏi: Tánh tội, nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Tánh nhiễm ô, đó gọi là tánh tội.

Lại có thuyết nói: Tánh bất thiện, đó gọi là tánh tội.

Lại nữa, tánh có tỳ vết cấu uế, đó gọi là tánh tội.

Hỏi: Không phải là tánh tội, nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Không nhiễm ô đó gọi là không phải là tánh tội.

Lại có thuyết nói: Tánh thường bất thiện, đó gọi là không phải là tánh tội.

Lại nữa, không phải tánh có tỳ vết, đó gọi là không phải là tánh tội.

Hỏi: Từng có Tỳ-kheo trong bốn sự đều không có phạm, cũng không bỏ giới để đến với bạch y, nên nói không phải là Tỳ-kheo chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Có. Người căn biến đổi, khi căn đã biến đổi nên nói không phải là Tỳ-kheo.

Hoặc có thuyết nêu: Quả của nhân duyên thật là tà kiến đã hiện ở trước. Nếu hiện bày khắp nơi bảo cho người biết, đó gọi là nên nói không phải là Tỳ-kheo.

Hoặc có thuyết nói: Nếu tự nuôi lớn thì Tỳ-kheo này không phải là Tỳ-kheo. Nếu Tỳ-kheo kia siêng tu giới hạnh, trong ấy có dời chuyển, làm sao nên xả giới mà siêu việt giới luật? Lại nữa, có đối tượng hy vọng. Hy vọng là lưu chuyển nơi sinh tử, nên nói là thoái chuyển đối với pháp Tỳ-kheo, nếu không có lời chỉ dạy.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Nếu Tỳ-kheo ở nơi Tỳ-kheo kia thọ nhận y phục, nhập tam muội vô lượng tâm, rồi tư duy thì quả báo kia là vô lượng. Thí chủ, đàn việt được phước tăng ích, thiện tăng ích, khéo ăn uống, không bệnh. Đó gọi là tự tạo.

Hỏi: Phần khác không thọ nhận chăng?

Đáp: Không phải tự tạo, phần khác cũng thọ báo. Lại nữa, thí chủ đàn việt đã thọ nhận phước đức.

Hỏi: Thế nào là không thành tựu mà thọ nhận phước kia?

Đáp: Do nghiệp làm ruộng đã công phu dày dặn, đối với hạt lúa giống kia, nếu người gieo trồng luôn nhớ đến đám ruộng tốt không tốt, tất thu hoạch được lúa tốt.

Hỏi: Điều này cũng không tương ưng. Vì sao lại ở nơi hạt giống của ruộng, không ở nơi tam muội, khiến đàn việt có đức? Lại nữa, có người thọ nhận tín thí ấy, thí chủ, đàn việt được xứ sở, nên có phước đức tăng trưởng, do vậy không thể hư hoại, không có Thể của giận dữ, nên giận dữ kia có chấm dứt và được tâm ý căn hoan hỷ. Người thọ nhận vật thí, không thể nhận giữ việc thí, thì người bố thí tự thọ hưởng phước.

Lại có thuyết cho: Dùng pháp thí này thì nơi xứ xứ kia ai là người được?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không có người được. Đó gọi là không cùng nhận lấy. Lại nữa, nhận lấy lời nói của thí chủ: Người này do đâu hành thí? Nếu dựa vào Tỳ-kheo, thì người kia tức có nơi chốn trở lại. Nếu ở nơi đạo quả, thì đạo quả nhận lấy sự chỉ dạy kia, không có nơi chốn trở lại.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Hành của chúng sinh ma nạp, do phát khởi, do hành đã gây tạo, do nhân duyên của hành, do hành thí vì chúng sinh, do hành thành tựu, hoặc tốt hoặc xấu.

Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Tự mình đã gây tạo hành thì thọ nhận quả báo của hành đó. Nhiều người không bền chắc, như hành đã tạo, nên thọ nhận báo ấy, đó gọi là nhân duyên của hành thọ nhận sinh báo của hành ấy. Nếu hành ở nơi xứ xứ sinh, thì tại nơi mỗi mỗi xứ thọ nhận báo kia. Đó gọi là thai sinh của hành. Nếu bỏ hành kia, thì có từng ấy tưởng. Nếu bỏ hành kia, thì chúng sinh này như trên đã nói. Chúng sinh có trên, dưới, thế nên chúng sinh của hành có đối tượng diễn nói. Nếu hành kia có tốt có xấu, thì có hành nào? Nếu chúng sinh của kiếp xa xưa thì ăn uống tự nhiên, thân có thể bay đi.

Hoặc có thuyết cho: Ái nơi cõi dục đã hết, các căn thiện của cõi dục hưng thịnh, đều do quả báo của căn thiện nơi cõi ấy.

Hỏi: Hiện nay cũng không có đối tượng hiện bày chăng? Hoặc ở trong căn thiện đã được gieo trồng nơi kia, quả báo tự nhiên có, thân có thể bay đi?

Đáp: Các hành đầy đủ, quả của hành kia không được sinh thật. Lại nữa, do nhân duyên của sinh, nhân duyên của hành báo ấy nên có đối như thế. Do tự tại thí nên đã gây tạo được tức thân người kia có thể bay đi. Do phương tiện đức của thí chủ, nên thí chủ ấy tức có sắc diện sáng tỏ được nhiều người tôn trọng. Người hành phạm hạnh, khi đau bệnh, gặp phải tai ách khốn khổ, nếu có thể dùng ngựa, xe để bố thí, thân của thí chủ kia có thể bay đi.

Uống rượu, kẻ phạm tà

Tánh phạm tội rất nặng

Tỳ-kheo bay đi khắp

Người tự tạo hành sau.

Kiền độ Hành thứ chín xong.

 

Phẩm thứ 10: KIỀN ĐỘ TRÍ

Lại như Đức Thế Tôn nói: Người kia đối với bất tịnh tu niệm giác ý.

Hỏi: Thế nào là đối với bất tịnh tu niệm giác ý?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trừ nơi ý tạo ra tưởng bất tịnh, so xét trong thân mà tu niệm giác ý. Như thế là đối với bất tịnh tu niệm giác ý.

Hoặc có thuyết cho: Giác ý phân biệt bất tịnh. Trừ trung gian của giác ý nhập bất tam muội. Trừ trung gian của bất tam muội tu niệm giác ý. Lại nữa, mỗi tướng đều tự có nghĩa, nên tạo ra quán này. Nhưng niệm giác ý không tương ưng với bất tịnh.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo các ông nên tu xả. Tỳ-kheo nếu tu xả rồi thì dứt trừ hết ái của cõi dục, hết ái của cõi sắc, hết ái của cõi vô sắc, tức ở đây diệt hết kiêu mạn, dứt hết vô minh.

