Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
觀世音菩薩本跡感應頌
Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong
QUYỂN IV – PHẦN 3
Hương lạ ngập thất, nha lại cõi âm răn dạy con cháu.
Chú thích: Theo sách Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Vu Sưởng giữ chức Lục Sự Tham Quân ở Tinh Châu dưới triều Võ Tắc Thiên. Cứ sau canh một là ông lại thở hổn hển, toát mồ hôi, qua canh hai thì hết. Vợ là Liễu Thị tính mời thầy thuốc. Ông Sưởng ngầm bảo vợ: “Không có nỗi khổ nào khác, chỉ là ban ngày phải lo việc công, đêm đến phải phán xử việc cõi âm, sức ta không kham nổi”. Ông thường biết trước tai nạn xảy đến, ngấm ngầm chuẩn bị. Suốt sáu năm như thế, sau khi mẹ mất, ông trì kinh Kim Cang bèn không còn phải làm nha lại cõi Âm nữa. Do vậy, cực lực khen ngợi sức công đức của kinh này, dạy con cháu phúng tụng. Năm tám mươi tuổi, khi sắp mất, chợt nghe mùi hương lạ, ông bảo người xung quanh: “Có thánh nhân đến đón ta về Tây Phương”. Nói xong thì mất.
Trích máu chép kinh, hiếu tử siêu độ cha mẹ.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, trong thời Vạn Lịch nhà Minh, Ngô Quân Bình ở Đồng Hương mồ côi cha mẹ từ nhỏ, bèn ăn chay bốn mươi chín ngày, trích máu từ ngực để chép kinh Kim Cang. Đêm mộng thấy cha mẹ đứng trên đám mây, bảo: “Nhờ công đức chép kinh của con, hai người bọn ta đã được sanh về Tịnh Độ”.
Mộng ngồi xếp bằng trên đỉnh núi, tượng báu phóng quang.
Chú thích: Theo Kiến Xương Chí, vào đời Minh, Hoàng Thái Nghi Nhân Lý Thị là mẹ của quan Nghi Chế Chủ Sự Nam Kinh là Hoàng Đoan Bá, người xứ Kiến Xương. Tuổi già, cụ tụng kinh Kim Cang, kinh Địa Tạng hằng ngày kiền thành. Một đêm mộng thấy ngồi xếp bằng trên đỉnh núi, Phật quang chiếu đến thân. Tỉnh giấc, cụ bảo Đoan Bá: “Kỳ hạn về Tây Phương đã đến”, không bệnh ngặt nghèo gì, thị hiện chút bệnh vặt, niệm Phật qua đời.
Dứt nỗi khổ địa ngục, giường vàng tụng chú.
Chú thích: Theo Kim Cang Chứng Quả, trong niên hiệu Thiệu Hưng đời Tống, ông X… ở Minh Châu không có con, vợ là Vương Thị có thai cả hai mươi tám tháng vẫn chưa sanh. Gặp một vị Tăng bảo: “Ông bị ách nạn lớn. Chỉ có cách thí một ngàn quyển kinh Kim Cang mới thoát”. Ông làm đúng như lời, lại phát nguyện tụng một ngàn quyển, trai tăng một ngàn vị. Đêm mộng thấy thần Kim Cang cầm xử chỉ vào bụng [bà vợ]; tỉnh giấc sanh được hai trai. Đến năm ông sáu mươi mốt tuổi, chết đột ngột, vào cõi Âm. Diêm Vương bảo ngồi trên giường vàng, tụng kinh một biến. Sự khổ của các quỷ trong địa ngục đều nhanh chóng chấm dứt. Hỏi ông sao không tụng chú? Thưa: “Trong thế gian không có bản kinh nào có chú cả!” Diêm Vương liền trao cho bản kinh có ghi bài chú, lại bảo: “Ông trở về dương gian, hãy nên lần lượt lưu thông. Mai sau hết tuổi thọ sẽ sanh vào thế giới Cực Lạc”. Bèn sống lại. Sau này, đến năm chín mươi mốt tuổi, ông không bệnh, ngồi mất.
Tiền Bỉnh lâm chung đọc kệ, nước cũng thanh lương.
Chú thích: Theo Hiện Quả Tùy Lục, vào đời Minh, Tiền Bỉnh thoạt đầu làm quan tại huyện Phú Dương rồi từ quan để tu hành. Hằng ngày, ông tụng kinh Kim Cang. Lâm chung, đọc kệ xong, bảo lấy nước trong mát để uống. [Người nhà hỏi]: “Nước trong mát ở đâu?” Đáp: “Nước ở ao phóng sanh”. Nước đem đến, ông uống xong, chắp tay nói: “Ta do Phật lực sẽ nhanh chóng về cõi thanh tịnh”, vui vẻ, ngồi qua đời.
Trương Ái tăng thọ, trì kinh, chóng sanh An Dưỡng.
Chú thích: Theo Kim Cang Tân Dị Lục, vào thời Vạn Lịch nhà Minh, nội giám (thái giám) Trương Ái mỗi tối trì kinh Kim Cang suốt mấy năm. Bệnh gần chết, thấy hai người áo xanh đến nói: “Đưa ông qua Sơn Đông đầu thai”. Đi như bay, trong vòng một ngày đã tới, thấy núi sông nơi ấy và cha mẹ sẽ đầu thai vào. Trương Ái chỉ nhất tâm trì kinh, bị áp giải đến một ngôi điện, nghi là [cung điện của] Đông Nhạc. Trên điện có một vị vua, đầu đội mão đỉnh bằng[1], bảo: “Ông đáng nên đầu thai về nơi đây”. Đáp: “Ái trì kinh Kim Cang, nguyện sanh về Tịnh Độ, chẳng muốn thọ thai!” Vua nói: “Ông trì kinh công ít, biết làm sao được?” Trương Ái thưa: “Từng nghe nói mười niệm thành tựu liền được vãng sanh, huống hồ [tôi đã trì kinh Kim Cang] đã mấy năm rồi!” Vua bảo: “Cho ông trở về, trì kinh thêm!” Đã tỉnh lại, ông Ái bèn lìa nhà, trụ tại Bích Vân Tự ở Tây Sơn, chuyên tụng kinh Kim Cang. Mười một năm sau, một hôm nhóm chúng, bảo: “Hôm nay tôi về Tây”, ngồi ngay ngắn qua đời.
Khói hương thề nguyện dâng Phật, hiện vẻ trang nghiêm trên vách vôi.
Chú thích: Theo Cân Ngự Thừa Tục Tập, vào đời Minh, vợ ông Trầm Xuân Giao ở trấn Song Lâm, Hồ Châu là Phí Thị, góa bụa từ trẻ, dệt vải để tự nuôi thân. Bà ăn chay mấy chục năm, thờ phụng tượng Phật và tượng Đại Sĩ bằng đàn hương, hằng ngày tụng một quyển kinh Kim Cang, niệm Phật một ngàn câu, dù [tiết trời] nóng hay lạnh chẳng bỏ sót. Trong trận dịch lớn dưới thời Sùng Trinh, bà dời sang sống trên ngôi lầu trong nhà người con rể là Trương Thế Mậu, chỉ đem tượng Đại Sĩ theo. Hằng ngày, bà hồi hướng hương này xông thẳng đến chỗ Phật. Ba năm như thế, chợt trên hư không có hương vờn quanh lầu mấy ngày. Trên vách tường vôi bỗng hiện ra tượng Phật, trang nghiêm tinh diệu, xa gần đồn đại, người đến chiêm lễ ngày càng đông. Nếu dùng khăn sạch để lau thì hình sắc càng rạng rỡ. Bốn năm sau, bà trở về chỗ cũ, vào cửa, liền quét dọn, thắp hương đèn, lễ Phật, tụng kinh. Đến sáng ngày thứ ba, tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật. Đến Ngọ, kêu ầm lên: “Phật tới rồi, ta đi đây!” Từ biệt mọi người qua đời, thọ bảy mươi ba tuổi.
Cấm dân giết chóc, thấy đài bạc tiếp dẫn.
Chú thích: Theo Kim Cang Tân Dị Lục, vào đời Minh, Thái Thừa Thực đậu Tiến Sĩ thời Vạn Lịch, làm quan Thái Thủ ở Gia Hưng. Trong khi làm quan, ông hằng ngày tụng kinh Kim Cang, cấm dân gian sát sanh. Phàm tế thần chỉ đốt hương, bày cỗ chay, và bảo tụng kinh Kim Cang. Ông thường hỏi pháp nơi ngài Vân Thê Châu Hoằng (tổ Liên Trì), tu niệm Phật tam-muội. Lâm chung thấy đài bạc tiếp dẫn, liên tục niệm Quán Thế Âm Bồ Tát rồi qua đời.
Ông Châu dứt ăn mặn năm ngày, thân tỏa mùi thơm.
Chú thích: Theo Kim Cang Linh Ứng Lục, trong khoảng niên hiệu Chánh Đức – Gia Tĩnh đời Minh, ông Châu Đình Chương ở Vân Nam hễ sáng dậy ắt tụng các kinh Kim Cang, Di Đà, và Quán Âm. Năm tám mươi bảy tuổi, ông nói: “Ta sắp đi, Phật Di Đà đến đón ta. Quán Âm, Thế Chí đều đến”. Rồi lại nói: “Đức Quán Âm dạy ta thôi ăn mặn năm ngày thì sẽ về Tây được!” Ông bèn mỗi ngày ăn một bữa cháo, một bữa rau, đến kỳ hạn, tụng kinh, ngồi ngay ngắn qua đời. Thân bốc mùi thơm, diện mạo như còn sống.
Châu Thị uống nước bốn mươi ngày, nở hoa trong mộng.
Chú thích: Theo Phật Tổ Thống Kỷ, vào đời Tống, Châu Thị là người xứ Sáp Xuyên, niệm danh hiệu Phật ba mươi năm, kiêm trì kinh Kim Cang. Lúc mở quyển kinh ra, thường nói: “Các vị thánh ngự đến xem, chẳng dám ngồi xổm”. Bà chợt nhịn ăn, hằng ngày uống mấy chén nước. Sau bốn mươi ngày, mộng thấy ba vị tỳ-kheo tay cầm hoa sen, bảo: “Ta trước kia vì ngươi trồng hoa này, hôm nay sẽ nở nên đến đón ngươi”. Tỉnh giấc, bà bèn niệm Phật hiệu, ngồi ngay ngắn qua đời.
Đường Nghi Chi nhiều lần quán tướng lành.
Chú thích: Theo Tịnh Độ Thần Chung, vào đời Minh, Đường Thời tự là Nghi Chi, người xứ Hồ Châu, học pháp môn Niệm Phật nơi ngài Liên Trì. Ông cùng quyến thuộc đều thuộc lòng kinh Kim Cang và phẩm Phổ Môn. Nghi Chi đắc Quán Phật tam-muội, nhiều lần thấy Phật hiện tướng lành, chánh niệm qua đời.
Ni Huệ An đích thân thấy Phật quang.
Chú thích: Theo Phật Tổ Thống Kỷ, vào đời Tống, Huệ An là người Minh Châu, trụ tại am họ Dương ở Tiểu Khê, chuyên tu Tây Phương, tụng kinh Kim Cang, nóng lạnh chẳng bỏ sót. Bà thường ở trong thất thấy Phật quang chiếu đến. Một hôm thị hiện bị bệnh, ngồi ngay ngắn, răn đại chúng đừng ồn. Một lúc lâu sau, nói: “Phật đến rồi”, bảo đại chúng niệm danh hiệu Phật, nghiễm nhiên thoát trần, thọ chín mươi sáu tuổi.
Trầm Kính Phù ba quyển lệ thường, xua tay bảo vợ lánh đi.
Chú thích: Theo Nhị Lâm Cư Hậu Tập, vào đời Thanh, ông Trầm Bỉnh ở Trương Châu, tự là Kính Phù, năm 15 tuổi bị bệnh suyễn. Đến năm 30 bệnh nặng hơn, năm 50 tuổi bệnh càng nặng hơn nữa, bèn niệm Phật, ăn chay trường. Bạn ông ta là Dương Quảng Văn khuyên tụng kinh Kim Cang, ông Trầm bèn mỗi ngày tụng ba quyển. Vào mùa Đông năm Càn Long 46 (1781), ông thị hiện bị bệnh nhẹ. Đến ngày 30, dậy sớm, súc miệng, tắm gội xong, hướng về Tây, ngồi xếp bằng niệm Phật. Vợ ở bên cạnh, ông xua tay đuổi ra, sau đó ngồi nghiễm nhiên qua đời.
Vương Ngưỡng Tuyền đã trọn ba tạng, cãi lệnh phù sứ.
Chú thích: Theo Hiện Quả Tùy Lục, vào đời Thanh, Vương Ngưỡng Tuyền là người Hàng Châu, sống bằng nghề giết dê. Trong khi bị bệnh thấy dê kéo cả đàn đến đòi mạng, bèn đổi nghề, ăn chay trường, tụng kinh Kim Cang, đủ số ba tạng. Lại lạy Pháp Hoa. Năm 81 tuổi, chợt thấy phù sứ[2] đến bắt, bèn kháng cự rằng: “Ta đợi Phật đến mới đi”. Năm hôm sau, quả nhiên thấy Phật hiện đại thân, xòe tay tiếp dẫn. Ông vui vẻ qua đời.
Đài sen thị hiện, Trương Nguyên hồi hướng Tây Phương.
Chú thích: Theo Cân Ngự Thừa Tục Tập, vào đời Minh, ngư phủ Trương Nguyên ở Hải Diêm và em trai là Trinh thấy trên mặt nước có ánh sáng lạ chiếu hắt lên, liền lặn xuống nước, mò được một hộp đá, bên trong hộp đựng bộ kinh Kim Cang viết bằng chữ vàng. Đêm mộng thấy thần kim giáp nói: “Ngươi đời trước là người hầu việc tại giảng đàn của pháp sư Trường Thủy[3], do không có lòng tin nên thoái đọa đến mức này; nhưng cái nhân nhỏ nhoi vẫn chưa mất, ban cho ngươi đại pháp, hãy nên tinh tấn trì tụng”. Ông Nguyên lấy cớ không biết chữ để từ tạ, thần bảo há miệng ra, nhét một hoàn thuốc vào. Sáng hôm sau, mở kinh ra tụng, đọc làu làu như quen tụng từ lâu. Trương Nguyên đem chuyện này kể với vị tăng chùa Chiêu Khánh là Truyền Như. Truyền Như khuyên hãy hồi hướng Tây Phương. Ba năm sau, Trương Nguyên bảo người thân và kẻ quen biết: “Đài sen đã hiện rồi!” ngồi ngay ngắn qua đời. Đó là chuyện nhằm tháng Bảy năm Đinh Sửu (1589) thời Vạn Lịch.
Bát Nhã công cao, Phòng Trứ sớm sanh Tịnh Độ.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, đời Đường, Phòng Trứ bình thời sùng tín đấng pháp vương, mỗi ngày niệm Phật, trì kinh Kim Cang. Một hôm, chết đột ngột, đến Diêm phủ. Diêm Vương nói: “Ông có công trì Bát Nhã, lại từng khuyên một người già niệm Phật, [người ấy] đã sanh về Tịnh Độ. Nhờ phước lực ấy, ông cũng đáng được vãng sanh!” Phòng Trứ thưa: “Tôi phát nguyện tụng kinh Kim Cang một vạn quyển, nay vẫn chưa xong, làm sao đây?” Vua nói: “Tụng kinh tròn nguyện cố nhiên là tốt, nhưng chẳng bằng sớm sanh về Tịnh Độ lại càng hay hơn!” Biết chí ông Trứ đã quyết, vua bèn sai nha lại đưa về.
Tạo kinh trăm quyển, thấy Phật đến đón.
Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, đời Đường, sa-môn Pháp Tạng chùa Bảo Thất ở Phu Châu, giới hạnh tinh thuần, sửa chữa, xây dựng chùa, tháp, tượng Phật thảy đều tinh xảo, đẹp đẽ. Năm Vũ Đức thứ 2 (619), Sư mắc bệnh, thấy một người tay cầm quyển kinh bảo: “Công đức của ông tuy lớn, chỉ vì lạm dùng vật của Tam Bảo nên mắc tội vô lượng. Nếu tạo kinh Kim Cang này thì tội sẽ diệt hết”. Tỉnh giấc, Sư bèn xả y bát, tạo kinh một trăm quyển. Lúc sắp mạng chung thấy A Di Đà Phật đến đón.
Lặng lẽ tham cứu bốn mươi năm, bay lượn trên không về Tây.
Chú thích: Theo Thọ Trì Quả Báo, vào đời Minh, vị tăng Phổ Tịnh ở Lô Sơn sáng tối kiền thành tụng kinh Kim Cang. Chợt mộng thấy thần nhân nói bài kệ như sau:
Hữu tướng, tướng phi chân,
Vô pháp, pháp diệc đọa,
Phiết khước cựu khỏa cữu,
Tức dĩ liễu đại nghĩa.
(Có tướng, tướng chẳng thật,
Không pháp, pháp cũng rơi,
Vứt sạch khuôn sáo cũ,
Đại nghĩa liền thấu triệt).
Sư đại ngộ, mỗi ngày chỉ tụng ra tiếng một biến vào lúc sáng tối, những lúc khác ngồi xếp bằng lặng lẽ tham cứu, bốn mươi năm chưa hề ngủ nghê. Thần lại đến bảo: “Làm như thế là đúng rồi”. Sư tuổi ngoài chín mươi bèn thị tịch, hương thơm đọng suốt đêm. Tăng chúng đều thấy tràng phan dẫn đường, Sư mặc ca-sa tía, cầm xâu chuỗi bằng hạt Mộc Hoạn[4], bay lên không trung về Tây. Chữ Tập (卌) đọc như chữ Tiết (薛)[5], có nghĩa là bốn mươi.
Trong mộng bà Hoàng giã biệt vị Tăng gần xóm, ráng đỏ chiếu rực nóc nhà.
Chú thích: Theo Phật Tổ Thống Kỷ, vào đời Tống, bà Hoàng là người Triều Sơn, chuyên trì danh hiệu Phật kiêm tụng hai kinh Pháp Hoa và Kim Cang. Bà ngẫu nhiên mắc bệnh lỵ, tự biết đã đến thời, liền nhịn ăn, hằng ngày uống mấy chén nước. Một hôm, vị Tăng pháp danh Thiện Tu ở cái am gần đó nằm mộng thấy bà ta đến từ biệt, bảo: “Tôi sắp qua Tây Phương”. Hai hôm sau, bà ta hướng về Tây niệm Phật, ngồi ngay ngắn qua đời. Ráng đỏ sáng ngời phủ trên nóc nhà, người làng ai cũng thấy.
Cô Vương thề thu máu mẹ, hoa sen hiện trong phòng.
