SỐ 1550/4
LUẬN A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Thắng
Hán dịch: Đời Đông Tấn, Đại sư Tăng Già Đề Bà và Tuệ Viễn
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Phẩm thứ 1: GIỚI

Trước đảnh lễ Tối Thắng

Từ bi diện lìa não

Cũng kính thuận giáo chúng

Tăng Vô trước, Ứng chân.

Có thuyết nói: Cần phải nhận biết rõ pháp tướng. Vì sao cần phải nhận biết rõ pháp tướng? Vì thường định nhận biết tướng của thường định.

Thuyết đó nói: Định trí có tướng của định trí, tức là quyết định. Do đấy nên nói pháp tướng cần phải nhận biết.

Thế gian cũng nhận biết pháp tướng, đấy là rất ngu si. Tức cũng nhận biết tướng cứng chắc là đất, tướng ẩm ướt là nước, tướng nóng là lửa, tướng lay động là gió, tướng không có ngăn ngại là không, tướng không phải sắc là thức. Như thế tất cả không nên nhận biết lại nhận biết. Nếu đã nhận biết lại nhận biết thì đấy tức là vô cùng. Vô cùng thì sự việc này là không đúng.

Hỏi: Vì sao nói pháp tướng cần phải nhận biết?

Đáp: Thế gian không nhận biết pháp tướng. Nếu thế gian nhận biết được pháp tướng, thì tất cả thế gian cũng nên quyết định nhưng lại không quyết định. Pháp tướng là thường định, không thể nói nhận biết pháp tướng mà không quyết định. Nếu như vậy thì không quyết định cũng nên quyết định. Song vì không như vậy, do đấy thế gian không nhận biết được pháp tướng.

Lại nữa, tướng cứng chắc là đất, còn có tướng vô thường, tướng khổ, tướng phi ngã (vô ngã). Nếu không như vậy thì tướng cứng nên có tướng thường, tướng vui, tướng có ngã. Nhưng vì không phải vậy, thế nên tướng cứng chắc tức là tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã. Nếu thế gian đối với đất nhận biết là tướng cứng chắc, thì ở nơi tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, cũng nên nhận biết nhưng lại không nhận biết. Vì vậy thế gian không nhận biết được tướng cứng chắc của đất.

Hỏi: Trước đây đã nói pháp tướng cần phải nhận biết, vậy pháp này như thế nào?

Đáp:

Nếu biết tướng các pháp

Chánh giác mở mắt tuệ

Cũng vì người hiện rõ

Là nay ta sẽ nói.

Hỏi: Đức Phật nhận biết pháp gì?

Đáp:

Có thường, lạc, ngã, tịnh

Lìa các hành hữu lậu.

Các hành hữu lậu vì chuyển cùng sinh nên lìa thường. Vì không tự tại nên lìa ngã. Vì hư hoại nên lìa lạc. Vì bị tuệ ghét bỏ nên lìa tịnh.

Hỏi: Nếu có thường lạc ngã tịnh, là đã lìa các pháp hữu lậu, vì sao chúng sinh ở trong ấy nhận được có thường lạc ngã tịnh?

Đáp:

Chấp thường là đứng đầu

Vọng kiến trong hữu lậu.

Chúng sinh đối với pháp hữu lậu đã không nhận biết được tướng của chúng, liền thọ nhận là có thường lạc ngã tịnh. Như người đi trong đêm tối thấy có hiện ra tướng giặc trộm. Tướng của pháp hữu lậu kia cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là pháp hữu lậu?

Đáp:

Nếu sinh các phiền não

Là Thánh nói hữu lậu.

Nếu đối với pháp, sinh các phiền não như thân kiến v.v… Như phẩm Sử đã nói thì pháp này nói là hữu lậu. Vì sao?

Gọi là phiền não lậu

Người tuệ cho giả danh.

Phiền não nói là lậu vì là lậu nơi các nhập, nên tâm lậu tuôn rót liên tục, khiến lưu trụ trong sinh tử, như bị phi nhân nắm giữ, thế nên nói là hữu lậu.

Hỏi: Hữu lậu này còn có tên gì?

Đáp:

Đó gọi là thọ ấm

Cũng là phiền não tranh

Pháp này nói ấm thạnh

Nói tranh nói lao nhọc.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp:

Phiền não từ tranh khởi

Vì vậy cần nên biết.

Các phiền não như thân kiến v.v…, khiến cho chúng sinh lao nhọc nên nói là phiền não. Vì thân nhận lãnh nên nói là thọ. Vì khiến tâm phẫn nộ nên nói là tranh. Từ thân kiến v.v… cùng sinh khởi các pháp hữu lậu là sinh. Vì khiến mệt nhọc nên nói là lao. Vì sinh khởi thọ nhận nên nói là thọ. Vì sinh khởi tranh chấp nên nói là tranh.

Đã nói về thạnh ấm, tướng ấm nay sẽ nói.

Nếu xa lìa phiền não

Các hữu vi, vô lậu

Tất cả xen thọ ấm

Là ấm Thánh giảng nói.

Nghĩa là pháp lìa các phiền não như thân kiến v.v… cũng giải thoát các lậu, hữu vi, từ nhân sinh khởi, là tất cả cùng trước đây đã nói về thạnh ấm. Đây là nói chung về ấm, là năm ấm: Sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức.

Hỏi: Thế nào là sắc ấm?

Đáp:

Mười thứ gọi sắc nhập

Cũng vô giáo giả sắc

Là phân biệt sắc ấm

Đấng Mâu-ni đã nói.

Mười thứ gọi sắc nhập: Là nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân tế hoạt (xúc).

Cũng vô giáo giả sắc: Là như phẩm Nghiệp đã nói. Sắc này là sắc ấm, lúc phân biệt sắc ấm là Đức Thế Tôn nói.

Đã gọi là thức ấm

Đây tức là ý nhập

Ở trong mười tám giới

Cũng lại nói bảy loại.

Gọi là thức ấm tức là ý nhập. Cũng là bảy loại phân biệt trong mười tám giới: Nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức và ý.

Ngoài ra có ba ấm

Ba vô vi, vô giáo

Nghĩa là nói pháp nhập

Cũng lại là pháp giới.

Ngoài ra còn có ba ấm: Là thọ ấm, tưởng ấm và hành ấm.

Ba vô vi, vô giáo: Là hư không, số duyên diệt, phi số duyên diệt (vô giáo là vô biểu). Đây là nói chung về pháp nhập, cũng lại là pháp giới. Như thế pháp này nói về ấm, giới, nhập. Chỉ ấm thì hoàn toàn là hữu vi, còn giới, nhập thì có cả hữu vi, vô vi.

Đã nói về ấm, giới, nhập, về mỗi mỗi tướng nay sẽ nói.

Trong giới, một có thấy

Mười tức nói có đối

Vô ký là tám thứ

Còn là thiện, bất thiện.

Trong giới, một có thấy: Là sắc giới. Vì sắc này có thể thấy ở đây, ở kia, cho nên là có thể thấy. Nên biết mười bảy giới là không thể thấy.

Mười tức nói có đối: Là mười giới có đối: Sắc đối với mắt, tiếng đối với tai, hương đối với mũi, vị đối với lưỡi, xúc chạm đối với thân. Mỗi mỗi giới này đều cùng đối nhau, mỗi mỗi giới đều cùng tạo chướng ngại. Về xứ sở, nếu có một thì không có hai, thế nên có đối.

Nên biết là có tám giới không đối.

