LUẬN KINH PHẬT ĐỊA
Tác giả: Luận sư Thân Quang
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 3

* Kinh nói:Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Diệu Sinh: Diệu Sinh nên biết! Có năm thứ pháp đã gồm thâu Địa Đại giác. Những gì là năm? Đó là:

  1. Pháp giới thanh tịnh.
  2. Trí Đại viên cảnh.
  3. Trí Bình đẳng tánh.
  4. Trí Diệu quan sát.
  5. Trí Thành sở tác”.

* Luận nêu: Tiếp theo là hiển bày phần 2: Thánh giáo được thuyết giảng.

Chỉ nói với một Bồ-tát Diệu Sinh: Là do giáo pháp tối thắng này đã trùm khắp. Vì sao không nói với chúng Thanh văn? Vì các Bồ-tát chuyên ý mong cầu Nhất thiết trí, nghe pháp như thế sẽ sinh thắng giải. Đã sinh thắng giải rồi thì có thể hướng nhập. Đã hướng nhập thì có thể hành đúng. Tu hành đúng đắn thì mới nhanh chóng thành tựu. Hàng Thanh văn thì không có khả năng cầu Nhất thiết trí. Tuy có thể mong cầu được nghe pháp như thế, cũng không sinh thắng giải. Tuy có sinh thắng giải, nhưng không thể hành đúng. Tuy có thể hành đúng, nhưng không nhanh chóng thành tựu, thế nên không nói với hàng Thanh văn.

Như vậy, vì sao lúc Đức Phật giảng nói Kinh này, các Thanh văn vẫn tham dự vào chúng hội? Vì nhằm hiển bày lúc đó số chúng đến dự rất đông. Đức Như Lai hóa hiện loại này nhằm khiến Thanh văn hồi hướng đến Bồ-đề, phát tâm hướng tới Đại thừa, nên dẫn dắt khiến họ nhập đại chúng. Hoặc các Bồ-tát hóa hiện tạo ra danh hiệu ấy, nên không mâu thuẫn.

Lược nói do 4 tướng an lập Phật địa:

  1. Do số lượng.
  2. Do thâu giữ.
  3. Do danh hiệu.
  4. Do quyết định lựa chọn nghĩa sai biệt.

Nay ở đây sẽ nói về số lượng, sự thâu giữ, danh hiệu và sự sai biệt.

1. Do số lượng: Nghĩa là có năm thứ pháp. Về sau sẽ nói đến tự tướng. Số lượng của pháp này tự hiển bày. Vì sao nói về số lượng? Vì quyết định nên chỉ có năm pháp, không tăng không giảm. Pháp tức là nghĩa giữ lấy tự tướng, không phải là nghĩa dị thục của quả đem lại điều khả ái.

2. Do thâu giữ: Nghĩa là thâu giữ địa Đại giác. Đại giác là Phật, có đủ ba thứ thân: (1) Thân Tự tánh. (2) Thân Thọ dụng. (3) Thân Biến hóa. Phần sau sẽ nói rộng. Địa là cảnh giới nương dựa, thâu giữ, hành hóa của bậc Đại giác. An lập đối tượng duyên của tự tướng có sai biệt. Do tất cả pháp là cảnh giới, nên an lập đối tượng duyên là thâu giữ tất cả. An lập tự tướng thì chỉ thâu giữ tự thể hợp làm một. Trong địa Đại giác có vô biên công đức, lược nêu có hai thứ: (a) Hữu vi. (b) Vô vi.

Công đức vô vi thuộc về Pháp giới thanh tịnh. Pháp giới thanh tịnh tức là công đức vô vi của chân như, đều là thể tướng sai biệt của chân như.

Công đức hữu vi thuộc về bốn trí. Trong phần vị vô lậu dụng của trí rất mạnh, nên dùng trí để hiển bày tên gọi. Hết thảy thứ tâm, tâm sở hữu pháp cùng phẩm loại của pháp đó. Nếu căn cứ vào nghĩa thật, thì mỗi mỗi phẩm trí đều gồm đủ hết thảy pháp môn công đức. Nếu căn cứ vào tướng thô thì Trí Diệu quan sát thâu giữ bốn niệm trụ, quan sát tất cả pháp như thân v.v…

Trí Bình đẳng tánh thâu nhận bốn chánh đoạn và bốn vô lượng. Do bốn chánh đoạn tuy dùng tinh tấn làm tự tánh, nhưng do Trí Bình đẳng tánh của Như Lai đã thâu giữ, nên không có tướng cao thấp. Bốn vô lượng là hành bình đẳng nên thuộc về trí này. Bốn như ý túc vì lấy Tam-ma-địa làm tự tánh, nên thuộc về trí quan sát, nắm giữ tất cả môn Đà-la-ni. Về môn Tam-ma-địa, phần kinh sau sẽ nói đến.

Như thế, các tĩnh lự giải thoát còn lại như đẳng trì, đẳng chí, môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, vô tránh nguyện trí thông, vô ngại giải, mười tám pháp bất cộng của Phật, mười lực, bốn vô sở úy của Như Lai phần nhiều đều gồm thâu nơi Trí Diệu quan sát. Thần cảnh trí thông phần nhiều được gồm thâu nơi Trí Thành sở tác.

Lậu tận trí thông, lậu tận trí lực, hoặc nói là có bốn trí gồm thâu trong lậu tận tương tục, hoặc nói duyên nơi Niết-bàn lậu tận kia, phần nhiều đều được gồm thâu nơi Trí Đại viên cảnh và Trí Bình đẳng tánh.

Trí lực nơi hành của biến hành thứ bảy thuộc về bốn trí. Các căn như tuệ v.v… các lực như tuệ v.v…, phần nhiều được gồm thâu nơi Trí Đại viên cảnh và Trí Bình đẳng tánh. Giác chi, đạo chi phần nhiều được gồm thâu nơi Trí Bình đẳng tánh.

Mười trí chân vô lậu như khổ v.v… phần nhiều được gồm thâu nơi Trí Đại viên cảnh và Trí Bình đẳng tánh. Pháp không quên mất phần nhiều được gồm thâu nơi Trí Đại viên cảnh. Vĩnh viễn đoạn trừ tất cả các tập khí tương tục, phần nhiều được gồm thâu nơi Trí Đại viên cảnh của pháp giới thanh tịnh.

Ba-la-mật-đa, hoặc là vô lậu, hoặc giống như hữu lậu, phần nhiều được gồm thâu nơi hai trí sau. Các tướng tùy hình hảo, phần nhiều được gồm thâu nơi Trí Thành sở tác.

Các pháp Phật còn lại, như chỗ thích ứng, thuận theo sự thâu tóm tương ưng.

Bốn trí như thế gồm thâu đầy đủ tất cả Phật địa. Tâm vô lậu và tâm pháp, hoặc pháp cùng có, hoặc phẩm loại được biến hiện khác nhau, pháp giới thanh tịnh thâu giữ công đức của các tướng trên chân như. Thế nên, năm pháp gồm thâu đủ tất cả công đức của Phật địa.

c. Do danh hiệu: Là Pháp giới thanh tịnh nói rộng cho đến Trí Thành sở tác.

