LUẬN KINH PHẬT ĐỊA
Tác giả: Luận sư Thân Quang
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 6

* Kinh nói:Lại như thế giới là chốn thọ dụng lớn của các chúng sinh. Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai thị hiện chúng hội của tất cả chư Phật, tuôn trận mưa pháp lớn khiến chúng sinh thọ nhận pháp lạc lớn”.

* Luận nêu: Ở đây là hiển bày về tướng của Nhân thọ dụng.

Như khí thế gian tùy thuộc vào sức tăng thượng nơi nghiệp của hữu tình với chủng tử của tướng chung nơi thức A-lại-da biến hiện sinh ra các thứ vật dụng, tiền của cho tướng chung, vì khiến hữu tình được thọ dụng lớn.

Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai trợ giúp Trí bình đẳng tánh, làm duyên tăng thượng kích phát Trí Đại viên cảnh tương ưng với thức thanh tịnh, hiện thân thọ dụng nơi vô số các chúng hội, uy đức nổi bật tuôn trận mưa pháp lớn, khiến cho các Đại Bồ-tát trên địa được thọ nhận pháp lạc lớn, cũng hỗ trợ cho Trí Thành sở tác của Như Lai, làm duyên tăng thượng, kích phát trí cảnh tương ưng với thức thanh tịnh, thể hiện thân biến hóa nơi vô số chúng hội, oai đức sáng chói, tuôn trận mưa pháp lớn để cho các hữu tình trước địa được giáo hóa thọ dụng pháp lạc.

* Kinh nói:Như năm nẻo trong thế giới được tồn tại, là nẻo địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, người, trời. Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai đã hiện rõ đầy đủ vô biên nhân quả nơi năm nẻo có sai biệt”.

* Luận nêu: Ở đây là hiển bày về tướng của Nhân sai biệt về nẻo (Thú).

Như năm nẻo trong thế giới tùy thuộc vào lực tăng thượng nơi nghiệp của hữu tình, chủng tử của tướng không chung nơi thức A-lại-da biến hiện sinh ra vô số nhân quả nơi năm nẻo có sai biệt đang tồn tại.

Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai, vì lấy nhân quả của năm nẻo làm cảnh giới, nên giống như hai tướng nhân quả có sai biệt nơi năm nẻo biến hiện, không phải sinh ra các chủng loại bất định của năm nẻo như A-tố lạc, hoặc trời, hoặc ngạ quỷ, hoặc lại bàng sinh, nên không nói riêng.

Nhân của năm nẻo: Nghĩa là thân trung hữu do cùng với năm nẻo làm phương tiện. Nẻo là nơi chốn hướng đến, vì thân trung hữu có thể hướng đến, không phải thuộc về nẻo. Căn cứ vào loài có sự sống kiến lập riêng bốn loài, thế nên thân trung hữu cũng thuộc về loài có sự sống. Có nghĩa trung hữu là phương tiện hướng đến, nên nói là ở trong nẻo.

Ở đây, nói nhân là nghiệp phiền não v.v…, còn quả là năm nẻo.

* Kinh nói:Như trong thế giới các cõi Dục, Sắc, Vô sắc hiện tồn tại. Như thế, nơi Trí Diệu quan sát của Như Lai, vô biên nhân quả nơi ba cõi có sai biệt đều hiển hiện đầy đủ”.

* Luận nêu: Ở đây là hiển bày về tướng của Nhân sai biệt về cõi (Giới).

Như trong thế giới, tùy theo lực tăng thượng nơi nghiệp của hữu tình, chủng tử của tướng chung và không chung nơi thức A-lại-da biến hiện, sinh khởi nhân quả nơi ba cõi có sai biệt. Thế giới trong đây là chung cho cả tình, phi tình, nghĩa là thế giới hữu tình và khí thế giới. Nếu không như thế thì nơi thế giới ấy không nên có cõi Vô sắc, vì trong cõi ấy chỉ có định sinh ra sắc, không có nghiệp sinh ra sắc, không có phương hướng, xứ sở. Ở trong thế giới tùy thuộc vào chỗ thích ứng, kiến lập ba cõi. Nghĩa là trong khí thế giới, chỉ có cõi hữu tình và phi hữu tình thuộc cõi Dục, cõi Sắc. Trong cõi hữu tình có đủ ba thứ. Chỉ có cõi hữu tình dùng khí thế giới nắm giữ chung cho cả cõi hữu tình và phi hữu tình, vì thế giới hữu tình chỉ có khả năng nhận giữ cõi hữu tình.

Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai, vì lấy nhân quả của ba cõi làm cảnh giới, giống như hai tướng nhân quả nơi ba cõi có sai biệt đã hiện rõ, không phải sinh ra nhân quả của ba cõi đồng như trước có hai thứ phân biệt.

Ở đây ý nói: Vì Trí Diệu quan sát có thể quan sát khắp hết thảy các cảnh, bao trùm sự sống nơi tất cả các cõi, tức các cõi đã chiêu cảm do nghiệp, phiền não v.v… với các hành thành thục, đã thâu giữ tướng nhân quả của tâm, tâm pháp v.v… biến hiện. Nghĩa là Trí Đại viên cảnh của các Như Lai được sức tăng thượng đã sinh ra Trí Diệu quan sát. Tuy không có chủ thể giữ lấy và đối tượng được giữ lấy để chấp trước, nhưng xa lìa tất cả cấu uế của hai chướng phiền não và sở tri, quan sát tất cả các sự việc của nhân quả v.v… cùng có thể nói như chiếc gương tròn sạch, hiện bày các ảnh tượng, tất cả tướng của cảnh đều hiện rõ trong gương đó, nhưng trí gương không có lỗi sai biệt. Trí Đại viên cảnh do đối với tất cả đều không ngu tối, tuy có khả năng hiện rõ hết thảy ảnh tượng, tự nhiên chuyển biến, nhưng không phân biệt. Trí này có khả năng hiện bày tất cả tướng của cảnh cũng có phân biệt. Nếu không phân biệt thì không thể quan sát các sự việc của nhân quả v.v… và vì chúng hội giảng nói pháp, dứt trừ nghi.

Đoạn văn này chứng minh xác định: Tâm vô lậu v.v… cũng có tướng phần. Trên trí Như Lai, vô biên nhân quả của ba cõi và năm nẻo đều hiển hiện đầy đủ.

Có thuyết nói: Vì trí của Như Lai luôn sáng sạch, nên tất cả tướng cảnh tuy hiện bày trong đó, nhưng cảnh tướng ấy không phải do trí đã biến hiện, không thanh tịnh, mà chỉ là do tâm v.v… của chúng sinh đã biến hiện ảnh tượng của các pháp.

Điều ấy không hợp lý, vì ảnh tượng này nếu là chỗ biến hiện của tâm v.v… chúng sinh thì vì sao lại hiện rõ trên trí Phật? Không thể nào từ nhân khác sinh tâm khác, vì mâu thuẫn với lý chân chánh.

Như tướng của tâm khác, đây cũng như thế. Nhưng cảnh tướng này là do tâm vô lậu của Như Lai biến hiện. Như ảnh tượng của phân uế tạp trong gương sáng, tuy giống như không sạch, nhưng thật ra không phải là không sạch. Tâm và tâm pháp duyên nơi cảnh theo pháp như thế, nếu duyên nơi cảnh khác thì không phải, như cây kìm, chiếc đèn, không động tác. Chỉ như tính chất của gương sáng vốn trong sạch, nên biến hiện giống như cảnh tướng, mà có thể duyên nghĩ. Nếu các cảnh tướng không phải là ảnh hiện nơi tâm, thì chúng tuy có chúng có lực sinh khởi tâm, tâm pháp như năm căn v.v… cũng không gọi là đối tượng duyên. Như nơi chỗ khác đã nêu bày, trí không phân biệt nhất định cũng như thế. Đối tượng duyên là chân như không lìa thể của trí, nên không thể xác định như vậy. Trí thế tục hậu đắc tuy không lìa chân nhưng có phân biệt, nên không chứng được thể của chân, chỉ tự biến tạo tướng của chân để duyên, nên không thể vấn nạn. Như các phàm phu, tâm duyên nơi tâm vô lậu, các cảnh tướng vô lậu hiện có, tuy giống như vô lậu nhưng thật sự là hữu lậu. Đây cũng như thế. Đạo lý duy thức đã quyết định như vầy: Tướng được biến hiện do tâm, tuy giống như là có, nhưng thật thì không có tự thể. Nếu không như vậy thì nên có sắc v.v… như tâm, tâm pháp không thành duy thức. Nếu chúng thật có song không lìa thức, gọi là duy thức, thì tâm, tâm pháp cũng không lìa các sự tương ưng của sắc kia, gọi chỉ là cảnh trở thành lỗi lớn.

