LUẬN KINH PHẬT ĐỊA
Tác giả: Luận sư Thân Quang
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 2

* Kinh nói:Bạc-già-phạm này là bậc giác ngộ thanh tịnh tối thượng, hiện hành không hai, hướng đến pháp vô tướng, trụ nơi Phật an trụ, đạt được tánh bình đẳng của tất cả Phật, đến được xứ không chướng ngại, là pháp không gì có thể chuyển đổi, nẻo hành hóa hoàn toàn tự tại, hết thảy mọi việc được thành lập là không thể nghĩ bàn. Hiện bày diệu dụng nơi pháp tánh bình đẳng của ba đời. Thân tướng hiện hành khắp tất cả thế giới. Nơi hết thảy các pháp, trí không ngờ vực, vướng mắc. Nơi tất cả hành đều thành tựu sự giác ngộ vĩ đại. Đối với các pháp, trí không có nghi hoặc. Phàm những sự hiện thân đều không thể phân biệt. Tất cả Bồ-tát chính thức cầu đạt trí, chứng đắc pháp không hai của Phật, an trụ nơi bờ giác thù thắng, hoàn toàn thuận hợp đối với phần giải thoát của Như Lai là diệu trí rốt ráo, chứng đắc ‘không có trung biên’ là Phật địa bình đẳng, tận cùng nơi pháp giới, tận cùng nơi tánh hư không, tận cùng nơi đời vị lai”.

* Luận nêu: Tiếp theo: Là hiển bày chư Phật không giống với Đại sư khác nên nói về Công đức thù thắng của Đức Thế Tôn.

Lại, vì muốn cho hết thảy đều sinh niềm tin thanh tịnh, nên nói đến Công đức viên mãn của Đức Thế Tôn.

Nên biết, ở đây hai mươi mốt thứ công đức thù thắng là để làm rõ Đức Bạc-già-phạm là bậc giác ngộ thanh tịnh tối thượng. Nghĩa là Đức Phật, Thế Tôn đối khắp với tất cả pháp hữu vi, vô vi nơi những cảnh giới cần giác ngộ đều đã chính thức mở bày, nhận biết.

Lại, đối với tất cả các cảnh giới cần giác ngộ, Đức Thế Tôn đều đã chính thức mở bày, nhận biết viên mãn tịnh diệu. Lại, đối với tất cả tánh như hiện có, toàn bộ tánh hiện có, đều chính thức mở bày, giác ngộ, nên gọi là Bạc-già-phạm là bậc giác ngộ thanh tịnh tối thượng.

Hiện hành không hai: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn hoàn toàn không chướng ngại. Nghĩa là hàng phàm phu, Nhị thừa đều hiện hành theo hai chướng, Đức Thế Tôn thì không có. Do các phàm phu hiện hành theo sinh tử, dấy khởi các thứ tạp nhiễm, trụ chấp nơi sinh tử. Hàng Thanh văn, Độc giác hiện hành theo Niếtbàn, hoàn toàn từ bỏ nẻo hành tạo lợi lạc cho người khác, trụ chấp vào Niết-bàn. Đức Thế Tôn thì không hiện hành theo hai chướng đó, nên gọi là hiện hành không hai.

Hướng đến pháp vô tướng: Là chỉ rõ công đức thù thắng nơi phương tiện điều phục, giáo hóa của Đức Thế Tôn. Nghĩa là pháp vô tướng tức là Niết-bàn. Đức Phật đã khéo thấu rõ hữu tình nơi ba Thừa, hành dụng phương tiện nhằm điều phục và hóa độ theo khả năng giác ngộ của họ, như thật giảng nói khiến họ hướng chứng pháp vô tướng.

Trụ nơi Phật an trụ: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn quán xét chúng sinh đã được điều phục, hóa độ. Nghĩa là trụ nơi đại bi, ngày đêm sáu thời quan sát thế gian.

Đạt được tánh bình đẳng của tất cả Phật: Là nêu rõ về công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã đạt được, sự nghiệp tương tợ của tất cả Đức Phật. Nghĩa là chứng được tánh bình đẳng trong sự nghiệp tương tợ chư Phật.

Đến được xứ không chướng ngại: Là làm rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã vĩnh viễn đoạn trừ các thứ cần đối trị. Tức là đã chứng được trí giải thoát tất cả hai chướng phiền não, sở tri cùng đã vĩnh viễn đoạn dứt tất cả chướng.

Là pháp không gì có thể chuyển đổi: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã hàng phục ngoại đạo. Nghĩa là chánh pháp của Phật, tất cả ngoại đạo đều không thể làm cho thoái chuyển. Ngoại đạo được hàng phục rồi nên chánh đạo được sáng tỏ.

Nẻo hành hóa hoàn toàn tự tại: Là làm rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã hàng phục các thứ ma oán. Nghĩa là đối tượng hành hóa tức các cảnh giới như sắc v.v… Ở đấy luôn khiến tâm nhiễu loạn, gây chướng ngại cho pháp thiện, nên gọi là ma oán. Chư Phật – Thế Tôn, tâm khéo yên định, nên cảnh có thể khiến ý hết sức vui thích cũng không thể nhiễu loạn được. Công đức hiện có đều thành tựu viên mãn hết sức tốt đẹp. Tất cả cảnh ma đều không thể gây trở ngại. Do có thể điều phục, chế ngự hết thảy cảnh giới, nên mọi nẻo hành tác đều không bị vướng mắc. Thế nên nói là nẻo hành hóa hoàn toàn tự tại.

Hết thảy mọi việc được thành lập là không thể nghĩ bàn: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã an lập giáo pháp. Nghĩa là Đức Phật an lập tất cả giáo pháp, vượt quá hết thảy cảnh giới tầm tư.

Hiện bày diệu dụng nơi pháp tánh bình đẳng của ba đời: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã ký biệt về ba đời. Nghĩa là như trong hiện tại, Đức Thế Tôn đã ký biệt về sự việc của đời quá khứ, vị lai đều không chướng ngại.

Thân tướng hiện hành khắp tất cả thế giới: Là nêu rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn từ cung trời Đổ-sử giáng trần. Nghĩa là hiện bày hóa thân khắp tất cả châu, bãi thế giới, đồng thời giáng thần vào thai mẹ.

Nơi hết thảy các pháp, trí không ngờ vực, vướng mắc: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã đoạn dứt tất cả nghi.

Nghĩa là đối với các pháp, Như Lai đã chứng được trí quyết định, có khả năng diệt trừ các thứ nghi ngờ.

Nơi tất cả hành đều thành tựu sự giác ngộ vĩ đại: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, tự thân thị hiện, đối với hết thảy hữu tình được hóa độ theo ba Thừa, đều có thể tùy thuận chỗ ứng hợp mà hóa hiện tự thân.

Đối với các pháp, trí không nghi hoặc: Là nêu rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, trí tuệ vi diệu đã khéo thấu đạt tất cả pháp, có thể tùy thuận nẻo thích ứng, luôn chỉ dạy khuyên bảo. Nghĩa là đối với người còn mang giữ nghi hoặc nơi các pháp, không ai có khả năng tùy thuận ứng hợp để dẫn dạy, chỉ có Đức Phật – Thế Tôn chứng đắc trí thấy rõ các pháp khéo quyết định mới có thể thuận theo chỗ ứng hợp để dẫn dạy khuyên bảo, không hề ngừng nghỉ hay bỏ dở.