Vô ký là tám thứ: Là mắt, tai, mũi, hương, lưỡi, vị, thân, xúc. Vì các pháp này không phải là báo vui có thể ghi nhận, cũng không phải là báo khổ có thể ghi nhận, nên nói là vô ký.

Còn là thiện, bất thiện: Là sắc, thanh, ý, pháp và sáu thức. Hành động của thân thiện là sắc thiện. Hành động của thân bất thiện là sắc bất thiện. Sắc còn lại là vô ký.

Như vậy, miệng động ra tiếng, tâm tịnh là bảy thức giới. Thiện, bất thiện tương ưng với phiền não là bất thiện, còn lại là vô ký. Pháp giới nghĩa là tâm tương ưng với các giới kia như nơi phần Tâm đã nói. Nếu không tương ưng thì như phẩm Tạp đã nói:

Hữu lậu có mười lăm

Còn hai, ba, ba hữu

Trong dục hữu có bốn

Mười một ở hai hữu.

Hữu lậu có mười lăm: Là năm nội giới, năm ngoại giới và năm thức giới, vì lậu dừng trụ.

Còn hai: Là ý giới, ý thức giới và pháp giới. Giới này hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Nếu lậu dừng trụ là hữu lậu. Nếu khác là vô lậu.

Ba, ba hữu: Là ý, pháp, thức giới, là trong ba hữu có thể đạt được, tức trong dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.

Trong dục hữu có bốn: Là hương, vị, tỷ thức, thiệt thức, đều hoàn toàn là dục hữu, trong ấy gồm thâu không phải là sắc hữu, vô sắc hữu. Vì lìa bỏ đoàn thực của cõi dục, nên tất cả hương, vị là tánh nơi đoàn thực.

Mười một ở hai hữu: Là dục hữu, sắc hữu có mười một giới là năm giới nội (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân) và sắc thanh hương vị xúc và là cảnh giới thức. Các giới này không phải ở trong vô sắc do lìa sắc.

Có giác, có quán năm

Ba hành ba, ngoài không

Có duyên nên biết bảy

Pháp nhập ít chốn nhập.

Có giác, có quán năm: Là năm thức giới cùng với giác quán đều cùng thô nên tương ưng với giác quán.

Ba hành ba: Là ý, pháp và thức giới. Ba hành này, nếu ở cõi dục và thiền thứ nhất là có giác có quán, nếu ở thiền trung gian là không giác, ít quán, nếu ở trên là không giác không quán.

Ngoài không: Là những giới còn lại không phải là giác, đều cũng không phải là quán, đều cùng không tương ưng.

Có duyên nên biết bảy: Là bảy giới có duyên. Vì có duyên này nên nói là có duyên. Như người có con, gọi là có con, các giới kia cũng như vậy. Tức là nhãn thức duyên với sắc, nhĩ thức duyên với tiếng, tỷ thức duyên với hương, thiệt thức duyên với vị, thân thức duyên với xúc, ý thức duyên với các pháp.

Pháp nhập, ít chốn nhập: Nếu là tâm tâm số pháp tức có duyên, pháp khác là không duyên.

Chín không thọ, ngoài hai

Là vô vi cùng một

Hoàn toàn là hữu vi

Nên biết mười bảy giới.

Chín không thọ: Thọ danh, nghĩa là nếu thuộc về sắc căn, cũng không lìa căn, là tâm tâm số pháp, vì đối tượng hành đã dừng trụ trong đó. Nếu khác thì không thọ. Ở đây có chín giới là không thọ. Thanh, tâm, pháp giới, không phải là tâm tâm số pháp đã dừng trụ trong đó.

Ngoài hai: Là năm giới nội, nếu ở hiện tại là thọ, trong ấy, tâm tâm số pháp đã dừng trụ. Nếu ở quá khứ, vị lai là không thọ, vì không phải tâm tâm số pháp kia đã dừng trụ. Sắc, hương, vị, xúc, nếu không lìa căn và ở hiện tại là thọ. Như tâm tâm số pháp đã dừng trụ trong căn. Trong tâm tâm số pháp kia cũng vậy, vì không lìa khỏi căn. Ngoài ra là không thọ.

Là vô vi cùng một: Tức một pháp giới là hữu vi cùng vô vi, vì ở đấy có ba thứ hữu thường nên không thể nói là hữu vi. Pháp giới khác là vô thường nên là hữu vi. Vì hữu vi và vô vi được hợp lại để nêu bày, nên nói Là vô vi cùng một.

Hoàn toàn là hữu vi, Nên biết mười bảy giới: Mười bảy giới là vô thường, nên tất cả là hữu vi, vì thế hoàn toàn là hữu vi.

Như vậy là đã phân biệt pháp tướng xong.

Hỏi: Thế nào là gồm thâu pháp? Là tự tánh hay là tha tánh?

Đáp: Là tự tánh.

Hỏi: Vì sao?

Đáp:

Các pháp lìa tha tánh

Đều tự trụ tánh mình

Nên nói tất cả pháp

Đều thuộc về tự tánh.

Các pháp lìa tha tánh: Nghĩa là mắt lìa tai. Như vậy, tất cả pháp không nên nói như thế. Nếu lìa là gồm thâu. Do vậy không phải thuộc về tha tánh.

Đều tự trụ tánh mình: Nghĩa là mắt tự trụ nơi tánh của mắt. Như vậy, tất cả pháp nên nói nếu trụ là gồm thâu. Vì vậy, nên nói tất cả pháp đều thuộc về tự tánh.

Đã nêu đặt các pháp đều thuộc về tự tánh, trong đó, pháp có thể thấy là thuộc về một giới, một ấm, một nhập. Tất cả pháp là như vậy.

Lại nữa, về nghĩa này nơi Phẩm Khế kinh sẽ nói rộng.

Phẩm thứ 2: HÀNH

Đã nói tự tướng của các pháp, như pháp sinh nay sẽ nói.

Hỏi: Nếu các pháp đều thuộc về tự tánh thì cũng nên do sức của mình mà sinh chăng?

Đáp:

Đến cùng không thể sinh

Dụng lìa bạn đồng hành.

Tất cả pháp đều không thể tự sinh. Vì sao? Vì tánh của các hành là yếu kém, không có thế mạnh. Như người bệnh gầy yếu, không thể tự sức mình đứng lên được.

Hỏi: Nếu không tự sức mình đứng lên thì làm sao dấy khởi?

Đáp:

Tất cả nhiều duyên lực

Các pháp mới được sinh.

Như người bệnh gầy yếu, phải nhờ người khác giúp đỡ mới đứng dậy nổi. Pháp kia cũng như vậy. Như tâm do bạn mới sinh nay sẽ nói:

Nếu tâm có chốn khởi

Tâm ấy tất có cùng

Tâm số pháp cùng tụ

Và hành bất tương ưng.

Tâm là ý, ý là thức, thật thì đồng, nhưng tên gọi có khác. Tâm này hoặc do nương dựa, hoặc do duyên, hoặc do thời gian nên khởi. Tâm kia đều cùng với tụ của tâm số pháp để sinh khởi.

Hỏi: Tụ của tâm số pháp v.v… là gì?

Đáp:

Tưởng, dục, cánh lạc (xúc), tuệ

Niệm, tư cùng giải thoát

Tác ý nơi cảnh giới

Tam-ma-đề và thọ.

Tưởng: Là lúc sự việc được lập, tùy theo hình tướng, diện mạo của sự việc ấy để nhận lấy.

Dục: Là lúc thọ nhận duyên, muốn nhận lãnh.

Cánh lạc (xúc): Là tâm dựa vào duyên hòa hợp, không lìa nhau.