Pháp giới thanh tịnh: Là xa lìa các thứ chướng ngại cấu uế của tất cả khách trần nơi đối tượng nhận biết của phiền não. Tất cả các pháp hữu vi, vô vi v.v… đều ở nơi thật tánh thuận hợp. Hết thảy Thánh pháp là nhân cho sự nương dựa, sinh trưởng. Tự thể chân thật của tất cả Như Lai, từ vô thỉ đến nay, tự tánh luôn thanh tịnh, đầy đủ các thứ tánh tướng công đức, nhiều hơn số cực vi trần trong mười phương thế giới, không sinh, không diệt, như hư không, hiển bày nơi khắp tất cả pháp, tất cả hữu tình, bình đẳng cùng có, so với tất cả pháp, không một, không khác, không phải có, không phải không, xa lìa tất cả tướng, tất cả phân biệt, tất cả danh từ, lời nói, đều không thể thủ đắc, chỉ là Thánh trí thanh tịnh đã chứng đắc. Hai không vô ngã đã hiển bày chân như, là tự tánh của chân như. Các Thánh chứng đắc từng phần, chư Phật chứng đắc viên mãn. Như thế gọi là Pháp giới thanh tịnh.

Trí Đại viên cảnh: Là xa lìa tất cả chấp trước về ngã, ngã sở, xa lìa các thứ phân biệt về chủ thể nắm giữ, đối tượng được nắm giữ, xa lìa những hành tướng của đối tượng duyên, không thể thấu tỏ, không ngu si, không quên mất, nhận biết tất cả cảnh giới không phân biệt, sự sai khác của tướng cảnh, tất cả thời gian, phương hướng không gián đoạn, vĩnh viễn xa lìa các chủng tử hữu lậu, mọi cấu uế của tất cả phiền não chướng. Hết thảy chủng tử của công đức vô lậu thanh tịnh viên mãn, có thể hiện khởi, có thể sinh ảnh tượng nơi các trí của tất cả cảnh giới, làm nơi nương dựa cho hết thảy ảnh tượng của thân tướng, cõi nước, nhận giữ tất cả công đức của Phật địa, cùng tận đời vị lai vẫn không dứt hết. Như thế gọi là Trí Đại viên cảnh.

Trí Bình đẳng tánh: Là quan sát mình và người, tất cả đều bình đẳng, đại từ, đại bi luôn cùng tương ưng, thường xuyên không gián đoạn, kiến lập Phật địa với Niết-bàn vô trụ, tùy thuận sự ưa thích của các hữu tình, thị hiện các thứ ảnh tượng của thân, cõi thọ dụng, không cùng chỗ dựa với Trí Diệu quan sát. Như thế gọi là Trí Bình đẳng tánh.

Trí Diệu quan sát: Là đối với sự sai biệt của tất cả cảnh giới, thường xuyên quan sát không trở ngại, thâu chứa tất cả môn Đà-lani, môn Tam-ma-địa, cùng các định vi diệu v.v… Đối với các chúng hội lớn, có khả năng hiện bày tất cả tác dụng tự tại, đoạn dứt mọi nghi ngờ, tuôn cơn mưa pháp lớn. Như thế gọi là Trí Diệu quan sát.

Trí Thành sở tác: Là trí này có thể hiện hữu khắp các thế giới, tùy thuận các hữu tình cần được giáo hóa, khiến họ thành thục, thị hiện vô lượng, vô số những sự việc biến hóa của Phật không thể nghĩ bàn, hành tác phương tiện tạo lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình không gián đoạn. Như thế gọi là Trí Thành sở tác.

Lại nữa, kiến lập năm pháp như thế là vì nhân, vì quả, vì sự khác nhau của quả. Vì nhân, tức là Pháp giới thanh tịnh, là nhân này có thể sinh trưởng Thánh pháp. Vì quả, nghĩa là Thánh trí duyên nơi quả kia mà sinh, nên nương dựa vào đấy. Vì quả của Thánh trí này về sai biệt có bốn, được kiến lập theo sự khởi hiện, nghĩa là duyên nơi pháp giới nhận giữ tất cả, tùy thuận nghe pháp, đối với các hữu tình chứng được tánh bình đẳng giữa mình và người, mở bày chánh pháp bằng các phương tiện thù thắng, là nhân của lợi tha.

Lại nữa, kiến lập năm pháp như thế là vì tự thể của Phật, vì nhân, vì quả. Vì tự thể của Phật: Nghĩa là lấy chân như thanh tịnh làm thể tướng và trí không phân biệt duyên nơi cảnh ấy làm thể tướng. Vì nhân: Nghĩa là vô lượng thường xuyên, không gián đoạn, hiện Trí Bình đẳng tánh đối với các hữu tình. Vì quả: Nghĩa là đem lại lợi ích cho tất cả hữu tình. Vì hai trí thù thắng quan sát hữu tình có thể giáo hóa hay không giáo hóa, theo chỗ thích nghi của họ mà hoàn thành mọi việc.

Lại nữa, kiến lập năm pháp như thế, nghĩa là đối với quả vị của Phật địa có sai biệt, tức lấy quả của trí đoạn làm thể của Phật địa. Quả đoạn tức là Pháp giới thanh tịnh, vì trong đó tất cả chướng ngại đều vĩnh viễn đoạn dứt. Trí có bốn thứ như Trí Đại viên cảnh v.v… đối với Địa thuộc quả vị Phật, các phần vị của tâm, tâm pháp đã hiện hiển, do trong các công đức trí là thù thắng hơn hết nên lấy trí đặt tên, thâu giữ chung tất cả công đức hữu vi.

Lại nữa, kiến lập năm pháp theo pháp môn đã giảng nói như thế, thâu nhận tổng quát tất cả pháp Phật của Phật địa, thâu giữ chung các công đức vô vi. Do văn tuệ huân tập thành thục, nên nhận giữ tất cả các công đức thuộc về Phật địa. Nơi các hữu tình thường hiện khởi các sự việc đem lại lợi ích an lạc, bình đẳng, đã theo đuổi các môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, với vô biên, vô lượng phước trí trang nghiêm, có thể hoàn thành tất cả sự việc biến hóa, đem lại lợi ích an vui cho hữu tình.

Lại nữa, đã nói về bốn trí như thế, do chuyển từ pháp nào mà được? Luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Do chuyển thức uẩn mà được trí”.

Vì sao chuyển tâm mà được tâm pháp và không phải được tâm pháp? Vì bốn tâm vô lậu và trí đều tương ưng, vì giả nêu nên gọi là trí, nên Luận đã nói như thế.

Hỏi: Chánh trí nên nói là thật có hay nên nói là giả có?

Đáp: Nên nói là có cả hai, ở đây trí là thật có. Nếu quyến thuộc của trí là các tâm, tâm pháp cũng gọi là trí, thì nói đó là giả, nên có hai thứ, trong ấy, tâm, tâm pháp vô lậu v.v… trí làm chủ nên đều gọi là trí. Chuyển chỗ dựa của thức uẩn được bốn trí vô lậu tương ưng với tâm, nghĩa là tâm Đại viên cảnh, nói rộng cho đến tâm Thành sở tác.

Chuyển thức thứ tám được Trí Đại viên cảnh tương ưng với tâm, có thể duy trì tất cả chủng tử của công đức, có thể biến hiện, có thể sinh ra tất cả thân, cõi, là ảnh tượng của trí.

Chuyển thức thứ bảy được Trí Bình đẳng tánh tương ưng với tâm, xa lìa hai chấp về tự, tha có sai biệt, vì đã chứng đắc tánh bình đẳng của tất cả các pháp.

Chuyển thức thứ sáu thành Trí Diệu quan sát tương ưng với tâm, vì có thể quan sát tất cả đều không ngăn ngại.

Chuyển năm hiện thức được Trí Thành sở tác tương ưng với tâm, vì có thể hiện hoàn thành mọi hành tác bên ngoài.