Chú thích: Theo Phật Tổ Thống Kỷ, vào đời Tống, cô gái nhà họ Vương người xứ Cát An, hằng ngày tụng các kinh Di Đà, Quán Âm, Kim Cang. Mẹ chết, chảy máu đẫm thân. Cô thệ nguyện: “Nếu con có lòng hiếu chân thật thì nguyện thân mẹ con chẳng sanh hôi nhơ”. Thề xong, máu ngưng chảy. Một hôm, cô ngã bệnh, nằm trong dáng điệu cát tường, tay nắm lá tràng phan báu trước tượng Quán Âm, lặng lẽ thị tịch. Đem liệm, mẹ kế đặt tro của cô ta trong nhà, nẩy sanh mấy đóa hoa sen.
Tụng năm ngàn bốn mươi tám lượt, nằm bên hông phải qua đời.
Chú thích: Theo Phật Tổ Thống Kỷ, vào đời Tống, Trần Thị thọ trì trai giới, lấy Thiền tụng làm vui. Trì danh hiệu Phật suốt ba mươi năm, kiêm tụng năm ngàn bộ kinh Pháp Hoa, hai kinh Di Đà và Kim Cang mỗi kinh tụng được năm ngàn bốn mươi tám (5.048) bộ. Một hôm, không ăn, người nhà hỏi duyên cớ, nói: “Muốn cầu thấy Phật!” rồi nằm trên hông phải, qua đời.
Chỉ ngày Mười Ba tháng Năm, xâu chuỗi làm hạn.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm Ký, vào đời Minh, Lý Thị là mẹ Lưu Đạo Long, ăn chay trường thờ Phật, khắc kinh Kim Cang tặng cho người khác. Gặp dịp sinh nhật chỉ lễ sám. Một năm trước khi cụ sắp mất, mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ trao cho xâu chuỗi, bảo: “Đây là kỳ hạn vãng sanh Tịnh Độ của ngươi”. Đếm xem thì được năm mươi ba hạt. Đến ngày Mười Ba tháng Năm năm sau, cụ bảo người nhà: “Hôm nay ta về Tây Phương”, ngồi ngay ngắn qua đời (trên đây là mười ba cặp, gồm hai mươi sáu điều).
Trì kinh giống như trì danh, tu Thiền có thể thông với tu Tịnh. Hai công đức này chẳng thể nghĩ bàn, đều là một.
2. Lâm chung hiện tướng lành
Bèn có: Trinh Tường nhiều lượt thấy, Văn Đạt ở nơi đài Bát Nhã.
Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời Đường, Trần Văn Đạt, người huyện Khích ở Tử Châu, thường trì kinh Kim Cang, nguyện niệm cho cha mẹ đã mất tám vạn bốn ngàn quyển, có nhiều điềm tốt lành. Ông tụng kinh cho người khác, người bệnh đều được lành. Trần Ước là người huyện Đồng Sơn từng bị cõi Âm bắt, thấy dưới đất dựng đài, hỏi thăm thì họ nói: “Đấy là Bát Nhã đài để đợi ông Trần Văn Đạt”. Ông Trần được cõi Âm kính trọng như vậy đó.
Ách nạn tự tiêu, Nguyên Tố thấy lọng rủ trên không.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Trương Nguyên Tố là người Lạc Dương, trì kinh Kim Cang từ bé. Đầu niên hiệu Thiên Thọ, ông làm quan đứng đầu xứ Hoàng Mai. Hễ trong nhà gặp ách nạn, niệm kinh liền hết. Năm bảy mươi tuổi, ông bị bệnh, chợt có lọng hoa rủ trên không, liền tắm gội, giã biệt người nhà, lặng lẽ qua đời.
Tuổi cao tuyệt thực, lưỡi gõ ra tiếng.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Minh, người thợ da Nghiêm Giang ở Tương Thành tuổi trung niên bỏ nghề, lo nấu cơm chay ở chùa Phật. Trên đường đi, chuyên trì kinh Kim Cang và niệm A Di Đà Phật không ngớt tiếng. Năm sáu mươi mấy tuổi, ông chợt tuyệt thực, chỉ uống nước suốt một tháng, lại nói sẽ ra đi vào ngày đó, giờ đó. Đến kỳ hạn, tắm gội, thay áo, ngồi xếp bằng qua đời. Hỏa thiêu thu được mấy vốc xá-lợi, lưỡi cứng như kim thạch, gõ vào kêu ra tiếng. Lúc ấy nhằm năm Chánh Đức thứ 3 (1508).
Sáu tháng không có ruồi, ở gần xác không thấy mùi thối.
Chú thích: Theo Kính Trung Kính Hựu Kính Trưng Nghĩa, vào đầu niên hiệu Thiên Khải đời Minh, ngoài cửa Chánh Dương thành Bắc Kinh có một người lính già, hằng ngày thắp hương tụng kinh Kim Cang. Ông mất năm 73 tuổi, suốt sáu tháng xác chẳng bốc mùi hôi, ruồi chẳng bu tới, ai nấy đều lấy làm lạ.
Tiết Tư Mã siêu sanh cõi trời, nương bóng tràng bước trên không.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Trung Châu Tư Mã là Tiết Nghiêm ăn chay trường, hằng ngày niệm 30 biến kinh Kim Cang. Đến năm 72 tuổi, lúc sắp mất, thấy tràng, lọng, âm nhạc đến đón. Vợ ông ta là Thôi Thị, chính là cô của quan Ngự Sử An Nghiễm. Lúc lâm chung[6], [người nhà] thấy ông Nghiêm nương theo tràng, lọng thong dong bước lên trời, đi mất, gọi cũng chẳng nhìn lại, cả nhà đều ngửi thấy mùi hương lạ.
Châu Tiến Sĩ thoát khỏi thai chó, leo lên cành cây nói kệ.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Tống, ông Châu Tiến Sĩ ở Tô Châu vốn theo đòi cử nghiệp, chưa hề nghe Phật pháp. Ngẫu nhiên sang chơi chùa Hổ Khâu, nghe ngài Phật Ấn giảng kinh Kim Cang đến phần giảng về bốn câu “nhất thiết hữu vi pháp”, [tâm cảm thấy] vui vẻ chưa từng có. Do vậy, muốn tham cứu tông chỉ, ý nghĩa của toàn bộ cuốn kinh. Nhằm lúc ngủ trưa, ông mộng thấy một gã áo xanh áp tải năm người, ông Châu theo sau, đi chừng hai dặm, đến một phố lớn, rồi rẽ vào trong ngõ, vén tấm rèm bằng vải màu xanh vào nhà người ta. Đến nhà bếp, [thấy] trong thùng có canh, năm người đều uống. Ông Châu cũng muốn uống, nhưng người áo xanh, ngăn lại bảo: “Người nghe Phật pháp chẳng được uống”, liền giật mình tỉnh giấc. Ông Châu bèn đi theo lối đã nhớ, đến phố lớn, vào trong ngõ, quả nhiên có căn nhà của người ta giống hệt như trong mộng. Ông Châu gõ cửa, bước vào hỏi trong bếp có chuyện gì lạ không? Chủ nhân nói: “Trong bếp có sáu con chó mới sanh, một con đã chết”. Ông Châu kinh hãi đẫm mồ hôi, tự nhủ: “Nếu chẳng nghe Phật pháp thì đã vào thai chó rồi”. Do vậy, chuyên trì kinh Kim Cang, thọ tới 89 tuổi. Ngày Rằm tháng Tám, ông mời các đạo hữu khắp các chùa đến từ biệt, trèo lên cành cây ở sau vườn, nói kệ rằng:
Bát thập cửu niên Châu Công,
Lưỡng thủ phách phá hư không,
Cước đạp phù vân phấn toái,
Lập hóa Bồ Đề thụ đông.
(Ông Châu tuổi sắp chín mươi,
Chỉ còn thiếu một mùa Xuân vừa tròn,
Hai tay phá nát hư không,
Phù vân chân đạp vỡ cho tan tành,
Phía Đông cội gốc Bồ Đề,
Đứng yên sừng sững thoát vòng trần gian)
Gieo mình xuống, đứng sững trên mặt đất, qua đời.
Đắc sáu chữ vô tướng, ông Châu thấy đũa ngọc rủ xuống.
Chú thích: Theo Kim Cang Tân Dị Lục, vào đời Minh, Văn Khác Công Châu Quốc Tộ làm quan Tu Soạn thời Vạn Lịch. Ông được thăng chức Đại Học Sĩ thời Thiên Khải. Hằng ngày ắt đóng cửa tụng kinh Kim Cang một quyển, thường bảo con: “Ta vốn tươi héo chẳng đoái, thuận nghịch hệt như nhau, chỉ là nhờ sức của sáu chữ vô ngã tướng, vô nhân tướng”. Năm Thiên Khải thứ 4 (1624), ông biết trước lúc mất, ngồi ngay ngắn qua đời, từ trong mũi thò ra chiếc đũa ngọc.
Dặn lưu thân ba năm, bà Ngô chứng kim cang bất hoại.
Chú thích: Theo Hiện Quả Tùy Lục, vào đời Thanh, Đường Ngô Thị là người xứ Tế Ninh, ngụ cư tại Tùng Giang. Thoạt đầu tánh tình hung bạo, chẳng dung người khác. Năm bốn mươi ba tuổi mới bắt đầu ăn chay trường. Trong ngôi lầu nhỏ, hằng ngày tụng kinh Kim Cang suốt sáu năm. Đến năm bốn mươi chín tuổi, chợt bảo với mọi người: “Ta sẽ đi trong ngày đó. Kinh nói ‘kim cang bất hoại thân’, sau khi ta mất hãy giữ xác ba năm để chứng nghiệm kinh dạy chẳng dối”. Bà nói kệ qua đời. Ba năm sau, mở khám ra, quả nhiên thân chẳng hư, tóc trên đỉnh đầu mọc dài nửa tấc. Đề Đốc Lương công sai người dùng sơn phủ xác, dựng am.
Áo trời giáng xuống, dẫn Sư thượng thăng.
Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, đời Đường, Triệu Văn Tín ở Toại Châu chết đột ngột, đến chỗ Diêm Vương, đồng bạn mười người. Trong số ấy có một vị Tăng, vua hỏi lúc còn sống tu công đức gì. Tăng đáp: “Tụng kinh Kim Cang”. Vua giật mình, đứng dậy, chắp tay, khen ngợi: “Lành thay! Lành thay! Sư tụng Bát Nhã đáng sanh lên trời, sao lại đến lầm nơi này!” Nói chưa xong, có áo trời thòng xuống, dẫn Sư thăng lên trời. Văn Tín sống lại, thuật đầy đủ mọi chuyện.
Lưu thân nơi Địa Tạng, hoàn kinh, cười giã biệt.
Chú thích: Theo Tân Dị Lục, vào đời Minh, Thí Phong Dương ở phố Giác Lý, phủ Gia Hưng, quen thân với vị Tăng chùa Đông Tháp là Hữu Hằng. Phong Dương già bệnh, quỳ tụng kinh Kim Cang, hằng ngày ắt tụng mấy quyển. Ngày mồng Tám tháng Giêng năm Bính Tý (1636) đời Sùng Trinh, ông tụng kinh chưa xong đã mất. Ba ngày sau, lúc sắp đóng nắp hòm, chợt hoàn hồn, bảo: “Ta nhờ sức kinh nên không thuộc quyền cai quản của Diêm Vương, mà [lưu lại] ở chỗ Địa Tạng Bồ Tát. Bồ Tát do thấy tụng kinh chưa hết quyển nên cho về lễ tụng, chỉ vì hơi thở khò khè, chẳng thể tự tụng, phải thỉnh sư Hữu Hằng tụng thay, chứ người khác thì vô ích”. Nhằm đúng lúc thầy Hữu Hằng phải đi việc khác, bèn đợi một hôm. Khi sư Hữu Hằng đến, ông nghe tụng kinh xong, giơ tay cảm tạ Hữu Hằng, mỉm cười, ra đi.
Lý Nguyên Tông tắm gội, ngồi mất.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Tống, Lý Nguyên Tông ở huyện Giang Lăng, Kinh Châu có đứa con gái hằng ngày tụng kinh Kim Cang ba quyển. Cô ta bị bệnh, mất đi, Diêm Vương thấy đầu [cô ta] có Phật quang, bèn thả về, dặn rằng: “Cha ngươi ưa bắt cá sống, thái làm chả, đã ăn hơn bảy ngàn con cá. Chúng nó kêu oan, đòi mạng. Trở về hỏi cha ngươi: Đêm mộng thấy lọt vào lưới, sáng ra nhức đầu. Đấy chính là lũ cá đòi báo thù vậy”. Con gái tỉnh lại, kể với cha. Nguyên Tông hết sức sợ hãi, bèn trai tăng một trăm vị, dứt rượu thịt, chép bốn mươi chín quyển kinh Kim Cang. Mộng thấy mấy ngàn bé trai mặc áo xanh đến lạy, thưa: “Chúng tôi ôm lòng oán, nay nhờ công đức chép kinh mà lìa đường khổ, sanh vào đường lành”. Nguyên Tông từ đấy trì kinh càng thêm kiền thành, thọ đến một trăm hai mươi tuổi, không bệnh tật gì, tắm gội, ngồi qua đời.
Nhan Quang Dũ ngõ hẻm ngửi mùi hương.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Minh, Nhan Quang Dũ nhiều đời theo Nho học. Một hôm, cùng với những vị hương thân kỳ lão vào hội Kim Cang nghe kinh, hớn hở, thán phục, muốn thấu suốt tông chỉ, nhưng do làm quan nên chưa rảnh rỗi. Về sau, trông coi huyện Thái Hoà, bị bệnh, mộng thấy hai người áo xanh lôi vào âm phủ, cảnh tượng tối tăm, thê thảm, nghiêm ngặt. Nha lại tâu với vua: “Quang Dũ hiếu sát, có vô số sanh linh đòi mạng”. Vua phán đem chiên dầu. Quỷ đầu trâu dùng chĩa xiên bỏ vào vạc [dầu] sôi, thấy [Quang Dũ] hoa sen phủ khắp thân, [dầu trong vạc đang] sôi trào bèn trong lặng. Vua chắp tay mời gặp, sai tra sổ ghi điều lành thì thấy có công trì tụng Bát Nhã một ngày, gieo được thân kim cang bất hoại này, liền tha về để khuyên người đời. Từ đấy trở đi, Quang Dũ khóa tụng chẳng thiếu sót, khắc thí kinh Kim Cang sáu ngàn quyển, làm quan đến chức Đại Tham, thọ tới bảy mươi tuổi. Lâm chung, mùi thơm tỏa ngát cả ngõ, dặn dò con cháu thọ trì kinh này. Cháu đời thứ sáu mươi sáu của ông Nhan là Bác Sĩ[7] Bá Khiêm ghi.
Nghe câu vô ngã, vô nhân, Vương Tiều chắp tay.
Chú thích: Theo Thọ Trì Quả Báo, vào đời Minh, Vương Tiều làm quan Hữu Đô Ngự Sử dưới thời Vạn Lịch, bị bệnh, con là Khẳng Đường xin cha nghe tụng kinh Kim Cang. Đến câu “vô ngã tướng, vô nhân tướng”, Vương Tiều mỉm cười bảo: “Phiền não vốn không, ngã tướng ở chỗ nào?” rồi ngồi dậy, chắp tay, qua đời.
Tụng đến câu “một Phật, hai Phật”, bà Tiền ngừng thoi.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Minh, vợ ông Tiền Vĩnh Minh ở Tú Thủy là Trương Thị thờ Phật tinh thành, chuyên dốc. Hằng ngày dệt một tấm vải, vừa dệt vừa tụng kinh cả mười quyển, lấy đó làm thường khóa. Một hôm bà Trương mới dệt, tụng đến câu “nhất Phật, nhị Phật, tam, tứ, ngũ Phật nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở, chủng chư thiện căn” ([chẳng phải] gieo thiện căn ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, hay ba, bốn, năm đức Phật, mà là đã ở chỗ vô lượng ngàn vạn đức Phật gieo các căn lành), chợt ngừng thoi, chắp tay. Con dâu cảm thấy lạ, cất tiếng gọi thì bà đã nhắm mắt, ngồi qua đời. Khi ấy nhằm mồng Bốn tháng Bảy năm Canh Thân (1620) đời Vạn Lịch.
Thọ Bát Quan Trai Giới, đỉnh đầu nóng bừng.
Chú thích: Theo Tục Dậu Dương Tạp Trở, đời Đường, vợ ông Hà Chẩn là Lưu Thị trì kinh Kim Cang từ nhỏ, nguyện chỉ sống bốn mươi lăm năm, biết trước lúc mất, nhất tâm bất loạn. Đến năm 45 tuổi, bỏ hết của cải để cúng dường Tăng chúng, giã biệt khắp mọi người thân thích. Hôm Ba Mươi Tết, thỉnh Tăng truyền Bát Quan Trai Giới, tắm gội thay áo, ở riêng một phòng, ngồi xếp bằng tụng kinh. Trong khoảnh khắc, lặng lẽ qua đời, đỉnh đầu nóng bừng cả tay [người sờ vào]. Ông Chẩn mời Tăng làm lễ tang, dựng tháp cạnh lớp tường phụ phía Bắc thành Kinh Châu. Khi ấy nhằm năm Thái Hòa thứ 4 (830).
Niệm danh hiệu bảy chữ, miệng tỏa sáng chói ngời.
Chú thích: Theo Kim Cang Tân Dị Lục, vào đời Minh, vợ ông Vương Đức Dụng là Đào Thị không tin Phật pháp. Bệnh ngặt, thấy quỷ tốt bảo: “Khi ngươi hết tuổi thọ sẽ đọa trong ác đạo”. Chợt địa ngục hiện tiền, bà Đào hết sức hoảng sợ, nhớ vị Tăng đã tụng bảy chữ “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh” bèn tận lực trì tụng đến mấy ngàn biến, địa ngục liền ẩn mất. Trong khoảnh khắc có quang minh năm màu từ miệng túa ra, bèn mất. Trên hư không có tiếng nói: “Đào Thị sanh vào đường lành”.
Hiện bệnh một hôm, người đầy tớ họ Phạm biết chỗ sanh về.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Minh, cư sĩ Vương Tải Sanh lúc nhỏ thấy người đầy tớ họ Phạm ở phường Báo Trung phủ Gia Hưng gánh rau ra chợ, miệng lầm rầm không ngớt, mỗi sáng thức dậy, ắt quỳ tụng vài quyển kinh Kim Cang. Về sau, người ấy xuất gia, làm việc siêng nhọc, chưa từng than mệt. Chợt một hôm, thị hiện bị bệnh, bảo mọi người rằng: “Đời trước, tôi vì tụng kinh Kim Cang biếng nhác nên bị phạt làm đầy tớ của người ta, nay hạn đã mãn, sẽ sanh về nơi tốt lành”, rồi nhắm mắt [qua đời].
