LUẬN TÔN BÀ TU MẬT BỒ TÁT SỞ TẬP
Tác giả: Tôn giả Tôn Bà Tu Mật
Hán dịch: Đời Phù Tần, Tam Tạng Tăng Già Bạt Trừng, người nước Kế Tân
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 6
Phẩm thứ 7: KIỀN ĐỘ CÁNH LẠC (Xúc)
Lại như Đức Thế Tôn nói: Có hai thứ vui, người xuất gia không nên học. Là thứ vui ở trong dục nhiễm đắm nơi dục và thứ vui vô sự của hiện tại.
Hỏi: Thế nào là thứ vui ở trong dục nhiễm đắm nơi dục? Thế nào là thứ vui vô sự nơi hiện tại?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nhớ nghĩ về dục của quá khứ, sinh khởi vui thích, đó gọi là thứ vui ở trong dục nhiễm đắm nơi dục. Nhớ nghĩ về dục của hiện tại, sinh khởi các thứ vui, đó gọi là thứ vui vô sự của hiện tại.
Hoặc có thuyết cho: Kiết sử cùng với dục sinh khởi các thứ vui, đó gọi là thứ vui ở trong dục nhiễm đắm nơi dục. Các thứ vui do dục cùng sinh ra, đó gọi là thứ vui vô sự của hiện tại.
Hoặc có thuyết nêu: Tham, dục cùng sinh ra các thứ vui, đó gọi là thứ vui ở trong dục nhiễm đắm nơi dục. Ý vui mừng tưởng về dục, liền sinh thứ vui ngủ nghỉ, vui được lợi lưỡng, đó gọi là thứ vui vô sự của hiện tại.
Lại nữa, quen chấp hướng đến dục, trước đã được thân ý đầy đủ sinh các thứ vui, đó gọi là thứ vui ở trong dục nhiễm đắm nơi dục.
Đã được các thứ vui cùng ý sinh do thân ý dấy khởi, đó gọi là thứ vui vô sự của hiện tại.
Lại như Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Các Hiền! Nếu thực hiện tập hợp được mười hai pháp hành này tức đạt được pháp Hiền Thánh.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Xứ xứ dừng trụ, tạo ra xứ trụ, xứ trí tuệ trụ xứ ứng hợp, đó gọi là oai nghi của tự thân. Nếu chú trọng trao truyền quyết định tức làm rõ một sự, phân biệt nghĩa lý, phân biệt diễn giảng. Nếu là Luận Vấn nghi thì diễn nói về nghi kia. Nếu là Luận An xứ thì bàn về sự an ổn ấy. Đó gọi là oai nghi của thân khác.
Hoặc có quán thấy thì không gian trá, không huyễn hoặc, tánh chất phác, đó gọi là oai nghi của tự thân. Phân biệt nghĩa căn là oai nghi của người khác. Đã được thân người sinh ra nơi vùng giữa đạt nước, được nhãn căn, nhĩ căn, ý căn, thuộc thể của Hiền Thánh, các thứ thanh tịnh, hiện bày sự thật kia. Các sử của hành cấu uế, ý không nhiễm đắm, dùng trí để thuận theo, không có lỗi lầm. Được mười lực tôn quý, gặp Đức Phật xuất thế, được ba hỷ nhập, trước không có. Ưa thích pháp thâm diệu của Đức Như Lai, như đệ tử của Đức Như Lai khéo thành tựu. Duyên nơi ý của Đức Như Lai kia, không có lẫn lộn, được pháp Hiền Thánh phân bố rộng khắp, giảng nói pháp vi diệu thuộc về trí tuệ, không nghi. Vâng giữ, đọc tụng, đầu tiên không xa lìa.
Các pháp trụ lần lượt được lưu truyền khắp, ở trong pháp bình đẳng, dùng pháp thực để thí các chúng sinh kia. Do nhân duyên nên dùng oai nghi của mình để ban cho người kia, tạo nên các phạm hạnh. Bốn xứ vô không hiện có tăng trưởng, được nhập của Hiền Thánh, sinh nơi xứ thiện kia, hiện năm xứ vô không, đều khiến xa lìa. Các căn đầy đủ, hiện sáu xứ vô không, đều khiến xa lìa. Ở nơi chưa từng hành, hiện bảy xứ vô không, đều khiến xa lìa. Sáu trụ xứ hiện tám xứ vô không, đều khiến xa lìa.
Lại nữa, do nhập nơi các nhập của Hiền Thánh, là nhân duyên sinh, tức hiện nghĩa nhân ái, là oai nghi khác. Đức Phật hưng khởi xuất thế, thuyết pháp vi diệu, do nhân duyên nên sức trượng phu đã là oai nghi, là các nhập hoan hỷ, hiện xoay chuyển, nói các pháp đã trụ, tức mong cầu diễn nói. Các căn đầy đủ là thể hiện công đức từ xa xưa đã tạo nên.
Lại như Tôn giả Đại-biến-giả-diên nói:
Người tín hoan hỷ niệm
Không khắp cảnh giới Phật
Xứ đã đến tối thắng
Ý thường liên kết hỷ.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Trí tuệ thành tựu nên tín kiên cố, hỷ lạc pháp Phật, chí tánh không loạn động. Thọ trì trí pháp, ý thường chuyên tinh. Các pháp như thế, không có sai trái, vì thuận theo giáo pháp, ở trong ấy nhập định, nên nói là tín, hoan hỷ, niệm.
Hầu cận Sa-môn Cù-đàm, ban đầu không hề có thiếu sót. Nơi chốn đi đến, ý thường liên hệ để trở lại nghĩa vi diệu. Chớ nên tạo quán này, vì đây không phải là pháp diệu.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Tín là tài sản bậc nhất.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Là đối tượng sử dụng của người trí, nên nói tín là tài sản bậc nhất. Nghiệp tạo tiền của, tài sản của Hiền Thánh không phải là của cải của Hiền Thánh đã có được, nhưng là tâm không lỗi lầm. Nên tạo ra niệm nay: Của cải kia không phải là tài sản của Hiền Thánh. Ngọc ma-ni, đồ đựng báu, tự nhiên thành vật dụng cùng với nhiều thứ vật báu khác xen tạp, trong ấy còn có những vật báu lạ như xa cừ, mã não, bị con người tham đắm nên phải giữ gìn. Con người cũng không biết chán dủ, nên không thể che giấu.
Tài sản của Hiền Thánh đều có bảy tướng: Như tài sản tín cho đến tài sản trí tuệ. Ở đấy đều tự vui thích, tâm hoan hỷ phấn khích, nhưng không ân cần, chỉ tự trụ nơi bình đẳng. Tham vướng nơi của cải của người khác, tâm không bền chắc. Những gì ham muốn tức là tạo nghiệp, không giữ gìn trí tuệ để trừ bỏ tham ái. Muốn trí tuệ được đầy đủ, phải dùng trí thắng tham ái kia.
Lại nữa, không phải là tài sản của Hiền Thánh, đó là chí tà tương ưng với nghiệp. Nhưng tài sản của Hiền Thánh thì cùng tương ưng với chí nghiệp, nên nói tín là tài sản bậc nhất.
