THẾ NÀO LÀ XÁ LỢI?
Niệm Phật Tăng
Sa môn Thích Hải Quang biên soạn
CHƯƠNG HAI
TIẾT 1
NĂM THỜI-KỲ KIÊN-CỐ TRONG PHẬT-PHÁP
(ẢNH-HƯỞNG ĐẾN GIỚI TU-SĨ (XUẤT-GIA))
(Lời soạn-giả:
Tiết-mục nầy luận về:
– “PHÁP-VẬN” của Phật-pháp đối với Năm thời-kỳ kiên-cố ảnh-hưởng đến giới PHẬT-TỬ (xuất-gia lẫn tại-gia) như thế nào?)
Theo định-luật vô-thường về việc THÀNH-HOẠI của tất-cả các “HỮU-VI PHÁP” trên thế-gian nầy (nói riêng) và 10 phương thế-giới (nói chung) thì:
– Không có bất cứ một thứ loại vật-thể (tức la PHÁP-TƯỚNG) nào, hoặc hữu-hình, hoặc vô-hình mà thường còn mãi được, do đó cho nên từ xưa đến nay “VẠN-PHÁP” hễ có “SANH” thì quyết-định là phải có “DIỆT” chớ chẳng bao giờ tồn-tại lâu dài (hay là) bất-biến được cả.
(Phụ-chú:
Vạn-pháp (hoặc vô-lượng “HỮU-VI PHÁP”) là nói rộng ra.
Còn nếu như ước-lược lại mà nói thì Thế-gian chúng-sanh có tất-cả 14 loại “PHÁP HỮU-VI” đó là :
– SẮC, THANH, HƯƠNG, VỊ, XÚC, NAM, NỮ, SANH, TRỤ, DIỆT, KHỔ, LẠC, BẤT KHỔ, BẤT LẠC.
14 loại “HỮU-VI PHÁP” nầy thảy đều bị nằm vào trong vòng “VÔ-THƯỜNG SANH-DIỆT” hết cả, chớ chẳng đặng thường còn, bất biến.)
Vì thế cho nên GIÁO-PHÁP của đức THẾ-TÔN – (nói riêng và tất-cả giáo-pháp của Ngoại-đạo, Tà-giáo khác…nói chung) – cũng phải bị nằm luôn vào trong vòng vô-thường sanh-diệt (y như vậy). Và :
Sự “VÔ-THƯỜNG SANH-DIỆT” trong “PHẬT PHÁP” (nầy) được PHẬT chia ra làm 5 thời-kỳ “KIÊN-CỐ” như sau:
1/- Giải-thoát kiên-cố:
Giai-đoạn của thời “pháp-vận” nầy bắt đầu kể từ khi PHẬT (và các vị Thánh-tăng đại đệ-tử) nhập Niết-bàn (tịch) cho đến 500 năm về sau – (nghĩa là 500 năm sau khi PHẬT nhập Niết-bàn).
Trong thời-gian nầy vì đa-số người tu còn biết hành-trì đúng theo GIỚI-PHÁP (tức là Giới-luật và Kinh-pháp) của PHẬT dạy cho nên:
– Trong số 100 người tu-hành thì cũng có đến được 50 hoặc 70 người đắc-đạo và giải-thoát.
Xin được trích-dẫn ra một đoạn KINH để làm “tín-chứng” về việc đắc-đạo, giải-thoát trong THỜI-KỲ “GIẢI-THOÁT KIÊN-CỐ” nầy như sau :
Trong kinh “MA-HA MA-GIA” Phật có dạy rằng:
Sau khi ta vào Niết-Bàn rồi thì :
1/– 100 năm sau, có Tỳ-kheo ƯU-BA CÚC-ĐA,(1) đủ biện-tài thuyết-pháp cũng như PHÚ LẦU-NA DI ĐA-LA NI-TỬ (2), độ vô-lượng chúng.
2/- 100 năm kế đó (tức là 200 năm sau khi Phật nhập Niết-Bàn) có Tỳ-kheo THI-LA NAN ĐÀ, khéo nói pháp-yếu, độ 12 ức người trong Châu Diêm-Phù.
3/- 100 năm kế tiếp đó (tức là 300 năm sau khi Phật nhập Niết-Bàn) có Tỳ-kheo THANH-LIÊN HOA-NHÃN, thuyết-pháp độ được nữa ức người.
4/- 100 năm kế nữa (tức là 400 năm sau khi Phật nhập Niết-Bàn), có Tỳ-kheo NGƯU-KHẨU thuyết-pháp độ được một vạn người.
5/- 100 năm kế tiếp đó (tức là 500 năm sau khi Phật nhập Niết-Bàn) có Tỳ-kheo BẢO-THIÊN thuyết-pháp độ được hai vạn người (20.000) và khiến cho vô-số chúng-sanh phát-tâm vô-thượng Bồ-Đề.
Đến đây thì:
THỜI-KỲ CHÁNH-PHÁP ĐÃ CHUNG-MÃN.
(Phụ-chú:
Trên đây chỉ là nói đến các vị Tổ-sư sau khi đắc-đạo xong rồi, quý Ngài phát tâm Bồ-đề hoằng-dương Phật-pháp, cứu độ chúng-sanh trong thời Chánh-pháp nầy thôi.
