LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Năm trăm Đại A-la-hán cùng tạo luận
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch Phạn sáng Hán
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
CHƯƠNG VI: CĂN UẨN
Phẩm Thứ Nhất: LUẬN VỀ CĂN
(Từ quyển 142 – quyển 146)
Hai mươi hai Căn, đó là Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn, Nữ căn, Nam căn, Mạng căn, Ý căn, Lạc căn, Khổ căn, Hỷ căn, Ưu căn, Xả căn, Tín căn, Tinh tiến căn, Niệm căn, Định căn, Tuệ căn, Vị tri đương tri căn, Dĩ tri căn, Cụ tri căn.
Hai mươi hai Căn này, mấy là Học, mấy là Vô học, mấy là Phi học phi vô học? Các chương như vậy và giải thích về nghĩa từng chương đã lĩnh hội rồi, tiếp theo cần phải phân biệt rộng ra.
Hỏi: Vì sao Tôn giả dùng hai mươi hai Căn mà soạn luận?
Đáp: Là do ý muốn của Tôn giả ấy, tùy theo ý muốn ấy không trái với pháp tướng mà soạn ra phần luận này, không cần phải vặn hỏi về nguyên cớ ấy.
Có người nói: Không cần phải hỏi, bởi vì Tôn giả ấy dùng hai mươi hai Căn nói trong kinh. Kinh ấy là căn bản của luận này, dựa vào kinh ấy mà soạn luận cho nên không có thể vặn hỏi về nhân duyên ấy. Bởi vì Tôn giả ấy đối với hai mươi hai Căn mà Đức Phật đã nói, không có thể giảm bớt mà nói là hai mươi mốt, không có thể tăng thêm mà nói là hai mươi ba. Bởi vì Đức Phật đã nói không có tăng giảm, cho nên không có thể tăng giảm. Như không có thể tăng giảm, không có thể nhiều ít, không có thể thua được, vô lượng vô biên, nên biết cũng như vậy. Bởi vì vô lượng vô biên mà Đức Phật đã nói, không có thể ở trong đó làm thành số lượng-giới hạn.
Vô lượng là bởi vì nghĩa khó suy lường, vô biên là bởi vì văn khó nhận biết. Ví như biển rộng vô lượng vô biên, vô lượng là sâu, vô biên là rộng. Đức Thế Tôn đã nói nên biết cũng như vậy, tuy số lượng trăm ngàn Câu-chi Na-dữu-đa các Đại luận sư như Xá-lợi-tử…, mà đối với nghĩa của hai câu văn do Đức Phật nói ra, soạn thành trăm ngàn bộ luận để phân biệt giải thích, tận cùng tánh giác ngộ ấy cũng không đạt được giới hạn. Vì vậy, không cần phải vặn hỏi Tôn giả về điều ấy.
Hỏi: Gác lại sự việc Tôn giả ấy, vì sao Đức Thế Tôn nói kinh này?
Đáp: Bởi vì quán xét hữu tình hóa độ thuận theo nghe pháp này được lợi ích thêm. Lại nữa, kinh này có duyên khởi riêng biệt, đó là “Có Phạm Chí tên gọi Sinh Văn, đi đến nơi Đức Phật, hoan hỷ chào hỏi rồi ngồi ở một phía mà thưa với Đức Phật rằng: Thi thiết mấy Căn để thâu nhiếp hết các Căn? Đức Phật nói: Ta nói hai mươi hai Căn thâu nhiếp hết các Căn, nếu có ai ngăn chặn những Căn này mà lại nói đến những Căn khác, thì nên biết người ấy nói có ngôn từ nhưng không có nghĩa lý. Nếu còn hỏi thì người ấy lại sinh ra ngu dốt mê hoặc. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không phải là cảnh giới của họ.” Bởi vì Phạm Chí hỏi cho nên nói ra kinh này. Vì vậy, không nên dẫn ra ý Đức Phật đã nói.
Hỏi: Gác lại ý Đức Phật đã nói, vì sao Phạm Chí chỉ hỏi về các Căn mà không hỏi đến Uẩn-Giới-Xứ…?
Đáp: Tùy theo sự nghi ngờ ấy mà hỏi, không cần phải vặn hỏi. Hoặc là Phạm Chí ấy có tánh khéo tìm hiểu suy nghĩ, hễ có nghe điều gì khác lạ thì đi hỏi khắp nơi, vì biết về nghĩa của Căn cho nên đi trải qua chín mươi sáu ngoại đạo ở khắp nơi để hỏi về số lượng của các Căn. Như ngoại đạo Ly Hệ thi thiết một Căn, đó gọi là Mạng căn có khắp mọi vật trong ngoài, cho nên người ấy đưa ra quy định không uống nước lạnh, không chặt đứt cỏ xanh, bởi vì có mạng sống.
Hỏi: Các ngoại đạo ở trong vật bên ngoài, chấp có Căn gì mà gọi là pháp có Căn?
Đáp: Có người đối với vật bên ngoài chấp là có Ý căn. Có người đối với vật bên ngoài chấp là có Mạng căn. Có người đối với vật bên ngoài chấp là có hai Căn, do Ý căn cho nên gọi là pháp có Căn, do Mạng căn cho nên gọi là pháp có Mạng. Có người đối với vật bên ngoài chấp là có hai Căn, đó là Nghiệp và Ý, tùy theo thích hợp sẽ nói. Lại như ngoại đạo Ba-la-thiết-lợi, đưa ra cách nói như vậy: Mắt không nhìn thấy Sắc, tai không nghe thấy Thanh, gọi là Tu căn của Thánh.
Hỏi: Vì sao người ấy gọi là Ba-la-thiết-lợi?
Đáp: Là tên gọi đã lập ra, không cần phải hỏi về lý do lập ra tên gọi, bởi vì tên gọi tùy theo giả lập không hẳn là đều có Thật nghĩa.
Có người nói: Đây là họ của người ấy, nghĩa là Bà-la-môn có họ là Kiều-sa, có họ là Phiệt-sa, có họ là Phiến-thất-lược, có họ là Kiềutrận-na, có họ là Bà-la-đọa-xà, có họ là Ba-la-thiết-lợi.
Có người nói: Đây là tạp chủng, nghĩa là từ Sát-đế-lợi và Bà-lamôn sinh ra, gọi là Ba-la-thiết-lợi; như từ Lừa và Ngựa mà sinh ra gọi là con La.
Nói như vậy thì đây là họ của người ấy.
“Người ấy có đệ tử tên gọi Ốt-đát-la, đã từng vào một lúc nọ đi đến nơi Đức Phật, hoan hỷ chào hỏi xong ngồi ở một phía. Lúc ấy Đức Phật bảo rằng: Thầy ông là Ba-la-thiết-lợi, vì các ông mà nói về pháp Tu căn chăng? Ốt-đát-la nói: Thầy con đã từng nói. Đức Phật hỏi thế nào? Người ấy nói: Thầy con đưa ra cách nói như vậy: Mắt không nhìn thấy Sắc, tai không nghe thấy Thanh, gọi là Tu căn của Thánh, bởi vì không có gì giữ lấy. Đức Phật liền chất vấn: Nếu như vậy thì người mù phải gọi là Tu căn của Thánh, bởi vì không nhìn thấy Sắc. Lúc ấy Anan-đà đứng hầu bên Đức Phật, phe phẩy quạt cho Đức Phật, lập tức cũng chất vấn: Người điếc cũng phải gọi là Tu căn của Thánh, bởi vì không nghe thấy Thanh.”
Hỏi: Giả sử có số lượng trăm ngàn Câu-chi Na-dữu-đa ngoại đạo, trí tuệ biện tài giống như Xá-lợi-tử, Đức Phật đều có thể làm cho khuất phục, vì sao Đức Thế Tôn đưa ra chất vấn thứ nhất rồi, Tôn giả Khánh Hỷ đưa ra chất vấn thứ hai, mà Đức Thế Tôn không ngăn chặn là tại vì sao?
Đáp: Đức Phật nhìn yết hầu của Khánh Hỷ có tướng trạng, biết là muốn đưa ra chất vấn cho nên tự mình liền dừng lại. Bởi vì Đức Phật ở trong ba Vô số kiếp xưa kia, lúc thường xuyên tinh tiến tu hạnh Bồ-tát, hãy còn không làm gián đoạn biện tài vốn có của người khác, cho đến đệ tử cũng không ngăn chặn, huống hồ nay thành Phật mà làm gián đoạn biện tài của người khác hay sao?
Lại nữa, Đức Phật biết rõ hoặc là tự mình đã nói, hoặc là Khánh Hỷ nói, đều bình đẳng không có gì khác nhau, không hề có tăng giảm, cho nên không ngăn chặn.
Lại nữa, bởi vì hiển bày về thầy và đệ tử cùng có năng lực làm cho người khác phải khuất phục. Nếu thầy và đệ tử cùng có năng lực làm cho phải khuất phục, thì mới gọi là khéo léo điều phục, cho nên không ngăn cản.
Lại nữa, bởi vì muốn làm cho người ấy không có lời nào khác. Nghĩa là nếu Đức Thế Tôn đưa ra chất vấn thứ nhất, Khánh Hỷ không đưa ra chất vấn thứ hai, thì ngoại đạo ấy trở về trong chúng của mình, bởi vì tâm kiêu mạn còn lại, mà đưa ra lời nói như vậy: Tuy bị vị thầy làm cho khuất phục mà không phải là đệ tử của vị ấy, vị ấy tuy có thể làm cho chúng ta khuất phục mà không phải là thầy của chúng ta. Nếu Phật Thế Tôn đưa ra chất vấn thứ nhất, Khánh Hỷ lại đưa ra chất vấn thứ hai, thì người ấy vĩnh viễn rời bỏ tâm kiêu mạn, bởi vì đệ tử hãy còn có thể làm cho chúng ta khuất phục, huống là thầy của họ hay sao? Giả sử thầy chúng ta có đến thì cũng không thể nào đối đáp được, huống gì là chúng ta?
Lại nữa, bởi vì muốn thỏa ý của Phạm Chí ấy. Người ấy dấy lên nghĩ rằng: Kiều-đáp-ma tôn quý là bậc đứng đầu trong các lực sĩ, không có ai cao hơn, có thể điều phục và có thể đánh đổ tất cả các Luận giả mà không bị khuất phục; là bậc tôn quý thù thắng nhất trong các Luận sư, tất cả các Đại Luận sư xưa kia hãy còn không có ai có thể đối đáp, huống gì là chúng ta? Nếu đệ tử của vị ấy cùng với mình bàn luận, thì mình sẽ đối đáp qua lại, lẽ nào không thích hợp hay sao? Đức Phật luôn luôn làm thỏa ý của người đã hóa độ, như suy nghĩ của họ mà đưa đường dẫn lối, cho nên không ngăn cản sự chất vấn của Khánh Hỷ.
Lại nữa, Đức Phật lấy Khánh Hỷ làm người chứng nghĩa, cho nên chúng ngoại đạo ấy tin tưởng tôn trọng Khánh Hỷ. Bởi vì hình dáng tướng mạo của Tôn giả ấy đoan nghiêm, có sở trường biết về Nhân-đàla và luận Thanh minh, cho nên ý Đức Phật khiến Tôn giả hỏi người đã tin tưởng, tự nghiệm xét tông chỉ của thầy mình có hợp với chánh lý hay không? Vì vậy, lúc Khánh Hỷ nói nhưng Đức Phật không ngăn cản.
Lại nữa, bởi vì muốn hiển bày Đức Thế Tôn không có suy nghĩ về người hơn mình. Nghĩa là các ngoại đạo suy nghĩ trong số đệ tử có người hơn mình, cho nên ngăn chặn ngôn từ biện giải của họ; Đức Phật không có điều này. Giả sử có số lượng trăm ngàn Câu-chi Na-dữu-đa đệ tử, có biện tài trí tuệ như Xá-lợi-tử, cũng không có ai vấn nạn sánh bằng Đức Phật, huống gì có thể hơn được Đức Phật?
Lại nữa, bởi vì muốn hiển bày mình đã đoạn bỏ sự keo kiệt bẩn thỉu về pháp. Nghĩa là các ngoại đạo không cho phép đệ tử luận bàn chất vấn với người khác, đừng để cho họ nhờ đó mà được nhiều danh dự-cung kính-lợi dưỡng; Đức Phật thì không như vậy. Giả sử ở thế gian, tất cả đều có được rất nhiều danh lợi, mà Đức Phật không có chút nào thì cũng không hề ganh ghét, vì thế cho nên không ngăn cản lời nói của Khánh Hỷ.
Lại nữa, bởi vì muốn hiển bày đệ tử cũng hơn hẳn người khác.
Nghĩa là các ngoại đạo sợ rằng học trò của mình luận bàn chất vấn với người khác, rơi vào thất bại chuốc lấy nhục nhã; đệ tử của Đức Thế Tôn không có ai không hơn hẳn người khác, nếu luận bàn chất vấn thì Chánh pháp của Như Lai lưu truyền càng rạng rỡ thêm, cho nên không ngăn cản.
Lại nữa, bởi vì muốn biểu hiện rõ ràng trong cách nói pháp khéo léo, văn nghĩa đầy đủ không có cách nhìn khác nhau. Nghĩa là các ngoại đạo trong cách nói pháp xấu xa, văn nghĩa trái ngược, thầy trò nhìn nhận khác nhau, hễ có vấn đề gì đã thiết lập-đã nói ra-đã giải thích, thì thầy và đệ tử đều trái ngược nhau; trong Chánh pháp của Đức Phật không có lỗi lầm này, hễ có vấn đề gì đã thiết lập-đã nói ra-đã giải thích, thì đệ tử và thầy đều cùng chung một vị.
Bởi vì những nhân duyên như vậy, cho nên đối với ngoại đạo ấy, Đức Phật và Khánh Hỷ đều đưa ra một vấn nạn.
