SỐ 1531/2
LUẬN KINH VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT VẤN BỒ ĐỀ

(Còn có tên là: LUẬN KINH GIÀ DA SƠN ĐẢNH)
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN THƯỢNG

Thấy chúng sinh bị phiền não buộc

Phát nguyện Bồ-đề để cứu độ

Chánh giác, từ bi tôn như thế

Đảnh lễ tạo Luận giải thích Kinh.

Luận con hay dứt oán phiền não

Cứu hộ các cõi, đoạn đường ác

Hai thứ lợi tối thắng như vậy

Tất cả luận ngoại đạo không có.

Kinh này gồm có 9 phần:

Phần 1: Tự (Mở đầu).

Phần 2: Đệ tử thành tựu đáng được nghe.

Phần 3: Tam-muội.

Phần 4: Chủ thể quán thanh tịnh.

Phần 5: Pháp của đối tượng được quán xét.

Phần 6: Phát khởi.

Phần 7: Giảng nói.

Phần 8: Uy lực công đức của Bồ-tát.

Phần 9: Hành của Bồ-tát có sai biệt.

Phần 1 và 2: Mở đầu – Đệ tử thành tựu đáng được nghe.

* Kinh nói:Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Bà-già-bà đang trụ tại ngôi tháp nơi đỉnh núi Già-da, thuộc thành Già-da khi mới chứng đắc Bồ-đề, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo gồm một ngàn người đều hội đủ, trước kia đều là Phạm chí bện tóc. Các vị ấy, những việc nên làm đã làm, những việc làm ấy đều đã hoàn thành, đã bỏ gánh nặng xuống, đạt được lợi mình, là bậc chánh trí, dứt hết các thứ kiết hữu, tâm được giải thoát, tất cả tâm đều được tự tại, đã đến bờ kia, đều là bậc A-la-hán.

Chúng Đại Bồ-tát là vô lượng vô biên, đều từ mười phương thế giới tập hợp đến đây, có oai đức lớn, đều chứng đắc các nhẫn, các Đà-la-ni, các Tam-muội thâm diệu, đầy đủ các thần thông. Danh hiệu của chư vị là: Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Dũng Thí, Bồ-tát Dũng Tu Hành Trí v.v… là bậc thượng thủ.

Các Đại Bồ-tát như thế, số lượng là vô lượng, cùng các chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người, không phải người v.v…, tất cả đại chúng đều vây quanh Phật”.

* Luận nêu:

Tôi nghe như vầy: Một thời v.v…: Là lời nêu của người kết tập pháp.

Trụ nơi thành Già-da: Là chỉ rõ nơi chốn cư trú được thành tựu.

Đỉnh núi Già-da: Là chỉ rõ về hình tướng của núi kia, nơi đại chúng hành trụ.

Tháp: Là chỉ rõ về nơi chốn ấy, có thể là sự cúng dường và hưng khởi sự cúng dường.

Mới chứng đắc Bồ-đề: Tức là Như Lai mới thành Phật.

Cùng với chúng Đại Tỳ-kheo: Tức số chúng là rất lớn, vì không tăng không giảm nên đầy đủ một ngàn Tỳ-kheo.

Phạm chí bện tóc: Đây là nêu rõ về các Tỳ-kheo hữu học, vô học.

Đó gọi là các người nghe đã thành tựu.

Phần còn lại: Tiếp theo là nói đến hành của các Bồ-tát có sai biệt. Hành của Bồ-tát có 2 thứ, thuộc về pháp thâu nhận:

  1. Thuộc về nhân.
  2. Thuộc về quả.

Lại, tháp nơi đỉnh núi Già-da là căn bản nơi phần Tự. Do đây là trụ xứ của vô lượng chư Phật, chỉ rõ trụ xứ đó là nơi tập hợp của chư Phật, Như Lai.

Pháp môn này là đã được chư Phật Như Lai thâu nhận, bảo hộ.

Nên nghe Tu-đà-la này là sự thâu nhận thành tựu.

Học, vô học, trước kia đều là Phạm chí bện tóc.

Lại, bậc vô học có 8 thứ đức:

1. Việc làm đều hoàn tất, như kinh nói: “Những việc nên làm đã làm”.

2. Hoàn toàn vượt quá công việc nên làm, đã làm, như kinh nói: “Những việc làm ấy đều đã hoàn thành”.

3. Xa lìa chướng ngại của Tam-muội, như kinh nói: “Đã bỏ gánh nặng xuống”.

4. Lìa bỏ gánh nặng mình đã nhận, như kinh nói: “Đạt được lợi mình”. Gánh nặng kia đó là năm ấm.

5. Chứng đắc Niết-bàn, như kinh nói: “Dứt hết các thứ kiết hữu”.

6. Vượt qua ba cõi, như kinh nói: “Là bậc chánh trí, tâm được giải thoát”.

7. Dựa vào chỗ không điên đảo, thọ nhận giáo pháp để tu hành, như kinh nói: “Tất cả tâm đều được tự tại, đã đến bờ kia”. Do khéo xa lìa các phiền não.

8. Tu hành như thật bốn như ý túc, như kinh nói: “Đều là bậc A-la-hán”. Lại, A-la-hán là người có khả năng thọ nhận tín thí, là đối tượng được bố thí các vật nên gọi là ứng cúng.

Lại, bậc hữu học có 2 thứ:

  1. Khéo học đạo giữ giới trọn vẹn.
  2. Như điều tâm mong cầu đều được hoàn toàn viên mãn.

Tiếp theo là nói phần Tam Muội.

Kinh nói:Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang một mình ở nơi yên tĩnh, không một bóng người, nhập Tam-muội thâm diệu của chư Phật, quan sát pháp giới”.

Luận nêu: Nhập Tam-muội, quan sát: Là chỉ rõ đây không phải là cảnh giới của tư duy, lường xét.

Lại, nhập Tam-muội là chỉ rõ không đồng với hàng Thanh văn và Phật-bích-chi. Tức xác minh đây không phải là cảnh giới của hàng Thanh văn, Phật-bích-chi.

Đã nói xong phần Tam Muội. Kế tiếp là nói phần Chủ thể quán thanh tịnh.

* Kinh nói:Phật suy nghĩ như thế này: Ta đã chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, đạt được tất cả trí tuệ, mọi việc làm đều đã hoàn thành, lìa bỏ các gánh nặng, vượt qua hết thảy đường hiểm, diệt trừ vô minh, chứng được chân minh, nhổ hết các mũi tên, đoạn dứt các thứ khát ái, thành tựu thuyền pháp, đánh trống pháp, thổi loa pháp, dựng cờ pháp, chuyển đổi hạt giống sinh tử, chỉ rõ tánh Niết-bàn, lấp nẻo tà, mở đường chánh, lìa các ruộng tội, hiển bày ruộng phước”.

* Luận nêu: Chủ thể quán thanh tịnh: Là chỉ rõ Đức Phật đã chứng đắc Bồ-đề. Như kinh nói: “Phật suy nghĩ như thế này: Ta đã chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác vô thượng v.v…”.

Chứng đắc Bồ-đề: Là hiển bày trí chứng nhập vượt hơn hàng Thanh văn và Phật-bích-chi. Như kinh nói: “Đạt được tất cả trí tuệ”.

Đức Phật đã chứng được tất cả trí tuệ:17 thứ:

1. Bản nguyện đầy đủ, như kinh nói: “Mọi việc làm đều đã hoàn thành”.

2. Lìa bỏ gánh nặng đã nhận lấy, như kinh nói: “Đã lìa bỏ các gánh nặng”. Gánh nặng đó là năm ấm.

3. Khéo đoạn dứt chướng của tất cả phiền não, như kinh nói: “Đã vượt qua hết thảy đường hiểm”.

4. Khéo đoạn trừ tất cả chướng của trí, như kinh nói: “Đã diệt trừ vô minh”.

5. Chứng pháp diệu như thật, như kinh nói: “Đã chứng được chân minh”.

6. Lìa hết thảy mũi tên tà, như kinh nói: “Đã nhổ hết các mũi tên”.

7. Lìa xa các thứ điên đảo, như kinh nói: “Đã đoạn dứt các thứ khát ái”.

8. Thành tựu tuệ xuất thế gian, như kinh nói: “Đã thành tựu thuyền pháp”.

9. Chuyển pháp luân mầu nhiệm, như kinh nói: “Đánh trống pháp”.

10. Phát ra âm thanh vô ngã vi diệu, khéo có thể hàng phục tất cả các ma, như kinh nói: “Thổi loa pháp”.

11. Khéo có thể hàng phục hết thảy ngoại đạo, như kinh nói: “Dựng cờ pháp”.

12. Khéo đoạn trừ nhân duyên của tất cả các kiết, như kinh nói: “Chuyển đổi hạt giống sinh tử”.

13. Giảng nói pháp diệu thế gian và xuất thế gian, như kinh nói: “Chỉ rõ tánh Niết-bàn”.

14. Khéo có thể xa lìa những sự chấp tướng điên đảo, như kinh nói: “Lấp nẻo tà”.

15. Vận chuyển tám Thánh đạo, như kinh nói: “Mở đường chánh”.

16. Khéo có thể xa lìa ruộng phước của ngoại đạo, như kinh nói: “Lìa các ruộng tội”.

17. Thị hiện phước điền Tam bảo, như kinh nói: “Hiển bày ruộng phước”.

Sau đây là nói phần Pháp của đối tượng được quán.