Còn như các vị Thánh-nhơn khác cũng hành-trì y theo chánh-pháp của PHẬT, ẩn-tu nơi các miền núi rừng (lan nhã) xa vắng, tu-hành được đắc đạo và giải-thoát ở vào trong thời-kỳ GIẢI-THOÁT KIÊN-CỐ nầy (rồi âm-thầm nhập Niết-Bàn luôn, chớ chẳng chịu “ứng thế độ sanh” chi cả), như quý Ngài THI-LA NAN-ĐÀ, THANH-LIÊN HOA-NHÃN, NGƯU-KHẨU, BẢO-THIÊN (vừa nói ở trước) vv… thì số-lượng như vậy có rất nhiều, mà ở trên đã nói (từ 50 đến 70%).
Vậy thì việc tu-hành và đắc-đạo của quý NGÀI đó như thế nào?
Tức là quý Ngài ấy:
1a/- Giữ chặt-chẽ các “giới-luật” của PHẬT đã chế một cách nghiêm-cẩn, không hề khuyết-phạm, dù cho đó chỉ là tội nhỏ như “ĐỘT KIẾT LA” (xem lại phần ghi chú ở trước).
– Những gì là giới-luật ấy mà quý NGÀI cần phải gìn-giữ?
Đó là các giới hoặc trọng (nặng) hoặc khinh (nhẹ) nằm trong bộ luật “Ba-la-đề mộc xoa” (Prati-moksha) – (Hán dịch là “Biệt Giải-thoát giới”) vậy.
Gồm có:
a/- Tỳ kheo tăng 250 giới, chia ra làm các thứ loại và danh-mục như sau:
– 4 Đại giới Ba la-di,
– 13 giới Tăng tàn,
– 2 giới Bất định.
– 30 giới Ni tát kỳ dật đề,
– 90 giới Ba dật đề,
– 4 giới Đề xá ni.
– 100 giới Bá chúng học pháp,
– 7 giới Diệt-tránh.
b/- Tỳ-kheo ni 348 giới, chia ra làm các danh-mục như sau:
– 8 Đại giới Ba-la-di,
– 17 giới Tăng-tàn,
– 30 giới Ni tát-kỳ dật-đề.
– 178 giới Ba-dật-đề,
– 8 giới Đề-xá-ni,
– 100 giới Bá-chúng học-pháp.
– 7 giới Diệt-tránh.
(Ghi chú:
Nơi đây bút-giả chỉ nêu lên “tên” của “Giới” mà thôi chớ không giảng giới vì đó lại là phần việc khác.)
Các “giới” nầy được gọi bằng một tên chung là:
“BA-LA-ĐỀ MỘC-XOA” GIỚI-BỔN.
Tên nầy – (Ba-la-đề mộc-xoa) – gồm có các nghĩa như sau:
a/- THIỂU DỤC, Tri-túc (tức là ít muốn, biết đủ – không tham cầu, không cất chứa).
b/- Thành-tựu “tứ oai-nghi” (tức là 4 cách đi, đứng, ngồi, nằm đầy-đủ các thứ oai-nghi, chững-chạc – mà hàng phàm-phu như chúng-ta chẳng thể nào có được).
c/- Không “nhận lãnh” và “cất chứa” những thứ vật loại bất tịnh (mà trong Bộ Luật PHẬT đã cấm).
d/- Tịnh-mạng (thành-tựu được “pháp-thân, huệ-mạng” – tức là ĐẮC-GIỚI)
e/- Lìa hẳn các nghiệp ác bất thiện của Thân, Khẩu, Ý.
(gọi là “Tịnh Thân”, “Tịnh Khẩu” và “Tịnh Ý” – Đây có “nghĩa” là giữ chắc được “Thập thiện nghiệp” – và xa lìa “thập ác nghiệp”) v.v…
Trong thời-kỳ “giải-thoát kiên-cố” nầy, đa phần các bậc tu-hành thảy đều là chân-chánh cả, bởi vì Quý Ngài ấy biết:
1/- Giữ chặt các “giới” đã thọ, không để cho bị khuyết-phạm, (do đó mà) thành-tựu được “giới-thể thanh-tịnh”.
Vì thế cho nên:
TÂM CỦA QUÝ NGÀI ĐƯỢC AN-ĐỊNH.
Nghĩa là:
KHÔNG BỊ CHAO-ĐỘNG TRƯỚC SỰ CÁM-DỖ CỦA CÁC CẢNH “NGŨ-DỤC”, “LỤC TRẦN” (3)
Nhờ vậy mà:
2/- Quý Ngài đắc được “ĐỊNH”, thành-tựu phần “ĐỊNH-LỰC” (4) (sức mạnh của Tâm-lực, chứng Ngũ Thần-thông)
Và:
3/- Phát sanh ra “TRÍ-HUỆ” sáng-suốt.
Với “trí-huệ” nầy, quý NGÀI liền quán-sát cùng tu-tập theo 4 Pháp “thánh-đế” (tức là “TỨ DIỆU-ĐẾ”), đó là việc quý Ngài biết rõ được rằng:
– KHỔ (là các thứ “nghiệp-quả” khổ, vui… mà mình đang lãnh-thọ trong hiện kiếp nầy).