Hỏi: Nếu ngoại đạo chấp nhận người mù-điếc là tu căn của Thánh, thì tại sao làm thành vấn nạn?
Đáp: Đây là vấn nạn lớn, cũng là nói chung về sai lầm của ngoại đạo, không có ai có thể đối đáp được. Nghĩa là nếu ông chấp nhận người mù-điếc cũng có thể gọi là tu căn của Thánh, thì tại sao các ông rời bỏ đời sống gia đình, ngày đêm luôn luôn chịu khó tu các phạm hạnh? Chỉ cần hủy hoại hai căn của mắt và tai, thì tự nhiên có thể gọi là người tu căn của thánh. Vì vậy, trước đã nói là đây là vấn nạn lớn, cũng là chỉ trích chung tất cả ngoại đạo.
Lại nữa, phái Thắng Luận nói có năm Căn, nhãn-nhĩ-tỷ-thiệt-thân là năm Căn.
Lại nữa, phái Số Luận nói mười một Căn, đó là năm Căn thuộc về giác quan, năm Căn thuộc về nghiệp và Ý căn. Năm Căn thuộc về giác quan, đó là nhãn-nhĩ-tỷ-thiệt-thân Căn. Năm Căn thuộc về nghiệp, đó là Căn của lời nói-tay-chân-đại tiện và tiểu tiện. Cùng với Ý căn là Căn thứ mười một.
Hoặc lại có người nói: Một trăm hai mươi Căn, đó là nhãn-nhĩ-tỷ đều có hai là sáu, thiệt-thân-ý-mạng và năm Căn thuộc về cảm thọ, năm Căn như Tín…, tổng cọng là hai mươi sáu, mỗi một nẽo đều có hai mươi là một trăm hai mươi. Họ nói A-tố-lạc là nẽo thứ sáu.
Có người nói: Căn là nghĩa của Chủ. Ngoại đạo ấy nói có một trăm hai mươi Chủ, như Chủ loài trời, Chủ loài rồng, Chủ loài A-tố-lạc và Chủ loài người…, cần phải nhận lấy một trăm hai mươi Xứ như vậy, thân vi diệu thù thắng mới được giải thoát.
“Phạm Chí Sinh Văn nghe những điều như vậy, nói về Căn không như nhau, càng sinh ra nghi hoặc, không biết nơi nào là nói đúng sự thật về Căn. Nghe trong cung của dòng họ Thích sinh ra một Thái tử, đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp, thân màu vàng ròng, ánh sáng xoay tròn một tầm, người trông thấy hoan hỷ ngắm nhìn không hề thỏa mãn, từ bỏ ngôi vị Luân vương, vượt qua hoàng thành mà xuất gia, tinh tiến thường xuyên tu tập khổ hạnh rất khó thực hành, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, biết rõ tất cả mọi điều, thấy rõ tất cả mọi điều, đoạn trừ tất cả mọi điều nghi ngờ, thiết lập tất cả mọi điều quyết định, có năng lực giải thích tận cùng nguồn gốc tất cả những câu hỏi khó nhất. Nghe rồi lập tức đi đến nơi Đức Phật, ngồi ở một bên mà thưa với Đức Phật rằng: Nói về Căn thì có nhiều Sa-môn đã nói, có mấy căn thâu nhiếp hết các căn?”
Hỏi: Vì sao Phạm Chí không đem điều mình đã nghe nói sai biệt về Căn để thưa hỏi với Đức Phật mà dứt khoát đưa ra câu hỏi này?
Đáp: Người ấy có tuệ ác, sợ rằng Đức Phật từ trong Căn mà người khác đã nói, chọn lấy điều thích hợp để nói, cho nên đưa ra câu hỏi tổng quát, Đức Phật dựa vào câu hỏi ấy trả lời rằng: “Ta nói hai mươi hai Căn thâu nhiếp hết các Căn, …nói rộng ra cho đến…Bởi vì không phải là cảnh giới của họ.”
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn lại nói ra lời này: “Nếu có ai ngăn chặn những Căn này mà lại nói đến những Căn khác, thì nên biết người ấy nói có ngôn từ mà không có nghĩa lý. Nếu còn hỏi thì người ấy lại sinh ra ngu dốt mê hoặc. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì không phải là cảnh giới của họ.”
Đáp: Bởi vì muốn khiến cho người ấy biết trước đây đã nghe nói về nghĩa của một Căn, cho đến một trăm hai mươi Căn đều không phải là sự thật. Ta là người biết rõ tất cả mọi điều, thấy rõ tất cả mọi điều, hãy còn không có thể từ trong hai mươi hai Căn, giảm bớt một Căn mà nói là hai mươi mốt, tăng thêm một Căn mà nói là hai mươi ba; huống gì các ngoại đạo không có tri thức-nhìn nhận kỳ quái, từ trong các Căn có ai có năng lực tăng thêm và giảm bớt mà nói một cho đến một trăm hai mươi chăng?
Bởi vì nhân duyên này cho nên người ấy đi đến nơi Đức Phật, chỉ hỏi về nghĩa của Căn chứ không phải là hỏi về Uẩn-Giới-Xứ…
Hỏi: Hai mươi hai Căn này thì tên gọi có hai mươi hai, Thật Thể có mấy loại? Đáp: Phái Đối Pháp nói: Tên gọi có hai mươi hai, Thật Thể có mười bảy, bởi vì ở trong Nam căn-Nữ căn và ba Căn vô lậu không có Thể riêng biệt.
Hỏi: Vì sao Nam căn-Nữ căn không có Thể riêng biệt?
Đáp: Bởi vì hai Căn này chính là Thân căn thâu nhiếp. Như nói: Nữ căn là thế nào? Đó là phần ít của Thân căn. Nam căn là thế nào? Đó là phần ít của Thân căn.
Hỏi: Vì sao ba Căn vô lậu cũng không có Thể riêng biệt?
Đáp: Bởi vì ba Căn này chính là chín Căn thâu nhiếp. Chín căn, đó là Ý căn, Lạc-Hỷ-Xả căn, năm Căn như Tín… Chín căn này có phần vị gọi là Vị tri đương tri căn, có phần vị gọi là Dĩ tri căn, có phần vị gọi là Cụ tri căn, tức là phần vị Kiến đạo, phần vị Tu đạo, phần vị đạo Vô học, như thứ tự nên biết.
Lại nữa, ở trong sự nối tiếp nhau của Tùy tín-Tùy pháp hành, gọi là Vị tri đương tri căn; ở trong sự nối tiếp nhau của Tín giải-Kiến chí-Thân chứng, gọi là Dĩ tri căn; ở trong sự nối tiếp nhau của Tuệ giải thoát-Câu giải thoát, gọi là Cụ tri căn. Chín căn tụ tập tùy theo phần vị mà nói là ba cho nên không có Thể riêng biệt. Vì vậy cho nên nói hai mươi hai Căn thì tên gọi có hai mươi hai, Thật Thể có mười bảy.
Tôn giả Pháp Cứu đưa ra cách nói như vậy: “Tên gọi có hai mươi hai, Thật Thể có mười bốn, đó là bởi vì ngay năm Căn trước và Mạng-
Xả-Định căn không có Thật Thể riêng biệt.”
Hỏi: Vì sao vị ấy nói Mạng căn không có Thật Thể?
Đáp: Mạng căn là do Hành uẩn không tương ưng thâu nhiếp, vị ấy nói Hành uẩn không tương ưng cho nên không có Thật Thể.
Hỏi: Vì sao lại nói Xả căn không có Thể riêng biệt?
Đáp: Vị ấy nói lìa Khổ thọ-Lạc thọ không có Thọ không khổ không lạc riêng biệt. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì các Thọ vốn có, hoặc là Lạc-hoặc là Khổ, nếu không phải là Khổ-Lạc thì tại sao gọi là Thọ?
Hỏi: Nếu như vậy thì trong kinh nói ba Thọ nên hiểu thế nào?
Đáp: Vị ấy đưa ra cách nói này: Lạc thọ-Khổ thọ, có trên cao-có dưới thấp, có sắc bén-có cùn chậm, có nóng vội-có điềm tĩnh, các loại trên cao-sắc bén- nóng vội thì gọi là Lạc thọ-Khổ thọ, các loại dưới thấp-cùn chậm-điềm tĩnh thì gọi là Thọ không khổ không lạc, Thể này không nhất định, như nghi ngờ mà chuyển đổi.
Hỏi: Vì sao vị ấy nói Định căn cũng không có Thể riêng biệt?
Đáp: Vị ấy nói bởi vì lìa tâm không có Thể của Định. Như nói: Định là thế nào? Đó là tâm cùng một cảnh với tánh. Vì vậy, các Căn thì tên gọi có hai mươi hai, Thật Thể có mười bốn.
Tôn giả Giác Thiên đưa cách nói như vậy: “Tên gọi có hai mươi hai, Thật Thể chỉ có một, đó là Ý căn.”
Vị ấy đưa ra cách nói này: Các pháp hữu vi có hai tự tánh, một là Đại chủng, hai là Tâm. Lìa xa Đại chủng thì không có sắc sở tạo, lìa xa Tâm thì không có tâm sở, các sắc đều là sự sai biệt của Đại chủng, không có sắc đều là sự sai biệt của Tâm. Bởi vì nghĩa này cho nên Thật Thể của Căn chỉ có một.
Như Thật nghĩa thì nên như cách nói thứ nhất là tên gọi có hai mươi hai, Thật Thể có mười bảy. Như tên gọi và Thể, như vậy tên gọi thi thiết-Thể thi thiết, tên gọi khác tướng-Thể khác tướng, tên gọi khác tánh-Thể khác tánh, tên gọi lìa tánh-Thể lìa tánh, tên gọi phần biệt-Thể phân biệt, tên gọi giác ngộ-Thể giác ngộ, nên biết cũng như vậy. Đó gọi là tự tánh của các Căn, tự Thể và tánh tướng của ngã-vật.
Đã nói về tự tánh, nên nói đến nguyên cớ.
Hỏi: Vì sao gọi là Căn, Căn là nghĩa gì?
Đáp: Nghĩa về tăng thượng là nghĩa của Căn, nghĩa về sáng tỏ là nghĩa của Căn, nghĩa về hiện bày là nghĩa của Căn, nghĩa về hỷ quán là nghĩa của Căn, nghĩa về đoan nghiêm là nghĩa của Căn, nghĩa về tối thượng là nghĩa của Căn, nghĩa về thù thắng là nghĩa của Căn, nghĩa về làm chủ là nghĩa của Căn.
Hỏi: Nếu nghĩa về tăng thượng là nghĩa của Căn, thì các pháp hữu vi lần lượt chuyển đổi tăng thượng, các pháp vô vi đối với hữu vi tăng thượng, tất cả các pháp đều nên thiết lập làm Căn, vì sao Đức Thế Tôn thiết lập hai mươi hai?
Đáp: Hiếp Tôn giả nói: “Đức Phật hiểu rõ ràng đến tận cùng đối với các pháp, biết tường tận về thế dụng-Thể tướng của các pháp, người khác không thể nào biết được. Nếu pháp có tướng của Căn thì thiết lập làm Căn, không có tướng của Căn thì không thiết lập làm Căn, vì vậy không cần phải vặn hỏi.”
Có người nói: Duyên tăng thượng có dưới-có trên, có yếu-có mạnh, trên và mạnh thì thiết lập làm Căn, dưới và kém thì không thiết lập.
Có người nói: Tuy tất cả các pháp đều có nghĩa về duyên tăng thượng, mà không phải là đều có nghĩa về tăng thượng-sáng tỏ-hiện bày cho đến nghĩa về làm chủ, như hai mươi hai Căn ấy. Như tất cả hữu tình tuy đều có nghĩa về duyên tăng thượng, mà có người hơn hẳn. Như trong cõi quỷ thì Diễm Ma Vương là hơn hẳn, trong loài bàng sinh thì sư tử chúa là hơn hẳn, trong thôn xóm thì người đứng đầu là hơn hẳn, trong đất nước thì vua chúa là hơn hẳn, trong bốn Đại châu thì Chuyển Luân Vương là hơn hẳn, ở trong cõi Dục thì trời Tự Tại là hơn hẳn, trong một ngàn thế giới thì Phạm Vương là hơn hẳn, ở trong ba cõi thì Đức Phật là bậc thù thắng nhất, Đức Phật ở trong tất cả các loài hữu tình, một mình xưng là Pháp Vương bởi vì không có ai sánh bằng. Như vậy, các pháp tuy đều là duyên tăng thượng, mà không phải là tất cả đều có nghĩa về tăng thượng, cho đến nghĩa về làm chủ, như hai mươi hai Căn ấy. Vì vậy, Đức Phật chỉ nói đến hai mươi hai Căn này.
Hỏi: Nếu nghĩa về tăng thượng là nghĩa của Căn, thì tăng thượng với loại nào-ở đâu?
Đáp: Nhãn căn tăng thượng đối với bốn xứ:
- Trang nghiêm cho thân mình.
- Dẫn dắt nuôi giữ thân mình.
- Làm chỗ dựa cho Thức…
- Làm công việc không như nhau.
Trang nghiêm cho thân mình, nghĩa là tuy có thân hình tuyệt vời, tay chân đầy đủ, nhưng nếu như thiếu mất Nhãn căn thì người khác không thích nhìn, cho nên Nhãn căn này làm tăng thượng đối với thân trang nghiêm. Dẫn dắt nuôi giữ thân mình, nghĩa là nhờ vào Nhãn căn cho nên thấy rõ cảnh sắc tốt xấu, rời xa nơi nguy hiểm đi đến nơi yên lành, khiến cho thân tồn tại lâu dài. Làm chỗ dựa cho Thức…, nghĩa là Nhãn thức và pháp tương ưng dựa vào Nhãn căn này mà sinh khởi. Làm công việc không như nhau, nghĩa là chỉ có Nhãn căn thấy cảnh sắc chứ không phải là Căn nào khác.