Lại nữa, gọi là tín tức tin tưởng làm rõ của cải bên ngoài, ý không loạn động, nên thành tựu phép nhà, khéo nhận biết dừng đủ. Khéo có được ruộng vườn canh tác, tâm ý thiện vui thích. Cũng như nơi cõi này có pháp ánh sáng xuất yếu, là an vui. Ưa thích chốn tĩnh lặng, ưa thích dừng nghỉ, ưa thích xứ đạo tràng, nên nói lựa chọn pháp thiện là an vui. Trước uống lời cam lộ, lời nói không có giả dối, công đức rất an lành thành tựu, nên nói là vị vị an lành. Duyên nơi nhân duyên này, nhận biết trí tuệ là sáng, không có ý ngu, không cùng với điên đảo tương ưng, nên nói là rất sáng.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Như Tỳ-kheo A-nan, đối với sáu xúc đã lìa bỏ trọn vẹn, đều khiến diệt tận, cũng không có thân, đã sinh các khổ vui, để phải nhận báo kia. Cũng không có tâm, cũng không có hình thể, cũng không có các nhập. Cũng không có tạo tác đã sinh ra khổ vui để phải nhận báo kia. Cũng không có xứ hoàn toàn thiếu sót. Đây là biên vực của khổ.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Sáu xúc này là sáu xúc bên trong, đã vĩnh viễn dứt hết trọn vẹn, xả bỏ các dục tham chấp, lại không hành tập nữa. Dục hết, sử ái vĩnh viễn loại trừ, diệt hết kiết kiến, không còn khởi.
Lại có thuyết nói: Tư duy không có dục ác, làm rõ các dục đã hết, dốc tu hành chỉ quán.
Lại có thuyết cho: Không có dục, được môn giải thoát vô nguyện, đều thành tựu môn giải thoát không. Tôn giả kia không có thân, cũng không có trí tột cùng, cũng không có nói năng, cũng không có tâm kia, cũng không có trí, cũng không có thể ấy. Cùng các nhập ngoại chưa hết, tức không có các nhập, cũng không có nội nhập và pháp khác chưa dứt hết cũng lại không có. Cũng không có đối tượng nương dựa, cũng không có vĩnh viễn diệt hết.
Lại có thuyết nêu: Tôn giả A-nan kia không có thân trừ bỏ kiết sử. Như thế, Tôn giả kia tất cả là không có thân, tướng mạo của thân. Như thế, Tôn giả kia tất cả là không có thân, cũng không có hành của thân, hành của miệng, cũng không có hành của tâm ý, cũng không có thể kia, hành báo của cảnh giới cũng không xoay chuyển. Các nhập kia cũng không có tà kiến, các nhập nội liền đầy đủ. Dựa vào sự tranh tụng kia, không có báo khổ vui.
Tôn giả Đàm-ma-đa-la tạo ra thuyết này: Lúc sáu xúc tương ưng, tức là sáu thứ xúc chạm thuộc nhập. Đối với xúc kia tức có hệ lụy. Tôn giả ấy đã đạt được sự trọn vẹn hoàn toàn đầy đủ, không có dục ái chấp chưa hết, ở nơi tánh kia tương ưng liền quán căn bản của khổ. Như thế, sự trọn vẹn ấy cũng không có dục. Như thế là tương ưng với việc lìa bỏ ái chấp, liền trụ nơi không có dục. Như khổ kia tương ưng với tánh, trụ ở tưởng vô ngã, thị hiện trí tuệ.
Như thế thì sự trọn vẹn ấy đều tu hành diệt tận. Tu hành như thế xong, lìa bỏ ngu si, an trụ trong trí tuệ sáng tỏ. Vô minh không dục, tức khởi tưởng có minh, nên nói là trụ nơi diệt tận vô dư. Tôn giả kia không có thân, cũng không được thân bốn đại, như xứ sở trói buộc mình, tâm không có khổ vui, không có ghét bỏ sinh tử lưu chuyển. Bốn xứ thần chỉ, nhập vào sinh, nhập nơi tranh tụng, nghĩa là hoặc vướng mắc nơi chính mình, hoặc không vướng mắc nơi chính mình. Như xứ sở kia, là bốn xứ thần chỉ, ý xoay chuyển là xứ mở tránh, những sự việc này đều sáng rõ.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Mắt hy vọng, ý muốn thấy sắc, đối với các sắc bất thiện mắt không ưa thích.
Hỏi: Thế nào là mắt hy vọng, ý muốn thấy sắc, đối với các sắc bất thiện mắt không ưa thích?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Hy vọng do nơi cửa mắt, ái, giận hiện bày nguyên do ấy. Lại nữa, vì sao mắt hy vọng không phải thuộc về cảnh giới? Lại nữa, tương ưng với tâm nên có đối tượng soi chiếu sinh, tức là có ích. Như Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Các sắc hiện có thấy là ngã sở, cùng tự quán biết xong, nên xa lìa phân biệt chi tiết.
Hỏi: Thế nào là nhận biết sắc dừng trụ, không dời động khi đã lìa bỏ tưởng quán chi tiết?
Đáp: Như thế là liền có xúc tụ tập, xúc ấy tức trở lại cảnh giới, hoặc có ở đây, hoặc không phải ở kia. Như Phạm chí Trường Trảo nói: Sa-môn Cù-đàm! Tất cả những điều ấy tôi đều không nhận. Như thế là do nơi câu kinh.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Thấy Tôn giả Xá-lợi-phất xuất gia liền khởi ý nghĩ này: Tất cả tôi đều không nhận. Khi thấy hai người kia đều xuất gia, tất cả như điều tôi đã nguyện, nên nói với Đức Thế Tôn: Như thế là thấy nhưng không nhận chăng?
Lại có thuyết nêu: Tất cả quán đều có nghi.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói: Nghi của ông lại có nghi nữa chăng?
Lại có thuyết nói: Hiện bày tất cả là không phải, quán tất cả là không phải.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói lời này: Đây lại là điều không phải ông thấy được.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Ở chốn vắng vẻ, ưa tĩnh lặng, ý thường thích thú, thân cận tư duy, quán tịnh lạc, tư duy cùng với tư duy tương ưng.
Hỏi: Ở chốn vắng vẻ, ưa tĩnh lặng, tư duy về lạc tĩnh, hai thứ này có khác biệt gì?
Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Ở chốn vắng vẻ, ưa tĩnh lặng, do ý dừng nghỉ. Tư duy về lạc tĩnh tức đã được chỉ, quán.
Hoặc có thuyết cho: Ở nơi vắng vẻ, ưa tĩnh lặng, là hiện bày về Niết-bàn dừng nghỉ. Tư duy về lạc tĩnh là hiện bày đạo xuất yếu.
Hoặc có thuyết nói: Ở chốn vắng vẻ, ưa tĩnh lặng, hiện bày về ý thứ nhất, thứ hai đoạn trừ. Tư duy về lạc tĩnh là làm rõ về ý thứ ba, thứ tư đoạn trừ. Lại nữa, có hai tưởng: Dứt trừ các kiết sử, nhổ hết các nhiễm chấp, được vui thích, người kia từ đầu đã không xa lìa, đó gọi là ở chốn vắng vẻ, ưa tĩnh lặng. Nên quán có ba tư duy là xứ sở trụ của pháp thiện, là tương ưng trụ, tức có ích, tương ưng với chỉ quán, nên nói là vui vẻ. Đây là tư duy về lạc tĩnh.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Ở đây, Tỳ-kheo nên thân với thân cùng quán, chớ khởi tưởng thân, cũng chớ tạo ra tưởng quán.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Quán thân bất tịnh, chớ vướng chấp nơi vị, thân cũng chớ khởi tưởng tịnh.
Hoặc có thuyết cho: Thân là vô thường, không, vô ngã, nên tạo ra quán này. Chớ khởi tưởng về thân là tưởng thường, tưởng lạc, tưởng ngã, nên tạo ra quán này.
Lại có thuyết nêu: Tư duy về thân, quán thân, đừng chấp nguyên do xuất sinh thân.
Lại nữa, tịnh trừ hành, quán địa, biện giải về đại sự, xét tính việc ác đã hiện rõ, tạo phương tiện tư duy, đều nhận biết rõ đã diệt tận không sinh, mắt trí tuệ soi chiếu phân biệt đều rõ.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Có bốn pháp cú: Pháp cú không thể hủy hoại. Pháp cú không loạn. Pháp cú đẳng niệm. Pháp cú đẳng định.