* Kinh nói:Nay Ta sẽ quán pháp đó. Vậy ai đã chứng được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng? Vận dụng các trí nào để chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng? Những gì là pháp của đối tượng được chứng nhập nơi quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng?”.

* Luận nêu: Những người nào có khả năng chứng đắc Bồ-đề? Do những trí nào có thể chứng nhập Bồ-đề? Thế nào là đối tượng được chứng đắc nơi Bồ-đề?

Quán xét ba pháp đó, ở trong ba đời, đều là do phân biệt hư vọng, không có thật thể.

* Kinh nói:Là do thân chứng đắc hay là do tâm chứng đắc? Nếu do thân chứng đắc, nhưng thân thì không biết không hay, như cỏ, như cây, như khối đất, như ảnh tượng, không nhận biết được các thứ do bốn đại tạo tác. Xuất sinh từ cha mẹ, tánh của thân là vô thường, chỉ nhờ vào y phục, thức ăn uống, giường nằm, tắm gội mà được thành lập, tồn tại. Các pháp này tất quy về hư hoại, mòn diệt”.

* Luận nêu: Kinh nói: Là do thân hay do tâm chứng đắc Bồ-đề? Đây là chỉ rõ cả thân lẫn tâm đều không chứng đắc Bồ-đề. Điều này làm sáng tỏ về nghĩa gì? Vì lìa thân tâm, lại không gì là thật có, như người ngu si phân biệt hư vọng, vì không có việc chứng đắc Bồ-đề như thế. Vậy do những người nào có khả năng chứng đắc Bồ-đề? Pháp ấy ở trong ba đời đều do phân biệt hư vọng, không có thật thể, là chỉ rõ không phải do thân chứng được Bồ-đề.

Có tám thứ pháp chỉ rõ thân kia không chứng được Bồ-đề:

1. Không có người tạo ra (Tác giả), như kinh nói: “Nếu do thân chứng đắc, nhưng thân thì không biết không hay”.

2. Do chấp tướng hư vọng tạo thành, như kinh nói: “Như cỏ, như cây, như khối đất, như ảnh tượng”.

3. Xa lìa các tưởng, như kinh nói: “Không nhận biết được”.

4. Do các nhân duyên hòa hợp nên sinh, như kinh nói: “Do bốn đại tạo tác”.

5. Thể vốn bất tịnh, như kinh nói: “Xuất sinh từ cha mẹ”.

6. Niệm không dừng trụ, như kinh nói: “Tánh của thân là vô thường”.

7. Như vật hư mục, nguy khốn, không thể thường giữ, như kinh nói: “Chỉ nhờ vào y phục, thức ăn uống, giường nằm, tắm gội mà được thành lập, tồn tại”.

8. Thể là không thật, như kinh nói: “Các pháp này tất quy về hư hoại, mòn diệt”.

Đã nói: Không phải do thân chứng được Bồ-đề. Vậy do những người nào có khả năng chứng đắc Bồ-đề? Pháp ấy ở trong ba đời đều do phân biệt hư vọng, không có thể thật.

Tiếp theo nói: Do những trí nào có thể chứng nhập Bồ-đề? Pháp ấy ở trong ba đời đều do phân biệt hư vọng, không có thể thật, là chỉ rõ không phải do tâm chứng được Bồ-đề.

* Kinh nói:Nếu do tâm chứng đắc, nhưng tâm thì như huyễn, từ các duyên sinh, không chốn, không tướng, không vật, không sở hữu”.

* Luận nêu:6 thứ pháp chỉ rõ tâm kia không chứng được Bồ-đề:

1. Do phàm phu ngu si, lầm dối, nên thấy pháp điên đảo, hư vọng, như kinh nói: “Nhưng tâm thì như huyễn”.

2. Dựa vào các nhân duyên thiện, bất thiện sinh ra, như kinh nói: “Từ các duyên sinh”.

3. Không có trụ xứ nhất định, như kinh nói: “Không chốn”.

4. Phân biệt hư vọng chấp giữ tướng, thật sự không thể thủ đắc, như kinh nói: “Không tướng”.

5. Tự tánh là không, như kinh nói: “Không vật”.

6. Đi xa, như kinh nói: “Không sở hữu”.

Đã nói: Chỉ rõ không phải do tâm chứng được Bồ-đề. Vậy do những trí nào có thể chứng nhập Bồ-đề? Pháp đó ở trong ba đời là do phân biệt hư vọng, không có thể thật.

Kế tiếp nói: Những gì là pháp của đối tượng được chứng nhập nơi quả vị Bồ-đề? Vì pháp ấy ở trong ba đời đều do phân biệt hư vọng, không có thể thật.

* Kinh nói:Bồ-đề chỉ có tên chữ, theo thế tục nên nói. Không có âm thanh, không có hình sắc, không thành lập, không vận hành, không có nhập, không thể nhận thấy, không thể nương dựa, đoạn dứt mọi đường đi đến, vượt quá những nẻo ngôn thuyết. Ra khỏi ba cõi, không thấy, không nghe, không giác, không vướng, không quán, không hý luận, không tranh cãi, không chỉ bày, không thể quán xét, không thể nhận thấy, không tiếng vang, không có chữ, lìa hết thảy lời nói”.

* Luận nêu: Kinh nói: Bồ-đề chỉ có tên chữ, theo thế tục nên nói: Là chỉ rõ pháp có thể chứng đắc chỉ có tên gọi, do phân biệt hư vọng, vì thể của nó không thật.

Bồ-đề chỉ có tên chữ, theo thế tục nên nói:23 thứ:

1. Không có sự việc, như kinh nói: “Không có âm thanh”.

2. Vượt qua cảnh giới của giác, như kinh nói: “Không có hình sắc”.

3. Thể của các pháp là không, như kinh nói: “Không thành lập”.

4. Lìa các tướng, như kinh nói: “Không vận hành”.

5. Vượt quá tất cả cảnh giới của hàng phàm phu thế gian, như kinh nói: “Không có nhập”.

6. Vượt quá cảnh giới của thức, như kinh nói: “Không thể nhận thấy”.

7. Không có nơi chốn để có thể nương dựa, như kinh nói: “Không thể nương dựa”.

8. Không sinh diệt, như kinh nói: “Đoạn dứt mọi đường đi đến”.

9. Vượt quá tất cả tên, chữ của thế gian, như kinh nói: “Vượt quá những nẻo ngôn thuyết”.

10. Các pháp thuộc hành thiện, không thiện đều không thể thủ đắc, như kinh nói: “Ra khỏi ba cõi”.

11. Lìa kiến giải, như kinh nói: “Không thấy”.

12. Vượt qua cảnh giới của nhĩ thức, như kinh nói: “Không nghe”.

13. Vượt qua cảnh giới của ý thức, như kinh nói: “Không giác” (Tầm).

14. Không dừng trụ, như kinh nói: “Không vướng”.

15. Như hư không, như kinh nói: “Không quán” (Tứ).

16. Vô vi, như kinh nói: “Không hý luận”.

17. Không có hoạn nạn, lìa các lậu, như kinh nói: “Không tranh cãi”.

18. Vượt qua cảnh giới của trí nhỏ hẹp, như kinh nói: “Không chỉ bày”.

19. Vô lượng, như kinh nói: “Không thể quán xét”.

20. Người khác không thể thấy, như kinh nói: “Không thể nhận thấy”.

21. Vì tâm bên trong không nhận biết, như kinh nói: “Không tiếng vang”.

22. Không vật gì có thể thấy, như kinh nói: “Không có chữ”.

23. Không thể nêu bày, như kinh nói: “Lìa hết thảy lời nói”.

* Kinh nói:Như thế, chủ thể chứng đắc Bồ-đề, do những trí nào để chứng nhập Bồ-đề? Pháp của đối tượng được chứng đắc Bồ-đề là gì? Các pháp như thế chỉ có danh tự, chỉ giả danh mà nói, chỉ là sự hòa hợp giữa tên gọi và lời nói, là dựa vào tên gọi của thế tục mà nói, không phân biệt phân biệt mà nói, giả thành lập, không thành lập, không vật, lìa vật, không nhận lấy, không thể nêu, không vướng mắc. Xứ Bồ-đề kia, không người chứng, không nơi chốn dùng để chứng, cũng không có pháp nào để có thể chứng. Thông đạt như thế, tức gọi là chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, không khác biệt, lìa khác biệt, không có tướng Bồ-đề”.

* Luận nêu: Tiếp theo nói: Chứng đắc Bồ-đề là thế nào? Sự chứng đắc này cũng chỉ có danh tự, giả danh, dựa vào thế tục mà nói, phân biệt hư vọng, không có thể thật.

Sự chứng đắc đó dựa vào tên gọi của thế tục mà nói, có 6 thứ:

1. Phân biệt không thật, như kinh nói: “Không phân biệt phân biệt mà nói”.

2. Thể là không, như kinh nói: “Giả thành lập, không thành lập”.

3. Ngã không thể thủ đắc, như kinh nói: “Không vật, lìa vật”.

4. Vượt qua tuệ thế gian, như kinh nói: “Không nhận lấy”.

5. Vượt quá đường ngôn ngữ, như kinh nói: “Không thể nêu”.

6. Xa lìa ngã và ngã sở, như kinh nói: “Không vướng mắc”.

Lại, kinh nói: “Xứ Bồ-đề kia không người chứng, không nơi chốn dùng để chứng, cũng không có pháp nào để có thể chứng. Thông đạt như thế, tức gọi là chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng”: Đây là làm sáng tỏ về nghĩa gì? Là hiển bày người của chủ thể chứng đắc, hiển bày trí được sử dụng để chứng đắc và hiển bày cảnh giới của đối tượng được chứng đắc.