* Kinh nói:Như trong thế giới có núi chúa báu lớn Tô-mê-lô v.v… tồn tại hiện rõ. Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai có oai thần của chư Phật và Bồ-tát đã dẫn phát giáo pháp thâm diệu rộng lớn, có thể hiện hữu”.

* Luận nêu: Ở đây là hiển bày về tướng của Nhân tuôn trận mưa pháp lớn.

Như khí thế gian, do lực tăng thượng nơi nghiệp của chúng sinh sinh khởi các núi báu.

Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai, do lực tăng thượng nơi nghiệp của các hữu tình chiêu cảm chánh pháp, nên dấy khởi uy thần của Phật – Bồ-tát đã dẫn phát giáo pháp sâu, lớn. Giáo pháp này mở bày chỉ rõ uy thần tự tại của chư Phật, Bồ-tát. Cũng có thể dẫn phát diệu lực của uy thần kia. Thế nên gọi là đã dẫn khởi uy thần của chư Phật, Bồ-tát. Đây là nói Trí Diệu quan sát của Như Lai có thể phát sinh ảnh tượng của giáo pháp trên thức, tương ưng với trí cảnh. Hoặc tự có thể hiện bày ảnh tượng của giáo pháp. Do đấy làm duyên khiến căn thiện thành thục, tự tâm của hữu tình được hóa độ biến hiện.

* Kinh nói:Như trong thế giới có biển cả rộng sâu không thể nghiêng động hiện tồn tại. Như thế, trên Trí Diệu quan sát của Như Lai có giáo pháp của pháp giới thâm diệu hiện tồn tại, tất cả Thiên ma, Dị luận của ngoại đạo đều không thể làm cho nghiêng động”.

* Luận nêu: Ở đây là hiển bày về tướng của Nhân hàng phục oán địch.

Như khí thế gian do sức tăng thượng nơi nghiệp của các chúng sinh nên khởi các biển cả, không thể nghiêng động.

Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai, do sức tăng thượng nơi nghiệp của các hữu tình chiêu cảm chánh pháp, nên khởi hiện giáo của pháp giới không thể nghiêng động. Pháp giới ở đây là lý không, vô tướng. Nói lý của pháp giới gọi là giáo pháp của pháp giới.

Các ngoại đạo v.v… đều dựa vào các kiến chấp nơi lý không của pháp giới. Để đối trị các kiến chấp đó là xa lìa các lãnh vực kiến chấp. Thế nên đối với giáo pháp không, các ngoại đạo v.v… không thể lường xét, không thể làm nghiêng động giáo pháp của uy thần nêu trước. Do uy thần cao rộng, nên dụ về núi báu. Giáo pháp của pháp giới này là pháp giới rất sâu xa, nên nêu dụ về biển cả. Vì Trí Diệu quan sát là nhân có thể soi chiếu rõ tất cả cảnh, nên có thể khởi nói tất cả giáo pháp.

Lược nêu về sự thù thắng, do đấy Khế kinh nói: “Phật – Thế Tôn được gọi là mặt trời đại trí, vì có khả năng soi sáng khắp hết thảy các pháp”.

* Kinh nói:Lại như thế giới được vây bọc xung quanh do những vòng núi lớn, nhỏ. Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai không hề ngu tối, được vây quanh do tất cả tự tướng, cộng tướng”.

* Luận nêu: Ở đây là hiển bày về tướng của Nhân đoạn trừ tất cả nghi.

Như khí thế giới, một núi Diệu Cao, có bảy đại kim sơn, tám biển cả và bốn châu lớn v.v…

Gồm chung bên ngoài có các vòng núi nhỏ với nhiều lớp bao quanh. Như vậy là một mà nhân thành đến ngàn.

Lại, gồm chung bên ngoài có vòng núi kế tiếp, bao bọc nhiều lớp chung quanh, gọi là Tiểu thiên thế giới. Như vậy là một lại tính đếm đến ngàn.

Lại, gồm chung bên ngoài có vòng núi tiếp theo với nhiều lớp vây bọc chung quanh, gọi là Trung thiên thế giới. Như vậy là một lại tính đếm đến ngàn.

Lại, gồm chung bên ngoài có vòng núi lớn, nhiều lớp vây bọc chung quanh, có phong luân lớn duy trì tổng quát phía dưới, gọi là Tam thiên đại thiên thế giới. Như vậy gọi là được bao bọc do các vòng núi lớn, nhỏ.

Như thế, Trí Diệu quan sát của Như Lai đã nhận biết khắp hết thảy tự tướng, cộng tướng, có thể đoạn trừ tất cả nghi hoặc và ngu muội đối với tự tướng, cộng tướng của thế gian, là nhân của nghi hoặc khi nhận biết tự tướng, cộng tướng. Trí Diệu quan sát không có cái ngu đó, nên tự mình không nghi hoặc, cùng có thể đoạn dứt nghi ngờ của người khác.

Trí Đại viên cảnh vĩnh viễn xa lìa hai chướng, nên không ngu tối. Tất cả tự tướng, cộng tướng đều có khả năng sinh ra trí này, thâu giữ trí ấy nên gọi là vây quanh.

Trí gương chỉ có thể nhận biết được tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp, không phân biệt, nhưng không thể giảng nói pháp để đoạn trừ nghi cho người khác.

Trí Diệu quan sát này có thể nhận biết, có phân biệt, nên có thể vì tất cả giảng nói pháp để dứt trừ nghi.

Lại, thể của trí này có thể nhận biết rõ tự tướng, cộng tướng của các pháp, có hai thứ hành tướng vây quanh: Hành tướng của tự tướng như vòng núi nhỏ, hành tướng của cộng tướng như vòng núi lớn. Trí gương có khả năng duy trì, như phong luân bảo trì phần dưới. Trí thanh tịnh của Như Lai thuộc về hiện lượng, làm sao có thể nhận biết được cộng tướng của các pháp? Nếu cảnh của cộng tướng thuộc về hiện lượng thì vì sao hai lượng lại dựa vào hai tướng để thành lập?

Có nghĩa: Vì hai lượng kia ở nơi phần vị tâm tán loạn, nên dựa vào hai tướng để thành lập, không nói ở phần vị định. Nếu tại tâm định duyên nơi tất cả tướng thì đều thuộc về hiện lượng.

Có nghĩa: Tâm định chỉ duyên nơi tự tướng, nhưng do phương tiện của cộng tướng đã dẫn phát, duyên nơi các cộng tướng, lý đã được sáng tỏ: Là căn cứ theo phương tiện mà nói, gọi là nhận biết được cộng tướng. Nếu không như thế, gọi là nhận biết tự tướng. Do đạo lý này, nên hoặc nói chân như gọi là cộng tướng của các pháp không, vô ngã. Hoặc nói hai thứ không của chân như đã hiển bày không phải là cộng tướng.