Hỏi: Thế nào là tu hộ (Xả)?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Là các giác ý bốn thiền, bốn đẳng.

Hoặc có thuyết nêu: Tu bốn thiền vô lậu.

Hoặc có thuyết nói: Hộ (Xả) giác ý không quên mất. Lại nữa, vì tu đạo được các quả thật, nên ở đây nói các pháp đã sinh liền diệt, thường được xả bỏ. Đối với ái của cõi dục dứt hết, nên cùng vượt thứ lớp để thủ chứng.

Hỏi: Thế nào là tu đoạn kiết tương ưng của cõi dục do tư duy d1 nên tu hành đạo?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Kiết kia không hết, liền tu hành đạo. Kiết kia do gốc đã dứt hết rồi, là đạo thế tục.

Hỏi: Kiết do bốn đế đoạn trừ đã hết, đạo thế tục là muốn khiến kiết kia hết nhưng không tu đạo chăng? Tu đạo pháp nhẫn nên do tư duy đoạn trừ hết để tu hành đạo chăng?

Đáp: Kiết kia không phải do bốn đế đoạn mà do tu pháp nhẫn đoạn trừ. Vì đế của Hiền Thánh đã khởi đạo này.

Hỏi: Nếu bốn đế đã đoạn trừ kiết hết, người không tu hành đạo thì kiết sử kia không do đạo thế tục dứt trừ vĩnh viễn, thế nên người kiến đế không hoàn toàn diệt hết kiết chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Bốn đế kia diệt trừ kiết vị lai.

Hỏi: Ái của cõi dục đã hết, cùng vượt thứ lớp để thủ chứng, là do vị lai tu hay do tư duy đoạn?

Đáp: Ái kia không thể do đạo tư duy đoạn trừ. Nếu như cho là có thể, bấy giờ thế gian là đạo tư duy, nếu biết tạo khế hợp với sức mạnh của đạo ấy.

Hoặc có thuyết cho: Trung gian của trí vị tri đã khởi đạo tư duy.

Hỏi: Đạo tư duy kia không thật sự có A-na-hàm, Tu-đà-hoàn đắc thiền chăng?

Đáp: Tiến tới trước, nhận lấy A-na-hàm, thế nên tu hành đạo đế, liền chứng được A-na-hàm. Nhưng Tu-đà-hoàn không đắc thiền.

Lại nữa, hai thứ kiết đã hết, tư duy về hai sự việc kia, tu hành theo hai sự việc ấy thì có hai trí tu hành. Đối với ái kia đã hết, cùng vượt thứ lớp để thủ chứng, sự việc vô lượng thảy đều đầy đủ. Tịnh tu tâm mình, tạo ra đạo hạnh như thế, vì kiết của ba cõi do bốn đế đoạn.

Tương ưng nơi cõi dục, dùng tư duy đoạn, tu hành Thánh đế, trụ nơi xứ A-na-hàm. Vào thời ấy cũng tạo ra quán này.

Hỏi: Kiết sử tương ưng của cõi dục, lúc dùng tư duy đoạn là tu hành đạo, phần nhiều được căn thiện của vị lai, nên nói là diệt các kiết sử chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói là đoạn trừ hết.

Hỏi: Thế nào là do đạo vị lai diệt?

Đáp: Đạo vị lai tức có uy lực, hiện tại không diệt. Các người có uy lực, sinh nơi cõi kia, tức có thể diệt trừ. Như thế đạo vị lai có uy lực, người sinh nơi cõi kia tức có thể diệt trừ. Lại nữa, nên nói là hiện tại kia không thể diệt, do trí vị tri đã nhận lãnh. Nên nói là dùng tư duy để đoạn, do số của thế tục. Số của thế tục ấy không phải là đối tượng hành tập xuất yếu của thân.

Hỏi: Vì sao năm thạnh ấm không nói là tưởng ý chỉ?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Pháp ý chỉ gồm thâu, nên nói là tưởng thân ý chỉ, thuộc về sắc ấm. Thọ ý chỉ là thuộc về thọ ấm. Pháp ý chỉ là thuộc về tưởng ấm. Hành ấm đây là vô vi. Lại nữa, thuộc về tâm ý chỉ nên nói là tưởng, thân thân cùng quán, thọ thọ cùng quán. Đối với thọ, tư duy về tất cả xứ của tâm đã tạo tác như thế.

Quán pháp ý chỉ: Là nghĩa của hợp số. Đối với ấm cấu uế, chấp trước nhiễm ô, nên tạo ra quán này.

Hỏi: Tu-đà-hoàn trụ nơi tâm quả thật, ở trong ba cõi nên nói là đã thành tựu đẳng trí, nên nói là không thành tựu đẳng trí?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói là thành tựu đẳng trí. Vì sao? Vì căn thiện là do hai sự diệt quả không tương ưng, diệt các thứ buộc chấp. Đối với đẳng trí kia, nếu lìa bỏ cõi chứng, nhưng Tu-đà-hoàn không thoái chuyển mà vượt qua cõi kia, vì thế nên nói là thành tựu. Lại nữa, do lúc nhận biết ba cõi được đẳng trí xả bỏ. Lại nữa, do không đối với không, vô nguyện đối với vô nguyện, vô tướng đối với vô tướng, nên nói là thành tựu, Tu-đà-hoàn kia không xả bỏ ý.

Lại như Đức Thế Tôn nói:

Pháp, vườn gác, ao tắm

Dị học Bà-la-môn

Nhàn tĩnh, không cấu đục

Cùng với các chân nhân

Ta gội, Thần thi tụng

Không ngâm thể diệt ác.

Hỏi: Đức Phật nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Bờ bến của Sa-môn Hiền Thánh, pháp ở trong nghĩa này là vườn gác, ao tắm. Sa-môn kia không điên đảo, vì kiết đã dứt hết. Cành lá của tâm là các thứ cấu uế đã vĩnh viễn dứt hết, đó gọi là pháp. Không thận trọng theo giới, đó gọi là giới. Phạm chí chưa vượt qua căn bất thiện để quán xét bất thiện kia, đó gọi là nhàn tĩnh. Không uế, không đục, đối trước Đức Phật, các Thanh văn phát tâm hoan hỷ, đó gọi là đều cùng với các chân nhân, thành tựu đẳng trí, phân biệt đẳng trí. Nhận biết rõ về nghĩa thâm diệu để nhập vào trong ấy, đó gọi là tắm gội tâm thần không có cấu uế, cũng không tạo ra tưởng này.

Hoặc có thuyết cho: Diệt hết gốc nơi tâm ác, không tạo ra tưởng ấy, đó gọi là không ngâm thân cấu uế, diệt ác.