Phàm những sự hiện thân đều không thể phân biệt: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn có thể thâu nhận chính đáng tự thân không nhiễm. Nghĩa là thân của chư Phật không phải là do phân biệt hư vọng dấy khởi, ở đấy không có nghiệp phiền não phát sinh tạp nhiễm, do thân của Như Lai không phải là sự phân biệt dấy khởi của tạp nhiễm, nên không phân biệt.

Tất cả Bồ-tát chính thức cầu đạt trí: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã hành tác phương tiện thành tựu Phật chủng không đoạn dứt. Nghĩa là các Bồ-tát vì khiến cho Phật chủng không đoạn dứt, nên siêng năng tu tập gia hạnh, không phải là các Thanh văn v.v… Vì thế, nên trí Phật chỉ có các Bồ-tát mới đúng là người nên mong cầu.

Chứng đắc pháp không hai của Phật, an trụ nơi bờ giác thù thắng: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Thế Tôn về tự tánh phần thân. Nghĩa là tướng không sai biệt nơi Pháp thân Phật, nên gọi là không hai. Trụ nơi pháp không hai của Phật, tức là Pháp thân, chân như làm thể, tướng không sai biệt, trong đó tất cả sự phân biệt về hai tướng đều không hiện hành. Duyên nơi định hơn hẳn kia thường trụ trong đó, nên gọi là trụ, tức trụ nơi không hai, gọi là bờ giác thù thắng. Phật đã đạt đến chốn tận cùng nên gọi là chứng đắc.

Hoàn toàn thuận hợp đối với phần giải thoát của Như Lai là diệu trí rốt ráo: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn về phần thân thọ dụng. Tức là thân thọ dụng không xen tạp. Thân thọ dụng của tất cả Như Lai thể đều riêng biệt. Diệu trí của Như Lai có thể khiến tất cả chúng sinh đều được giải thoát, nên gọi là diệu trí giải thoát của Như Lai. Đức Phật đối với trí này đã đạt đến cứu cánh. Như thế là nói diệu trí của Như Lai là không cùng xen tạp, nên nơi thân hiện thọ dụng trong cõi Phật thanh tịnh cũng không cùng xen tạp. Trong đại hội tập hợp đã hiện vô số thân, cùng với các Bồ-tát thọ dụng pháp lạc cũng không xen tạp. Đức Như Lai đã hiện thân nơi trí ấy cũng đạt đến cứu cánh.

Chứng đắc “không có trung biên” là Phật địa bình đẳng: Là làm rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã chứng đắc tướng chân như. Nghĩa là tướng chân như không có trung biên. Xa lìa tướng trung biên của tất cả pháp hữu vi, vô vi. Xa lìa tướng trung biên của mọi nơi chốn, phương hướng. Chân như như thế tức là pháp tánh của Phật địa bình đẳng. Chứng đắc tánh của Phật địa bình đẳng này, nên nhận biết khắp tất cả là vô vi, trong ấy không nhiễm.

Tận cùng nơi pháp giới: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã chứng được tướng quả. Nghĩa là đã chứng đắc pháp giới thanh tịnh tột cùng. Pháp giới như thế là quả của tu đạo, nên tiếp theo hai thứ công đức thù thắng sau là hiển bày về công đức vô tận của Đức Thế Tôn.

Tận cùng nơi tánh hư không, tận cùng nơi đời vị lai: Là nêu rõ về công đức thù thắng của Đức Thế Tôn với hai đức vô tận là tự lợi, lợi tha. Nghĩa là như hư không tuy trải qua bao kiếp thành, hoại, nhưng tánh thường vô tận. Tất cả công đức chân thật của Như Lai cũng lại như thế, là thường không đoạn hết. Như biên vực của đời vị lai không có thời kỳ cùng tận, công đức lợi tha cũng lại như thế, tận cùng đời vị lai, luôn hành tạo lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Lại nữa, ở đây đã hiển bày chung, riêng về công đức thù thắng của Đức Thế Tôn. Câu đầu là chung. Do các câu còn lại đã mở bày, làm rõ về nghĩa ấy. Như thế gọi là khéo giảng nói pháp yếu.

Do hai mươi mốt thứ công đức thù thắng, thế nên gọi là Bậc giác ngộ thanh tịnh tối thượng.

Hiện hành không hai: Là chỉ rõ về công đức nơi trí chuyển của Đức Thế Tôn đối với cảnh giới của đối tượng nhận thức, là hoàn toàn không chướng ngại. Nghĩa là hàng Thanh văn v.v… nơi các cảnh giới trí có chướng ngại, nên còn cách rất xa đối với thời, phương không có biên vực sai biệt. Do trong pháp của chư Phật không có trí chuyển. Như Lai thì không như thế, nơi tất cả thời, phương đều không có biên vực sai biệt. Trí nhất thiết chủng trong pháp của chư Phật đều chuyển biến không chướng ngại. Nơi tướng của các pháp, Phật không còn hai thứ nhận biết – không nhận biết hiện hành, thế nên nói là hiện hành không hai. Do đó, nên gọi là bậc giác ngộ thanh tịnh tối thượng. Các câu còn lại đều nên phối thuộc như thế.

Hướng đến pháp vô tướng: Là nêu rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn có khả năng hội nhập nẻo không hai. Nghĩa là tự mình có khả năng nhập nơi tự tướng, vĩnh viễn lìa bỏ tất cả phân biệt, giải thoát mọi trói buộc cấu uế của hết thảy phiền não, xa lìa tướng có – không, đạt chân như thanh tịnh, cũng khiến kẻ khác có thể hội nhập.

Trụ nơi Phật an trụ: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn hành tác Phật sự tự nhiên không ngừng nghỉ. Nghĩa là không dụng công trong việc tạo lợi ích cho hữu tình, không hề gián đoạn.

An trụ nơi Thánh trụ, Thiên trụ và Phạm trụ.

Đạt được tánh bình đẳng của tất cả Phật: Là nêu rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã dựa nơi ý lạc ở trong Pháp thân hành nghiệp không sai biệt. Nghĩa là trí chân như thanh tịnh của tất cả Phật, với tất cả ý lạc tạo lợi ích yên vui, thọ dụng biến hóa nơi hai sự việc lợi tha là không khác nhau.

Đến được xứ không chướng ngại: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã tu tập pháp đối trị tất cả chướng ngại. Nghĩa là đã tu tập Thánh đạo đối trị tất cả phiền não cùng sở tri chướng, đã đến được xứ giải thoát tất cả chướng. Nơi chốn nương dựa, hướng tới nên gọi là xứ.

Là pháp không gì có thể chuyển đổi: Tức hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn không bị khuất phục theo tất cả ngoại đạo. Nghĩa là giáo pháp cùng chứng pháp của Đức Thế Tôn đều không bị kẻ khác làm cho thoái chuyển.

Nẻo hành hóa hoàn toàn tự tại: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, tuy sinh nơi thế gian, nhưng pháp thế gian không gây trở ngại. Nghĩa là sinh trong thế gian, nhưng tám thứ pháp như như lợi v.v… đều không thể gây chướng ngại.

Hết thảy mọi việc được thành lập là không thể nghĩ bàn: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã an lập chánh pháp. Nghĩa là mười hai phần giáo pháp thù thắng, vượt quá tất cả hành tác của tầm tư, không phải là nơi chốn của hàng phàm phu ngu tối có thể suy lường được. Vì Đức Như Lai diễn nói về tất cả tự tướng và cộng tướng nên gọi là an lập.