Nghe kinh mấy năm, ngỗng trắng đứng qua đời.
Chú thích: Theo Tân Dị Lục, đầu thời Vạn Lịch nhà Minh, các quan Thị Trung Chung Phục Tú và Từ Tôn Thọ cùng sống trong ngõ La Gia ở kinh thành. Biệt viện gồm mấy gian tịnh thất, hai ông xếp chỗ ngồi kế nhau để trì kinh Kim Cang. Có hai con ngỗng trắng đi đứng đều có đôi, nghển đầu nghe tiếng tụng kinh. Mấy năm sau, hai con ngỗng cùng đối trước án kinh, đứng qua đời (trên đây gồm chín cặp, mười tám điều).
Sự tuy kém Lạc Bang, nhưng ắt sanh về đường lành. Đây là công đức chẳng thể nghĩ bàn thứ hai vậy.
3. Được trường thọ
Bèn có: Hiện tượng quang minh, tài thầy bói chẳng linh.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, trong niên hiệu Thiên Giám (502-519) đời Lương, có Viêm pháp sư thuở bé có thầy tướng bảo: “Chỉ thọ được 18 tuổi”. Sư bèn ngày đêm tụng kinh Kim Cang. Một đêm, trong nhà hiện quang minh năm màu, thấy có Phạm tăng bảo: “Ông trì kinh được tăng thọ”. Nói xong, chẳng thấy nữa. Về sau, vào năm chín mươi hai tuổi, Sư ngồi mất.
Đuốc lửa chuyển trên không, em trai tiên đoán.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Đường, vợ ông Trần Quốc Bảo là Lô Thị, là chị của Nhuế Công Khoan, thường tụng kinh Kim Cang. Chưa hết quyển, bị nhức đầu, đến đêm càng đau dữ, sợ chết mà không tụng hết quyển, tìm lửa [để thắp đèn] thì lửa đã tắt. Chợt trong bếp có ngọn đuốc tự di chuyển, cách mặt đất ba thước, lên nhà, vào phòng, bà Lô kinh ngạc, vui mừng, tụng hết kinh. Từ đấy, hằng ngày tụng kinh năm lượt. Về sau, Nhuế Công sắp mất, bảo: “Chị nhờ sức kinh sẽ được trường thọ, sanh về chỗ tốt”. Về sau, năm tám mươi tuổi, bà Lô không bệnh tật mà mất.
Quỷ bày vẽ kế, tăng thọ, làm quan đến Tể Tướng.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Đậu Đức Nguyên làm quan lớn[8], được vua sai sang Dương Châu. Chiều tà, vượt sông Hoài, thuyền đã rời bờ, thấy trên bờ có một người không có thuyền để qua sông, bèn quay thuyền lại chở đi. Thấy người ấy đói, lại cho ăn. Hỏi đi đâu? Người ấy đáp: “Tôi là quỷ sứ, qua Dương Châu bắt Đậu Đức Nguyên”. Đức Nguyên hoảng sợ, lạy hỏi kế sách. Quỷ bảo hãy mau niệm kinh Kim Cang một ngàn quyển. Hơn một tháng đã đủ số. Quỷ mời cùng đi gặp Diêm Vương. Một người áo tía bước xuống bệ, chắp tay chào: “Ngài có công đức lớn, vẫn chưa phải đến đây”, bèn thả về, thì ra đã chết hơn một đêm rồi. Về sau, ông Đậu làm quan đến chức Tả Thừa Tướng, thọ sáu mươi bốn tuổi.
Vua hứa thả về, đuổi quỷ, thọ đến già lụn.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, đời Đường, Vương Đà hằng ngày tụng năm biến kinh Kim Cang. Bị bệnh, thấy quỷ đến, ông tụng kinh, quỷ lui bước, từ xa nói vọng lại: “Vua sai ta đến bắt ông, hãy ngưng tụng kinh”. Ông ngừng tụng bèn hôn mê sắp chết. Lại có một quỷ đến nói: “Vua truyền tạm tha người niệm kinh sáu tháng”. Ông bèn tỉnh lại, trì tụng không thiếu sót, thọ đến chín mươi.
Bà cụ nơi cầu sông Vị, pháp thí trọn khắp thân thích, xóm giềng.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, đời Đường, Ngô Tư Nguyên từng thấy ở cầu sông Vị một cụ già tuổi ngoài tám mươi đang chăm sóc mẹ đẻ. Ông lấy làm lạ, [hỏi thăm] thì cụ già đáp: “Có vị dị tăng dạy mẹ tôi tụng kinh Kim Cang sẽ được trường thọ. Mẹ hằng ngày niệm hai biến, thọ một trăm lẻ bảy tuổi. Dì và bà cụ hàng xóm tụng theo, đều sống hơn trăm tuổi”.
Giám môn tướng quân, được thiện thần ủng hộ.
Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, đời Đường, Ngụy Tuân làm Giám Môn Vệ Đại Tướng Quân, trì kinh Kim Cang. Khi ấy, có Thái Sách Giả chết đột ngột, mấy ngày mới sống lại, nói: “Diêm phủ do bắt người không được, bèn đánh đòn sứ giả. Sứ giả nói: ‘Ngụy Tuân trì kinh Kim Cang, thiện thần ủng hộ, bắt chẳng được’. Thay sứ giả khác thì họ cũng đều báo như vậy”. Ngụy Tuân nghe nói, càng thêm tinh tấn.
Kỳ Hoàn gởi văn thư, thưởng công hai mươi năm .
Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, vào đời Đường, Tôn Minh ở Dương Vũ, Trịnh Châu hằng ngày trì kinh Kim Cang hai mươi biến. Về sau, bị nha lại cõi âm dẫn đến gặp Diêm Vương. Vua nói: “Hôm qua nhận được văn thư từ Kỳ Hoàn gởi tới, [cho biết ông] niệm kinh Kim Cang siêng năng, thành khẩn, tăng thọ hai mươi năm” bèn thả về. Chữ Nhập (廿) đọc là Nhập, nghĩa là hai mươi[9].
Sư viện Bát Nhã, tám mươi vẫn sống khỏe mạnh.
Chú thích: Theo Tục Dậu Dương Tạp Trở, vào đời Đường, sư Pháp Chứng thuộc Bát Nhã Viện chùa Khai Nguyên tại Giang Lăng mỗi ngày trì kinh Kim Cang. Đầu niên hiệu Trường Khánh (821-824), bị bệnh chết, vào cõi âm, thấy có người giống như vua chắp tay, mời Sư ngồi nơi tòa thêu[10], niệm kinh bảy biến. Thị vệ chắp tay, dưới bệ ngưng hình phạt. Vua xuống bệ tiễn về, bảo: “Thượng nhân tăng thọ ba mươi năm”. Vị Tăng tên Thường Tĩnh ở Kinh Châu đích thân thấy Sư sống lại. Pháp Chứng đã tám mươi vẫn còn sống.
Tấn Triều chia sẻ công đức, rốt cuộc khiến đem mận thay đào.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Đổng Tấn Triều thường trì kinh Kim Cang, đem một phần công đức nguyện chia sẻ cho cõi âm. Một đêm, nhằm lúc trăng sáng, thấy ở dưới thành có bốn người bảo nhau: “Nhờ ơn Đổng Tấn Triều đã lâu, làm sao giết được? Bây giờ, trước cửa nhà ông ta có một người cùng họ, cùng tuổi, thọ mạng đã đến, có thể đem thay vào”. Chợt không thấy họ đâu nữa. Đến sáng, nghe nói con của người [hàng xóm] trước cửa đã chết bất ngờ.
Hồng Chánh ngẫu nhiên cùng tên họ, bèn khiến chim hồng vướng lưới cá.
Chú thích: Theo Tống Cao Tăng Truyện, vào đời Đường, vị Tăng tên Hồng Chánh ở một ngôi chùa nơi đất Thục, có họ ngoài đời là Thường, hằng ngày trì hai mươi biến kinh Kim Cang. Vị Tăng ở gần đó là Thủ Hiền ban đêm tịnh tọa, thấy hai con quỷ nói lén với nhau: “Sư Hồng Chánh thầm niệm Bát Nhã, đại thần bảo vệ, chẳng thể đến gần được. Hạn bị trách phạt đã quá gần, đành bắt Thường Hồng Chánh ở cửa Đông là kẻ cũng từng làm Tăng cho xong trách nhiệm”. Thủ Hiền cả kinh, ngày hôm sau hỏi thăm Thường Hồng Chánh thì ông ta đã chết. Chữ Ly (离) phải hiểu là lệ (麗: dính mắc). Kinh Thi có câu: “Ngư võng chi thiết, hồng tắc ly chi”[11].
Chẳng thẹn giường ngự, sa-môn khiến thầy tướng băn khoăn.
Chú thích: Theo Tục Cao Tăng Truyện, sư Trí Tạng là người đời Lương. Do Vũ Đế cấm sa-môn ngồi lên giường ngự. Sư bèn lên tòa, nói: “Ta trước kia là chàng họ Cố ở Ngô Trung còn chẳng thẹn ngồi giường ngự, huống chi nay là con nhà họ Thích có tổ tiên là Định Quang Kim Luân ư?” Vũ Đế cảm tạ, bãi bỏ chiếu lệnh. Có thầy tướng nói: “Sư chỉ thọ được ba mươi mốt tuổi”. Khi ấy, ngài Trí Tạng mới hai mươi chín tuổi, bèn tụng kinh Kim Cang không thiếu sót. Về sau, thầy tướng gặp lại, kinh hãi nói: “Yểu tướng hoàn toàn chẳng còn nữa, đến ngoài sáu mươi mới mất” (Chữ Tạp (卅) âm Tát[12], là ba mươi).
Ngẫu nhiên qua Hà Kiều, mừng vợ hiền trông đợi.
Chú thích: Theo Ký Văn Lục, trong niên hiệu Thiên Bảo đời Đường, Trương Vô Vi đi xa về. Nửa đêm, ngồi nghỉ mệt dưới chân cầu, có mấy chục kỵ sĩ phóng đến cầu liền dừng ngựa, truyền lệnh bắt vợ ông ta và mười mấy người cùng làng như ông Vương v.v… Chỉ có mình vợ Vô Vi đang tụng kinh Kim Cang, cát thần ủng hộ, nên bắt không được. Vô Vi trở về, thấy vợ còn đang tụng kinh, nói: “Anh chẳng thường ngủ lại ở bên ngoài nên em tụng kinh để đợi”. Trời sáng, nghe nhà hàng xóm ở phía Nam có tiếng khóc, ông Vương đã chết rồi! Vợ chồng bèn ăn chay, trì kinh, rốt cuộc được trường thọ.
Mười mấy năm công hạnh hoàn mãn, thọ quá bảy mươi.
Chú thích: Theo Cân Ngự Thừa Tục Tập, trong năm Tân Hợi (1611) thời Vạn Lịch nhà Minh, đại thương gia Hồ Nhiên ở Hoài Bắc đã bốn mươi tuổi mà chưa có con. Có vị Tăng khuyên thí kinh Kim Cang một tạng và chôn cất xương người chết bị phơi bày. Ông làm như thế mười mấy năm, công hạnh hoàn mãn, mời bốn mươi chín vị Tăng cử hành đạo tràng suốt bảy ngày bảy đêm. Về sau, người thiếp sanh được ba con trai, vợ chồng thọ ngoài bảy mươi.
Ba ngàn biến, thiện quả viên thành, tăng thọ mười lăm năm.
Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, vào đời Đường, Tham Quân Điền X… ở Dịch Châu thích săn bắn, trì kinh Kim Cang mấy năm. Chết đột ngột, vào địa phủ, các loài chim, thú vây quanh kín cả mấy mẫu đất đòi mạng. Vua sai tra hỏi, mười người cùng đi đến nha sở. Nha lại truyền há miệng, dùng một hoàn sắt ném vào miệng, liền biến thành lửa nóng. Trong khoảnh khắc, cháy tan thành tro, thân hình lại khôi phục, sáu bảy lượt như thế. Đến phiên ông Điền, đã quăng liên tiếp ba viên mà chẳng cháy. Vua hỏi làm phước nghiệp gì, đáp: “Tụng kinh Kim Cang hơn hai ngàn biến”. Vua truyền hãy tụng, mới tụng được ba trang thì chim thú chẳng thấy đâu nữa. Vua nói: “Tụng đủ ba ngàn biến, thọ thêm mười lăm năm”, bèn tha về.
Tăng Sở Thạch chuyên trì, khuyến hóa, ngang hàng với Bạch Đằng, Vô Cực.
Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, trong niên hiệu Chánh Đức đời Minh, ở Nam Nhạc có vị Tăng tên Sở Thạch chuyên trì kinh Kim Cang. Có ai đến khất pháp, liền dạy trì kinh Kim Cang. Sư thọ 171 tuổi mới hóa. Cùng thời có hòa thượng Bạch Đằng, hòa thượng Vô Cực cũng chuyên khuyến hóa trì kinh Kim Cang. Ngài Bạch Đằng mất năm 130 tuổi, ngài Vô Cực tịch năm 124 tuổi.
Trần Nhập Huyền chóng đốn ngộ trường sanh, chỉ dặn dò gặp Phật bỏ tiên.
Chú thích: Theo Cân Ngự Thừa Tục Tập, trong niên hiệu Tuyên Đức đời Minh, đạo sĩ Trần Nhập Huyền ở Hạc Minh Quán tại Xuyên Tây chí cầu trường sanh, cầu thần truyền pháp. Đêm thấy một người tự xưng là thần Kim Cang, bảo: “Ông hãy qua Mân Sơn, lễ hòa thượng Trí Dung, ngài sẽ truyền pháp cho ông”. Huyền theo đúng lời, đến đó hỏi. Ngài Trí Dung bảo: “Kinh Kim Cang dạy: ‘Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Huyền hỏi: “Đã như bọt, bóng, làm sao nói là trường sanh?” Ngài Trí Dung dạy: “Nếu thấy hết thảy tướng chẳng phải là tướng, tức là thấy Như Lai”. Lại nói: “Tức chẳng phải Như Lai nên gọi là Như Lai”. Huyền đốn ngộ ngay nơi lời ấy, bèn trở về, ẩn trong Hổ Cứ Nham (rặng hổ ngồi) của Ngõa Ốc Sơn, sống đến 98 tuổi. Một hôm, nhóm họp bạn bè bảo: “Thoạt đầu ta dốc chí nơi đạo trường sanh của tiên gia, nay may mắn đạt được sự trường sanh nhà Phật, xin các ông hãy đạt được điều tôi đã đắc”. Nói xong, nhắm mắt, qua đời,
Thiếu Phong lắm con trai, tăng thọ.
Chú thích: Theo Thọ Trì Quả Báo, vào đời Minh, Đặng Thiếu Phong là người Giang Tây, các thầy bói đều bảo: “Ít con, yểu thọ”, bèn phát tâm tụng kinh Kim Cang cầu thọ, cầu con. Năm Nhâm Ngọ (1642) đời Sùng Trinh, ông mất, thọ 95 tuổi, mười ba đứa con trai, ba mươi sáu đứa cháu.
Phùng Cần tích đức, tăng thọ.
Chú thích: Theo Tân Dị Lục, trong niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, người đầy tớ giữ cửa của ông Mao Lộc ở Quy An tên là Phùng Cần, bị đoán là yểu mạng. Một vị Tăng dạy anh ta niệm kinh Kim Cang để tăng thọ, nhặt giấy chữ đem thiêu để tích đức. Phùng Cần thọ trì chẳng biếng nhác. Năm 95 tuổi, không bệnh gì, qua đời, hai con, bốn cháu (trên đây tổng cộng 9 cặp, gồm 18 điều).
Tuy nói yểu, thọ chẳng hai, đủ biết thần cảm đưa tới. Đây chính là công đức chẳng thể nghĩ bàn thứ ba.
4. Được hồi sinh
Bèn có: Vung tích trượng mở thành, Văn Sách nâng chéo áo ca-sa.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Tùy, Mộ Dung Văn Sách ăn chay, tụng kinh Kim Cang. Một hôm, chết đột ngột, vào cõi Âm. Diêm Vương chắp tay, khen ngợi công đức rất lớn, sai thả về. Chợt thấy hai vị Tăng cầm đuốc dẫn đường cho Văn Sách, liền kéo chéo áo ca-sa hỏi. Vị Tăng nói: “Do ông trì kinh nên chúng tôi đến bảo vệ, hãy nên đi theo ánh đuốc”. Ra khỏi cửa thành, Tăng bèn chỉ một ngôi thành lớn, bảo: “Đấy là địa ngục”. Văn Sách chẳng nỡ nhìn, đến một con đường có bức tường ngang chắn lối. Vị Tăng dùng tích trượng gõ vào, tường liền tách ra, bảo: “Nên đi theo lối này” liền sống lại.
Nghe kinh trở về nhà, Nghĩa Phương vẽ tranh địa ngục.
Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời Đường, Thứ Sử Quát Châu là Nhậm Nghĩa Phương người xứ Lạc An, chết trong niên hiệu Vũ Đức, mấy ngày sau, sống lại, tự kể: “Bị dẫn đến gặp Diêm Vương, vua truyền coi địa ngục, chẳng khác gì trong kinh Phật đã dạy. Dưới đất ngày hay đêm đều tối tăm, như đi trong sương mù. Người nhà do thấy Nghĩa Phương tim còn ấm nên mời tăng tụng kinh Kim Cang. Nghĩa Phương liền nghe tiếng, Diêm Vương thấy tuổi thọ chưa hết nên thả về. Người đưa về dặn: “Cứ theo tiếng tụng kinh sẽ về đến nhà”. Đã sống lại, do bàn đến chuyện địa ngục bèn vẽ tranh tả cảnh địa ngục.
Em gái Vương Tùng Quý đã đắp mộ, nghe tiếng rên rỉ bèn mở ra xem.
Chú thích: Theo Dậu Dương Tạp Trở, trong niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường, em gái Vương Tùng Quý ở thôn Sạn Lăng, huyện Công An, thường trì kinh Kim Cang. Đột nhiên bạo bệnh chết, chôn đã ba ngày, người nhà viếng mộ, nghe trong mộ có tiếng rên rỉ, mở hòm ra xem, quả nhiên còn thở. Chở về nhà mấy ngày mới nói được, kể: “Cõi Âm do thấy tôi trì kinh có công đức nên cho về”.