Hỏi: Vì sao không duyên nơi hữu lậu? Vô nguyện cũng duyên nơi hữu lậu, cũng duyên nơi vô lậu?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không duyên nơi khổ đế là duyên nơi hữu lậu. Vô nguyện cũng duyên nơi khổ đế, cũng duyên nơi tập đế, cũng duyên nơi đạo đế, thế nên vô nguyện cũng duyên nơi hữu lậu, cũng duyên nơi vô lậu.

Lại nữa, đều tự nương dựa, cũng không tự giác, cũng không được pháp vô lậu, vì thế không duyên nơi hữu lậu, hiện có chỗ là lỗi, có thể nhận biết để trừ bỏ. Bấy giờ, không còn có nguyện tưởng của nghiệp làm ruộng nữa, như đàn nai kinh sợ tuy bốn phía không có chướng ngại. Ở đây vô nguyện cũng duyên nơi hữu lậu, cũng duyên nơi vô lậu.

Hỏi: Trí vô ngã vượt trên thế tục có gì khác biệt?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Thế tục là hạ, tăng thượng là trên thế tục.

Hoặc có thuyết nêu: Tất cả trí vô ngã, đó gọi là vượt trên thế tục. Tất cả thuận theo, vượt trên thế tục. Lại nữa, các sự phân biệt hiểu rõ, đó gọi là thế tục. Các sự không hiểu rõ, đó gọi là vượt thân thế tục. Lại nữa, trí vô ngã của thế tục tạo ra thức, quán riêng lẻ về phương tiện, không phải phương tiện, có sự việc như vậy. Tạo ra tư duy này, nơi tự tướng kia, người ấy không có phương tiện thiện xảo, vô ngã tự độ, là thấy rõ vượt trên thế tục.

Hỏi: Vì sao trí vị tri không duyên nơi cõi dục?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Pháp trí đã tạo ra duyên.

Hỏi: Nhẫn đã tạo duyên, pháp trí không tạo duyên chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Hiện có pháp trí tư duy cao xa, trí vị tri hiện có ở cõi dục, thế nên không tạo duyên.

Trong cõi dục, hoặc có hiện, hoặc không có hiện. Cõi sắc, cõi vô sắc hoặc có hiện bày ái của cõi dục. Lại nữa, ái này không tương ưng. Đức Thế Tôn cũng nói: Pháp trí kia do pháp này nên thấy biết quá khứ, vị lai của mình. Sắp đi qua, đó gọi là đi qua, đó gọi là nên nói là trí vị tri. Thế nên có trí vị tri duyên nơi cõi dục

Giác ý diễn bày rộng

Căn cõi dục thượng ấm

Pháp không Tu-đà-hoàn

Từng ấy cõi khác biệt.

Hỏi: Vì sao sinh sau cuối, trí thế tục liền quên mất, nhưng không phải vượt trên thế tục?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Trí thế tục phong phú, đầy đủ, do trí cùng hỗ trợ. Trí thế tục thượng cũng đầy đủ, dồi dào, do trí cùng phụ giúp, nhưng không phải do tu hành.

Hoặc có thuyết nói: Cấu uế lớn mạnh không phải là trí thế tục. Do cấu nhiễm trói buộc sau đấy, sức thế tục lớn rộng không phải là kiết, cũng không bị kiết trói buộc. Lại nữa, tưởng của trí thế tục tạo ra các tưởng hiện có như đã nói. Trí vượt trên thế tục tạo ra vô tưởng cùng tương ưng với nghĩa như thật. Nhân nơi đối tượng duyên của xứ tăng trưởng nên đạt được nghĩa sáng rõ ấy, nhờ nương dựa vào nghĩa ấy mà có được công đức không thể hủy hoại.

Hỏi: Vì sao A-la-hán được gọi là không thành tựu pháp học?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Vì A-la-hán này đã bỏ pháp học, an trú ở hành quả vô học.

Hoặc có thuyết nêu: Được pháp vô học thì không thành tựu pháp học, tức là nghĩa ấy.

Hoặc có thuyết nói: Nếu đã thành tựu pháp học, tức là học kia. Nếu thành tựu pháp vô học, thì chính là pháp vô học. Lại nữa, căn đã đạt đến bờ kia, tức có quả của duyên. Vì quả Ba-la-mật là duyên của Ba-la-mật nhập nơi bờ bên kia. Ở đấy, A-la-hán nên nói là không thành tựu pháp học. A-la-hán kia tức có pháp học này nhưng không như ý, tức cũng không phải học, cũng không phải không học, nên nói không thành tựu pháp học. Nên tạo ra quán: Pháp học, pháp vô học của thế tục có hạn lượng.

Hỏi: Vì sao bốn biện tài, hai thứ là hữu lậu, hai thứ ở nơi ba cõi là vô lậu?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Danh thân, cú thân có hệ thuộc, không ở trong cõi sắc này, có đối tượng diễn nói rộng, do trí vô lậu hiện có, thế nên hai thứ là hữu lậu. Lại có tam muội của trí không xoay chuyển thuộc đệ nhất nghĩa của cõi vô sắc, tức trí không xoay chuyển nhập nơi tam muội kia. Nếu trí vô lậu xoay chuyển, thì nơi ba cõi này thảy đều vô lậu. Lại nữa, cõi vô sắc không có biện tài, nhưng biện tài không phải là hữu lậu, cũng không sinh hữu lậu từ trung gian hữu lậu.

Hỏi: Vì sao sáu thông, ba thứ là có minh, ba thứ không có minh?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Một là đệ nhất nghĩa minh, tận hữu lậu. Hai tức chiêu tập đạt được thanh minh.

Hoặc có thuyết nói: Trí minh nơi báo nhân quả của A-la-hán, tự nhận biết về thọ mạng đời trước của mình, biết rõ ta từ nơi xứ nào mạng chung. Duyên nơi nhân duyên này mà sinh vào cõi ấy. Báo nhân quả: Là không thấy biết vi diệu. Ta ở nơi xứ kia mạng chung. Do nhân duyên này, nên sinh trong cõi ấy. Trí theo nhân quả để nhận biết. Tận hữu lậu trí: Là ta do đạo này nên dứt hết hữu lậu, là trí của các báo nhân quả. Lại nữa, thông thứ tư là tự nhận biết mình từ đâu đến. Thông thứ năm là nhận biết về trí mới sinh. Thông thứ sáu cùng tương ưng chung, đó gọi là trí tận hữu lậu. Nếu là trí tương ưng thì đệ nhất nghĩa minh kia là thông thứ nhất, nhận biết các kỹ thuật. Thông thứ hai là thâu giữ các âm thanh. Thông thứ ba là quán tự tướng. Như ba môn giải thoát này: không, vô nguyện, vô tướng.