Lại có nghĩa: Chuyển thức thứ sáu được Thành sở tác, chuyển năm hiện thức được Diệu quan sát. Việc này không phải thế, vì không phải theo thứ lớp, do công việc giảng nói nói pháp dứt trừ nghi, cùng quan sát cùng khắp đều không phải là tác dụng của năm hiện thức.

Như thế, chuyển biến loại trừ trong phần vị sinh tử, bốn phẩm tương ưng với tâm và tâm pháp để thành bốn phẩm tương ưng với tâm và tâm pháp với quả vị Phật, nên đều gọi là trí.

Lại nữa, như thế là đã nói bốn trí tương ưng với phẩm tâm, là thuộc nơi đối tượng duyên nào? Trí Đại viên cảnh tương ưng với phẩm tâm, hoặc nói là một tướng, là trí không phân biệt chỉ duyên nơi chân như, không phải là trí hậu đắc, vì hành tướng của đối tượng duyên đó không thể nhận biết. Hoặc nói là đủ các tướng, duyên nơi tất cả pháp. Luận Trang Nghiêm nói: “Trí Đại viên cảnh hiện bày khắp tất cả cảnh giới của đối tượng nhận thức, không tối tăm mê muội”. Trong kinh này nói, như dựa vào gương sáng tròn, mọi ảnh tượng đều hiện. Như thế, dựa vào gương trí của Như Lai, mọi ảnh tượng của các xứ, cảnh thức đều hiện bày.

Nói các xứ là sáu xứ bên trong. Nói các cảnh là sáu cảnh bên ngoài. Nói các thức là sáu thức.

Như vậy, trên trí có mọi ảnh tượng của mười tám giới ảnh hiện. Nên biết trí này duyên nơi tất cả pháp. Do trí cảnh này trong tất cả thời duyên nơi tất cả pháp, nên nói Đức Như Lai gồm đủ tất cả trí. Nếu không như thế thì các trí còn lại không nhất định nhận biết tất cả pháp và Đức Như Lai không thể gọi là bậc Nhất thiết trí.

Trí cảnh như thế, bên trong duyên nơi chủng tử công đắc của tự thể, bên ngoài duyên nơi tất cả cảnh giới của đối tượng được nhận biết, hoặc chân, hoặc tục, hiện bày tất cả ảnh tượng như thân tướng, quốc độ v.v…

Duyên nơi biên nghĩa chân, gọi là trí không phân biệt. Duyên nơi biên nghĩa tục, gọi là trí hậu đắc. Tuy duyên nơi tất cả, nhưng các hành tướng vi tế thì không thể nhận biết rõ, như A-lại-da, dù duyên nơi ba cảnh, vì do vi tế, nên cũng nói là duyên nơi cảnh, nhưng không thể nhận biết rõ. Chẳng nên đem chỗ không thể nhận biết rõ đó để chứng tỏ trí cảnh này chỉ duyên nơi chân như là trí không phân biệt, không phải là trí hậu đắc. Các tâm, tâm pháp, thể tuy là một nghĩa, nhưng dụng thì có nhiều, tùy nơi dụng có khác biệt nên chia làm hai trí, cũng không có lỗi.

Cần đạt lý chân mới thấy rõ sự tục, nên tuy là nghĩa của một tâm nhưng nói có trước sau, hoặc giống như ở sau được nên gọi là trí hậu đắc.

Các trí khác cũng như thế. Trí Bình đẳng tánh tương ưng với phẩm tâm. Có nghĩa là trí này chỉ duyên nơi Trí Đại viên cảnh. Như ý nhiễm ô duyên nơi A-lại-da làm cảnh giới.

Có nghĩa trí này chỉ duyên nơi thật tế, chân như, duyên nơi tánh bình đẳng làm cảnh giới.

Về nghĩa như thật: Trí này cũng duyên nơi hết thảy làm cảnh, tức duyên khắp tất cả tánh bình đẳng. Luận Trang Nghiêm nói: “Trí Bình đẳng tánh duyên nơi tất cả hữu tình, vì tự tha đều bình đẳng, theo thắng giải của các hữu tình, thị hiện ảnh tượng của Phật”.

Trong kinh này nói: Vì chứng được tánh bình đẳng của mười tướng, tánh bình đẳng này chung cho cả chân, tục, nên duyên nơi tất cả cũng không có lỗi. Nếu không duyên nơi tục, tức không thể theo chỗ thắng giải của hết thảy hữu tình và thị hiện ảnh tượng của chư Phật. Cũng không nên cho thức Mạt-na nhiễm ô giống với trí bình đẳng, chỉ duyên nơi trí cảnh, vì phàm phu và Thánh nhân khác nhau, vì trái với Thánh giáo, vì những thứ còn lại không giống nhau.

Trí Diệu quan sát tương ưng với phẩm tâm, quán khắp tất cả tự tướng, cộng tướng đều không có chướng ngại khi duyên nơi tất cả cảnh giới của đối tượng nhận biết.

Trí Thành sở tác tương ưng với phẩm tâm. Có nghĩa chỉ duyên nơi năm thứ hiện cảnh. Luận Trang Nghiêm nêu: “Năm căn của Như Lai, mỗi mỗi đều chuyển biến nơi năm cảnh”.

Về nghĩa như thật: Thì Trí Thành sở tác cũng duyên nơi tất cả cảnh, đều không bị chướng ngại đối với cảnh nào.

Luận Trang Nghiêm nói: Trí Thành sở tác đối với tất cả cảnh giới khởi hiện vô số thứ biến hóa, không có số lượng, chẳng thể nghĩ bàn, tạo ra tất cả nghĩa lợi cho các hữu tình.

Trong kinh này cho: Trí Thành sở tác khởi tạo các sự việc biến hóa của ba nghiệp, quyết định lựa chọn về tám mươi bốn ngàn tâm hành khác nhau của chúng sinh, diễn nói pháp đối trị, tạo ra bốn ký luận, nhận lãnh các nghĩa của quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì thế nếu trí này không duyên khắp tất cả cảnh giới, sẽ không có công năng ấy.

Lại nói tâm của Phật vốn tự tại, không chướng ngại, vì mỗi mỗi tâm đều có thể soi sáng tất cả cảnh, chỉ do lực của tác ý, hoặc duyên nơi một pháp hay duyên nơi tất cả. Vả lại, nói năm căn đối với năm cảnh chuyển, vì không nói như thế thì không thành tự chứng.

Luận Tập Lượng nói: “Các tâm, tâm pháp đều chứng tự thể, gọi là hiện lượng”. Nếu không như thế thì như không từng thấy, không nên nhớ nghĩ. Thế nên bốn trí tương ưng với phẩm tâm, và mỗi mỗi trí cũng đều có thể soi sáng, nhận biết tự thể. Vì sao không mâu thuẫn với pháp thế gian? Như con dao không tự cắt đứt đầu ngón tay, nếu không thể chạm đến đầu ngón tay ấy. Không thấy ngọn đèn v.v… có thể tự soi sáng, làm thế nào nhận biết được đèn v.v… tự soi sáng? Hiện thấy không có bóng tối mà là ánh sáng hiện rõ. Nếu ngọn đèn không tự soi sáng thì phải có sự che khuất của bóng tối, nên không hiện thấy. Do đó, nên biết ngọn đèn v.v… đã tự soi sáng. Mà đèn v.v… không phải là bóng tối thì đâu cần soi chiếu nữa. Như cái bình, chiếc áo v.v… thể của chúng tuy không phải là bóng tối, nhưng nếu không có ngọn đèn v.v… soi sáng đến phía bị che khuất do bóng tối thì không được hiện thấy. Lúc ngọn đèn v.v… soi sáng trừ phía có bóng tối khiến được hiện thấy, được gọi là soi sáng. Ngọn đèn v.v… cũng thế, khi tự thể sinh khởi thì phía có bóng tối che khuất bị loại trừ, khiến hiện được thấy nên gọi là tự soi sáng.