Hỏi: Nghĩa của pháp cú như thế là những gì?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Các pháp cú là đoạn trừ, nên nói là pháp cú. Không thể hủy hoại căn thiện là căn thiện không giận. Đẳng niệm, đẳng định là căn thiện không si.
Hoặc có thuyết nêu: Vì tu hành các pháp, nên nói là pháp cú. Không khởi tham dục là tham dục đã hết. Không có giận dữ là giận dữ đã hết. Đẳng niệm là đẳng niệm về thùy miên. Đẳng định là các thứ điệu hí (Trạo cử), nghi dứt hết. Lại nữa, pháp cú của Sa-môn không thể hủy hoại, là giới không giận dữ. Đẳng niệm là cầu oai nghi của định. Đẳng định là cầu oai nghi của trí tuệ.
Như Tỳ-kheo-ni Đàm-ma-đề nói: Lạc thọ là phần của khổ thọ.
Hỏi: Phần, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Có đối tức có phần, đối với lạc thọ kia nên có khổ thọ là đối tự nhiên. Khổ thọ có phần của lạc thọ, là phần tự nhiên. Khổ lạc thọ có phần của bất khổ bất lạc thọ. Trừ bỏ bất khổ bất lạc thọ có phần của vô minh. Minh tương ưng vô minh là phần của minh, lần lượt cùng dứt hết. Nhân minh là phần của hành. Hành cấu uế là phần của vô minh đoạn diệt. Tạo ra hành như thế là phần của Niết-bàn. Cảnh giới Niết-bàn vô dư diệt tất cả các hành xong, tạo ra Niết-bàn không phần.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi cho đấy là giới, là phạm hạnh.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Tôn giả Ma-lâu-tử nói: Là mạng, là thân, kiến đế là phạm hạnh tôi đã tu. Thế nào là thân khác, mạng khác? Ở đây, Tỳ-kheo kiến đế là phạm hạnh mà ta đã không tu.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Tuy ghi nhận riêng một kiến, nhưng không ghi nhận riêng kiến khác.
Tôn giả Đàm-ma-đa-la tạo ra thuyết này: Như thế là mạng, là thân. Ở đây, Tỳ-kheo kiến đế là không tu phạm hạnh. Đối tượng hướng đến của thấy biết là nơi chốn nương dựa kia. Thấy biết là đi đến, soi chiếu, không dựa vào xứ sở. Cả hai đều cùng có liên hệ. Nói như thế là tối thắng.
Có mười hai sự tụ
Có thân, có ngã kiến
Tư duy tất cả nhẫn
Pháp cú, mạng Tỳ-kheo.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Thế nào? Ông là thái tử Ma-la, có Phạm chí khác trẻ tuổi, đoan nghiêm, nên tạo ra hành như thế.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Tôn giả Ma-la, thái tử, chí ưa mười tưởng, nên nói như vậy. Nhưng Đức Thế Tôn vì muốn nhổ hết các kiết sử, nên lại nói: Người kia như thế là muốn khiến kiết sử tham dục được diệt hết.
Đức Thế Tôn tạo ra thuyết này: Như cú ngữ của Khế kinh, nhưng cùng với Phạm chí dị học luận về sự tụ tập của kiết sử, là do tư tưởng mà được. Thái tử Ma-la đoan nghiêm, ông như đứa trẻ thơ, còn nằm ôm gối, chưa có sắc dục, huống chi là nên có tham dục buộc trói tâm ý. Kiết sử là sử tham dục, ái.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn quán về việc phạm các tội lỗi?
Đáp: Như sử tham dục nhận biết có sức yếu kém, thọ nhận lời răn dạy để thâu giữ. Nếu người kia có sức, lời nói không có sai trái. Hoặc là người có tham thuộc hạng trung hạ, thì không hóa độ, tức không có năm kiết phần trên. Như vậy nên xét kỹ sự việc này không có khác, thế nên Đức Thế Tôn nhận biết.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Ở đây, Tỳ-kheo Bạt-đà-bà-lê có đầy đủ hạnh, nhưng giới kia không đầy đủ, thường ở nơi chốn tĩnh lặng, hoặc nơi núi rừng, tọa thiền. Do ở nơi chốn như thế để tọa thiền, nên Đức Thế Tôn mới nói lời chỉ dạy này: Chư thiên cũng lại chỉ dạy. Người trí phạm hạnh cũng chỉ dạy. Cũng tự mình chỉ dạy.
Hỏi: Thế nào là nghĩa chỉ dạy?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Người bị quở trách là lời răn dạy tối thắng. Cũng chỉ dạy chư thiên, chỉ dạy người trí phạm hạnh, cũng tự chỉ dạy.
Hoặc có thuyết cho: Nên nói là thường quở trách. Đức Thế Tôn cũng thường quở trách: Người này không phải là đệ tử của ta. Chư thiên cũng thường quở trách: Sa-môn này không phải là Thích tử. Người trí phạm hạnh cũng thường quở trách: Đây không phải là pháp bình đẳng. Lại tự trách cứ răn dạy: Ta không phải là Sa-môn. Lại nữa, như thế là tán thán sự răn dạy bình đẳng của Đức Thế Tôn. Như thế là nghĩa thường quở trách của Đức Thế Tôn. Như Đức Thế Tôn nói: Thành tựu năm pháp ở nơi chốn tĩnh lặng, hoặc nơi núi rừng, tọa thiền, dùng y phục cũ xấu, nhận biết về dừng đủ (tri túc). Các thứ ăn uống, thuốc men trị bệnh đều tri túc, không tạo ra tưởng ái dục. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng nghĩa như thế để quở trách, chỉ dạy. Chư thiên cũng chỉ dạy. Như đã nói: Trí tăng thượng của thế gian và người phạm hạnh cũng lại chỉ dạy. Như nói: Thế gian tăng thượng, pháp tăng thượng, ngã tăng thượng.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Đó gọi là khổ. Đó gọi là khổ tập. Đó gọi là quán thứ nhất. Đó gọi là khổ tận (Diệt). Đó gọi là khổ tận xuất yếu. Đó gọi là quán thứ hai.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đó gọi là khổ, đó gọi là khổ tập, là quán về quả thật của nhân duyên. Đó gọi là khổ tận, đó gọi là khổ tận xuất yếu, là quán về quả thật của nhân duyên.
Hoặc có thuyết cho: Thứ nhất là quán kiết sử. Thứ hai là quán tịnh.
Lại có thuyết nói: Một là quán vốn đã tạo ra. Hai là quán đã vượt qua.
Lại có thuyết nêu: Thứ nhất là quán khổ. Thứ hai là quán không có khổ. Lại nữa, thứ nhất là quán hữu lậu. Thứ hai là quán vô lậu.
Như Phạm chí Ma-kiệt đàn-đề nói thế này: Ta thấy sắc đẹp, Bá-la-đọa-thệ của ông, ta thấy Sa-môn Cù-đàm ngồi trên chiếc gối màu đã hoại.
Hỏi: Nghĩa của câu nói ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Các căn nói là hoại. Phạm chí kia muốn nói về pháp nhãn vô sinh. Đức Thế Tôn tạo ra thuyết này: Các căn như mắt cũng là khác với sách vở của dị học. Phạm chí kia do sự xoay chuyển ấy, du hành nơi bùn lầy nhưng không thấy nhiễm ô.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Quán về uy lực kia, cũng quán về sự chỉ dạy. Không có uy lực, không có chỉ dạy, nên vì họ nói pháp.
Hỏi: Thế nào là có uy lực, có chỉ dạy, không phải vì họ nói pháp?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Do căn trí của người, nên mang tên là hành thiện. Lúc nói hành bất thiện, cũng khen ngợi sự chỉ dạy. Nếu đối với người kia, khen ngợi hành thiện, trừ bỏ hành bất thiện để giảng nói pháp bình đẳng.