Hỏi: Vì sao môn giải thoát cùng vượt thứ lớp để thủ chứng?

Đáp: Không, vô nguyện sinh là có thể vượt qua xứ đã sinh, nên nói là cùng vượt thứ lớp để thủ chứng, như được trí phân biệt.

Hỏi: Vì sao trí vị tri không cùng đồng duyên nơi cõi sắc, vô sắc?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Cùng một thời diễn giải rộng về kiết do kiến đế đoạn.

Hỏi: Đây cũng là điều tôi nghi: Vì sao hai cõi là do kiến đế đoạn, một thì diễn giải rộng, nhưng không phải là cõi? Vậy hai cõi có gì khác biệt? Một do kiến đế đoạn không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Vô thường, khổ, không, vô ngã.

Hỏi: Ba cõi tụ tập đó gọi là vô thường chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không hiện bày trí vị tri, trí kia có thể lường xét về sự việc hiện ở trước.

Hỏi: Cõi dục ít có hiện sắc, cõi vô sắc không hiện, thế nên hiện bày không phải là nghĩa. Lại nữa, đó gọi là ba cõi cùng vượt thứ lớp để thủ chứng, nên nói là trí vị tri. Đây là đạo kia cùng vượt thứ lớp để thủ chứng. Vậy nhẫn với trí có gì khác biệt?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nhẫn có thể nhẫn chịu nơi sự việc. Trí có thể nhận biết các vật.

Hỏi: Người không trí có thể nhẫn chăng? Lúc nhẫn thì có trí chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Nhẫn là dưới. Trí là trên.

Hoặc có thuyết nói: Tận cùng nơi đạo là nhẫn. Quả của đạo là trí.

Lại có thuyết cho: Đạo đoạn là nhẫn. Đạo giải thoát là trí.

Lại có thuyết nêu: Đạo đoạn là nhẫn. Không có đối tượng gây trở ngại là trí. Lại nữa, như người đi đường, không thể tiến lên phía trước, liền tự khuyến khích cố gắng đi đến nơi chốn yên ổn. Như thế cùng vượt thứ lớp để thủ chứng. Trước được mắt trí tuệ dẫn đường là nhẫn. Vượt qua đến bờ bên kia là trí. Nhẫn là dưới.

Các pháp học không quên

Phân biệt môn giác ý

Đến sinh cùng phân biệt

Pháp nhẫn là mười kinh.

Hỏi: Do những gì nên dùng nhẫn đoạn trừ kiết không dùng trí?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đạo đã sinh liền đoạn. Thế nên nhẫn đoạn trừ kiết. Nhẫn đã có thể xả bỏ thì trí ấy không thể đoạn, nên nhẫn đều dứt trừ kiết.

Hoặc có thuyết cho: Tận cùng nơi đạo là nhẫn. Quả của đạo là trí. Nhưng không phải do quả của đạo đoạn trừ kiết. Vì vậy không dùng trí để đoạn.

Hoặc có thuyết nêu: Tận cùng nơi đạo là nhẫn. Đạo giải thoát là trí. Không phải do đạo giải thoát đoạn trừ kiết. Thế nên trí không đoạn trừ kiết.

Lại nữa, kiết do kiến địa, kiến đế đoạn. Tận cùng nơi đạo, chướng ngại đạo, không cùng đạo đoạn trừ. Do tương ưng này, nên nhẫn đoạn trừ kiết. Do trí che lấp, nên nhẫn không sinh, tức tạo ra quán này.

Hỏi: Vì sao lúc dứt hết kiết là nhẫn đoạn không phải lúc nhẫn sinh?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Lúc diệt hết là nhẫn hiện ở đạo đoạn trừ kiết. Thế nên khi diệt hết là nhẫn đoạn trừ kiết. Nếu lúc nhẫn sinh, đạo chưa sinh, thì không thể đoạn. Vì vậy lúc sinh không đoạn.

Hỏi: Nếu lúc sinh nhẫn không đoạn trừ kiết thì nhẫn kia không có trái ngược chăng?

Đáp: Lúc sinh nhẫn không đoạn trừ kiết. Như thế nhẫn kia tức không có trái ngược. Sở dĩ lúc sinh đoạn là do nhẫn kia cùng trợ giúp.

Hỏi: Nếu tự quán về nhẫn đã sinh, thì kiết kia tự diệt, không sinh, không còn có tối tăm. Lại nữa, nếu nhẫn đã sinh, diệt trừ kiết đã sinh, nên nói là dứt hết. Cũng như có ánh sáng thì bóng tối đều trừ. Nếu nhẫn đã sinh, diệt trừ, nên nói là kiết chăng? Đạo đã sinh, nhẫn chưa nhận biết, tất cả kiến đế đã đoạn hết kiết, thế nên nhẫn thành tựu quả Tu-đà-hoàn chăng?

Đáp: Tất cả kiến đế đã đoạn hết kiết, không do trí tụ tập, gọi là Tu-đà-hoàn. Vì sao? Vì không do hữu vi này mà được quả Tu-đàhoàn. Như Đức Thế Tôn nói: Ở đây, Tỳ-kheo quán năm thạnh ấm nhận biết như thật, đó gọi là Tu-đà-hoàn, không do kiến khổ gọi là Tu-đà-hoàn. Cũng tạo ra thuyết này: Ba kiết dứt hết gọi là Tu-đàhoàn. Không do nhẫn tụ tập gọi là Tu-đà-hoàn.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Lúc Tỳ-kheo nói về tất cả kiết, là cùng nói về bốn ý chỉ nên nói. Đức Thế Tôn cũng nói: Lúc Tỳ-kheo nói về khéo tụ tập thì cùng nói về bốn ý chỉ nên nói. Nhưng tất cả các pháp không phải là khéo thuyết giảng.

Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Khi nói tất cả pháp là cùng nói về bốn ý chỉ nên nói là đạo có duyên, do đấy nên nói. Khi nói về khéo thuyết giảng, khéo tu tập, là cùng nói về bốn ý chỉ nên nói, cũng do đạo nói. Lại nữa, khi nói về tất cả pháp là cùng nói về bốn ý chỉ nên nói. Do tám chánh đạo, ba mươi bảy phẩm Bồ đề, vì thế nên nói. Lúc nói về khéo tụ tập là cùng nói về bốn ý chỉ nên nói. Khéo tụ tập là tụ tập của đệ nhất nghĩa, do đấy nên nói.

Nghĩa tướng của các Đức Như Lai khởi trí vi diệu.