Tuệ: Nghĩa là đối với duyên, quyết định, xét kỹ.

Niệm: Là ở nơi duyên thì nhớ nghĩ, không quên.

Tư: Là tâm tạo ra công đức, tội ác, đều cùng trái nhau.

Giải thoát: Nghĩa là ở trong duyên, lúc thọ nhận tưởng, thì sự việc ấy tất là có.

Tác ý: Là ở trong duyên phát động dũng mãnh.

Định (Tam-ma-đề): Là lúc thọ nhận duyên tâm không tán loạn.

Thọ: Là duyên với vui hay không vui cùng trái nhau cùng thọ nhận.

Lúc tất cả tâm sinh

Sinh ấy, Thánh đã nói

Đồng cùng một duyên hành

Cũng lại thường tương ưng.

Lúc tất cả tâm sinh, Sinh ấy Thánh đã nói: Là mười pháp này, lúc tất cả tâm sinh thì đều cùng sinh, nên nói là đại địa.

Đồng cùng một duyên hành: Nghĩa là tất cả tâm đều cùng có một duyên hành không lìa nhau.

Cũng lại thường tương ưng: Nghĩa là mỗi mỗi tâm số pháp này đều cùng với tâm cùng thường tương ưng cùng hành, vì lìa tăng giảm, nên gọi là tương ưng.

Đã nói tâm số pháp, nghĩa là thông suốt trong tất cả tâm. Không thông suốt nay sẽ nói.

Các căn và giác quán

Tín, ỷ, không phóng dật Tấn, hộ (Xả), các phiền não Hoặc lúc không tương ưng.

Các căn: Là các căn thiện không tham, không giận, không si.

Giác: Là ở nơi tâm thô nối tiếp nhau.

Quán: Là ở nơi tâm tế nối tiếp nhau.

Tín: Là thành thật, chân tịnh.

Ỷ (Khinh an): Là lúc tâm thiện ở nơi thân, tâm lìa ác, nên vui vẻ.

Không phóng dật: Nghĩa là lúc làm việc thiện không bỏ phương tiện.

Tấn: Là làm việc chuyên chú, gắn bó.

Hộ (Xả): Là làm việc, hành do không hành, cầu do không cầu, tự giữ gìn vô vi.

Các phiền não: Là như nơi phẩm Sử nói.

Pháp này không phải trong tất cả tâm có thể có được, vì hoặc có lúc tương ưng, hoặc có lúc không tương ưng.

Hỏi: Vì sao nói là tâm số?

Đáp: Ý nghĩa là tâm. Quyến thuộc của tâm đó nên nói là tâm số.

Đã nói về pháp tướng của các tâm số. Như về chỗ sinh nay sẽ nói.

Trong phẩm tâm bất thiện

Tâm số hai mươi mốt

Cấu uế hai tổn giảm

Cõi dục phi bất thiện.

Trong phẩm tâm bất thiện, Tâm số hai mươi mốt: Gọi là bất thiện, nếu tâm sinh khởi các phiền não của cõi dục, trừ thân kiến và biên kiến của cõi ấy. Vì đã chuyển thành quả không yêu thích, nên gọi là bất thiện.

Nên biết trong phẩm tâm này có hai mươi mốt tâm số pháp: Là mười pháp đại địa (Như tưởng dục xúc… đã nói ở trước), giác, quán, hai phiền não, không hổ, không thẹn, thùy miên, trạo cử, bất tín, phóng dật, lười biếng.

Cấu uế hai tổn giảm, Cõi dục phi bất thiện: Tức là phẩm tâm là phần cấu uế của cõi dục, không phải là bất thiện, như tâm tương ưng với thân kiến, biên kiến. Trong phẩm này, nên biết có mười chín tâm số pháp, trừ không hổ, không thẹn, vì hoàn toàn là bất thiện.

Thiện không chung hai mươi

Vô ký có mười hai

Hối cùng tâm thùy miên

Là có thể gia tăng.

Thiện không chung hai mươi: Gọi là không chung tức tâm có riêng một phiền não vô minh, sinh là hai mươi tâm số, trừ một phiền não. Ngoài ra như trước đã nói.

Gọi là thiện, tức là tâm tịnh, có thể chuyển thành quả yêu thích. Tâm này đều có chung, nên biết có hai mươi tâm số pháp: Là mười đại địa, giác, quán, tín, tấn, ỷ (khinh an), không phóng dật, căn thiện hộ (xả), hổ, thẹn.

Vô ký có mười hai: Nghĩa là trong phẩm tâm không cấu uế, có mười hai tâm số pháp: Là mười pháp đại địa cùng giác, quán.

Hối cùng tâm thùy miên, Là có thể gia tăng: Gọi là hối (ăn năn), là sự việc không thành, nên hối hận, gọi là hối. Hối là thiện, bất thiện. Trong phẩm tâm tương ưng kia, có thêm hối. Các tâm số pháp khác như trước đã nói.

Thùy miên (ngủ nghỉ) gọi là tâm lặng dứt, hoàn toàn khiến người không tự tại, là miên (ngủ say). Trong tất cả năm phẩm ấy sinh khởi miên kia đều tăng trưởng. Các tâm số pháp khác như trước đã nói. Nếu hối, miên không hành trong ba phẩm là tăng hai. Các tâm số pháp khác, như trước đã nói.

Hỏi: Tâm của cõi dục này nối tiếp nhau, còn cõi sắc là như thế nào?

Đáp:

Thiền nhất lìa bất thiện

Khác biết như dục hữu

Thiền trung gian trừ giác

Nơi trên quán cũng vậy.

Thiền nhất lìa bất thiện, Khác biết như dục hữu: Nghĩa là thiền thứ nhất đều là thiện. Trong cõi ấy có bốn phẩm (bốn chi): Thiện, cấu uế không chung, vô ký thì như nói về cõi dục. Trong thiện có hai mươi, vô ký có mười hai, cấu uế có mười chín. Đã lìa bất thiện, nên biết cũng lìa không hổ, không thẹn. Vì hoàn toàn bất thiện, nên không chung có mười tám.

Thiền trung gian trừ giác: Nghĩa là thiền trung gian không có giác. Thiền này hoàn toàn trừ giác, ngoài ra như nơi thiền thứ nhất đã nói.

Nơi trên quán cũng vậy: Nghĩa là nơi thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư cũng lại không có quán. Và trong cõi vô sắc tất cả đều trừ quán, giác như trước đã trừ.

Đã nói về tâm số pháp do hỗ trợ sinh, về sắc nay sẽ nói.

Cực vi ở bốn căn

Mười thứ phải nên biết

Thân căn có chín thứ

Tám thứ khác là hương.

Cực vi ở bốn căn, Mười thứ phải nên biết: Nghĩa là cực vi ở trong mắt là biết có mười thứ: Chủng loài đất, nước, gió, lửa. Chủng loài sắc, hương, vị, xúc. Chủng loài nhãn căn, thân căn. Cực vi của tai, mũi, lưỡi cũng như vậy.

Thân căn có chín thứ: Nghĩa là cực vi của thân căn khác có chín chủng loại. Thân căn ấy có một chủng loại căn. Ngoài ra, như trên đã nói.

Tám thứ khác: Là pháp khác, ở đấy không phải là căn. Cực vi trong sắc có tám thứ.

Hỏi: Cực vi này là nói ở giới nào?

Đáp: Là hương. Trong cõi dục có hương. Trong cõi sắc lìa hương. Nơi cõi sắc ấy tất cả đều trừ chủng loại hương, vị. Chủng loại khác như nói về cõi dục.