Hỏi: Lại như Đức Thế Tôn vì người nói khen ngợi hành thiện, trừ bỏ hành bất thiện, là muốn cho Đức Thế Tôn khen ngợi sự chỉ dạy chăng?
Đáp: Đức Thế Tôn cũng nhận biết giới luật này. Đức Thế Tôn không nói lời này: Người kia có răn dạy.
Hoặc có thuyết cho: Không có uy lực của công đức, tạo công đức của sự răn dạy nên có răn dạy, đều khen ngợi danh xưng của họ. Nếu không khen ngợi danh xưng kia, thì thật sự không có nghi, chỉ tùy thời nói pháp. Lại nữa, vì cũng không có phương tiện thiện xảo, nên tuy đã chỉ rõ truyền trao, nhưng cũng không răn dạy. Nếu có phương tiện, thì đối với người kia, cũng nên thận trọng từng bước để răn dạy họ. Không quán phương tiện, nhưng quán không phương tiện, là muốn khiến cho người kia nên vì họ phân biệt nói pháp, tùy thời tạo ra quán, đến khiến đạt được sở nguyện.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Do người nữ có tám sự việc trói buộc người nam: Ca, múa, bàn bạc, cười, nhan sắc, tiếp xúc, dáng dấp, hình thái.
Hỏi: Những gì là nghĩa ân ái?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thân thể bị thương tật là nghĩa ân ái.
Hoặc có thuyết cho: Thân thể thương tật, thân thể lành lặn là nghĩa ân ái.
Hoặc có thuyết nêu: Nghĩa của căn, tướng của căn, các căn tổn thương là nghĩa ân ái.
Đức Thế Tôn nói như thế này: Yêu tướng người nữ là nghĩa ân ái.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Ông Phục Ba-già (Phạm chí), Như Lai có bốn cách thuyết pháp. Pháp ấy có vô lượng công đức, vô lượng pháp cú, vị của vô lượng pháp cú là nói rộng.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Đây gọi là bất thiện, đó gọi là ý thứ hai đoạn. Pháp kia lại diệt bất thiện, đó gọi là ý thứ nhất đoạn. Đây gọi là thiện, đó gọi là ý thứ ba đoạn. Pháp kia lại khiến tư duy, đó gọi là ý thứ tư đoạn. Pháp kia có vô lượng công đức, văn tự vô lượng, đó gọi là pháp cú. Thứ lớp của văn tự, đó gọi là vị của pháp cú.
Hoặc có thuyết nêu: Đó gọi là bất thiện. Đối tượng đoạn của khổ đế, đó gọi là tập đế. Khéo tư duy về tận đế, đó gọi là đạo đế. Pháp kia có vô lượng công đức, đó gọi là pháp cú. Vị của danh thân là vị thân.
Lại nữa, Như Lai nói pháp hữu tận, ứng hợp với tất cả pháp, nói do hai dấu vết: Dấu vết xuất yếu của thân tập bình đẳng. Dấu vết xuất yếu của thân tận bình đẳng. Pháp kia không có điên đảo, không có nhẫn, không có thiện. Có điên đảo này là có thoái chuyển. Trong nhẫn thiện có vô lượng công đức, do đó tạo ra thuyết này: Nghĩa là lời pháp cú, vị pháp cú diệt thân tự.
Như Trưởng giả Ưu-bà-lê nói: Như Lai, Thế Tôn ở trong đám dị học bất thiện ngu si kia để chỉ dạy.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Không thể khiến người không tin lửa có thể thiêu đốt. Lại nữa, người không tin kia là hiện rõ nghĩa không có.
Hoặc có thuyết nêu: Hiện bày người không tin kia đã hết. Lại nữa, hoặc ở vào thời ấy, Ni-kiền-đồ (Tự là Ưu ba ly) không tin, nên ở trong pháp này hiện rõ là có tin.
Như Tôn giả A-nan nói: Tôn giả Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn. Ta nay đối với Đức Thế Tôn tinh thần bị bế tắc, không nhận biết bốn phương, cũng không tư duy pháp.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Thân không có đối tượng nhận biết là hiện thân hành ác. Không nhận biết bốn phương là hiện tâm không hành. Không tư duy pháp là hiện không đọc tụng.
Lại có thuyết nói: Thân không có đối tượng nhận biết là hiện thân nói lần nữa. Không nhận biết bốn phương là hiện tâm có ngu tối. Không tư duy pháp là hiện không nói pháp.
Lại có thuyết cho: Thân không có đối tượng nhận biết là hiện thân không hành. Không nhận biết bốn phương là hiện tâm có tán loạn. Không tư duy pháp là cũng không nghe chuyện xa xưa.
Lại như Đức Thế Tôn nói:
Thức pháp như huyễn
Tối thắng nên nói.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Sắc là ngã sở. Nếu nhân duyên của đống bọt nước nơi sắc kia hội hợp, thì vô số vật thành tựu dần dần tụ tập. Duy trì không bền chắc do tánh yếu kém, nên không được trụ lâu. Nhiều thứ oán đối gần gũi với oán đối, tạo nên sắc ái vướng chấp như thế. Nhân duyên của sắc dục hội hợp là căn của xúc sắc vị hương. Như thế, vô số vật là căn bản của sắc. Ở nơi bào thai mẹ. Ở nơi thai lớn dần. Thời kỳ thọ mạng đi qua, vào lúc bấy giờ, dần dần tiến tới trước, tụ tập một xứ, có nam nữ tổn hại, nhận biết có xứ sở của chúng sinh, hình tướng của chúng sinh không bền chắc. Bền chắc tương ưng với tánh của nhân duyên yếu kém, tạo tác các hành, hóa ra từng ấy thứ oán đối tụ tập, tất nên tan hoại. Oán đối có sức thường bị trói buộc, tất nên hoại. Vì tự tánh trụ gần gũi với oán đối, nên nói sắc như đống bọt nước. Thọ như đám bọt bèo nước nổi. Sắc kia như đám bọt bèo trong nước khi mưa tuôn xuống cùng với gió hợp thành. Như thế là thọ của ngã, ngã sở tức cảnh giới của các căn cùng với thức đồng sinh, nên nói thọ như đám bọt bèo của nước.
Tưởng như dương diệm, tức vào mùa hè oi bức, đầy nắng lửa, không có mây che, cũng không có gió bụi, không có nước uống, liền khởi tưởng nước. Như thế tạo ra tưởng của ngã, ngã sở, đều là huyễn hoặc chúng sinh, đều là điên đảo, nên nói là tưởng như dương diệm.
Hành như cây chuối: Hành kia như cây chuối, cao lớn và thẳng tắp, toàn là vỏ bao bọc với nhau, trong không có thật. Như thế, ngã, ngã sở không được trụ lâu. Tạo ra từng ấy thứ hành, nhưng không có thật, đều không bền chắc, nên nói hành như cây chuối.
Thức pháp như huyễn: Thức pháp kia như nhà ảo thuật, không có chúng sinh, tưởng cho là có chúng sinh. Thức của ngã, ngã sở là như thế, nên nói thức như pháp huyễn. Vì tối thắng là thích chủng, nên nói là tối thắng thuyết.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Người học sinh khởi ba thứ tổn hại.
Hỏi: Thế nào là nghĩa của ba thứ tổn hại?
Đáp: Ba thứ này tụ tập nên nhận biết có bất tịnh, nghĩa là dâm, nộ, si (Tham sân si: Ba độc).
Lại như Đức Thế Tôn nói: Vua Ba-tư-nặc! Thế nào Đại vương! Ở nơi cỏ, tre, bụi rậm, hoặc đống củi khô, dùng lửa để đốt các thứ cây cỏ kia, từng có vô số thứ hình khác chăng?