Hỏi: Các Thanh văn cũng có trí vi diệu này chăng? Nếu như Thanh văn có trí vi diệu này, thì Thanh văn kia là nghĩa tướng của Như Lai, khởi trí vi diệu chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nghĩa tướng của chư Như Lai khởi trí vi diệu, thì nghĩa tướng ấy Thanh văn có để khởi trí vi diệu. Các loại chúng sinh đối với chư Thanh văn, Như Lai kia, lúc khởi trí vi diệu, như lúc cảnh giới của trí kia xoay chuyển. Lại nữa, không nên tạo ra thuyết ấy. Chúng sinh ở nơi trí vi diệu thì tâm khởi trí tuệ hoan hỷ, có thệ nguyện của Phật kia.

Trí vi diệu là hàng Thanh văn kia dần dần tu tập nên trí hiện ở trước. Như Lai đối với trí tức được tâm tự tại, tâm tư duy, tam muội thanh tịnh, đối với mọi mong muốn liền có thể, không có trở ngại khi khởi trí vi diệu.

Hỏi: Vì sao bốn ý chỉ (Bốn niệm xứ) không có thân ý chỉ sinh?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Ý chỉ không có tư duy dần dần mà đến. Lại nữa, giáo pháp của Như Lai nên dần dần đọc tụng và thừa hành mới dần dần có lợi ích. Lại nữa, thân thân cùng quán xét tạo ra các ý. Thọ thọ cùng quán xét có lưu hành, nên thọ thọ cùng quán xét tạo ra các ý. Tâm tâm cùng quán xét có lưu hành, nên tâm tâm cùng quán xét tạo ra các ý. Pháp pháp cùng quán xét có lưu hành. Như thế là dần dần tu ý chỉ.

Hỏi: Vì sao trong bảy giác ý, trước hết là nói về niệm giác ý?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Là theo thứ lớp để nói. Lại nữa, Đức Như Lai đã nói theo thứ lớp như thế, nên người tụng luận cũng theo thứ lớp ấy.

Lại nữa, trước hết là niệm giác ý hiện ở trước, vì người theo thứ lớp để nói, tu giác ý theo thứ lớp ấy. Như đã nói: Như pháp đã suy niệm của tâm kia, lựa chọn các pháp, cũng lại quán biết về vị nơi các pháp. Ở nơi pháp ấy lựa chọn. Cũng lại nhận biết rõ về thời của các pháp, tức có phát ý hoan hỷ dũng mãnh, ý hưng thịnh không ít, không khác với thân, tâm có được khinh an nhận lấy vui vẻ liền nhập tam muội, quán tâm ý mình.

Hỏi: Vì sao nơi tám Hiền Thánh đạo, trước hết nói về đẳng kiến (Chánh kiến)?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Đạo Hiền Thánh cần nên xét kỷ để tu hành. Lại nữa, Đức Như Lai theo thứ lớp giảng nói, nên người tụng luận cũng theo thứ lớp ấy. Lại nữa, đẳng kiến vì người hành đạo theo thứ lớp, cũng như trong tất cả bốn thần túc, do được tâm định, tinh tấn tự tại.

Hỏi: Vì sao tất cả tam muội tự tại đều hành trì thành tựu, đó gọi là bốn thần túc. Tam muội tâm, tam muội tinh tấn, các tam muội đều hành trì thành tựu, đó gọi là thần túc chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Các tam muội tăng thượng khởi, xứ xứ kia đã nói. Như đã nói: Tỳ-kheo tự tại tăng thượng được các tam muội. Tỳ-kheo kia có tam muội tự tại, tâm tinh tấn, nên Tỳ-kheo tăng thượng tức được các tam muội, Tỳ-kheo kia tức nói là tam muội. Lại nữa, các sự như ở đây đã chuyển tăng, do tam muội định, hoặc có khi thiền tam muội tăng, được tự tại, khởi các tự tại, xoay chuyển tự tại. Hoặc có lúc tinh tấn tam muội tăng, khởi các tinh tấn, xoay chuyển tinh tấn. Hoặc có lúc tam muội tâm tăng, khởi tâm với tâm, xoay chuyển tâm. Hoặc có khi vị tam muội tăng, khởi vị, xoay chuyển vị, ở đây nói bốn thần túc nên có tăng thượng.

Hỏi: Năm căn, năm lực có gì khác biệt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tăng thượng là nghĩa của căn. Không thể tan hoại là nghĩa của lực. Lại nữa, sức của chủng loại bên ngoài, nên quán tu căn. Sức của chủng loại bên trong, nên quán tu lực. Đối với người tu hành kia, các căn luôn bền chắc gọi là căn, không thể tan hoại gọi là lực.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Cũng như một tín pháp tín khác, hoặc từ nơi xứ xứ khác nghe, hoặc nhận biết các thứ để quán thấy người. Lại nữa, có trí không thể hủy hoại trí. Ở đây là không như vậy.

Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Tu-đà-hoàn gieo trồng nơi tâm người kia là muốn thân cận thiện tri thức. Vì sao? Do tin nên sinh khởi ý muốn lễ bái, thừa sự. Tu-đà-hoàn kia thuận nghe pháp hiện đang giảng nói, gọi là nhận biết được các thứ, tư duy làm rõ pháp ác, thấy hiện pháp của các thiền, là nghĩa cùng sinh của pháp. Lại nữa, trước đã có nơi chốn nghe, như tất cả các hành là vô thường, đối với trí kia được các thứ tin. Do có tin, nên có trí tuệ. Điều thiện cũng là trí tuệ, như thật nghĩa của trí ấy, người kia nói là mong muốn. Nghĩa của mong muốn là trí đã gồm thâu. Các thứ tốt, xấu kia là do quán các hành, suy xét, tính đếm, nghĩa như thật của trí ấy dấy khởi mắt trí tuệ, như nhớ đến các pháp như thật khiến thấy biết các nhẫn.

Hai nhẫn, tất cả pháp

Các thứ thân là đầu

Giác ý, thấy chốn đọa

Vô số và xứ khác.

Hỏi: Vì sao do chủng loại khổ cùng vượt thứ lớp để thủ chứng, nhưng không do vết thương gây khổ não?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Vết thương là hữu lậu, nhưng không phải là đạo hữu lậu vượt thứ lớp để thủ chứng. Còn chủng loại khổ là vô lậu, do đạo vô lậu cùng vượt thứ lớp để thủ chứng.

Lại nữa, chủng loại của vết thương là cảnh giới mềm mại, tụ tập khác biệt, dần dần phát khởi. Còn chủng loại khổ thì do tương ưng với khổ ấm. Nên tạo ra quán ấy.

Hỏi: Chủng loại khổ và chủng loại vết thương có gì khác biệt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Chủng loại vết thương là hữu lậu. Chủng loại khổ là vô lậu. Lại nữa, chủng loại khổ có tướng bức bách thân. Chủng loại vết thương thì có tướng bệnh tật, dấy khởi tướng lậu.