Hiện bày diệu dụng nơi pháp tánh bình đẳng của ba đời: Là nêu bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã có thể ký biệt đúng đắn. Nghĩa là các cú nghĩa lưu chuyển trong ba đời, từng hiện hay sẽ sinh đều lần lượt ký biệt không điên đảo. Ký biệt về quá khứ, vị lai đều như trong hiện tại. Vì rõ ràng thuận hợp nên gọi là bình đẳng.

Thân tướng hiện hành khắp tất cả thế giới: Là nêu rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, đồng thời đối khắp tất cả thế giới, thị hiện thân thọ dụng và thân biến hóa. Nghĩa là nơi tất cả thế giới vô biên, tùy nơi chốn giáo hóa ứng hợp. Đức Như Lai đều hóa hiện sắc thân vi diệu như lưu ly v.v…

Nơi hết thảy các pháp, trí không ngờ vực, vướng mắc: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã đoạn trừ các thứ nghi. Tức là luôn tự quyết định mới có thể khiến kẻ khác sinh quyết định.

Nơi tất cả hành đều thành tựu sự giác ngộ vĩ đại: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã nhập vào vô số các hành. Nghĩa là tùy thuận nơi các hữu tình được giáo hóa, đã hiện thân đồng loại, khiến họ hội nhập.

Đối với các pháp, trí không có nghi hoặc: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, thấu đạt pháp vị lai, phát sinh diệu trí. Nghĩa là đối với cảnh giới đã vượt quá hàng Thanh văn v.v…, Đức Thế Tôn đã khéo gieo trồng các chủng tử vi tế như những vàng li ti trong đống ngói đá. Những cảnh giới như thế không hề có tướng điên đảo, đều được nhận biết rõ khắp.

Phàm những sự hiện thân đều không thể phân biệt: Là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, theo chỗ thắng giải ứng hợp về chúng sinh, đều thị hiện đầy đủ. Nghĩa là Phật Thế Tôn tuy không phân biệt, như ngọc báu Mạt-ni, vì do lực tăng thượng của các Như Lai, cũng do sức thắng giải của tự thân, nên trông thấy thân Như Lai sắc như vàng ròng v.v… Nhưng các Như Lai không có phân biệt, không phân biệt khác, nói rộng như trong kinh. Hoặc đồng với chủng loại kia nên không thể phân biệt.

Tất cả Bồ-tát chính thức cầu đạt trí: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, là chỗ nương dựa cho vô lượng hữu tình được hóa độ, tạo phương tiện để điều phục. Nghĩa là do vô lượng Bồtát làm chỗ dựa cho tất cả hữu tình tạo phương tiện để điều phục họ. Đây là do lực tăng thượng của Như Lai, nên Bồ-tát được nghe chánh pháp, tư duy tu tập theo thứ lớp, chứng được diệu trí. Bồ-tát thuộc chủng loại khác thì thâu nhận lời phó chúc của Như Lai, lần lượt nối tiếp vận chuyển chánh pháp không hề gián đoạn.

Chứng đắc pháp không hai của Phật, an trụ nơi bờ giác thù thắng: Là nêu rõ công đức thù thắng của Đức Như Lai đã thành tựu cùng tột Pháp thân bình đẳng và các Ba-la-mật-đa. Nghĩa là đối với Pháp thân không hai của Phật địa, tất cả Ba-la-mật-đa như bố thí v.v… đều bình đẳng viên mãn không cùng xen tạp.

Hoàn toàn thuận hợp đối với phần giải thoát của Như Lai là diệu trí rốt ráo: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, theo chỗ thắng giải thuận hợp của hữu tình thị hiện cõi Phật thanh tịnh. Nghĩa là quan sát sự sai biệt về kiến giải của các hữu tình, thị hiện vô số các cõi Phật như bằng vàng ròng v.v… không cùng lẫn lộn.

Chứng đắc “không có trung biên” là Phật địa bình đẳng: Tức làm rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn với ba thân nơi phương xứ đều không có hạn lượng. Nghĩa là chứng đắc bình đẳng không có đầu, giữa, sau. Ba thân của chư Phật ở trong Tịnh độ của Phật thuộc Phật địa không có tất cả phương xứ phần hạn.

Tận cùng nơi pháp giới: Tức chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã đạt đến tận cùng biên vực sinh tử, thường hiện khởi tạo lợi ích yên vui cho tất cả hữu tình. Nghĩa là pháp giới này hoàn toàn thanh tịnh, nên đến hết biên vực của sinh tử, thường khởi các pháp như Khế kinh đẳng lưu, vì các hữu tình được hóa độ nơi đời vị lai, như sự ứng hợp, như theo thời gian, luôn hiện khởi, tạo lợi ích an vui.

Tận cùng nơi tánh hư không, tận cùng nơi đời vị lai: Là hiển bày công đức thù thắng của Đức Thế Tôn là rốt ráo vô tận. Nghĩa là như hư không thường không cùng tận. Pháp giới của chư Phật khởi hiện công đức cũng lại như thế, là không cùng tận. Như biên vực của vị lai không có thời kỳ cùng tận, nên vì lợi ích an vui của hết thảy hữu tình mà gia hạnh tu tập, không dừng nghỉ.

Công đức của chư Phật vì tánh là thường nên vô tận. Cứu cánh là tánh vô thường, nối tiếp không dứt. Cứu cánh vô tận không thể nói là cố định. Do Pháp thân của Phật thanh tịnh, là lý tánh của pháp giới, là tánh của công đức nên là thường. Công đức của hai thân thọ dụng, biến hóa, tuy tánh là vô thường nhưng không đoạn tận, nên rốt ráo là vô tận. Tất cả Như Lai vốn phát nguyện rộng lớn, vì các hữu tình nên cầu Đại Bồ-đề. Nếu các hữu tình thảy đều được diệt độ, bấy giờ công đức hữu vi của chư Phật sao không đoạn dứt? Nhưng vì các cõi hữu tình đều không có tất cả cùng được diệt độ, nên công đức của Phật cũng không có đoạn dứt. Vì sao? Vì pháp là như vậy.

Từ vô thỉ đến nay tất cả hữu tình có năm chủng tánh:

  1. Chủng tánh Thanh văn.
  2. Chủng tánh Độc giác.
  3. Chủng tánh Như Lai.
  4. Chủng tánh bất định.
  5. Chủng tánh không có công đức xuất thế.

Như các Kinh Luận khác đã nói rộng về các tướng này. Phân biệt kiến lập bốn chủng tánh trước, tuy không có thời hạn, nhưng có thời kỳ được diệt độ rốt ráo. Do tâm từ bi dùng phương tiện thiện xảo của chư Phật. Chủng tánh thứ năm không có nhân công đức xuất thế, nên hoàn toàn không có thời kỳ được diệt độ. Chư Phật chỉ có thể vì họ dùng phương tiện thị hiện thần thông, giảng nói pháp xa lìa nẻo ác, sinh nẻo thiện, tuy họ dựa theo lời Phật dạy, siêng năng tu tập nhân thiện, được sinh trong cõi người, cho đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng, tất trở lại thoái chuyển rơi vào các nẻo ác. Chư Phật lại dùng phương tiện vì họ hiện thần thông giảng nói pháp để giáo hóa. Họ lại tu tập pháp thiện, được sinh nơi cõi thiện, về sau trở lại thoái chuyển, đọa lạc chịu mọi khổ não. Chư Phật lại vận dụng phương tiện cứu vớt.