Đáp: Về nghĩa, mỗi mỗi thứ đều khác, âm thanh không đồng.
Đoan nghiêm trụ nơi vắng
Ngu si không răn dạy
Ưu-ba-ly đã nói
Sắc huyễn cùng ba độc.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Có bốn pháp xả. Thế nào là pháp xả? Như đã nói: Không phải là nghĩa của vị cú. Lại nữa, Khế kinh có lời nói thành, như đã nói, tức là sáu quả của pháp xả kia. Nói Khế kinh này là pháp xả bỏ, như đã nói, tức là nghĩa kia.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Nếu Tỳ-kheo nuôi dưỡng người bệnh, tức cúng dường thân Ta không khác.
Hỏi: Thế nào là nuôi dưỡng người bệnh tức cúng dường Đức Thế Tôn không khác?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nuôi dưỡng người bệnh thoát khỏi tai ách khốn khổ.
Lại có thuyết cho: Phật, Thế Tôn là pháp thường. Nuôi dưỡng người bệnh là tăng trưởng các pháp.
Lại có thuyết nêu: Người kia không cúng dường, nhưng cúng dường Đức Phật, Thế Tôn.
Lại nữa, Đức Thế Tôn luôn thương xót những người bệnh, cũng như có lần nói với người nuôi bệnh nhân: Ông nuôi dưỡng người này tức là cúng dường Ta không khác.
Lại nữa, Đức Như Lai luôn tự thương xót chúng sinh. Vì thế cúng dường Đức Thế Tôn là hộ trì cho chúng sinh.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo! Ta sẽ giảng nói pháp, nghĩa lý thâm diệu, là vị của các pháp.
Hỏi: Thế nào là nghĩa? Thế nào là vị?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Danh là tướng của vị. Phân biệt danh, đấy là nghĩa.
Lại có thuyết cho: Diễn bày rộng là nghĩa. Khiến ý vui thích là vị.
Lại có thuyết nêu: Tất cả danh là vị. Hiện vi diệu là nghĩa.
Lại nữa, nghĩa là dựa vào chương cú phần đoạn của Khế kinh kia. Dần dần tương ưng là vị.
Như đã nói: Bà-la-môn nói: Con người dựa vào nơi chốn nào?
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Nếu có tương ưng với sự lựa chọn được lợi ích lâu dài, tức là chỗ nương dựa của con người kia, nên có tên con người khởi sinh cùng với phương tiện. Cũng như dựa vào lúa gạo, tức có tên con người sinh khởi. Lúa, gạo dựa nơi đất. Đất bị nước cuốn trôi. Gió duy trì nước. Nên vào lúc ấy, gió hiện đầy dẫy nơi hư không. Gió là thuộc về hư không. Không là thuộc về ánh sáng, sau đấy nhận biết có hư không. Chiếu sáng là thuộc về mặt trời, mặt trăng. Ở đấy khi ba cõi xoay chuyển, cho đến Phạm thiên, mỗi mỗi cõi đều cùng nói như thế. Phạm thiên, Phạm ca cao thiên, Đại phạm. Do nhẫn hoàn thành, nhẫn diệt các kiết.
Lại có thuyết nói: Dựa nơi Niết-bàn, dựa vào Niết-bàn để trụ.
Hỏi: Làm sao nhận biết được Đức Thế Tôn đã thành tựu giới, thành tựu tam muội, thành tựu trí tuệ?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do nơi A-hàm nên nhận biết được. Đức Thế Tôn cũng nói: Này Ca-diếp ! Như Lai cũng không thấy trời, người, ma, Phạm thiên, chúng Sa-môn, Bà-la-môn nào, hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn khác tự nói: Ta, giới thành tựu, định thành tựu, vượt hơn Như Lai. Trí tuệ thành tựu vượt hơn Như Lai. Giải thoát thành tựu vượt hơn Như Lai. Giải thoát kiến tuệ thành tựu vượt hơn Như Lai.
Hoặc có thuyết cho: Là thân Như Lai tạng. Lại nữa, thọ ký quyết định, ở trong pháp thân trí tuệ thành tựu, tức nhận biết tam muội thành tựu. Tam muội thành tựu tức nhận biết giới thành tựu. Giới thành tựu tức nhận biết có Niết-bàn. Ý của giáo pháp là không thể lường, cũng như tam muội trụ, nên ý cũng không tạp loạn, cũng không phạm giới. Thế nên Đức Thế Tôn, giới thành tựu là hơn hết, tam muội thành tựu là hơn hết, trí tuệ thành tựu là hơn hết.
Hỏi: Vì sao vô thường nói là tâm bất tương ưng hành, nhưng không có khổ, không, vô ngã?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Vì vô thường không phải là pháp của tâm ý. Còn khổ, không, vô ngã là pháp của tâm ý.
Vô thường này là pháp đã suy niệm của tâm, cũng là pháp của tâm bất tương ưng. Nếu tạo ra quán không, tư duy về không, thì vô thường kia tức là không. Nếu tư duy về vô thường, không phải quán vô thường, thì sự tư duy ấy là vô thường. Nếu không tạo ra quán vô thường, thì vô thường khác, không khác.
Lại nữa, trí tụ tập có khổ bệnh, nên nhẫn nhận biết là không, vô ngã là vô thường.
Lại nữa, vô thường là vật không có tướng.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Ở đây không thể tạo tác như xứ sở ở tại nơi nhà. Hàng phạm hạnh Loa-văn cả đời tu hạnh thanh tịnh.
Hỏi: Nghĩa của Loa-văn, sự việc ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Xưa có người tiên tên Loa-văn, tinh tấn thuần thục đầy đủ, nhưng ở nơi nhà thì không có phạm hạnh.
Hoặc có thuyết cho: Như Loa-văn kia có hạnh thanh tịnh, nhưng ở nơi nhà thì không thanh tịnh, hành thiện cũng không thanh tịnh. Lại nữa, Loa-văn tạo ra thư văn, gió mưa không thể hủy hoại, ở nơi thế tục tu phạm hạnh, nhưng đây không phải là thanh tịnh. Như người A-na-hàm ở nhà, quyến thuộc vây quanh, đấy không phải là hạnh thanh tịnh thiện chăng?
Hỏi: Thế nào là dùng thần túc có thể ẩn giấu hình không hiện?
Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Tự hóa hình rất nhỏ.
Hoặc có thuyết nói: Hóa bốn đại vô sắc.
Hoặc có thuyết cho: Tư duy về phần nhẹ lên, khiến hình bay lên hư không, mắt thường trông thấy rộng lớn. Lại nữa, cảnh giới của thần túc không thể nghĩ bàn.
Hỏi: Thế nào là thần túc hóa ra hình rất nhỏ?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Hóa ra bốn đại vô sắc.
Lại có thuyết cho: Dùng vật lớn vào vật nhỏ, nặng dựa vào nhẹ, như đã sinh theo, lấy ánh sáng của đốm lửa trong ngọn lửa lớn. Lại nữa, cảnh giới của thần túc là không thể nghĩ bàn.
Như đã nói, người tiên có năm, lại nói là sáu.
Hỏi: Nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Người tiên có năm, Đức Thế Tôn là trên hết, đây là nghĩa ấy. Lại nữa, trong năm Tỳ-kheo, Đức Thế Tôn là sáu, đây là nghĩa ấy. Như Tôn giả Bằng Kỳ nói: Ông lựa chọn niệm, thấy, nghe, nghĩ, biết.
Hỏi: Thấy, nghe, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Nghĩa là kiết sử. Bất tận nói là kiết lưu. Tận nghĩa là lậu tận.