Con gái Lý Nguyên Nhất chết nơi biệt viện, nhờ chép, đọc mà nói được.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, trong niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường, quan Tư Mã xứ Nhiêu Châu là Lý Nguyên Nhất có đứa con gái sống ở biệt viện, chết đột ngột. Chồng cô ta là Nghiêm Nột thấy hồn vợ ở trên mặt nước Thương Hồ, nói năng như còn sống, dặn chồng hãy thay mình cầu khẩn Nghiêm phu tử ở thôn Nhạn Phố. Ông Nghiêm bèn dạy chép kinh Kim Cang, thỉnh Tăng tụng niệm bảy biến. Cô ta quả nhiên mở mắt, trong khoảnh khắc có thể nói được.
Săn bắn hại mạng, may rút kinh mà được hiệu nghiệm.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Lý Khưu Nhất làm quan tại huyện Cao Bưu, Dương Châu, thích đem chim ưng và chó đi săn. Một hôm, chết đột ngột, bị lôi đến gặp Diêm Vương. Các loài chim thú nói tiếng người đòi mạng. Ông Lý nói: “Tôi từng chép một quyển kinh Kim Cang”. Vua sai lục trong kinh tạng, quả nhiên là thật. Vua chắp tay nói: “Công đức ấy tối thượng”, bèn gọi những con vật đã bị giết lại để trình bày, xin [chúng cho ông Khưu Nhất] tạ lỗi, Khưu Nhất nguyện chép một trăm quyển kinh nữa, ai nấy đều hoan hỷ cho về. [Khưu Nhất] thân đã nằm trong quan tài, tung nắp hòm ngồi dậy. Thứ Sử Dương Châu tâu chuyện này lên. Vua hạ chỉ thăng Khưu Nhất lên Ngũ Phẩm, giữ chức Chiêu Thảo Sứ ở Gia Châu.
Người dê đổi lốt, hứa thôi ăn thịt được hồi sinh.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Diêu Đãi ở Tử Châu trì kinh Kim Cang, lại còn vì mẹ tạo một trăm bộ kinh. Có người giết dê, gọi Diêu Đãi đến ăn, [ăn xong] liền chết ngay, gặp Diêm Vương hỏi: “Sao lại ăn thịt?” Diêu Đãi thưa: “Tuy ăn thịt vẫn trì kinh”. Vua khen là lành, dạy hãy thôi ăn thịt, bèn cho sống lại.
Lô Thị lên tòa cao, cười gã áo vàng bắt lầm.
Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, trong niên hiệu Khai Nguyên đời Đường, ở Hoạt Châu có Lô Thị trì kinh Kim Cang. Một hôm bị hai người mặc áo vàng bắt vào cõi âm, thấy mấy chục người đều mặc áo đội mão, phía sau họ quá nửa là nằm trong lưới, hoặc không có áo, hoặc đầu trần. Nha lại nói: “Người lành thì có áo mão, những kẻ ở trong lưới đều do mắc tội nặng. Nếu vì họ thuyết pháp, họ đều được lên cõi trời. Lô Thị liền ngồi trên tòa cao, tụng tên kinh Kim Cang, những kẻ ở trong lưới đã ngoi đầu ra, tụng đến nửa kinh, họ đều thoát ra ngoài đất. Tụng kinh xong, họ vãng sanh hết. Diêm Vương gọi Lô Thị là “pháp sư”, cho sống lại.
Đậu công ngẫu nhiên tạo thuyền từ, được người áo tía bước xuống bệ, vái lạy.
Chú thích: Xem lời chú thích trong câu thứ hai của phần số 3 “đắc trường thọ”, tức câu “quỷ vì tính kế”.
Ắt phải cấm ăn hạt Ý Dĩ, điều khai giá trong Luật càng nghiêm.
Chú thích: Theo Dậu Dương Tạp Trở, trong niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường, vị Tăng tên Trí Đăng ở chùa Thiên Sùng tại Kinh Châu trì kinh Kim Cang, bị bệnh chết. Bảy ngày sau sống lại, nói: “Do niệm kinh nên Diêm Vương bước xuống bệ chắp tay đón, nói: “Thượng nhân còn ở đời mười năm, hãy gắng thoát sanh tử”. Vua lại nói các vị Tăng trong nhân gian sau Ngọ ăn hạt Ý Dĩ[13] và dùng các thứ thuốc, điều này trái nghịch Phật giáo rất lớn. Trí Đăng thưa: “Trong Luật có những điều khai giá[14]”. Vua bảo: “Đấy là do người đời sau thêm vào, chẳng phải là ý Phật”. Hiện thời, chư Tăng ở Kinh Châu sau Ngọ không uống thuốc.
Lá sen làm thức ăn, công đức của kinh khôn sánh.
Chú thích: Theo Tống Cao Tăng Truyện, đầu thời Đường Chiêu Tông, sư Thích Ninh chết đột ngột, ba ngày sau sống lại, kể: “Vào cõi âm, phán quan nói: – Hòa thượng tuổi thọ hãy còn nhưng không có lộc, chỉ có ba thạch lá sen khô. Nay trở về dương gian, hãy nên tụng nhiều kinh Kim Cang, cứu vớt cõi âm, công đức khôn sánh”. Thích Ninh sau khi sống lại, hằng ngày chỉ uống canh lá sen.
Niệm trước đừng bỏ, Cao Thiệp may được trở về.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, mùa Đông năm Thái Hòa thứ 7 (833) đời Đường, Cấp Sự Trung Lý Công Thạch làm Hành Quân Tư Mã ở Thái Nguyên. [Thuộc hạ của Lý Công Thạch] là Khổng Mục[15] Cao Thiệp ban đêm bị một người chém, dẫn vào cõi âm. Thiệp hoảng sợ, chỉ niệm kinh Kim Cang, gặp quan Điển Sứ xưa kia là Đoàn Di Tiên, từng là anh em kết nghĩa với Thiệp, bảo: “Kinh Kim Cang đã niệm trước đây đừng để quên mất. Nay ngươi được trở về chính là do sức kinh”. Do vậy bèn đưa về tới nhà, thì đã chết qua một đêm rồi. Chỗ bị chém xanh bầm mấy ngày.
Đối diện tụng chẳng sót, Văn Xương được trở về.
Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, năm Khai Hoàng thứ 11 (591) đời Tùy, Đại Phủ Tự Thừa là Triệu Văn Xương chết đột ngột, đến chỗ vua Diêm La. Vua do thấy ông ta chuyên tâm trì tụng kinh Kim Cang, khen ngợi: “Lành thay!” Sai lấy kinh Kim Cang từ trong kinh tạng mang đến chỗ vua. Một người cầm quyển kinh đứng ở phía Tây, Văn Xương đứng ở phía Đông, đối trước kinh đọc tụng, chẳng sót một chữ, bèn thả về. Vua sai dẫn Văn Xương đi theo cửa Nam ra, thấy Châu Vũ Đế[16] trong căn phòng ở bên cửa, đeo ba tầng gông xiềng, kêu Văn Xương bảo: “Ta diệt Phật pháp, tội nặng, xin hãy báo với hoàng đế nhà Tùy tạo một chút công đức cho ta ngõ hầu thoát được địa ngục”. Đến khi ra, thấy một hầm phân to, bên trong có đầu người nhô lên. Hỏi ra thì đấy là Bạch Khởi[17], tướng nhà Tần! Văn Xương về đến nhà, sống lại, liền tâu lên vua. Vua truyền trong thiên hạ mỗi người bỏ ra một đồng vì Châu Vũ Đế tụng kinh Kim Cang, lập đại trai đàn cúng dường ba ngày.
Nợ một ngàn năm trăm đồng, Phật Nhi suýt biến thành chó vá.
Chú thích: Theo Thọ Trì Linh Nghiệm Ký, con gái ông Trương Ngọc ở Sơn Tây tên là Phật Nhi thích tụng kinh điển. Một hôm, chết đột ngột, nửa ngày sau, sống lại, kể: “Bị hai con quỷ bắt qua Xoa Lãnh, trước hết thấy quỷ dùng mền đen bọc hai người bỏ vào nhà họ Trần. Lại dùng cái mền hoa bọc con và nói: ‘Mày nợ ông ta một ngàn năm trăm đồng, nay phải qua đó trả nợ’. Chợt một người áo xanh lục chặn đằng trước, bảo: ‘Người này niệm kinh Bát Nhã, hãy dung thứ’. Do vậy, trợt chân ngã xuống đất, bèn tỉnh lại”. Cha cô ta qua Xoa Lãnh hỏi thăm, quả nhiên trong nhà họ Trần sanh ra ba con chó, hai con đen, một con vá vừa rớt xuống đất liền chết.
Nghe kinh tới phần thứ mười lăm, nghé trắng trở lại thành Trâu Chẩn.
Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, vào đời Minh, Trâu Ách ở Côn Sơn thỉnh tăng tụng kinh Kim Cang. Em trai là Chẩn nghe kinh tới phần thứ 15, khen hay, bảo: “Trong đạo Nho ta không có điều này”. Về sau, [Trâu Chẩn] mắc bệnh, bất tỉnh nhân sự nửa tháng, chỉ có trước ngực là còn chưa lạnh. Chợt tỉnh lại, ngồi dậy nói: “Em làm trâu trong nhà Lý Tác Phường ở ngoài Xương Môn, khắp thân trắng toát, thấy thần Kim Cang nói: ‘Người này từng nghe kinh Kim Cang, sao lại vào trong loài này?’ Dùng xử báu gõ vào đầu trâu, tôi liền tỉnh lại, tự cảm thấy đỉnh đầu còn hơi rêm”. Hỏi ra thì trong nhà họ Lý quả nhiên có con nghé trắng mới sanh ra liền chết.
Vạn Doanh ngẫu nhiên gặp bậc chí nhân, do ánh sáng biết đường.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, trong năm Nguyên Hòa thứ 7 (812) đời Đường, người ở thành phố Kinh Triệu là Du Vạn Doanh trong nhà có một con rắn độc to, đem giết ăn thịt, bèn bị đau phổi rồi chết. Bảy ngày sau sống lại, nói: “Thoạt đầu tôi bị sứ giả cõi âm bắt, đi trong bóng tối mười mấy dặm, thấy một người niệm kinh ánh sáng tỏa quanh thân, chiếu ra bốn phía tới mấy thước, kêu Doanh đi theo, bảo: – Tôi niệm kinh Kim Cang, ông đừng rời tôi thì sứ giả chẳng dám tới gần, dần dần chẳng thấy [sứ giả] đâu nữa”. Về đến nhà, Vạn Doanh bái tạ: “Chẳng gặp bậc chí nhân, quyết chẳng trở về được!” Do vậy, đoạn rượu thịt, hằng ngày tụng năm mươi biến kinh Kim Cang.
Vua ca ngợi, chánh kiến ban pháp trọn khắp, dưới bệ ngưng tra khảo.
Chú thích: Xin xem câu thứ tư trong phần thứ ba “được trường thọ” nơi đoạn trước, tức lời chú thích cho câu “vị tăng viện Bát Nhã”.
Tội nghiệt về nơi rừng kiếm, may gặp vị tăng chứng quả.
Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, trong niên hiệu Vũ Đức đời Đường, Tô Văn Trung ở Trường An giàu có, nhưng bất nhân. Tới già, té nhà cầu mà chết. Con là Nhân Khâm mặc sức nấu nướng, sát hại, âm phủ giam hồn hắn trong địa ngục nên bị bệnh nặng kinh niên, thấy chúng sanh đòi mạng rồi chết. Diêm Vương sai dẫn lên núi đao, rừng kiếm, chợt có vị Tăng tên là Thần Kính cầm kinh Kim Cang đến, bảo vua: “Kinh này do Nhân Khâm thí, Tăng tụng kinh bèn chứng quả, xin giảm tội cho hắn”. Vua khen tốt lành, cho trở về dương gian. [Nhân Khâm] liền in tặng ngàn quyển, mộng thấy cha nói: “Ta ở trong địa ngục, nhờ con thí kinh nên cùng với vong hồn tổ tiên bảy đời được siêu sanh thiên giới”.
Người vàng lay tích trượng, mừng nhớ lời nguyện thêu kinh.
Chú thích: Theo Cân Ngự Thừa Tục Tập, đầu thời Sùng Trinh nhà Minh, cháu gái của Đường Thời gả cho Dương Vân, bị góa bụa, bèn ăn chay trường, phát nguyện thêu kinh Kim Cang. Chưa thỏa nguyện đã mất, cảm thấy ngã xuống đất, khắp thân tuôn máu. Chợt thần kim giáp rung tích trượng một tiếng, hỏi: “Ngươi có nhớ điều nguyện thêu kinh hay chăng?” Đáp: “Nhớ ạ!” Lại rung tích trượng, hỏi: “Có thêu được hay không?” Đáp: “Con muốn thêu”. Bèn thả về. Thêu xong, bệnh cũ bèn lành. (Trên đây tổng cộng chín cặp, gồm mười tám điều).
Đây là chiếc bè độ người, cũng chính là Phản Hồn Hương. Đây là công đức chẳng thể nghĩ bàn thứ tư vậy.
Chú thích: Mùi thơm của Phản Hồn Hương lan đến đâu, người chết đều sống lại.
5. Lành bệnh tật
Bèn có: Liếm mắt mẹ hiền, quáng lòa lại sáng.
Chú thích: Theo Kim Cang Chứng Quả, trong niên hiệu Vũ Đức đời Đường, Trần Chiếu ở Giang Lăng ăn chay, trì kinh Kim Cang. Mỗi ngày bên cạnh tòa có con rắn to đến nghe, người hàng xóm là Điêu Xương ngờ là yêu quái bèn giết chết. Rắn kiện dưới âm ty, bắt Xương đến cho rắn quấn quanh thân cắn mổ. Điêu Xương báo mộng với vợ: “Rắn phải nghe kinh đủ một trăm quyển thì sẽ có thể bay lên, chỉ còn thiếu bảy quyển thì ta lầm lẫn giết chết. Hãy mau thỉnh tăng chép bảy quyển kinh Kim Cang, sám hối cứu ta”. Vợ nghèo, bèn bán đứa con năm tuổi để làm [công đức ấy]. Từ đấy, [thương nhớ] khóc con mù mắt, hằng ngày tụng kinh Kim Cang đi xin ăn. Đứa con sang đất Thục (Tứ Xuyên) ba mươi năm, cha mẹ nuôi đều mất, do vậy, trở về Giang Lăng, liếm lên mắt mẹ, hai mắt đều sáng lại.
Quỷ thai tiêu giận, vĩnh viễn hết mộng thấy chung đụng.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, vợ ông Trần Huệ là Vương Thị lúc chưa xuất giá, anh họ[18] là Chử Kính cầu hôn, [gia đình] không chấp thuận. Kính giận dữ, nói: “Ta làm quỷ ắt sẽ đến khuấy”. Cô Vương xuất giá, Kính chết. Vương mộng thấy Kính, cấn thai, hơn một năm vẫn chưa sanh, bèn trì kinh Kim Cang, hồn Kính lẫn quỷ thai đều tiêu.
Long Nghĩa hủy kinh bị câm, rạch lưỡi lại nói được.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, trong niên hiệu Trường Khánh đời Đường, Câu Long Nghĩa ở Khai Châu thấy người khác chép kinh Kim Cang, vô cớ hủy mất, liền bị câm bặt. Năm sáu năm sau, nghe hàng xóm tụng kinh này, giật mình tự trách, nép sát vào vách để nghe. Hơn tháng sau, ngẫu nhiên vào chùa, gặp một vị Tăng bèn lễ, [Tăng] hỏi chuyện gì, [Long Nghĩa] chỉ vào miệng, Tăng dùng dao khứa vào lưỡi bèn nói được, lại còn niệm kinh tiếng giống hệt như người hàng xóm. Về sau, ông Câu đến thăm vị Tăng ấy chẳng thấy nữa, chỉ thấy có hình ngài Tu Bồ Đề vẽ trên vách. Do vậy, bèn chép kinh và vẽ hình ngài Tu Bồ Đề, suốt đời lễ bái.
Vương Xưng ăn thịt chó bị lòa, khoét tròng lại thấy.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, trong niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường, Vương Xưng ở Tấn Châu ăn thịt chó, mắt bèn lòa. Mấy năm sau, gặp một vị Tăng khuyên chép kinh Kim Cang. Nghe theo, chép bảy quyển, thỉnh Tăng dạy tụng mấy ngày, mộng thấy vị Tăng khi trước cầm dao khoét tròng mắt, hoảng sợ tỉnh giấc thì thấy được, mắt sáng lại.
Ngựa khó thể thay bước, nhờ vào mấy tờ kinh.
Chú thích: Theo Dậu Dương Tạp Trở, đầu niên hiệu Vĩnh Thái đời Đường, phong tử[19] ở Phong Châu buổi tối ra ngoài ải bị bọn Đảng Hạng[20] bắt đem về Tây Phiên nuôi ngựa. Sống ở đấy một năm, mộng thấy mẹ, muốn trở về, nhưng luật của người Phiên rất ngặt, không có lệ tha về. Tướng Phiên khá nhân từ, lén cho hai con ngựa, bảo hãy đi đi. Phong tử bắt ngựa chạy quá sức, cả hai con đều chết, bèn ngày núp, đêm đi. Chân lại bị [sỏi đá] đâm bị thương, gục ngã trong sa mạc, chợt có gió thổi vật gì lướt qua trước mặt, do vậy nắm lấy để buộc chân, trong khoảnh khắc không còn đau đớn nữa, bèn lên đường. Về được nhà gặp mẹ, mẹ nói: “Kể từ sau khi con bị mất tích, mẹ chỉ niệm kinh Kim Cang. Do thỉnh kinh để lạy, đường chỉ khâu các trang kinh bị đứt, mất mấy trang, chẳng biết vì lẽ nào?” Đến khi con kể với mẹ chuyện chân bị thương, tháo băng ra nhìn thì vật để buộc vết thương chính là mấy trang kinh vậy!
Cọp liếm vết thương, chỉ trì bốn câu kệ.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, trong niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường, Cường Bá Đạt ở Phòng Châu, dòng họ đời đời mắc ác tật cùi hủi đã hai trăm năm. Bá Đạt mắc bệnh năm 20 tuổi, tự biết chẳng khỏi được, bèn xin cha anh sắp đặt lương thực, đưa đến ẩn dưới gộp đá trong núi. Chợt có vị tăng đi qua, thương xót, dạy hãy niệm bốn câu kệ trong kinh Kim Cang. Niệm mấy ngày, có con cọp đi đến, Bá Đạt nhắm mắt chí thành niệm. Cọp bèn liếm quanh chỗ lở loét, [cảm thấy] mát mẻ như được đắp thuốc. Hồi lâu sau, cọp bỏ đi, vết thương đã khô miệng. Ngày hôm sau, vị Tăng lại đến trao cho một ôm cỏ xanh, bảo trở về nhà, nấu nước tắm. Trở về nhà tắm liền hết lở loét, ác tật vĩnh viễn chấm dứt.
Nhận nước sôi trong vạc chừng mấy giọt, xoa lưng lành vết loét.