Các tâm, tâm pháp tuy có hơn kém khác nhau, nhưng đều có thể duyên nơi bên ngoài, bên trong chứng đạt tự thể. Cũng như hào quang, đã có thể soi sáng cho người khác, cũng có thể tự soi sáng mình, không phải như các pháp như dao v.v… Pháp như thế không thể cùng một loại như nhau. Đây là căn cứ theo tướng thô nơi các tâm, tâm pháp, đều có hai phần: Tướng, kiến mà nói. Như phần biện giải về tâm, tâm pháp trong Luận Tập Lượng đều nói có 3 phần:

  1. Phần đối tượng được giữ lấy.
  2. Phần chủ thể giữ lấy.
  3. Phần tự chứng.

Ba phần như thế là không một, không khác: Phần thứ nhất là đối tượng được lường xét, phần thứ hai là chủ thể lường xét, phần thứ ba là quả của lường xét. Nếu phân biệt tỉ mỉ, cần phải có bốn phần, thì nghĩa trên mới được thành lập. Tức ba phần như trên, lại có phần thứ tư là phần chứng tự chứng. Hai phần đầu là bên ngoài, hai phần sau là bên trong. Phần thứ nhất chỉ là đối tượng được nhận biết, các phần còn lại chung cho cả hai thứ. Nghĩa là phần thứ hai chỉ nhận biết phần thứ nhất, hoặc hiện lượng, phi lượng, hoặc hiện lượng hoặc tỷ lượng. Phần thứ ba tự chứng có thể chứng cho phần thứ hai và chứng cho phần thứ tư. Phần thứ tư tự chứng có thể chứng cho phần thứ ba. Phần thứ ba và thứ tư đều thuộc về hiện lượng.

Do đạo lý này, nên tuy là một thể, nhưng vì nhiều phần hợp thành, nên là bất tức, bất ly, trong ngoài đều nhận biết, nên không phạm lỗi vô cùng. Vì thế kinh nói:

Tâm chúng sinh hai tánh

Trong ngoài tất cả phần Buộc do năng, sở thủ Thấy vô số sai biệt.

Tụng này ý nói: Tâm tánh của chúng sinh là do hai phần hợp thành. Hoặc trong hoặc ngoài đều bị trói buộc do chủ thể nhận lấy cùng đối tượng được nhận lấy, nên thấy có đủ các thứ hoặc lượng hay phi lượng, hoặc hiện lượng hoặc tỷ lượng phần nhiều đều sai biệt.

Bốn trí nơi phẩm tâm tuy có nhiều phần, nhưng đều thuộc về hiện lượng vô lậu. Về nghĩa này, như ở chỗ khác đã phân biệt rộng.

Về dụng của nghĩa thì có nhiều phần, nhưng không phải là thể có khác biệt. Như nơi một pháp có khổ, vô thường v.v…, các thứ nghĩa đều riêng biệt nhưng thể là một.

Lại nữa, như thế là đã nói bốn trí tương ưng với phẩm tâm, là có tướng phần, kiến phần chăng? Quyết định có kiến phần soi sáng và cảnh của đối tượng được soi sáng. Có phần tự chứng soi sáng chung cho kiến phần và phần chứng tự chứng. Vì phần chứng tự chứng soi sáng cho phần tự chứng, cũng quyết định là có. Nếu không có ba phần khác biệt như thế, tức không có đối tượng duyên, nên không gọi là trí, vì tướng phần không cố định.

Có nghĩa: Vì phẩm tâm vô lậu chân thật, không có chướng ngại, trực tiếp soi sáng cảnh trước, không đuổi theo tâm biến hiện, giống như tướng của cảnh trước. Vì tâm vô lậu, nên gọi là vô tướng, không phân biệt. Lại nói là duyên nơi cảnh không thể nghĩ bàn.

Có nghĩa: Phẩm tâm vô lậu chân thật, cũng có tướng phần, các tâm, tâm pháp, pháp như thế giống như cảnh hiển hiện, gọi là duyên, không phải như động tác giữ lấy vật dụng của chiếc kìm v.v… không phải như ngọn đèn v.v… tỏa ra ánh sáng để soi chiếu cảnh vật, mà như gương sáng v.v… hiện ra hình ảnh soi sáng cảnh vật. Do cảnh giống nhau, ảnh hiện rõ và soi sáng, gọi là không chướng ngại. Không chấp giữ, không suy tính, gọi là vô tướng, cũng không phân biệt. Diệu dụng khó lường, gọi là không thể nghĩ bàn, không phải là không hiện ảnh. Nếu nói vô tướng thì không có tướng phần. Nói không phân biệt nên không có kiến phần, đều không có tướng phần và kiến phần nên như hư không, hoặc như sừng thỏ v.v… do vậy không gọi là trí.

Vì không chấp giữ, không suy tính, nên nói là không có các tướng của chủ thể giữ lấy, đối tượng được giữ lấy, không phải là không dùng nghĩa soi sáng nơi cảnh, duyên tương tợ. Nếu tâm vô lậu hoàn toàn không có tướng phần thì chư Phật không thể biến hiện các ảnh tượng của thân tướng và quốc độ v.v…

Như thế là trái ngược với nhiều nơi trong kinh luận. Nên chuyển chỗ dựa của sắc uẩn thì không được sắc, chuyển chỗ dựa của bốn uẩn nên không có thức v.v… là trở thành lỗi lớn.

Có nghĩa: Trí không phân biệt vô lậu, tương ưng với phẩm tâm, vì không phân biệt. Vì chân như của đối tượng duyên không xa lìa tự thể, nên như soi sáng tự thể, không có tướng phần riêng. Hoặc trí hậu đắc tương ưng với phẩm tâm, có phân biệt về cảnh giới của đối tượng duyên, hoặc lìa thể. Như cảnh tướng giống nhau của tâm hữu lậu, hiện bày rõ ràng nhờ duyên soi sáng. Nếu tâm vô lậu duyên lìa nơi cảnh của thể, không giống với tướng của thể mà được duyên, thì theo Luận Quán Sở Duyên: Không nên nói trên năm thức vì không có tướng giống như cực vi, nên không phải là đối tượng duyên của tâm vô lậu. Như thế, tướng cảnh đồng với tâm vô lậu, khi chủng tử vô lậu dấy khởi tác dụng, tuy có giống như pháp hữu lậu, nhưng vẫn không phải là hữu lậu. Như tâm hữu lậu tuy có giống với tướng vô lậu, như vẫn không phải là vô lậu.

Nên dừng sự bàn luận rộng. Phân biệt như thế là chỉ căn cứ theo đạo lý, ngôn thuyết của thế tục, không phải căn cứ nơi thắng nghĩa. Nếu căn cứ nơi thắng nghĩa thì lìa ngôn từ, dứt bặt suy nghĩ. Đã không có kiến phần, tướng phần thì không thể nói nêu về tâm, tâm pháp v.v… vì lìa các thứ hý luận, nên không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, như thế là đã nói bốn trí tương ưng với phẩm tâm, có bao nhiêu tâm pháp cùng tương ưng với bốn trí? Có hai mươi mốt, nghĩa là năm biến hành, năm biệt cảnh và mười một pháp thiện.