Nhĩ căn tăng thượng đối với bốn xứ:
- Trang nghiêm cho thân mình.
- Dẫn dắt nuôi giữ thân mình.
- Làm chỗ dựa cho Thức….
- Làm công việc không như nhau.
Trang nghiêm cho thân mình, nghĩa là tuy có thân hình tuyệt vời, tay chân đầy đủ, nhưng nếu như thiếu mất Nhĩ căn thì người khác không thích nhìn, cho nên Nhĩ căn này làm tăng thượng đối với thân trang nghiêm. Dẫn dắt nuôi giữ thân mình, nghĩa là nhờ vào Nhĩ căn cho nên nghe rõ âm thanh tốt xấu, rời xa nơi nguy hiểm đi đến nơi yên lành, khiến cho thân tồn tại lâu dài. Làm chỗ dựa cho Thức…, nghĩa là Nhĩ thức và pháp tương ưng dựa vào Nhĩ căn này mà sinh khởi. Làm công việc không như nhau, nghĩa là chỉ có Nhĩ căn nghe âm thanh chứ không phải là Căn nào khác.
Có Sư khác nói: Nhãn căn dẫn dắt nuôi giữ Sinh thân là hơn hẳn,
Nhĩ căn dẫn dắt nuôi giữ Pháp thân là hơn hẳn. Như nói:
“Ví như người đôi mắt sáng tỏ, tránh được hiểm nạn ngay trước mắt,
Người thế gian có được thông minh, có thể lìa quả khổ đời sau,
Nghe nhiều có thể biết rõ pháp, nghe nhiều có thể lìa tội lỗi,
Nghe nhiều rời bỏ không có nghĩa, nghe nhiều có thể đến Niếtbàn.”
Lại có người nói: Nhãn căn và Nhĩ căn đều có thể dẫn dắt nuôi giữ Sinh thân-Pháp thân. Dẫn dắt nuôi giữ Sinh thân, như trước nói. Dẫn dắt nuôi giữ Pháp thân, nghĩa là nhờ vào Nhãn căn cho nên gần gũi bậc Thiện sĩ, nhờ vào Nhĩ căn cho nên lắng nghe Chánh pháp. Nhờ vậy có thể dẫn dắt tác ý như lý, pháp tùy pháp hành cho đến lần lượt chuyển đổi chứng được Niết-bàn. Vì vậy kinh nói: “Phạm Thọ-Phạm Chí đừng hủy hoại hai Căn, đó là Nhãn căn và Nhĩ căn.”
Hỏi: Vì sao ở trong tụ của các Căn, chỉ nói là đừng hủy hoại hai Căn?
Đáp: Nhờ vào Nhãn căn-Nhĩ căn mà lúc Đức Phật xuất thế, làm con đường-làm cửa ngõ để hướng vào Phật pháp. Lại nhờ vào NhãnNhĩ mà lúc được gặp Phật thì có thể so sánh biết là Phật. Như nói: “Này Tỳ kheo! Nếu ông không có thể biết được tâm Phật thì nên cầu ở hai nơi: 1. Từ nơi nghe; 2. Từ nơi thấy.” Vì vậy chỉ nói là đừng hủy hoại hai Căn. Tỷ- Thiệt- Thân căn đều tăng thượng đối với bốn Xứ:
- Trang nghiêm cho thân mình.
- Dẫn dắt nuôi giữ thân mình.
- Làm chỗ dựa cho Thức…
- Làm công việc không như nhau.
Trang nghiêm cho thân mình, nghĩa là tuy có thân hình tuyệt vời, tay chân đầy đủ, nhưng ba Căn tùy thuộc thiếu mất thì người khác không thích nhìn. Dẫn dắt nuôi giữ thân mình, nghĩa là nhờ vào ba Căn này tiếp nhận sử dụng đoàn thực khiến cho thân được tồn tại lâu dài, bởi vì đoàn thực là Hương-Vị-Xúc. Làm chỗ dựa cho Thức…, nghĩa là Tỷ thức và pháp tương ưng dựa vào Tỷ căn mà sinh khởi, Thiệt thức và pháp tương ưng dựa vào Thiệt căn mà sinh khởi, Thân thức và pháp tương ưng dựa vào Thân căn mà sinh khởi. Làm công việc không như nhau, nghĩa là chỉ có Tỷ căn có thể ngửi, chỉ có Thiệt căn có thể nếm, chỉ có Thân căn cảm giác xúc chạm, tất cả không phải là Căn nào khác.
Ý căn tăng thượng đối với hai Xứ:
- Có thể nối tiếp thân đời sau.
- Tự tại tùy ý chuyển đổi.
Có thể nối tiếp thân đời sau, như nói: “Nếu Thức không dựa vào thai mẹ thì Danh sắc có thể thành Yết-la-lam hay không? Thưa Đức Thế Tôn, không thể nào.” Tự tại tùy ý chuyển đổi, như nói:
“Thế gian do tâm đã dẫn lối, cũng bị tâm làm cho nhọc nhằn,
Nếu tâm sinh khởi ở nơi ấy, đều tự tại tùy ý chuyển đổi.”
Có người nói: Ý căn tăng thượng đối với phẩm nhiễm-tịnh, như nói: “Tâm tạp nhiễm cho nên hữu tình tạp nhiễm, tâm thanh tịnh cho nên hữu tình thanh tịnh.”
Nam căn-Nữ căn tăng thượng đối với hai Xứ:
- Hữu tình khác nhau.
- Phân biệt khác nhau.
Hữu tình khác nhau, là do hai Căn này khiến cho các loài hữu tình nam-nữ khác nhau. Phân biệt khác nhau, là do hai Căn này mà hình tướng-âm thanh-ngôn ngữ… khác nhau. Nghĩa là lúc kiếp bắt đầu không có nam-nữ sai biệt, về sau ở chỗ này ít tạo sắc phát sinh, liền có dáng vẻ-thể loại của nam-nữ, hình hài biểu hiện, ngôn ngữ âm thanh, áo quần ăn uống, tiếp nhận sử dụng đều sai biệt.
Có người nói: Hai Căn này tăng thượng đối với phẩm nhiễm-tịnh. Đối với người mạnh về nhiễm, không phải là đối với dâm dục, bởi vì Căn này không nghi ngờ gì; chỉ do hai Căn này, hoặc là hư hoại-hoặc là thiếu mất, đối với không luật nghi, năm nghiệp vô gián, không có thể tiếp nhận tạo tác, lại cũng không có thể đoạn mất các căn thiện. Đối với người mạnh về tịnh, Nam căn-Nữ căn này hoặc là hư hoại-hoặc là thiếu mất, thì không có thể phát khởi tất cả luật nghi, lại cũng không có thể lìa nhiễm của ba cõi, không có thể gieo trồng chủng tử của ba Thừa.
Mạng căn tăng thượng đối với hai Xứ:
- Khiến cho nói là có Căn.
- Khiến cho Căn không đoạn dứt.
Bởi vì Mạng căn nếu còn thì có thể nói là có Căn, và khiến cho các Căn nối tiếp nhau tồn tại.
Có người nói: Mạng căn tăng thượng đối với bốn Xứ:
- Nối tiếp Chúng đồng phần.
- Duy trì Chúng đồng phần.
- Bảo vệ và nuôi giữ Chúng đồng phần.
- Khiến cho Chúng đồng phần không đoạn dứt.
Năm Thọ căn tăng thượng đối với phẩm tạp nhiễm, bởi vì các hữu tình do thế lực của Thọ mà theo đuổi tìm cầu khắp nơi, đi qua mọi chốn, đường sá hiểm nguy, trèo lên núi cao, vượt qua hố hầm, đi vào biển rộng gặp phải tai nạn đáng sợ, sóng nước trôi nổi, gió cuộn mịt mù, giặc cướp bao vây, thú dữ gầm gào, núi lở đá lấp…, rất nhiều tai họa bất ngờ rình rập. Các loại như vậy đều bởi vì các Thọ.
Hỏi: Thọ vô lậu vì sao tăng thượng đối với phẩm tạp nhiễm?
Đáp: Bắt đầu khởi lên gia hạnh và lúc hướng vào, cũng tăng thượng đối với phẩm tạp nhiễm, nghĩa là người quán hành lúc cầu mong Thọ ấy, cũng cần phải theo đuổi tìm cầu các vật như cơm ăn-áo mặc…, bởi vì thế lực này cho nên cũng sinh khởi tạp nhiễm.
Có người nói: Thọ đối với nhiễm-tịnh đều mạnh. Lạc thọ, đối với người mạnh về nhiễm, như nói: “Đối với Lạc thọ thì Tham tùy tăng.” Đối với người mạnh về tịnh, như nói: “Lạc cho nên tâm định.” Khổ thọ, đối với người mạnh về nhiễm, như nói: “Đối với Khổ thọ thì Sân tùy tăng.” Đối với người mạnh về tịnh, như nói: “Khổ làm chỗ dựa cho Tín.” Thọ không khổ không lạc, đối với người mạnh về nhiễm, như nói: “Đối với Thọ không khổ không lạc thì Vô minh tùy tăng.” Đối với người mạnh về tịnh, như nói: “Sáu rời bỏ dựa vào Xả.”
Năm Căn như Tín… tăng thượng đối với phẩm nhiễm-tịnh, như nói:
“Tín phát sinh có thể quay về, vượt qua biển rộng của phóng dật,
Tinh tiến có thể trừ khổ đau, Tuệ có thể đạt được thanh tịnh.”
Lại nói: “Đệ tử hàng Thánh của Ta có đủ Tín, Y-sư-ca có thể rời bỏ bất thiện mà tu tập pháp thiện.”
Lại nói: “Đức Phật bảo với Khánh Hỷ: Tinh tiến có thể đạt được Bồ-đề.”
Lại nói: “Đệ tử hàng Thánh của Ta có đủ lực Tinh tiến, rời bỏ pháp bất thiện, tu tập pháp thiện.”
Lại nói: “Niệm có thể hoạt động khắp nơi phòng ngừa bảo vệ tất cả, đệ tử hàng Thánh của Ta có đủ Niệm phòng ngừa bảo vệ, rời bỏ pháp bất thiện, tu tập pháp thiện.”
Lại nói: “Định là Chánh đạo, bất định là tà đạo, tâm định đạt được giải thoát chứ không phải là tâm bất định, tâm định có thể biết rõ các uẩn sinh diệt.”
Lại nói: “Đệ tử hàng Thánh của Ta có đủ ba vòng hoa của Định, có thể lìa xa pháp bất thiện, tu tập pháp thiện.”
Lại nói: “Tuệ là cao nhất của thế gian, có thể thuận theo đến quyết trạch,
Có thể biết chính xác các pháp, có thể không còn khổ lão tử.”
Lại nói: “Trong tất cả các pháp, Tuệ là cao nhất.”
Lại nói: “Này chị em! Đệ tử hàng Thánh của Ta có thể dùng dao Tuệ, cắt đứt các kiết-phược-tùy miên-triền-cấu.”
Lại nói: “Đệ tử hàng Thánh của Ta vốn có bức tường ngay thẳng của Tuệ, có thể ngăn cản pháp ác, tăng trưởng pháp thiện.”
Vị tri đương tri căn, tăng thượng đối với phần vị chưa Kiến đế mà Kiến đế. Dĩ tri căn, tăng thượng đối với phần vị đã Kiến đế và loại trừ lỗi lầm của phiền não. Cụ tri căn, tăng thượng đối với phần vị đã loại trừ lỗi lầm của phiền não, được an trú trong niềm vui của pháp hiện tại. Vì vậy, tất cả đều có nghĩa tăng thượng đối với mọi nơi, cho nên nói là Căn. Tôn giả Lũ-sa-phiệt-ma đưa ra cách nói như vậy: “Chỉ riêng Ý là một loại Căn thuộc về thắng nghĩa, bởi vì là bên trong-là bao trùm và có sở duyên. Là bên trong, bởi vì Xứ bên trong thâu nhiếp. Là bao trùm, bởi vì từ địa ngục vô gián cho đến cõi Hữu Đảnh. Có sở duyên, bởi vì duyên với tất cả các pháp. Căn còn lại như Nhãn… không có đủ nghĩa này, cho nên không thiết lập làm Căn thuộc về thắng nghĩa. Nghĩa là năm Căn như Nhãn tuy Xứ bên trong thâu nhiếp, mà không phải là bao trùm, không phải là có sở duyên; Mạng căn tuy bao trùm mà không phải là Xứ bên trong, cũng không phải là có sở duyên; Khổ-Lạc-Ưu-Hỷ căn tuy có sở duyên, nhưng không phải là bao trùm, không phải là bên trong; năm Căn như Xả-Tín… tuy bao trùm và có sở duyên, mà không phải là bên trong; ba Căn vô lậu nói như chín Căn.”
Hỏi: Nếu chỉ riêng Ý là Căn thuộc về thắng nghĩa, thì hai mươi mốt loại còn lại vì sao gọi là Căn?
Đáp: Những loại ấy làm sở y, làm chỗ dựa, làm tạp nhiễm, làm thanh tịnh, làm phần vị thanh tịnh cho Ý căn, cho nên cũng gọi là Căn. Căn nào làm sở y? Đó là Nhãn, đó là năm Căn. Căn nào làm chỗ dựa? Đó là Mạng căn. Căn nào làm tạp nhiễm? Đó là năm Thọ căn. Căn nào làm thanh tịnh? Đó là năm Căn như Tín… Căn nào làm phần vị thanh tịnh? Đó là ba Căn vô lậu, tức là phần vị Kiến đạo, phần vị Tu đạo, phần vị đạo Vô học.