Chú thích: Theo Chứng Quả Lục, vào đời Tống, huyện úy Vương Địch Công thích săn bắn, vợ trì kinh Kim Cang, gắng hết sức khuyên ông Vương tụng niệm, ông bèn tụng một biến. Về sau, bị bệnh chết, vào cõi âm, phải vào Hoạch Thang địa ngục (địa ngục vạc sôi). Do từng tụng kinh một biến, Diêm Vương phán: “Dẫu là điều lành bé tẹo, cũng đáng khen thưởng trọng hậu, phạt nhẹ rồi thả về”. Vua truyền đem một ít nước sôi từ trong vạc xối lên lưng, rồi thả, ông Vương bèn sống lại. Lưng nổi vết lở loét. Ông bèn thề ăn chay trường, trì kinh. Về sau mộng thấy thần tăng xoa lưng, ba ngày sau bèn lành.
Mửa con giun to, dài hơn khủy tay, mở họng khêu tóc.
Chú thích: Theo Tục Dậu Dương Tạp Trở, trong niên hiệu Trường Khánh đời Đường, sư Hội Tông ở Công An, Kinh Châu, bị trúng cổ trùng gần chết, bèn niệm kinh Kim Cang đến năm mươi biến, mộng thấy có người bảo há miệng ra, từ trong họng lôi ra mười mấy cọng tóc, lại mộng thấy ói ra một con giun to dài hơn một khủy tay, bệnh liền khỏi.
Lớn tiếng tán dương, mắt Châu Chi Trình bị lộn tròng lại ngay ngắn.
Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, vào đời Minh, Châu Chi Trình ở Côn Sơn bị mù lúc năm mươi tuổi, tròng mắt xoay ngược, đổi thành sắc biếc. Do vậy, hằng ngày tụng kinh Kim Cang ba quyển, lớn tiếng tán dương suốt mười lăm năm, tròng mắt xanh dần dần xoay lại, hai con mắt dần dần hết sắc xanh.
Chuyên tâm trì tụng, Bộc Vương Thị mắt mù lại sáng.
Chú thích: Theo Kim Cang Cảm Ứng, vào đời Minh, vợ tường sanh[21] Bộc Khả Trọng là Vương Thị do khóc con thành lòa, bèn chuyên tâm trì tụng kinh Kim Cang mấy năm, chợt mắt trái chảy nước, đau như bị cắt xẻ, đột nhiên sáng lại, mấy hôm sau, mắt phải cũng thế.
Thừa Tín bị loét bao tử, thí ngàn quyển được viên thuốc thần.
Chú thích: Theo Kim Cang Chứng Quả, trong niên hiệu Thiệu Hưng đời Tống, Tống Thừa Tín ở Hoa Đình bị loét bao tử đã lâu chẳng lành. Mộng thấy vị Tăng bảo: “Phàm ai tạo các ác nghiệp, nha lại cõi Âm bắt thần hồn họ khảo tra trong cõi âm nên thành bệnh tật như điên cuồng, bại liệt, lao, thọt chân, mù, điếc, câm, ngọng, thuốc men chữa chẳng lành, hết tuổi thọ bèn chết, nhân quả chẳng sai sót chừng mảy tóc! Ông do oán nghiệp nên phải hứng chịu bệnh khổ này. Ta với ông có túc duyên, nên đặc biệt đến báo cho biết. Nếu có thể trì kinh Kim Cang hoặc chép kinh, khuyên người khác niệm thì sẽ cảm âm quan thả hồn, bệnh sẽ có thể lành”. Tỉnh giấc liền in tặng một ngàn quyển, nguyện suốt đời kiền thành tụng niệm, bèn mộng thấy thần Kim Cang ban cho một viên thuốc, uống vào liền khỏi bệnh.
Tư Nguyên có công đuổi quỷ, tụng ba ngày bệnh anh được lành.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Ngô Tư Nguyên làm quan Thái Học Bác Sĩ[22] đời Võ Tắc Thiên. Ông trì kinh Kim Cang. Có gã đồng cốt tên là Chử Tế Nhi đoán sự việc như thần. Tư Nguyên bèn đến xem, Tế Nhi kinh hãi, nói: “Ông có thuật gì mà quỷ trông thấy đều bỏ đi hết?” Tư Nguyên biết là do sức của kinh, càng thêm tinh tấn gắng công. Anh ông bị bệnh, thuốc thang vô hiệu, Tư Nguyên chí tâm trì tụng, ba ngày sau liền lành. (Trên đây tổng cộng 6 cặp, gồm 12 điều).
Ấy là vì Như Lai vốn là vô thượng y vương, kinh này chính là diệu dược Già Đà. Đây là công đức chẳng thể nghĩ bàn thứ năm vậy.
Chú thích: Già Đà, nói đủ là A Già Đà (Agada), là tên một loại thuốc, dịch nghĩa là Phổ Khử, [hàm nghĩa] trừ được các thứ bệnh vậy.
6. Cứu khỏi bị giết chóc
Bèn có: Thứ sử Hoàng Châu không có tên trong danh sách.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Thứ Sử Hoàng Châu là Đỗ Chi Lượng trong niên hiệu Nhân Thọ đời Tùy làm Tham Quân trong phủ của Hán Vương Lượng. Hán Vương Lượng[23] làm phản, đánh chiếm Tinh Châu, nhưng thất bại, liêu thuộc đều bị hạ ngục. Đỗ Chi Lượng mộng thấy một vị Tăng bảo: “Chỉ có tụng kinh Kim Cang thì mới thoát được tai ách này”. Chi Lượng bèn giữ lòng thành trì niệm. Đến khi sắp bị dẫn ra xử trảm, những người được gọi tên đều bị chết, chỉ có mình Chi Lượng không có tên trong danh sách ấy nên thoát chết. Không lâu sau lại được phóng thích.
Trung Thư nước Tùy trước điện được tha
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, Tiêu Vũ là chắt của Lương Vũ Đế, làm quan cho nhà Tùy đến chức Trung Thư Lệnh, tước phong là Tống Quốc Công. Do bàn luận chuyện chinh phạt Cao Ly[24] chẳng hợp ý vua nên cùng với Hạ Nhược Bật, Cao Quýnh đều bị tống giam, sắp đem ra chém. Trong tám hôm bị giam cầm, ông Vũ niệm kinh Kim Cang bảy trăm biến. Đến hôm sau, gông xiềng chợt tự tuột, kẻ canh giữ thất sắc, xiềng chặt lại. Đến trước điện, chỉ mình ông Vũ được tha. Do vậy, bèn soạn mười tám điều linh nghiệm của kinh Bát Nhã, và khắc bảo tháp bằng gỗ đàn hương để đựng kinh, tháp cao ba thước, cảm được một tượng bằng thâu thạch[25] chợt hiện trong sân, đem thờ trong tháp, thu được một trăm hạt xá-lợi. Năm Trinh Quán 11 (637), ông thấy Phổ Hiền Bồ Tát bèn thong dong đi về Tây.
Kiếm đâm xuống, hiện hoa ngũ sắc, giặc bảo là thánh nhân.
Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, vào đời Đường, Trần Triết người xứ Lâm An, sống ở Dư Hàng, trì kinh Kim Cang. Gã giặc cỏ Châu Đàm cướp phá Lâm An. Triết gặp phải bọn giặc chặn lối. Bọn giặc tranh nhau dùng gươm đâm. Cứ mỗi nhát kiếm đâm xuống liền có viên quang ngũ sắc chiếu xa năm sáu thước che chở thân ông Triết nên [lũ giặc] chẳng thể đâm trúng được. Bọn giặc kinh hãi, than thở, bảo [ông Triết] là thánh nhân, bỏ đi.
Thoát gông, phóng ánh sáng cả chục trượng, hoàng đế nghe danh.
Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, đời Đường, một tử tù ở huyện Trường An bị nhốt vào ngục hơn bốn mươi ngày, tụng kinh Kim Cang không ngớt. Lúc sắp bị xử tử, xiềng gãy, gông tuột, đầu gông phóng quang chiếu xa mấy chục trượng, sáng rực cả huyện. Huyện lệnh tâu lên Đường Huyền Tông, vua bèn tha tội.
Kim Cang bất hoại, trăm phát tên vô ích.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Đường, viên nha lại ở phủ Chiết Tây là Từ Kỷ nhà cực giàu, hằng ngày tụng kinh Kim Cang. Có một trăm tên giặc đến cướp nhà ông ta, trói ông Kỷ lại, đem bắn tên. Ông Kỷ nói: “Thân Kim Cang bất hoại thì nay sẽ như thế nào?” Trong khoảnh khắc thấy Phật hiện trên không trung, bắn cả trăm mũi tên mà chẳng trúng mũi nào. Bọn giặc kinh sợ, biết là do ông ta tụng kinh nên đều rút lui, bỏ nghề.
Đốt trúc có vết, chém xuống ba đao đều gãy.
Chú thích: Theo Tống Cao Tăng Truyện, vào đời Đường, ông Tào X… ở Lô Lăng trì kinh Kim Cang, thường dùng ống trúc đựng kinh để đem theo. Khi ấy, có loạn An Sử (An Lộc Sơn)[26], Thứ Sử Lưu Ninh bắt lính rất ngặt. Ông Tào bị bắt vào lính, giao cho làm tiểu tướng trong quân đội. Do trái lệnh nên bị bắt, đem xử tử. Đao chém xuống ba lần đều gãy, ông Lưu lấy làm lạ, tra hỏi. Ông Tào thưa: “Tôi trọn mang chí hướng xuất gia, thầm trì kinh pháp”. Hỏi: “Kinh ở đâu?” Đáp: “Khi bị bắt đã đánh mất”, bèn tìm được [ống trúc đựng kinh] ngoài trăm bước chân. Ống trúc có vết đao chém sâu xuống gần như đứt lìa. Ông bèn xuất gia làm Tăng, hiệu là Tam Đao pháp sư.
Mũi tên lọt vào bụng Quốc Anh, Hồ tăng cho thuốc.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, đời Đường, vào đầu thời Đại Lịch, lúc Thôi Ninh trấn giữ đất Tây Thục gặp phải Dương Lâm làm phản. Dũng sĩ Trương Quốc Anh thường trì kinh Kim Cang ra trận chiến đấu, bị tên bắn trúng bụng, đầu mũi tên ngập sâu, không lấy ra được. Thầy thuốc nói ắt sẽ chết. Đến đêm, Quốc Anh mộng thấy một vị Hồ tăng cho một viên thuốc, đến sáng, đi tiêu ra mũi tên, vết thương liền lành miệng.
Quân làm phản trong sân Tề Khâu, bị thần nhân trừng mắt.
Chú thích: Theo Tục Dậu Dương Tạp Trở, đầu niên hiệu Vĩnh Thái đời Đường, Tiết Độ Sứ phương Bắc là Trương Tề Khâu, mỗi ngày trì kinh Kim Cang mười lăm biến, mấy chục năm chẳng biếng nhác. Một hôm, một viên tiểu tướng trong nha môn mắc tội, sợ sự việc lộ ra, bèn xúi giục mấy trăm quân nhân làm phản. Mười mấy tên lính tuốt đao bén vào dinh, đều đứng sững giữa sân, thõng tay, há hốc miệng, buông rơi binh khí xuống đất, đều bị bắt giữ. Năm sáu tên bị câm không nói được, những tên còn lại đều nói thấy có hai giáp sĩ cao mấy trượng, trừng mắt quát tháo, bọn chúng đều như bị trúng tà. Do đó, Tề Khâu bèn đoạn rượu thịt.
Bị giết, chìm nơi đáy biển, tiếng vọng đến tăng chúng trong chùa.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, đời Đường có một phú thương hằng tụng kinh Kim Cang, thường mang quyển kinh theo. Ông ta từng buôn bán ở ngoại quốc, đêm ngủ nơi hải đảo. Các lái buôn tham muốn tài sản của ông ta bèn cùng nhau sát hại bằng cách nhét ông ta vào một cái sọt lớn, bỏ thêm một tảng đá to, đem cả cuốn kinh cùng nhận chìm xuống đáy biển. Bình minh, lũ lái buôn nhổ neo, nhưng ở hòn đảo họ đậu thuyền hồi đêm có một ngôi chùa. Tăng chúng mỗi đêm nghe có tiếng người niệm kinh Kim Cang, tiếng vang lên từ đáy biển, lấy làm lạ, bèn sai người lặn giỏi xuống nước tìm, bèn lôi cái sọt lên. Anh lái buôn nói: “Bị giết dìm xuống đáy biển, chẳng biết là ở trong sọt, chỉ cảm thấy thân ở trong cung điện, thường có người đưa đồ ăn uống tới, an lạc tự tại”. Anh ta bèn xuống tóc làm tăng, xuất gia tại ngôi chùa trên hải đảo.
Bị chém lại trở về nhà, người nhà kinh hãi ngỡ là quỷ quái.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, trong niên hiệu Càn Phù đời Đường, Tiết Độ Sứ Duyện Châu là Thôi Thượng Thư, luật lệ nghiêm khắc. Một viên tướng không đến dinh đúng hạn, ông Thôi bèn hạ lệnh xử trảm ngoài cửa dinh. Vị tướng ấy bị chém xong, vẻ mặt chẳng đổi. Canh ba đêm ấy liền trở về nhà. Vợ con kinh hoảng tưởng là quỷ hiện. Viên tướng nói: “Thoạt tiên khi bị chém đầu, như say, như mê ngủ, chẳng đau đớn gì hết. Nửa đêm, nhận biết thân đi đến giữa đường, do gần nhà nên trở về”. Sáng sớm, viên tướng trở vào dinh tạ lỗi, ông Thôi kinh hãi, ngỡ là huyễn thuật. Viên tướng nói: “Trọn chẳng phải là huyễn thuật, tôi chỉ có đọc kinh Kim Cang từ nhỏ, mỗi ngày ba biến. Ngày hôm qua do tụng kinh nên đến trễ”. Họ Thôi ra lệnh lấy kinh tới. Đem kinh đến thì hộp kinh trông vẫn như cũ, nhưng cuốn kinh đã đứt làm hai đoạn. Ông Thôi hết sức kinh hãi, liền ban áo, sai chép một trăm quyển kinh để cúng dường. Hiện nay ở ngoài cửa chùa Diên Thọ tại Duyện Châu chính là chỗ viên tướng ấy bị xử trảm, hình tượng cuốn kinh bị chém đứt vẫn còn.
Thành Phi Hồ chẳng muốn bị giặc nhuộm máu, trên thành hiện người khổng lồ hùng mạnh.
Chú thích: Theo Tuyên Thất Chí, vào đời Đường, Ninh Miễn trì kinh Kim Cang, từng làm Nha Tướng ở Bắc Đô, đem bốn ngàn quân trấn thành Phi Hồ. Khi ấy, tướng chỉ huy Kế Môn làm phản, nửa đêm vây đánh thành Phi Hồ. Quân của ông Miễn chống không lại. Người dân Phi Hồ chẳng muốn cha con, anh em bị giặc tắm máu. Ông Miễn còn do dự chưa quyết, chợt có tin báo quân giặc tự vỡ, quăng giáp, lùi khỏi thành. Ông Miễn mở cửa thành đuổi theo, bắt sống mấy chục trên, tra hỏi. Tù binh thưa: “Trong đêm tối, từ xa thấy trên thành có bốn người khổng lồ, cao hơn hai trượng, hùng mạnh đáng sợ, trừng mắt, nhe răng, cởi trần, cầm gươm. Người đất Kế trông thấy hoảng hốt toát mồ hôi, liền chạy trốn. Ông Miễn biết đấy là thần Kim Cang.
Bị phạt thắt cổ, rốt cuộc thoát khỏi hành hình, thấy hai chữ Kim Cang trên đùi.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Minh, Kế Trọng Vỹ ở làng Chí Đức thuộc Ngô Huyện trì kinh Kim Cang, từ nhỏ chẳng lấy vợ. Trong đời Thuận Trị nhà Thanh, bị người khác vu cáo sát nhân, quan huyện phán tội xử giảo, ai nghe chuyện cũng đều kêu oan uổng. Người ta hỏi: “Bị kìm kẹp, bị đánh có đau không?” Ông Kế hoàn toàn chẳng biết. Mọi người thấy đùi của ông chẳng bị thương tổn mảy may nào, chỉ có hai chữ Kim Cang lờ mờ. Về sau, giải lên Lý Sâm Tiên phán xử ở đất Tô, lời vu oan được sáng tỏ, kẻ vu khống bị họa. Kế Trọng Vỹ có soạn cuốn Kim Cang Kinh Giải.
Ba lượt hành hình được cứu, nhờ ơn tin đồn sứ giả.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Tống Vấn làm châu mục Hoàng Châu. Khi ấy, Tần Tông Quyền dấy binh làm loạn. Có người niệm kinh Kim Cang được họ Tần sai đi trinh sát, bị quân tuần tra của ông Tống bắt được, ông hạ lệnh giết. Chợt có tin báo sứ giả đến tăng chức quan cho ông đang tới; do vậy, bèn ngưng hành hình, giam kín. Hơn một tháng sau, sứ thần chẳng tới, lại ra lệnh hành hình. Vừa mới giải ra khỏi ngục, có tin báo sứ giả đã vào địa phận, lại đình chỉ. Sứ giả đã lên đường, bèn lôi ra hành hình, gặp đúng lúc đại tướng vào dinh thăm [Tống Vấn], nói: “Liếc trông gã gián điệp này vốn bị bức hiếp phải theo giặc, xin ông cho chuộc mạng, nhằm tỏ lòng khoan dung, tha thứ”. Họ Tống ưng thuận, sai gọt tóc, đeo gông, đi xin tiền bạc để xây chùa Khai Nguyên. Sắp xong, ông Tống mộng thấy tám vị Kim Cang[27] bảo: “Vị Tăng đeo gông khổ hạnh như thế, giao ước đã trọn, hãy nên tháo gông”. Ông Tống lấy làm lạ bèn tháo gông, đối đãi lễ độ khác hẳn. Mọi người gọi kẻ gián điệp ấy là Kim Cang Hòa Thượng.
Vừa vung đao liền ngầm trốn thoát, cừu nhân chẳng tổn.
Chú thích: Theo Đồ Thư Tập Thành, Trần Vy là người huyện Quảng Đô, từ bé thường tụng kinh Kim Cang, có hiềm khích với người con rể họ Mã. Một hôm, ông Trần có việc phải ẩn trốn, họ Mã bèn rêu rao muốn truy bắt. Ông Trần bèn mài một ngọn dao găm, đi hay ngồi đều mang theo, tính đâm chàng Mã. Một hôm, ông đi trên con đường cây cối rậm rạp, chàng rể họ Mã nấp sẵn để bắt. Ông Trần rút dao quơ một cái, chàng Mã ngã ngửa. Do vậy, [ông Trần] thoát thân. Nhìn lại thì vật đang cầm là bao đựng dao. Đến khi trở về chỗ ẩn nấp thì dao vẫn còn ở đó, vốn chẳng mang theo. Chàng rể họ Mã cũng chẳng bị thương tích gì, hết sức ngạc nhiên!