Về nghĩa như thật: Luận Nhân Minh thành lập tự tướng và cộng tướng so với đây có khác biệt đôi chút. Nhân minh nói nghĩa thật trên tất cả pháp, đều gọi là tự tướng, do tự tướng và cộng tướng trên các pháp đều nhờ dựa vào thể của mình không cùng với thể khác. Nếu tâm phân biệt thiết lập một chủng loại gồm chủ thể và đối tượng nêu giảng thì thông suốt nơi các pháp, như dây xâu hoa, gọi là cộng tướng. Cộng tướng này cần xét tâm tán loạn, phân biệt giả lập, là cảnh của tỷ lượng. Tất cả tâm định cần xa lìa phân biệt này, đều gọi là hiện hượng. Tuy duyên vào các pháp khổ, vô thường v.v… nhưng mỗi mỗi pháp đều có các pháp riêng, nên gọi là tự tướng. Chân như tuy là tướng chung đã sáng tỏ, do là tự tánh chân thật của các pháp, tự có tướng nhưng cũng không phải là cộng tướng. Không thể do tướng đó cùng với tất cả pháp không một, không khác mà gọi là cộng tướng. Tự tướng cũng cùng với tất cả cộng tướng không một, không khác, thế nên Luận kia nói nghĩa thật hiện có trên các pháp, đều gọi là tự tướng. Kinh này không như thế, nên không mâu thuẫn nhau.

* Kinh nói:Lại nữa, này Bồ-tát Diệu Sinh, Trí Thành sở tác v.v…”.

* Luận nêu: Trí Thành sở tác nên biết thành lập hóa thân của Như Lai. Ở đây lại có ba thứ:

  1. Thân hóa.
  2. Ngữ hóa.
  3. Ý hóa.

Thân hóa lại có ba thứ: (a) Hóa hiện thần thông. (b) Hóa hiện thọ sinh. (c) Hóa hiện nghiệp quả.

Ngữ hóa cũng có ba thứ: (a) Ngữ hóa chúc mừng, an ủi. (b) Ngữ hóa phương tiện. (c) Ngữ hóa biện luận, tán dương.

Ý hóa lại có bốn thứ: (a) Ý hóa quyết định lựa chọn. (b) Ý hóa tạo tác. (c) Ý hóa phát khởi. (d) Ý hóa lãnh nhận.

Trí Thành sở tác có thể khởi hiện dụng hóa của ba nghiệp như thế. Ba nghiệp hóa này tức là hóa thân.

Nên biết trong đây dùng dụng hiển bày thể, không phải ba nghiệp ấy là thể của trí, chỉ là tướng phần được hiện bày trên trí. Do sức nơi duyên tăng thượng của Trí Thành sở tác kích phát cảnh trí tương ưng với thức thanh tịnh, khiến hiện lên hóa dụng của ba nghiệp như thế, nên tự nó cũng có thể hiện bày. Phải biết bốn trí, mỗi mỗi trí đều có thể phát khởi tất cả tác dụng.

Căn cứ vào phần nhiều và mạnh, nên nói Trí Bình đẳng tánh khởi hiện thân thọ dụng. Trí Thành sở tác khởi hiện thân biến hóa. Trí Diệu quan sát quán xét tất cả tự tướng, cộng tướng nơi các môn Đàla-ni, Tam-ma-địa v.v… Trí Đại viên cảnh có thể hiện bày ảnh tượng của tất cả các pháp. Như mỗi mỗi căn nhận lấy tất cả cảnh, không phải là không có dụng mạnh mẽ.

Đây cũng như thế. Văn trong đoạn kinh này chứng minh xác định: Ba nghiệp nơi tâm, tâm pháp v.v… đều có biến hóa. Trên trí của Đức Như Lai hiện lên tất cả công đức của tướng thô nơi tâm, tâm pháp v.v… ấy, khiến các quả vị dưới có thể nhận biết rõ về hiện hành. Nếu không như thế thì hàng phàm phu, Nhị thừa làm thế nào nhận biết được? Đức Như Lai hiện có các công đức có sai biệt của tâm, tâm pháp v.v… Vì sao Như Lai đã thành Phật từ lâu lại còn có thể hiện tác các thứ hóa thân với đủ cả tham, giận v.v…? Kinh khác cũng nói:

Hóa ra vô lượng loại đều khiến có tâm.

Lại, nói hóa thân cũng gọi là có tâm, cũng gọi là không có tâm, có tâm y tha, không có tâm tự dựa vào mình. Nghĩa là dựa nơi tâm thật hiện ra tâm biến hóa, song tướng phần trên tâm thật giống như có tác dụng duyên dựa, lo nghĩ v.v… Như lửa trong gương không có tự thể riêng, mà tùy vào các duyên mới phát sinh, như các tâm v.v… khác, ở xứ khác tuy nói là không có tâm biến hóa v.v… do không có tác dụng thật, nhưng tâm như thật cùng biến hóa ra sắc v.v… là có tác dụng thật, như vì sắc thật v.v… nên nói riêng là có. Do tướng thô của tâm biến hóa hiện rõ, dễ nhận biết, cho đến loài khỉ vượn cũng biết được tâm của Như Lai. Nếu là thật của Phật, thì các Đại Bồ-tát cũng không thể hiểu.

* Kinh nói:Như các chúng sinh siêng năng cố gắng trong nghiệp thân, do các chúng sinh ấy hướng đến, mong cầu những việc lợi ích, nên họ siêng năng nơi các nghề nông, phụng sự vua v.v… Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai, thân siêng năng với nghiệp hóa hiện, do đó Như Lai thị hiện vô số các xứ như công xảo v.v… điều phục các chúng sinh kiêu mạn. Do lực của phương tiện thiện xảo ấy nên dẫn dắt các chúng sinh, khuyên họ thâm nhập Thánh giáo, thành tựu đầy đủ về giải thoát”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng của Như Lai hóa hiện thần thông nơi nghiệp Thân hóa.

Khiến tâm dũng mãnh, nên gọi là siêng năng, cố gắng. Ở trong tánh thiện, gồm luật nghi việc tinh tấn, ngoài ra chỉ là tác ý. Do đấy phát khởi thân nghiệp siêng năng, cố gắng.

Căn cứ theo nhân để gọi tên. Do thân nghiệp này nên hữu tình nơi thế gian đã tạo tác ba nghiệp chân chánh. Chữ đẳng (vân vân) là chỉ cho các sự việc xen tạp khác.

Trí Thành sở tác tương ưng với tinh tấn, khởi hiện nghiệp của hóa thân. Do hóa nghiệp này nên khi còn làm Bồ-tát, Như Lai đã thể hiện vô số loại xứ như xứ công xảo, như thợ gốm v.v… Đây là tướng của thân nghiệp trên trí được biến hiện. Vì nhằm điều phục kẻ kiêu mạn về kỹ thuật, nên biến hiện sự việc ấy theo phương tiện thiện xảo, tức từ bi, trí tuệ bình đẳng, hành hóa là trước, mới hiện bày thần thông. Lúc đầu, vì khiến sinh khởi tin tưởng, nên gọi là dẫn dắt chúng sinh, khuyên nhập Thánh giáo, như hiện thần thông hóa độ Ca-diếp v.v… Tiếp theo khiến điều phục, thuận hợp, có thể nhận lấy giáo pháp, gọi là thành thục, dẫn dắt khiến nuôi lớn các căn thiện. Về sau, giúp họ giải thoát khỏi nẻo ác nơi ba cõi, có chủng tánh hay không, đều theo như thứ lớp ấy, nên gọi là giải thoát.

Do lực giáo hóa, đối với kẻ có chủng tánh, khiến họ sinh vào đạo Thánh, giải thoát khỏi ba cõi. Kẻ không chủng tánh, tức khuyên tu tập pháp thiện nơi thế gian, được sinh vào nẻo thiện, nhớ nghĩ về căn thiện kia, vì họ giảng nói pháp nhằm thoát khỏi ba cõi. Lại phóng hào quang diệt khổ, an lập cõi thiện.

Lại khuyên khiến phát sinh các tuệ văn, tư, tu, theo thứ tự nơi ba câu. Lại khuyên sinh khởi tâm thuận theo phần giải thoát, thuận theo phần quyết định lựa chọn cùng sinh nơi đạo Thánh, là ba câu kế tiếp. Lại khiến hội nhập nơi kiến đạo, tu đạo và vô học đạo, là ba câu theo thứ lớp.

Giải thích nên tùy thuận nơi tướng như thế v.v… để nêu bày. Các phần sau cũng vậy.