Hỏi: Vì sao nhãn căn được gọi là kiến?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Là lời nói theo sự thấy biết của thế tục. Như có kiến tịnh, có kiến bất tịnh. Lại nữa, trở lại mắt nên có đối tượng thấy. Khế kinh theo thế gian đó gọi là nhãn căn, nghĩa là kiến.

Hỏi: Vì sao nhẫn không nói là trí?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Trí có thể nhận biết sự việc, nhẫn thì không thể nhận biết, thế nên nhẫn không nói là trí. Lại nữa, đã được kiến, đó gọi là có trí, không phải do nhẫn có trí, vì vậy nhẫn không phải là trí.

Hỏi: Vì sao tận trí, vô sinh trí không nói là kiến?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu tận trí, vô sinh trí là kiến, thì A-la-hán thành tựu chín thứ cũng nên nói A-la-hán thành tựu mười thứ chăng? Thế nên trí kia không nói là kiến.

Hỏi: Như đẳng kiến vô học được gọi là trí, là có xứ nhất định. Vì sao pháp kia không phải là trí, là kiến?

Đáp: Do trí kia cũng có xứ hành. Lại nữa, trí nên thấy biết vượt qua bờ kia. Vì kiến là đối tượng vượt qua ấy, nên có như thế.

Hỏi: Vì sao không là mười thứ có định? Nên nói là quán tám thứ là địa. Như trí ấy nên nói là pháp vô học. Cũng như môn ba giải thoát này: không, vô nguyên, vô tướng, cùng vượt thứ lớp để thủ chứng, nên nói được rồi khởi, cùng vượt qua thứ lớp như thế nên nói là đắc?

Đáp: Không, vô nguyên cùng vượt thứ lớp để thủ chứng, nên nói là đắc. Do vượt thứ lớp để thủ chứng, nên nói là đắc. Vô tướng do đã vượt thứ lớp để thủ chứng, nên nói là đắc.

Hỏi: Nếu tu tam muội không thì người kia có tu tam muội vô nguyện chăng? Nếu như tu tam muội vô nguyện thì người kia cũng tu tam muội không chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Hoặc là không không phải là vô nguyện.

Thế nào là không không phải là vô nguyện? Vì đã được tam muội không hiện ở trước, đó gọi là không không phải là vô nguyện.

Thế nào là vô nguyện không phải là không? Do đã được tam muội vô nguyện hiện ở trước, không được tam muội vô nguyện hiện ở trước. Không được là lúc tu tam muội không. Đó gọi là vô nguyện không phải là không.

Thế nào là không cũng là vô nguyện? Không được tam muội không hiện ở trước. Được là lúc tu tam muội vô nguyện. Không được tam muội vô nguyện hiện ở trước. Được là lúc tu tam muội không. Không được vô tướng, không được trí thế tục hiện ở trước. Được là lúc tu tam muội không, vô nguyện. Đó gọi là không cũng là vô nguyện.

Thế nào là không phải là không cũng không phải là vô nguyện? Gốc đã được tam muội vô tướng hiện ở trước. Nếu gốc không được tam muội vô tướng hiện ở trước, tức không được là lúc tu tam muội không, vô nguyện, nhưng gốc được thế tục trí hiện ở trước. Nếu gốc không được thế tục trí hiện ở trước, thì không được là lúc tu tam muội không, vô nguyện. Tâm nhiễm ô, tâm vô ký của tất cả người phàm phu, tam muội diệt tận, tam muội vô tưởng nơi trời vô tưởng. Đó gọi là không phải là không cũng không phải là vô nguyện.

Lại nữa, hoặc là không không phải là vô nguyện: Là học kiến tích như A-la-hán được tam muội không hiện ở trước.

Hoặc là vô nguyện không phải là không: Là lúc tu hành tập nhẫn trí có xoay chuyển. Lúc đạo pháp nhẫn có xoay chuyển. Lúc tu hành đạo pháp trí có xoay chuyển. Lúc đạo vị tri nhẫn có xoay chuyển. Học kiến tích như A-la-hán, được tam muội vô nguyện hiện ở trước.

Hoặc là không cũng là vô nguyện: Là lúc tu hành khổ. Lúc nhẫn trí xoay chuyển tu hành đạo. Lúc đạo nơi trí vị tri có xoay chuyển. Học kiến tích như A-la-hán, không được không, vô nguyện, vô tướng hiện ở trước.

Hoặc không phải là không cũng không phải là vô nguyện: Là lúc đều tu hành tam muội không, vô nguyện, nhẫn trí có xoay chuyển. Học kiến tích như A-la-hán, gốc đã được tam muội vô tướng hiện ở trước. Tâm tư duy về tất cả thế gian, không tu tam muội không, không tu tam muội vô nguyện, trong ấy cũng có tưởng hàng phục.

Hỏi: Nếu tu tam muội không thì người kia có tu tam muội vô tướng chăng? Nếu như tu tam muội vô tướng thì người kia cũng tu tam muội không chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Hoặc là không không phải là vô tướng.

Thế nào là không không phải là vô tướng? Là được tam muội không hiện ở trước. Nếu không được tam muội không hiện ở trước thì không được là lúc tu tam muội vô tướng. Không được tam muội vô nguyện hiện ở trước, thì được là vào lúc tu tam muội không.

Thế nào là vô tướng không phải là không? Là được tam muội vô tướng hiện ở trước. Nếu không được tam muội vô tướng hiện ở trước, thì không được là vào lúc tu tam muội không.

Thế nào là không cũng là vô tướng? Là không được tam muội không hiện ở trước, tức được là vào lúc tu vô tướng. Nếu gốc không được tam muội vô tướng hiện ở trước, thì được là vào lúc tu tam muội không. Không được tam muội vô tướng hiện ở trước, thì được là vào lúc tu tam muội không. Không được thế tục trí hiện ở trước, thì được là vào lúc có tu tam muội không, vô tướng.

Thế nào là không phải là không cũng không phải là vô tướng? Là được tam muội vô nguyện hiện ở trước. Không được tam muội vô nguyện hiện ở trước. Được thế tục trí hiện ở trước. Không được thế tục trí hiện ở trước. Lúc này không thể tu tam muội không, vô tướng hiện ở trước. Tất cả tâm nhiễm ô, tâm vô ký, nhập tam muội vô tưởng, tam muội diệt tận, không tu tam muội không không phải là vô tướng, đó gọi là không phải là không cũng không phải là vô tướng.