– TẬP (là các thứ “nghiệp-nhơn” lành, dữ…mà mình đã gây tạo ra, hoặc trong kiếp trước (quá khứ) hoặc ở kiếp nầy (hiện-tại).
– DIỆT (là diệt-trừ được các thứ NHƠN và QUẢ – đây có nghĩa là giải-thoát, đắc đạo).
– ĐẠO (là y theo các pháp-môn tU-TẬP mà Phật đã thuyết- dạy ra như : 37 phẩm trợ-đạo, bát bội-xả, bát thắng-xứ, v.v…mà chăm lòng và nghiêm-chỉnh tu-tập).
Do vì “biết rõ” và “chăm lòng, nghiêm-chỉnh… tu-tập” như vậy, nên dần-dần và rốt lại, quý NGÀI:
a/- Dứt được KHỔ (tức là không còn bị thọ (thêm) “Quả-báo” nữa).
b/- Trừ được TẬP (tức là dứt được “NGHIỆP NHƠN” đời trước và không còn gây-tạo thêm “Nghiệp NHƠN” mới – (trong đời nầy) – nữa).
c/- Tu theo ĐẠO (tức là y theo những PHƯƠNG-PHÁP tu-hành mà PHẬT đã thuyết-dạy trong Kinh, rồi tinh-tấn và chuyên-cần tu-tập).
d/- Chứng được DIỆT (tức là Thành-tựu đạo-quả, đắc Tam-muội, chứng giải-thoát).
Vì thế nên quý Ngài dần-dần (tùy theo thứ loại đạo-quả đã “chứng-đắc”) mà:
– Dứt được 88 phẩm “Kiến-hoặc” (đắc đạo-quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm).
– Dứt được 81 phẩm “Tư-hoặc” (đắc đạo-quả vô-sanh A-la-hán – giải-thoát ra khỏi vòng luân-hồi, sanh-tử của Tam-giới, như chim thoát lồng, cá ra khỏi lưới).
Đến đây thì quý NGÀI hoàn-toàn tu-chứng được “Tứ Thánh Đế” (Tứ CHƠN-ĐẾ) (là KHỔ-ĐẾ, TẬP-ĐẾ, DIỆT-ĐẾ, ĐẠO-ĐẾ).
Và đắc được phần “ĐỊNH-PHẨM” tối cao là : “DIỆT TẬN ĐỊNH” của cảnh-giới Niết-Bàn.
HỎI:
– Sao gọi là “DIỆT TẬN ĐỊNH”?
Và:
– Sao gọi “DIỆT TẬN ĐỊNH” nầy là cảnh- giới của Niết-Bàn?
ĐÁP:
Sở-dĩ gọi “DIỆT TẬN ĐỊNH” là bởi vì:
Đây là “ĐỊNH” của bậc thánh-nhơn giải-thoát – (tối thiểu cũng phải từ Quả-vị A-la-hán trở lên mới chứng-đắc được ĐỊNH nầy).
NHƯ THẾ NÀO?
a/- Bởi vì khi chứng được Quả-vị A-la-hán rồi thì bậc Thánh-nhơn đó mới:
– Đoạn dứt được “NGÃ CHẤP”.
– Xả bỏ “TÀNG-THỨC” (tức là A-lại-Da thức thứ 8).
Vì thế mà:
– Thức MẠT-NA (thứ bảy) không còn có chỗ nào để “sở-y” (dựa vào) được nữa – (chỗ “sở-y” của “Mạt-Na thức” là “Tàng-thức”) – vì thế cho nên bậc A-LA-HÁN thánh-nhơn không còn chấp “NGÔ.
b/- Còn gọi “DIỆT-TẬN-ĐỊNH” là bởi vì:
Định nầy có tánh cách:
1/- Diệt trừ hết 6 thức “TÂM VƯƠNG” (tức là diệt hết “6 thức” của Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Y, không cho NÓ sanh-khởi lên nữa).
2/- Diệt luôn các thứ “TÂM SỞ” (tức là loại bỏ hết các “pháp sở hữu” của Tâm như là các món “căn-bổn phiền-não” và “tùy phiền-não” (5) v.v…).
3/- Diệt luôn các phần “Tạp nhiễm” (tức là các thứ duyên đời, phiền-não…) của Lục-Thức – (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý thức) – mà “Mạt-Na” (thức) đã từng thâu- góp lấy trước kia…
Vì thế mà khi một bậc thánh-nhơn nào nhập vào trong “ĐỊNH” nầy, rồi ở luôn trong ĐỊNH ấy (tức là không Xuất Định) thì được gọi là:
“NHẬP NIẾT-BÀN”
PHẬT và các Vị Thánh-Tăng Đại-Đệ Tử của Ngài đều do nơi “ĐỊNH DIỆT-TẬN” nầy mà NHẬP vào trong NIẾT-BÀN “CHÁNH-VỊ” hết cả.
Xin trích-dẫn ra đây một đoạn Kinh để làm chứng-tín về việc nầy (Nhập Niết-Bàn của PHẬT), như sau:
……………………
1/- Đức PHẬT bảo Đại-chúng:
– Giờ đây ta nhập “NIẾT-BÀN”…
2/- Nói vừa xong thì đức THẾ-TÔN liền:
2a/- Nhập vào (cảnh-giới của) Sơ-Thiền Định.