Lại nữa, các đối tượng được nghe, thuộc về phương tiện. Khi Bồ-tát nghe tất cả phương tiện kia, gọi là thấy, nghe, nghĩ, biết. Như Tôn giả Tân-đầu-lư nói: Như đại vương đã bảo: Phạm chí Yết-đà-bàlê, ngàn ngàn không biết rõ, không thể tính đếm. Như người ngu kia, là vô minh, bất thiện, không phải là ruộng phước tốt.
Hỏi: Người ngu kia không phải là ruộng phước tốt, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Như người cày ruộng, không phân biệt ruộng tốt, người kia tức không phải là người của ruộng tốt, nên người ấy cũng không biết có ruộng tốt này, cũng không nhiễm chấp, đó gọi là không phải ruộng tốt. Người kia cũng không nhận biết có là phải, không có là phải, cũng không nhiễm vướng, đó gọi là không phải ruộng tốt. Lại nữa, nơi chốn hạt lúa sinh mầm, phải phân biệt tốt xấu, tức mới biết có ruộng tốt. Nhưng người kia không nhận biết. Đó gọi là không phải ruộng tốt.
Hỏi: Các đối tượng tranh tụng đều tương ưng với cõi dục chăng? Nếu như tương ưng với cõi dục thì đều là tranh tụng chăng?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Các người có tranh tụng, tất cả người ấy đều tương ưng với cõi dục.
Hoặc tương ưng với cõi dục, nhưng những người kia không phải là tranh tụng. Hành giải nơi pháp không vướng mắc không tương ưng với cấu uế.
Lại có thuyết cho: Hoặc có tranh tụng, nhưng sự tranh tụng kia không phải tương ưng với cõi dục? Là pháp nhiễm ô tương ưng với cõi sắc, vô sắc. Hoặc tương ưng với cõi dục, nhưng sự tương ưng ấy không phải là tranh tụng chăng? Là pháp không nhiễm ô tương ưng với cõi dục và sự tranh tụng. Pháp nhiễm ô tương ưng với cõi dục. Hoặc không phải tương ưng với cõi dục, cũng không phải là tranh tụng: Là pháp không nhiễm ô tương ưng với cõi sắc, vô sắc và pháp vô lậu.
Hỏi: Các pháp không tranh tụng, tất cả pháp ấy đều tương ưng với cõi sắc, vô sắc chăng? Nếu như pháp tương ưng với cõi sắc, vô sắc, thì tất cả pháp ấy đều là không tranh tụng chăng?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Các pháp tương ưng với cõi sắc, vô sắc, tất cả pháp ấy đều là pháp không tranh tụng
Từng có pháp không tranh tụng, pháp ấy không phải tương ưng với cõi sắc, vô sắc chăng? Là pháp không nhiễm ô tương ưng với cõi dục và pháp vô lậu. Lại nữa, hoặc pháp không tranh tụng, pháp ấy không phải tương ưng với cõi sắc, vô sắc: Là pháp không nhiễm ô tương ưng với cõi dục và pháp vô lậu. Hoặc không tương ưng, không tranh tụng: Là pháp không nhiễm ô tương ưng với cõi sắc, vô sắc. Hoặc không tranh tụng cũng không là pháp nhiễm ô tương ưng với cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc: Là pháp nhiễm ô tương ưng với cõi sắc, cõi vô sắc.
Quán sự việc hiện tại.
Hỏi: Nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Những việc đã làm trong hiện tại, mắt đều thấy rõ, đó gọi là sự việc hiện tại.
Lại có thuyết nêu: Được các sắc căn, đó gọi là sự việc hiện tại.
Lại có thuyết nói: Có hai thứ hiện tại: Căn hiện tại, ý hiện tại. Ở trong căn hiện tại kia, nếu được sắc căn. Ý hiện tại, nếu ý đều không quán.
Lại có thuyết cho: Như tướng của nhãn thức kia, nên nói có ba thứ khổ, lạc. Có thọ kia ý liền có tưởng. Trong các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tư duy về tự tướng của chúng nên có thức sinh. Đó gọi là hiện tại.
Từ ngoài cảnh giới, thức kia cũng chẳng là cảnh giới có không.
Hỏi: Ngã, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Ngã nghĩa là yêu chính mình, chấp trước nơi hình tướng.
Lại có thuyết nêu: Nội là ngã sở. Lại nữa, tự tánh các nhập, nhập ấy là ngã sở. Nhập khác không bền chắc.
Hỏi: Hiện tại và ngã, hai sự này có những gì khác nhau?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Duyên nơi vật có trước, đó gọi là hiện tại. Chấp nơi chính mình, đó gọi là ngã sở.
Lại có thuyết nêu: Thâu giữ các căn đó gọi là hiện tại. Nội là ngã sở. Lại nữa, hiện bày rõ là duyên trước mắt. Nếu có ngã sở thì duyên ấy tự trái.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Này Phạm chí Tát-tỳ!
Tạo tác hành các nghiệp
Đến Niết-bàn không nghi
Không có, có diệt tận
Tỳ-kheo không ở thai.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Là hiểu đạo. Tỳ-kheo kia do đạo này, tự dựng lên chỗ đứng, cùng do đạo này, nên tất cả kiết sử đều dứt hết. Vì thế nói là tạo tác hành các nghiệp.
Đến Niết-bàn không nghi: Tối tăm được trừ bỏ, cuối cùng được trí.
Không có, có diệt tận: Nghĩa là sinh có, tử không có. Tỳ-kheo kia vượt qua sinh, lão, bệnh, tử này, để hiện bày sự tinh diệu kia.
Tự dựng lên chỗ đứng: Do tu phạm hạnh, do nương trụ nơi phạm hạnh của các đạo, cầu mong do nương dựa, lại không có. Như thế là có ở thai, có ấy đã dứt, gọi là thai tận.
Tỳ-kheo kia: Là ở trong việc cầu xin pháp, hiện rõ là đã diệt hết các thứ có, không có kia.
Như đã nói: Tuy có nhiều Bà-la-môn:
Ta thấy trời, người đời
Không bỏ hành cấu tịnh
Nên ta lễ Đại tiên
Thoát ngã vô minh, nghi.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Như ta thấy, cùng với đầu gốc, nên nói là Ta thấy trời, người đời.
Không cấu uế: Hiện không có hệ thuộc. Làm sao nhận biết được? Do nhất thiết trí lìa bỏ ái dục, trừ diệt dần nên không có cấu uế. Tất cả Bà la-môn hành tịnh, vì đã thành tựu việc lìa bỏ ái dục, không có tranh tụng, nên nói là Bà la-môn. Lúc hành tập nghiệp, quán xét điều đã mong cầu, nên nói là lễ bậc Đại tiên. Điều mong cầu do đấy nên là pháp lớn. Đức Như Lai của ta do pháp lớn này nên nói là đại. Do được trí, nên nói là thấy tam muội, giải thoát khỏi mũi tên nghi, để cuối cùng trao tam muội cho ta.
Ta không kham giải thoát
Tẩy trừ Đầu đa hồ
Pháp là trí vi diệu
Như thế vượt dòng chảy.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Ta không kham giải thoát: Là tẩy trừ Đầu đa hồ (Phạm chí) tự hiện bày trong thể, hiện rõ pháp tịnh là trí vi diệu. Như thế là có thể vượt qua dòng chảy, duyên nơi hai đẳng kiến, có quán nhân của ngu, nhân của tịnh.
Nghĩa trụ đem nuôi bệnh
Diễn rộng lý vô thường.
Sáu nghi, bốn nạn hoại
Hiện rõ tịnh chẳng kham.