* Kinh nói:Lại như thân nghiệp thọ dụng của chúng sinh, là do các chúng sinh ấy thọ dụng vô số cảnh giới như sắc v.v… Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai thọ nhận nghiệp hành hóa của thân. Do vậy, Như Lai đã đi đến vô số xứ sinh của chúng sinh, thị hiện làm đồng loại, nhưng thuộc ngôi vị tôn quý. Do sự thị hiện sống đồng loại đó, nên đã thâu phục được tất cả các chúng sinh thuộc loại khác, lại dùng lực của phương tiện thiện xảo dẫn dắt các chúng sinh khiến nhập Thánh giáo, đạt được giải thoát thành thục”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng hóa hiện thọ sinh nơi nghiệp Thân hóa.

Hữu tình của thế gian nơi các xứ sinh các căn đã nhận lãnh những cảnh giới như sắc v.v… nên gọi là thân thọ dụng. Vì có vận hành chuyển biến, nên gọi là nghiệp thân.

Ở tất cả xứ sinh này, Trí Thành sở tác đồng thời hiện sinh nơi cảnh giới thọ dụng. Nghĩa là hiện hóa thân nơi tất cả xứ sinh trong cõi trời, người. Thị hiện đồng loại sinh nơi chủng tộc Sát-đế-lợi, Bàla-môn, điều phục các loài thấp kém, giúp họ được lợi ích yên vui. Đây cũng là tướng của thân nghiệp được biến hiện trên trí, hoặc kích thích cảnh trí, hoặc tự hiện rõ.

Các trường hợp khác cũng như thế.

* Kinh nói:Lại như chúng sinh thọ nhận nghiệp thân. Do đấy, chúng sinh thọ nhận quả của nghiệp thiện ác đã gây tạo. Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai nhận lãnh nghiệp hành hóa của thân. Do vậy, Như Lai thị hiện lãnh nhận các hành khó tu tập nơi Bản sự, bản sinh, dùng lực của phương tiện thiện xảo ấy dẫn dắt các chúng sinh khiến nhập nơi Thánh giáo, đạt được giải thoát thành thục”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng hóa hiện nghiệp quả nơi nghiệp Thân hóa.

Thân tức là nghiệp nên gọi là thân nghiệp. Vì quả của nghiệp trước nên quả được nói theo tên của nhân. Hoặc khi thân lãnh nhận quả của nghiệp trước, vì có sự vận chuyển tác dụng, nên gọi là thân nghiệp, do nghiệp thân này lãnh nhận quả đáng yêu thích hay không yêu thích của nghiệp trước.

Trí Thành sở tác biến hiện giống như hóa thân lãnh nhận nghiệp hành hóa. Do nghiệp này nên thị hiện, thọ nhận tất cả các hành khó tu tập nơi bản sự, bản sinh. Các sự việc khác hiện có tương ưng với đời trước gọi là bản sự. Chủng loại thọ sinh có sai biệt từ đời trước gọi là bản sinh. Như tất cả sự việc bản sinh của Tỳ-thấp-phạn-đát-la v.v… Dựa nơi bản sinh ấy, nên đã từng tu tập vô số các thứ hạnh khổ từ trước, gọi là tu tập những hành khó. Hoặc ở đời này, dựa vào thân biến hóa, trước tu tập hạnh khổ, về sau bỏ cách tu đó, tu theo lối trung đạo mới chứng đắc Bồ-đề, gọi là tu tập những hành khó. Nghĩa là các chúng sinh cho phải tu tập hạnh khổ, dứt ác, khởi thiện mới chứng đắc Bồ-đề, vì nhằm hóa độ nên trước hết Như Lai thị hiện đồng với họ, tu các hạnh khổ nhằm chứng tỏ không phải chỉ có giữ giới là được thanh tịnh mà còn do định, tuệ mới được thanh tịnh.

Việc Đức Như Lai thị hiện bỏ lối tu hạnh khổ, tu tập theo trung đạo mới chứng được Bồ-đề, có Khế kinh nói: “Về đời quá khứ, thời Đức Phật Ca-diếp, Như Lai đã có lời mạ lỵ thế này: Nơi chốn nào có Sa-môn cạo bỏ râu tóc, nơi đó đạo quả Đại Bồ-đề nơi Bồ-đề vô thượng rất khó đạt được”. Do nghiệp ác ấy, nên nay phải chịu quả là hành những việc khó, khổ.

Lời nói đó cũng là nhằm chấm dứt hành ác, hiện hóa nơi chốn tạo tác. Nếu không như thế, làm sao có Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ đã từng thân cận, phụng sự vô lượng Như Lai, gieo trồng tánh gốc của các căn thiện, nhớ nghĩ về túc mạng, lại khởi lên hành ác theo lời nói nặng như thế. Nên biết Đức Phật nói lên lời này là nhằm để hóa độ, vì người nghe lời ấy mà được hóa độ, tức khiến đối với Đức Phật biết là đã xa lìa lời ấy.

* Kinh nói:Lại như ngữ nghiệp của chúng sinh nói lời chúc mừng, an ủi. Do đó chúng sinh lần lượt luận đàm, an ủi, chúc tụng lẫn nhau. Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai với lời chúc mừng là nghiệp giáo hóa. Do nghiệp ấy nên Đức Như Lai đã tuyên dương vô số các pháp theo chỗ ưa thích của mọi người, với văn, nghĩa hay khéo, các chúng sinh trí nhỏ hẹp vừa nghe qua hãy còn tin tưởng, là do diệu lực của phương tiện thiện xảo ấy đã dẫn dắt chúng sinh khiến nhập nơi Thánh giáo, đạt giải thoát thành thục”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng của sự hóa hiện lời nói chúc mừng, an ủi nơi nghiệp Ngữ hóa.

Chúc mừng, an ủi tức là chỗ sai biệt của sự vui mừng thích thú. Lời nói có thể sinh khởi các điều ấy, nên gọi là chúc mừng, an ủi. Vì nghe lời nói này, mọi người đều lần lượt phát sinh hoan hỷ lớn. Nghĩa là các hữu tình, do sức tăng thượng của tâm nên phát ra lời nói, đều là tướng của nghiệp ngữ được biến hiện trên thức riêng của mỗi chúng sinh, làm duyên tăng thượng, khiến các thức khác biến hiện giống như tướng của nghiệp ngữ, đều cho nghe lời nói của người khác là sinh vui mừng.

Trí Thành sở tác hóa tạo nghiệp ngữ nên biết cũng như thế. Tự hóa hiện ra tiếng nói vi diệu, khiến tâm của người khác đổi thay. Nghĩa là nghe lời Phật giảng nói đều sinh khởi hoan hỷ.

Tùy theo pháp được ưa chuộng là tùy vào lực nơi nhân của chúng sinh kia ưa thích nghe thuận hợp. Người, trời nơi ba Thừa có pháp khác nhau.

Văn khéo diệu là chữ và câu sáng tỏ, đẹp đẽ, khiến mọi người đều ưa thích nghe. Nghĩa khéo diệu là nghĩa lý sâu xa, phân minh, dễ lãnh hội.

Những chúng sinh trí nhỏ mới nghe hãy còn tin, vì tiếng nói của Phật có đủ sáu mươi đức. Các hàng phàm phu ngu tối mới nghe qua hãy còn tin hiểu, huống chi là những người thông sáng khác.

Tuệ nơi Trí Thành sở tác gọi là an ủi chúc mừng: Vì có khả năng hiện bày lời nói giáo hóa, tuyên thuyết tất cả văn nghĩa khéo diệu, khiến các hữu tình sinh tâm hoan hỷ, cũng có thể gia bị cho các chúng sinh khéo biến hiện v.v…, do ngôn âm của Phật diễn nói pháp thâm diệu thật khó lường xét. Như thế, trí này có thể gia bị cho người khác.

Tất cả luận: Là tất cả loại luận về sắc cho đến hư không, cũng có khả năng phát khởi lời nói giáo hóa, thuyết giảng pháp. Nên biết sự việc này là không thể nghĩ bàn.