– Xuất “Sơ-Thiền” nhập “Nhị-Thiền”.
– Xuất “Nhị-Thiền” nhập “Tam-Thiền”
– Xuất “Tam-Thiền” nhập “Tứ-Thiền”.
(Đây là nhập vào “Tứ-Thiền” của cõi Sắc-giới).
2b/- Xuất “Tứ-thiền” nhập “Không-Xứ Định”.
– Xuất “Không-Xứ Định” nhập “Thức-Xứ Định”
– Xuất “Thức-Xứ Định” nhập “Bất-Dụng-Xứ Định” (tức là Vô sở-hữu xứ định).
– Xuất “Bất-Dụng-Xứ Định” nhập “Phi-Tưởng Phi-Phi Tưởng xứ Định”.
(Đây là nhập vào trong “Tứ Định” của cõi Vô-Sắc giới).
2c/- Xuất “Phi-Tưởng Phi-Phi Tưởng xứ Định” nhập vào “DIỆT-TẬN ĐỊNH”.
(Đây gọi là “THUẬN NHẬP” theo thứ-lớp của các Thiền-Định từ THẤP lên CAO).
Đoạn NGÀI:
2d/- Xuất “DIỆT-TẬN ĐỊNH” nhập (trở lại)
“PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG XỨ ĐỊNH”.
- Xuất “PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG XỨ ĐỊNH” nhập (trở lại) “BẤT-DỤNG-XỨ ĐỊNH” (Vô Sở-Hữu Xứ Định).
- Xuất “BẤT-DỤNG-XỨ ĐỊNH” nhập (trở lại) “THỨC-XỨ ĐỊNH”.
- Xuất “THỨC-XỨ ĐỊNH” nhập (trở lại) “KHÔNG-XỨ ĐỊNH”.
- Xuất “KHÔNG-XỨ ĐỊNH” nhập (trở lại) “TỨ-THIỀN”.
- Xuất “TỨ-THIỀN” nhập (trở lại) “TAM-THIỀN”.
- Xuất “TAM-THIỀN” nhập (trở lại) “NHỊ-THIỀN”.
- Xuất “NHỊ-THIỀN” nhập (trở lại) “SƠ-THIỀN”.
(Đây gọi là “NGHỊCH NHẬP” theo thứ-lớp của các “Thiền-Định” từ CAO xuống THẤP).
3/- Đức THẾ-TÔN THUẬN, NGHỊCH nhập các Thiền-Định như thế xong, NGÀI phổ-cáo cùng Đại-chúng… (khuyên tất-cả đồng gắng giữ GIỚI-LUẬT, LẤY “GIỚI-LUẬT” làm THẦY, và kiên-tâm, trì-chí… tu-hành).
4/- Phổ-cáo xong, Đức THẾ-TÔN liền nhập vào “Thiền-Định” (bằng phương-cách) siêu-việt:
– Từ “SƠ-THIỀN” xuất, nhập vào “TAM-THIỀN” (không qua “NHỊ-THIỀN”).
– Xuất “TAM-THIỀN” nhập “KHÔNG-XỨ ĐỊNH” (không qua Tứ-Thiền).
– Xuất “KHÔNG-XỨ ĐỊNH” nhập “VÔ-SỞ-HỮU XỨ ĐỊNH”.
– Xuất “VÔ-SỞ-HỮU XỨ ĐỊNH” nhập “DIỆT-TẬN ĐỊNH”.
(Không qua “THỨC-XỨ ĐỊNH” và “PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG XỨ ĐỊNH”).
(Đây gọi là Siêu-Việt THUẬN NHẬP “không theo thứ lớp” của các ĐỊNH từ THẤP lên CAO).
Đoạn NGÀI:
– Xuất “DIỆT-TẬN ĐỊNH” nhập (trở lại) PHI–TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG XỨ-ĐỊNH”.
– Xuất “PHI-TƯỞNG PHI-PHI TƯỞNG XỨ ĐỊNH” nhập (trở lại) “THỨC-XỨ ĐỊNH”.
– Xuất “THỨC-XỨ ĐỊNH” nhập (trở lại) “TỨ-THIỀN”.
(Không qua “VÔ-SỞ-HỮU XỨ ĐỊNH” và “KHÔNG-XỨ ĐỊNH”.)
– Xuất “TỨ-THIỀN” nhập (trở lại) “NHỊ-THIỀN”. (Không qua TAM-THIỀN).
– Xuất “NHỊ-THIỀN” nhập (trở lại) “SƠ-THIỀN”.
5/- Đức THẾ-TÔN nghịch và thuận nhập
Thiền-Định (bằng một phương-cách) Siêu-Việt như thế xong, NGÀI phổ-cáo cùng Đại-Chúng…
6/- Phổ-cáo xong đức THẾ-TÔN liền nhập vào Thiền-Định Siêu-Việt:
– Xuất “SƠ-THIỀN” nhập “TAM-THIỀN”. (Không qua Nhị-Thiền).