Do đối với mọi nơi chốn thường hiện hành khắp. Đức Như Lai luôn ưa thích hiểu rõ về cảnh của đối tượng được nhận biết, mong muốn không giảm. Dấu ấn nơi cảnh được thắng giải luôn không giảm. Từng hiểu rõ cảnh thọ nhận về niệm không giảm, nên Đức Như Lai không có tâm bất định, luôn quyết định lựa chọn, vì thường tương ưng với niềm tin cực tịnh v.v… nên Đức Như Lai không nhiễm ô, không ham ngủ nghỉ, vì không hối hận, vì hiện chứng, tất cả không có tầm tứ. Phẩm tâm hữu lậu có hơn kém không nhất định, nhưng đối tượng duyên bị ngăn ngại, tương ưng với tâm pháp hoặc nhiều hay ít. Phẩm tâm vô lậu luôn tự tại không ngăn ngại, tâm pháp bình đẳng, không gây chướng ngại cho nhau.

Lại nữa, như thế là đã nói bốn trí tương ưng với phẩm tâm, với quả vị nào mới chứng đắc đầu tiên? Ở phần vị nào đang hiện hành chủng tánh vô lậu, vốn có từ vô thỉ, dựa vào thức dị thục, sinh diệt nối tiếp?

Sau khi phát tâm xong, do sức huân tập bên ngoài, dần dần tăng trưởng, Trí Đại viên cảnh tương ưng với phẩm tâm, khi Định kim cang dụ hiển hiện ở trước, chuyển biến diệt trừ tất cả chủng tử hữu lậu nơi thức dị thục v.v… Bấy giờ mới được hiện hành đầu tiên tất cả chủng tử vô lậu của quả vị Phật, nương dựa viên mãn, tận cùng nơi đời vị lai, thường không gián đoạn nên Trí Bình đẳng tánh tương ưng với phẩm tâm.

Bồ-tát Địa thứ nhất, lúc mới hiện quán lần đầu, mới khởi hiện hành. Từ đấy trở đi, trong các Địa về sau, tu tập khiến tăng trưởng, thanh tịnh viên mãn. Khi quan sát vô lậu v.v… đã hiển hiện trước mắt thì luôn luôn hiện hành. Nếu khi tâm hữu lậu hiện tiền, tức là gián đoạn. Cứ lần lượt như thế, cho đến mười Địa, là lúc tâm sau cùng, từ đấy trở đi, tận cùng nơi đời vị lai, thường không gián đoạn.

Như ở phần vị hữu lậu, thức A-lại-da luôn cùng khởi hiện với toàn bộ thức Mạt-na.

Trí Đại viên cảnh trong phần vị vô lậu, cũng thường xuyên khởi hiện cùng một lúc với Trí Bình đẳng tánh, nên Trí Bình đẳng tánh cũng không gián đoạn. Trí Diệu quan sát tương ưng với phẩm tâm, cũng ở tại Địa thứ nhất. Khi mới hiện quán, lần đầu mới hiện hành. Từ đấy về sau, tu tập dần được tăng trưởng. Nếu khi tâm hữu lậu chính thức hiện tiền, hoặc khi không có tâm tức đã gián đoạn. Lần lượt như thế cho đến quả vị Phật. Nếu nhập định diệt tận cũng không hiện hành. Trí Thành sở tác tương ưng với phẩm tâm. Nghĩa là các quả vị từ Địa thứ nhất trở lên đều được hiện hành, vì đã đi vào dòng pháp.

Về nghĩa như thật: Nơi quả vị Phật mới khởi, do trong mười địa còn có thức dị thục đã biến đổi năm căn, không phải là vô lậu, nên có thể dựa vào năm thức, cũng không phải là vô lậu. Năm căn hữu lậu phát sinh thức vô lậu là điều chưa từng thấy. Ở trên quả vị Phật, trí ấy cũng không thường hiển hiện trước mắt, vì tác ý khởi hiện thường xuyên bị gián đoạn.

Bốn trí như thế tương ưng với chủng tử của phẩm tâm, vốn có từ vô thỉ, vì pháp như thế là không từ sự huân tập sinh, gọi là bản tánh trụ nơi chủng tánh. Sau khi phát tâm lần đầu, do duyên bên ngoài huân tập, phát triển tăng dần, gọi là chủng tánh do tu tập thành.

Từ Địa thứ nhất trở lên, tùy vào chỗ thích ứng mới được hiện khởi. Thường là do sự huân tập ngày càng thêm tốt đẹp, cho đến khi chứng đắc Định kim cang dụ. Từ đấy về sau, tuy thường hiện hành, không còn huân tập, nhưng lại khiến tăng trưởng công đức được viên mãn, không thể gia tăng nữa. Sự duy trì chủng tử nơi thức tịnh đã không phải là vô ký, nên không thể huân tập. Do đó công đức của Phật trước và Phật sau cho là nhiều, ít đều trở thành lỗi lầm.

Bốn trí như thế tương ưng với phẩm tâm, hoàn toàn là thiện, hoàn toàn thuộc về Đạo đế vô lậu. Vì chư Phật không có chủng tử của tất cả các pháp hữu lậu, nên tuy trong hiện tại, chư Phật còn hóa làm thân sinh tử với nghiệp, phiền não v.v… giống như là Khổ đế, Tập đế, nhưng thật ra là thuộc về Đạo đế vô lậu. Do tùy thuận tướng thế tục nên gọi là năm uẩn, mười hai xứ và mười tám giới v.v…, nhưng thật sự không phải là thuộc về uẩn, xứ, giới. Vì đã lìa hý luận, nên lìa các tướng. Năm pháp như thế đều chung có giả, thật, không nhờ vào ngôn thuyết, tên gọi, vì căn cảnh còn lại này đều là thật có. Nếu nhờ vào tên gọi, ngôn thuyết, thì căn, cảnh còn lại ấy đều là giả có.

Lại, lấy chân như của pháp giới thanh tịnh làm thể, là thật có. Dựa vào chân như để kiến lập các tướng như trạch diệt v.v… là giả có. Các tâm, trí v.v… các sắc xanh, vàng v.v… là thật có. Không phóng dật v.v… các hình sắc dài ngắn v.v… là giả có. Nên dừng, không bàn luận rộng, nên giải thích bản văn.

d. Do quyết định lựa chọn nghĩa sai biệt: Lược nêu có 3 phần:

  1. Quyết định lựa chọn năm pháp sai biệt.
  2. Quyết định lựa chọn thọ dụng hòa hợp một vị với sự, trí.
  3. Tụng tổng kết về tướng của pháp giới thanh tịnh, gồm đủ các công đức.

Trong ba thân sai biệt và năm pháp khác nhau, theo thứ lớp, mỗi mỗi thứ đều có quyết định lựa chọn.

* Kinh nói:Diệu Sinh nên biết! Pháp giới thanh tịnh ví như hư không tuy hiện bày khắp các sắc với vô số thứ tướng, nhưng không thể nói có vô số thứ tướng, vì thể của hư không chỉ có một vị. Như thế, Pháp giới thanh tịnh của Như Lai tuy hiện hữu rộng khắp đến vô số loại tướng nơi cảnh giới của đối tượng được nhận thức, nhưng không thể nói là có vô số tướng, vì thể chỉ có một vị”.

* Luận nêu: Sau đây sẽ nêu bày về tướng của Pháp giới thanh tịnh. Giải thích vấn nạn về quyết định lựa chọn pháp giới sai biệt.