* Kinh nói:Lại như nghiệp ngữ phương tiện của chúng sinh, do vậy chúng sinh lần lượt chỉ dạy, truyền trao nghề chuyên môn đã làm, như chê, bỏ điều ác, ca ngợi việc thiện, dùng mệnh lệnh triệu tập nhau lại. Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai đã khởi hiện phương tiện nơi nghiệp ngữ biến hóa. Do đó, Như Lai đã thành lập học xứ chân chánh nhằm quở trách mọi sự phóng dật, khen ngợi hành không phóng dật. Lại nữa, Như Lai còn kiến lập hành tùy tín, hành tùy pháp, dùng diệu lực của phương tiện thiện xảo ấy để dẫn dắt chúng sinh khiến nhập Thánh giáo, đạt được giải thoát thành thục”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng của sự hóa hiện lời nói phương tiện nơi nghiệp Ngữ hóa.

Như phương tiện nơi nghiệp ngữ hóa của chúng sinh ở các thế gian, lại cùng chỉ bảo nhau về các điều nên làm, không nên làm, những lợi ích cho bạn bè thân thuộc.

Đối với các chúng sinh phóng dật phải khởi tác gia hạnh khiến họ làm thiện, nên gọi là phương tiện.

Như thế, Đức Như Lai do tâm đại bi, vì các hữu tình nên an lập học xứ, khiến điều phục các thứ ác, tu tập các pháp thiện nơi thế gian, kiến lập Thánh đạo với những phần vị sai biệt, khiến chúng sinh đi vào đạo chánh, xuất ly ba cõi.

Trí Thành sở tác của Như Lai có thể phát khởi ngữ hóa, làm xong sự việc này, nghĩa là chấm dứt các điều ác, phát sinh các việc thiện. Đây là tác dụng của lời nói.

* Kinh nói:Lại như chúng sinh biện biệt, biểu dương nghiệp ngữ, do vậy chúng sinh lần lượt chỉ bày những chỗ nghĩa chưa hiện rõ bằng cách đọc tụng các luận. Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai biện giải về nghiệp ngữ hóa. Do đó, Như Lai đã đoạn trừ vô lượng thứ nghi hoặc của các chúng sinh. Nhờ diệu lực của phương tiện thiện xảo ấy nên dẫn dắt khiến nhập Thánh giáo, đạt được giải thoát thành thục”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng của sự hóa hiện lời nói biện luận, tán dương nơi nghiệp Ngữ hóa.

Trí Thành sở tác tùy thuận nơi ý lạc có sai biệt của các chúng sinh, hiện khởi nghiệp ngữ biến hóa, nói vô số nghĩa đoạn dứt mọi nghi hoặc. Nghĩa là phát ra một âm biểu thị tất cả nghĩa, khiến các hữu tình tùy từng loại đều được lợi ích. Như Khế kinh nói: Phật dùng một âm thanh diễn nói các pháp, chúng sinh tùy từng chủng loại đều được mở bày, hiểu rõ. Hoặc có kẻ sợ hãi, hoặc có người hoan hỷ, hoặc sinh tưởng chán lìa, hoặc lại đoạn nghi. Đây là bản nguyện của Như Lai đã dẫn phát diệu lực không thể nghĩ bàn, mở ra ngữ biến hóa: Một âm có thể đoạn trừ tất cả các nghi. Nếu thực hiện với hóa thân, cũng khiến cho chúng sinh nơi một chất nhưng thấy khác nhau về chỗ thành tựu sự việc lợi lạc.

* Kinh nói:Lại như chúng sinh với nghiệp ý quyết định lựa chọn. Do vậy, chúng sinh đã quyết định lựa chọn điều nên làm và không nên làm. Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai với ý quyết định lựa chọn nghiệp giáo hóa. Do đó Như Lai đã quyết định lựa chọn nơi tám vạn bốn ngàn tâm hành của chúng sinh có sai biệt. Do sức mạnh của phương tiện thiện xảo này, nên dẫn dắt các chúng sinh khiến nhập Thánh giáo, đạt được giải thoát thành thục”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng của sự hóa hiện ý quyết định lựa chọn nơi nghiệp Ý hóa.

Trí Thành sở tác tương ưng với nghiệp ý, có thể khởi hiện biến hóa, nên gọi là nghiệp ý biến hóa.

Nghiệp ý biến hóa này có thể quyết định lựa chọn nơi tám vạn bốn ngàn tâm hành của chúng sinh có sai biệt, là đối tượng được giáo hóa. Hoặc lại hiện bày nghiệp ý biến hóa tương tợ trong tướng phần của trí này, có khả năng quyết định lựa chọn tám vạn bốn ngàn tâm hành của chúng sinh, khiến họ biết rõ lợi ích của nghiệp thù thắng.

Thế nào là tám vạn bốn ngàn tâm hành? Nghĩa là tám vạn bốn ngàn tâm hành của các hữu tình có sai biệt, với những cấu uế của phiền não nơi chúng. Những thứ này có thể gây chướng ngại cho tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật, môn Đà-la-ni, Tam-ma-địa v.v… Như nơi Kinh Hiền Kiếp đã nói rộng về tướng của chúng. Nghĩa là đầu tiên tu tập hành pháp Ba-la-mật, cho đến sau cùng phân bố Ba-la-mật-đa của thân Phật, gồm có ba trăm năm mươi phần, mỗi mỗi phần thân Phật đều có đủ sáu pháp đến bờ kia. Như thế, tổng cộng có hai ngàn một trăm pháp đối trị.

Phần tham, giận, si và phần cùng có nơi tâm hành của hữu tình nên là tám ngàn bốn trăm. Trừ bốn đại chủng và sáu thứ vô nghĩa sinh ra các lỗi lầm. Mười lần chuyển hợp thành số tám vạn bốn ngàn. Do tu tập tâm hành này nên lại thành tựu được tám vạn bốn ngàn môn Đà-lani, Tam-ma-địa v.v… Đây là lược nêu, nếu nói rộng là vô lượng.

* Kinh nói:Lại như chúng sinh gây tạo nghiệp ý, do đó chúng sinh đã gây tạo vô số các nghiệp khởi hiện. Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai đã tạo nghiệp ý giáo hóa. Do đó, Như Lai quan sát các sự việc nơi đối tượng được hành của các chúng sinh nên làm và không nên làm, hoặc được, hoặc mất để khiến họ nhận lấy hoặc dứt bỏ. Như Lai đã tạo ra pháp đối trị. Do sức mạnh của phương tiện thiện xảo này, nên dẫn dắt chúng sinh khiến họ bước vào Thánh giáo, đạt được giải thoát thành thục”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng của sự hóa hiện ý tạo tác nơi nghiệp Ý hóa.

Tùy chỗ quán về hành của đối tượng được hành trì nơi tất cả hữu tình. Nếu các hành ác, không hành tác là được, nếu hành tác là có lỗi. Còn các hành thiện, hành tác là có đức, không hành tác là có lỗi.

Quan sát như thế là muốn khiến cho chúng sinh nhận lấy cái được, từ bỏ cái mất. Đối với cái được tạo tác thì nhận giữ là pháp đối trị. Đối với cái mất nếu gây tạo thì dùng pháp đối trị là xa lìa.

Trí Thành sở tác tương ưng với nghiệp ý, có khả năng khởi hiện biến hóa, nên gọi là nghiệp ý biến hóa. Tuy các Đức Như Lai không dụng công đối với mọi sự việc, nhưng để khiến cho tâm của chúng sinh biến hiện giống như có tạo tác, nên gọi là tạo tác. Hoặc lại hiện bày giống như nghiệp ý biến hóa trong tướng phần của trí ấy, có thể quan sát các hành được, mất của hết thảy hữu tình, khiến họ nhận biết rõ nghĩa lợi thù thắng đạt được.

* Kinh nói:Lại như chúng sinh phát khởi nghiệp ý. Do vậy, chúng sinh phát khởi các nghiệp. Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai phát khởi nghiệp ý biến hóa. Vì thế, Như Lai nhằm giảng nói pháp đối trị nghiệp ý của chúng sinh kia, nên đã làm sáng tỏ danh cú tự thân được các chúng sinh ưa chuộng. Do sức mạnh của phương tiện thiện xảo ấy, nên dẫn dắt các hữu tình khiến nhập Thánh giáo, đạt được giải thoát thành thục”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng của sự hóa hiện ý phát khởi nơi nghiệp Ý hóa.