Pháp như thế, tức nên dùng những pháp nào? Là dùng trí tuệ chân chánh vi diệu, nhận biết đúng như thật về đối tượng được nhận thức, đối tượng được hiểu biết, đối tượng được chứng đắc. Đó gọi là chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Lại, kinh nói: “Không khác biệt, lìa khác biệt, không có tướng Bồ-đề”: Đây là làm sáng tỏ về nghĩa gì? Hai câu không khác biệt, lìa khác biệt: Là làm rõ pháp được chứng đắc kia là thanh tịnh, vắng lặng. Không có tướng Bồ-đề: Nghĩa này như trước đã nói.

Đã nói xong phần Pháp của đối tượng được quán xét. Tiếp theo là nói Phần Phát khởi.

Ở đây lại có nghĩa gì? Do sự việc nhập Tam-muội đã xong, tức giờ thuyết pháp đã đến, do đó nên khởi sự.

Lại, ở đây có hai thứ nghĩa:

1. Do nghĩa đã được quan sát trong Tam-muội, Đức Phật muốn nói cho Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.

2. Vì Bồ-tát Văn-thù hỏi, Đức Như Lai trả lời. Vì sao Đức Như Lai chỉ nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, không nói với các vị khác? Vì nương nơi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Như Lai giảng nói pháp này.

Lại nữa, vì sao chỉ giảng nói pháp này với Bồ-tát Văn-thù-sưlợi? Vì pháp môn Như Lai giảng nói ở đây là rất sâu xa, thế nên Đức Như Lai nói cho Bồ-tát có trí tuệ thâm diệu kia (Bồ-tát Văn-thù).

Lại nữa, vì lý do gì chỉ có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa hỏi? Vì Đức Như Lai chỉ bảo với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thế nên Bồ-tát Vănthù hỏi là nghĩa tùy thuận.

Bồ-tát Văn-thù nêu ra câu hỏi là do từ tâm thanh tịnh, nên hỏi – đáp đều thanh tịnh.

Sau đây là hiển bày Phần Giảng nói.

* Kinh nói: “Bấy giờ, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi ở trong đại hội, đứng bên phải Đức Phật, tay cầm lọng báu lớn che phía trên Đức Phật. Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi thầm biết Đức Thế Tôn đã nghĩ như thế, liền bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu Bồ-đề có tướng như thế, thì thiện nam và thiện nữ làm thế nào để phát tâm trụ vào Bồ-đề?

Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Thiện nam, thiện nữ nên nhận biết tướng Bồ-đề như thế mới phát tâm an trụ.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Tướng Bồ-đề nên làm sao nhận biết?

Đức Phật bảo: Tướng Bồ-đề ấy ra khỏi ba cõi, vượt quá tất cả ngôn ngữ, danh tự của thế gian, vượt quá tất cả tiếng vang của phát tâm không phát tâm, diệt trừ các thứ phát tâm khác, đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề. Thế nên, này Văn-thù-sư-lợi! Các Đại Bồ-tát vượt qua tất cả sự phát tâm, đó là phát tâm an trụ. Này Văn-thù-sư-lợi, không phát đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề.

Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề là không phát tâm trụ vào vật nào, đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề. Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề, không trụ vào chướng ngại, đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề. Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề như pháp tánh trụ đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề.

Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề không chấp trước nơi tất cả pháp đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề.

Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề không phá hoại thật tế của Như đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề. Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề không dời đổi, không thêm, không khác, không một, đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề.

Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề như ảnh tượng trong gương, như dợn nắng khi trời nóng, như hình bóng, như tiếng vang, như hư không, như trăng trong nước, phải nên như thế để phát tâm trụ nơi Bồ-đề”.

* Luận nêu: Người phát tâm thanh tịnh có chín thứ:

1. Xả bỏ tất cả hý luận, như kinh nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Không phát đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề”.

2. Xả bỏ sự chấp giữ các pháp, như kinh nói: “Này Văn-thùsư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề là không phát tâm trụ vào vật nào đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề”.

3. Như hư không, như kinh nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề không trụ vào chướng ngại đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề”.

4. Đạt tịch tĩnh, như kinh nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề như pháp tánh trụ đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề”.

5. Từ bỏ chấp tướng là thường, vô thường, như kinh nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề không chấp trước nơi tất cả pháp đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề”.

6. Không hủy báng đạo, không bỏ đạo, như kinh nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề không phá hoại thật tế của Như đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề”.

7. Lìa sự hủy báng, lìa vướng mắc, như kinh nói: “Này Vănthù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề không dời đổi, không thêm, không khác, không một, đó là phát tâm trụ nơi Bồ-đề”.

8. Hội nhập nơi một tướng của tất cả pháp, như kinh nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Người phát tâm Bồ-đề như ảnh tượng trong gương, như dợn nắng khi trời nóng, như hình bóng, như tiếng vang, như hư không, như trăng trong nước, phải nên như thế để phát tâm trụ nơi Bồ-đề”.

9. Lại như thật tu hành Bát-nhã Ba-la-mật. Bốn luận chứng còn lại đều vượt quá ba cõi v.v… như trước đã nói, nên biết.

Đã nêu rõ Phần Giảng nói pháp. Tiếp theo là nói Phần Uy lực nơi công đức của Bồ-tát.

* Kinh nói: “Bấy giờ, trong chúng hội có Thiên tử tên là Nguyệt Tịnh Quang Đức, đã chứng được tâm không thoái chuyển đối với đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Các Đại Bồ-tát trước hết nên quán nới pháp nào để hành tác hạnh Bồ-tát? Dựa vào pháp nào để hành tác hạnh Bồ-tát?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Nẻo hành hóa của các Đại Bồ-tát là lấy đại bi làm gốc, luôn vì các chúng sinh.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đại bi của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Đại bi của các Đại Bồ-tát lấy trực tâm (Tâm ngay thẳng) làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Trực tâm của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Trực tâm của các Đại Bồ-tát lấy tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh của các Đại Bồ-tát lấy hành không khác, hành lìa khác biệt làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hành không khác, hành lìa khác biệt của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Hành không khác, hành lìa khác biệt của các Đại Bồ-tát lấy tâm thanh tịnh sâu xa làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tâm thanh tịnh sâu xa của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Tâm thanh tịnh sâu xa của các Đại Bồ-tát lấy tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng của các Đại Bồ-tát lấy sáu Ba-la-mật làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Sáu Ba-la-mật của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Sáu Ba-la-mật của các Đại Bồ-tát lấy tuệ phương tiện làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tuệ phương tiện của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Tuệ phương tiện của các Đại Bồ-tát lấy không phóng dật làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hạnh không phóng dật của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Hạnh không phóng dật của các Đại Bồ-tát lấy ba hành thiện làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ba hành thiện của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Ba hành thiện của các Đại Bồ-tát lấy mười nghiệp đạo thiện làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Mười nghiệp đạo thiện của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Mười nghiệp đạo thiện của các Đại Bồ-tát lấy trì giới làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Trì giới của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Trì giới của các Đại Bồ-tát lấy sự nhớ nghĩ chân chánh làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Sự nhớ nghĩ chân chánh của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Sự nhớ nghĩ chân chánh của các Đại Bồ-tát lấy chánh quán làm gốc.

Thiên tử lại hỏi: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Chánh quán của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Chánh quán của các Đại Bồ-tát lấy sự nhớ nghĩ kiên cố không quên mất làm gốc”.

* Luận nêu: Uy lực nơi công đức của các Đại Bồ-tát có hai thứ:

  1. Như tâm mong cầu điều gì, tất cả đều được đầy đủ.
  2. Biện tài lạc thuyết giảng nói pháp không chướng ngại.

Thế nào là Như tâm mong cầu điều gì, tất cả đều được đầy đủ? Là do phát khởi pháp thù thắng, thù thắng hơn hết. Phát khởi pháp thù thắng, thù thắng hơn hết có mười bốn thứ:

1. Nhận lãnh giáo pháp không hề quên, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Chánh quán của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Chánh quán của các Đại Bồ-tát lấy sự nhớ nghĩ kiên cố không quên làm gốc”.

2. Khéo nhận lấy chánh giáo, quán xét pháp hữu vi, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Sự nhớ nghĩ chân chánh của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Sự nhớ nghĩ chân chánh của các Đại Bồ-tát lấy chánh quán làm gốc”.

3. Không vượt qua nơi chốn thích hợp, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Trì giới của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Trì giới của các Đại Bồ-tát lấy sự nhớ nghĩ chân chánh làm gốc”.

4. Không thuận theo các lỗi lầm, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Mười nghiệp đạo thiện của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Mười nghiệp đạo thiện của các Đại Bồ-tát lấy trì giới làm gốc”.

5. Khéo tu mười nghiệp đạo thiện, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Ba hành thiện của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Ba hành thiện của các Đại Bồ-tát lấy mười nghiệp đạo thiện làm gốc”.

6. Ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Hạnh không phóng dật của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Hạnh không phóng dật của các Đại Bồ-tát lấy ba hành thiện làm gốc”.

7. Giới thanh tịnh, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thùsư-lợi: Tuệ phương tiện của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Tuệ phương tiện của các Đại Bồ-tát lấy không phóng dật làm gốc”.

8. Tùy thuận lợi ích nơi tất cả chúng sinh, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Sáu Ba-la-mật của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Sáu Ba-la-mật của các Đại Bồtát lấy tuệ phương tiện làm gốc”.

9. Đầy đủ tất cả pháp trợ Bồ-đề, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng của các Đại Bồ-tát lấy sáu Ba-la-mật làm gốc”.

10. Không mệt mỏi, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thùsư-lợi: Tâm thanh tịnh sâu xa của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồtát Văn-thù-sư-lợi đáp: Tâm thanh tịnh sâu xa của các Đại Bồ-tát lấy tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng làm gốc”.

11. Quả – nghiệp thanh tịnh, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Hành không khác, hành lìa khác biệt của các Đại Bồtát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Hành không khác, hành lìa khác biệt của các Đại Bồ-tát lấy tâm thanh tịnh sâu xa làm gốc”.

12. Tu hành thanh tịnh, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Vănthù-sư-lợi: Tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh của các Đại Bồtát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh của các Đại Bồ-tát lấy hành không khác, hành lìa khác biệt làm gốc”.

13. Tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh một cách thanh tịnh, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: Trực tâm của các Đại Bồtát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Trực tâm của các Đại Bồ-tát lấy tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh làm gốc”.

14. Tâm thanh tịnh, như kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Văn-thùsư-lợi: Đại bi của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sưlợi đáp: Đại bi của các Đại Bồ-tát lấy trực tâm làm gốc”.

Lại như kinh nói: “Bấy giờ, trong chúng hội có Thiên tử tên là Nguyệt Tịnh Quang Đức, đã chứng được tâm không thoái chuyển đối với đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, hỏi Bồ-tát Vănthù-sư-lợi: Các Đại Bồ-tát trước hết nên quán nơi pháp nào để hành tác hạnh Bồ-tát? Dựa vào pháp nào để hành tác hạnh Bồ-tát? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Nẻo hành hóa của các Đại Bồ-tát là lấy Đại bi làm gốc, luôn vì các chúng sinh”. Tu-đa-la như thế v.v… càng về sau lại hướng tới trước để giải thích, nên biết.

Thế nào là Biện tài lạc thuyết giảng nói pháp không chướng ngại?

* Kinh nói: “Thiên tử lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Các Đại Bồ-tát có bao nhiêu thứ tâm, có khả năng thành tựu nhân, thành tựu quả?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Các Đại Bồ-tát có bốn thứ tâm, có khả năng thành tựu nhân, thành tựu quả. Đó là:

  1. Tâm mới phát nguyện.
  2. Tâm đang hành trì phát nguyện.
  3. Tâm phát nguyện không thoái chuyển.
  4. Tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như mới gieo hạt giống. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như hạt đã nảy mầm và tăng trưởng. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như cộng, lá, hoa, quả, đầu tiên mới thành tựu. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như quả cùng có công dụng.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như thợ đóng xe là do kết hợp các vật dụng như gỗ v.v… và trí óc. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như dùng trí thanh tịnh để đẽo, bào, sửa sang gỗ. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như trí sắp đặt sử dụng gỗ vào việc đóng xe. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như trí thực hiện hoàn thành chiếc xe vận tải.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như trăng mới mọc. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như trăng đêm mùng năm. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như trăng đêm mùng mười. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như trăng đêm mười bốn. Trí tuệ của Như Lai như trăng đêm rằm.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện có khả năng vượt qua địa Thanh văn. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện có khả năng vượt qua địa Phật-bích-chi. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển có khả năng vượt qua địa bất định. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ an trụ nơi địa định.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như trí học chương đầu tiên. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như trí nhận biết sự sai biệt nơi các chương. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như trí tính toán, cân nhắc. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như trí thông suốt các luận.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện là từ nhân sinh. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện là từ trí sinh. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển là từ đoạn trừ phiền não sinh. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ là từ quả sinh.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện là nhân thâu nhận. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện là trí thâu nhận. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển là đoạn trừ thâu nhận. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ là quả thâu nhận.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện là nhân sinh. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện là trí sinh. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển là đoạn trừ sinh. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ là quả sinh.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện là phần nhân khác nhau. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện là phần trí khác nhau. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển là phần đoạn trừ khác nhau. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ là phần quả khác nhau.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như phương tiện chọn lấy cỏ thuốc. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như phương tiện phân biệt cỏ thuốc. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như phương tiện cho bệnh nhân uống thuốc. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như nhờ phương tiện nên bệnh được khỏi.

Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như học pháp sinh nơi nhà Pháp vương. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như học pháp của Pháp vương. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển có thể học đầy đủ pháp của Pháp vương. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như học pháp của Pháp vương đạt được tự tại”.

* Luận nêu: Biện tài lạc thuyết giảng nói pháp không chướng ngại: Có bốn thứ phát tâm Bồ-đề thâu nhận mười Địa. Do nói về vô số sai biệt, nên có mười hai câu nói về những thứ ấy. Như kinh nói: Thiên tử lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Các Đại Bồ-tát có bao nhiêu thứ tâm, có khả năng thành tựu nhân, thành tựu quả?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Đại Bồ-tát có bốn thứ tâm, có khả năng thành tựu nhân, thành tựu quả. Đó là:

  1. Tâm mới phát nguyện.
  2. Tâm đang hành trì phát nguyện.
  3. Tâm phát nguyện không thoái chuyển.
  4. Tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ.

Tâm mới phát nguyện có khả năng làm nhân cho tâm đang hành trì phát nguyện thứ hai. Tâm đang hành trì phát nguyện thứ hai có khả năng làm nhân cho tâm phát nguyện không thoái chuyển thứ ba. Tâm phát nguyện không thoái chuyển thứ ba có khả năng làm nhân cho tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ thứ tư. Câu này làm rõ cho nhân tối thượng thù thắng hơn hết, không mất.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như mới gieo hạt giống. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như hạt đã nảy mầm và tăng trưởng. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như cộng, lá, hoa, quả bắt đầu thành tựu. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như quả cùng có công dụng: Là chỉ rõ từ nhân thanh tịnh nên thành tựu quả thanh tịnh.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như thợ đóng xe, là do kết hợp các vật dụng như gỗ và trí óc: Tức dựa vào các các thệ nguyện nên có thể thâu nhận tất cả pháp Phật. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như dùng trí thanh tịnh để đẽo, bào, sửa sang gỗ: Do đã thành tựu giới thanh tịnh. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như trí sắp đặt sử dụng gỗ vào việc đóng xe: Vì do dựa vào phương tiện tuệ, tu tập tất cả hành đều tương ưng. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như dùng trí v.v… thực hiện hoàn thành chiếc xe vận tải: Do không bỏ lời hứa nhận lấy gánh nặng từ trước.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như trăng mới mọc. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như trăng đêm mùng năm. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như trăng đêm mùng mười. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như trăng đêm mười bốn. Trí tuệ của Như Lai như trăng đêm rằm v.v…: Là chỉ rõ lực tinh tấn lớn lao hơn hết.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện có khả năng vượt quá địa Thanh văn: Vì Bồ-tát trước Địa thứ nhất là hàng lợi căn đã quan sát tất cả pháp phần Bồ-đề. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện có khả năng vượt quá địa Phậtbích-chi: Vì Bồ-tát trước Địa thứ nhất đã dựa vào trí Bát-nhã thù thắng, có thể tích tập vô lượng hành của các Bồ-tát. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển có khả năng vượt quá địa bất định: Do Bồ-tát này đã hội nhập Địa thứ nhất và chứng đắc trí. Lại nữa, vượt quá địa Thanh văn, Phật-bích-chi là đã vượt qua tất cả hành còn dụng công. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ an trụ nơi địa định, vì khéo an trụ nơi địa vương tử.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như trí học chương đầu tiên: Do pháp quán nơi địa dưới. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như trí nhận biết sự sai biệt nơi các chương: Do trí tuệ tăng trưởng có sai biệt. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như trí tính toán cân nhắc: Do trí phương tiện có thể tính xét về tất cả pháp. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như trí thông suốt các luận: Vì trí đã chứng đắc.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện là từ nhân sinh: Vì tự tánh thanh tịnh, xưa nay luôn thành tựu. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện là từ trí sinh: Do thâu nhận phương tiện là văn tuệ thế gian và xuất thế gian. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển là từ đoạn trừ phiền não sinh: Do đã vượt quá các thứ hý luận của thế gian. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ là từ quả sinh: Vì tự nhiên thành tựu tất cả hành.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện là nhân thâu nhận: Vì tín, hạnh hỗ trợ đạo thuần thục, lại do quán cảnh giới của Địa thứ nhất. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện là trí thâu nhận: Do dựa vào cảnh giới quán đã thuần thục với các hành có công dụng. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển là đoạn trừ thâu nhận: Vì dựa vào cảnh giới tu hành chưa được quán pháp Phật. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ là quả thâu nhận: Do dựa vào quả thuần thục, tùy thuận nơi cõi nước Phật hiện có, nên thành lập xứ sở Phật, tức là thành Phật.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện là nhân sinh: Do tu hành tánh căn thiện không điên đảo. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện là trí sinh: Vì tánh cứu cánh của pháp không điên đảo. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển là đoạn trừ sinh: Vì tánh tu hành không điên đảo. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ là quả sinh: Vì được tâm tự tại.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện là phần nhân khác nhau: Vì do thâu nhận vô lượng căn thiện. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện là phần trí khác nhau: Do vô lượng vô biên pháp môn đều hoàn toàn rốt ráo. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển là phần đoạn trừ khác nhau: Do chứng nhập vô lượng môn Tam-muội. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ là phần quả khác nhau: Là do vô lượng thần thông phấn tấn với công dụng tùy ý tự tại.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như phương tiện chọn lấy cỏ thuốc: Do nhận lấy pháp đối trị bệnh phiền não. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như phương tiện phân biệt cỏ thuốc: Vì biết cách đối trị bệnh phiền não, cho thuốc được thích ứng. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển như phương tiện cho bệnh nhân uống thuốc: Vì dựa vào các phương tiện của trí, tùy sự thọ dụng tương ưng. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như nhờ phương tiện nên bệnh được khỏi: Vì bệnh phiền não đã diệt trừ.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiên tử! Thứ nhất, tâm mới phát nguyện như học pháp sinh nơi nhà Pháp vương: Do đã hàng phục hàng Thanh văn và Phật-bích-chi. Thứ hai, tâm đang hành trì phát nguyện như học pháp của Pháp vương: Do học mọi thứ đạt được Thắng xứ. Thứ ba, tâm phát nguyện không thoái chuyển có thể học đầy đủ pháp của Pháp vương: Vì được quả tu đạo thù thắng. Thứ tư, tâm phát nguyện nhất sinh bổ xứ như học pháp của Pháp vương đạt được tự tại: Là do đạt được tự tại vô ngại trong tất cả pháp.