Lại nữa, hoặc là không không phải là vô tướng: Là lúc tu hành khổ nhẫn trí xoay chuyển. Học kiến tích như A-la-hán, được tam muội không hiện ở trước.

Hoặc là vô tướng không phải là không: Là lúc tu hành tận, nhẫn trí xoay chuyển. Học kiến tích như A-la-hán, được tam muội vô tướng hiện ở trước.

Hoặc là không cũng là vô tướng: Là lúc tu hành đạo, trí vị tri xoay chuyển. Học kiến tích như A-la-hán, không được tam muội không, vô nguyện, vô tướng hiện ở trước.

Không phải là không cũng không phải là vô tưởng: Là lúc tu hành tập, nhẫn trí xoay chuyển. Trí vị tri của đạo xoay vòng, tu hành đạo pháp trí. lúc nhẫn vị tri của đạo xoay chuyển, học kiến tích như A-la-hán, gốc được tam muội vô nguyện. Tâm tư duy của tất cả thế gian, không tu tam muội không, vô tướng, không ở nơi đấy có sự hàng phục.

Hỏi: Nếu tu tam muội vô nguyện thì người kia có tu tam muội vô tướng chăng? Nếu như tu tam muội vô tướng thì người kia cũng tu tam muội vô nguyện chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Hoặc là vô nguyện không phải là vô tướng.

Thế nào là vô nguyện không phải là vô tướng? Là được tam muội vô nguyện hiện ở trước. Không được tam muội vô nguyện thể hiện ở trước, là lúc không được tam muội không hiện ở trước. Là lúc không thể tu tam muội vô tướng, không được tam muội không hiện ở trước. Không được tam muội vô tướng hiện ở trước, là lúc không thể tu tam muội vô nguyện.

Thế nào là vô nguyện cũng là vô tướng? Là không được tam muội vô tướng hiện ở trước. Được là vào lúc tu tam muội vô tướng. Không được tam muội vô tướng hiện ở trước. Được là vào lúc tu tam muội vô nguyện. Không được tam muội không hiện ở trước. Được là vào lúc tu tam muội vô nguyện, vô tướng. Không được thế tục trí hiện ở trước, là lúc tu tam muội vô nguyện, vô tướng.

Thế nào là không phải vô nguyện cũng không phải vô tướng? Là được tam muội không hiện ở trước. Được thế tục trí hiện ở trước. Không được thế tục trí hiện ở trước, là vào lúc không thể tu tam muội vô nguyện, vô tướng. Tất cả tâm nhiễm, tâm vô ký, tam muội vô tướng, tam muội diệt tận nơi trời vô tưởng tu tam muội vô nguyện, vô tướng. Đó gọi là không phải vô nguyện cũng không phải vô tướng.

Lại nữa, hoặc là vô nguyện không phải là vô tưởng: Là lúc tu hành tập nhẫn trí xoay chuyển, lúc nhẫn vị tri của đạo xoay chuyển, trí vị tri tu hành đạo, lúc nhẫn vị tri của đạo xoay chuyển. Học kiến tích như A-la-hán, được tam muội vô nguyện hiện ở trước.

Hoặc là vô tướng không phải là vô nguyện: Là lúc tu hành tận, nhẫn trí trước xoay chuyển, học kiến tích như A-la-hán, được tam muội vô tướng hiện ở trước.

Hoặc là vô nguyện cũng là vô tướng: Là lúc tu hành đạo, trí vị tri xoay chuyển. Học kiến tích như A-la-hán, không được tam muội không, vô nguyện hiện ở trước.

Hoặc không phải là vô nguyện cũng không phải là vô tướng: Là học kiến tích như A-la-hán, được tam muội không hiện ở trước, tâm tư duy của tất cả thế tục, không tu tam muội vô nguyện, vô tướng, ở trong ấy có tưởng hàng phục.

Hỏi: Nếu tu tam muội không vào lúc thích hợp, thì vào lúc khác có tu tam muội vô nguyện chăng? Nếu như tu tam muội vô nguyện vào lúc thích hợp, thì vào lúc khác có tu tam muội không chăng?

Đáp: Nên tạo ra thuyết này: Như trên đã được, nhưng không cùng hiện ở trước.

Lại nữa, nếu tu tam muội không vào lúc thích hợp, thì vào lúc khác không tu tam muội vô nguyện. Nếu như đã tu tam muội vô nguyện vào lúc thích hợp, thì vào lúc khác không tu tam muội không. Vì sao? Vì thời tiết xoay chuyển. Nên tạo ra quán ấy. Không, vô tướng cũng lại như thế. Vô nguyện, vô tướng cũng lại như thế.

Hỏi: Vì sao nơi ba cõi tu hành đẳng trí gọi là hữu lậu?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tức phần hiện có của ba cõi kia, phần hiện có ấy là hữu lậu.

Hoặc có thuyết cho: Gọi là đẳng trí tức là do hữu lậu tạo nên.

Hoặc có thuyết nêu: Như trí đế kia đạt được tức không như đế kia, điều này là nên tu hành. Lại nữa, đẳng trí do ba cõi đã tu là ý của thầy tạo ra tưởng này. Ví như không, vô nguyện, vô tướng, thì ở nơi vô tướng nên nói là tu nơi vô tướng kia, tạo ra tướng ấy. Nên tạo ra quán này.

Hỏi: Vì sao cõi sắc không cùng vượt qua thứ lớp để thủ chứng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Người nơi cõi sắc kia không có pháp nhàm chán lìa bỏ này, cũng như nơi cõi dục.

Hỏi: Không do chán bỏ này nhằm cùng vượt qua thứ lớp để thủ chứng. Nếu như có chán bỏ thì trong nẻo ác cũng cùng vượt qua thứ lớp để thủ chứng chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Ở cõi dục có là báo của hành.

Hỏi: Nếu ở cõi dục nhận lấy bát Niết-bàn thì vì sao có báo của hành nơi cõi sắc, vô sắc?

Đáp: Vì ở cõi dục thọ nhận báo.

Hỏi: Có nhân duyên gì, báo của hành nơi cõi sắc, cõi vô sắc, không phải ở cõi dục thọ nhận báo của hành nơi cõi sắc, vô sắc?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Do căn yếu kém của người nơi cõi kia không cùng vượt qua thứ lớp để thủ chứng.

Hỏi: Cũng như người lợi căn ở cõi này, sinh trong cõi kia, vì sao ở nơi cõi kia lại có căn yếu kém?

Đáp: Sự sinh nơi cõi kia là tự như vậy.

Hỏi: Không phải người không cấu uế của cõi sắc khởi đạo Hiền Thánh chăng?

Đáp: Đã được là có thể khởi.