Trí Thành sở tác tương ưng với nghiệp ý, vì có thể phát khởi hai thứ nghiệp thân, ngữ, nên căn cứ theo dụng nói là phát khởi nghiệp ý. Hoặc nghiệp ý này do trí phát khởi nên gọi là phát khởi nghiệp ý, vì có khả năng giáo hóa, hoặc tướng phần của trí hiện bày giống ý nghiệp kia. Nghiệp ý biến hóa này là nhằm diễn nói pháp đối trị ý nghiệp kia, là nói pháp đối trị các hành của hữu tình.

Pháp đã giảng nói đấy là dùng danh cú tự thân làm tự tánh, thế nên cần làm sáng tỏ các thứ ấy. Đức Như Lai thuận theo điều các hữu tình ưa thích, nên giảng nói danh thân v.v… khiến họ khởi tâm yêu thích, phát sinh pháp đối trị. Đó là hiện bày nghiệp ý biến hóa trong tướng phần nơi Trí Thành sở tác của Như Lai, phát khởi danh thân v.v… diễn nói pháp đối trị các hành của hữu tình. Do lực ấy khiến tự tâm của các hữu tình biến hiện giống như pháp Phật đã giảng nói, nên họ phát sinh sự yêu thích sâu xa, khởi tạo pháp đối trị, vì thế gọi là phát khởi nghiệp ý.

* Kinh nói:Lại như chúng sinh thọ nhận nghiệp ý. Do vậy, các chúng sinh nhận lãnh các thứ khổ vui. Như thế, Trí Thành sở tác của Như Lai thọ nhận nghiệp ý giáo hóa. Vì thế, Như Lai đối với hữu tình định, bất định, hỏi lại việc đặt để, ghi nhận, thọ ký, tùy chỗ thuận hợp của các chúng sinh đó nên nhận lãnh được các nghĩa của quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì sức mạnh của phương tiện thiện xảo ấy, nên dẫn dắt chúng sinh khiến nhập Thánh giáo, đạt được giải thoát thành thục”.

* Luận nêu: Đoạn này là hiển bày về tướng của sự hóa hiện ý lãnh nhận nơi nghiệp Ý hóa.

Sự thọ nhận tương ưng với tư duy có thể tác động nơi tâm khiến nhận lấy khổ vui, thế nên nói là lãnh nhận nghiệp ý.

Trí Thành sở tác thọ nhận tương ưng với tư duy, có thể khởi hiện giáo hóa, nên gọi là nghiệp ý biến hóa. Nghiệp ý biến hóa hiện bày trong tướng phần của Trí Thành sở tác gọi là nghiệp ý hành hóa.

Đối với bốn thứ ghi nhận hỏi đáp để được thọ ký, tùy chỗ ứng hợp của chúng sinh đều biết rõ như thật về tất cả câu hỏi xong, nhận lãnh vô lượng nghĩa pháp trong ba đời v.v… hiểu biết đúng như thật nơi mỗi mỗi tự thể đều nhận biết đúng như thật, theo chỗ thuận hợp, mỗi mỗi ký biệt không có điên đảo.

Những gì là bốn thứ ghi nhận? Đó là:

  1. Ghi nhận toàn bộ.
  2. Ghi nhận phân biệt.
  3. Ghi nhận bằng cách hỏi lại.
  4. Ghi nhận bằng cách im lặng để qua một bên.

Ghi nhận toàn bộ: Như có người hỏi: Tất cả sự sinh quyết định là diệt chăng? Phật, Pháp, Tăng bảo là phước điền tốt đẹp chăng? Các câu hỏi như thế, nên ghi nhận toàn bộ, nghĩa này là quyết định.

Ghi nhận phân biệt: Như có người hỏi: Các thứ bị diệt đó nhất định sinh lại chăng? Phật, Pháp, Tăng bảo chỉ là một chăng? Những câu hỏi như thế nên phân biệt ghi nhận, vì nghĩa ấy không nhất định.

Ghi nhận bằng cách hỏi lại: Như có người hỏi: Bồ-tát mười địa là cao hay thấp? Phật, Pháp, Tăng bảo là hơn hay kém? Những câu hỏi như thế nên ghi nhận bằng cách hỏi lại: Ông mong muốn gì khi hỏi như thế?

Ghi nhận bằng cách im lặng để qua một bên: Như có người hỏi: Tánh thật có nơi ngã là thiện hay là ác? Con của Thạch nữ màu đen hay trắng? Những câu hỏi như thế nên ghi nhận bằng cách im lặng để qua một bên, không nên ghi nhận vì vì chỉ là hý luận dài dòng.

Nên biết trong đây, nghiệp thân ngữ giáo hóa hoặc tương ưng với tự thân, hoặc tương ưng với thân người khác, hoặc không tương ưng với nghiệp biến hóa của ý, chỉ tương ưng với mình và người. Do đó, tức giải thích ba thứ thần biến, nghĩa là thần thông, thần thông dạy khuyên, thần biến ký thuyết.

Nghiệp biến hóa của Phật ở đây là luôn gắn liền với tất cả chủng loại, không thể nghĩ bàn. Do tác dụng đến số lượng cõi nước có sai biệt là không thể nghĩ bàn, nên công dụng tạo lợi ích cho hữu tình luôn chuyển biến không ngừng nghỉ, cũng không thể nghĩ bàn.

Ba thứ nghiệp giáo hóa của tất cả Như Lai muốn ưu tiên tạo mọi thành thục cho các hữu tình, nên gọi là phương tiện thiện xảo thứ nhất. Do đó, Khế kinh nói: “Đức Phật, Thế Tôn gọi là Thuốc đại trí, có thể chữa lành hết thảy bệnh phiền não”.

* Kinh nói:Bấy giờ, Đại Bồ-tát Diệu Sinh bạch Phật: Thế Tôn! Chỉ một mình Như Lai ở nơi pháp giới thanh tịnh thọ dụng sự hòa hợp một vị theo trí, các Bồ-tát cũng có thể thực hiện được như vậy? Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Sinh: Bồ-tát cũng có khả năng thọ dụng sự hòa hợp một vị theo trí”.

* Luận nêu: Nay dựa nơi Sự thọ dụng hòa hợp một vị theo trí để hỏi.

Trước đây biện luận về Phật địa, chỉ nói về Thể nơi pháp giới thanh tịnh của Như Lai chỉ là một vị. Cảnh trí v.v… của Phật ở trong sự thọ dụng hòa hợp một vị không động, không tạo tác. Bồ-tát Diệu Sinh có ý nghi ngờ về sự việc này: Việc đó chỉ mỗi Như Lai hay cũng chung cho cả Bồ-tát, nên nêu lên câu hỏi ấy. Hoặc trước chỉ nói có năm thứ pháp gồm thâu quả vị Đại giác. Thể của pháp giới thanh tịnh chỉ là một vị. Cảnh trí dựa vào pháp giới ấy để duyên hợp, dựa vào pháp giới ấy để sinh khởi không có phân biệt, nên cũng chỉ có một tướng. Trí Bình đẳng tánh duyên chung nơi chân như, lìa hai phân biệt, nên cũng chỉ có một tướng. Hai trí còn lại vì đem lại lợi ích cho chúng sinh, cũng dựa nơi chân như, không phân biệt riêng khác, nên cũng chỉ có một tướng. Như vậy, chỉ có Đức Phật thọ dụng sự hòa hợp một vị theo trí, nên không chung với quả vị khác. Vì muốn thẩm định nên đặt ra câu hỏi ấy.

Ở đây đã nói, đối với pháp giới thanh tịnh, sự thọ dụng hòa hợp một vị theo trí đủ chứng tỏ nơi khác không có sự thọ dụng hòa hợp một vị theo trí. Chủ thể thọ dụng, đối tượng được thọ dụng hòa hợp làm một vị, là cảnh giới của chân như, nên gọi là thọ dụng. Cùng chung một việc nên gọi là hòa. Tuy đồng một sự, hoặc lại ly biệt, vì để làm rõ trong đó là thường, không ly biệt, nên lại nói hợp chủ thể duyên, đối tượng được duyên là bình đẳng rốt ráo, bình đẳng hòa hợp không chia lìa.