Lại như Đức Thế Tôn nói:
Rốt ráo không sợ hãi
Không buộc cũng không nghi
Đã đoạn các tên hữu
Đây là thể sau cùng.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Có hai thứ rốt ráo: Dục rốt ráo diệt tận và việc làm đã rốt ráo thành tựu. Tu phạm hạnh do đấy vượt qua. Cuối cùng duyên nơi lý tu định, do trí thiện của nhân này. Cũng không sợ hãi, ở trong thể vô ký cũng không lo sợ, cũng không kinh sợ đối với già, bệnh, chết, nên nói là không sợ hãi. Như có Phạm chí khác, không do thật trí, không do oai nghi chân thật, liền tạo ra lời này: Khen ngợi kia, đây, rồi khen ngợi thân mình. Trí cứu cánh này không như trí cứu cánh đã thành tựu của thuyết kia, nên nói là không phá hủy. Giới cấm thủ kia diệt hết nên là tận sinh, nên nói đây là thể sau cùng. Ái của ba cõi đã hết, cũng không có buộc chấp là quán này, gọi là duyên kia, nên nói là lìa mũi tên nhọn của ba hữu. Nhân duyên vĩnh viễn tận không còn gì.
Lại như Đức Thế Tôn nói:
Đây là cứu cánh nhất
Dấu vết diệt trên hết
Diệt tất cả các tướng
Dấu tịnh mãi thường còn.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Đây là cứu cánh nhất: Là hiện bày sự cứu cánh dừng nghỉ, hiện rõ ba lửa chấm dứt, hiện bày Niết-bàn hữu dư. Dấu vết là hiện rõ xứ tạo tác của trí.
Diệt tất cả các tướng: Là tướng chúng sinh, phương tiện của chúng sinh đã hành tác là hình tướng đầu tiên, chính giữa và sau cuối. Tạo tác là quán tất cả kiết.
Lại như Đức Thế Tôn nói:
Sau cùng ái niệm ngữ
Nhờ tình thân bè bạn
Không nên làm liền nói
Người trí đều phân biệt.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Lời nói ẩn giấu cùng với chúng sinh tương ưng, nên gọi là ngôn ngữ của ý niệm. Ở đấy bạn thân hiện có có hai lợi ích. Không lợi ích của người kia theo kia đây. Hai bạn thân khi chỉ rõ trao truyền cho người kia. Người trí đều phân biệt nhận biết. Do kiết kia đây nên kia đây cùng đồng.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Ngay từ bấy giờ, lúa rất quý đối với sự đói kém. Sinh mầm, không sinh hạt.
Hỏi: Thế nào là nghĩa của mầm?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do ăn nên trao truyền, trù tính, vì thế nói là mầm.
Lại có thuyết cho: Vì trù tính, lựa chọn, nên nói là mầm. Gieo trồng hạt giống sinh khởi một cộng, một thân, nên nói là cộng. Lại do vô số hạt lúa cũng không sinh mầm, nên nói là mầm.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo nên học tự nhiên, tự nương dựa nơi pháp như thế, là nương dựa nơi pháp không nương dựa thứ khác.
Hỏi: Ngã như thế, pháp như thế, pháp quy mạng có những gì khác nhau?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Ngã như thế là ngã tốt, tự biện biệt về sự của ngã kia. Pháp như thế là hoan hỷ, phấn khích.
Hoặc có thuyết nêu: Ngã như thế là nội thân, quán thân thọ tâm pháp. Pháp như thế là ngoại thân, quán thân thọ tâm pháp.
Lại có thuyết nói: Ngã như thế là tư duy làm rõ điều ác. Đối với pháp, thuận theo pháp, là pháp như thế. Lại nữa, thân cận thiên tri thức và nghe chánh pháp là ngã như thế. Tư duy làm rõ về ái dục, biện biệt về chúng là pháp như thế. Dẫn dạy về dục, biện biệt về sự việc kia, là muốn đối trị các sự việc như thế, tức là sự việc ấy.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Này A-nan! Nếu sinh là ý, thì Ta có là Tỳ-kheo Tăng đã duyên. Ta có là Tỳ-kheo Tăng. Ta nên bảo vệ Tỳ-kheo Tăng.
Đức Thế Tôn lại nói lời này: Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đang tìm kiếm Tỳ-kheo Tăng nhưng Ta thường không thâu nhận, huống chi là ông? Ông đâu phải là người ngu độn ăn đàm dãi.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Như Đức Thế Tôn kia đối với việc Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đang tìm kiếm Tỳ-kheo Tăng, nhưng Đức Thế Tôn thường không thâu nhận.
Hoặc có thuyết nêu: Đức Thế Tôn từ định từ khởi, muốn tìm kiếm Điều-đạt. Hoặc Đức Thế Tôn từ tam muội định khởi, Tôn giả A-nan nêu câu hỏi này. Lại nữa, hiện đang dựa vào ngã tận, do câu Khế kinh trước nói: Ta nên che chở đệ tử. Tức do hai câu Khế kinh, không phải là nhân duyên của Ta, nên từ bi đối với Điều-đạt kia.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Có mười pháp ái này, nên dứt bặt mọi suy niệm, do chúng đã thấm ướt khắp thế gian, thật đáng kinh sợ. Vì sao? Vì người giữ giới, đa văn, phạm hạnh phải dứt bặt ái kiến mới có hoan hỷ vui thích.
Hoặc có thuyết cho: Tạo ra quả thiện. Lại nữa, tạo ra rất nhiều tưởng.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Trưởng giả Bà la-môn Na-ca-tầnnhan nói như thế này: Mắt thấy sắc tức liền vui thích.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Như hình này, người kia không có ca múa, xông hương, xoa nơi thân vì giá trị của hương là rất quý.
Hoặc có thuyết cho: Nhân dùng kỹ nhạc để vui đùa, thế nên nói như vậy. Lại nữa, vì duyên theo dục của người nữ, nên nói lời ấy, không phải ở nơi cảnh giới không vắng vẻ, có thể tạo ra nắm giữ các thứ dục ái, lợi, suy, chê, khen. Cũng có khi lợi dưỡng, nên cư trú ở núi, đầm, rừng suối.
Như Tỳ-kheo ni Đàm-ma trần-na nói: Lạc thọ bị dâm sai khiến, khổ thọ bị giận sai khiến, bất khổ, bất lạc thọ bị vô minh sai khiến.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là lời răn dạy của Đức Như Lai.
Lại có thuyết cho: Đây là nghĩa nơi lời khuyên dạy của Đức Như Lai: Nên nói điều đáng nói. Nên nói điều không đáng nói.
Hoặc có thuyết nêu: Nên nói điều đáng nói. Vì sao? Vì như Đức Thế Tôn nói: Ta sẽ giảng nói pháp có nghĩa, có vị. Vị đáng nói nên diễn nói, vì thế nghĩa cũng đáng nói. Nếu như nghĩa không thể nói, thì thuyết pháp tức không có nghĩa.
Hỏi: Nói nghĩa là nói vị, cả hai đều cùng nói. Thời của nghĩa vị là có nghĩa, có vị. Nếu đã nói là muốn khiến cho nghĩa vị khác với pháp chăng? Nếu như nghĩa lý khác với pháp, thế nên không như văn của Khế kinh.
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Nghĩa có thể gọi là nghĩa lần lượt, đó gọi là danh. Đối với nghĩa, nên nói điều không thể nói. Lại nữa, tưởng đã tạo ra lời nói, vô tưởng đã tạo ra nghĩa, thế nên nghĩa không thể nói.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Ta sẽ giảng nói pháp ban đầu thiện, giữa thiện, sau cuối thiện.
Hỏi: Thế nào là ở trong pháp này giáo hóa? Thế nào là ban đầu?
Thế nào là giữa? Thế nào là sau cuối?
Đáp: Hoặc có thuyết nêu: Giới là ban đầu. Tư duy làm rõ về ác là giữa. Niết-bàn là sau cuối.
Lại có thuyết nói: Ban đầu học là đại giới. Giữa học là tâm tăng thượng. Học sau cuối là trí tuệ tăng thượng.