– Xuất “TAM-THIỀN” nhập “DIỆT-TẬN ĐỊNH”.
(Không qua các “THIỀN-ĐỊNH” trung-gian).
– Xuất “DIỆT-TẬN ĐỊNH” (nghịch nhập trở lại) “SƠ THIỀN”.
(Không qua các “THIỀN-ĐỊNH” trung-gian).
7/- Đức NHƯ-LAI lần-lượt “Thuận-Nghịch”
nhập, xuất các Thiền Định Siêu Việt như vậy đến 3 lần, mỗi lần NGÀI đều có các lời phổ-cáo, dặn-dò, phú-chúc, nhắc-nhở đại-chúng (cố-gắng nhớ và y theo lời PHẬT đã thuyết-dạy mà chân-thật và tinh-tiến tu-hành…).
8/- Lúc đó, đúng vào giữa đêm, đức NHƯ-LAI
nằm trên giường Thất-Bảo trong rừng Ta-La Song thọ, nhập vào Định TỨ-THIỀN, yên-lặng mà BÁT NIẾT-BÀN.
(Phụ-chú:
PHẬT không cần vào “DIỆT-TẬN ĐỊNH” để nhập Niết-Bàn – vì NGÀI là đấng NHƯ-LAI PHÁP-VƯƠNG, được tự-tại trong tất-cả các thứ loại “THIỀN-ĐỊNH”. Nên bất cứ ở “ĐỊNH” nào, NGÀI cũng đều vào Niết-Bàn được cả, chớ còn như các bậc A-la-Hán – (hoặc DUYÊN-GIÁC) – thì quý NGÀI bắt-buộc phải :
Vào “DIỆT TẬN ĐỊNH”
thì mới nhập Niết-bàn được).
(Ghi-chú quan-trọng :
a/- Bậc “thánh-nhơn” thì có “ĐẾ” (chữ ĐẾ đây có nghĩa là Chơn-Đế hay còn gọi bằng một tên khác nữa là giải-thoát).
b/- Hàng “phàm-phu” trong 3 cõi (Dục, Sắc, Vô-Sắc) thì không có ĐẾ – (vì chưa được chứng-đạo và giải-thoát) – mà chỉ có 4 thứ “Triền-phược” là KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO thôi.
(Nghĩa là : – Chỉ thấy biết được hai phần khổ (Quả-báo), tập (Nghiệp-Nhơn).
Và:
– Còn đang ở trên đường tu-tập theo “ĐẠO” (PHÁP) để mong có ngày chứng được “DIỆT” – (nhưng hiện-tại thì vẫn còn là Phàm-phu bạt-địa sanh-tử, chớ chưa thành-tựu được “đạo-quả giải-thoát” – (tức là chưa chứng được DIỆT) – Cho nên không có được XÁ-LỢI chi cả).
c/- Các loại ngoại đạo, tà giáo (96 thứ), cùng các loài ma, quỷ, v.v… thì duy-nhất chỉ có 2 thứ là “KHỔ ” (quả-báo lãnh-thọ) và “TẬP” (nghiệp-nhơn chứa nhóm) mà thôi, chớ không có “DIỆT”- (mà cũng) – không có “ĐẠO”. (Vì HỌ không có được các phần “đạo-pháp chơn-chánh” (chẳng hạn như là 37 phẩm TRỢ ĐẠO v.v…) để tu-tập theo, cho nên HỌ chẳng bao giờ chứng được “DIỆT” – (tức là HỌ không được đắc-đạo và giải-thoát).
Nhiều lắm là HỌ (các giáo-phái Ngoại-đạo) được sanh lên cõi TRỜI hoặc DỤC-GIỚI hoặc SẮC-GIỚI hay là đáo trở lại làm NGƯỜI mà thôi (có khi còn bị rơi vào trong 4 ác-đạo nữa (A-tu-la, Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh).
Tại sao?
– Vì HỌ tu-tập theo “Tà-pháp” vậy).
*
Các “phần” vừa được dẫn-giải (sơ-lược) trên đây chính là việc “Tu-hành” của các bậc “giải-thoát thánh-nhơn” trong thời-gian 500 năm nơi giai-đoạn “GIẢI-THOÁT KIÊN-CỐ” (đã nói ở trên) vậy.
Nghĩa là:
– Do vì giữ-gìn “GIỚI-LUẬT” chặt-chẽ không cho khuyết-phạm, mà (quý NGÀI):
– Đắc được “ĐỊNH”.
Do được “ĐỊNH” mà:
– Sanh ra “HUỆ”.
– Do nơi “HUỆ” nên thấu-hiểu được các “thâm-nghĩa” của những lời Phật dạy trong kinh-điển, rồi y theo (các nghĩa) đó mà suy-cứu, tham-cầu và hành-trì đúng y “như–PHÁP” (chẳng hạn như tu 37 phẩm Trợ-đạo…)
mà:
– Đắc được tứ thánh-quả (từ Tu-đà-hoàn… đến A-la-hán).