Vị: Nghĩa là chắc thật, tức là đối tượng được thọ dụng, đối tượng được duyên là chân như của pháp giới một vị.

Sự: Nghĩa là dụng của sự. Trí tức là trí của chủ thể thọ dụng, chính thức nhận lấy Trí cảnh, Trí Bình đẳng tánh, nhận lấy luôn hai trí còn lại, vì phần nhiều là duyên nơi chân như. Hoặc một vị, là trí của chủ thể thọ dụng không phân biệt.

Sự: Là quả, duyên nơi pháp giới thanh tịnh mà sinh khởi. Hoặc chủ thể thọ dụng tức là xả thọ, là không khổ, không vui, bình đẳng một loại, nên gọi là một vị.

Sự: Là quả. Tức quả này tương ưng với trí viên cảnh v.v… do lực của quả đó phát sinh nên gọi là quả kia. Hoặc là hành xả không có tướng công dụng, nơi tất cả xứ đều theo một vị mà chuyển biến. Trí của chủ thể thọ dụng gọi là trí sự. Hoặc trí tự có thể lãnh nhận thể của mình, nên gọi là thọ dụng. Hai thứ tự, tha vì không phân biệt nên gọi là một vị.

Sự: Là quả, là từ các nhân duyên, xa lìa hai tưởng, vì chuyển biến mãi.

Bồ-tát cũng có thể ngang đồng, là trong ấy ý nói thọ dụng hòa hợp một vị với sự trí đó, không phải riêng một mình Như Lai.

Nếu các Bồ-tát cũng có khả năng thọ dụng như thế thì vì sao chỉ nói có năm thứ pháp gồm thâu quả vị Đại giác? Ở đây ý nói, Phật địa chỉ thuộc về năm pháp, không nói năm pháp chỉ gồm thâu Phật địa, vì cũng có thể gồm thâu địa của các Bồ-tát.

* Kinh nói:Bồ-tát Diệu Sinh lại bạch Phật: Các Bồ-tát nào được thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự, trí? Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Sinh: Bồ-tát chứng được pháp nhẫn vô sinh. Do Bồ-tát kia khi chứng được nhẫn giải trong pháp vô sinh đã đối trị hai tưởng. Vì dứt trừ hai thứ tưởng về tự, tha nên được tâm bình đẳng. Từ đấy trở lên, các Bồtát kia tưởng xem tự, tha khác nhau không còn hiện tiền, nên được thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự, trí”.

* Luận nêu: Vì chỉ rõ Bồ-tát chưa chứng được pháp nhẫn vô sinh của Đại thừa, hoặc Bồ-tát còn trụ nơi công dụng có đạo gia hạnh, chưa có thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự, trí, nên lại hỏi: Các Bồ-tát nào được thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự, trí? Đó là Bồ-tát đã chứng đắc pháp nhẫn vô sinh. Nghĩa là Bồ-tát từ Địa thứ nhất trở lên chứng được hai không, hiển bày chân như, quán biến kế sở chấp nơi tất cả pháp bản tánh là không sinh, cũng không có diệt, xưa nay vắng lặng, là tự tánh Niết-bàn, nên được thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự, trí, chẳng phải như hàng Nhị thừa đạt hiện quán kiến đạo, chỉ chứng sinh không hiển bày chân như, chưa chứng pháp không hiển bày về lý chân, nên chưa thể hiện quán các pháp bình đẳng để thọ dụng hòa hợp một vị nơi trí, sự. Bồ-tát trước Địa cũng chưa thể chứng đắc, chưa thấy chân như hòa hợp một vị, vì Trí Bình đẳng tánh chưa hiện hành.

Có thuyết cho: Từ Địa thứ nhất trở lên, Bồ-tát lại có ba thứ:

1. Mới phát tâm: Là ở Địa thứ nhất đã nhập chánh tánh ly sinh của kiến đạo, vì tâm vô lậu đích thực bắt đầu hiện hành.

2. Đã tu hành: Nghĩa là sáu Địa trên đã được tu đạo, tu hành tinh tấn.

3. Không thoái chuyển: Nghĩa là ba Địa trên, tu đạo đã viên mãn, lìa các công dụng, không còn đạo gia hạnh, tự nhiên hiện tiền, tất cả phiền não hoàn toàn không còn dấy khởi, mỗi niệm niệm đều thắng tấn, không thoái chuyển.

Ở đây chỉ nhận lấy từ tám Địa trở lên, quán tất cả pháp xưa nay không sinh, hiện tại cũng không khởi, được nhẫn phẩm thượng hoàn toàn thanh tịnh, luôn phát khởi vô lậu, chuyển biến tự nhiên. Vì đạt được như vậy nên nói là chứng đắc pháp nhẫn vô sinh. Như Khế kinh nói: Các chúng Bồ-tát từ tám Địa trở lên, đã lìa tưởng pháp, nên không có ngã, ngã sở, quán tất cả pháp không phải là thường, vô thường, không sinh, không khởi, tự, tha đều bình đẳng, cho đến nói rộng. Do tự nhiên đối trị được hai tưởng, nên nơi tất cả xứ đều được tâm bình đẳng.

Từ đây trở lên, vì lìa hai tưởng nên lìa các công dụng và gia hạnh, hoàn toàn vô lậu, hết sức thanh tịnh, nên trí không phân biệt đạt được tự tại, chuyển biến tự nhiên, mới được gọi là thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự, trí.

Bồ-tát Địa thứ nhất tuy đã chứng đắc tự – tha bình đẳng, nhưng có dụng công, tác ý gia hạnh, vì chưa thanh tịnh nên chưa kiến lập.

* Kinh nói:Bồ-tát Diệu Sinh lại bạch Phật: Ngưỡng mong Đức Như Lai nói rộng bằng thí dụ khiến các Bồ-tát đều tỏ ngộ được nghĩa thâm diệu, tùy thuận nơi duyên được giáo hóa, tuyên dương rộng khắp cho mọi người được biết, khiến các chúng sinh nghe xong đều mau chóng tỏ ngộ pháp nhẫn vô sinh”.

* Luận nêu: Bồ-tát Diệu Sinh vì muốn cho nghĩa trên nhân nơi môn thí dụ mà được sáng tỏ, dễ nhận thấy để các Bồ-tát sau khi nghe pháp này đạt được nghĩa thâm diệu, tỏ ngộ về nhẫn vô sinh, nên lại thưa hỏi.

* Kinh nói:Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Sinh: Ví như chư Thiên trời Ba Mươi Ba chưa đi vào khu rừng tạp, nên hoàn toàn không thể thọ dụng sự hòa hợp đối với hoặc sự, hoặc nhận lãnh về vô ngã, ngã sở. Nếu đã vào rừng tạp, tức không phân biệt, tùy ý thọ dụng, do khu rừng ấy có công năng như thế, có thể khiến chư Thiên đi vào đấy, thì thọ dụng hòa hợp đối với các quả báo của cõi trời, hoặc sự, hoặc nhận lãnh, không có nơi chốn tư duy.

Như thế, Bồ-tát nếu chưa chứng được pháp nhẫn vô sinh, thì hoàn toàn không thể chứng được tâm bình đẳng, xả bình đẳng, nên không có khác biệt với tất cả Thanh văn, Độc giác, vì còn có hai tưởng. Bồ-tát đó không thể an trụ trong sự thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự, trí. Nếu đã chứng được pháp nhẫn vô sinh, trừ dứt hai tưởng đó, nên được tâm bình đẳng tức sai khác so với Thanh văn, Độc giác.

Do tâm bình đẳng nên có thể an trụ nơi xả, thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự, trí”.

* Luận nêu: Trời Ba Mươi Ba có một khu rừng tạp, chiêu cảm do phước lực hòa hợp của chư Thiên, khiến chúng chư Thiên nếu không ở tại khu rừng này, thì sự thọ nhận khổ vui ở nơi cung điện v.v… có hơn kém khác nhau, vì còn có sự thọ dụng sai biệt của ngã và ngã sở.