Nghĩa là có vấn nạn: Nếu các Như Lai cho pháp giới là tánh, thì pháp giới là dụng, chân như là thể. Chân như tức là tướng chung của các pháp. Các pháp đã có các thứ sai biệt, thì pháp giới cũng theo các pháp đó, làm sao pháp giới lại không có các thứ sai biệt? Nếu pháp giới có vô số thứ sai biệt thì làm sao thanh tịnh? Vì không phải là Phả-chi-ca (pha lê) với vô số sự nương dựa cùng tương ưng chung, nên không có vô số tướng.

Nhằm giải thích vấn nạn này, Đức Như Lai đã nêu dẫn dụ thứ nhất về hư không rộng lớn.

Ví như hư không tuy hiện bày khắp các sắc với vô số thứ tướng: Tức như hư không của thế gian tuy hiện bày khắp nơi tất cả sắc có hình tướng trở ngại v.v… không cùng loại trong tướng sai biệt, do phẩm loại sai biệt, nên gọi là vô số chủng loại. Tự thể của chúng đều tập trung nơi phần trên như giác tuệ v.v… và hiển hiện rõ ràng nên gọi là tướng, tức là hành tướng.

Nhưng không thể nói là có vô số thứ tướng: Tức như hư không ấy không thể nêu bày là có vô số các sắc tướng với hình thể ngăn ngại. Do hư không này, tánh của nó là tự như thế, là không nên nói, nên gọi là không thể nêu bày, hoặc không có khả năng nói nên gọi là không thể nói. Nghĩa là vì tánh của hư không ấy là như thế, không thể nói là có vô số chủng loại là chủ thể biểu thị các sắc tướng, cũng không thể nói là có vô số chủng loại là đối tượng được biểu thị các sắc tướng. Nhưng thấy hư không có vô số các thứ tướng, cùng có thể nói là có vô số các thứ tướng, tức sự thấy vô số sắc tướng trong hư không ấy không phải là thấy hư không. Cùng giả nêu là có vô số sắc tướng như xanh, vàng v.v…, hoặc dài, ngắn v.v…, đều không phải thật là có. Không phải giả nói là có tức có thật sự. Vì sao hiện bày khắp trong hết thảy các sắc? Vì không có vô số các thứ tướng.

Vì Thể của hư không chỉ có một vị: Không phải hư không này do cùng với vô số các sắc tương ưng nên thành vô số chủng loại tướng. Không bỏ tự tánh vì Thể chỉ có một vị, không chướng ngại, không có tướng khác biệt.

Như thế, Pháp giới thanh tịnh của Như Lai v.v…: Như hư không của thế gian có thể tánh hay không có thể tánh? Tuy hiện bày khắp trong tất cả hình sắc có chất ngăn ngại, nhưng không tùy thuộc để trở thành các hình thể trở ngại có sai biệt. Cũng không thể nói là hư không có các sắc tướng. Tuy cũng nói là có, nhưng chỉ là giả, không phải là thật. Do hư không ấy không bỏ tự tướng của nó để nhận lấy tướng khác. Như tuy giả nói là hư không, nhưng tánh của hư không thật ra không thể nêu bày. Pháp giới thanh tịnh cũng lại như thế. Tuy giả nói là chân không, chân không, nhưng tánh của chân không thật sự là không thể nêu bày. Do hư không ấy như trước đã nói, nhân nơi vô số các thứ nương dựa cùng tương ưng như Phả-chi-ca (pha lê).

Pháp giới nên có vô số chủng loại riêng biệt, tức có lỗi không nhất định. Hiện thấy hư không, tuy tương ưng với vô số sắc tướng, nhưng không có các chủng loại sắc tướng như khói, sương mù v.v… cùng tương ưng với hư không, nên có lúc trông thấy khoảng không gian có các thứ tướng, do sức phân biệt hư vọng của mình, nên chỉ trông thấy có vô số tướng như khói v.v…, không phải trông thấy hư không, vì tánh của hư không là không thể trông thấy.

Như thế, do sức tăng thêm của tự thân phân biệt hư vọng, nên chỉ thấy có các thứ tướng như sắc v.v…, không phải là pháp giới thanh tịnh.

Trong Pháp giới thanh tịnh, tuy không có vô số giáo pháp, ngôn thuyết của cảnh giới chân thật, nhưng vẫn có sự chuyển biến nơi tướng sai biệt của giáo pháp và các thứ cảnh giới, vì không phải do pháp giới kia có vô số tướng, nên cũng khiến cho pháp giới có vô số tướng.

Vì Pháp giới thanh tịnh vốn lìa những danh từ, ngôn thuyết. Tất cả danh, ngôn đều dùng sự phân biệt được dấy khởi làm cảnh. Nhưng các giáo pháp cũng không vô ích, vì là nhân để lần lượt chứng được pháp giới. Như vừa nhìn thấy chữ trong sách là hiểu ngay nghĩa được giảng nói. Do giáo pháp này là tâm đại bi của chư Như Lai đã lưu xuất, nên có thể lần lượt giảng nói nghĩa xa lìa mọi ngôn thuyết. Như dùng các màu sắc rực rỡ để vẽ chúng trong hư không là việc rất hy hữu. Nếu dùng ngôn thuyết để nói về nghĩa lìa ngôn thuyết, lại hơn cả ví dụ kia.

Như nói: Này Hải Tuệ! Ví như có người dùng các thứ màu sắc rực rỡ để vẽ vào hư không là nơi không sắc, không thấy, không đối, không biểu thị, như vẽ lên bức tường thì thật là chuyện hy hữu. Chư Phật Thế Tôn đã chứng đắc pháp hết sức thâm diệu, lìa mọi ngôn thuyết, nhưng có thể dùng ngôn thuyết, vì các hữu tình, Bổ-đặc-giàla nêu bày, khai thị, giảng nói, lại còn khó hơn dụ vừa nêu trên. Nói rộng như thế.

Lại, pháp giới dùng Phả-chi-ca (pha lê) làm tánh, cũng là thanh tịnh, không phải là dụ đồng pháp, vì nghĩa của chỗ lập nhân, nếu tùy thuộc một thì không thành, hoặc cả hai cũng đều không thành.

* Kinh nói:Lại như hư không tuy hiện bày khắp các sắc không cùng lìa bỏ, nhưng không bị các sắc làm cho nhiễm ô. Như thế, pháp giới thanh tịnh của Như Lai tuy hiện hữu khắp tâm tánh của tất cả chúng sinh, do chân thật nên không cùng lìa bỏ, nhưng không bị các lỗi lầm của chúng sinh làm cho cấu nhiễm”.

* Luận nêu: Lại có vấn nạn: Nếu Pháp giới thanh tịnh hiện bày khắp trong tất cả cảnh giới của đối tượng được nhận biết, tức cũng cùng với các thứ phiền não cấu uế như tham v.v… tương ưng, thì vì sao không như các phẩm tâm, tâm pháp hữu lậu khác là không thanh tịnh?

Để giải thích vấn nạn này, Đức Như Lai đã nêu dẫn dụ thứ hai về hư không rộng lớn.

Lại như hư không tuy hiện bày khắp các sắc không cùng lìa bỏ: Tức không có xứ riêng, nên gọi là không cùng lìa bỏ. Vì hư không hiện bày khắp tại hành bên trong, không thấy hiện bên ngoài. Đã ở nơi hành bên trong, không thấy hiện ra bên ngoài, nên không thể nói nhất định là một hay là khác. Nếu có xứ riêng, thì hư không ấy phải có hình tướng trở ngại, nên là vô thường.