Lần lượt như thế, đến cùng tận đời vị lai, cũng không thể khiến các hữu tình kia hoàn toàn được diệt độ. Tuy trong kinh khác đã diễn nói: “Tất cả các loài hữu tình đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật”, nhưng căn cứ nơi Phật tánh của Pháp thân, Chân như, hoặc dựa theo một phần ít phương tiện của tất cả hữu tình mà nói là để khiến cho hữu tình thuộc chủng tánh bất định, có quyết định nhanh chóng hướng về quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Do đạo lý này nên công đức đem lại lợi ích an vui cho hữu tình của chư Phật là không có đoạn dứt. Công đức lợi tha này do dựa vào công đức tự lợi, nên không đoạn dứt. Thế nên, công đức hữu vi của Như Lai tuy từ nhân sinh, tuy niệm niệm diệt nhưng không dứt hết. Do công đức của Phật rốt ráo không cùng tận, vì vậy đã thành tựu sự giác ngộ thanh tịnh tối thượng.

Ngoài ra, các câu còn lại đều nên mỗi mỗi phối thuộc như thế để quảng diễn.

Vì sao trước nói Tịnh độ của chư Phật, sau lại nói về công đức của Đức Thế Tôn như vậy? Là nhằm hiển bày công đức của chư Phật như thế đều nương vào Tịnh độ. Là làm sáng tỏ Đức Thế Tôn nhờ dựa vào cõi Phật thanh tịnh nên đạt được đầy đủ công đức như thế mới giảng nói Kinh này.

Tiếp theo: Là hiển bày Quyến thuộc viên mãn của Đức Thế Tôn. Nghĩa là các Đại Thanh vănĐại Bồ-tát. Trong kinh khác nói: “Điều thuận, điều thuận mà làm quyến thuộc. Giải thoát, giải thoát mà thành quyến thuộc”. Đó gọi là quyến thuộc viên mãn của Đức Như Lai.

Ở đây nói vô lượng chúng Đại Thanh văn và vô lượng Đại Bồtát đều hội đủ. Tất cả điều thuận đều là Phật tử v.v… đều an trụ trong Đại thừa, đều hành theo Đại thừa.

Như thứ lớp đó, Thanh văn, Bồ-tát là quyến thuộc viên mãn, vì sao trong đây trước nói Thanh văn sau nói Bồ-tát? Vì có người đối với Đại thừa sinh nghi. Nhằm trừ bỏ nghi hoặc đó, nên nêu dẫn chúng chủng tánh bất định, cũng là để Bồ-tát sinh tin tưởng quyết định. Vì các Đại Thanh văn đã được thanh tịnh đều từ bỏ sự tôn quý, kiêu mạn của tự thân. Nghĩa là đối trước chúng, hàng Đại Thanh văn đều được hầu cận bên Đức Thế Tôn, được trực tiếp thọ nhận sự giáo hóa.

Lại, các Thanh văn thường đi theo Phật, hình tướng giống với Phật, nên là quyến thuộc bên trong.

Lại, khiến cho các Bồ-tát sinh tâm cung kính đối với chúng Thanh văn, như Khế kinh nói: “Bồ-tát không nên đối với chúng Thanh văn không sinh tâm cung kính”. Do đó, tán thán công đức của Thanh văn, cũng là khiến cho những kẻ khác đối với chúng Thanh văn đều sinh tin tưởng thanh tịnh.

Ở trong hội này cũng có các chúng khác kết tập pháp, sở dĩ chỉ lược nói hai chúng là do tính chất thù thắng của họ. Như phần sau của kinh này nói: “Các chúng trời, người, A-tố-lạc v.v… trong thế gian, cùng tất cả đại chúng nghe Phật giảng nói đều vô cùng hoan hỷ, tin nhận phụng hành”.

Trước nói Tịnh độ là tự tại cùng tột, lấy thức thanh tịnh làm tướng, vì sao trong hội lại có Thanh văn v.v… mà không mâu thuẫn? Có mâu thuẫn gì? Nếu các Thanh văn v.v… đồng thấy như Bồ-tát thì thành mâu thuẫn. Còn như Thanh văn v.v… cũng nhận thấy như thế, thì có thể nói lời như vầy: Các Thanh văn v.v… tuy được tham dự hội này, nhưng đối với cảnh giới tịnh diệu đã bị nghiệp gây chướng ngại nên cũng như người mù không trông thấy.

Như thế, cảnh giới tịnh diệu là không thể nêu vấn nạn. Đã không thể trông thấy thì xem như không ở trong chúng. Do tuy không thấy cảnh giới tịnh diệu như thế, nhưng vẫn thấy cõi nước cấu uế, do hóa thân Phật giảng nói. Vì tuy đồng ở trong một hội, nhưng vì nghiệp lực của tự thân, nên đối tượng được trông thấy đều khác nhau, như trông thấy vàng ròng cho là lửa v.v… Như bốn loại chúng sinh cùng ở một xứ, nhưng mỗi loài đều thấy khác biệt. Hoặc lại do thần lực của Đức Như Lai gia bị, khiến tạm thời được trông thấy cõi nước thanh tịnh và nghe thuyết giảng pháp diệu. Đây là diệu lực không thể nghĩ bàn của Đức Như Lai, nên không thể vấn nạn. Do sự giáo hóa theo căn trí thuận hợp v.v… cũng không có lỗi, vì muốn trang nghiêm cho hội giảng nói pháp, nên hoặc Phật hóa tác hay các Bồ-tát biến hóa tạo thành.

* Kinh nói:Cùng với vô lượng chúng Đại Thanh văn hội đủ. Tất cả đều đã điều thuận, đều là Phật tử. Tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, giới khéo thanh tịnh, hướng cầu pháp lạc. Đều là hàng đa văn, nghe giữ, tích tập những pháp đã được nghe. Khéo tư duy những pháp cần tư duy, khéo giảng nói những gì cần giảng nói, khéo làm những gì cần làm. Tuệ mẫn tiệp, tuệ cấp tốc, tuệ sắc bén, tuệ xuất ly, tuệ quyết định lựa chọn thù thắng, tuệ lớn lao, tuệ rộng khắp và tuệ không ai sánh bằng. Tuệ báu đã thành tựu đầy đủ ba minh, đạt được hiện pháp lạc trụ bậc nhất. Là phước điền thanh tịnh lớn, oai nghi tịch tĩnh, đại nhẫn nhu hòa thành tựu không giảm. Đã khéo phụng hành Thánh giáo của Như Lai”.

* Luận nêu: Cùng với vô lượng chúng Đại Thanh văn hội đủ: Là số lượng rất nhiều, khó có thể tính kể, nên gọi là vô lượng. Nghe ngôn thuyết của Phật mà chứng nhập đạo Thánh, nên gọi là Thanh văn. Cùng là Tăng xuất gia nên gọi là chúng. Tất cả đều là hàng lợi căn tột bậc, là Thanh văn thuộc chủng tánh Ba-la-mật-đa nên gọi là Đại. Nghĩa là đều trụ nơi quả vị vô học nên gọi là Đại.

Về nghĩa như thật: Thì chư vị đều là Thanh văn của chủng tánh không định, chứng được quả nhỏ, do hướng tới Đại Bồ-đề, nên gọi là Đại. Hoặc vì số lượng của chúng nhiều, nên gọi là Đại.