Nếu ở tại khu rừng ấy thì hoặc sự, hoặc việc thọ nhận đều không có hơn kém, đều đồng thượng diệu không có ngã, ngã sở, hòa hợp thọ dụng có thể khiến bình đẳng. Vì hòa hợp thọ dụng nên gọi là rừng tạp.

Đây là do chư Thiên đều tu tập bình đẳng, do sức tăng thượng nơi nghiệp phước hòa hợp, khiến thức A-lại-da của chư Thiên kia biến hiện ra khu rừng này, đồng xứ, đồng thời và đồng một tướng trạng. Do lực tăng thượng của khu rừng tạo này nên khiến chuyển thức của chư Thiên kia cũng đồng biến hiện, tuy đều cùng thọ dụng nhưng cho là không khác biệt.

Như vậy, Bồ-tát, hàng Nhị thừa ở trước địa, chưa chứng nhập hai không, chưa hiển bày chân như cùng pháp nhẫn vô sinh, còn có chấp khác nhau do kiến đạo đoạn nên chưa lìa hai tưởng tự tha có khác nhau, nên chưa được tâm bình đẳng về nhận, bỏ, tương ưng với Trí Bình đẳng tánh vô lậu. Hoặc lại vì hành xả nên không thể an trụ trong sự thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự, trí.

Có nghĩa: Bồ-tát từ bảy Địa trở xuống còn có công dụng, có đạo gia hạnh, còn có phiền não vi tế hiện hành, chưa thanh tịnh, chưa tự nhiên đạt được pháp nhẫn vô sinh, Trí Diệu quan sát tương ưng bình đẳng, hoặc tâm, hoặc xả, nên không thể trụ nơi sự thọ dụng hòa hợp một vị theo sự, trí.

* Kinh nói:Lại nữa, này Bồ-tát Diệu Sinh! Ví như có vô số dòng sông lớn nhỏ, khi chưa đổ vào biển cả, mỗi dòng sông đều có chỗ nương dựa riêng, nước khác nhau, nước ít, nước có tăng giảm, tùy theo sự vận hành của nước đã tạo ra các thứ đều khác biệt, một phần ít nước làm nơi nương dựa, duy trì sinh mạng của các thứ thủy tộc. Nếu các dòng sông đổ vào biển cả thì không còn có nơi nương dựa riêng. Ở biển, nước không khác nhau, nước không có hạn lượng, nước không tăng giảm, đã tạo ra một sự vận hành rộng lớn làm nơi nương dựa, duy trì sinh mạng của thủy tộc.

Như thế, Bồ-tát nếu chưa chứng nhập biển cả pháp giới thanh tịnh của Như Lai, thì mỗi Bồ-tát đều có nơi nương dựa riêng, trí khác nhau, trí ít, trí có tăng giảm. Tùy theo nghiệp trí của mỗi Bồ-tát nên chỗ tạo tác đều dị biệt. Một phần ít chúng sinh được dựa vào trí, nên căn thiện được thành thục. Nếu Bồ-tát đã chứng nhập biển cả pháp giới thanh tịnh của Như Lai, thì không còn chỗ dựa riêng, trí không sai biệt, trí không hạn lượng, trí không tăng giảm, thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự trí, là chốn nương dựa cho vô lượng chúng sinh thành thục căn thiện của mình”.

* Luận nêu: Các dòng sông lớn: Nghĩa là bốn con sông lớn như Căng-già (Hằng hà) v.v… Các dòng sông nhỏ: Nghĩa là các sông nhỏ khác.

Chưa đổ vào biển cả, mỗi dòng sông đều có chỗ nương dựa riêng: Nghĩa là mỗi mỗi dòng sông đều nương dựa vào các địa phương.

Nước khác nhau: Là nước trong, đục, nước tro, nước tốt khác nhau.

Nước ít: Là so với biển cả.

Nước có tăng giảm: Là do thời gian mưa ít, mưa nhiều có sai biệt.

Tùy theo sự vận hành của nước đã tạo nên các thứ đều khác: Tức các thế mạnh về sự bốc hơi, về vị nước, về sự thành thục có sai biệt.

Một phần ít nước làm nơi nương dựa, duy trì sinh mạng của các thứ thủy tộc: Là một số ít, dung lượng nước ít, làm nơi nương dựa, duy trì sự sống cho các hữu tình là loài thủy tộc.

Nếu các dòng sông đổ vào biển cả thì không còn có nơi nương dựa riêng: Là so với phần đã nói ở trước, tất cả đều ngược lại, nên biết.

Tướng của biển kia rộng lớn làm nơi nương dựa, duy trì: Là dựa vào số lượng rộng lớn mà nói.

Như thế, Bồ-tát nếu chưa chứng nhập biển cả pháp giới thanh tịnh của Như Lai: Là chưa chứng được pháp giới thanh tịnh của chư Phật.

Mỗi Bồ-tát đều có nơi nương dựa: Là đều có mỗi mỗi Đức Như Lai riêng làm nơi nương dựa.

Trí khác nhau: Là mỗi Bồ-tát đều có thắng giải riêng đã tu tập thành tựu.

Trí ít: Là so sánh với trí Phật.

Trí có tăng giảm: Là các địa cùng so sánh, tức có hơn kém và định cùng so sánh cũng có chỗ hơn kém.

Tùy theo nghiệp trí của mỗi Bồ-tát nên chỗ tạo tác đều dị biệt: Do các Bồ-tát đã quyết định về số lượng riêng biệt, nên chỗ tạo tác đều khác nhau. Tùy vào uy lực thắng giải của các Bồ-tát khi duyên nơi cảnh giới của hữu tình, nên có thể có đối tượng được tạo tác. Nếu vượt quá sự việc này thì không chuyển biến, thế nên mỗi hành tu tập đều sai biệt.

Một phần ít chúng sinh v.v…: Là số ít, lượng ít, làm nơi nương dựa cho việc thành thục các căn thiện. Do lực tăng thượng của các Bồ-tát, theo từng phần, nhưng vẫn khiến căn thiện của người khác được thành thục. Định của các Bồ-tát so sánh với định của Như Lai, số lượng ít, nên việc tạo lợi ích cho các hữu tình cũng ít.

Nếu Bồ-tát đã chứng nhập biển cả pháp giới thanh tịnh của Như Lai: Là đã chứng đắc pháp giới thanh tịnh của chư Phật.

Không còn chỗ dựa riêng: Vì chân như thanh tịnh là nơi chốn nương dựa. Trong cảnh giới vô lậu, không thể kiến lập chư Phật có dị biệt, huống chi là Bồ-tát.

Trí không sai biệt: Là trí viên cảnh v.v… đều là tương tợ, vì không còn có phân biệt khác nhau giữa mình, người.

Trí không hạn lượng: Là do đã thấu tỏ về vô biên cảnh của đối tượng được nhận biết.

Trí không tăng giảm: Là bình đẳng thanh tịnh, vì nhận biết khắp về các cảnh giới không có ít, nhiều.

Thọ dụng hòa hợp một vị nơi sự trí: Là tất cả hành tác cùng với trí bình đẳng v.v… đều giống nhau.

Vô lượng chúng sinh v.v…: Là hoặc về số, hoặc về lượng đều là vô lượng, tư lương về phước đức, trí tuệ là không cùng tận, đều bình đẳng. Do Bồ-tát đã chứng được Pháp thân, đi đến tận cùng nơi biên vực sinh tử, là nơi chốn nương dựa cho tất cả hữu tình thành thục căn thiện.

Hai dụ trước và sau có sai biệt: Nghĩa là dụ trước nói các Bồtát chưa chứng nhập, đã chứng nhập, hoặc nơi Địa Hoan hỷ, hoặc nơi Địa Bất động. Dụ về biển cả ở sau là nói về các Bồ-tát chưa nhập, đã nhập hoặc nơi Địa Bất động, hoặc nơi Địa Như Lai.

Còn có nghĩa: Hai dụ đồng nói về Bồ-tát chưa chứng đắc, đã chứng đắc pháp nhẫn vô sinh. Dụ trước nói công đức của Bồ-tát trù mật, dụ như rừng tạp. Dụ sau nói công đức của Bồ-tát là vô tận, dụ như biển cả.

HẾT – QUYỂN 6

Pages: 1 2 3 4 5 6 7