HẾT – QUYỂN THƯỢNG

*************

LUẬN KINH VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT VẤN BỒ ĐỀ

QUYỂN HẠ

* Luận nêu: Đã nói phần Uy lực công đức của Bồ-tát. Tiếp sau là nói về Phần Hành của Bồ-tát có sai biệt.

* Kinh nói: “Bấy giờ, trong đại chúng có Thiên tử tên là Định Quang Minh Chủ, đã phát tâm không thoái chuyển đối với quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thưa hỏi Pháp vương tử Vănthù-sư-lợi: Những gì là đạo tóm gọn đầy đủ của các Đại Bồ-tát nào? Các Đại Bồ-tát đã do đạo ấy nên mau chóng chứng được quả vị Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng chăng?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Đạo tóm gọn đầy đủ của các Đại Bồ-tát có hai thứ. Các Đại Bồ-tát do hai thứ đạo này nên nhanh chóng chứng được đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Những gì là hai?

  1. Đạo phương tiện.
  2. Đạo trí tuệ.

Phương tiện là trí nhận biết thâu giữ pháp thiện. Trí tuệ là trí nhận biết đúng như thật về các pháp.

Lại, phương tiện là trí quán tất cả chúng sinh. Trí tuệ là trí lìa các pháp.

Lại, phương tiện là trí nhận biết các pháp tương ưng. Trí tuệ là trí nhận biết các pháp không tương ưng.

Lại, phương tiện là trí quán nhân nơi đạo. Trí tuệ là trí diệt nhân nơi đạo”.

* Luận nêu: Pháp vương Thế Tôn, thân đang ở trong chúng, vì sao Thiên tử kia lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi? Là để chỉ rõ công đức của các Đại Bồ-tát. Đây là do nghĩa gì? Là do các chúng sinh hay sinh khởi tâm khinh mạn đối với các Bồ-tát, nên ở đây nhằm khiến họ sinh tâm tôn trọng, cung kính.

Hành sai biệt của các Đại Bồ-tát:2 thứ đạo:

  1. Đạo thanh tịnh của nhân.
  2. Đạo thanh tịnh của công đức.

Đạo thanh tịnh của nhân: Là chỉ rõ nhân thù thắng thanh tịnh. Nhân thù thắng thanh tịnh là do bốn thứ phát tâm để nói: (a) Đạo nói về sự hỗ trợ thanh tịnh. (b) Đạo nói về trí công đức. (c) Đạo nói về chứng nhập thật tế. (d) Đạo nói về tu hành như thật.

Đạo thanh tịnh của công đức:8 thứ:

1. Trí thâu nhận, giáo hóa tất cả chúng sinh. Như kinh nói: “Phương tiện là trí nhận biết thâu giữ pháp thiện”.

2. Có khả năng nhẫn đối với các hành bất thiện của tất cả chúng sinh. Như kinh nói: “Trí tuệ là trí nhận biết đúng như thật về các pháp”.

3. Tích tập các pháp bạch, tịnh. Như kinh nói: “Lại, phương tiện là trí quán các chúng sinh”.

4. Quán tất cả pháp phần Bồ-đề. Như kinh nói: “Trí tuệ là trí lìa các pháp”.

5. Nhận biết tướng hòa hợp của các pháp. Như kinh nói: “Lại, phương tiện là trí nhận biết các pháp tương ưng”.

6. Nhận biết tướng bất đồng của các pháp. Như kinh nói: “Trí tuệ là trí nhận biết các pháp không tương ưng”. Lại, trí tuệ là trí nhận biết các pháp không tương ưng do vô số các nguyện.

7. Nhận biết đúng như thật về chúng sinh có thể hóa độ. Như kinh nói: “Lại, phương tiện là trí quán nhân nơi đạo”.

8. Tập hợp các thứ hỗ trợ đạo. Như kinh nói: “Trí tuệ là trí diệt nhân nơi đạo”.

Đã nói về Đạo thanh tịnh của công đức. Sau đây là nói về Đạo thanh tịnh của nhân.

* Kinh nói: “Lại, phương tiện là trí nhận biết các pháp có sai biệt. Trí tuệ là trí nhận biết các pháp không sai biệt.

Lại, phương tiện là trí làm trang nghiêm cõi Phật. Trí tuệ là trí bình đẳng không sai biệt làm trang nghiêm cõi Phật.

Lại, phương tiện là trí hội nhập các căn, hành của chúng sinh. Trí tuệ là trí không có kiến chấp về chúng sinh.

Lại, phương tiện là trí được đến đạo tràng. Trí tuệ là trí có thể chứng đắc tất cả pháp Bồ-đề của Phật”.

* Luận nêu: Đạo thanh tịnh của nhân: Cũng có 8 thứ:

1. Quán các pháp thiện, bất thiện. Như kinh nói: “Lại, phương tiện là trí nhận biết các pháp có sai biệt”.

2. Lìa các nhân duyên căn bản của tất cả pháp. Như kinh nói: “Trí tuệ là trí nhận biết các pháp không sai biệt”.

3. Lìa tất cả chướng ngại. Như kinh nói: “Lại, phương tiện là trí làm trang nghiêm cõi Phật”.

4. Đoạn dứt tất cả sự hòa hợp. Như kinh nói: “Trí tuệ là trí bình đẳng không sai biệt làm trang nghiêm cõi Phật”.

5. Nhận biết đúng như thật. Như kinh nói: “Lại, phương tiện là trí hội nhập các căn, hành của chúng sinh”.

6. Chứng nhập một pháp môn. Như kinh nói: “Trí tuệ là trí không có kiến chấp về chúng sinh”.

7. Nhận biết đúng như thật về sự phân biệt hư vọng của tất cả phàm phu. Như kinh nói: “Lại, phương tiện là trí được đến đạo tràng”.

8. Chứng nhập cảnh giới tịch tĩnh. Như kinh nói: “Trí tuệ là trí có thể chứng đắc tất cả pháp Bồ-đề của Phật”.

* Kinh nói:Lại nữa, này Thiên tử! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ đạo tóm gọn. Các Đại Bồ-tát do hai thứ đạo này nên nhanh chóng chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Những gì là 2 thứ đạo tóm gọn?

  1. Đạo hỗ trợ.
  2. Đạo đoạn trừ.

Đạo hỗ trợ là năm Ba-la-mật. Đạo đoạn trừ là Bát-nhã Bala-mật.

Lại có 2 thứ đạo tóm gọn:

  1. Đạo có chướng ngại.
  2. Đạo không chướng ngại.

Đạo có chướng ngại là năm Ba-la-mật. Đạo không chướng ngại là Bát-nhã Ba-la-mật.

Lại có 2 thứ đạo tóm gọn:

  1. Đạo hữu lậu.
  2. Đạo vô lậu.

Đạo hữu lậu là năm Ba-la-mật. Đạo vô lậu là Bát-nhã Ba-la-mật.

Lại có 2 thứ đạo tóm gọn:

  1. Đạo hữu lượng.
  2. Đạo vô lượng.

Đạo hữu lượng là phân biệt chấp giữ tướng. Đạo vô lượng là không phân biệt chấp giữ tướng.

Lại có 2 thứ đạo tóm gọn:

  1. Đạo trí.
  2. Đạo đoạn.

Đạo trí nghĩa là Bồ-tát từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ bảy. Đạo đoạn nghĩa là Bồ-tát từ Địa thứ tám cho đến Địa thứ mười”.