Như đại chúng hôm nay, tất cả đều được điều thuận: Nghĩa là bậc hữu học đã lìa một trăm mười hai thứ phiền não phân biệt thô trọng do kiến đạo đoạn trừ. Vì không còn thô ác khó chế ngự nữa, cũng như ngựa đã thuần, nên gọi là điều thuận.

Có nghĩa: Là bậc vô học đã lìa một trăm hai mươi tám thứ phiền não không còn bền chắc do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ, cũng như vàng ròng, nên gọi là điều thuận.

Về nghĩa như thật: Thì đều là bậc hồi hướng về chủng tánh Bồđề, tất cả đều có thể phát tâm hướng tới quả Đại thừa, theo ý Phật để chuyển đổi, như voi thông sáng, nên gọi là điều thuận.

Do diệu lực giáo hóa của Phật, tức đều được sinh trong đạo Thánh, nên gọi là Phật tử. Như nói: “Đều từ miệng của Đức Thế Tôn sinh ra, là từ chánh pháp sinh”.

Có nghĩa: Đều là Thanh văn hướng đến Đại thừa, có thể nối kết Phật chủng khiến không đoạn dứt, nên gọi là Phật tử.

Tâm khéo giải thoát: Là lìa tham trong ba cõi, như nói: “Lìa tâm tham được giải thoát”.

Tuệ khéo giải thoát: Là đã lìa tất cả vô minh cấu nhiễm, như nói: “Lìa nơi vô minh, tuệ được giải thoát”.

Giới khéo thanh tịnh: Là như Khế kinh nói: “Đầy đủ sáu chi, gọi là giới khéo thanh tịnh”. Nghĩa là an trụ trong Thi-la thanh tịnh, khéo tự giữ gìn, luật nghi biệt giải phép tắc hành trì thảy đều đầy đủ. Đối với tội dù rất nhỏ, đều thấy hết sức sợ hãi. Thọ học, học xứ, hoặc đều chứng được giới vô lậu, nên gọi là khéo thanh tịnh.

Về nghĩa như thật: Là an trụ nơi quả vị vô học, hồi hướng về Đại thừa. Tự phần giới, tịnh tu giới Bồ-tát, nên gọi là khéo thanh tịnh.

Hướng cầu pháp lạc: Là khi cầu chánh pháp nhằm hướng đến an lạc lớn. Nghĩa là cầu Bồ-đề Phật, không cầu việc gì khác. Hoặc lúc cầu pháp, vì khiến cho người khác được an lạc nên không tìm kiếm lỗi của họ, xa lìa oai nghi xấu ác.

Về nghĩa như thật: Là hàng Đại Thanh văn này chuyên cầu pháp lạc, không mong cầu tiếng khen, lợi dưỡng và sự cung kính.

Vô lượng kinh sách, nơi các phần đầu, giữa và sau đều có thể nghe, nhận, nên gọi là đa văn. Theo nghĩa đã lãnh hội được đều có thể nhớ giữ, khiến không quên mất, nên gọi là nghe giữ. Thường xuyên hành tập văn nghĩa khiến được vững chắc, thế nên gọi là tích tập những pháp đã được nghe.

Người ngu tối nơi thế gian nghĩ tưởng ác khi tư duy, nói lời hung dữ khi nói năng, làm việc ác khi hành tác. Bậc Thánh xuất thế vượt quá các thứ pháp đó, trái ngược với chúng, nên gọi là khéo tư duy những pháp cần tư duy, khéo giảng nói những gì cần giảng nói, khéo làm những gì cần làm.

Ba nghiệp thanh tịnh hành theo trí tuệ, đối với pháp, Tỳ-nại-da do Phật giảng dạy đều nhanh chóng hội nhập nơi nghĩa, nên gọi là tuệ mẫn tiệp. Tức ở trong pháp ấy, hội nhập nhiều nơi nghĩa, nên gọi là tuệ cấp tốc. Do có thể hành nhiều nên gọi là rất nhanh, ngộ nhập nghĩa vi tế, nên gọi là tuệ sắc bén.

Diệu tuệ có khả năng ra khỏi sinh tử, nên gọi là tuệ xuất ly. Tuệ này có thể làm liễu nhân cho Niết-bàn, thế nên gọi là tuệ quyết định lựa chọn thù thắng. Quyết định lựa chọn thù thắng tức là Niết-bàn, do tuệ này có thể làm liễu nhân cho Niết-bàn, nên dựa vào Niết-bàn mà đặt tên. Vì hỏi đáp có tính chất quyết trạch không cùng tận, nên gọi là tuệ lớn lao.

Vì khéo thông đạt sâu rộng viên mãn, nên gọi là tuệ rộng khắp. Có gốc lại giảng nói về tuệ hết mực thâm diệu, nghĩa là người khác không thể đạt tới chỗ cội nguồn của nó. Đối với các chúng Thanh văn thuộc căn tánh yếu kém thì tuệ này là hơn hẳn, nên gọi là tuệ không ai sánh bằng.

Tuệ này có khả năng tập hợp dẫn về nghĩa tối thượng nên gọi là tuệ báu. Các Thanh văn này có đủ tuệ báu ấy, nên gọi là tuệ báu thành tựu.

Đầy đủ ba minh: Là chứng được ba thứ minh của bậc vô học. Sao gọi là ba minh của bậc vô học? Đó là:

  1. Túc trụ tùy niệm trí chứng thông minh (Minh chứng đắc thần thông là trí theo nhớ nghĩ biết được đời sống nơi kiếp trước).
  2. Sinh tử trí chứng thông minh (Minh chứng đắc thần thông là trí nhận biết về sinh tử).
  3. Lậu tận trí chứng thông minh (Minh chứng đắc thần thông là trí dứt hết lậu).

Bậc vô học lợi căn chứng được ba thông, trừ bỏ sự ngu tối nhiễm ô, không nhiễm ô trong ba đời nên gọi là có ba minh.

Có nghĩa: Minh: Là dùng tuệ làm tánh, vì tuệ có thể xua trừ tối tăm, nên gọi là minh.

Có nghĩa: Không ngu si: Tức dùng căn thiện làm tánh nên trái ngược với vô minh.

Đạt được hiện pháp lạc trụ bậc nhất: Là chứng được tĩnh lự thù thắng không thoái chuyển.

Phước điền thanh tịnh lớn: Là vĩnh viễn xa lìa phiền não, như ruộng tốt ở thế gian có thể nhanh chóng sinh trưởng quả rộng lớn.

Oai nghi tịch tĩnh: Là tất cả oai nghi đều trụ trong sự nhận biết đúng đắn (chánh tri).

Đại nhẫn nhu hòa thành tựu không giảm: Là đối với khổ luôn có khả năng chịu đựng để cùng trụ.

Đã khéo phụng hành Thánh giáo của Như Lai: Là mọi công việc đã làm đều được viên mãn. Thánh giáo của Như Lai vốn nhằm đưa chúng hữu tình ra khỏi sinh tử khổ. Các Thanh văn này đã chứng đắc quả vị vô học, đều ra khỏi sinh tử, nên đã khéo phụng hành Thánh giáo của Như Lai.

Nếu thế thì sao lại còn giảng nói pháp cho họ? Vì Đức Như Lai muốn họ hồi hướng tới Đại Bồ-đề.