Hỏi: Trước đã nói: Nếu tâm sinh thì trong ấy tâm số pháp tất sinh cùng với tâm bất tương ưng hành. Ở đây đã nói về tâm số pháp, vậy tâm bất tương ưng hành là thế nào?

Tất cả pháp hữu vi

Sinh, trụ, biến dị, hoại.

Tất cả pháp hữu vi, mỗi mỗi pháp đều có bốn tướng sinh, trụ, dị, hoại.

Vì khởi hiện trong đời nên là sinh. Đã khởi tự sự được lập nên là trụ. Đã trụ rồi chuyển suy nên là dị. Đã biến dị rồi diệt nên là hoại.

Tướng ấy nói là tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Nếu tất cả pháp hữu vi đều có bốn tướng, thì tướng ấy lại có tướng nữa chăng?

Đáp: Phải. Cũng có bốn tướng. Bốn tướng khác trong tướng kia đều cùng sinh: Sinh là sinh. Trụ là trụ. Dị là dị. Hoại là hoại.

Hỏi: Nếu như vậy tức là vô cùng?

Đáp: Lần lượt lại cùng là.

Tướng này mỗi mỗi đều cùng là. Như sinh sinh mỗi mỗi đều cùng sinh. Như thế trụ trụ mỗi mỗi đều cùng trụ. Dị dị mỗi mỗi đều cùng dị. Hoại hoại mỗi mỗi đều cùng hoại. Do vậy không phải là vô cùng. Bốn tướng sau mỗi tướng đều hành một pháp. Bốn tướng trước mỗi tướng đều hành tám pháp.

Sinh là sinh tám pháp. Ba pháp trước, bốn pháp sau và pháp kia. Pháp còn lại cũng như vậy.

Đã nói về trợ bạn của các hành. Như do trợ bạn sinh nay sẽ nói.

Sở tác, cộng, tự nhiên

Phổ biến, tương ưng, báo

Từ sáu thứ nhân này

Chuyển sinh pháp hữu vi.

Tất cả nhân đều ở trong sáu nhân. Nhân này sinh khởi tất cả hành hữu vi. Trong đó, nhân sở tác: Là lúc sinh pháp, không chướng ngại, không lưu trụ, do đó nên pháp sinh không giống nhau, như do đất mà vạn vật được sinh.

Nhân cộng: Nghĩa là các hành, mỗi mỗi hành đều cùng là trợ bạn, do đấy nên sinh. Như tâm tâm số pháp, tâm bất tương ưng hành và các thứ cực vi.

Nhân tự nhiên: Nghĩa là nhân ấy tự nó đã giống nhau, như hành tập thiện thì sinh thiện, hành tập bất thiện thì sinh bất thiện, hành tập vô ký thì sinh vô ký. Như gieo trồng vật, tùy chủng loại làm nhân cho nhau.

Nhân nhất thiết biến: Nghĩa là các phiền não đều chuyển biến, nối tiếp sinh. Như kiến ngã, đã xét đoán nhập, chấp trước. Do kiến chấp này, nên đối với ngã, có xét đoán nhập chấp trước là thường, vô thường, hủy báng ấm cùng xét đoán nhập, chấp trước. Đối với ấm là cùng do dự rồi thọ nhận là có thường, lạc, tịnh cùng sinh. Các phiền não như vậy nói là nhất thiết biến (Biến hành), như nơi phẩm Sử đã nêu.

Nhân tương ưng: Là tâm và tâm số pháp, mỗi mỗi thứ đều có lực ở trong một duyên, một lúc hành cùng lìa thì không sinh.

Nhân báo: Nghĩa là hành sinh ở trong sinh, chuyển thành quả. Như thiện thì có quả đáng yêu thích, bất thiện thì có quả không yêu thích. Do đó nên sinh.

Đã nói về các nhân. Các pháp tùy theo trong nhân sinh nay sẽ nói.

Nếu tâm nhân báo sinh

Tâm số cùng phiền não

Là từ nơi năm nhân

Hưng khởi phải nên biết.

Nếu tâm tâm số pháp, nhân nơi báo sinh và các phiền não là từ năm nhân sinh.

Nhân báo sinh: Là từ nhân sở tác sinh: Là từ lúc sinh ấy hoặc giống nhau, không giống nhau, vì vật không chướng ngại nên sinh. Từ nhân cộng sinh: Là từ sức trợ bạn nên sinh. Mỗi mỗi pháp sinh ấy đều là trợ bạn với nhau và tâm bất tương ưng hành là cùng trợ bạn. Từ nhân tự nhiên sinh: Nhân đó có sự giống nhau với pháp vô ký sinh trước. Từ nhân tương ưng sinh: Là đều cùng có hành trong một lúc, một duyên. Từ nhân báo sinh: Là thiện, bất thiện kia, tức quả đó là tâm tâm số pháp cấu uế, trừ nhân báo là vô ký, là từ nhân nhất thiết biến sinh, do đấy nên sinh. Bốn nhân còn lại như trước đã nói.

Là không tương ưng kia

Các pháp tương ưng khác

Trừ vô lậu đầu tiên

Là từ bốn nhân sinh.

Là không tương ưng kia: Nghĩa là nếu sắc từ báo sinh và tâm bất tương ưng hành từ bốn nhân sinh là nhân sở tác, nhân cộng, nhân báo và nhân tự nhiên, thì sắc cấu uế và tâm bất tương ưng hành cũng từ bốn nhân sinh là nhân sở tác, nhân cộng, nhân tự nhiên và nhân nhất thiết biến.

Các pháp tương ưng khác, Trừ vô lậu đầu tiên, Là từ bốn nhân sinh: Tức tâm tâm số pháp khác, trừ pháp vô lậu đầu tiên kia, cũng từ bốn nhân sinh là nhân sở tác, nhân cộng, nhân tự nhiên và nhân tương ưng.

Gọi bất tương ưng khác

Nhân sinh nên biết ba

Và các tương ưng khác

Đầu sinh pháp vô lậu.

Nghĩa là pháp bất tương ưng trước đã nói, trong ấy nếu có nhân tự nhiên, trừ pháp vô lậu ban đầu là từ ba nhân sinh, là nhân sở tác, nhân tự nhiên và nhân cộng. Pháp tương ưng với vô lậu ban đầu cũng từ ba nhân sinh, là nhân sở tác, nhân cộng và nhân tương ưng, là không có nhân tự nhiên như trước.

Ở đây bất tương ưng

Nên từ hai nhân sinh

Nếu từ một nhân sinh

Sinh ấy tất không có.

Ở đây bất tương ưng, Nên từ hai nhân sinh: Nghĩa là trong phẩm vô lậu đầu tiên, thì sắc, tâm bất tương ưng hành là từ hai nhân sinh, tức nhân sở tác và nhân cộng. Đã nói tất cả pháp hữu vi, trong đó nếu từ một nhân sinh, tất là không có.

Đã nói về các nhân. Như nhân này, Đức Như Lai nhất định nhận biết các pháp tướng, do diệu lực của giác ngộ vì giáo hóa, nên thuyết giảng.

Đã nói các nhân. Về duyên nay sẽ nói.

Thứ đệ cũng duyên duyên

Tăng thượng cùng với nhân

Pháp từ bốn duyên sinh

Bậc minh trí đã nói.

Duyên thứ đệ: Là mỗi mỗi tâm sinh đều nối tiếp nhau không gián đoạn.

Duyên duyên: Là cảnh giới của tâm tâm số pháp. Vì duyên nơi cảnh giới kia, nên tâm tâm số pháp sinh.