* Luận nêu: Kinh nói: Lại có 2 thứ đạo tóm gọn:

  1. Đạo công đức.
  2. Đạo trí.

Đạo công đức là tập hợp vô số các căn thiện. Như kinh nói: “Đạo hỗ trợ là năm Ba-la-mật”. Đạo trí là thông đạt tất cả các pháp. Như kinh nói: “Đạo đoạn trừ là Bát-nhã Ba-la-mật”.

Lại như kinh nói: Lại có 2 thứ đạo tóm gọn:

  1. Đạo có chướng ngại.
  2. Đạo không chướng ngại.

Đạo có chướng ngại là năm Ba-la-mật, vì hành hóa trong ba cõi, từ Địa thứ nhất này trở về trước. Đạo không chướng ngại là Bát-nhã Ba-la-mật, do vượt quá ba cõi, nhập nơi Địa thứ nhất, chứng đắc trí.

Lại như kinh nói: Lại có 2 thứ đạo tóm gọn:

  1. Đạo hữu lậu.
  2. Đạo vô lậu.

Đạo hữu lậu là năm Ba-la-mật, vì thành tựu quả ở thế gian, đây là Bồ-tát từ Địa thứ nhất trở về trước. Đạo vô lậu là Bát-nhã Ba-lamật, vì thành tựu quả xuất thế gian, đây là đã được trí xuất thế gian.

Lại như kinh nói: Lại có 2 thứ đạo tóm gọn:

  1. Đạo hữu lượng.
  2. Đạo vô lượng.

Đạo hữu lượng là phân biệt chấp giữ tướng, do giữ lấy khắp cảnh giới của thức. Đạo vô lượng là không phân biệt chấp giữ tướng, vì vượt quá cảnh giới của thức, không thấy có sự giữ lấy khắp.

Lại như kinh nói: Lại có 2 thứ đạo tóm gọn:

  1. Đạo trí.
  2. Đạo đoạn.

Đạo trí nghĩa là Bồ-tát từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ bảy, do nhận biết đúng như thật về cảnh giới hữu vi. Đạo đoạn nghĩa là Bồ-tát từ Địa thứ tám cho đến Địa thứ mười, vì nhận biết đúng như thật về cảnh giới vô vi.

* Kinh nói: “Bấy giờ, trong chúng hội có Đại Bồ-tát tên là Dũng Tu Hành Trí hỏi Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi: Thế nào gọi là nghĩa của Đại Bồ-tát? Thế nào gọi là trí của Đại Bồ-tát?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiện nam! Nghĩa gọi là không tương ưng. Trí gọi là tương ưng.

Bồ-tát Dũng Tu Hành Trí nói: Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Vì sao nghĩa gọi là không tương ưng? Vì sao trí gọi là tương ưng?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: Này Thiện nam! Nghĩa gọi là vô vi. Do nghĩa kia không có một pháp nào cùng tương ưng, không có một pháp nào không cùng tương ưng. Vì sao? Vì không biến đổi, vì không có tướng.

Nghĩa, tức không có một pháp nào cùng tương ưng, không có một pháp nào không cùng tương ưng. Do nghĩa vốn không thành tựu, thế nên không có một pháp nào cùng tương ưng, không có một pháp nào không cùng tương ưng.

Nghĩa, tức không dời, không tăng, nên không có một pháp nào cùng tương ưng, không có một pháp nào không cùng tương ưng”.

* Luận nêu: Kinh nói: Này Thiện nam! Nghĩa gọi là không tương ưng. Trí gọi là tương ưng: Tức chỉ rõ về thật tế có bốn thứ.

Lại như kinh nói: Này Thiện nam! Nghĩa gọi là vô vi. Do nghĩa kia không có một pháp nào cùng tương ưng, không có một pháp nào không cùng tương ưng. Vì sao? Vì không biến đổi, vì không có tướng: Là do lìa các lỗi của vô thường.

Thế nên kinh nói: Nghĩa, tức không có một pháp nào cùng tương ưng, không có một pháp nào không cùng tương ưng, do tánh của tự thể là trụ. Như kinh nói: Do nghĩa vốn không thành tựu. Vì vậy kinh nói: Thế nên không có một pháp nào cùng tương ưng, không có một pháp nào không cùng tương ưng. Do thật thể của pháp giới, chân như là thường trụ. Vì thế kinh nói: Nghĩa, tức không dời, không tăng, nên không có một pháp nào cùng tương ưng, không có một pháp nào không cùng tương ưng.

Lại, không có một pháp nào không dời đổi, không thêm lên, do pháp giới là không tăng, không giảm.

* Kinh nói:Này Thiện nam! Trí gọi là đạo, đạo là tâm cùng tương ưng, không phải là không tương ưng. Này Thiện nam! Do nghĩa ấy nên trí gọi là tương ưng, không phải là không tương ưng.

Lại nữa, này Thiện nam! Trí gọi là đoạn dứt sự tương ưng. Thế nên, này Thiện nam! Trí gọi là pháp tương ưng, không phải là pháp không tương ưng.

Lại nữa, này Thiện nam! Trí gọi là khéo quán năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân duyên, là xứ, không phải xứ. Này Thiện nam! Do nghĩa ấy nên trí gọi là tương ưng, không phải là không tương ưng”.

* Luận nêu: Kinh nói: “Này Thiện nam! Trí gọi là đạo, đạo là tâm cùng tương ưng, không phải là không tương ưng”: Từ đoạn đây trở xuống, thứ lớp nói về: Sự chứng nhập pháp giới: Có ba thứ luận chứng với sáu thứ, mười pháp. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do những trí nào? Thế nào là chứng đắc? Vì nghĩa nào? Trụ nơi xứ nào để có thể chứng nhập pháp giới?

Do những trí nào? Lấy ba thứ luận chứng, sáu thứ mười pháp để chỉ rõ.

Ba thứ luận chứng chỉ rõ những trí nào? Trí nghĩa là đạo. Đạo là pháp tương ưng với tâm, không phải là pháp không tương ưng. Thế nên kinh nói: “Này Thiện nam! Do nghĩa ấy nên trí gọi là tương ưng, không phải là không tương ưng”. Lại, trí cùng quyến thuộc có thể chứng đắc pháp giới. Vì sao? Do tâm thanh tịnh nên đạo thanh tịnh. Do đạo thanh tịnh nên tâm thanh tịnh.

Lại như kinh nói: “Lại nữa, này Thiện nam! Trí gọi là đoạn dứt sự tương ưng. Thế nên, này Thiện nam! Trí gọi là pháp tương ưng, không phải là pháp không tương ưng”: Vì cùng lần lượt dựa vào nhau.

Lại như kinh nói: “Lại nữa, này Thiện nam! Trí gọi là khéo quán năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân duyên, là xứ, không phải xứ. Này Thiện nam! Do nghĩa này, nên trí gọi là tương ưng, không phải là không tương ưng”: Do nhận biết đúng như thật về cảnh giới có thể nhận biết.

Thế nào là sáu thứ mười pháp? Đầu tiên nói về pháp thứ nhất:

Mười thứ trí.

* Kinh nói:Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát có mười thứ trí:

  1. Trí nhân.
  2. Trí quả.
  3. Trí nghĩa.
  4. Trí phương tiện.
  5. Trí tuệ.
  6. Trí thâu nhận.
  7. Trí Ba-la-mật.
  8. Trí đại bi.
  9. Trí giáo hóa chúng sinh.
  10. Trí không chấp trước nơi tất cả pháp.

Này Thiện nam! Đó gọi là mười thứ trí của các Đại Bồ-tát”.

* Luận nêu: Kinh nói: Các Đại Bồ-tát có mười thứ trí:

1. Trí nhân: Là khéo nhận biết về chủng tử giải thoát từ đời vô thỉ đến nay.

2. Trí quả: Là nhận biết đúng như thật về vô số thứ nghiệp báo từ đời vô thỉ đến nay.

3. Trí nghĩa: Là khéo nhận biết về tự lợi, lợi tha.

4. Trí phương tiện: Là có thể tăng trưởng chút ít căn thiện khiến trở nên vô lượng.

5. Trí tuệ: Là có thể quan sát các pháp thiện, pháp bất thiện.

6. Trí thâu nhận: Là thâu giữ pháp thí và tư sinh thí (Tài thí).

7. Trí Ba-la-mật: Là khéo nhận biết về sự thành tựu vô số các căn thiện.

8. Trí đại bi: Là dựa vào căn thiện để có thể phát khởi hành thiện.

9. Trí giáo hóa chúng sinh: Là khéo quán về thời, không phải thời.

10. Trí không chấp trước nơi tất cả các pháp: Là do lìa hai biên, tu hành trung đạo.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là mười thứ trí của các Đại Bồ-tát.

Tiếp theo là nói về pháp thứ hai: Mười thứ phát khởi.