Các Thanh văn này đều trụ nơi bậc vô học. Khi báo thân của một đời này chấm dứt, tất nhập nơi Niết-bàn vô dư, hoàn toàn vắng lặng, tịch tĩnh an lạc không khác với Phật, như nơi luận khác nói. Vì sao Như Lai lại dẫn họ hướng đến Đại Bồ-đề, phải chịu khổ trong thời gian dài? Nhưng trong phần vị biến dịch sinh tử, chư vị không có các khổ thọ. Vậy đây có lỗi gì? Vì còn có hành khổ nên đây là một lỗi lớn. Tuy trải qua khổ này nhưng khiến được ba thân công đức của Như Lai với đại hỷ đại lạc, nên không có lỗi.

Hết thảy sự an lạc lớn không gì hơn Niết-bàn, các Thanh văn kia đã chứng đắc, sao còn có một số ít lại cầu Bồ-đề?

Niết-bàn tuy có an lạc tịch diệt, nhưng không thọ nhận an lạc, còn an lạc của tam Bồ-đề thì đoạn trừ các thứ thọ lạc v.v… và đã có vô lượng công đức thì đâu cần phải hành khổ để được niềm vui hữu vi.

Hữu vi vô lậu cũng như Niết-bàn, vì vô lậu này không phải thuộc về hành khổ. Lại, nếu thành Phật thì có thể giáo hóa vô lượng hữu tình cần được hóa độ ra khỏi sinh tử. Đã thành Phật thì không có khả năng này sao?

Kể từ vô thỉ đến nay, chúng sinh là như vậy. Chủng tánh của chủ thể giáo hóa và đối tượng được giáo hóa luôn tùy thuộc vào nhau. Nếu không cùng tùy thuộc tức không thể giáo hóa. Thế nên Đức Như Lai đã vận dụng vô số phương tiện để giáo hóa các hữu tình khiến họ đều được quả vị Phật.

Giáo hóa chúng sinh cần được hóa độ, nếu vậy thì Thanh văn hoặc trừ bảy đời, hoặc trừ một đời, hoặc trừ một đời nơi mỗi mỗi xứ thuộc cảnh giới trên, tất cả đời còn lại đều được phi trạch diệt, hoặc tất cả đời đều là phi trạch diệt. Sao lại phải trải qua ba vô số kiếp tu tập nhân Bồ-đề mới được thành Phật?

Tuy các phiền não đã làm tăng thêm phần đoạn và được phi trạch diệt, nhưng do nguyện lực nên thọ nhận biến dịch sinh tử, trải qua ba vô số kiếp tu tập nhân Bồ-đề nên không có lỗi lầm. Phi trạch diệt là các duyên không đủ, ở trong thời này hoàn toàn không sinh, nhưng không phải là vĩnh viễn không sinh. hàng Thanh văn kia tuy trụ nơi sinh tử trong thời gian dài, nhưng do định nơi nguyện lực nuôi dưỡng, chiêu cảm nhân sinh, khiến cho công năng của nhân có thể sinh quả trong nhiều thời. Tức nơi một thân này lần lượt tăng thắng cho đến thành Phật. Như pháp kéo dài sự sống lại không thọ sinh, nên luận mới nêu bày.

Hỏi: Thanh văn hồi hướng Bồ-đề là trụ nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư y hay là trụ trong cảnh giới Niết-bàn hữu dư y để phát tâm hướng về đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng?

Đáp: Chỉ trụ trong cảnh giới Niết-bàn hữu dư y mới có thể có việc này. Vì sao? Vì trong cảnh giới Niết-bàn vô dư y, đã xa lìa tất cả sự nghiệp phát tâm hướng đến v.v… tất cả công dụng thảy đều ngưng dứt.

Hỏi: Nếu chỉ trụ trong cảnh giới Niết-bàn hữu dư y để phát tâm hướng đến đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, thì làm sao chỉ một đời có thể chứng được Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng? Vì sao? Vì A-la-hán v.v… đâu còn một đời nào nữa, huống chi là có nhiều đời nối tiếp nhau?

Đáp: Do các Thanh văn kia cần phải gia tăng các hành sống lâu mới có thể hoàn thành. Đức Thế Tôn phần nhiều dựa vào số Thanh văn hồi hướng Bồ-đề này mà mật ý nói: Nếu có người khéo tu tập bốn thần túc thì có thể sống một kiếp, hoặc hơn một kiếp.

Hơn một kiếp: Ở đây ý nói là vượt quá một kiếp. Thanh văn kia dù gia tăng hành sống lâu thêm như thế cùng phát tâm hướng về Bồ-đề vô thượng, nhưng sự tu hành rất chậm chạp, nên ưa chuộng Niết-bàn, không như Bồ-tát mới phát tâm hành tác nghiệp ban đầu. Thanh văn kia đã tăng hành tuổi thọ như thế xong, còn lưu lại căn thân hữu vi để riêng tạo ra hóa thân.

Pháp đồng: Là nơi phương tiện trước, thị hiện ở trong Niết-bàn vô dư y mà bát Niết-bàn. Do nhân duyên này nên đều khởi cảm nghĩ: Tôn giả kia, với danh hiệu đó ở trong cảnh giới Niết-bàn vô dư y đã bát Niết-bàn. Thanh văn ấy vì đã để lại thân thật với căn hữu lậu, tức tùy thuộc vào những gì họ ưa thích trong châu Thiệm-bộ thuộc cõi này, xa lìa mà an trụ. Tất cả chư Thiên hãy còn không thể thấy, huống chi là các chúng sinh khác có thể trông thấy. Vì các Thanh văn ấy phần nhiều đều thích trụ trong cảnh giới Niết-bàn, hiện bày diệu dụng đến khắp các thế giới thân cận cúng dường Phật, Bồ-tát cùng tu tập tư lương Bồ-đề trong các Thánh đạo. Nếu khi phóng dật, chư Phật, Bồ-tát thường xuyên giác ngộ cho họ. Khi Thanh văn kia đã giác ngộ rồi, có thể không còn phóng dật trong công việc tu tập.

Lại nữa, Thanh văn hồi hướng Bồ-đề, hoặc đối với quả vị hữu học, tức có thể từ bỏ ước nguyện cầu Thanh văn, hoặc ở quả vị vô học mới có thể từ bỏ, vì căn tánh của các Thanh văn ấy có sai biệt, nên chỗ chờ đợi các duyên đều có khác biệt.

Như vậy, nếu ở trong quả vị vô học, Thanh văn hồi hướng Bồđề, do nguyện lực của định nên thường xuyên nuôi dưỡng nhân xưa kia chiêu cảm nơi thân hiện tại, khiến sinh quả báo nối tiếp trong thời gian dài, dần dần tăng thắng cho đến khi thành Phật thì công năng mới hết. Quả báo này tuy trực tiếp chiêu cảm từ nhân hữu lậu, nhưng do sức hỗ trợ, nuôi dưỡng của định, nguyện vô lậu, gọi là biến dịch sinh tử không thể nghĩ bàn. Do định, nguyện vô lậu là không thể nghĩ bàn, nên nếu ở quả vị hữu học hồi hướng Bồ-đề, thì hoặc thuận theo phiền não chiêu cảm sinh uy lực. Chiêu cảm sinh uy lực rồi, đến đời sau cùng, Thanh văn hàng phục được các phiền não, khởi diệu lực của định, nguyện, giúp đỡ cho nhân của thân sau, như đạo lý trước, cho đến khi thành Phật. Hoặc khi tâm xoay chuyển liền hàng phục phiền não, phát sinh lực của định nguyện, hỗ trợ cho nhân của hiện thân, như đạo lý trước, cho đến khi thành Phật.