Duyên tăng thượng: Là nhân sở tác đối với tất cả vạn vật. Lúc vạn vật sinh đều không gây trở ngại, chỉ tự làm đối tượng tạo tác (sở tác) là chính nên nói là duyên tăng thượng.

Duyên nhân: Là nhân cộng, nhân tương ưng, nhân tự nhiên, nhân báo, nhân nhất thiết biến.

Đã nói các duyên. Các pháp tùy thuận duyên sinh nay sẽ nói.

Tâm và các tâm số

Là từ bốn duyên sinh

Hai chánh thọ từ ba

Ngoài ra nói nơi hai.

Tâm và các tâm số, Là từ bốn duyên sinh: Là tâm tâm số pháp đều từ bốn duyên sinh. Vì mở ra, dẫn đường trước nên sinh, là duyên thứ đệ. Cảnh giới là duyên duyên, trừ chính cảnh giới của mình. Hết thảy các pháp khác đều là duyên tăng thượng cho nó.

Hai chánh thọ từ ba: Nghĩa là hai thứ định vô tưởng, định diệt tận là từ ba duyên sinh, ở đây tâm nhập định là duyên thứ đệ. Công đức đã sinh trước ở trong tự địa, là duyên nhân kia và các duyên kia đều cùng sinh: Sinh, trụ, dị, hoại. Cũng là duyên nhân, duyên tăng thượng như trước đã nói.

Ngoài ra nói nơi hai: Nghĩa là lìa tâm bất tương ưng hành khác và sắc kia là từ hai duyên sinh, là duyên nhân và duyên tăng thượng.

Hỏi: Vì sao gọi các pháp này là hành?

Đáp:

Nhiều pháp sinh một pháp

Một cũng hay sinh nhiều

Duyên hành tạo ra hành

Như vậy phải nên biết.

Nhiều pháp sinh một pháp, Một cũng hay sinh nhiều: Nghĩa là không có một pháp nào có thể tự lực sinh, chỉ có một pháp do nhiều pháp sinh, nhiều pháp cũng do một pháp sinh. Do đấy nên nói là Duyên hành tạo ra hành, Như vậy phải nên biết.

 

Phẩm thứ 3: NGHIỆP

Đã nói tự tánh của các hành cùng do các nhân duyên sinh. Nay nói các hành này đều có nhân, có thể tô điểm cho chủng loại quả, chủng loại sinh, sinh khởi khác biệt có thể đạt được, nay sẽ nói.

Nghiệp hay tô điểm đời

Nẻo nẻo tại xứ xứ

Là do chính tư nghiệp

Cầu lìa thế giải thoát.

Nghiệp hay tô điểm đời, Nẻo nẻo tại xứ xứ: Nghĩa là ba đời, ở trong năm nẻo vô số thứ thân sai biệt đã được tô điểm, là sự việc trang sức của đời, chính là nghiệp. Vì vậy Là do chính tư nghiệp, Cầu lìa thế giải thoát.

Nghiệp thân cùng miệng, ý

Gây tạo của hữu hữu

Từ đấy sinh các hành

Trang sức vô số thân.

Nghiệp thân cùng miệng, ý, Gây tạo của hữu hữu: Nghĩa là nghiệp của thân, miệng, ý từ đời này sang đời khác đã tạo tác. Từ đấy sinh các hành, Trang sức vô số thân: Về tướng của nghiệp này, nay sẽ lược nói.

Nghiệp thân giáo, vô giáo

Nên biết hai cùng có

Nghiệp miệng cũng như vậy

Nghiệp ý chỉ vô giáo.

Nghiệp thân giáo, vô giáo, Nên biết hai cùng có: Nghĩa là tánh của nghiệp thân có hai thứ: Là tánh có giáo và tánh vô giáo (Có giáo: Hữu biểu. Vô giáo: Vô biểu).

Ở đây: Có giáo: Tức động tác của thân là thiện, bất thiện, vô ký. Thiện là từ tâm thiện sinh. Bất thiện là từ tâm bất thiện sinh. Vô ký là từ tâm vô ký sinh.

Vô giáo: Nghĩa là nếu tạo nghiệp vững chắc, trong tâm có chuyển đổi khác, thì chủng tử này sinh. Như người thọ giới thiện trong tâm bất thiện, vô ký. Giới kia cũng tùy theo nhau. Như người gây nghiệp ác thì giới ác sẽ cũng tùy theo.

Nghiệp miệng cũng như vậy: Nghĩa là tánh của nghiệp miệng cũng có hai thứ.

Nghiệp ý chỉ vô giáo: Nghĩa là tánh của nghiệp ý hoàn toàn là vô giáo (không biểu hiện). Vì sao? Vì ý thức không khởi hiện, vì tư duy là vi tế nối tiếp nhau.

Hỏi: Năm nghiệp này, có bao nhiêu là thiện, bao nhiêu là bất thiện, bao nhiêu là vô ký?

Đáp:

Giáo nên biết ba thứ

Thiện, bất thiện, vô ký

Ý vô giáo cũng vậy

Khác không nói vô ký.

Giáo nên biết ba thứ, Thiện, bất thiện, vô ký: Nghĩa là giáo của thân, miệng được nói có ba thứ là thiện, bất thiện và vô ký.

Trong đó, thân giáo thiện: Là tâm thiện hành nơi việc trì giới v.v… Tâm thiện tác động nơi thân.

Thân giáo bất thiện: Là sát sinh, không cho mà lấy, hành phi phạm hạnh v.v… Tâm bất thiện tác động nơi thân.

Thân giáo vô ký: Là tâm vô ký tác động nơi thân, như các thứ oai nghi, công xảo, kỹ thuật.

Như vậy, nghiệp thiện của miệng là như lời nói không hư dối, tương ưng với lợi ích, lời nói đúng lúc v.v… đều từ tâm thiện sinh. Nghiệp bất thiện của miệng là như nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt v.v… đều từ tâm bất thiện sinh. Nghiệp vô ký của miệng là từ tâm vô ký sinh, cũng là nghiệp của miệng.

Ý vô giáo cũng vậy: Nghĩa là nghiệp ý vô giáo cũng có ba thứ là thiện, bất thiện, vô ký. Tâm thiện tương ưng với tư là thiện. Tâm bất thiện tương ưng với tư là bất thiện. Tâm vô ký tương ưng với tư là vô ký.

Khác không nói vô ký: Nghĩa là còn có hai thân vô giáo và miệng vô giáo. Hai thứ ấy là thiện, bất thiện, không có vô ký. Vì sao? Vì tâm vô ký yếu kém, tâm ấy không thể sinh khởi nghiệp có sức mạnh. Nghĩa là trong tâm có chuyển biến khác biệt thì tâm vô ký kia liền tương tợ và cùng tùy thuộc. Thế nên thân vô giáo, miệng vô giáo và không có vô ký.

Hỏi: Nghiệp vô ký có những tánh gì? Và thuộc xứ nào?

Đáp:

Sắc có vô ký hai

Ẩn mất, không ẩn mất

Ẩn mất thuộc nơi sắc

Ngoài ra ở hai cõi.

Sắc có vô ký hai, Ẩn mất, không ẩn mất: Nghĩa là nghiệp của thân miệng là tánh của sắc, do nghiệp là tánh của sắc. Hai thứ ẩn mất và không ẩn mất. Ẩn mất là bị phiền não che lấp, cũng từ các phiền não sinh, khác với kia là không ẩn mất.