Nhưng không bị các sắc làm cho nhiễm ô: Tức như hư không rộng lớn kia, tuy hiện bày khắp tất cả hình sắc nội có chất ngăn ngại, nhưng vẫn không bị nhiễm ô do lỗi lầm của sắc.

Lỗi lầm của sắc: Nghĩa là nhân làm sinh trưởng các thứ như tham, giận v.v… không phải do các thứ tướng dị biệt như xanh, vàng v.v…

Lại ở trong hư không, hết thảy các thứ màu sắc hình ảnh hiện có như mây, sương mù v.v… có thể khiến cho hư không xả bỏ tướng thanh tịnh, cùng có thể gây chướng ngại cho phát sinh cái thấy thanh tịnh về hư không, nên gọi là lỗi lầm của sắc.

Lại, tướng của cảnh nơi sự gia tăng trên tâm đó gọi là lỗi lầm của sắc. Vì tùy thuận ý của người khác, nên Như Lai mới nói như trước, không phải hư không rộng lớn bị nhiễm ô do lỗi lầm của các sắc kia, vì tự tánh của hư không vốn thanh tịnh.

Như thế, Pháp giới thanh tịnh của Như Lai tuy hiện hữu khắp trong tâm tánh của tất cả chúng sinh, do chân thật nên không cùng lìa bỏ: Tức như tự tâm của Phật là thanh tịnh chân thật, là bản tánh sáng sạch, bản tánh thanh tịnh, nên tâm tánh của hết thảy chúng sinh cũng thế, là bản tánh chân thật, bản tánh thanh tịnh.

Bản tánh của tâm, tức là chân như. Tâm của tất cả chúng sinh tánh đều bình đẳng. Như nói: Do đâu nói là tâm bình đẳng? Do tánh không nên nói là tâm bình đẳng. Như thế cho đến nói rộng. Bản tánh của tâm, tức pháp tánh của tâm hiện bày khắp trong tâm tánh của tất cả chúng sinh. Thế nên gọi là tánh bình đẳng của tâm.

Vì biện giải về pháp tánh của tâm như thế, nên nói do chân thật nên không cùng lìa bỏ, vì tâm tánh của hữu tình ấy vốn thanh tịnh. Tuy bản tánh thanh tịnh, nhưng do khách trần hiện có gây nhiều trở ngại cấu uế nên phải xa lìa, an lập nơi chân tâm thanh tịnh của Như Lai.

Lại, tánh bình đẳng nơi tâm của các hữu tình tức là sự chân thật thuộc về tự tánh viên thành thật. Do tướng chân thật của tánh bình đẳng nơi tâm các hữu tình, nên biểu thị là không lìa bỏ, vì tâm của các chúng sinh lại là tướng chân thật của tâm tánh, biểu thị là không lìa bỏ. Vì tâm tánh của tất cả hữu tình đều được chuyển biến. Ở đây ý nói: Do chuyển biến khắp, nên không cùng lìa bỏ.

Nhưng không bị các lỗi lầm của chúng sinh làm cho cấu nhiễm: Do bản tánh vốn thanh tịnh.

Lỗi lầm tức là như tham v.v… có thể khiến cho tướng của tâm thành lỗi lầm, thành cấu nhiễm. Tuy bị khách trần phân biệt chuyển biến, nhưng chúng không phải là thể của tâm, nên không thể hoàn toàn bỏ để có thể khiến được thanh tịnh.

Dựa nơi mật ý này nên nêu bày như vậy. Tâm ấy, bản tánh thanh tịnh, sáng sạch, là pháp tánh của tâm nên gọi là tâm, chẳng phải là lìa pháp tánh của tâm mà có tâm thanh tịnh của tánh khác. Vậy vì sao tâm của hữu tình có tham v.v…? Là do lực tự phân biệt đã nhận giữ nên chỗ điên đảo của tâm chưa vĩnh viễn đoạn trừ. Đây là do lực của vô minh đã dấy khởi. Nghĩa này ý nói: Ví như hư không, bản tánh tuy tịnh, nhưng người đang bị đau mắt tướng điên đảo hiện, nên thấy hư không tợ như không thanh tịnh. Như thế, bản tánh của pháp giới tuy thanh tịnh, nhưng do tự phân biệt nên đã dấy khởi lực của các nhân duyên như tham v.v… Màng mắt bệnh vô minh gây tổn hại cho mắt tuệ, tướng điên đảo hiện khiến thấy pháp giới như là không thanh tịnh. Như mắt tuệ của bậc Nhất thiết chủng trí thanh tịnh nên vĩnh viễn không thấy cấu uế.

Lại, Pháp giới thanh tịnh nếu không sai biệt, thì Nhất thiết chủng tịnh được gọi là Pháp thân của tất cả Như Lai, cũng gọi là thể tánh chân thật của Như Lai, nơi tất cả thời thường không biến đổi.

Do pháp giới này, nên tâm của tất cả hữu tình bình đẳng hiện hữu trong sự tương tục, thế nên nói như vầy: “Tất cả hữu tình là Như Lai tạng. Tất cả hữu tình đều có Phật tánh”, vì nhằm dẫn dắt số hữu tình thuộc chủng tánh không nhất định, khiến tâm quyết định hướng về Đại thừa.

Theo các hữu tình có chủng tánh Như Lai nên nói như thế này: “Tất cả hữu tình đều sẽ thành Phật”.

Như có chỗ nói: “Tất cả vô thường, tất cả đều khổ”.

Như thế đều là nói một phần ít nơi tất cả, không phải nói là toàn phần trong tất cả. Nếu không như thế thì trái với điều đã giảng nói về năm thứ chủng tánh. Hoặc cho công đức của chư Phật sẽ phải cùng tận, không có ai được hóa độ, tức trái với chỗ đã nêu giảng: “Công đức của Như Lai là thường còn, không dứt hết, chẳng phải là vô ích, vì thường trụ ở thế gian, vì bản nguyện độ sinh khiến cho chúng sinh đều cầu quả vị Phật”.

Pháp giới thanh tịnh này tuy hiện bày khắp tất cả, bình đẳng đều có, nhưng do sức chướng ngại của mình đã giữ lấy, như người mù bẩm sinh ở thế gian không thấy được mặt trời, mặt trăng. Như có tụng nói:

Tội chúng sinh không hiện

Như trăng nơi chậu vỡ

Đầy khắp các thế gian

Pháp sáng như mặt trời.

Do đạo lý này, như trước đã nói, cũng cùng tương ưng với các phiền não cấu uế như tham v.v… như phẩm tâm, tâm pháp hữu lậu khác, nên Pháp giới thanh tịnh trở thành không thanh tịnh: Tức có lỗi không quyết định. Hư không tuy tương ưng với chỗ cấu uế của sắc, nhưng hư không chẳng phải là không tịnh. Phẩm tâm, tâm pháp, tuy tương ưng với các phiền não như tham v.v…, nhưng lại dùng Pháp giới thanh tịnh làm tánh, nên chúng không phải là không thanh tịnh.

Đây không phải là dụ đồng pháp.

Như nói ý lạc không thanh tịnh: Là do thấy tâm không tịnh, theo đó cũng nói pháp giới không tịnh, vì tướng thanh tịnh không hiển hiện.

Ý lạc thanh tịnh: Tuy thấy cùng với các cấu uế như tham v.v…

tương ưng, nhưng bản tánh của tâm là thanh tịnh, không cấu nhiễm, nên pháp giới thường thanh tịnh.