* Kinh nói:Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát có mười thứ phát khởi:

1. Phát khởi về thân, là muốn khiến nghiệp thân của tất cả chúng sinh đều thanh tịnh.

2. Phát khởi về miệng, là muốn khiến nghiệp miệng của tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh.

3. Phát khởi về ý, là muốn khiến nghiệp ý của tất cả chúng sinh đều thanh tịnh.

4. Phát khởi bên trong, là không phân biệt hư vọng đối với tất cả các chúng sinh.

5. Phát khởi bên ngoài, là hành bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.

6. Phát khởi về trí, là đạt đầy đủ trí Phật thanh tịnh.

7. Phát khởi về cõi nước thanh tịnh, là chỉ rõ về tất cả công đức trang nghiêm nơi cõi nước của Phật.

8. Phát khởi sự giáo hóa chúng sinh, là nhận biết các thứ thuốc chữa trị tất cả bệnh phiền não.

9. Phát khởi sự thật, là thành tựu về tụ định.

10. Phát khởi trí vô vi và tâm đầy đủ, là không chấp trước nơi tất cả ba cõi.

Này Thiện nam! Đó gọi là mười thứ phát khởi của các Đại Bồ-tát”.

* Luận nêu: Kinh nói: Các Đại Bồ-tát có mười thứ phát khởi.

1. Phát khởi về thân là muốn khiến nghiệp thân của tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh.

2. Phát khởi về miệng là muốn khiến nghiệp miệng của tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh.

3. Phát khởi về ý là muốn khiến nghiệp ý của tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh: Do vì phát khởi sức tinh tấn lớn, xa lìa tất cả hành ác nơi ba nghiệp thân, miệng, ý.

4. Phát khởi bên trong là để hóa độ tất cả chúng sinh, khiến học nơi xứ kia. Vì không phân biệt hư vọng đối với tất cả chúng sinh, nên không chấp trước nơi các pháp.

5. Phát khởi bên ngoài là hành bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, do xa lìa các thứ yêu ghét.

6. Phát khởi về trí là đạt đầy đủ trí Phật thanh tịnh, vì giáo hóa bình đẳng tất cả chúng sinh.

7. Phát khởi về cõi nước thanh tịnh là chỉ rõ về tất cả công đức trang nghiêm nơi cõi nước của Phật. Vì trí của văn tuệ không cầu pháp điên đảo.

8. Phát khởi sự giáo hóa chúng sinh là nhận biết các thứ thuốc chữa trị tất cả bệnh phiền não, vì đạt được tự tại trong tất cả pháp.

9. Phát khởi sự thật là thành tựu tụ định, do nhận biết đúng như thật về tâm, khiến tùy thuận, tương ưng với việc giảng nói pháp.

10. Phát khởi trí vô vi và tâm đầy đủ là chứng nhập pháp chân thật, vì không chấp trước nơi tất cả ba cõi. Vì tâm không vướng mắc pháp hư vọng. Lại, tâm xa lìa các thứ chấp giữ tướng hư vọng về thật không thật.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là mười thứ phát khởi của các Đại Bồ-tát.

Sau đây là nói về pháp thứ ba: Mười thứ hành.

* Kinh nói:Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát có mười thứ hành.

  1. Hành Ba-la-mật.
  2. Hành Nhiếp sự.
  3. Hành tuệ.
  4. Hành phương tiện.
  5. Hành đại bi.
  6. Hành cầu pháp hỗ trợ tuệ.
  7. Hành cầu pháp hỗ trợ trí.
  8. Hành tâm thanh tịnh.
  9. Hành quán các đế.
  10. Hành không tham chấp đối với tất cả sự việc yêu thích, không yêu thích.

Này Thiện nam! Đó gọi là mười thứ hành của các Đại Bồ-tát”.

* Luận nêu: Kinh nói: Các Đại Bồ-tát có mười thứ hành:

1. Hành Ba-la-mật để hỗ trợ đầy đủ cho pháp Bồ-đề.

2. Hành Nhiếp sự để có thể giáo hóa các chúng sinh.

3. Hành tuệ để quán như thật về pháp sinh diệt.

4. Hành phương tiện để nhận biết đúng như thật về tất cả các pháp.

5. Hành đại bi do tâm Bồ-tát không cầu chứng Niết-bàn.

6. Hành cầu pháp hỗ trợ tuệ là để đạt được bốn pháp vô sở úy.

7. Hành cầu pháp hỗ trợ trí là để tự nhiên đạt được tất cả các pháp.

8. Hành tâm thanh tịnh để không nghi hoặc đối với tất cả các pháp.

9. Hành quán các đế là để chứng nhập đệ nhất nghĩa đế.

10. Hành không tham chấp đối với tất cả sự việc yêu thích, không yêu thích: Tức như trước đã nói, vì lìa những sự yêu ghét.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là mười thứ hành của các Đại Bồ-tát.

Đã nói: Do những trí nào? Tiếp theo là nói: Thế nào là chứng đắc? Là chỉ rõ có mười một pháp quán không cùng tận.

* Kinh nói:Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát có mười một thứ quán không cùng tận. Đó là:

  1. Quán thân không cùng tận.
  2. Quán sự việc không cùng tận.
  3. Quán phiền não không cùng tận.
  4. Quán pháp không cùng tận.
  5. Quán ái không cùng tận.
  6. Quán kiến không cùng tận.
  7. Quán pháp trợ đạo không cùng tận.
  8. Quán sự nhận lấy không cùng tận.
  9. Quán sự không vướng mắc không cùng tận.
  10. Quán sự tương ưng không cùng tận.
  11. Quán tánh trí của đạo tràng không cùng tận.

Này Thiện nam! Đó gọi là mười một pháp quán không cùng tận của các Đại Bồ-tát”.

* Luận nêu: Kinh nói: Các Đại Bồ-tát có mười một pháp quán không cùng tận.

1. Quán thân không cùng tận, là quán như thật về thân hữu vi, vô vi của Thánh, không phải Thánh.

2. Quán sự việc không cùng tận, là quán như thật về nghĩa thật và không thật.

3. Quán phiền não không cùng tận, là quán như thật về pháp tịnh, nhiễm.

4. Quán pháp không cùng tận, là quán như thật về tất cả pháp thượng, trung, hạ.

5. Quán ái không cùng tận, là quán như thật về pháp thiện, bất thiện.

6. Quán kiến không cùng tận, là quán như thật về kiến điên đảo, không điên đảo.

7. Quán pháp trợ đạo không cùng tận, là quán như thật về vô số môn tu tập căn thiện, hồi hướng đến Đại Bồ-đề.

8. Quán sự nhận lấy không cùng tận, là quán như thật về vô biên cảnh giới của chúng sinh.

9. Quán sự không vướng mắc không cùng tận, về nghĩa không vướng mắc như trước đã nói.

10. Quán sự tương ưng không cùng tận, là quán như thật về là nghĩa, không phải nghĩa.

11. Quán tánh trí của đạo tràng không cùng tận, là tùy theo chúng sinh tin tưởng, chỉ rõ việc an tọa nơi đạo tràng.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là mười một pháp quán không cùng tận của các Đại Bồ-tát.

Đã nói về: Thế nào là chứng đắc? Kế tiếp là nói: Vì nghĩa nào? Tức chỉ rõ về pháp thứ năm: Mười thứ pháp đối trị.

* Kinh nói:Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát có mười thứ pháp đối trị. Những gì là mười? Đó là:

1. Đối trị tâm tham lam keo kiệt là tuôn trận mưa bố thí.

2. Đối trị tâm phá giới là dùng ba pháp thanh tịnh của nghiệp thân, miệng, ý.

3. Đối trị tâm giận dữ là tu hành tâm đại từ bi thanh tịnh.

4. Đối trị tâm biếng nhác là cầu pháp của chư Phật không biết mệt mỏi.

5. Đối trị tâm giác quán bất thiện là chứng được thiền định phấn tấn giải thoát, tự tại.

6. Đối trị tâm ngu si là phát sinh pháp hỗ trợ quyết định phương tiện tuệ.

7. Đối trị tâm phiền não là sinh khởi pháp trợ đạo.

8. Đối trị đạo điên đảo là dùng Tập đế thật để hỗ trợ đạo, sinh đạo không điên đảo.

9. Đối trị tâm không tự tại là giảng nói pháp đúng thời, phi thời đều được tự tại.

10. Đối trị chấp có tướng ngã là quán các pháp đều vô ngã.

Này Thiện nam! Đó gọi là mười pháp đối trị của các Đại Bồ-tát”.

* Luận nêu: Kinh nói: Các Đại Bồ-tát có mười thứ pháp đối trị: Tức là dùng mười pháp Ba-la-mật thanh tịnh. Những gì là mười pháp?

1. Bố thí Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị tâm tham lam, keo kiệt là tuôn trận mưa bố thí”.

2. Trì giới Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị tâm phá giới là dùng ba pháp thanh tịnh nơi nghiệp thân, miệng, ý”.

3. Nhẫn nhục Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị tâm giận dữ là tu hành tâm đại từ bi thanh tịnh”.

4. Tinh tấn Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị tâm biếng nhác là cầu pháp của chư Phật không biết mệt mỏi”.

5. Thiền định Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị tâm giác quán bất thiện là chứng được thiền định phấn tấn, giải thoát, tự tại”.

6. Bát-nhã Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị tâm ngu si là phát sinh pháp hỗ trợ quyết định phương tiện tuệ”.

7. Phương tiện Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị tâm phiền não là sinh khởi pháp trợ đạo”.

8. Nguyện Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị đạo điên đảo là dùng Tập đế thật để hỗ trợ đạo, sinh đạo không điên đảo”.

9. Lực Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị tâm không tự tại là giảng nói pháp đúng thời, phi thời đều được tự tại”.