Ẩn mất thuộc nơi sắc: Nghĩa là nếu ẩn mất thì hoàn toàn thuộc cõi sắc. Vì sao? Vì tư duy đoạn trừ phiền não có thể dấy khởi nghiệp của thân miệng. Tư duy đoạn trừ phiền não của cõi dục này hoàn toàn là bất thiện, không do phiền não bất thiện có thể dấy khởi nghiệp vô ký.

Ngoài ra ở hai cõi: Nghĩa là nghiệp vô ký không ẩn mất cũng hệ thuộc cõi dục, cũng hệ thuộc cõi sắc.

Nghiệp ý như nơi phần Tâm đã nói, là phân biệt về xứ khác, nên nay không nói.

Nghiệp thân, miệng vô giáo

Nên biết thiện, bất thiện

Ba tướng, thiền vô lậu

Giới oai nghi Điều ngự.

Nghiệp thân, miệng vô giáo, Nên biết thiện, bất thiện: Nghĩa là nếu nghiệp là tánh của sắc, trong ấy nếu vô giáo thì tánh là thiện, bất thiện.

Ba tướng, thiền vô lậu, Giới oai nghi Điều ngự: Nghĩa là giới vô giáo có ba tướng, thiền vô lậu sinh khởi oai nghi, Điều ngự.

Vô lậu: Là giới và đạo đều cùng hành, là hành chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.

Thiền sinh: Là thiền cùng hành lìa ác.

Giới oai nghi Điều ngự: Là giới của cõi dục.

Vô giáo ở cõi dục

Giáo dựa nơi hai cõi

Nên biết không cùng tâm

Tức tâm khác cùng nói.

Nghĩa là cõi dục vô giáo, là không phải tâm đều cùng kết hợp. Vì sao? Vì lúc thọ nhận giới, giới ấy tuy có tâm thiện, tâm bất thiện, tâm vô ký tùy hành, nhưng không cùng kết hợp với thiện, bất thiện, vô ký.

Đều cùng giáo: Nghĩa là cũng ở tại cõi dục, cũng ở tại cõi sắc, song không phải tâm cùng có chung. Vì sao? Do thân nên ở cõi sắc là vô giáo và vô lậu đều cùng với tâm kết hợp. Vì sao? Vì tâm nên vô lậu này không phải tùy thuộc vào hành trong tâm khác.

Đã phân biệt các nghiệp, nếu thành tựu nghiệp nay sẽ nói.

Giới vô lậu, luật nghi

Kiến đế đã thành tựu

Thiền sinh nếu được thiền

Trì giới sinh cõi dục.

Giới vô lậu, luật nghi, Kiến đế đã thành tựu: Kiến đế nghĩa là kiến vô lậu thấy Thánh đế. Lúc kiến vô lậu mới sinh, là thấy khổ đế nơi cõi dục. Thế nên tất cả Thánh nhân đều thành tựu giới vô lậu.

Thiền sinh nếu được thiền: Nghĩa là được thiền tức thành tựu giới của thiền.

Trì giới sinh cõi dục: Là nếu người thọ nhận giới, thì người đó thành tựu giới của cõi dục.

Đã lược nói về thành tựu. Như quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đạt được, nay sẽ nói.

Gọi trụ giới oai nghi

Vô giáo tại nơi nay

Nên biết luôn thành tựu

Hoặc lại tận quá khứ.

Gọi trụ giới oai nghi, Vô giáo tại nơi nay, Nên biết luôn thành tựu: Nghĩa là nếu trụ nơi giới, oai nghi, thì ở tất cả thời đều thành tựu giới vô giáo. Người ấy cho đến hết đời cũng không lìa giới, vì đã dứt hết các thứ trói buộc.

Hoặc lại tận quá khứ: Nghĩa là hoặc thành tựu giới vô giáo trong quá khứ, hoặc tận không mất giới. Tức ngay từ đầu đã tận (hoàn thành), là thành tựu quá khứ. Quá khứ giả gọi là tận.

Nếu có tạo nơi giáo

Tức thời lập đời giữa

Nên biết thành quá khứ

Đã tận nhưng không xả.

Nếu có tạo nơi giáo, Tức thời lập đời giữa: Nghĩa là nếu tạo nên giáo của thân, miệng, bấy giờ tức đã thành tựu hiện tại hữu giáo.

Hiện tại giả gọi là đời giữa.

Nên biết thành quá khứ, Đã tận nhưng không xả: Nghĩa là nếu giáo kia đã tận, không mất, bấy giờ tức thành tựu quá khứ.

Là được thiền vô giáo

Thành tựu diệt vị chí

Giữa nếu nhập chánh thọ

Giáo cũng như trước nói.

Là được thiền vô giáo, Thành tựu diệt vị chí: Nghĩa là nếu được thiền, thì người kia đã thành tựu quá khứ, vị lai. Vì sao? Vì như thiền kia, thì thành tựu giới cũng lại như vậy.

Giữa nếu nhập chánh thọ: Nghĩa là hiện tại được giả gọi là giữa. Nếu người kia nhập định không thì bấy giờ là đã thành tựu hiện tại vô giáo. Vì sao? Vì đã cùng với định kết hợp.

Giáo cũng như trước nói: Nghĩa là như trụ nơi giới oai nghi, nếu tạo nên giáo, bấy giờ là thành tựu hiện tại hữu giáo. Nếu không tạo nên giáo, lúc ấy là không thành tựu giáo. Nếu tận cùng không mất thì lúc đó là thành tựu quá khứ. Nếu không tận cùng, hoặc như tận cùng liền mất, bấy giờ là không thành tựu. Trụ nơi giới của thiền cũng lại như vậy.

Đều thành tựu nên biết

Được đạo hoặc chưa sinh

Trung gian tại tâm đạo

Đều không bỏ đời trước.

Đều thành tựu nên biết, Được đạo hoặc chưa sinh: Nghĩa là tất cả được đạo đều thành tựu vô lậu, vô giáo trong vị lai. Vì sao? Vì như tâm vô lậu kia, thì thành tựu giới cũng lại như vậy.

Trung gian tại tâm đạo: Nghĩa là đã hợp đạo, nếu nhập định, bấy giờ tức thành tựu hiện tại.

Đều không bỏ đời trước: Đời trước là quá khứ, người kia ở nơi hiện tại này là vô giáo. Nếu tận cùng không mất, thì như được quả Thánh. Cùng thoái chuyển là thành tựu quá khứ vô giáo.

Nếu tạo ác, bất thiện

Lập giới thành tựu hai

Đến triền kia trói buộc

Tận đã tận nên biết.

Nếu tạo ác, bất thiện, Lập giới thành tựu hai: Nghĩa là như trụ nơi giới oai nghi này, hoặc trụ nơi giới thiền, hoặc trụ nơi giới vô lậu, hoặc tạo nên triền bất thiện đục, nặng, bấy giờ ở trong bất thiện khởi vô giáo, tức thành tựu giáo và vô giáo. Nếu không phải là triền đục, nặng, thì không khởi vô giáo.

Hỏi: Có bao nhiêu thời gian để thành tựu?

Đáp: Đến triền kia trói buộc: Nếu triền kia đã trói buộc, thì tùy theo đấy có thể được thành tựu.

Tận đã tận nên biết: Là triền kia nếu đã cùng tận, thì giáo và vô giáo cũng theo đấy cùng tận.

Xứ giới không oai nghi

Vô giáo trong thành tựu

Ác nhưng quả không ái

Cũng lại quá khứ tận.