Không được đạo vô học là có thể khởi chăng? Lại nữa, nên có tưởng hàng phục. Lại nữa, ở nơi cõi này tạo hành, mạng chung, sinh nơi cõi sắc. Nhân nơi tướng có sức nên người nơi cõi kia không cùng vượt qua thứ lớp để thủ chứng.

Hỏi: Nếu đầu tiên khởi vô sinh trí thì có bao nhiêu trung gian của trí khởi?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Hoặc khởi trung gian của tận trí: Ta đã nhận biết khổ là tận trí, nhưng không nhận biết vô sinh trí khởi tất cả các đế.

Lại nữa, khởi trung gian của ba tận trí: Sự sinh tử của ta đã hết, đó gọi là tận trí. Phạm hạnh của ta đã lập, đó gọi là tận trí. Việc làm đã xong, đó gọi là tận trí. Không còn thọ nhận thân sau, đó gọi là vô sinh trí.

Đã nói tướng hai khổ

Mắt, nhẫn trí vượt bậc

Tư duy quán ba cõi

Có sinh cũng như gốc.

Hỏi: Vì sao khổ trí chỉ nhận biết khổ trí, tập trí chỉ nhận biết tập trí, đạo trí chỉ nhận biết đạo trí?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Khổ đế là năm ấm hữu lậu, đối với khổ đế kia khổ trí đã xoay chuyển. Nhân nơi trí cũng xoay chuyển.

Đạo là năm ấm vô lậu. Trí xuất yếu của đạo kia liền xoay chuyển, ở nơi đạo vô lậu kia có đạo trí.

Lại nữa, ở nơi khổ tư duy về khổ cùng xoay chuyển, có thuận hợp, thế nên nói là tập trí, đạo trí.

Lại nữa, khổ cùng với xoay chuyển có thuận hợp, ở nơi khổ kia có tập trí, đạo trí, là một tướng tư duy. Nếu duyên với tướng này để nêu bày tức ở đấy không thể tan hoại.

Hỏi: Căn, trí nơi cảnh giới của Đức Thế Tôn là duyên nơi những gì?

Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Nhân trí, đạo trí, là căn trí nơi cảnh giới ấy. Nhân đạo kia là duyên của cảnh giới ấy.

Hoặc có thuyết nói: Các căn lần lượt hiện bày là căn, trí của cảnh giới ấy, là trí của duyên kia. Lại nữa, đệ nhất nghĩa thiện là duyên nơi căn trí của cảnh giới kia.

Hỏi: Sợ hãi, chán bỏ có gì khác biệt?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Tương ưng với cõi dục là sợ hãi. Tương ưng với ba cõi là chán bỏ.

Hoặc có thuyết nêu: Chỉ có mình là sợ hãi. Người kia đối với ta là chán bỏ.

Trung gian của kiết là sợ hãi. Trung gian của căn thiện là chán bỏ.

Lại nữa, nhận biết rõ về oán đối, muốn trụ trong chướng ngại là sợ hãi. Tâm dong ruổi phóng túng là chán bỏ.

Hỏi: Sắc diện mạnh mẽ với không sợ có gì khác biệt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trung gian của kiết là sắc diện mạnh mẽ. Trung gian của căn thiện là không sợ. Lại nữa, ý đã nhập nơi xứ khác là sắc diện mạnh mẽ. Ý cứng cỏi vững mạnh là không sợ.

Hỏi: Trí mẫn tiệp với trí nhanh chóng có gì khác biệt?

Đáp: Thật sự hiểu rõ là nghĩa của mẫn tiệp. Nhanh chóng là đối nơi nghĩa do phương tiện kia dần dần đạt được. Theo thứ lớp là trí mẫn tiệp.

Hỏi: Trí nhạy bén với trí vô ngại có gì khác biệt?

Đáp: Dứt trừ các kiết là trí nhạy bén. Phân biệt về đế là trí vô ngại.

Hỏi: Trí tuệ thâm diệu với trí tuệ phổ biến có gì khác biệt?

Đáp: Nhận biết rõ về duyên này là trí tuệ thâm diệu. Tăng trưởng tạo lợi ích rất nhiều là trí tuệ phổ biến.

Hỏi: Trí tuệ riêng biệt với trí tuệ rộng lớn có gì khác biệt?

Đáp: Nhận biết rõ về các nghĩa của vô số tướng, đó gọi là trí tuệ riêng biệt. Trí phổ biến khắp một xứ, đó gọi là trí tuệ rộng lớn.

Hỏi: Trí đã có thể sử dụng để đạt được quả Tu-đà-hoàn, trí tuệ ấy nên nói là thuộc về dĩ tri căn hay là thuộc về vị tri căn?

Đáp: Trí ấy là vô vi đã đạt được quả Tu-đà-hoàn. Trí ấy nên nói là thuộc về dĩ tri căn, vị tri căn. Cũng như tất cả kiết, do kiến bốn đế đều đoạn. Vì sao? Vì hoặc do kiến đế đoạn, hoặc do tư duy đoạn. Đây là nghĩa ấy.

Hoặc có thuyết cho: Đạo kiến đế đoạn, vì đấy là do kiến đến đoạn. Đạo tư duy đoạn là do tư duy kia đoạn.

Hỏi: Tư duy kia có tăng trưởng lâu dài, hiện bày tăng trưởng lâu dài hay có tư duy khác?

Đáp: Như ngang với đối tượng trông thấy của mắt, là ngang với phần tư duy của mắt kia. Như ngang với phần tư duy của mắt, là ngang với đối tượng trông thấy của mắt kia. Thế nên không có uy lực.

Hoặc có thuyết nêu: Kiến đế đoạn đầu tiên kia là đối tượng đoạn của kiến đế ấy. Kiến đế: Là đã kiến đế, trụ nơi đoạn. Hoặc do tập mà đoạn, hoặc do tư duy kia đoạn.

Hoặc có thuyết nói: Là đối tượng đoạn của các nhẫn, cũng là kiến đế kia đoạn. Đối tượng đoạn của các trí là do tư duy kia đoạn.

Hoặc có thuyết cho: Có đối địch trước là do tư duy kia đoạn. Các thứ không có đối địch trước là do kiến đế kia đoạn.

Lại nữa, các đẳng trí trải qua không phải là nhân duyên. Cũng như dùng khúc gỗ để dùi ra lửa, là do kiến đế kia đoạn. Thấy rõ phần tăng trưởng lâu dài kia đoạn là như tâm tưởng chăng? Dùi gỗ để lấy lửa kia là như tư duy đoạn.

Khổ, Thế Tôn chán bỏ

Dung mạo mạnh, nhanh bén

Trí tuệ riêng thâm diệu

Tu-đà-hoàn và đế.

Kiền độ Trí thứ mười xong.

HẾT – QUYỂN 8

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10