Cho nên khi quý NGÀI – (còn tại thế, cũng như sau khi) – viên-tịch và thiêu-hóa thân-xác xong rồi thì phần xương-cốt còn lại (đương-nhiên và tự-động) chuyển thành ra XÁ-LỢI (còn gọi là Thánh-cốt, linh-cốt) cứng-chắc cùng-cực, trong-sạch như kim-cương (gõ vào phát ra tiếng kêu nghe rất trong thanh), linh-hiển phi-thường, được tất-cả các hàng Trời, Thần, Người trong 3 cõi (Dục-giới, Sắc-giới, Vô sắc-giới) quý-trọng, cung-kính, phụng-thờ và lễ-bái… (để cầu được hưởng nhiều phước-báo về sau).
*
(Phụ-chú:
Người PHẬT-TỬ tu-học PHẬT PHÁP cần phải nên biết rằng:
– Vì “XÁ-LỢI” là do sức “ĐỊNH-LỰC” tối-thượng kết thành, cho nên cứng-chắc phi- thường, trên thế-gian nầy (nói riêng) và 10 phương, 3 cõi (nói chung), không có nhất một thứ vật loại gì có thể phá-hoại được cả, dù cho có đốt, đập, mài, dủa v.v… đến cách mấy đi chăng nữa, nhưng trước sau gì XÁ-LỢI chẳng những cũng vẫn y-nhiên mà lại càng thêm tỏ-sáng, rực-rỡ hơn xưa.
Chớ chẳng phải như “Tác-giả” của quyển sách
“Niệm Phật Lưu Xá-Lợi” kia… khuyên nói lên lời sai-lầm rằng:
– “Khi có thiêu xác người mất thì nhớ căn-dặn nhân-viên lò thiêu đừng có đốt kỹ quá, mà chỉ để lửa vừa-vừa trong một thời-gian ngắn (cố-định) nào đó mà thôi. Vì nếu như đốt lâu và kỹ quá thì xương-cốt sẽ nát ra thành bột hết, không còn có Xá-Lợi được nữa” !!!
Hoặc là nói lên lời sái-quấy rằng:
– Vì “XÁ-LỢI” lớn quá cho nên phải dùng búa đập nhỏ ra để bỏ vào trong hủ và:
– Phân-phát cho Phật-tử đem về thờ-cúng…. đâu.
Đây cũng là một bằng chứng về việc:
– Tác-giả (nói riêng) và các Phật-tử khác (nói chung) tuy rằng từng có nghe nói đến “XÁ-LỢI” (là thế nầy, thế kia), nhưng mà:
Chẳng biết chút gì về XÁ-LỢI (hết) cả.
Cho nên HỌ:
– Đọc được quyển-sách “NIỆM-PHẬT LƯU XÁ-LỢI” kia…..
Hoặc là:
Hễ nghe nói đến hai chữ “XÁ-LỢI” (hay là được nghe nói có người quá-vãng nào, sau khi thiêu-hoá xác thân xong có lưu lại “XÁ-LỢI” (!) là HỌ phát tâm ái-mộ, xem như đó là một việc cực-kỳ hy-hữu lắm, và nhắm mắt, nhắm mũi… cung-kính tin nhận theo liền, bất kể đó là “Thiệt” hay “Giả”, “ĐÚNG” hay “SAI” chi hết).
*
2/- Thiền-định kiên-cố:
Sau 500 năm của thời “Giải-thoát kiên-cố” qua xong rồi, thì:
Đến thời-kỳ thứ hai của “pháp-vận” là:
“THIỀN-ĐỊNH KIÊN-CỐ”.
Trong thời “Pháp-vận” nầy thì hai phần “GIỚI-LUẬT” và “PHÁP-NGHI TU-TẬP” thảy đều bị “lỏng-lẻo” và “sai-lạc”.
Nghĩa là:
a/- Về phần “GIỚI-LUẬT” thì đa-số các hàng xuất-gia thảy đều (hoặc ít, hoặc nhiều) “phạm giới” hết cả chớ không còn được nghiêm-tịnh, chặt-chẽ, như ở vào trong thời-kỳ “giải-thoát kiên-cố” khi trước nữa.
Thứ đến là:
b/- Về “pháp-thức tu-tập” thì các PHÁP-NGHI HÀNH-TRÌ (về phần SỰ) không còn được “đúng y như pháp” nữa, hoặc “nếu có đúng” thì sự hành-trì của các Hành-giả tu-tập đa phần đều lơ-là, biếng-trễ, chớ chẳng còn chuyên-cần và tinh-tấn tu-tập như ở vào thời-kỳ “Giải-thoát kiên-cố” khi xưa.
NHƯ THẾ NÀO?
Xin được trích một đoạn Kinh để làm chứng-tín (về việc vừa được luận trên) như sau:
Cũng trong Kinh “MA-HA MA-GIA”, PHẬT có huyền-ký lại lời dạy rằng :
– “100 năm kế tiếp sau thời-kỳ “GIẢI-THOÁT KIÊN-CỐ” (tức là 600 năm sau khi PHẬT nhập Niết-Bàn rồi) thì :
– 96 thứ tà-giáo, ngoại-đạo phục-hưng (sống dậy) – [vì chẳng có các bậc THÁNH-NHƠN GIẢI-THOÁT trụ đời hoằng-dương CHÁNH PHÁP, cho nên các thứ ngoại-giáo nầy không còn bị “kềm-chế” như trước nữa], tà thuyết mới được dịp nổi lên, phá hoại chánh-pháp.