Hỏi: Vì sao Nam-Nữ lại được gọi là Căn?
Đáp: Bởi vì sinh ra hữu tình, bởi vì sinh ra dục lạc, bởi vì chế ngự phiền não, bởi vì làm chỗ dựa cho nhiễm. Sinh ra hữu tình, nghĩa là sinh ra hữu tình thuộc loại thai sinh-noãn sinh. Sinh ra dục lạc, nghĩa là ở chỗ này bắt đầu sinh ra dục lạc, sau đó mới lan khắp toàn thân; như dựa vào chặng mày bắt đầu sinh ra niềm vui thiền định, sau đó mới lan khắp toàn thân, đối với Nam-Nữ cũng như vậy. Chế ngự phiền não, nghĩa là chí tánh này có thể điều phục các phiền não ở trong thời gian ngắn. Làm chỗ dựa cho nhiễm, nghĩa là Thức nhiễm ô và pháp tương ưng lấy nơi này làm sở y; nơi khác của Thân căn phát sinh ba loại Thức, chỗ này chỉ phát sinh Thức nhiễm ô chứ không phải là gì khác, lúc phát sinh Thức này chỉ làm tập khí gần của Ý bởi vì tâm đi cùng với tham.
Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô đưa ra cách nói như vậy: “Chỉ có sáu loại như Mạng… là Căn thuộc về thắng nghĩa, đó là Nhãn-Nhĩ-Tỷ-Thiệt-
Thân-Mạng, bởi vì là gốc của hữu tình.”
Hỏi: Nếu sáu loại như Mạng… là Căn thuộc về thắng nghĩa, thì mười sáu loại còn lại vì sao gọi là Căn?
Đáp: Những loại ấy làm chủng tử, làm tạp nhiễm, làm thanh tịnh, làm phần vị thanh tịnh cho sáu loại như Mạng…, cho nên cũng gọi là Căn. Căn nào làm chủng tử? Đó là Ý căn. Căn nào làm tạp nhiễm? Đó là năm Thọ căn. Căn nào làm thanh tịnh? Đó là năm Căn như Tín… Căn nào làm phần vị thanh tịnh? Đó là ba Căn vô lậu, tức là phần vị Kiến đạo, phần vị Tu đạo, phần vị đạo Vô học.
Hỏi: Vì sao Nam-Nữ cũng được gọi là Căn?
Đáp: Hữu tình cõi Dục lấy dục làm chủng tử, lấy dục làm lúa mạ. Hữu tình này dựa vào đâu mà có? Đó là Nam căn-Nữ căn. Vì vậy hai loại này cũng được gọi là Căn.
Tôn giả Diệu Âm đưa ra cách nói như vậy: “Tám loại như Mạng… là Căn thuộc về thắng nghĩa, đó là Nhãn-Nhĩ-Tỷ-Thiệt-Thân-Nam-
Nữ-Mạng, bởi vì là gốc của hữu tình.”
Hỏi: Nếu tám loại như Mạng… là Căn thuộc về thắng nghĩa, thì mười bốn loại còn lại vì sao gọi là Căn?
Đáp: Những loại ấy làm chủng tử, làm tạp nhiễm, làm thanh tịnh, làm phần vị thanh tịnh cho tám loại như Mạng…, cho nên cũng gọi là Căn. Nói rộng ra như trước.
Hỏi: Cực vi của Thân căn khắp toàn thân đều có, vì sao chỉ có chỗ này gọi là Nam căn-Nữ căn, lại nói là biểu hiện rõ?
Đáp: Tôn giả Thế Hữu đưa ra cách nói như vậy: “Bởi vì chỗ này có thể biểu hiện rõ là Nam-Nữ, cho nên gọi là Nam căn-Nữ căn, lại nói là biểu hiện rõ.”
Hỏi: Có người hai hình thái cũng có thể biểu hiện rõ chăng?
Đáp: Loại này không có thể biểu hiện rõ bởi vì không quyết định, vì vậy cho nên nói là phi nam phi nữ.
Có người nói: Bởi vì nơi này sinh ra người lưu chuyển, người hoàn diệt. Ngoại đạo, Lục sư, Bổ-thích-noa… gọi là người lưu chuyển; Thanh văn, Độc giác và Như Lai gọi là người hoàn diệt.
Tôn giả nói rằng: Nơi này có thể sinh các vị Tiên Mâu-ni, những người thông tuệ, người khéo điều phục, người dễ dàng cư trú cùng nhau, cho nên gọi là Nam căn-Nữ căn, cũng nói là biểu hiện rõ.
Đã nói về nguyên cớ thuộc tướng chung của các Căn, nay sẽ biểu hiện rõ ràng tướng riêng của từng loại một.
Hỏi: Nhãn căn là thế nào?
Đáp: Nếu đã thấy sắc, đang thấy sắc, sẽ thấy sắc, và những phần khác của loại này, thì gọi là Nhãn căn. Đã thấy sắc là nói về Nhãn quá khứ, đang thấy sắc là nói về Nhãn hiện tại, sẽ thấy sắc là nói về Nhãn vị lai. Đây là nói về Đồng phần. Và những phần khác của loại này là nói về Bỉ đồng phần. Nhãn như trong phần Giới nói rộng ra, cho đến Ý căn nói cũng như vậy.
Hỏi: Nữ căn là thế nào?
Đáp: Phần ít của Thân căn. Hỏi: Nam căn là thế nào?
Đáp: Phần ít của Thân căn.
Hỏi: Mạng căn là thế nào?
Đáp: Thọ mạng của ba cõi.
Hỏi: Lạc căn là thế nào?
Đáp: Dựa vào Xúc thuận với niềm vui mà sinh ra niềm vui của thân tâm, tiếp nhận bình đẳng do Thọ thâu nhiếp, đó gọi là Lạc căn.
Hỏi: Khổ căn là thế nào?
Đáp: Dựa vào Xúc thuận với nỗi khổ mà sinh ra nỗi khổ của thân, tiếp nhận không bình đẳng do Thọ thâu nhiếp, đó gọi là Khổ căn.
Hỏi: Hỷ căn là thế nào?
Đáp: Dựa vào Xúc thuận với niềm vui mà sinh ra niềm vui của tâm, tiếp nhận bình đẳng do Thọ thâu nhiếp, đó gọi là Hỷ căn.
Hỏi: Ưu căn là thế nào?
Đáp: Dựa vào Xúc thuận với nỗi khổ mà sinh ra buồn lo trong tâm, tiếp nhận không bình đẳng do Thọ thâu nhiếp, đó gọi là Ưu căn.
Hỏi: Xả căn là thế nào?
Đáp: Dựa vào Xúc không khổ không vui mà sinh ra buông xả thân tâm, tiếp nhận không phải là bình đẳng-không phải là không bình đẳng, do Thọ thâu nhiếp, đó gọi là Xả căn.
Hỏi: Tín căn là thế nào?
Đáp: Đối với sự rời bỏ-xa lìa mà sinh khởi pháp thiện, những sự tin nhận-thuận theo-phù hợp-vừa ý-chịu đựng-tâm ưa thích-tánh thanh tịnh, đó gọi là Tín căn. Tinh tiến-Niệm-Định-Tuệ căn, như văn nói rộng ra.
Hỏi: Vị tri đương tri căn là thế nào?
Đáp: Chưa Kiến đế, chưa Hiện quán, các Tuệ về Học-Tuệ căn, và Căn vốn có, Tùy tín-Tùy pháp hành, đối với bốn Thánh đế chưa Hiện quán-có năng lực Hiện quán, đó gọi là Vị tri đương tri căn.
Trong này, đối với bốn Thánh đế chưa hẳn đã thấy rõ cho nên gọi là chưa Kiến đế, chưa hẳn đã Hiện quán cho nên gọi là chưa Hiện quán. Các Tuệ về Học-Tuệ căn, đây là nói về Tuệ căn và Căn vốn có. Tùy tín hành-Tùy pháp hành, đối với bốn Thánh đế chưa Hiện quán-có năng lực Hiện quán, là nói về tám Căn còn lại. Toàn bộ chín Căn này gọi là Vị tri đương tri căn.
Hỏi: Trong chín Căn này, vì sao Tuệ căn lại nói thêm và nói riêng biệt, những Căn khác chỉ đưa ra nói tổng quát một lần?
Đáp: Bởi vì Tuệ gọi là thắng nghĩa, nghĩa là trong tụ Căn thì Tuệ là thù thắng nhất; như trong đất nước thì nhà vua là hơn hẳn, trong thôn xóm thì người đứng đầu là hơn hẳn, Căn khác thì không như vậy.
Có người nói: Bởi vì Tuệ là pháp dẫn dắt đứng đầu, như nói: “Này Tỳ kheo! Các pháp thiện sinh khởi, sáng suốt là dẫn dắt đứng đầu, sáng suốt là nhân tố trước tiên, vì vậy dẫn dắt sinh ra tất cả các pháp tàm quý.”
Có người nói: Bởi vì Tuệ có đủ ba Hiện quán, nghĩa là Tuệ đi cùng ba Hiện quán:
- Hiện quán về Kiến.
- Hiện quán về Duyên.
- Hiện quán về Sự.
Pháp tương ưng với Tuệ có hai Hiện quán, đó là trừ ra Kiến, bởi vì không phải là tánh thuộc Tuệ. Pháp cùng có với Tuệ có một Hiện quán, đó là Sự chứ không phải là gì khác, bởi vì không phải là tánh thuộc Tuệ, bởi vì không có sở duyên.
Có người nói: Tuệ thấy rõ làm cho phiền não không tồn tại lâu dài; như chúng sinh ở trong hang đá, nếu lúc thấy người thì quay trở vào trong hang.
Có người nói: Tuệ soi chiếu nối tiếp nhau thì phiền não không xâm phạm, như trong nhà có ánh đèn thì kẻ trộm cắp không có thể lấy trộm.
Có người nói: Tuệ có năng lực soi chiếu tất cả các pháp, mặt trờimặt trăng… bên ngoài chỉ soi chiếu một Giới-một Xứ-một Uẩn và phần ít của một đời; Tuệ có năng lực soi chiếu tất cả mười tám Giới-mười hai Xứ-năm Uẩn, ba đời và pháp vô vi.
Có người nói: Không có Tuệ thì ràng buộc, có Tuệ thì giải thoát.
Có người nói: Tuệ tiến vào Phật pháp rất vui sướng, nghĩa là trong Phật pháp lấy giải thoát làm hơn hẳn, vì vậy những người có Tuệ thấy rõ Pháp bảo vi diệu, vui sướng ở trong đó; như người mắt sáng đi vào hòn đảo châu báu. Nếu không có trí tuệ thì tuy tiến vào Phật pháp mà không trông thấy gì, cho nên thường ôm lòng buồn lo; như người sống trong mù lòa đến chỗ thu nhặt châu báu càng thêm buồn bã xót xa.
Có người nói: Tuệ căn như vị tướng, như người dẫn đường, như đôi mắt, như cái đầu, là Giác cũng là Giác chi, là Đạo cũng là Đạo chi.
Có người nói: Tuệ có năng lực đưa đường dẫn lối cho những phần Bồ-đề còn lại, khiến không hướng về nơi khác; như người mắt sáng dẫn đường cho những người mù, khiến đi trên con đường ngay thẳng; Tuệ căn này cũng như vậy.
Có người nói: Tuệ đoạn dứt ràng buộc giống như lưỡi dao sắc bén, như nói: “Này chị em! Đệ tử hàng Thánh của Ta có thể dùng dao Tuệ cắt đứt các kiết phược-tùy miên-triền cấu.”
Có người nói: Tuệ như cung điện lầu đài, như Tôn giả A-na-luậtđà nói: “Tôi dựa vào giới-trú vào giới, được bước lên cung điện lầu đài của trí tuệ Vô thượng.”
Có người nói: Tuệ có năng lực an lập tự tướng và cọng tướng của các pháp, có năng lực phân biệt tự tướng và cọng tướng của các pháp, phá bỏ ngu muội về tự Thể và ngu muội về sở duyên, ở trong các pháp không tăng giảm mà chuyển đổi.
Có người nói: Tuệ là pháp được chư Phật yêu quý, chư Phật không yêu quý hình sắc-sức lực-dòng họ-giàu sang tự tại của hữu tình, chỉ yêu quý pháp Tuệ, bởi vì Tuệ có năng lực chứng được các công đức.
Có người nói: Tuệ có năng lực biểu hiện rõ Đức Phật không có gì sánh bằng, nghĩa là các loại hình sắc-sức lực-dòng họ-giàu sang-cao quý tự tại, không có thể biểu hiện rõ Đức Phật là bậc tôn quý thù thắng nhất, chỉ có Tuệ có năng lực biểu hiện rõ, bởi vì tất cả trí tuệ chỉ riêng Đức Phật mới có, những Căn khác thì không như vậy.
Bởi vì rất nhiều những nhân duyên như vậy, cho nên Tuệ căn đưa ra cách nói sai biệt so với những Căn khác.
*******
Hỏi: Dĩ tri căn là thế nào?
Đáp: Đã Kiến đế, đã Hiện quán, các Tuệ về Học-Tuệ căn và Căn vốn có, Tín giải-Kiến chí-Thân chứng, đối với bốn Thánh đế đã Hiện quán lại tiếp tục Hiện quán, đó gọ là Dĩ tri căn.
Trong này, đối với bốn Thánh đế đã thấy rõ cho nên gọi là đã Kiến đế, đã Hiện quán cho nên gọi là đã Hiện quán. Các Tuệ về HọcTuệ căn, đây là nói về Tuệ căn và Căn vốn có. Tín giải-Kiến chí-Thân chứng, đối với bốn Thánh đế đã Hiện quán lại tiếp tục Hiện quán, là nói về tám Căn còn lại. Toàn bộ chín Căn này gọi là Dĩ tri căn.