Những hành dụng vô lậu hỗ trợ cho định, nguyện không phải là phiền não, là đều thuộc về thân biến dịch không thể nghĩ bàn, hoặc sức của phiền não đã chiêu cảm dị thục thuộc về thân phần đoạn.

Nếu nói Thanh văn là người đã được hóa tác thì không cần phải phân biệt hỏi đáp như thế.

* Kinh nói:Lại có vô lượng Đại Bồ-tát từ cõi nước của chư Phật cùng đến tập hội, đều trụ nơi Đại thừa, hành theo pháp Đại thừa, đối với các chúng sinh tâm đều bình đẳng, lìa các thứ phân biệt cùng không phân biệt nơi vô số thứ phân biệt. Diệt hết các ma oán, xa lìa hết thảy phân biệt do niệm trói buộc của hàng Thanh văn, Độc giác. Pháp vị rộng lớn vui thích giữ gìn, vượt quá năm thứ sợ hãi, hoàn toàn hướng nhập vị không thoái chuyển, dứt hết tất cả cảnh giới khổ não bức bách của các chúng sinh, tâm ấy luôn hiện tiền. Bồ-tát Diệu Sinh là bậc thượng thủ”.

* Luận nêu: Nói là Đại Bồ-tát: Nghĩa là các vị Tát-đỏa cầu Bồ-đề. Đây là chung cho cả ba Thừa, vì giản lược nên chỉ lấy Đại thừa. Lại cần nói về Ma-ha-tát. Do duyên lấy Bồ-đề Tát đỏa làm cảnh, nên gọi là Bồ-tát. Là người gồm đủ đại nguyện lợi mình, lợi người, cầu Đại Bồ-đề, tạo lợi ích cho các hữu tình.

Lại, Tát đỏa là nghĩa dũng mãnh, tinh tấn, cầu đạt Đại Bồ-đề, nên gọi là Bồ-tát. Đây là chung cho các quả vị. Nay, chỉ chọn lấy các Đại Bồ-tát ở trên địa, do đó lại nói từ Ma-ha-tát.

Vì sao tán thán nói về công đức của Bồ-tát? Vì họ đã từ bỏ tâm khinh mạn chúng sinh.

Có người nói thế này: Các chúng Thanh văn đã tu tập phạm hạnh từ lâu, các chúng Bồ-tát phải nên kính lễ, lại khiến cho chúng sinh phát khởi niềm tin thanh tịnh.

Bồ-tát hãy còn có công đức như thế, huống chi là Đức Như Lai. Ở đây tán thán nói về công đức của Bồ-tát là nhằm hiển bày các vị ấy có 3 sự việc lớn, nên gọi là Ma-ha-tát.

1. Số lượng lớn: Là do vô lượng.

2. Đức lớn: Nghĩa là trụ nơi Đại thừa, hành hóa theo pháp Đại thừa v.v…

3. Nghiệp lớn: Nghĩa là dứt trừ mọi khổ não của chúng sinh, đem lại lợi ích an vui cho hữu tình là sự nghiệp của Bồ-tát.

Từ cõi nước của chư Phật cùng đến tập hội: Nghĩa là từ vô số các cõi Phật trong mười phương, vì muốn được nghe pháp nên cùng đến dự đông đủ. Cũng nêu có chư vị Bồ-tát ở thế giới Sách ha (Ta bà) tham dự pháp hội, nhưng người kết tập kinh chỉ nói các Bồ-tát ở phương khác vân tập đến, nhằm đối trị những Bồ-tát biếng nhác, kiêu mạn, không đến tập hợp trong chúng hội để cầu nghe pháp.

Bồ-tát từ phương khác đến như thế là tự mình cầu được nghe pháp, không phải do người khác dẫn dắt, vì tất cả đều có đủ thần lực lớn. Các Bồ-tát ấy đã từ những cõi rất xa của các thế giới khác đến đây để dự hội, huống chi là các Bồ-tát ở cõi này lại không đến tập hợp sao?

Chúng Thanh văn nêu trước, không nói việc đến tập hợp, vì họ đang ngụ tại phương này. Nay nói các Bồ-tát từ phương khác đến đây để dự hội, nên biết cũng có các Bồ-tát ở nơi phương này, do vì giản lược nên không nói.

Căn cứ nơi đức lớn nên biết lược nói có 9 thứ đức lớn:

1. Tinh tấn lớn: Nghĩa là đều trụ nơi Đại thừa do lực của tinh tấn. An trụ trong Đại thừa là nhằm cứu độ hữu tình khiến lìa sinh tử cùng tự phát tâm hướng đến Bồ-đề vô thượng.

2. Nhân lớn: Nghĩa là Bồ-tát hành hóa theo pháp Đại thừa, tức là mười địa v.v… Dùng nghe, tư duy, tu tập v.v… lần lượt hành trì.

3. Đối tượng duyên lớn: Nghĩa là đối với các chúng sinh tâm Bồ-tát luôn bình đẳng. Tức ở nơi tất cả hữu tình đều có được tự tha bình đẳng, do các phương tiện bình đẳng như tâm đại bi v.v…

4. Thời gian lớn: Nghĩa là Bồ-tát lìa mọi phân biệt, không phân biệt về vô số các thứ phân biệt, tức là đối với tất cả thời gian cũng như nơi một niệm, đều bình đẳng chuyển biến. Kiếp gọi là phân biệt, do đối với tất cả kiếp và không phải kiếp, đều đoạn dứt phân biệt. Lại do không phân biệt kiếp và phi kiếp, nên Bồ-tát có thể trong thời gian dài tu hành không chán.

5. Không cấu nhiễm lớn: Nghĩa là phá trừ các thứ ma oán, vì xả bỏ tất cả những gì đã thâu nhận, nên có thể hàng phục các ma oán. Như nói: “Bồ-tát nếu đối với tất cả các sự việc đã thâu nhận, biết rõ là không chắc thật, tâm không tham cầu, tức có thể diệt trừ các thứ thứ ma oán”.

6. Tác ý lớn: Nghĩa là xa lìa tất cả phân biệt, trói buộc nơi niệm của hàng Thanh văn, Độc giác, tức lìa bỏ phần đoạn, dứt trừ các tác ý của hàng Nhị thừa.

7. Nhận giữ lớn: Nghĩa là pháp vị rộng lớn nên vui thích gìn giữ, tức dùng sự vui thích nơi pháp vị của Đại thừa làm thức ăn.

8. Thanh tịnh lớn: Nghĩa là vượt quá năm sự sợ hãi, tức ba nghiệp thanh tịnh, thoát khỏi các sợ hãi, không phạm giới v.v…, vì phạm giới là nhân của sự sợ hãi bị đọa vào các nẻo ác v.v… Những gì là năm thứ sợ hãi? (a) Sợ không sống nổi. (b) Sợ tiếng xấu ác. (c) Sợ chết. (d) Sợ cõi ác. (đ) Khiếp sợ đại chúng. Năm thứ sợ hãi đó, khi chứng đắc Địa ý lạc thanh tịnh thì đều xa lìa.