Khoét vách lén nhìn ánh sáng, bà cụ mới cắt tóc.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Tống, Tư Lý quận Thọ Xuân là Sài Chú phải xử một án mạng: Tù nhân cung khai là hắn mở quán trọ ở ngoài thành ba mươi dặm, đón khách kiếm sống. Gặp người khách đi một mình mang theo túi nặng, tới đêm hắn bèn giết đi. [Hôm ấy, trong quán trọ, ngoài người khách] chỉ có một bà lão ngủ lại, liền đợi đến canh khuya sẽ giết luôn, nhưng không mở cửa được, bèn khoét vách nhìn trộm, thấy trong ánh sáng hồng là một người to lớn cao bằng căn phòng, đứng dựa lưng vào cửa, kinh hãi gần ngã lăn ra. Trời sáng, cửa mở ra, bà cụ đang cắt tóc, tụng kinh không ngớt. Hỏi kinh gì, cụ nói kinh Kim Cang. Liền biết vị thần đã tới hồi đêm chính là thần Kim Cang vậy.
Ngã xuống hào như mộng, thần bèn đỡ lưng.
Chú thích: Theo Dậu Dương Tạp Trở, trong niên hiệu Nguyên Hòa thời Đường, Lưu Hựu thống lãnh quân Tế Đức đánh dẹp Lý Đồng Tiệp[28], vây hãm, tấn công Đức Châu. Một viên tướng là Vương Trung Can thường niệm kinh Kim Cang suốt hai mươi năm. Lúc công thành, họ Vương trèo lên thang dây, lúc sắp lên được mặt thành, thân bị trúng tên như con nhím, [bị địch quân] dùng sào dài gạt té, được hỏa tốt[29] lôi ra, đặt bên bờ hào nước. Trung Can đã chết, mơ màng thấy đến đồng hoang, muốn qua sông to mà chẳng có thuyền, ngửa mặt lên trời khóc lớn. Chợt thấy một người cao hơn một trượng, Trung Can vái xin chỉ dẫn. Cúi đầu chưa kịp ngẩng lên, người ấy đã nắm eo ném lên không trung. Một lúc lâu sau mới rớt xuống đất, chợt như mộng vừa tỉnh, nghe trên thành giặc [có hiệu lệnh báo hiệu] đã sang canh hai, giơ tay chùi mặt, máu thấm đến lông mi, mới biết là bị thương. Gượng đi hơn trăm bước, lại ngã xuống, lại thấy người [to lớn] trước kia cầm đao, quát: “Đứng dậy!” Bèn đi hơn một dặm nữa, ngồi nghỉ, mới nghe tiếng hô hiệu lệnh của quân mình, bèn đến được doanh trại của chính mình.
Lý Lập ở Yên Sơn, tặng quà trọng hậu kết nghĩa kim lan.
Chú thích: Theo Xuân Chử Ký Văn, vào đời Tống, Trầm Nhị Công ở huyện An Cát, Hồ Châu, khi giặc Kim[30] chưa đến, mộng thấy một vị Tăng nói: “Kẻ bị ngươi đã giết trong đời trước sẽ đến báo oán. Nay có một người cao cả trượng, dùng đao phá cửa để vào, hãy liền hỏi: ‘Ông là Lý Lập ở phủ Yên Sơn phải không?’ Chỉ duỗi cổ chờ chém, mong hắn khỏi giết thì oán trước mới cởi gỡ được”. Mấy hôm sau, giặc kéo tới, quả đúng như lời vị Tăng nói. Kẻ ấy hỏi: “Sao ngươi biết rành trên họ, quê quán ta?” Ông Trầm thuật lại giấc mộng. Họ Lý bèn than thở, thấy trên án có cuốn kinh Kim Cang, hỏi ra mới biết là ông Trầm đã tụng kinh hai mươi năm, liền cởi áo lấy ra một cái ống trúc, bên trong đựng kinh Kim Cang viết chữ nhỏ, nói: “Tôi cũng tụng kinh này năm năm”. Do vậy, kết làm anh em và đem vàng lụa, đồ dùng tặng cho rồi đi.
Vương Ân xứ Thục thoát cơn giận hàng gấm dệt bị chê.
Chú thích: Theo Dậu Dương Tạp Trở, vào đời Đường, người lính xứ Thục là Vương Ân ăn chay trường, niệm Kim Cang Kinh. Khi ấy, Quách Chiêu trấn giữ đất Thục, Vương Ân dâng hàng gấm dệt, Quách Chiêu chê hàng xấu, sai lột trần, đánh trượng đến chết. Quách Chiêu có nuôi một con chó giống Tây Vực, nó chợt sủa lên, ôm lấy lưng Vương Ân, đuổi người hầu không cho đánh. Quách Chiêu lấy làm lạ, do vậy hết giận.
Hiếu tử thăm cha, cũng hiện điều lạ ba đao.
Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, đời Đường, Trương Bá Anh do cha đang ở Dĩnh Châu bèn trộm ngựa nhà quan đi thăm, bị kẻ giữ ngựa bắt được. Thứ Sử Thôi Chiếu ra lệnh chém ngang lưng, chém một hai lần không được, bèn thay đao bén, vẫn chẳng bị thương tổn như cũ. Thôi Chiếu hỏi nguyên do, đáp: “Xưa kia, từ thuở 15 tuổi, tôi đã thôi ăn mặn, tụng kinh Kim Cang mười mấy năm. Khi ấy (lúc bị chém), tôi chỉ chí tâm tụng kinh mà thôi”. Quan bèn tha. [Trương Bá Anh] liền cạo tóc xuất gia. Người đời gọi là Tam Đao Sư, hoặc gọi là Khởi Kính Bồ Tát.
Trung thần chửi giặc, chẳng bị thương tổn giữa trăm thớt ngựa.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Lục Khang Thành nghe tụng kinh Kim Cang có thể thoát nạn bèn hằng ngày đọc mấy chục lượt. Khi ấy, Châu Thử[31] làm loạn, tự xưng là Ngự Sử. Khang Thành mắng: “Tặc thần dám lạm xưng quốc sĩ”. Châu Thử cả giận, sai mấy trăm kỵ binh vây quanh bắn tên. Khang Thành thầm niệm kinh Kim Cang, chẳng bị trúng mũi tên nào. Châu Thử bèn thả đi. Khang Thành ẩn tại Chung Nam Sơn.
Đô thuế họ Nhậm tên khó trúng thân.
Chú thích: Theo Xuân Chử Kỷ Văn, đời Tống, khi Phương Lạp[32] chiếm đóng Tiền Đường, truy bắt các quan lại rất gắt. Có viên Đô Thuế Viện họ Nhậm nhà ở phía Bắc chùa Tường Phù, cách phủ mười dặm. Mỗi sáng trên đường đi đến nha môn làm việc đều thầm tụng kinh Kim Cang, ước chừng năm quyển. Suốt hai mươi năm chẳng bỏ. Bọn giặc bắt giữ bảy người Phật tử, sai lũ bộ hạ bắn tên. Ông Nhậm chỉ tụng kinh, giặc bắn cả mấy trăm mũi, chẳng mũi nào trúng thân.
Trương Thủ Thành tên chẳng xuyên tim.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, vào đời Minh, Trương Thủ Thành ở Hàng Châu kiền thành tụng kinh Kim Cang. Dùng đãy đựng kinh đeo ở trước ngực. Năm Nhâm Ngọ (1630) đời Sùng Trinh, theo đồng bạn lên miền Bắc buôn bán. Giữa đường gặp cướp, đồng bạn bị thương. Thủ Thành trúng một mũi tên, đúng vào đãy kinh ở trước ngực, chẳng đến nỗi xuyên tim. Do vậy được toàn mạng (trên đây tổng cộng là 11 cặp, gồm 22 điều).
Phàm những chuyện binh khí như cắt vào nước này, há chẳng phải là lòng thành cảm thần ư? Đây là công đức chẳng thể nghĩ bàn thứ sáu vậy.
7. Thoát xử tử hình, gông cùm trói buộc
Bèn có Tống Công Tiêu Vũ, tụng tám ngày hình cụ tuột ra.
Chú thích: Xin xem câu ca tụng trong đoạn thứ sáu “cứu khỏi bị giết chóc” trong phần trước, tức lời chú cho câu “viên Trung Thư nước Tùy”.
Tư Mã Liễu Kiệm tụng hết hai trang, được triều đình ân xá.
Chú thích: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời Tùy, Tư Mã Liễu Kiệm ở Hình Châu mắc họa vu oan, bị nhốt trong Đại Lý Tự[33]. Ông Kiệm vững lòng tụng kinh Kim Cang, còn hai trang chưa xong thì không ngờ ngủ thiếp đi. Mộng thấy một vị Bà La Môn Tăng bảo: “Đàn-việt nên tụng kinh cho trọn sẽ được thoát”. Ông Kiệm chợt tỉnh giấc, liền siêng năng tụng kinh chẳng lười, hai ngày sau đột nhiên được gọi tên thả ra, đấy là do lệnh phóng thích của triều đình.
Ngự sử đời Võ Tắc Thiên may thoát gông sắt[34]; Địa Quan Thị Lang chẳng vướng lưới rập.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Bùi Tuyên Lễ làm Địa Quan Thị Lang[35] dưới triều Võ Tắc Thiên, thường trì kinh Kim Cang, gặp chuyện bị tù. Tuyên Lễ lo sợ, chỉ chí tâm niệm kinh Kim Cang. Một hôm, gông cùm tự gỡ, khiến viên quan chịu trách nhiệm thẩm vấn phải đích thân tra hỏi, liền được rửa oan. Ngự Sử Nhậm Thực cùng bị giam, cũng do niệm kinh mà được thoát.
Lô Bác Sĩ do liên lụy bị ngồi tù, được báo ứng thoát gông cùm.
Chú thích: Trong Bắc Sử, phần Tục Cao Tăng Báo Ứng Ký, [có chép chuyện] Lô Cảnh Dũ vào thời Ngụy Tiết Mẫn Đế giữ chức Quốc Tử Bác Sĩ[36]. Do anh họ là Lô Trọng mưu phản nên bị liên lụy, ngồi tù. Ông bèn chí tâm tụng kinh Kim Cang nên tự thoát gông xiềng.
Trầm Giảo Thư gặp chuyện bị đày đi biên địa, được tha trở về.
Chú thích: Theo Quảng Dị Ký, vào đời Đường, Trầm Gia Hội trong niên hiệu Trinh Quán giữ chức Giảo Thư Lang, do gặp chuyện bị đày đi Lan Châu[37]. Mỗi sáng tối, ông Trầm hướng về phía Đông, lạy Thái Sơn, nguyện được sống sót trở về. Đêm ngày mồng Ba tháng Mười năm Vĩnh Huy thứ 6 (655) thấy đồng tử dáng điệu, quần áo đẹp đẽ, xưng là con trai của Thái Sơn Phủ Quân, bảo: “Cảm tạ ông lễ bái, nhưng nếu ông hằng ngày trì một biến kinh Kim Cang thì vạn tội tiêu diệt”. Từ đấy, Gia Hội trì kinh Kim Cang, được ân xá bèn quay về.
Thôi Công bị giặc bắt, đem giết mà xiềng tự tuột.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, đời Đường, Thôi Văn Giản bị Thổ Phiên[38] bắt, gông xiềng rất kỹ. Ông chí tâm niệm kinh ba ngày, xiềng chợt tự tuột. Giặc ngờ là có kẻ gian, đánh đập. Ông Thôi bảo là do niệm kinh Kim Cang, chúng nó xiềng lại. Niệm kinh chưa xong, xiềng lại tuột ra. Bọn chúng than lạ, bèn đưa ra khỏi xứ.
Họ Triệu nhặt vật thừa, bị vu cáo, hình cụ gãy thành ba đoạn.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, trong niên hiệu Thái Hòa đời Đường, người đất Thục là Triệu An thường trì kinh Kim Cang. Từ nơi gò mả ngoài đồng, nhặt được một tấm áo, bị hàng xóm vu là ăn cắp, bị bắt giải lên quan huyện. Quan bèn dùng kìm lớn kẹp đùi, kìm liền gãy thành ba đoạn. Lại truyền đánh trượng vào lưng, trượng vừa đập xuống liền gãy. Về sau, được quan cho về nhà. Vợ nói: “Ngày hôm nọ nghe trong hộp đựng kinh của ông có tiếng chấn động mạnh, sợ quá chẳng dám mở ra”. Ông An vội mở ra coi thì bìa đã đứt rời, giấy bị rách nát bét.
Ông Lưu gậy to mấy tấc, bàn tay lớn bằng cái bồ che lưng nên chẳng bị thương.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, lúc Lưu Dật Hoài ở đất Biện, có chế ra một cây gậy đỏ mới toanh, đường kính to tới mấy tấc, sơn đắp cho kiên cố, dựng đó chứ không dùng. Có Vương X… ở Ngu Hầu bị gièm siểm, ông Lưu bèn dùng chiếc gậy mới đánh ba mươi trượng, họ Vương rốt cuộc chẳng bị sao cả. Mọi người hỏi nguyên do. Ông Vương nói: “Tôi đọc kinh Kim Cang bốn mươi năm, nay mới đắc lực. Lúc mới đánh liền thấy có bàn tay to lớn như cái bồ che lên lưng”. Nhân đó, trật áo cho người ta xem, trọn chẳng có vết thương gì.
Chàng lính đất Thục tụng được đề kinh, thấy đĩnh vàng, tự gỡ được tóc.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, lúc Vĩ Nam Khang trấn đất Thục, trong doanh trại có chàng lính trơn học tụng kinh Kim Cang, vừa mới học được tựa đề kinh. Đêm ấy, anh ta đi ra ngoài đồn lũy nhặt củi, bị kỵ binh người Phiên bắt được. Đi hơn trăm dặm, bị xô té xuống đất, [quân Phiên] buộc tóc [anh ta] vào cột, lấy mền bằng lông lạc đà phủ lên trên, rồi nằm ngủ trên đó. Anh lính chỉ niệm tựa đề kinh, chợt thấy một đĩnh vàng phóng quang dừng ngay trước mắt. Thử giơ tay, động thân thì những thứ trói buộc đều tuột hết, bèn len lén đứng dậy, đi theo đĩnh vàng. Tính ra đi chưa hơn mười dặm, rạng sáng đã về đến nhà. Nhà anh ta ở tại chợ Đông của phủ, vợ con thoạt đầu ngỡ là quỷ. Anh ta kể rõ đầu đuôi, buồn vui chen lẫn. (Trên đây tổng cộng 5 cặp, gồm 10 điều).
Tin rằng giam cầm, gông xiềng chẳng thể dính mắc, quả thật là ứa lệ buồn khóc, chưa từng được nghe. Đây chính là công đức chẳng thể nghĩ bàn thứ bảy vậy.
Chú thích: Hai câu đầu là như kinh Lăng Nghiêm nói: “Có thể khiến cho giam cầm, gông xiềng chẳng thể trói buộc chúng sanh được”. Hai câu kế tiếp chính là nói về ngài Tu Bồ Đề trong kinh này (tức kinh Kim Cang)[39].
8. Cứu hiểm nạn, nước, lửa
Bèn có: Sông Hán đánh vỡ mái chèo, gieo kinh sóng lặng.
Chú thích: Theo Kim Cang Kinh Chứng Quả, vào đời Đường, Vương Đãi Chế[40] đi thuyền đến Hán giang, sóng gió ồ ạt, cột buồm nghiêng, mái chèo gãy, ai nấy đều sợ hãi. Bất đắc dĩ, ông Vương phải đem cuốn kinh Kim Cang mình thường trì tụng hằng ngày gieo xuống sông, ngay lập tức gió lặng, sóng êm. Họ Vương hết sức nhớ tiếc cuốn kinh ấy. Hai tháng sau, đến Trấn Giang, thấy đuôi thuyền có vật như quả cầu, dùng lưới vớt lên thì ra là lũ ốc bám quanh cuốn kinh đã gieo xuống sông vậy.
Biển Liêu dậy sóng, mộng thấy vị Tăng dẹp yên cuồng phong.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, vào đời Đường, Bạch Nhân Tích chở gạo sang Liêu Đông, qua biển gặp trận gió, vội niệm kinh Kim Cang được ba trăm biến, chợt như nằm mộng, thấy một vị Phạm tăng bảo: “Ông niệm chân kinh, nên ta đến cứu ông”. Trong khoảng khắc gió lặng, tám mươi mấy người đều được cứu.
Cầu Hà Dương gãy, Hà Cảnh chợt gặp bụi lau gie.
Chú thích: Theo Thái Bình Quảng Ký, trong đời Đường, huyện lệnh Vũ Đức là Hà Cảnh trì kinh Kim Cang. Đến Hà Dương, nước dâng sập cầu. Trời đã tối, người ta tranh nhau lên thuyền, còn xa chưa tới được bờ thì thuyền đã chìm. Ông Cảnh vội niệm kinh, trong khoảnh khắc đã gần bờ, gặp được bụi lau gie ra liền nắm lấy trèo lên. Tám mươi mấy người khác đều chết đuối.
Thuyền lật bên bờ biển, Tống Khản nắm được bó rạ nổi.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Tống Khản là người xứ Giang Hoài, làm nghề biên chép mướn cho Diêm Thiết Viện, lương mỗi tháng là hai ngàn, cưới vợ, an cư, chẳng tính làm nghề khác. Được hơn một năm, có lái buôn gạo đi sang Tam Môn, mời Khản theo giữ sổ sách, trả lương mỗi tháng tám ngàn. Vợ Khản là Dương Thị rất hiền, thấy đường Tam Môn hiểm trở bèn can ngăn. Khản không nghe, cứ đi. Quả nhiên gặp gió thuyền chìm, Khản té xuống nước, nắm được một bó rạ, trôi nổi vào gần bờ, thoát nạn. Những người khác đều chết. Do vậy bèn biết ơn bó rạ, thề chẳng vứt bỏ. Đi mấy dặm, có một bà lão trơ trọi bán trà, có hai gian nhà tranh, bèn xin ngủ đêm ở đấy. Đến sáng phơi áo, lại tháo bó rạ để phơi, tìm được một ống tre. Mở ra thì là kinh Kim Cang [đựng trong ấy]. Bà cụ bảo: “Là do từ sau khi ông ra đi, vợ ông lễ niệm, chép kinh thành khẩn, thiết tha, nên cứu được ông!” Nhân đấy, cụ chỉ cho con đường tắt về phía Đông Nam, bảo: “Cứ đi theo đường ấy, ngày mốt sẽ về đến nhà”. Khản đi hai ngày về đến nhà, thấy vợ liền thẹn thùng cảm tạ. Lấy kinh ra, quả nhiên là do vợ chép. Do vậy, nhờ người đến cảm tạ bà lão. Đến nơi thì người lẫn nhà đều chẳng thấy, chính là thần biến hóa ra. Tướng Quốc Trịnh Công Nhân nghe chuyện, ban cho Khản chức quan võ, cho ăn lương mỗi tháng năm ngàn. Do đấy, thỉnh bản kinh ấy để họ Trịnh tôn thờ.