Hỏi: Những người Vô học đối với bốn Thánh đế cũng trở lại Hiện quán, như từ Thối pháp chuyển đến Tư pháp, cho đến từ Kham đạt pháp chuyển đến Bất động, vì sao chỉ nói là Học trở lại Hiện quán chứ không phải là Vô học?
Đáp: Cũng cần phải nói về Vô học mà không nói, thì nên biết là có khác.
Có người nói: Trong này nêu ra phần đầu-hiển bày phần sau, nếu nói về Học trở lại Hiện quán, thì nên biết là đã nói đến Vô học cũng trở lại Hiện quán. Như nêu ra phần đầu-hiển bày phần sau, nêu ra mới tiến vào-hiển bày đã vượt qua, nêu ra gia hạnh-hiển bày cứu cánh, nên biết cũng như vậy.
Có người nói: Nếu đoạn bỏ phiền não chưa từng đoạn bỏ, đạt được quả Sa-môn chưa từng đạt được, thì nói là trở lại Hiện quán; Vô học lúc bấy giờ không phải là đoạn bỏ phiền não chưa từng đoạn bỏ, cũng không phải là đạt được quả Sa-môn chưa từng đạt được, vì vậy không nói đến.
Có người nói: Nếu đoạn bỏ Ly hệ đắc chưa từng đoạn bỏ, đạt được
Ly hệ đắc chưa từng đạt được, thì nói là trở lại Hiện quán; Vô học lúc bấy giờ tuy đạt được Ly hệ đắc chưa từng đạt được, mà không đoạn bỏ Ly hệ đắc chưa từng đoạn bỏ, vì vậy không nói đến. Như đoạn bỏ Ly hệ đắc-đạt được Ly hệ đắc, trừ bỏ lỗi lầm-tu tập công đức, buông bỏ yếu kém-chứng được vi diệu, loại trừ không có nghĩa-giữ lấy có nghĩa, không còn nỗi khổ khao khát của ái-tiếp nhận niềm vui không có nóng bức, nên biết cũng như vậy.
Có người nói: Rời bỏ không có trí chưa từng rời bỏ, đạt được trí chưa từng đạt được, thì nói là trở lại Hiện quán; Vô học lúc bấy giờ tuy đạt được trí chưa từng đạt được, mà không phải là rời bỏ không có trí chưa từng rời bỏ, vì vậy không nói đến. Nên biết đây là dựa vào nhiễm và không có trí mà nói.
Bởi vì các loại nhân duyên như vậy, cho nên nói Học trở lại Hiện quán chứ không phải là Vô học.
Hỏi: Cụ tri căn là thế nào?
Đáp: A-la-hán không còn lậu, các Tuệ thuộc Vô học-Tuệ căn và Căn vốn có, Tuệ giải thoát-Câu giải thoát có thể đạt được niềm vui trú trong pháp hiện tại.
Trong này, A-la-hán không còn lậu, các Tuệ thuộc Vô học-Tuệ căn, đây là nói đến Tuệ căn và Căn vốn có. Tuệ giải thoát-Câu giải thoát có thể đạt được niềm vui trú trong pháp hiện tại, là nói đến tám Căn còn lại. Toàn bộ chín Căn này gọi là Cụ tri căn.
Hỏi: Học thì cũng có niềm vui trú trong pháp hiện tại, vì sao chỉ nói đến Vô học?
Đáp: Cũng cần phải nói về Học mà không nói, thì nên biết là có khác.
Có người nói: Trong này nêu ra phần cuối-hiển bày phần đầu, nếu nói đến Vô học đạt được niềm vui trú trong pháp hiện tại, thì nên biết là đã nói về Học cũng đạt được niềm vui trú trong pháp hiện tại. Như nêu ra phần cuối-hiển bày phần đầu, nêu ra đã vượt qua-hiển bày mới tiến vào, nêu ra cứu cánh-hiển bày gia hạnh, nên biết cũng như vậy.
Lại nữa, đây là nói về tên gọi thuộc thắng nghĩa, dùng pháp mà nói thì pháp Vô học là hơn hẳn, dùng Bổ-đặc-già-la mà nói thì Bổ-đặcgià-la Vô học là hơn hẳn.
Có người nói: Trong này nói đến người đạt được niềm vui Khinh an chứ không phải là do phiền não nóng bức làm tổn hại, Học tuy đạt được niềm vui Khinh an mà hãy còn bị phiền não nóng bức làm tổn hại, vì vậy không nói đến.
Lại nữa, trong này nói người tiếp nhận niềm vui Khinh an tự tại rộng lớn, bởi vì Học đối với những việc làm mà có những việc làm, tuy tiếp nhận niềm vui Khinh an mà không tự tại, cũng không rộng lớn; như vị vua chưa trừ hết tất cả giặc thù, tuy tiếp nhận niềm vui của một vị vua mà không tự tại, cũng không rộng lớn, Học cũng như vậy cho nên không nói đến.
Có người nói: Trong này nói đến người đã chấm dứt phiền não, ý nói về người đã đầy đủ tướng Mâu-ni; Học thì không như vậy, cho nên không nói đến.
Có người nói: Trong này nói đến người có niềm vui trú trong pháp hiện tại, không có niềm vui trú trong thân đời sau; Học đối với hai đời đều có niềm vui an trú, vì vậy không nói đến.
Bởi vì các loại nhân duyên như vậy, cho nên Vô học nói đến niềm vui an trú chứ không phải là Học.
Hỏi: Là có A-la-hán ba Minh hay không? Nếu có thì vì sao trong này không nói? Nếu không có thì trong kinh Tứ Cử làm sao thông hiểu? Như nói: “Tôn giả Xá-lợi-tử cung kính chắp tay thưa với Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Năm trăm Tỳ kheo này, mấy vị là ba Minh, mấy vị là Câu giải thoát, mấy vị là Tuệ giải thoát?” Trong này, dựa vào luận mà phát sinh luận, Tôn giả Xá-lợi-tử biết sự việc này hay không? Nếu biết thì vì sao lại hỏi? Nếu không biết thì làm sao được gọi là Thanh văn Ba-la-mật-đa?
Đáp: Nên đưa ra cách nói này: Tôn giả ấy biết.
Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao lại hỏi?
Đáp: Cũng có lúc biết mà hỏi, như trong Tỳ-nại-da nói: “Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn biết mà cố tình hỏi.” Vì vậy không cần phải bởi vì biết mà ngăn chặn câu hỏi ấy.
Có người nói: Bởi vì Tôn giả muốn lợi ích thêm cho người khác. Nghĩa là Xá-lợi-tử tuy tự mình biết rõ ràng, mà biết trong chúng có người không biết, bởi vì không có lực Vô úy cho nên không thể nào thưa hỏi với Đức Phật, Xá-lợi-tử không có sai lầm này, vì lợi ích của người khác cho nên mở lời thưa hỏi.
Có người nói: Bởi vì Tôn giả muốn từ trong cái chung hiển bày về sai biệt. Nghĩa là Đức Phật vì năm trăm Tỳ kheo mà thuyết pháp, họ nghe đều đạt được quả A-la-hán, vĩnh viễn đoạn bỏ thân đời sau gọi là hợp với tâm Phật. Tất cả hữu tình chân thật gọi là hợp với tâm Phật, đó là đạt được quả A-la-hán vĩnh viễn đoạn bỏ thân đời sau. Tôn giả Xá-lợi-tử dấy lên suy nghĩ này: Các Tỳ kheo ấy tuy đều đạt được quả A-la-hán, vĩnh viễn đoạn bỏ thân đời sau, mà chưa biết trong số ấy người nào từ trước đến nay thường xuyên tu gia hạnh, người nào không như vậy? Muốn từ trong cái chung hiển bày có sai biệt, cho nên đưa ra câu hỏi ấy.
Có người nói: Đức Thế Tôn trước đó vì năm trăm Tỳ kheo mà thuyết pháp khiến cho đều trú trong quả vị, Tôn giả Xá-lợi-tử vì muốn hiển bày về đạo ấy có sai biệt, cho nên thưa hỏi.
Có người nói: Đức Thế Tôn trước đó vì năm trăm Tỳ kheo mà thuyết pháp khiến cho trú vào giải thoát vô vi bình đẳng, Tôn giả Xálợi-tử bởi vì muốn hiển bày về giải thoát hữu vi ấy không phải là không có khác nhau, mà đưa ra câu hỏi ấy.
Có người nói: Tôn giả muốn hiển bày rõ ràng về kho tàng công đức ẩn kín khiến cho thế gian cùng biết; như kho tàng cất giấu ở thế gian do đất che lấp cho nên người thế gian không thấy, nếu nhờ vào sự khai phá mới thấy được kho tàng ấy, thì sinh ra ý tưởng hiếm có. Như vậy, kho báu công đức bởi vì đất Thiểu dục che lấp cho nên thế gian không có ai biết, do Xá-lợi-tử đã hiển bày rõ ràng cho nên người thế gian cùng biết mà sinh ra ý tưởng hiếm có.
Có người nói: Bởi vì Tôn giả muốn gợi mở suy nghĩ tăng thượng của thí chủ. Có các thí chủ trong bốn tháng mùa mưa, đem áo quần… cung cấp cho Tăng chúng, những người ấy có lúc nảy sinh ý niệm: Thửa ruộng mà mình cúng dường là tốt đẹp hay không? Vì muốn khiến cho những người ấy sinh tâm quyết định, biết rằng chúng ta đã gieo trồng phước thiện vào thửa ruộng tốt, thật là vui sướng, công lao đã làm không uổng phí. Vì vậy Tôn giả đưa ra câu hỏi như vậy.
Có người nói: Bởi vì Tôn giả muốn hiển bày về nghi thức của thầy trò, pháp thuận theo như vậy. Nghĩa là pháp của đệ tử nên thưa hỏi với thầy, pháp của thầy nên dạy cho đệ tử.
Có người nói:Bởi vì Tôn giả hiển bày chính mình cầu pháp không có chán ngán, lìa xa những tâm lý lười nhác khinh mạn, khiến cho người khác cũng như vậy, vì thế cho nên thưa hỏi.
Có người nói: Bởi vì Tôn giả muốn đoạn bỏ tâm lý của người thế gian, có chút hiểu biết thì sinh ra kiêu ngạo, không hỏi người khác. Tôn giả nghĩ rằng: Trí tuệ của người thế gian, ở trong mười sáu phần mà tôi vốn có, không có thể bằng một phần, tôi hãy còn hỏi người khác, huống gì là các ông biết chút ít-thấy chút ít mà không hỏi hay sao?
Có người nói: Bởi vì Tôn giả muốn hiển bày lìa bỏ sự keo kiệt bẩn thỉu về pháp. Nghĩa là người keo kiệt về pháp thì lúc gặp người khác hỏi, hãy còn không sinh tâm vui vẻ, huống gì là tự mình hỏi.
Có người nói: Bởi vì Tôn giả muốn ngăn chặn sự phỉ báng của ngoại đạo. Nghĩa là các ngoại đạo luôn luôn phỉ báng Đức Phật rằng: Sa-môn Kiều-đáp-ma thâu nhiếp tiếp nhận Ô-ba-để-sa-câu-lũ-đa, cho nên đêm thì đi theo thọ pháp, ngày thì nói cho người khác. Nếu Tôn giả Xá-lợi-tử ở trước Đại chúng, chắp tay cung kính mà thưa hỏi, thì sự phỉ báng này liền chấm dứt.
Có người nói: Tôn giả muốn hiển bày đệ tử của Đức Thế Tôn vốn có cách nói khéo léo, đều cần phải có sự ấn chứng của Đức Phật, cho nên đưa ra câu hỏi này. Như các quan do nhà vua điều khiển vốn có ấn dấu sớ điệp, nếu không có dấu ấn của nhà vua thì mọi người không chấp nhận, đi đến cửa ải… đều bị làm cho chướng ngại; nếu có dấu ấn của nhà vua thì mọi người đều tin nhận, mà đi qua không trở ngại gì. Như vậy, đệ tử của Đức Phật vốn có cách nói khéo léo, nếu không có sự ấn chứng của Đức Phật thì người khác không tin nhận, sau khi Như Lai diệt độ tất cả bốn chúng cũng không cung kính tiếp nhận; nếu được Đức Phật ấn chứng thì người nghe vâng lời thực hành, bốn chúng cũng sinh tâm cung kính tôn trọng đối với giáo pháp để lại.
Bởi vì những duyên này cho nên Tôn giả Xá-lợi-tử đưa ra câu hỏi này.
Hỏi: Nếu không có A-la-hán ba Minh, thì kinh ấy đã nói làm sao thông hiểu?
Đáp: Nên nói là có A-la-hán ba Minh.
Hỏi: Nếu như vậy thì kinh ấy dễ dàng thông hiểu, trong này vì sao không nói?
Đáp: Trong này nên đưa ra cách nói này: Và Căn vốn có-Tuệ giải thoát-Câu giải thoát-ba Minh, có thể đạt được niềm vui trú trong pháp hiện tại. nhưng mà không nói thì nên biết là có khác.
Lại nữa, đã nói ở trong phần trước đã nói, nghĩa là A-la-hán ba Minh, hoặc là Tuệ giải thoát, hoặc là Câu giải thoát. Nếu nói về Tuệ giải thoát, thì nên biết là đã nói đến Tuệ giải thoát ba Minh; nếu nói về Câu giải thoát, thì nên biết là đã nói đến Câu giải thoát ba Minh, cho nên không nói riêng biệt.
Xưa đối với nghĩa này, có hai Luận sư:
- Tên gọi Thời-tỳ-la.
- Tên gọi Lũ-sa-phiệt-ma.
Tôn giả Thời-tỳ-la chỉ ca ngợi tán thưởng về Tuệ, Tôn giả Lũ-saphiệt-ma chỉ ca ngợi tán thưởng về Diệt định.