Lúc ấy,
– Có Tỳ-kheo MÃ-MINH (6) ra đời.
Tỳ-kheo nầy dùng tài “huệ-biện” (Trí-huệ biện-tài) hàng-phục ngoại-đạo.
– 100 năm kế tiếp (tức là 700 năm sau khi
Phật nhập Niết-Bàn), có Tỳ-kheo LONG-THỌ(7) ra đời, dùng sức “chánh-trí” (Trí-huệ Bát-nhã chân-chánh), xô-ngã cột phướng Tà-kiến, đốt sáng ngọn đuốc Phật-pháp.
(Lời phụ của người chú-giải:
Đến đây thì thời-kỳ chánh-pháp bắt đầu suy-kém và tàn-rụi dần-dần, nhường lại cho thời-kỳ “Tượng-pháp” và “Mạt-pháp” kế tiếp theo sau.)
Vì thế cho nên:
Bắt đầu năm thứ 800 sau khi PHẬT nhập Niết-Bàn rồi thì:
– Hàng xuất-gia phần nhiều tham trước danh-lợi, giải-đải (làm biếng), buông-lung tâm-tánh…
Trong trăm, ngàn người tu, chỉ có một ít người Đắc-đạo.
– 900 năm tiếp (sau khi Phật nhập Niết-Bàn), trong giới Tăng, Ni, phần nhiều là những hạng nô-tỳ bỏ tục xuất-gia.
– 1000 năm tiếp (sau khi Phật Niết-Bàn), các Tỳ-kheo nghe nói đến pháp tu “Bất tịnh-quán” (Pháp quán thân-thể mình và chúng-sanh đều là nhơ-bẩn chớ không có sạch, để dứt trừ sự “DỤC ÁI”), Pháp “Sổ tức quán” (Cách đếm hơi thở để làm cho “TÂM” được AN-ĐỊNH), thì buồn chán không thích tu-tập.
Trong trăm ngàn (100.000) người Tu, chỉ có một ít người được vào trong “chánh-định”.
Đến đây thì thời-kỳ “THIỀN-ĐỊNH KIÊN-CỐ” thứ hai đã chung-mãn (để bắt đầu bước sang thời “MẠT PHÁP” kế tiếp gồm có “3 thời-kỳ” nhỏ là
– “ĐA-VĂN”, “THÁP TỰ” và “ĐẤU TRANH” Kiên-cố – (sẽ được luận bàn đến ở sau)
Tóm lại:
Trong giai-đoạn “THIỀN-ĐỊNH KIÊN-CỐ” nầy thì:
– Nhơn tâm (lòng người) biến đổi.
– Giới-luật lỏng-lẻo.
– PHÁP-NGHI TU-TẬP (và SỰ HÀNH-TRÌ thảy đều) KÉM-KHUYẾT.
Vì thế cho nên:
– Trong số 100 người Tu thì chỉ được chừng 5 hoặc 7 người chứng-đắc được đạo-quả giải-thoát.
– Đa số còn lại (khoảng 50 hoặc 70 người) thì chỉ đắc được “THIỀN-ĐỊNH” mà thôi.
(Phụ-chú:
Nói đắc THIỀN-ĐỊNH đây tức là đắc được:
“4 THIỀN” và “4 ĐỊNH” của hai cõi Sắc-Giới và Vô Sắc-Giới thiên (tức là đắc được các thứ loại “Phàm-phu Thiền-định” (sẽ được lần-lượt giảng nói dưới đây), mà thôi.
***
Chú thích:
(1)- Ưu-Ba Cúc-Đa: Theo trong KINH PHẬT HUYỀN-KÝ thì bậc Tổ-Sư nầy là “ỨNG-THÂN” của PHẬT quá-khứ (là) VÔ-TƯỚNG PHẬT (thị-hiện) Ngài nối ngôi-vị Tổ thứ Ba (là Ngài THƯƠNG-NA HÒA-TU) mà làm TỔ THỨ TƯ (bên Thiền-Tông).
(2)- Phú Lầu-Na Di-Đa-La Ni-Tử: là một trong hàng “Thập đại đệ-tử” (10 đệ tử A-LA HÁN vĩ-đại nhất của Phật THÍCH-CA) được danh tặng là: – “người thuyết pháp đệ nhất”.
a/- Ngũ dục : Là 5 sự “ham-muốn” của người đời, đó là:
– Tài (tiền bạc, quý kim…),
– Sắc (sắc đẹp của nam, nữ, hoặc vật loại…)
– Danh (danh vọng, tiếng tăm khen-ngợi),
– Thực (ăn uống),
– Thùy (ngủ-nghỉ).
b/- Lục trần : Là 6 thứ “cám-dỗ” người đời, đó là:
Sắc (đẹp), Thanh (âm-thanh), Hương (mùi-hương), Vị (mùi-vị), Xúc (xúc-chạm giữa hai thân Nam, Nữ…), Pháp (các thứ vật loại hoặc hữu-tình, hoặc vô-tình).
(4)- ĐỊNH của bậc “thánh-nhơn giải-thoát” gồm có 9 thứ. Đó là:
– Sơ thiền ĐỊNH (ly (Dục) sanh hỷ, lạc),
– Nhị thiền ĐỊNH (Định sanh hỷ, lạc).