Nhân đã lập kia, như trước là không thành, do pháp giới này hiện bày khắp tất cả. Ví như hư không, lỗi của các hữu tình không thể làm cho cấu nhiễm. Đây là nói pháp giới hiện bày khắp tất cả, là chỗ giữ lấy pháp không thảy đều là có, không đợi để thành lập.

* Kinh nói:Lại như hư không hàm chứa tất cả nghiệp nơi thân, ngữ, ý, nhưng hư không ấy không có khởi tác. Như thế, Pháp giới thanh tịnh của Như Lai hàm chứa Nhất thiết trí với tất cả sự biến hóa tạo lợi ích cho chúng sinh, nhưng Pháp giới thanh tịnh không có khởi tạo”.

* Luận nêu: Lại có vấn nạn: Nếu Pháp giới thanh tịnh của chư Như Lai lấy chân như làm thể, thì không hý luận, cũng không khởi tác, thì vì sao có thể dung nạp nhân duyên phát sinh trí để tạo lợi ích cho hữu tình? Nếu dung nạp trí phát sinh tức có khởi tác, vậy sao nói Như Lai lại lấy chân như làm tướng?

Nhằm giải thích vấn nạn này, Đức Như Lai đã nêu dẫn dụ thứ ba về hư không rộng lớn.

Lại như hư không hàm chứa tất cả nghiệp nơi thân, ngữ, ý: Tức như hư không rộng lớn, tuy không tác ý mà vẫn có thể dung nạp ba nghiệp của hữu tình. Hai nghiệp thân, ngữ vì có hình tướng ngăn ngại, có thể cần sự dung nạp. Còn ý nghiệp thì thế nào? Không có hình chất, không có đối ngại, vì sao vẫn cần hư không dung nạp? Tức do sự này, nên gọi là dung nạp. Nghĩa là khi chúng phát sinh thì không bị chướng ngại. Vật có đối ngại cũng do lúc phát sinh không có chướng ngại, nên gọi là chỗ dung nạp của hư không. Pháp này cũng như thế. Khi sinh không bị chướng ngại mà được sinh, nên cũng được gọi là hư không dung nạp. Lại, vật có đối, lúc không bị đối ngại, có thể dung nạp các vật khác được qua lại.

Dựa vào pháp ấy, nên trên đây đã giả lập về hư không. Nghiệp của ý cũng thế. Khi sắp sửa diệt thì thọ nhận vật khác khiến được sinh khởi. Vậy sao lại không được dựa vào pháp ấy nên ở trên giả lập về hư không. Nếu khác với pháp này mà thật có hư không hiện bày khắp tất cả nơi chốn thì làm sao dung nạp? Nếu thể của hư không là thật có vì không chướng ngại, pháp khác được sinh, gọi là dung nạp: Tức tất cả pháp không có sắc thật có thể đều không chướng ngại, đều có thể dung nạp, nên gọi là hư không.

Có nơi khác nói: Vì chỉ không có sắc nên gọi là hư không: Là căn cứ theo tướng thô cả thế gian cùng biết mà nói. Thế nên hư không dung nạp cả ba nghiệp cũng không có lỗi.

Nhưng hư không ấy không có khởi tác: Nghĩa là không phải hư không này phân biệt như vầy: “Ta dung nạp vật này không thọ nhận vật kia”. Tuy không tác ý mà có thể dung nạp.

Mặt trời, mặt trăng, ngọn đèn v.v… với ánh sáng hiện có cũng lại như thế. Tuy không tác ý phân biệt kia đây, nhưng pháp như thế khi phát sinh có thể soi chiếu các sắc. Ngọc báu Như ý cũng lại như thế, dù không tác ý nhưng có thể làm thỏa mãn ý nguyện của chúng sinh. Các thí dụ khác cũng vậy. Lại nêu chỗ giống với hư không để hiển bày tất cả.

Như thế, Pháp giới thanh tịnh của Như Lai hàm chứa Nhất thiết trí với tất cả sự biến hóa tạo lợi ích cho chúng sinh: Nghĩa là Pháp giới thanh tịnh của các Như Lai theo tánh mà an trụ, không có tác ý, an lập tất cả các việc lợi ích cho chúng sinh.

Nhất thiết trí: Là Trí Đại viên cảnh v.v…

Tất cả sự biến hóa: Là thân, ngữ, ý biến hóa.

Tất cả sự việc tạo lợi ích cho chúng sinh: Là có thể hoàn thành sự việc tạo lợi lạc thù thắng cho tất cả hữu tình.

Pháp giới thanh tịnh có thể hàm chứa: Tức khi pháp kia sinh khởi thì pháp giới làm nhân hỗ trợ.

Nhưng Pháp giới thanh tịnh không có khởi tác: Tức tác ý gọi là khởi. Có thể khiến cho tâm của hữu tình bỏ cảnh giới khác hướng đến duyên khác. Nên tâm động gọi là tác. Tâm suy nghĩ, dao động tức có đối tượng được tạo tác. Nghĩa là Pháp giới thanh tịnh tuy không tác ý, nhưng tâm suy nghĩ, dao động, vẫn có thể dung nạp các thứ biến hóa của trí tạo lợi ích cho hữu tình.

Lại nữa, thọ nhận, dung nạp sự biến hóa của Nhất thiết trí nhằm tạo lợi ích cho chúng sinh: Nghĩa là Pháp giới thanh tịnh thọ nhận tất cả hai thân thọ dụng, biến hóa, vì tạo ra nhân tạo lợi ích cho hữu tình là không cùng tận, nên hết sức rộng lớn, vì không đối ngại. Tuy không phân biệt, nhưng do lực tăng thượng nên có thể phát sinh việc lợi ích.

Nghĩa tổng quát này nói: Như hư không bình đẳng dung nạp những chuyển biến, tác dụng của sắc khi phát sinh v.v… tuy không có các thứ tác ý phân biệt, hý luận của ngã, ngã sở, nhưng do lực của pháp như thế đã tạo ra tất cả tác dụng sai biệt rộng khắp.

Như vậy, Đức Như Lai an trụ nơi cảnh giới vô lậu, tuy không có tất cả những thứ phân biệt, tác ý, hý luận của ngã và ngã sở v.v…, nhưng do trước đây Như Lai đã tu tập thệ nguyện lớn với diệu lực nên có khả năng khởi các biến hóa của Nhất thiết trí, làm lợi ích cho chúng sinh.

Như thế, Như Lai an trụ nơi Pháp thân khó nghĩ bàn bậc nhất. Do diệu lực của thệ nguyện trước đã nhận giữ vững nên tất cả tướng tốt, công đức trang nghiêm, tận cùng biên vực sinh tử, số lượng kiếp nối tiếp nhau, tuy không phân biệt, nhưng tạo ra những biến hóa của Nhất thiết trí tạo lợi ích cho chúng sinh.

Đức Như Lai tuy không phân biệt như thế này: Ta đối với sự nghiệp như thế, như thế, nên làm hay không làm, nhưng do diệu lực của bản nguyện, nên có thể hành tác hết thảy. Như trước kia đã phát nguyện, hoặc đi vào giấc ngủ, hoặc nhập Định diệt tận, tuy không tác ý, nhưng vẫn tùy thuận chúng sinh cần được giác ngộ mà xuất định.

Như Kinh Hải Tuệ, Đức Phật đã nói: “Như các Bí-sô cần chờ được nghe tiếng chuông mới nhập định diệt tận, nhưng không nghe tiếng chuông cũng không phân biệt, do diệu lực nơi sự mong cầu nên xuất định đúng giờ”. Nói rộng như thế.

HẾT – QUYỂN 3

Pages: 1 2 3 4 5 6 7