Thời-tỳ-la đưa ra cách nói như vậy: Tuệ hơn hẳn chứ không phải là Diệt định, bởi vì Tuệ có sở duyên, Diệt định thì không có sở duyên.
Lũ-sa-phiệt-ma đưa ra cách nói như vậy: Diệt định hơn hẳn chứ không phải là Tuệ, bởi vì Diệt định chỉ riêng Thánh giả mới có, Tuệ thì gồm chung dị sinh cũng có.
Người ca ngợi tán thưởng về Tuệ, đưa ra cách nói như vậy: Nếu người có đủ ba Minh chứ không phải là tám Giải thoát, thì gọi là ba Minh. Nếu người có đủ ba Minh cũng đủ tám Giải thoát, thì cũng gọi là ba Minh. Nếu người có đủ tám Giải thoát chứ không phải là ba Minh, thì gọi là Câu giải thoát. Nếu người có một Minh-hai Minh, thì gọi là Tuệ giải thoát. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Tuệ hơn hẳn Diệt định.
Người ca ngợi tán thưởng về Diệt định, đưa ra cách nói như vậy: Nếu người có đủ tám Giải thoát chứ không phải là ba Minh, thì gọi là Câu giải thoát. Nếu có đủ tám Giải thoát cũng có đủ ba Minh, thì cũng gọi là Câu giải thoát. Nếu có đủ ba Minh chứ không phải là tám Giải thoát, thì gọi là ba Minh. Nếu có một Minh-hai Minh, thì gọi là Tuệ giải thoát. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì Diệt định hơn hẳn Tuệ.
Hai cách nói này đều uổng phí công lao, đối với văn không ích gì, đối với nghĩa không ích gì. Nhưng người có đủ ba Minh thì có người đạt được Diệt định, có người không đạt được Diệt định. Nếu đạt được thì gọi là Câu giải thoát ba Minh, nếu không đạt được thì gọi là Tuệ giải thoát ba Minh.
Nay sẽ nói lại ba Căn vô lậu, nguyên cớ thiết lập tên gọi sai biệt của từng loại một.
Hỏi: Vì sao gọi là Vị tri đương tri căn?
Đáp: Chưa hẳn đã biết mà biết, chưa hẳn đã Hiện quán mà Hiện quán, bởi vì đoạn bỏ không có trí cho nên gọi là Vị tri đương tri căn.
Hỏi: Nếu như vậy thì Khổ pháp trí nhẫn sinh khởi, đạt được Hiện quán đối với năm uẩn Khổ của cõi Dục; Khổ pháp trí sinh khởi lại đạt được Hiện quán đối với pháp ấy, vậy thì Hiện quán rồi lại Hiện quán, vì sao vẫn gọi là Vị tri đương tri căn mà không gọi là Dĩ tri căn?
Đáp: Khổ pháp trí nhẫn đối với năm uẩn Khổ của cõi Dục thì gọi là Hiện quán chứ không phải là đã Hiện quán, Khổ pháp trí sinh khởi thì mới gọi là đã Hiện quán, nhưng không phải là đã Hiện quán mà Hiện quán, cho nên không gọi là Dĩ tri căn.
Có người nói: Khổ pháp trí nhẫn đối với năm uẩn Khổ của cõi Dục, tuy gọi là Hiện quán mà không gọi là biết, bởi vì không phải là tánh thuộc trí; Khổ pháp trí sinh khởi thì mới được gọi là biết. Lúc bấy giờ tuy gọi là đã Hiện quán mà Hiện quán, nhưng không phải là đã biết mà biết, cho nên không gọi là Dĩ tri căn. Vả lại, trong này dựa vào trí Hiện quán mà soạn luận chứ không phải là Nhẫn, cho nên cũng không gọi là đã Hiện quán mà Hiện quán, thì làm sao gọi là Dĩ tri căn?
Có người nói: Sau Khổ pháp trí lại có đạo chưa hẳn đã Hiện quán sinh khởi, trí này là chưa hẳn đã Hiện quán, bị Giác lấn ép che phủ, lấy phía dưới đưa lên phía trên, bởi vì lực tăng thượng của Giác ấy cho nên trí này không được tự tại, vì vậy Khổ pháp trí không gọi là Dĩ tri căn.
Nhẫn-trí khác cũng như vậy.
Hỏi: Vì sao gọi là Dĩ tri căn?
Đáp: Đã biết mà biết, đã Hiện quán mà Hiện quán, bởi vì đoạn bỏ không có trí cho nên gọi là Dĩ tri căn.
Hỏi:Nếu như vậy thì Đạo loại trí nhẫn sinh khởi, trừ ra pháp cùng có tương ưng với tự tánh ấy, đối với tất cả các đạo thuộc phẩm Loại trí đều đạt được Hiện quán, từ đây về sau Đạo loại trí sinh khởi, đối với pháp cùng có tương ưng với Đạo loại trí nhẫn mới đạt được Hiện quán. Lúc bấy giờ đối với tự tánh… của Nhẫn ấy chưa hẳn đã Hiện quán mà Hiện quán, vì sao gọi là Dĩ tri căn mà không gọi là Vị tri đương tri căn?
Đáp: Các Sư nước ngoài nói sát-na trong mười sáu tâm đều là Kiến đạo.
Hỏi: Nay không hỏi về điều ấy, chỉ hỏi sát-na trong mười lăm tâm là Kiến đạo, thì vì sao như vậy?
Đáp: Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói rằng: “Lúc Đạo loại trí nhẫn hiện rõ ở trước mắt, có thể tu vô lượng sát-na Đạo loại trí nhẫn của vị lai, pháp đã tu ấy đối với Nhẫn… của hiện tại đã đạt được Hiện quán, cho nên không có lỗi”.
Điều này không hợp lý, bởi vì đạo của vị lai không có tác dụng. Nên đưa ra cách trả lời này: Thuận theo phần nhiều mà nói thì gọi là đã Hiện quán, nghĩa là đã Hiện quán thì vô lượng vô biên, chưa hẳn đã Hiện quán thì chỉ có một ít. Đã Hiện quán mà Hiện quán thì giống như mặt đất, chưa hẳn đã Hiện quán mà Hiện quán thì chỉ bằng một nắm nhỏ. Núi Diệu Cao và một hạt bụi, biển rộng và một giọt nước, ruồi muỗi ở giữa hư không, ví dụ cũng như vậy. Vì thế, thuận theo phần nhiều cho nên gọi là Dĩ tri căn.
Hỏi: Trong tâm thứ mười sáu phải giống như bảy trí, vì sao chỉ nói là Dĩ tri căn, bởi vì không phải là đã biết mà biết?
Đáp: Điều này cũng thuận theo phần nhiều mà nói, nghĩa là sát-
na thứ nhất tuy tương tự với bảy trí, nhưng các sát-na sau đều khác với bảy trí, thuận theo phần nhiều mà nói cho nên đều gọi là Dĩ tri căn, bởi vì cùng một loại tánh.
Có người nói: Từ đây về sau lại không có gì chưa hẳn đã biết, do Đạo lấn ép che phủ, không lấy phía dưới đưa lên phía trên, khiến cho không được tự tại, bởi vì nhất định phải như vậy, cho nên đối với biết nói là đã biết. Như lúc rời xa thì nói là đã rời xa, điều ấy cũng như vậy.
Hỏi: Vì sao gọi là Cụ tri căn?
Đáp: Đã biết mà biết, đã Hiện quán mà Hiện quán, bởi vì không đoạn bỏ không có trí đã đoạn bỏ trước đây, cho nên gọi là Cụ tri căn.
Hỏi: Nếu như vậy thì bậc Vô học ở ba Thừa đều là người biết đầy đủ, vì sao chỉ có Đức Thế Tôn gọi là Phật?
Đáp: Bởi vì có năng lực giác ngộ đầu tiên, có năng lực giác ngộ khắp nơi, có năng lực giác ngộ riêng biệt, cho nên gọi là Phật. Thanh văn-Độc giác không có năng lực giác ngộ đầu tiên, không có năng lực giác ngộ khắp nơi, không có năng lực giác ngộ riêng biệt, cho nên không gọi là Phật.
Có người nói: Nếu đối với trí cảnh (nhĩ diệm), tự mình giác ngộ, giác ngộ khắp nơi, giác ngộ không có sai lầm, thì gọi là Phật. Độc giác tuy có thể tự mình giác ngộ, mà không có hai loại còn lại; Thanh văn thì cả ba loại đều không có, cho nên không gọi là Phật.
Có người nói: Nếu đối với các duyên có thể tự nhiên giác ngộ, giác ngộ tất cả các loại thì gọi là Phật. Độc giác tuy có tự nhiên giác ngộ mà không có giác ngộ tất cả các loại, Thanh văn đều không có, cho nên không gọi là Phật.
Có người nói: Nếu trí đối với năng giác-sở giác, hành tướng-sở duyên, căn-nghĩa của căn, có cảnh-cảnh, trong trí cảnh có năng lực giác ngộ rõ ràng khắp nơi thì gọi là Phật; Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu có nghe mà không rời bỏ thì gọi là Phật, Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu trong sự nối tiếp nhau, vĩnh viễn đè bẹp tất cả các tập khí phi lý thì gọi là Phật, Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu có năng lực thấu suốt tận cùng nguồn gốc đối với dòng sông duyên khởi rất sâu thì gọi là Phật, Nhị thừa thì không như vậy. Vì thế trong kinh thí dụ lấy ba loài thú vượt qua dòng sông, đó là thỏ-ngựa và voi. Thỏ ở trên mặt nước chỉ bơi nổi mà vượt qua, ngựa có lúc đi trên đất-có lúc bơi nổi mà vượt qua, voi chúa luôn luôn đạp thấu đáy mà vượt qua. Thanh văn-Độc giác và Như Lai, vượt qua dòng sông duyên khởi như thứ tự cũng vậy.
Có người nói: Nếu đoạn bỏ hai loại không biết gì, đó là nhiễm và không nhiễm, thì gọi là Phật. Thanh văn-Độc giác chỉ có thể đoạn bỏ nhiễm, không đoạn bỏ không nhiễm, cho nên không gọi là Phật.
Có người nói: Nếu đoạn bỏ hai loại nghi hoặc, đó là sự-tùy miên, thì gọi là Phật. Thanh văn-Độc giác chỉ đoạn bỏ tùy miên mà không đoạn bỏ sự, cho nên không gọi là Phật.
Có người nói: Nếu lúc Tận trí phát khởi mà hai chướng ngại cùng đoạn dứt, tâm được giải thoát, đó là phiền não chướng và giải thoát chướng, thì gọi là Phật. Thanh văn-Độc giác hoặc là trước thoát khỏi phiền não chướng, sau lìa bỏ giải thoát chướng; hoặc là trước lìa bỏ giải thoát chướng, sau thoát khỏi phiền não chướng, không có ai cùng lúc thoát bỏ, cho nên không gọi là Phật.
Có người nói: Nếu người có đủ hai loại viên mãn thì gọi là Phật, đó là sở y và năng y. Các hữu tình khác, hoặc là sở y viên mãn chứ không phải là năng y, như Chuyển Luân Vương; hoặc là năng y viên mãn chứ không phải là sở y, đó là Thanh văn-Độc giác. Chỉ riêng Phật có đủ hai loại cho nên được tên gọi là Phật.
Có người nói: Nếu ba sự viên mãn thì gọi là Phật, đó là sắc tướngdòng họ-biện tài. Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu ba sự viên mãn thì gọi là Phật, đó là lập thệ nguyện, thành tựu quả-tùy thời gian. Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu có đủ ba nghiệp không cần phòng ngừa, ba Niệm trú không cùng chung, thì gọi là Phật. Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu lời nói không khác nhau, biện tài không tận cùng, ghi nhớ không lầm lẫn, thì gọi là Phật. Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu có đủ bốn Trí thì gọi là Phật, đó là Trí thuộc nhân tố, Trí thuộc thời gian, Trí thuộc hình tướng, Trí thuộc giảng giải. Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu có đủ bốn Trí thì gọi là Phật, đó là Trí không có đắm trước, Trí không có ngăn ngại, Trí không có lầm lẫn, Trí không lui sụt. Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu có đủ các loại giác ngộ thuộc về nhân, các loại giác ngộ thuộc về quả, các loại giác ngộ thuộc về tương tục, các loại giác ngộ thuộc về đối trị, thì gọi là Phật. Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu tám pháp của thế gian mà không thể nào làm nhiễm ô được, công đức của bến bờ giải thoát không có ai có thể sánh bằng, tất cả ách nạn hiểm nguy đều có năng lực cứu giúp, thì gọi là Phật. Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu có đủ mười tám pháp Bất cọng, mười Lực, bốn Vô úy, Đại Bi, ba Niệm trú bất cọng, thì gọi là Phật. Nhị thừa thì không như vậy.
Có người nói: Nếu người có tâm Đại Bi bình đẳng, hiện hành khắp nơi vô cùng vi tế sâu xa, thì gọi là Phật. Sâu xa là bởi vì đã tích tập từ ba Vô số kiếp. Vi tế là bởi vì giác ngộ về ba nỗi khổ. Hiện hành khắp nơi là bởi vì duyên với ba cõi. Bình đẳng là bởi vì ở giữa người thân-kẻ oán mà chuyển hóa không có gì khác nhau.
Bởi vì các loại nhân duyên như vậy, cho nên đối với người biết đầy đủ trong ba Thừa, chỉ có một người gọi là Phật.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn từ trong Sắc uẩn, chỉ thiết lập Nhãn xứ… làm Căn, chứ không phải là Sắc xứ?
Đáp: Bởi vì Sắc xứ…không có tướng của Căn.
Có người nói: Xứ bên trong thâu nhiếp thì thiết lập làm Căn, xứ bên ngoài thâu nhiếp thì không thiết lập.