Hóa cành trúc tại Tra Than, Vương Miện toàn mạng.
Chú thích: Theo Kim Cang Cưu Dị, vào đời Đường, Vương Miện thường trì kinh Kim Cang. Do được vua sai sang Quy Châu để lo việc, trở về đến Tra Than, thuyền bị lủng, năm người cùng đi đều chết đuối. Ông Miện vừa té xuống nước thì dường như có người đưa cho một cây tre, nương theo sóng khỏi bị chìm, đến được trấn Hạ Lao, tấp vào bờ, thoát chết. Thấy vật đang cầm trong tay chính là kinh Kim Cang thường thọ trì. Từ Tra Than đến Hạ Lao xa hơn ba trăm dặm.
Huyễn hóa cỏ bồng hao trong Nam Hải, Huệ sư sống hết tuổi thọ.
Chú thích: Theo Kim Cang Trì Nghiệm, đời Đường, vị Tăng ở Quảng Châu là Kiền Huệ, thọ trì kinh Kim Cang từ bé. Do vượt biển sang Nam An, gặp trận sóng gió lớn, thuyền lật, người chết, ngẫu nhiên Sư gặp được một đám cỏ bồng hao, dùng tay nắm chặt, lênh đênh lướt sóng ba ngày. Đến bờ, tách cỏ ra xem, thấy trong cỏ bồng hao có một quyển kinh Kim Cang chẳng hề bị ướt. Về sau, sư Kiền Huệ sống đến 130 tuổi, ngồi ngay ngắn qua đời. Cuốn kinh ấy tự tỏa ra khói thơm, dần dần hóa thành đám mây năm sắc, từ từ bốc lên trời. Tăng chúng và Thái Thú, quan liêu, già trẻ xa gần đều cùng trông thấy.
Sấm rền nhổ cột, dùng túi mây gấm đựng về.
Chú thích: Theo Báo Ứng Ký, vào đời Đường, Khang Trọng Thích qua Hải Đông mấy năm chẳng về. Mẹ nhớ mong tha thiết, có vị Tăng bảo: “Chỉ trì kinh Kim Cang thì con sẽ về”. Bà mẹ không biết chữ, nhờ người chép kinh, khoét cột nhà đặt vào, quét sơn lên trên, sáng tối kính lễ. Một hôm trời nổi sấm ầm ĩ, đánh cái cột ấy văng mất đi. Hơn tháng sau, Trọng Thích trở về, dùng túi gấm đựng một khúc gỗ to, thưa với mẹ: “Con ở giữa biển gặp bão, thuyền thủng, té xuống nước, chợt có sấm rền gieo khối gỗ này xuống nước, nhờ đó con được nổi lên, vào bờ. Cho nên con tôn kính nó”. Mẹ bảo: “Đây chính là cây cột đựng kinh của ta!” Phá gỗ tìm được kinh, mẹ con suốt đời trì tụng.
Thần quỷ đục thuyền, mau chép kinh chữ vàng.
Chú thích: Theo Cảm Ứng Ký, vào đời Tống, Tham Quân Quách Thừa Ân ở Ôn Châu tận lực hành phương tiện, nghiêm cấm giết trâu, dùng bột vàng chép kinh Kim Cang, gởi sang chùa Phật để cúng dường. Về sau, đi coi thi đã xong, trở về Thiệu Hưng, ngồi cùng thuyền với đồng liêu là Tư Pháp Nguyên Chẩn. Tham Quân ở khoang trước, Tư Pháp ở khoang sau. Gặp trận sóng gió dữ dội, bốn mặt đen kịt, thấy trong biển có quỷ thần đục thuyền làm hai đoạn. Khoang trước thuận gió vào bờ, khoang sau chìm mất. Ấy là vì Tư Pháp ăn hối lộ làm chuyện riêng tư, Tham Quân theo lẽ công giữ pháp, lại còn cậy vào sức kinh Kim Cang vậy.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
Quyển 4, phần 3 hết
[1] Nguyên văn “bình đỉnh quan”, còn gọi là “bình thiên quan”, hoặc “thông thiên quan”, là một loại mão, thường gọi chung là Miện. Theo thiên Dư Phục Chí trong Hậu Hán Thư thì: “Mũ miện đều rộng bảy tấc, cao một thước hai tấc. Đằng trước tròn, đằng sau vuông, lót bên trong bằng vải màu đỏ và xanh, phía trên phủ bằng vải đen. [Mũ miện của hoàng đế] kết bạch ngọc làm 12 tua rủ xuống, [những tua ở] phía trước [dài] bốn tấc, [những tua ngọc ở] phía sau ba tấc. Dùng lụa màu kết làm giải buộc mão. Tam công, chư hầu dùng thanh ngọc để kết thành bảy tua, khanh đại phu năm tua kết bằng hắc ngọc, nhưng mũ các quan chỉ có tua đằng trước, không có tua đằng sau. Bên cạnh kết thêm hoa bằng sợi bông màu vàng. Khi tế trời đất, tế tổ tiên, hoặc hành lễ trong minh đường mới đội mão này”. Từ đời Tần trở đi, chỉ riêng hoàng đế mới đội miện giống như thời cổ, các quan, hoàng hậu, quý phi, nữ quan vẫn đội miện nhưng phần trên thay vì để thẳng như của vua thường bẻ cong xuống, chiều cao thấp hơn, màu sắc thay đổi tùy theo chức quan, chất liệu vải phủ cũng thay đổi thành gấm, lụa, the v.v… gắn thêm những vật trang trí như chim phụng (nhất là mão của hoàng hậu, thường gọi là “phụng quan”), hoa lá bằng vàng, bằng ngọc lấp lánh khiến cho người ta vừa thoạt nhìn không thể nhận ra đó là miện.
[2] Phù sứ: Sứ giả cầm lệnh phù.
[3] Trường Thủy Tử Duệ là người Bắc Tống, quê ở Thiệu Hưng, Tú Châu (nay thuộc tỉnh Chiết Giang). Thoạt đầu Sư theo học kinh Lăng Nghiêm với ngài Hồng Hải, sau theo ngài Huệ Giác, đổ công nghiên cứu tông chỉ Hoa Nghiêm, trụ tại Trường Thủy (nay là Sản Thủy, tỉnh Thiểm Tây), nên thường được gọi là Trường Thủy Tử Duệ. Học trò cả ngàn người, được coi là nhân vật bậc nhất trong tông Hoa Nghiêm thời Tống. Ngài còn để lại tác phẩm Lăng Nghiêm Kinh Sớ (thường gọi là Trường Thủy Sớ) là một trước thuật trọng yếu của tông Hoa Nghiêm.
[4] Mộc Hoạn: Còn gọi là Vô Hoạn. Thông thường, Mộc Hoạn Tử được coi là hạt của cây Bồ Đề, nhưng một số tự điển như Phật Quang Sơn Phật Học Từ Điển và Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo chỉ nói chung chung: Mộc Hoạn là loại cây thân cao hơn một trượng, đầu mùa Hạ nở hoa nhỏ màu vàng, kết trái, khi khô trái nứt làm ba, bên trong có hạt giống như hạt châu màu đen, thường dùng kết thành chuỗi để niệm Phật. Từ điển Đinh Phước Bảo giải thích thêm Mộc Hoạn Tử là hạt cây Aristkaksa, và nói hạt cây này có tánh trừ quỷ, nên gọi là Vô Hoạn. Ông Đinh dẫn kinh Thiên Thủ Hợp Dược như sau: “Nếu có hành nhân muốn hàng phục các đại lực quỷ thì lấy gỗ cây A Sắt Ca Sài, tụng chú vào đó hai mươi mốt biến, đốt trong lửa”. Theo Bản Thảo Cương Mục thì có bảy loại Mộc Hoạn Tử khác nhau: Hoàn, Mộc Hoạn Tử, Cấm Lâu, Phi Châu Tử, Du Châu Tử, Bồ Đề Tử và Quỷ Kiến Sầu.
[5] Trong Quan Thoại, 卌 có âm là sé trong khi 薛 có âm là xie, gần tương tự nhau nên dùng chữ 薛 để hình dung cách đọc chữ 卌.
[6] Nguyên văn “thuộc khoáng thứ” (lúc lâm chung). “Thuộc Khoáng” là một nghi thức trong tang ma của Hán tộc thời cổ. Khi người bệnh sắp mất, người nhà đem sợi tơ hãy còn mới (thường gọi là Khoáng) đặt trước mũi để xem khi nào sợi tơ không còn động đậy thì biết là người ấy đã chết. Do vậy, chữ Thuộc Khoáng thường được dùng để chỉ lúc lâm chung, như sách Lễ Ký, thiên Táng Đại Ký chép: “Thuộc Khoáng dĩ hề tuyệt khí” (đặt sợi tơ để chờ lúc tắt hơi). Trịnh Huyền chú giải: “Khoáng, nay chính là sợi tơ còn mới, dễ bị lay động, đem đặt trước mũi, để thăm dò”.
[7] Bác Sĩ là một chức quan dành cho những người tinh thông một môn học nào đó, nhất là những người chuyên nghiên cứu một bộ kinh điển Nho gia. Thời Hán, lập ra chức Ngũ Kinh Bác Sĩ là những người thông thạo toàn bộ Ngũ Kinh của Nho Gia. Dần dần đối với các ngành khác, đều có các chức quan được coi là chuyên gia của một môn học ấy, chẳng hạn như thời Đường có Thái Học Bác Sĩ, Thái Y Bác Sĩ, Luật Học Bác Sĩ v.v… Những vị này đảm nhiệm vai trò dạy học là chính. Dần dần chữ Bác Sĩ bị dân gian lạm dụng để chỉ những người thông thạo, sành sõi bất cứ thứ nào đó, như Trà Bác Sĩ là người sành trà, giỏi chọn trà, khéo pha trà. Đến nỗi sau này, vào đời Minh, các anh bồi ở tiệm trà đều được gọi Trà Bác Sĩ tuy họ chỉ biết bưng bê, dọn dẹp, hầu hạ khách uống trà.
[8] Nguyên văn “khanh”. Thoạt đầu, Khanh vốn thường được dùng để chỉ sáu vị quan lớn đầu triều tức Thiên Quan Trủng Tể (Thượng Thư bộ Lại), Địa Quan Tư Đồ, Xuân Quan Tư Bá, Hạ Quan Tư Mã, Thu Quan Tư Khấu, Đông Quan Tư Không. Từ đời Bắc Ngụy trở đi, dưới các vị này (gọi là Chánh Khanh) còn đặt thêm chức phụ tá gọi là Thiếu Khanh. Quan của các chư hầu thì gọi là Khanh Đại Phu. Từ thời Đường, các quan lớn thường được gọi chung là Khanh nên chúng tôi không dám đoan chắc Khanh ở đây chỉ chức quan nào.
[9] Đây là lời chú thích ý nghĩa của chữ Nhập (hai mươi) trong nguyên văn lời ca tụng: “Kỳ Hoàn gia điệp, nhập tải thưởng công”.
[10] Nguyên văn “tú tòa” là tòa (ghế cao) phủ khăn bằng gấm thêu.
[11] Trong lời ca tụng, cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh đã viết như sau: “Hồng Chánh ngẫu đồng tánh danh, toại sử hồng ly ngư võng” (Sư Thích Hồng Chánh ngẫu nhiên có cùng họ tên với Thường Hồng Chánh, nên khiến cho chim hồng mắc lưới cá). “Hồng ly ngư võng” vốn là một thành ngữ dựa theo ý hai câu thơ trong bài Tân Đài của Kinh Thi: “Ngư võng chi thiết, hồng tắc ly chi”. Sách Thuyết Văn Giải Tự giảng: “Hồng là chim hồng, ly là vướng mắc”, ý nói: “Giăng lưới để bắt cá, nào ngờ chim hồng vướng lưới”. Do vậy, từ ngữ “hồng ly ngư võng” hoặc “ngư võng hồng ly” được dùng để chỉ sự xảy ra bất ngờ ngoài dự liệu. Do thời cổ, những chữ đồng âm thường dùng theo lối giả tá, nên cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh mới nói chữ Ly (离: xa lìa) phải được hiểu là chữ Lệ (麗: dính bám, vướng mắc) do thời cổ, hai chữ này đọc giống nhau nên thường được dùng lẫn lộn.
[12] Đây là lời giải thích cho ý nghĩa chữ Tạp trong câu nói của thầy tướng: “Sư niên chỉ tạp nhất” (Sư chỉ sống được ba mươi mốt tuổi).
[13] Ý Dĩ (tên khoa học là Coix lacryma-jobi) chính là hạt Bo Bo, còn được gọi là Ý Nhân, Bạch Ý Nhân, Ý Mễ, là một loại thảo mộc thuộc họ Ý Dĩ. Rễ và hạt thường dùng để làm thuốc. Đông Y cho rằng hạt Ý Dĩ tánh hơi hàn, vị ngọt, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, kiện tỳ, chủ trị các căn bệnh thủy thũng, tê chân, phong thấp, tiêu chảy, đau ruột v.v… Do vậy, hạt Ý Dĩ thường được cho vào Sâm Bổ Lượng để giải nhiệt trong mùa hè.
[14] Khai là cho phép, Giá là ngăn cấm. Khai tức là những điều được ngăn cấm, nhưng cho phép làm trong một số điều kiện nào đó. Chẳng hạn, giới luật cấm uống rượu, nhưng nếu vì bịnh tật phải dùng thuốc có chất rượu, thì phải bạch với chúng Tăng để xin phép dùng. Khi hết bệnh, không được dùng nữa. Giá là những điều kiện quy định để ngăn ngừa sự tùy tiện phá giới viện cớ giới ấy đã được “khai”.
[15] Khổng Mục là chức nha lại giữ văn thư cho các quan chức cao cấp, có nhiệm vụ quản lý sổ sách, án từ, phân phái công sai v.v… được lập ra từ đời Đường. Theo Tư Trị Thông Giám, danh từ Khổng Mục có nghĩa là từ chuyện to tát đến chuyện vặt vãnh trong nha môn đều do chức vụ này quản thủ nên mới gọi là Khổng Mục. Đến đời Thanh, trong Hàn Lâm Viện lập ra chức Khổng Mục nhằm xử lý những việc lặt vặt hằng ngày.
[16] Châu Vũ Đế (543-578) thuộc sắc dân Tiên Ty, tên thật là Vũ Văn Ung, là hoàng đế thứ ba của nhà Bắc Châu thời Nam Bắc Triều, vốn là con trai thứ tư của quyền thần Vũ Văn Thái nhà Tây Ngụy. Năm Vũ Thành thứ 2 (560), quyền thần Vũ Văn Hộ hạ độc Châu Minh Đế (Vũ Văn Dục), tôn Lỗ Quốc Công Đại Tư Không Vũ Văn Ung lên làm vua. Vũ Văn Ung tích cực Hán hóa dân tộc Tiên Ty, đam mê quyền lực, thích gây chiến mở rộng lãnh thổ, thường đánh nhau với dân Đột Quyết. Nhằm tích cực vơ vét tài sản trong nước để phục vụ chiến tranh, ông ta chủ trương hủy diệt Phật giáo, tịch thâu chùa chiền, đoạt ruộng đất, bắt Tăng Ni hoàn tục để có thêm lính và sanh con đẻ cái cho dân số đông thêm.
[17] Bạch Khởi (?-257 trước Công Nguyên), còn gọi là Công Tôn Khởi, là một danh tướng của nước Tần thời Chiến Quốc. Nổi danh với tài thao lược và hiếu sát đến nỗi người thời ấy gọi Bạch Khởi là “nhân đồ” (gã đồ tể giết người). Thành tích đẫm máu nhất của Bạch Khởi là trong trận chiến Trường Bình (vào năm 260 trước Công Nguyên), Tần và Triệu đánh nhau, Triệu Quát thiếu lương tan vỡ. Bạch Khởi bắt được hơn 40 vạn quân Triệu. Sợ khó thể quản thúc quân Triệu, Bạch Khởi ngầm hạ lệnh đãi cho quân Triệu ăn uống say sưa, rồi đêm ấy, quân Tần cứ thấy ai đầu không quấn khăn trắng là chém, hơn 40 vạn quân Triệu trong một đêm chỉ còn 240 tên lính thoát chết. Sử đương thời chép: “Máu chảy vang tiếng tong tong nghe rõ mồn một, nước của dòng Dương Cốc biến thành đỏ thẫm, đến nay còn gọi là Đan Thủy”. Bạch Khởi lại sai chặt lấy đầu quân Triệu xếp thành núi Đầu Lâu, dựng một ngôi đài trên đó gọi là Bạch Khởi Đài.
[18] Biểu huynh: Anh họ bên ngoại. Ở Trung Hoa mãi cho đến đời Thanh, vẫn còn giữ hủ tục cho anh em bên ngoại được lấy nhau. Tức là con cô con cậu và con dì con già được lấy nhau.
[19] Phong tử: Người giữ nhiệm vụ đốt lửa báo động tại các trạm canh khi có địch quân tấn công.
[20] Đảng Hạng (Tangut, còn gọi là Đường Ngột) là một sắc dân du mục sống ở Tây Bắc Trung Hoa, thường được coi là một nhánh của người Khương (theo các nhà nghiên cứu, chữ Khương thường được người Hán thời Cổ dùng để phiếm chỉ các sắc dân pha trộn giữa người Tây Tạng, người Hán và Miêu, con cháu các vương quốc thuộc tộc Tam Miêu thời cổ bị vua Đại Vũ diệt quốc). Người Đảng Hạng sống chủ yếu tại Tứ Xuyên. Vào thời Đường, do bị người Thổ Phiên (Tây Tạng) truy bức, họ phải di cư đến Ninh Hạ, Cam Túc, Thiểm Tây. Trong tám bộ tộc di cư này, bộ tộc hùng mạnh nhất là bộ tộc Thác Bạt. Thủ lãnh Thác Bạt Tư Cung từng giữ chức Định Nạn Quân Tiết Độ Sứ và được ban quốc tánh là Lý. Dòng họ Thác Bạt đổi thành họ Lý kể từ đây. Đầu đời Tống, Lý Kế Thiên tự lập, xưng đế, lập ra nhà Tây Hạ, tồn tại 200 năm cho đến khi bị nhà Nguyên của Mông Cổ diệt vong. Tuy vậy, Lý Nguyên Hạo (cháu nội của Lý Kế Thiên) đề cao tinh thần dân tộc, chống lại sự Hán hóa nên đã đổi họ thành Ngôi Danh, sáng chế một loại văn tự dùng riêng cho người Tây Hạ gọi là Tây Hạ Văn, tận lực phát huy truyền thống văn hóa riêng biệt của Tây Hạ, nhưng con cháu Nguyên Hạo vẫn giữ họ Lý. Có thuyết cho rằng danh xưng Tangut là do người Mông Cổ đọc trại chữ Đảng Hạng mà ra. Sấm Vương Lý Tự Thành (người lật đổ nhà Minh) chính là hậu duệ của Lý Kế Thiên.