Lại nữa, khi giảng nói pháp, duyên nơi ban đầu hiện, ban đầu thọ nhận hóa độ. Thọ nhận hóa độ xoay chuyển là giữa. Sau là cứu cánh.
Ở đây người kia ban đầu là kết nối với phần gốc. Giữa là kết nối với phần gốc. Sau cuối cũng là kết nối với phần gốc. Nên nói là ban đầu thiện, giữa thiện, sau cuối thiện.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Như đã nói: Do ba sự không quên nên tưởng nhớ. Nhận lấy tướng gốc, tự duyên vật của mình, không mất diệu chỉ của tướng gốc kia.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Cảnh giới của gốc xưa, nhận giữ, bảo vệ, vì tưởng đã nhận lấy, duy trì, nên nói là thuộc về tướng gốc. Tự nhiên đối với nhân duyên xoay chuyển của chính mình. Tự nhiên là phương tiện tự nhiên, thân cận tự nhiên, nên nói là tự nhiên. Đối với chính mình, thường xuyên hàng phục tâm, tức có thức hộ trì, nên nói chí ghi nhớ mạnh mẽ không quên.
Như đã nói: Như thế, ở trong các pháp, pháp trụ, pháp không, pháp duyên như thật, là nhân duyên, đó gọi là nhân duyên sinh.
Hỏi: Lúc nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Như thế, ở trong các pháp là người kia tu hành pháp. Pháp trụ là không có biến đổi. Pháp không là quả thật của nhân duyên. Như thế, nhận biết tu hành, nhân duyên không khác, là quán hành đã tạo nên.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Xúc là một góc. Xúc tập là hai góc, là trong xứ của thọ.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Xúc là một góc, việc đã làm là tập tưởng. Xúc tập là hai góc, tức ở trong xứ của thọ là khác. Lại nữa, vô minh xúc, xúc nơi sáu nhập là tập. Vô minh sinh xúc là ở trong xứ của thọ.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Vì thế Tỳ-kheo nên học như thế. Như tưởng xuất gia, hàng phục tâm mình.
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là lời khuyên dạy của Đức Thế Tôn. Ngay từ bấy giờ, vì cầu giải thoát nên xuất gia học đạo. Lại nữa, vì cùng xuất gia nên nói lời này.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Ở đây, đồng tử Ma-la, Tỳ-kheo khác, nên làm những gì? Khi tuổi còn quá trẻ, xuất gia chưa lâu, học đạo ngày càng cạn, đến nhập nơi pháp này cũng lại chưa lâu. Làm sao ông nay tuổi đã già, hình hài đã thuộc về trưởng lão, lại muốn cùng với ta nhanh chóng cầu răn dạy?
Hỏi: Khi nói lời như thế, nghĩa ấy là thế nào?
Đáp: Hoặc có thuyết cho: Tỳ-kheo trẻ tuổi lại có suy nghĩ: Người này tuổi già mới muốn tu học. Chúng ta cũng nên về sau mới tu học. Rồi tự ý phóng túng trong công việc làm.
Lại có thuyết nói: Tỳ-kheo trẻ tuổi liền khởi suy nghĩ này: Tỳkheo này tuổi già như thế, cũng không có pháp đạt được, huống chi là chúng ta đâu có đạt được gì, liền không có chí dũng mãnh.
Lại có thuyết nêu: Tỳ-kheo trẻ tuổi kia nên nhận biết thế này:
Tỳ-kheo kia là cầu giáo huấn, huống chi chính người ấy cầu đạo.
Lại có thuyết cho: Rất nhiều người đã thấy nghe Tỳ-kheo trẻ tuổi, huống chi là chúng ta. Tỳ-kheo kia cầu giáo huấn, huống chi Tỳ-kheo trẻ tuổi lại không cầu giáo huấn chăng?
Lại nữa, đây là lời phó chúc của Đức Thế Tôn: Mọi người chớ nên có ý mỏi mệt, chán bỏ. Vì sao? Vì nhiều kiếp xa xưa, Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác đã từng ngồi thiền tại chốn vắng vẻ nơi núi đầm rừng suối. Lại còn ca ngợi từng ấy sự việc. Nay tuy không ở trong đó, nhưng Đức Thế Tôn đã khen ngợi công đức tu tập ấy.
Hoặc có thuyết nói: Thời xa xưa, không có nơi chốn vắng lặng, vì núi đầm, rừng rậm, thôn xóm liên tiếp nhau, loài gà đều bay qua lại.
Hỏi: Nếu như không có nơi chốn thanh vắng thì vì sao hiện nay Đức Thế Tôn lại khen ngợi?
Đáp: Đức Thế Tôn khen ngợi về đức ở nơi chốn thanh vắng của quá khứ.
Lại có thuyết nói: Vào thời ấy, Đức Phật giáo hóa chúng sinh, bấy giờ không lấy chỗ ở thanh vắng để làm sự việc giáo hóa, vì sợ chúng sinh không vào được trong giáo luật của Phật.
Lại có thuyết cho: Bấy giờ chúng sinh rất quý trọng tư duy định, không thừa nhận ở chốn tĩnh lặng thanh vắng kia. Do vậy, Đức Thế Tôn phải thọ nhận hóa độ chúng sinh trong thôn xóm, khởi quán làm rõ các việc xấu ác.
Lại có thuyết nêu: Lúc ấy, ý chúng sinh phần nhiều vướng chấp nơi vui thú, đều không thuận theo nơi chốn thanh vắng. Vì sợ Tỳkheo chán không chịu ở chốn thanh vắng, nên Đức Thế Tôn đã khen ngợi đức tu tập ở đấy.
Lại như Đức Thế Tôn nói: Lời này là lời của câu Khế kinh ấy, ai có thể kham nhận? Điều-đạt đã có lần biện luận ở trước Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn cũng không trụ trong ấy. Các người vui thích đối với việc Điều-đạt phá hoại Tăng chúng nên khen ngợi việc làm kia, cho là Đức Thế Tôn cũng nên theo như thế. Người kia không có duyên, cũng không phải người kia không có phản nghịch. Cũng không thể có Tỳ-kheo thiện như thế, ở trước Đức Như Lai lại nghe theo lời nói xấu ác của người kia. Vì sao? Vì pháp tương ưng với công đức của Đức Thế Tôn, không người nào có thể nhận biết. Các người ở chốn thanh vắng, lễ kinh, thừa sự, nên nhận biết người kia, vì vậy Đức Thế Tôn không chấp nhận. Vì sao? Vì Đức Thế Tôn vốn là bậc Đẳng Chánh Giác, cho đến chứng biết đệ tử cùng pháp trụ. Sau đấy Đức Thế Tôn Thế Tôn lại lâu nhập Niết-bàn, bấy giờ lại trụ.
Hoặc có thuyết cho: Chúng sinh kia là do Đức Phật hóa độ, thế nên Thanh văn không thể giáo hóa.
Lại có thuyết nêu: Bấy giờ, chúng sinh quý trọng pháp chỉ quán, nên thời ấy Đức Phật đã thuyết giảng pháp này. Lại nữa, vào thời bấy giờ, tuổi thọ của Đức Như Lai là rất dài. Thời đó cũng như đất Diêmphù-lợi hiện nay, sau đấy thì tuổi thọ ngắn dần, chỉ từng ấy ở đời. Vì các chúng sinh nhận lấy sự hóa độ và nẻo khác, Ta xem Khế kinh xưa nay đã nói là lời răn dạy hàng Thanh văn.
Nói xong đời sáng, ngã chúng Tăng
Ái không có thọ không thể nói
Khéo nêu ba pháp cùng với xúc
Tuổi trẻ đoan nghiêm khen ngợi gốc.
Kiền độ Cánh Lạc thứ bảy xong.
HẾT – QUYỂN 6