Xứ giới không oai nghi, Vô giáo trong thành tựu, Ác nhưng quả không ái: Nghĩa là nếu trụ nơi không giới oai nghi, bấy giờ là thành tựu bất thiện, vô giáo. Bất thiện gọi là quả không yêu thích.

Cũng lại quá khứ tận: Nghĩa là diệt, chẳng phải là không diệt.

Hữu giáo hiện nơi thời

Là nói trong thành tựu

Cũng lại tận quá khứ

Thiện nơi trên trái nhau.

Hữu giáo hiện nơi thời,

Là nói trong thành tựu,

Cũng lại tận quá khứ: Giáo nghĩa là như trước đã nói.

Thiện nơi trên trái nhau: Như trụ nơi giới oai nghi để nói. Bất thiện như vậy là trụ nơi không oai nghi nên nói thiện là đến nơi tâm thiện kia.

Nếu ở giữa đã tạo

Tức thành tựu đời giữa

Cũng lại tận quá khứ

Hoặc hai cũng lại một.

Ở giữa: Là trụ nơi không oai nghi, cũng không phải là không oai nghi, là ở phần giữa. Như trụ nơi thiện kia, nói là thiện. Hoặc lại hai là hữu giáo và vô giáo. Hoặc hoàn toàn là hữu giáo. Hoặc thiện bất thiện, hoặc một.

Hỏi: Thế nào là được giới của cõi sắc? Thế nào là xả bỏ? Là do thiền căn bản được hay là do phương tiện khác được?

Đáp: Không phải hoàn toàn do thiền căn bản được.

Tâm thiện trong cõi sắc

Được định giới oai nghi

Đây mất, kia cũng mất

Vô lậu có sáu tâm.

Tâm thiện trong cõi sắc, Được định giới oai nghi: Nghĩa là nếu được tâm thiện của cõi sắc, hoặc lìa dục, hoặc không lìa dục, thì tất cả tâm thiện đó đều được giới của cõi sắc. Vì sao? Vì tất cả giới trong tâm thiện của cõi sắc là thường cùng kết hợp.

Hỏi: Thế nào là mất?

Đáp: Là đây mất kia cũng mất.

Hỏi: Thế nào là vô lậu?

Đáp: Vô lậu có sáu tâm là giới vô lậu và tâm của sáu địa vô lậu đều cùng được.

Hỏi: Thế nào là mất?

Đáp: Là đây mất kia cũng mất.

Sáu địa: Là thiền vị lai, thiền trung gian và bốn thiền căn bản.

Hỏi: Giới này đến lúc nào thì xả?

Đáp:

Giới oai nghi, Điều ngự

Là xả nơi năm thời

Thiền sinh và vô lậu

Hai thời giác đã nói.

Giới oai nghi, Điều ngự, Là xả nơi năm thời: Nghĩa là giới oai nghi được xả trong năm lúc: Lúc bỏ đạo, lúc phạm giới, lúc chết, lúc tà kiến tăng và lúc pháp mất hết.

Thiền sinh và vô lậu, Hai thời giác đã nói: Nghĩa là giới của thiền có hai lúc xả, là lúc thoái chuyển và lúc sinh lên cõi trên. Giới vô lậu cũng có hai lúc xả, là lúc thoái chuyển và lúc đắc quả.

Hỏi: Còn nghiệp khác thì xả như thế nào?

Đáp:

Giới bất thiện có hai

Thiện vô sắc cũng thế

Cấu uế nói một lúc

Nếu nghiệp ở nơi ý.

Giới bất thiện có hai: Nghĩa là lúc không tạo phương tiện và lúc chết.

Thiện vô sắc cũng thế: Nghĩa là nghiệp thiện nơi vô sắc cũng có hai lúc xả: Lúc đoạn căn thiện và lúc sinh lên địa trên.

Cấu uế nói một lúc, Nếu nghiệp ở nơi ý: Nghĩa là nghiệp ý cấu uế được xả nơi một lúc, là lúc lìa dục.

Đã nói tánh và sự tạo thành của các nghiệp. Như nghiệp này, Đức Thế Tôn đã có vô số phân biệt, nay sẽ nói.

Nếu nghiệp cùng quả khổ

Nên biết là hành ác

Hành ác ý tăng thượng

Tham, giận dữ, tà kiến.

Nếu nghiệp cùng quả khổ, Nên biết là hành ác: Tức nếu nghiệp là bất thiện, thì đều nói là hành ác. Bất thiện là quả khổ.

Hành ác ý tăng thượng, Tham, giận dữ, tà kiến: Nghĩa là tư, nguyện bất thiện là hành ác của ý. Lại có ba thứ được nói là hành ác của ý là tham, giận dữ, tà kiến.

Tướng này trái hành diệu

Bậc Tối thắng đã nói

Nếu ở đây tối thượng

Đó gọi là mười đạo.

Tướng này trái hành diệu, Bậc Tối thắng đã nói: Nghĩa là tướng này trái với tất cả nghiệp thiện và không tham, không giận, chánh kiến.

Nếu ở đây tối thượng, Đó gọi là mười đạo: Nghĩa là nếu ở trong nghiệp bất thiện, nếu nghiệp là trên hết, tức nói là nghiệp đạo. Như sát sinh, không cho mà lấy, hạnh tà, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, tham, giận, tà kiến.

Ở đây, sát sinh: Là tưởng của chúng sinh, xả bỏ ý của chúng sinh, đoạn dứt thân mạng người khác, tìm phương tiện là thành nghiệp.

Không cho mà lấy: Là vật của người khác hiện có, tưởng của người khác, không cho mà liền lấy

Hạnh tà: Như phụ nữ hiện có của người khác mà xâm phạm, là phạm nơi đạo. Nếu là hiện có của mình mà luôn luôn xâm phạm, là không phải đạo.

Nói dối: Là lấy ý tưởng khác để nói nhằm lừa dối người khác.

Nói hai lưỡi: Là vì ghét người khác, nên dùng phương tiện để nói nhằm chia rẽ hai người đang thân nhau.

Nói lời thô ác: Là giận người khác, nên nói lời hung dữ, không đáng yêu thích.

Nói lời thêu dệt: Là tâm bất thiện nên nói lời vô nghĩa.

Tham: Là tham dục của cõi dục.

Giận dữ: Là phẫn nộ.

Tà kiến: Là hủy báng nhân quả.

Đấy là đạo nghiệp, các thứ khác không phải là đạo nghiệp. Nghĩa là hành này là phương tiện tìm cầu cùng với uống rượu v.v… Tư, nguyện của nghiệp bất chánh là nghiệp căn bản. Nghiệp này lấy mười nghiệp kia làm đạo.

Nếu nghiệp: báo hiện pháp

Kế đến nhận sinh báo

Hậu báo cũng như vậy

Ngoài ra nói bất định.

Nghĩa là lúc nghiệp có thể thành quả của hiện pháp thì không nhất định.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn đã nói: Ba nghiệp tạo báo vui, báo khổ, báo không vui không khổ, vậy nghiệp này như thế nào?

Nếu thiện trong cõi dục

Cùng ba địa cõi sắc

Là nên có báo vui

Người nhận định không định.

Nếu thiện trong cõi dục, Cùng ba địa cõi sắc, Là nên có báo vui: Nghĩa là nếu nghiệp thiện của cõi dục thì sinh báo là cùng với vui kết hợp. Và các thiền thứ nhất, thứ hai, thứ ba của cõi sắc cũng sinh báo là cùng với vui kết hợp. Đây là nói chung về báo vui.

Hỏi: Báo này cũng là nhất định chăng?