– Tam thiền ĐỊNH (Ly hỷ diệu lạc) ,
– Tứ thiền ĐỊNH (xả niệm thanh-tịnh)
(Đây là 4 THIỀN của Trời Sắc giới)
– Không vô-biên xứ định,
– Thức vô-biên xứ định.
– Vô sở hữu xứ định.
– Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định.
(Đây là 4 ĐỊNH của cõi Trời Vô Sắc Giới)
8 thứ THIỀN-ĐỊNH nầy PHẬT gọi là “PHÀM-PHU THIỀN” (vì người Tu dù cho có chứng đắc được hết 8 thứ ĐỊNH nầy đi chăng nữa, nhưng cũng vẫn chưa dứt được các sự sanh-tử, luân-hồi – tức là chưa giải-thoát ra ngoài ba cõi).
– Chư Thiên trong hai cõi “SẮC” và “VÔ SẮC” tùy theo mức độ tu-hành mà chứng-đắc được các thứ “ĐỊNH” tương-xứng.
Còn ở nơi các bậc “thánh-nhơn giải-thoát” thì:
– Quý Ngài cũng đắc đủ được 8 thứ ĐỊNH nầy, nhưng (ngoài ra) quý Ngài còn đắc thêm ĐỊNH thứ 9 nữa là:
DIỆT-TẬN ĐỊNH
– “Định DIỆT-TẬN” nầy chỉ có từ bậc Thánh-nhơn Vô-lậu A-la-hán (trở lên) mới tu-chứng được mà thôi.
(5)- Căn bổn phiền não: Là các món “phiền-não” “CHÁNH GỐC và CHỦ-LỰC”.
Gồm có 10 thứ:
Đó là:
– Tham, sân, si, mạn, nghi (đây là 5 món “độn sử”, rất khó trừ phục).
– Thân kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiên thủ-kiến, giới thủ-kiến (đây là 5 món “lợi sử”, thuộc về “ÁC-KIẾN”, tương-đối dễ Trừ-phục hơn – nếu được “kiến-đạo” (tức là đắc quả Tu đà-hoàn).
– Tùy phiền não : Là các thứ phiền-não “PHỤ-TRỢ”, đại-khái gồm có 20 thứ, đó là:
1/- Phẩn (giận), 2/- Hận (hờn), 3/- Phú (che giấu), 4/- Não (buồn-phiền), 5/- Tật (ganh-ghét), 6/- Xan (bỏn-xẻn), 7/- Cuống (dối gạt), 8/- Siểm (nịnh bợ), 9/- Hại (tổn-hại), 10/- Kiêu (kiêu-căng), 11/- Vô-tàm (không biết xấu hổ với mình), 12/- Vô-quý (không biết xấu-hổ với người chung-quanh), 13/- Trạo-cử (chao-động thân, tâm), 14/- Hôn-trầm (tối mờ), 15/- Bất-tín (không có lòng tin), 16/- Giải-đải (làm biếng), 17/- Phóng-dật (buông lung tâm-tánh), 18/- Thất niệm (không nhớ), 19/- Tán-loạn (lăng-xăng, rối-loạn), 20/- Bất chánh-tri (không có sự hiểu biết chơn-chánh).
(6)- MÃ-MINH Đại-Sĩ: là Ứng-thân của một bậc Đại-sĩ Bồ-Tát ở ngôi-vị “SƠ HOAN-HỶ ĐỊA” trong hàng THẬP-ĐỊA ĐẠI-SĨ PHÁP-THÂN GIAI-VỊ (THẬP-THÁNH). Ngài nối-tiếp TỔ thứ 11 là Đức PHÚ-NA DẠ-XA mà chấp chưởng ngôi Tổ-vị thứ 12 bên Tây-Thiên Trúc (cổ Ấn-Độ).
Ngài là Thầy của Tổ thứ 13 (là Đức CA-TÌ MA-LA).
Bộ LUẬN quan-trọng nhất của NGÀI để lại cho hậu-thế là : – Bộ “ĐẠI-THỪA KHỞI-TÍN LUẬN”
Nhờ bộ “LUẬN” nầy mà giáo-môn “ĐẠI-THỪA PHẬT-PHÁP” được phục-hưng và hoằng-truyền rộng-rãi mãi cho đến ngày nay.
(7)- LONG-THỌ BỒ-TÁT: Cũng là Ứng-thân của một vị Đại Bồ-Tát khác nữa.
Ngài nối-tiếp Tổ thứ 13 là Đức CA-TÌ MA-LA mà chấp chưởng ngôi Tổ-vị thứ 14 bên Tây-Thiên Trúc.
Ngài có soạn ra ba bộ “LUẬN” rất quan-trọng để lại cho hậu-thế là:
– ĐẠI-TRÍ ĐỘ LUẬN,
– TRUNG-QUÁN LUẬN,
– THẬP NHỊ MÔN LUẬN.
Vô-số hàng Thiện-Tín nhờ ở nơi ba bộ LUẬN nầy mà được “tỏ-ngộ” tâm-yếu của Đại-Thừa PHẬT-PHÁP.