Có người nói: Nếu cũng làm sở y thì thiết lập làm Căn, chỉ làm sở duyên thì không thiết lập; có cảnh và cảnh, nói cũng như vậy.
Có người nói: Nếu chỉ thuộc về số hữu tình thì thiết lập làm Căn, nếu không nhất định thì không thiết lập.
Có người nói: Nếu chỉ là có Chấp thọ thì thiết lập làm Căn, nếu không có Chấp thọ và không nhất định thì không thiết lập.
Có người nói: Nếu chỉ thuộc về nối tiếp nhau thì thiết lập làm Căn, không nhất định thì không thiết lập.
Có người nói: Nếu chỉ là thọ dụng nối tiếp nhau của mình thì thiết lập làm Căn, không nhất định thì không thiết lập.
Có người nói: Không giống nhau thì thiết lập làm Căn, giống nhau thì không thiết lập.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn từ trong Thọ uẩn, thì Khổ thọ và Lạc thọ đều thiết lập làm hai Căn, Thọ không khổ không lạc thì chỉ thiết lập làm một?
Đáp: Thọ không khổ không lạc cũng cần phải thiết lập làm hai Căn, mà không thiết lập thì nên biết là có cách nói khác.
Lại nữa, bởi vì muốn dùng các loại văn từ-các loại ngôn thuyết để biểu hiện đối với nghĩa làm cho dễ dàng hiểu rõ.
Lại nữa, muốn nêu rõ hai phương pháp-hai cách thức, cho đến nói rộng ra.
Lại nữa, Khổ thọ và Lạc thọ, có lúc sáng tỏ nhanh nhạy, có lúc không sáng tỏ nhanh nhạy, có lúc nóng nảy tùy tiện, có lúc không nóng nảy tùy tiện, có lúc an trú, có lúc không an trú. Những loại sáng tỏ nhanh nhạy-nóng nảy tùy tiện-không an trú, thì thiết lập làm Ưu-Hỷ thọ; những loại không sáng tỏ nhanh nhạy-không nóng nảy tùy tiệnan trú, thì thiết lập làm Khổ-Lạc thọ. Thọ không khổ không lạc, chỉ là không sáng tỏ nhanh nhạy-không nóng nảy tùy tiện-an trú, cho nên hợp lại thiết lập làm một.
Lại nữa, bởi vì Khổ thọ- Lạc thọ chuyển đổi có khác nhau, đều phân làm hai, đó là Lạc căn chuyển khác-Hỷ căn chuyển khác, Khổ căn chuyển khác-Ưu căn chuyển khác; Thọ không khổ không lạc chuyển đổi không có gì khác nhau, cho nên hợp lại thiết lập làm một.
Lại nữa, bởi vì Khổ thọ-Lạc thọ trái ngược lẫn nhau, đều phân làm hai, đó là Khổ-Lạc trái ngược nhau, Ưu-Hỷ trái ngược nhau; Thọ không khổ không lạc không có trái ngược nhau như vậy, cho nên chỉ nói là một.
Hỏi: Vì sao Tưởng uẩn không thiết lập làm Căn?
Đáp: Nhiều pháp không phải là Căn, sao chỉ hỏi về Tưởng?
Hỏi: Như phần ít của Sắc uẩn-Hành uẩn thiết lập làm Căn, Thọ uẩn-Thức uẩn đều thiết lập làm Căn, chỉ riêng Tưởng là không thiết lập, vì vậy cho nên hỏi?
Đáp: Bởi vì Tưởng không có tướng của Căn.
Lại nữa, Căn là do sức mình mà chuyển, Tưởng là do nơi khác mà chuyển. Như người làm mướn, người khác sai bảo thì làm, không sai bảo thì không làm; Tưởng đối với cảnh mà chuyển, cũng lại như vậy. Nghĩa là Thọ-Tư-Thức tiếp nhận cảnh tạo tác phân biệt rõ ràng rồi, Tưởng mới giữ lấy tướng.
Lại nữa, Căn là tự tại, không bị pháp khác che khuất, Tưởng bị Tuệ che khuất, cho nên không nói là Căn. Nghĩa là Tưởng thiện bị Tuệ thiện che khuất, như người đối với việc thiện thì khéo léo chọn lấy tướng, thế gian nói người này gọi là người thông minh trí tuệ; Tưởng vô ký bị Tuệ vô ký che khuất, như người đối với công việc thế gian khéo léo chọn lấy tướng, thế gian liền nói người này gọi là người trí tuệ tài tình; Tưởng nhiễm ô bị Tuệ điên đảo che khuất, như nói đối với Vô thường khởi lên Tưởng điên đảo là Thường, cho đến đối với Vô ngã khởi lên Tưởng điên đảo về Ngã.
Hỏi: Tôn giả Thế Hữu nói rằng: “Vì sao Tưởng không thiết lập làm Căn?
Đáp: Nghĩa về tăng thượng là nghĩa của Căn, Tưởng ít tăng thượng cho nên không thiết lập làm Căn.
Hỏi: Tưởng cũng có tăng thượng, như nói: Tất cả các pháp hữu vi lần lượt chuyển đổi tăng thượng, các pháp vô vi tăng thượng đối với hữu vi?
Đáp: Tôi nói là ít chứ không nói là không có. Vả lại, nói là Căn thì có thể làm hại phiền não, Tưởng không có thể làm hại phiền não.
Hỏi: Tưởng cũng có thể làm hại phiền não, như nói: Tỳ kheo đối với Tưởng về Vô thường, nếu tập-nếu tu- nếu tu tập nhiều, thì có thể trừ bỏ tất cả các tham của cõi Dục, tham của cõi Sắc-Vô sắc?
Đáp: Đây là đối với Tuệ mà nói tên gọi của Tưởng.”
Đại đức nói rằng: “Căn là nghĩa về làm chủ, không tùy theo nơi khác; Tưởng thì tùy theo nơi khác, tâm-tâm sở khác phân biệt cảnh rồi mới có thể chọn lấy tướng, cho nên không thiết lập làm Căn.” sTôn giả Chúng Thế nói rằng: “Căn là nặng về thật, tác dụng của Tưởng thì trôi nổi không thật, cho nên quán xét về Thắng giải gọi là giả tưởng; thế gian cũng từ trong cách hiểu không thật ấy nói là Tưởng của ông.”
Tôn giả Giác Thiên nói rằng: “Căn là quyết định khó có thể lay động, tác dụng của Tưởng tùy theo duyên mà chuyển dời không nhất định, như hình ảnh trong hơi nóng của ánh mặt trời, cho nên không thiết lập làm Căn.”
Hỏi: Vì sao phiền não không thiết lập làm Căn?
Đáp: Bởi vì phiền não không có tướng của Căn, cho nên không thiết lập.
Có Sư khác nói: Tăng thượng là Căn, phiền não thì thấp kém.
Hỏi: Phiền não có thể làm cho các quả báo nối tiếp nhau, hủy hoại các phẩm thiện, làm cho chìm vào sinh tử, làm cho cách xa Niếtbàn, khó có thể điều phục, vì sao lại thấp kém?
Đáp: Bởi vì các phiền não thấp hèn đáng chê trách, người trí đều vứt bỏ, cho nên gọi là thấp kém, chứ không phải là không có thế dụng mà gọi là thấp kém; như đẳng cấp Chiên-đồ-la, Bổ-yết-sa…, tuy có thế dụng mà cũng gọi là thấp kém, bởi vì bị những người hơn hẳn khinh rẻ.
Hỏi: Nếu như vậy thì Thọ nhiễm ô không nên thiết lập làm Căn?
Đáp: Thọ có thế dụng tăng thượng đối với phẩm tạp nhiễm, cho
nên thiết lập làm Căn; phiền não thì không như vậy, bởi vì dựa vào các Thọ mà sinh ra phiền não.
Hỏi: Nếu như vậy thì Tưởng nên thiết lập làm Căn, bởi vì cũng có thể sinh ra phiền não?
Đáp: Tưởng tuy có thể sinh ra phiền não, mà không mạnh bằng Thọ. Bởi vì nghĩa này cho nên ở trong chi Duyên khởi cũng không nói đến.
Có người nói: Thọ tuy là tùy thuận với phẩm tạp nhiễm, mà cũng quan hệ qua lại với pháp thiện; phiền não chỉ tùy thuận với phẩm tạp nhiễm mà không thuận với thiện, cho nên không thiết lập làm Căn. Giống như người đang ở trong tù, tuy thấp kém mà giao tiếp qua lại với người cao quý, không phải là như lính canh cửa ngục, tuy có uy lực quyền hạn làm cho người khác phải khổ sở hết sức mà vô cùng xấu xa hèn hạ, bởi vì đáng chán ghét cho nên người cao quý lìa xa.
Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói rằng: “Nếu pháp có thể có được trong thân có nhiễm hay không có nhiễm thì thiết lập làm Căn; phiền não chỉ có thể có được ở trong thân có nhiễm, cho nên không thiết lập làm Căn.”
Hỏi: Nếu như vậy thì Ưu căn và Cụ tri căn đều không nên thiết lập, bởi vì Ưu căn chỉ có thể có được ở trong thân có nhiễm, Cụ tri căn chỉ có thể có được ở trong thân không có nhiễm?
Đáp: Có người nói: Căn là nghĩa về làm chủ, phiền não không phải là chủ, bởi vì là tâm sở pháp.
Nếu như vậy thì Thọ… cũng không nên thiết lập làm Căn. Bởi vì nhân duyên này, cho nên cách nói trước là hợp lý.
Hỏi: Vì sao Thọ thiện-nhiễm-vô ký đều thiết lập làm Căn, TuệNiệm-Định chỉ có thiện thiết lập làm Căn chứ không phải là nhiễm và vô ký?
Đáp: Thọ có thế dụng tăng thượng thuận với phẩm tạp nhiễm, Thọ thiện-nhiễm-vô ký đều có thế lực, bởi vì thuận với phẩm tạp nhiễm cho nên cùng thiết lập làm Căn. Tuệ-Niệm-Định có thế dụng tăng thượng thuận với phẩm thanh tịnh, chỉ có Tuệ-Niệm-Định thiện thuận với phẩm thanh tịnh cho nên thiết lập làm Căn; Tuệ-Niệm-Định nhiễm lại giúp đỡ lẫn nhau đoạn mất phẩm thanh tịnh, Tuệ-Niệm-Định vô ký cũng không thuận với phẩm thanh tịnh, vì vậy cũng không thiết lập làm Căn.
Có Sư khác nói: Thọ đối với ba phẩm đều có thế dụng, cho nên đều thiết lập làm Căn. Tuệ-Niệm-Định chỉ có thế dụng đối với phẩm thanh tịnh, cho nên chỉ có thiện thiết lập làm Căn. Nguyên cớ thế nào?
Bởi vì lực của các Thọ làm cho loài hữu tình chuyển biến theo các sự việc thuộc về thiện-nhiễm-vô ký. Bởi vì Thọ mạnh hơn đối với phẩm thanh tịnh, cho nên nói ở trong Giác chi-Tĩnh lự chi; bởi vì mạnh hơn đối với phẩm tạp nhiễm, cho nên nói ở trong mười hai Chi duyên khởi; không phải là mạnh hơn đối với hai phẩm, nghĩa là bởi vì Thọ cho nên tạo tác các loại sự nghiệp vô ký. Tuệ-Niệm-Định thì không như vậy. Vì vậy nên biết Ý căn cũng mạnh hơn đối với ba phẩm, cho nên thiệnnhiễm-vô ký đều thiết lập làm Căn. Mạnh hơn đối với ba phẩm, bởi vì pháp thuộc về ba phẩm đều dựa vào tâm.
Hỏi: Vì sao Tác ý-Thắng giải-Xúc-Dục không thiết lập làm Căn?
Đáp: Bởi vì không có tướng của Căn. Nghĩa là Tác ý tuy có thể phát động làm cho ý hướng đến cảnh sở duyên, nhưng không phải là tất cả mọi lúc thường có tác dụng thù thắng, cho nên không thiết lập làm Căn.
Hỏi: Pháp này đối với phẩm thanh tịnh lẽ nào không có tác dụng thù thắng, bởi vì những người tu Định thì lúc bắt đầu tu Định, tất cả đều nhờ vào lực của Tác ý?
Đáp: Lúc bắt đầu tu Định khiến cho tâm hướng đến cảnh, tuy là tạm thời có lực, nhưng tâm trú vào cảnh rồi thì không còn tác dụng thù thắng, cho nên không thiết lập làm Căn.
Thắng giải tuy có thể khiến cho tâm quyết định phù hợp đối với cảnh, mà đối với sự sinh trưởng thì không có tác dụng thù thắng nào khác, cho nên không thiết lập làm Căn.
Hỏi: Lẽ nào không phải là Thắng giải ở trong pháp thiện cũng có tác dụng thù thắng, cho nên ở trong năm Uẩn như Giới…, mười chi Vô học đều kiến lập hay sao?
Đáp: Ở phần vị lìa nhiễm hiển bày tướng lìa nhiễm, thiết lập Uẩn giải thoát thuộc về chi Chánh giải thoát, trừ điều này ra lại không có tác dụng thù thắng nào về sinh trưởng, bởi vì không có tướng của Căn, cho nên không thiết lập làm Căn.
Xúc tuy khiến cho tâm thuận theo Xúc đối với cảnh sinh ra các Thọ, nhưng đối với phẩm nhiễm-tịnh thì không có tác dụng thù thắng nào khác,cho nên không thiết lập làm Căn.
Hỏi: Lẽ nào không phải sinh ra Thọ tức là tác dụng thù thắng hay sao?