10. Trí Ba-la-mật thanh tịnh. Như kinh nói: “Đối trị chấp có tướng ngã là quán các pháp đều vô ngã”.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là mười pháp đối trị của các Đại Bồ-tát.

Đã nói về: Vì nghĩa nào? Tiếp đến là nói: Trụ nơi xứ nào? Tức chỉ rõ về pháp thứ sáu: Mười thứ địa tĩnh lặng.

* Kinh nói:Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát có mười thứ địa tĩnh lặng. Những gì là mười? Đó là:

1. Thân tĩnh lặng, do đã lìa ba thứ nghiệp bất thiện của thân.

2. Miệng tĩnh lặng, do bốn thứ nghiệp của miệng đã thanh tịnh.

3. Tâm tĩnh lặng, do đã lìa ba thứ hành ác của ý.

4. Bên trong tĩnh lặng, do không vướng mắc về tự thân.

5. Cảnh giới bên ngoài tĩnh lặng, do không chấp nơi tất cả pháp.

6. Công đức trí tĩnh lặng, do không chấp giữ nơi đạo.

7. Thù thắng tĩnh lặng, do quán như thật về cảnh giới của bậc Thánh.

8. Đời vị lai tĩnh lặng, do tuệ bờ kia hỗ trợ cho hành.

9. Mọi việc làm ở thế gian tĩnh lặng, vì không lừa dối tất cả chúng sinh.

10. Thân tâm không luyến tiếc tĩnh lặng, vì tâm đại từ bi giáo hóa tất cả chúng sinh.

Này Thiện nam! Đó gọi là mười địa tĩnh lặng của các Đại Bồ-tát”.

* Luận nêu: Kinh nói: Các Đại Bồ-tát có mười thứ địa tĩnh lặng.

1. Thân tĩnh lặng, do đã lìa ba thứ nghiệp bất thiện của thân.

2. Miệng tĩnh lặng, do bốn thứ nghiệp của miệng đã thanh tịnh.

3. Tâm tĩnh lặng, do đã lìa ba thứ hành ác của ý, do ba thứ giới thiện thanh tịnh.

4. Bên trong tĩnh lặng, do không vướng mắc về tự thân, tức lìa bỏ ngã kiến tà vạy.

5. Cảnh giới bên ngoài tĩnh lặng, do không chấp nơi tất cả pháp, tức lìa pháp thường, vô thường.

6. Công đức trí tĩnh lặng, do không chấp giữ nơi đạo, tức không chấp giữ có vật, không vật.

7. Thù thắng tĩnh lặng, do quán như thật về cảnh giới của bậc Thánh, tức không nhận thấy cảnh giới của Thanh văn, Phật-bích-chi, nhưng quan sát đúng như thật về cảnh giới Thánh của chư Phật, Bồ-tát.

8. Đời vị lai tĩnh lặng, do tuệ bờ kia hỗ trợ cho hành, tức xa lìa tất cả chấp tướng hư vọng.

9. Mọi việc làm ở thế gian tĩnh lặng, vì không lừa dối tất cả chúng sinh, tức nhận biết đúng như thật về Thế đế cùng Đệ nhất nghĩa đế, nên giảng nói pháp không điên đảo.

10. Thân tâm không luyến tiếc tĩnh lặng, vì tâm đại từ bi giáo hóa tất cả chúng sinh, tức do giáo hóa chúng sinh, nên Bồ-tát thọ sinh khắp các chốn đều không mệt mỏi.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là mười thứ địa tĩnh lặng của các Đại Bồ-tát.

Đã nói về: Sự chứng nhập pháp giới. Từ đây trở xuống là nói về: Nghĩa tùy thuận tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

* Kinh nói:Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát tu hành như thật mới chứng đắc Bồ-đề, không phải là không tu hành như thật mà chứng đắc Bồ-đề. Này Thiện nam! Sao gọi là các Đại Bồ-tát tu hành như thật? Tu hành như thật là có khả năng hành trì như lời đã giảng nói. Tu hành không như thật là người chỉ có ngôn thuyết, không thể hành trì như thật.

Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật: (1) Đạo tu hành như thật của trí. (2) Đạo tu hành như thật của đoạn. Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật: (1) Tu hành như thật điều phục tự thân. (2) Tu hành như thật giáo hóa chúng sinh. Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật: (1) Tu hành như thật với trí công dụng. (2) Tu hành như thật với trí không công dụng. Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật: (1) Tu hành như thật khéo nhận biết phân biệt các địa. (2) Tu hành như thật theo phương tiện khéo nhận biết các địa không sai biệt. Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật: (1) Tu hành như thật xa lìa lỗi của các địa. (2) Tu hành như thật theo phương tiện khéo nhận biết sự chuyển biến của mỗi địa. Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật: (1) Tu hành như thật có thể giảng nói địa Thanh văn, Phậtbích-chi. (2) Tu hành như thật theo phương tiện khéo nhận biết pháp Bồ-đề Phật không thoái chuyển. Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát”.

* Luận nêu: Kinh nói: Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát tu hành như thật mới chứng đắc Bồ-đề, không phải là không tu hành như thật mà chứng đắc Bồ-đề. Này Thiện nam! Sao gọi là các Đại Bồ-tát tu hành như thật? Tu hành như thật là có khả năng hành trì như lời đã giảng nói. Tu hành không như thật là người chỉ có ngôn thuyết, không thể hành trì như thật: Tức do như điều đã giảng nói, tu hành như thật, không mâu thuẫn với lời nói trước.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật:

  1. Đạo tu hành như thật của trí.
  2. Đạo tu hành như thật của đoạn.

Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát. Vì nhận biết đúng như thật về trí chứng nhập của hàng Thanh văn, Phật-bích-chi, nhưng không giữ lấy xứ ấy cho là cứu cánh.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật:

1. Tu hành như thật điều phục tự thân: Tức tự chọn lấy đạo vi diệu để tu hành như thật.

2. Tu hành như thật giáo hóa chúng sinh: Tức hóa độ các chúng sinh khác, khiến nhập nơi chánh đạo, giảng nói pháp như thật.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật:

1. Tu hành như thật với trí công dụng: Vì trí công dụng tạo ra tâm hành nơi hành của Bồ-tát.

2. Tu hành như thật với trí không công dụng: Tức Bồ-tát trụ trong quả vị tu đạo, dùng tâm không tạo tác hành hạnh Bồ-tát với trí hành không công dụng.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật:

1. Tu hành như thật khéo nhận biết phân biệt các địa: Tức khéo dùng phương tiện trí tuệ.

2. Tu hành như thật theo phương tiện khéo nhận biết các địa không sai biệt: Tức đã hội nhập một tướng.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật:

1. Tu hành như thật xa lìa lỗi của các địa: Do lìa chấp hai biên.

2. Tu hành như thật theo phương tiện khéo nhận biết sự chuyển biến của mỗi địa: Tức do tu hành pháp thiện, tinh tấn không ngừng nghỉ.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

Lại như kinh nói: Lại nữa, này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát còn có hai thứ tu hành như thật:

1. Tu hành như thật có thể giảng nói địa Thanh văn, Phật-bíchchi: Vì khéo nhận biết tất cả pháp.

2. Tu hành như thật theo phương tiện khéo nhận biết pháp Bồ-đề Phật không thoái chuyển: Tức do chứng nhập pháp chân như, nhận biết đúng như thật về phương tiện tu hành.

Như kinh nói: Này Thiện nam! Đó gọi là hai thứ tu hành như thật của các Đại Bồ-tát.

* Kinh nói:Này Thiện nam! Các Đại Bồ-tát có vô lượng vô biên pháp tu hành như thật như thế v.v… Các Đại Bồ-tát nên tu học và hành trì như thật như vậy. Các Đại Bồ-tát nếu có thể tu hành như thật như vậy, sẽ mau chóng chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, không lấy làm khó”.

* Luận nêu: Tu hành bốn thứ nhân thù thắng nên thành tựu bốn thứ quả thù thắng, cùng các pháp tu hành như thật khác. Quả thù thắng: Đó là trí của các Như Lai, trong khoảng một niệm nhận biết sự việc nơi ba đời thảy đều tương ưng.

* Kinh nói:Bấy giờ, Đức Phật khen ngợi Pháp vương tử Vănthù-sư-lợi: Lành thay! Lành thay! Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hôm nay, ông khéo có thể vì các Đại Bồ-tát giảng nói về đạo bản nghiệp, thật đúng như ông đã nêu bày”.

* Luận nêu: Lành thay! Là do giảng nói pháp không điên đảo, vì tùy thuận nơi pháp Như Lai đã giảng nói.

* Kinh nói:Khi thuyết giảng pháp này, có mười ngàn Bồ-tát chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi v.v… tất cả hàng trời, người, A-tu-la v.v… ở thế gian, nghe Phật giảng nói đều vô cùng hoan hỷ, tin nhận phụng hành”.

* Luận nêu:3 thứ nghĩa thế nên hoan hỷ:

1. Người giảng nói thanh tịnh: Do được tự tại đối với các pháp.

2. Pháp được giảng nói thanh tịnh: Do đã chứng biết như thật về thể của pháp thanh tịnh.

3. Dựa vào pháp đã giảng nói đạt được quả thanh tịnh: Vì chứng được cảnh giới tịnh diệu. Như kinh nói: “Mọi người đều vô cùng hoan hỷ, tin nhận, phụng hành”.

HẾT – QUYỂN HẠ