Đáp: Không. Vì người thọ nhận báo thì có nhất định và không nhất định. Hoặc nhất định, hoặc không nhất định là ở trong bốn địa, còn thiện thì tất cả đều có báo vui.

Sinh không khổ không vui

Tức tại nơi thiện trên

Nếu nhận nơi báo khổ

Là nói nghiệp bất thiện.

Sinh không khổ không vui, Tức tại nơi thiện trên: Nghĩa là nghiệp thiện nơi địa của thiền thứ tư cùng trong vô sắc là báo không khổ không vui. Đây là sinh báo cùng với không khổ không vui kết hợp, trong đó không có lạc thọ.

Nếu nhận nơi báo khổ, Là nói nghiệp bất thiện: Tức nghiệp bất thiện là báo khổ, tất cùng với khổ thọ kết hợp. Người nhận lấy báo này cũng nhất định và không nhất định như trên.

Hỏi: Đức Thế Tôn đã nói bốn nghiệp: Nghiệp đen có báo đen. Nghiệp trắng có báo trắng. Nghiệp đen trắng có báo đen trắng. Nghiệp không đen không trắng không có báo. Những nghiệp này là như thế nào?

Đáp:

Trong sắc có nghiệp thiện

Là trắng có báo trắng

Đen trắng ở cõi dục

Báo đen nói bất tịnh.

Trong sắc có nghiệp thiện, Là trắng có báo trắng: Nghĩa là nghiệp thiện của cõi sắc là báo trắng, hoàn toàn là tịnh và lìa bất thiện, nên báo ấy là hoàn toàn cực diệu. Đó gọi là nghiệp trắng có báo trắng.

Đen trắng ở cõi dục: Nghĩa là nghiệp thiện của cõi dục, là nghiệp đen trắng có báo đen trắng. Vì sao? Vì nghiệp thiện ấy đã bị bất thiện làm suy hoại, yếu kém, nên nói là đen trắng. Vì nhận lãnh báo ấy là xen tạp có yêu thích không yêu thích, nên nói là báo đen trắng.

Báo đen nói bất tịnh: Bất thiện nghĩa là bất tịnh, là đen tăng thêm ác, vì xấu xa thấp kém, nên nói là báo đen.

Nếu tư hay lìa bỏ

Dứt hết không còn sót

Nơi đạo vô ngại kia

Gọi là nghiệp thứ tư.

Gọi đạo có thể diệt trừ ba nghiệp này là đạo vô ngại. Nếu có tư thì tư này là nghiệp thứ tư. Ở đây, bốn tư là đạo tư duy diệt. Nghiệp thứ hai có mười ba gồm hai đạo: Đạo kiến đế bốn, đạo tư duy chín, đó là tư vô lậu, không tăng thêm ác nên không đen. Vì không thể vui, nên không trắng, vì cùng với vô cùng là trái nhau, nên không có báo.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói: Thân miệng ý luôn quanh co, cấu uế, vẩn đục. Sự việc này là thế nào?

Đáp:

Quanh co sinh nịnh dối

Cấu uế từ giận sinh

Dục sinh gọi là đục

Đức Thế Tôn đã nói.

Quanh co sinh nịnh dối: Là nếu nghiệp từ lừa dối sinh tức là quanh co dối trá.

Cấu uế từ giận sinh: Là nếu nghiệp từ giận dữ sinh tức là cấu uế hoàn toàn bất tịnh.

Dục sinh gọi là đục, Đức Thế Tôn đã nói: Nghĩa là nếu nghiệp từ dục sinh tức là vẩn đục, là hoàn toàn trần cấu.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn đã nói ba tịnh là thân, miệng, ý. Sự việc này là thế nào?

Đáp:

Tịnh tất cả hành diệu

Viên mãn là thân, miệng Nghĩa ý vô học mãn Tức là tâm vô học.

Tịnh tất cả hành diệu: Nghĩa là nếu có hành diệu thì tất cả đều tịnh, vì lìa phiền não bất tịnh.

Hỏi: Thế nào là viên mãn?

Đáp: Viên mãn là nói về thân, miệng, là hành diệu của thân miệng trong ý vô học. Đó gọi là điều thiện viên mãn, trừ bỏ hết thảy chướng ngại.

Nghĩa ý vô học mãn, Tức là tâm vô học: Nghĩa là nếu ý vô học viên mãn thì đó là tâm vô học. Vì sao? Vì tâm vô học là đã đạt được tướng Mâu-ni.

Đã nói về các nghiệp. Về phần giả gọi là quả nay sẽ nói:

Thiện ác, nghiệp bất thiện

Là cùng có hai quả

Thiện hoặc thành ba quả

Một quả là nói khác.

Thiện ác, nghiệp bất thiện, Là cùng có hai quả: Nghĩa là nghiệp thiện được thành hai quả là quả sở y và quả báo. Nghiệp vô lậu cũng có hai quả là quả sở y và quả giải thoát. Nghiệp bất thiện cũng có hai quả là quả sở y và quả báo.

Thiện hoặc thành ba quả: Nghĩa là nghiệp thiện hữu lậu có thể trừ bỏ các phiền não, là ba quả: Quả sở y, quả báo và quả giải thoát.

Một quả là nói khác: Nghĩa là nghiệp vô ký khác là một quả, tức quả sở y, không có quả khác.

Hỏi: Tướng của sắc được tạo là nghiệp của thân miệng hay là nghiệp do bốn đại tạo?

Đáp:

Tự địa nếu có đại

Dựa nơi nghiệp thân miệng

Vô lậu tùy sức được

Gọi quả của địa kia.

Tự địa nếu có đại, Dựa nơi nghiệp thân miệng: Nghĩa là nếu các nghiệp của cõi dục, là dựa nơi đại của cõi dục, do đại này tạo ra. Nghiệp của cõi sắc cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là các nghiệp vô lậu?

Đáp: Vô lậu tùy sức được, Gọi quả của địa kia: Nghĩa là nếu sắc vô lậu dựa vào bốn đại mà được, tức là dựa nơi địa kia. Nếu trụ nơi cõi dục mà được đạo, thì nghiệp của thân miệng kia là do bốn đại của cõi dục tạo.

Như vậy tất cả địa là tùy sức nơi cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Nếu người kia mạng chung, sinh trong cõi vô sắc, nếu chưa được mà được nghiệp của thân miệng, thì nghiệp của thân miệng này tức do bốn đại của địa vô sắc kia tạo.

Hỏi: Như Đức Thế Tôn nói ba chướng, là nghiệp chướng, phiền não chướng và báo chướng. Tướng của chúng là thế nào?

Nghiệp vô gián không cứu

Hay rộng sinh phiền não

Nẻo ác nhận báo ác

Chướng ngại cũng nên biết.

Ba pháp này là chướng ngại, tất không thọ nhận Thánh pháp, nên nói là chướng ngại.

Hỏi: Trong ba nghiệp này, nghiệp nào là ác lớn hơn hết?

Đáp:

Nếu nghiệp phá hoại

Tăng Đã nói là cực ác.

Nghĩa là nghiệp phá hoại Tăng là nghiệp ác hơn hết, là trụ kiếp trong đại địa ngục A-tỳ.

Hỏi: Nghiệp nào là tốt đẹp hơn hết?

Đáp:

Tự trong đệ nhất hữu

Nên biết đó hơn hết.

Ở hữu thứ nhất của xứ phi tưởng phi phi tưởng, địa kia gồm thâu tư là cực diệu cực đại. Quả lớn nơi địa kia là thọ báo sống lâu tám vạn kiếp.

HẾT – QUYỂN 1

Pages: 1 2 3 4