[21] Tường sanh: Thời cổ, những trường quốc lập ở huyện, phủ, quận đều gọi là Tường (庠). Theo quy chế đời Minh – Thanh, học sinh từ các nơi trúng tuyển vào học trường ấy đều gọi là Tường Sanh. Đôi khi, người đậu Tú Tài cũng được gọi là Tường Sanh hoặc Ấp Tường Sanh. Khi viết văn thư trình lên quan, những người đã đậu Tú Tài cũng thường tự xưng là Tường Sanh.
[22] Thái Học (còn gọi là Quốc Tử Học, Quốc Tử Giám) chính là trường đại học thời cổ, được lập ra dưới thời Tây Châu ở kinh đô. Vị quan đảm nhiệm chức vụ dạy học tại trường Thái Học gọi là Thái Học Bác Sĩ. Những vị này thường xuất thân từ Ngũ Kinh Bác Sĩ, tức là những vị thông thạo Ngũ Kinh của Nho Gia. Những người được tuyển vào học trường Thái Học phải đỗ kỳ thi do quan Thái Thường khảo hạch.
[23] Hán Vương Lượng tên thật là Dương Lượng (575-605), tự là Đức Chương, còn có tên là Kiệt, là con thứ năm của Tùy Văn Đế (Dương Kiên). Ông được cha phong làm Hán Vương vào năm Khai Hoàng thứ 5 (581), tước phong đến Thượng Trụ Quốc, Hữu Vệ Đại Tướng Quân, cai quản Tinh Châu, rất được Tùy Văn Đế thương yêu. Khi Tùy Văn Đế băng, Tùy Dạng Đế (Dương Quảng) lên ngôi, sai Xa Kỵ Tướng Quân Khuất Đột Thông ép Dương Lượng về triều, giải giao binh quyền. Biết anh có lòng nghi kỵ, Dương Lượng bèn dấy binh làm phản.
[24] Cao Ly nói ở đây chính là xứ Cao Cú Ly (Cao Câu Ly – Koguryo), một vương quốc cổ thời Tam Quốc ở Đại Hàn. Năm Khai Hoàng 18 (598), Anh Dương Vương xứ Cao Câu Ly là Cao Nguyên đem kỵ binh tấn công Liêu Tây, bị tổng quản Doanh Châu đánh lui. Tùy Văn Đế bèn sai Hán Vương Dương Lượng, Vương Thế Tích và Châu La Hầu đem 30 vạn quân sang đánh Cao Cú Ly, nhưng gặp phải mưa dầm lâu ngày, quân sĩ bị bệnh dịch chết rất nhiều, đành phải rút về.
[25] Thâu thạch là một loại đá có lẫn chất đồng thau, rất cứng chắc. Chữ này cũng dùng để chỉ một hợp kim đồng thau được chế bằng đồng nấu lẫn với Lô Cam Thạch (Lô Cam Thạch là cách người Hoa dịch chữ Calamine. Calamine có chứa hai chất carbonate kẽm (ZnCO3) và silicate kẽm – Zn4Si2O7. Ngoài ra còn có một lượng nhỏ những chất khác như oxyde sắt, manganese, đồng, cadmium v.v….
[26] Đây là cuộc biến loạn kéo dài suốt 8 năm từ năm 755 cho đến 763. Loạn quân do An Lộc Sơn và bộ tướng là Sử Tư Minh cầm đầu nên thường được gọi là “An Sử chi loạn”. Do chính sách sai lầm, Đường Huyền Tông lập ra mười binh trấn ở biên cương, giao toàn quyền cho Tiết Độ Sứ và Kinh Lược Sứ nắm giữ. Đã thế, ở một số vùng, Tiết Độ Sứ lại còn kiêm nhiệm luôn các chức vụ hành chánh như Án Sát Sứ, An Phủ Sứ, Chi Độ Sứ, tức là Tiết Độ Sứ trở thành một lãnh chúa lớn cả vùng. Đồng thời, vua còn cho rằng đã có các binh trấn bảo vệ bên ngoài, không cần phải có binh lực mạnh mẽ ở trong, nên quân đội trung ương rất yếu kém. Do sợ các quan người Hán quyền to chức trọng sẽ cướp ngôi, vua trọng dụng những người Hồ, hoặc gốc Hồ, giao trọng quyền trấn giữ các binh trấn vì tin rằng họ sẽ một dạ trung thành với chánh quyền trung ương. Vua tin dùng An Lộc Sơn đến nỗi cho ông ta kiêm nhiệm Tiết Độ Sứ cả ba trấn Bình Lô, Phạm Dương và Hà Đông, nắm tới gần 15 vạn quân, trong khi binh lực cả nước chỉ có 50 vạn, riêng lính của hoàng đế chỉ có 13 vạn. Vua lại lười nhác, chỉ lo hưởng lạc, triều chánh nằm hoàn toàn trong tay bọn tham quan như Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung v.v… Do thấy nhà Đường quá suy bại, An Lộc Sơn nảy lòng muốn chiếm đoạt ngai vàng bèn liên minh với các sắc tộc Đồng La, Hề, Khiết Đan, Thất Vỹ, Đột Quyết v.v… nổi loạn tại Kế Thành (nay là Bắc Kinh) vào năm Thiên Bảo 14 (755), lấy cớ thanh lý Đường thất, trừ gian thần Dương Quốc Trung. Quân Đường không giao chiến đã lâu, thua trận thảm hại, vua tôi phải chạy vào đất Thục lánh nạn. Đến Mã Ngôi Pha, quân lính không chịu chiến đấu. Để xoa dịu lòng quân, Đường Huyền Tông phải xử tử Dương Quốc Trung và buộc ái phi Dương Thái Chân (Dương Quý Phi, là em gái của Dương Quốc Trung) thắt cổ chết. Đến năm Chí Đức thứ 2 (757), con trai An Lộc Sơn là An Khánh Tự giết cha đoạt ngôi, xưng đế, sai Sử Tư Minh quay về giữ Phạm Dương. Sau đấy, An Khánh Tự bị quân Đường đánh bại, phải chạy về Phạm Dương. Thấy các sắc tộc Khiết Đan và Đồng La quy phục Sử Tư Minh, An Khánh Tự ngầm mưu sát Sử Tư Minh. Sử Tư Minh bèn đầu hàng nhà Đường, được phong là Quy Nghĩa Vương, đem quân tiễu trừ An Khánh Tự; nhờ đó, quân Đường mới dần dần dẹp tan được cơn biến loạn này.
[27] Đây là tám vị Kim Cang thường được phụng thỉnh lễ bái trước khi tụng kinh Kim Cang: Thanh Trừ Tai Kim Cang, Tích Độc Kim Cang, Hoàng Tùy Cầu Kim Cang, Bạch Tịnh Thủy Kim Cang, Xích Thanh Kim Cang, Định Trừ Tai Kim Cang, Tử Hiền Kim Cang và Đại Thần Kim Cang. Ngoài ra, còn có bốn vị Kim Cang Bồ Tát thường được phụng thỉnh là Kim Cang Quyền Bồ Tát, Kim Cang Sách Bồ Tát, Kim Cang Ái Bồ Tát và Kim Cang Ngữ Bồ Tát (bốn vị này tiêu biểu cho lực dụng của Tứ Phương Phật trong Mật giáo).
[28] Lý Đồng Tiệp (?-829) là con trai của Hoành Hải Tiết Độ Sứ Lý Toàn Lược. Khi Toàn Lược chết, Lý Đồng Tiệp tự cử mình làm người kế nhiệm, sai em là Lý Đồng Chí và Lý Đồng Tốn vào triều xin được sách phong. Nhưng Đường Văn Tông lại sai Ô Trọng Dận làm Hoành Hải Tiết Độ Sứ, đổi Lý Đồng Tiệp làm Tiết Độ Sứ Duyện Châu. Lý Đồng Tiệp bèn kháng chỉ, nên mới bị nhà Đường sai Vương Trí Hưng, Vương Diên Tấu và Lý Hựu đánh dẹp.
[29] Hỏa tốt: Lính có nhiệm vụ lo đốt đuốc, chuẩn bị tên lửa, cũng như các chất dễ cháy dùng để tấn công thành.
[30] Kim là một vương triều ở Bắc Trung Hoa do bộ tộc Hoàn Nhan (Wanyan) của người Nữ Chân (Jurchen, tổ tiên nhà Thanh sau này) sáng lập, tồn tại từ năm 1115 đến 1234. Vua khai quốc là Hoàn Nhan A Cốt Đả (Wanyan Aguda). Vốn bị nhà Liêu thống trị và đàn áp, người Nữ Chân dưới sự lãnh đạo của A Cốt Đả đã liên tục phản kháng, khôn khéo liên kết với nhà Tống và cuối cùng chiếm được toàn quyền cai quản vùng Liêu Đông. Sau khi A Cốt Đả mất, em trai A Cốt Đả là Hoàn Nhan Ngô Khất Mại (Wanyan Wuqimai) nối ngôi đã diệt được nhà Liêu, buộc nhà Tống phải xưng thần với nhà Kim và triều cống mỗi năm cả 200,000 quan tiền, 300 ngàn tấm lụa. Cuối cùng nhà Kim bị Mông Cổ diệt quốc vào năm Thiên Hưng thứ ba (1234) dưới đời vua Kim Ai Tông. Sau này, Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhachi) thống nhất 13 bộ tộc Nữ Chân, thành lập nhà Hậu Kim (1616-1636). Con trai Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Hoàng Thái Cực đổi tên dân tộc Nữ Chân thành Mãn Châu vào năm 1635 và đổi quốc hiệu Hậu Kim thành Đại Thanh vào năm sau.
[31] Châu Thử (742-784) là vũ tướng đời Đường, quê ở Bình Xương, U Châu (nay thuộc huyện Xương Bình, Bắc Kinh). Châu Thử và em là Châu Thao đều là bộ tướng của Lô Long Tiết Độ Sứ Lý Hoài Tiên. Khi Lý Hoài Tiên chết, Châu Hy Thái kế nhiệm làm Tiết Độ Sứ càng đặc biệt tín nhiệm Châu Thử. Khi Châu Hy Thái bị thủ hạ mưu sát, Châu Thao được đề cử làm Tiết Độ Sứ, sai anh về kinh chầu vua vào năm Đại Lịch thứ 9 (774). Do thời đó, các Tiết Độ Sứ không về chầu vua, nên vua nghi kỵ, giữ lại kinh đô, nói thác là để làm cố vấn, nhưng Châu Thử chỉ có hư vị. Bất ngờ, năm Kiến Trung thứ 3 (782), Châu Thao phản Đường, Châu Thử bị nghi ngờ, cấm rời khởi kinh đô. Năm sau, cuộc biến loạn ở Kính Nguyên nổ ra, Đường Đức Tông phải chạy vào Phụng Thiên (nay thuộc Càn Huyện, tỉnh Thiểm Tây) lánh nạn. Châu Thử thừa cơ nắm binh quyền, xưng là Ngự Sử. Sau đó, loạn quân đưa Châu Thử lên làm vua, đặt quốc hiệu là Tần, lấy niên hiệu là Ứng Thiên, rồi đổi quốc hiệu thành Hán, liên kết với Châu Thao. Về sau, Châu Thử bị Lý Thịnh đánh bại, phải chạy sang Kính Châu nương náu, nhưng Kính Châu Tiết Độ Sứ là Điền Hy Giám đóng chặt cửa thành không tiếp, lại phải chạy sang Mã Quan tính nương náu với Hạ Hầu Anh là Thứ Sử đất Bành Nguyên, nhưng họ Hạ không dung, phải chạy tiếp. Cuối cùng, Châu Thử bị bộ tướng là Lương Đình Phân bắn tên té ngựa, sau đấy bị Hàn Mân giết chết, chặt đầu gởi về Lương Châu, xin hàng nhà Đường.
[32] Phương Lạp (?-1121) là người huyện Hấp, tỉnh An Huy, là lãnh tụ nông dân dấy loạn. Phương Lạp xuất thân là bần cố nông, tánh tình hảo sảng, khéo biết thu phục lòng người, lại mạnh khỏe, giỏi võ, lắm tài vặt, hắn gia nhập Ma Ni Giáo (Minh Giáo, có thuyết nói Phương Lạp đã trở thành giáo chủ đạo này) để lợi dụng tín đồ làm loạn. Năm Tuyên Hòa thứ 2 (1120), họ Phương triệu tập giáo chúng khởi nghĩa tại thôn Thất Hiền, huyện Hấp, rồi tiến đánh Hàng Châu, lần lượt chiếm giữ 52 huyện thuộc Giang Tô, Chiết Giang, An Huy, nhưng chỉ đến năm sau (1121) đã bị tỳ tướng của Vương Uyên là Hàn Thế Trung bắt sống rồi bị Trung Châu Phòng Ngự Sứ là Tân Hưng Tông xử tử vào tháng Tám năm ấy.
[33] Đại Lý Tự tương đương với Tối Cao Pháp Viện hiện thời, quản trị việc thẩm tra, xét xử, phán án và giam giữ. Án do Đại Lý lập phải được Hình Bộ tái thẩm và phê chuẩn. Dưới thời Tùy – Đường, những vụ trọng án phải được Đại Lý Tự Khanh (người đứng đầu Đại Lý Tự), Thượng Thư và Thị Lang của Hình Bộ phối hợp với Ngự Sử Trung Thừa cùng xét án.
[34] Nguyên văn “kiềm” (鉗). Theo Thuyết Văn Giải Tự, Kiềm là hình cụ thời cổ, có hình tròn đúc bằng sắt để khóa chặt cổ tội nhân. Như vậy, Kiềm là một loại gông sắt.
[35] Địa Quan Thị Lang chính là Thị Lang của Hộ Bộ (Thị Lang giống như Thứ Trưởng hiện thời). Thời Võ Tắc Thiên, đã đổi một loạt danh xưng các quan chức, như Thừa Tướng được đổi thành Văn Xương Tả Hữu Tướng, Thiên Quan Thượng Thư chính là Lại Bộ Thượng Thư, Xuân Quan là bộ Lễ, Hạ Quan là bộ Binh v.v…
[36] Tức chức Thái Học Bác Sĩ, là giáo sư của trường Quốc Tử Giám.
[37] Lan Châu là thủ phủ của Cam Túc (tỉnh cực Tây của Trung Hoa).
[38] Thổ Phiên (Tǔbō) là cách phiên âm của người Hán thời Đường để gọi vương quốc cổ Tây Tạng. Người Tây Tạng thời cổ gọi đất nước của họ là Thubod (“vùng tuyết đọng”, và nhiều nhà nghiên cứu tin rằng danh xưng Tibet hiện thời trong các ngôn ngữ Tây Phương là do chữ này bị đọc trại ra). Vương quốc Thubod do vua Namri Songtsen sáng lập, có địa bàn quanh vùng Lhasa hiện thời, và vua Namri là người đầu tiên gởi sứ đoàn sang nhà Đường để tiến cống và giao hảo. Vương quốc này đạt đến mức cực thịnh dưới thời Songtsan Ganpo (604-650, sử Trung Hoa thường phiên âm thành Tông Tán Cam Bố). Songstan Ganpo bắt đầu phái quân quấy rối biên giới nhà Đường, đánh bại quân Thổ Dục Hồn (Tuyuhun, một tiểu vương quốc sống quanh hồ Koko Nur), tạo thành một mối đe dọa lớn cho nhà Đường. Để xoa dịu và ve vãn Thổ Phiên, Đường Thái Tông gả công chúa Văn Thành. Theo chân công chúa, đạo Phật được truyền vào Tây Tạng lần thứ nhất. Do vậy, Phật giáo Tây Tạng vẫn thường coi Songstan Ganpo là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, và công chúa Văn Thành là hóa thân của Bồ Tát Đa La (Tara, Độ Mẫu, một hóa thân khác của Quán Thế Âm Bồ Tát), còn thứ phi của Songstan Gampo là công chúa của một tiểu vương ở Nepal thì được coi là hóa thân của Tỳ Câu Chi Quán Âm Bồ Tát. Người Tây Tạng vẫn tin tượng Phật được thờ ở chùa Jokhang (ngôi đại quốc tự tại kinh đô Lhasa) là do công chúa Văn Thành đem từ Trung Hoa đến.
[39] Trong kinh Kim Cang có đoạn: “Nhĩ thời, Tu Bồ Đề văn thuyết thị kinh, thâm giải nghĩa thú, thế lệ bi khấp, nhi bạch Phật ngôn: ‘Hy hữu, Thế Tôn! Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điển, ngã tùng tích lai sở đắc huệ nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi kinh” (Khi ấy, Tu Bồ Đề nghe nói kinh này, hiểu ý nghĩa sâu xa, rơi lệ, buồn khóc, mà bạch Phật rằng: “Hiếm có thay, bạch đức Thế Tôn! Phật nói kinh điển rất sâu như thế này, con kể từ khi đắc huệ nhãn, từ trước đến nay chưa hề được nghe kinh như thế này”).
[40] Đãi Chế: Đãi Chế có nghĩa là đợi chờ chiếu chỉ, chế lệnh của nhà vua. Thoạt đầu, Đãi Chế không phải là một chức quan mà chỉ là danh xưng gọi vị quan trực nhật. Do đầu đời Đường, sau một thời gian dài chiến tranh giữa các quân phiệt cát cứ vào cuối đời Tùy, khi nhà Đường thành lập, rất nhiều việc phức tạp phải giải quyết nên Đường Thái Tông hạ lệnh các quan từ Ngũ Phẩm trở lên phải thay phiên nhau trực nhật tại Trung Thư Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh để khi vua cần hỏi ý kiến hay sai phái sẽ luôn có người đủ kinh nghiệm đảm đương. Cuối cùng, phải lập hẳn ra một chức quan lo việc xử lý thường vụ, kiêm cố vấn thân cận của nhà vua. Về sau, mỗi cơ quan chính phủ cũng lập ra những chức Đãi Chế giữ vai trò xử lý thường vụ như Bảo Hòa Điện Đãi Chế, Long Đồ Các Đãi Chế, Thiên Chương Các Đãi Chế v.v…