9. Chứng đắc lớn: Nghĩa là hoàn toàn hướng nhập vào vị không thoái chuyển, tức được bậc Nhất thiết trí thọ ký: Bồ-tát ở địa hiện tại hoàn toàn không thoái chuyển. Trong bảy địa trước còn có công dụng vận chuyển của gia hạnh, chưa chứng được đạo không dụng công, không thoái chuyển. Các địa còn lại đều đạt được không gia hạnh không còn công dụng vận chuyển, hoàn toàn hướng nhập nơi địa không thoái chuyển. Vì đạo không dụng công của địa không thoái chuyển hoàn toàn hướng nhập, thế nên gọi là toàn bộ hướng nhập nơi địa không thoái chuyển.

Dựa trong nghiệp lớn là dứt trừ tất cả khổ não bức bách các chúng sinh, hành ấy luôn hiện tiền: Nghĩa là các Bồ-tát có thể dứt trừ mọi khổ não trong ngoài luôn bức bách tất cả chúng sinh theo quả vị hiện có của mình.

Trong địa này có đại bi, đại từ. Do hai thứ này có khả năng dứt trừ khổ não nơi tất cả bệnh bên trong v.v… Bên ngoài bị các thứ não như bần cùng v.v… bức bách, thì hai thứ ấy phần nhiều tạo lợi ích an vui cho hữu tình. Có được những hành tác ấy nên gọi là nghiệp lớn.

Lại nữa: Đều trụ nơi Đại thừa: Nghĩa là trụ ở Địa thứ nhất, khi Bồ-tát chứng đạt được chân pháp giới viên mãn hiện khắp, mới chứng được pháp Đại thừa chân thật, nên gọi là trụ nơi Đại thừa.

Hành theo pháp Đại thừa: Nghĩa là nơi Địa thứ hai tu hành ba tụ giới của Bồ-tát. Pháp hành của Đại thừa tức là ba tụ giới.

Đối với các chúng sinh tâm đều bình đẳng: Nghĩa là nơi Địa thứ ba chứng được các định thù thắng, mở ra bốn vô lượng bình đẳng, đem lại lợi ích an lạc cho các hữu tình.

Lìa các thứ phân biệt: Là ở Địa thứ tư chứng được ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, lìa các thứ phân biệt cùng không phân biệt nơi vô số thứ phân biệt.

Các thứ phân biệt: Là ngã kiến phân biệt, do kiến đạo đoạn trừ, nơi Địa thứ nhất đã lìa.

Các thứ không phân biệt: Là ngã kiến câu sinh, do tu đạo đoạn trừ, trong Địa này đã lìa.

Hai thứ ấy tương ưng với các pháp, nên gọi là vô số các thứ phân biệt. Do hành, giải khác nhau, nên tuy trước, sau đã lìa hết các xứ, nhưng nói chung như nơi định thứ tư nói lìa khổ vui, như ở quả vị thứ ba lìa năm phần dưới (Năm hạ phần kiết sử).

Có nghĩa: Nơi Địa này trong thức thứ bảy, tất cả phiền não câu sinh đều xa lìa.

Có nghĩa: Trong thức thứ sáu của Địa này, hết thảy ngã kiến câu sinh đều xa lìa, chứ không phải trong thức thứ bảy. Do từ bảy Địa trở lại vẫn còn có phiền não vi tế hiện hành.

Nếu không có thức thứ bảy thì sẽ không có chỗ dựa của cấu nhiễm, nên không giống năm thức trước. Nếu đã xa lìa các Hoặc vi tế nơi thức thứ bảy, thì các Hoặc thô sơ của sáu thức không hiện hành ở các Địa thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, tức là trái với phần Du Già đã nói trong Kinh Giải Thâm Mật.

Lại như trong Định kim cang dụ của Nhị thừa, các Hoặc của thức thứ bảy và phiền não vi tế nơi sáu thức đều được đoạn trừ trong cùng một lúc, thì vì sao ở đây, trước thì nói lìa phiền não vi tế của thức thứ bảy, sau nói lìa phiền não thô của sáu thức?

Thế nên, bốn Địa đã chứng được trí vô ngã, diệt trừ ngã kiến câu sinh trong ý thức, nhưng chưa lìa phiền não vi tế trong thức thứ bảy, cùng các Hoặc còn lại trong sáu thức, do tu đạo đoạn.

Đây là nói điều phục và xa lìa, không phải là vĩnh viễn trừ diệt. Phải đến khi đạt tâm kim cang trong Địa thứ mười mới nhanh chóng đoạn trừ, do tu đoạn chủng tử.

Diệt hết các ma oán: Nghĩa là Địa thứ năm quán xét bốn Thánh đế đều là tánh bình đẳng, diệt hết các ma oán chấp giữ sinh tử, Niếtbàn có sai biệt.

Xa lìa hết thảy phân biệt do niệm trói buộc của hàng Thanh văn, Độc giác: Nghĩa là Địa thứ sáu quan sát mười hai chi duyên khởi nhiễm tịnh, đều là tánh bình đẳng. Tức xa lìa phân biệt trói buộc niệm về sự chán sợ tạp nhiễm và ưa thích thanh tịnh của hàng Nhị thừa.

Pháp vị rộng lớn vui thích gìn giữ: Nghĩa là Địa thứ bảy chứng đắc lý vô tướng, ở trong trí không khởi lên hành hữu thù thắng, thọ nhận pháp lạc lớn.

Vượt quá năm thứ sợ hãi: Nghĩa là Địa thứ tám, tất cả phiền não đều không còn hiện hành. Lìa nhân của năm thứ sợ hãi, nên gọi là vượt quá năm thứ sợ hãi. Về quả của năm thứ sợ hãi nơi Địa thứ nhất đã lìa.

Hoàn toàn hướng nhập vị không thoái chuyển: Nghĩa là Địa thứ chín quyết định hướng nhập nơi vị không thoái chuyển thuộc hành viên mãn của chúng Bồ-tát thứ mười.

Dứt hết tất cả cảnh giới khổ não bức bách của các chúng sinh v.v…: Nghĩa là nơi Địa thứ mười chứng được đại Pháp thân, dấy lên mây đại bi, mưa xuống trận mưa pháp lớn, dứt trừ hết thảy sự khổ não bức bách của tất cả chúng sinh.

Lại nữa, mười câu văn kinh như thế, có mười lượt đến bờ giác và mười nguyện lớn v.v…, cũng nên phối hợp giải thích.

Do từ trên Địa thứ nhất, trong mỗi mỗi Địa đều thâu gồm khắp tất cả hành của các Địa.

Bồ-tát Diệu Sinh (Văn Thù Sư Lợi) là bậc thượng thủ: Vì Bồ-tát ấy có khả năng phát khởi công đức viên mãn nơi các Tam-ma-địa, nên gọi là Diệu Sinh. Vì Bồ-tát ấy đã chứng được Tam-ma-địa này, nên đặt hiệu là Diệu Sinh. Vì danh hiệu của Bồ-tát phần nhiều đều dựa vào pháp, như Từ Thị v.v…

Vì trong chúng hội này Bồ-tát Diệu Sinh là bậc thứ nhất, nên gọi là thượng thủ. Thế nên từ đây trở về sau, Đức Phật chỉ nói với Bồ-tát Diệu Sinh. Do nhằm phát khởi điều được giảng nói nơi kinh này là giản lược, nên chỉ nêu một danh hiệu. Các chúng còn lại nơi pháp hội chỉ nêu số lượng, vì người kết tập pháp chủ ý ở sự giản lược.

Như thế là đã nói xong phần 1: Nhân duyên khởi giáo.

HẾT – QUYỂN 2

Pages: 1 2 3 4 5 6 7