Đáp: Thọ đối với nhiễm-tịnh có công năng thù thắng thì có thể thiết lập làm Căn. Xúc chỉ sinh ra Thọ chứ không có tác dụng thù thắng đích thực đối với phẩm nhiễm-tịnh. Vả lại, Xúc chỉ có thể tùy thuận với phẩm tạp nhiễm chứ không phải là thuận với phẩm thanh tịnh, cho nên không thiết lập làm Căn. Phần nhiều thuận với phẩm thanh tịnh thì thiết lập làm các Căn, chính vì vậy cho nên Dục không thiết lập làm Căn, bởi vì cũng không có tác dụng thù thắng đối với phẩm thanh tịnh.
Hỏi: Trong kinh nói các pháp lấy Dục làm căn bản, các phẩm nhiễm-tịnh đều từ Dục mà sinh ra, tại sao không có tác dụng thù thắng đối với phẩm thanh tịnh?
Đáp: Tuy phẩm nhiễm-tịnh không có Dục thì không sinh ra, mà trong kinh nói là các pháp căn bản, nhưng đã sinh ra rồi thì không còn tác dụng thù thắng. Vả lại, phần nhiều thuận với Ái cho nên không thiết lập làm Căn, bởi vì thuận theo pháp thấp kém chứ không phải là tăng thượng.
Hỏi: Tư có thể khiến cho tâm tạo tác thiện ác, thiết lập làm ý nghiệp, có thể phát khởi thân-ngữ, có thể cảm lấy sinh tử, có tác dụng tăng thượng mạnh hơn pháp khác, vì sao không thiết lập làm Căn?
Đáp: Bởi vì chỉ thuận với phẩm tạp nhiễm, không phải là phẩm thanh tịnh, cho nên không thiết lập làm Căn.
Có người nói: Các nghiệp từ phiền não sinh ra, bởi vì phiền não thấp hèn chứ không phải là tăng thượng, cho nên không thiết lập làm Căn; nghiệp cũng phải như vậy. Như người hèn mọn mà sinh ra con cái, mọi người đều ghét bỏ không kết hôn qua lại với nhau, các nghiệp cũng như vậy, cho nên không có nghĩa của Căn.
Hỏi: Vì sao trong tâm sở pháp thiện, chỉ có hai pháp thiết lập làm Căn, những pháp còn lại đều không thiết lập?
Đáp: Bởi vì những pháp còn lại đều không có tướng của Căn. Nghĩa là Tín có thể làm căn bản cho các pháp thiện, không có phẩm thiện nào tách lìa Tín mà thành tựu; Tinh tiến có thể thúc đẩy phát khởi các pháp thiện khắp nơi, không có phẩm thiện nào tách lìa Tinh tiến mà thành tựu. Bởi vì hai pháp này có nghĩa tăng thượng hơn hẳn, cho nên có thể thiết lập làm Căn, những pháp còn lại thì không như vậy.
Hỏi: Hai loại Tàm-Quý thuộc về tự tánh thiện, nói là pháp thiện (bạch pháp),vì sao không thiết lập làm Căn?
Đáp: Hai loại này có thể đối trị với tâm bất thiện khắp nơi, bởi vì tự tánh bất thiện luôn luôn là phẩm ác (hắc phẩm), cho nên nói đến tên gọi là thiện (bạch) và tự tánh thiện; nhưng ở trong sự sinh trưởng của các pháp thiện, bởi vì không có công năng thù thắng nào khác, cho nên không có nghĩa của Căn.
Hỏi: Không có Tham-không có Nhuế gọi là Căn thiện, vì sao trong này không thiết lập làm Căn?
Đáp: Kiến lập về Căn ấy, cùng với nghĩa này khác nhau. Nghĩa là pháp do loại ấy đối trị đi cùng với sáu Thức, bao gồm năm pháp đã đoạn là tánh tùy miên, có thể phát khởi nghiệp ác thô nặng của thân-ngữ, làm gia hạnh thù thắng cho đoạn mất Căn thiện; đầy đủ năm nghĩa ấy cho nên thiết lập làm Căn bất thiện. Ba loại như không có Tham… có thể đối trị với loại ấy, và khởi lên các nghiệp thiện phân tán, cho nên gọi là Căn thiện. Trong này, Tín… thiết lập làm Căn, bao gồm hướng về sự sinh trưởng tất cả các pháp thiện, phần nhiều dựa vào sự tùy thuận với phẩm thiện xuất thế, cho nên không có Tham… đối với điều này không phải là Căn.
Hỏi: Khinh an-không làm hại-không phóng dật-Xả, vì sao không thiết lập làm Căn?
Đáp: Bởi vì không có tướng của Căn. Nghĩa là pháp do loại ấy đối trị là bốn tùy phiền não, ba loại chỉ là tâm nhiễm ô khắp nơi, một loại làm bạn với Tầm ác, làm não loạn Bồ-tát và ngăn cản chọn lấy Bồ-đề, cho nên trong pháp thiện thiết lập những loại ấy làm chủ thể đối trị. Nhưng đối với sự sinh trưởng của pháp thuộc phẩm thanh tịnh, không có công năng thù thắng nào khác, cho nên không thiết lập làm Căn.
Hỏi: Các pháp thiện đều dựa vào không phóng dật mà khởi lên, vì sao nói công năng không phải là thù thắng?
Đáp: Bởi vì những loại này chỉ có thể trừ bỏ các pháp phóng dật, khiến cho các phẩm thiện dựa vào Tín… mà sinh khởi, không phải là loại ấy tự mình có thể có tác dụng sinh trưởng.
Hỏi: Vui mừng-Chán ngán(hân-yếm), vì sao không thiết lập làm Căn?
Đáp: Ở trong phần vị phân tán thì tác dụng của loại này tuy là thù thắng, nhưng ở trong phần vị Định thiện thì tác dụng không rõ ràng, tác dụng của Căn nhất định phải thù thắng ở trong hai phần vị, mà ở phần vị Định thì rõ ràng tăng mạnh, cho nên hai pháp ấy không có nghĩa của Căn.
Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao thiết lập Tín làm Căn?
Đáp: Bởi vì tác dụng lắng trong thanh tịnh bao gồm tất cả các phần vị, không phải là chỉ ở phần vị phân tán, cho nên thiết lập làm Căn.
Hỏi: Ác tác-Thụy miên và Tầm-Tứ, vì sao không phải là Căn?
Đáp: Bởi vì không có tướng của Căn. Nghĩa là hai loại trước chỉ thuộc về tâm phân tán, hai loại sau không bao gồm tất cả các cõi-địa, và đều không có công năng thù thắng về sinh khởi pháp thiện, cho nên đều không nói là có nghĩa của Căn.
Hỏi: Nếu như vậy thì bốn loại như Khổ thọ…không nên thiết lập làm Căn?
Đáp: Nói tóm lại là Thọ có khắp các phần vị, dựa vào chủng loại ấy đều nói là Căn, và Thọ đều có sự sinh trưởng tăng thượng, bốn loại ấy thì không như vậy.
Hỏi: Trong Đạo chi thiết lập Tầm, trong Tĩnh lự chi thiết lập TầmTứ, lẽ nào không phải là sinh trưởng có tăng thượng thù thắng hay sao?
Đáp: Những loại này có lực thúc đẩy duy trì đối với Định-Tuệ, cho nên thiết lập làm Chi, không phải là có tác dụng tăng thượng đối với sự sinh trưởng, cho nên không phải là Căn.
Hỏi: Vì sao đối với các Hành không tương ưng chỉ riêng Mạng thiết lập làm Căn?
Đáp: Bởi vì chỉ riêng Mạng căn có nghĩa của Căn. Nghĩa là loại ấy chỉ là do số hữu tình thâu nhiếp, chỉ là dị thục, có thể tùy ý duy trì khắp nơi, cho nên thiết lập làm Căn, những loại còn lại thì không như vậy. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì ba nghĩa về bốn tướng hữu vi đều không có, không có dị thục của Tưởng, không có nghĩa duy trì khắp nơi, Chúng đồng phần ấy không phải là chỉ có dị thục, bởi vì nó cũng bao gồm tánh thuộc đẳng lưu. Hai loại không có tâm định, danh cú-văn thân, đắc-phi đắc…, không có hai nghĩa sau, cho nên tất cả nhưng loại ấy đều không thiết lập làm Căn.
Hỏi: Nếu nghĩa về tối thắng là nghĩa của Căn, thì Niết-bàn là tối thắng ở trong tất cả các pháp, vì sao không thiết lập làm Căn?
Đáp: Bởi vì Niết-bàn là nơi các Căn diệt hết, nơi Căn diệt hết thì không gọi là Căn; như nơi hủy hoại các loại bình-chậu… thì không gọi là bình-chậu…
Có người nói: Nếu pháp hiện hành giữa thế gian, chọn lấy quảmang lại quả, có các tác dụng, biết rõ ràng sở duyên, thì có thể thiết lập làm Căn; Niết-bàn thì không như vậy.
Có người nói: Nếu pháp sinh diệt có nhân-có quả-có tướng hữu vi, thì có thể thiết lập làm Căn; Niết-bàn thì không như vậy.
Có người nói: Căn là thuộc về nhân-thuộc về duyên hòa hợp mà sinh; Niết-bàn thì không như vậy.
Có người nói: Nếu như pháp vì sinh mà sinh, vì lão mà lão, vì diệt mà diệt, thì có thể thiết lập làm Căn; Niết-bàn thì không như vậy.
Có người nói: Căn là thuộc về uẩn-thuộc về đời, do các khổ mà thuận theo; Niết-bàn thì không như vậy.
Có người nói: Căn là có tướng trước-sau, có tướng thượng-trung- hạ; Niết-bàn thì không như vậy.
Có người nói: Tối thắng là nghĩa của Căn, đó là ở trong pháp hữu vi thù thắng mà có tác dụng; Niết-bàn là tối thắng ở trong tất cả các pháp, mà không có tác dụng, cho nên không thiết lập làm Căn.
Hư không Phi trạch diệt không thiết lập làm Căn, nghĩa dựa theo đây nên biết.
*******
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại là Học, mấy loại là Vô học, mấy loại là Phi học phi vô học?
Đáp: Hai loại là Học, một loại là Vô học, mười loại là Phi học phi vô học, chín loại cần phải phân biệt.
Hai loại là Học, đó là Vị tri đương tri căn và Dĩ tri căn. Một loại là Vô học, đó là Cụ tri căn. Mười loại là Phi học phi vô học, đó là bảy Sắc căn và Mạng-Khổ- Ưu căn. Chín loại cần phải phân biệt, đó là Ý-Lạc- Hỷ- Xả và năm căn như Tín… Chín loại này đều cần phải làm thành ba phần mà trả lời, cho nên gọi là cần phải phân biệt:
- Đưa ra phần thuộc về Học.
- Đưa ra phần thuộc về Vô học.
- Đưa ra phần thuộc về Phi học phi vô học.
Luận giả Phân Biệt nói: “Chín loại này cần phải đưa ra phân biệt để ghi nhớ, cho nên gọi là cần phải phân biệt, đó là Ý căn hoặc là Học, hoặc là Vô học, hoặc là Phi học phi vô học.
Thế nào là Học? Đó là Ý căn tương ưng với Tác ý thuộc về Học. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn tương ưng từ Khổ pháp trí nhẫn, cho đến Định Kim cang dụ.
Thế nào là Vô học? Đó là Ý căn tương ưng với Tác ý Vô học. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn tương ưng với Tận trí-Vô sinh trí và Chánh kiến Vô học.
Thế nào là Phi học phi vô học? Đó là Ý căn tương ưng với Tác ý hữu lậu. Điều này lại là thế nào? Đó là có ba loại. Những gì là ba loại? Đó là thiện- nhiễm ô và vô phú vô ký.
Thiện lại có ba loại, đó là gia hạnh đắc, ly nhiễm đắc và sinh đắc. Gia hạnh đắc lại có ba loại, đó là do Văn mà thành, do Tư mà thành, do Tu mà thành. Do Văn-Tư mà thành, đó là tương ưng với quán Bất tịnh, Trì tức niệm và Niệm trú… Do Tu mà thành, đó là tương ưng với Noãn- Đảnh-Nhẫn-Thế đệ nhất pháp, Thế tục trí Hiện quán biên, Tĩnh lự- Vô lượng – Vô sắc – Giải thoát, Thắng xứ-Biến xứ… Ly nhiễm đắc, đó là đạt được do lúc lìa nhiễm, tức là một.
Có người nói: Tác ý có thể sinh ra các pháp mạnh hơn đối với pháp khác, vì vậy chỉ nói đến loại ấy.
Đã phân biệt về tự tánh của các căn thuộc Học…, tướng xen tạp- không xen tạp nay sẽ nói đến.
Hỏi: Các căn thuộc Học thì căn ấy là của người Học chăng?
Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:
1. Có căn thuộc Học mà căn ấy không phải là của người Học, đó là người Học không thành tựu căn thuộc Học. Điều này lại là thế nào? Đó là Tùy tín hành không thành tựu các căn của Tùy pháp hành, Tùy pháp hành không thành tựu các căn của Tùy tín hành; Tín thắng giải không thành tựu các căn của Kiến chí, Kiến chí không thành tựu các căn của Tín thắng giải; Học thuộc chủng tánh Thối pháp không thành tựu các căn của Học thuộc năm chủng tánh, cho đến Học thuộc chủng tánh Bất động pháp không thành tựu các căn của Học thuộc năm chủng tánh; Học thuộc chủng tánh Phật thừa không thành tựu các căn của Học thuộc chủng tánh hai Thừa khác, cho đến Học thuộc chủng tánh Thanh văn Thừa không thành tựu các căn của Học thuộc hai Thừa khác; trú trong phần vị Khổ pháp trí nhẫn không thành tựu các căn của phần vị Học phía trên, cho đến trú trong phần vị Đạo loại trí nhẫn không thành tựu các căn của phần vị Học phía trên; trú trong phần vị của ba quả Học chưa tiến lên phía trên, không thành tựu các căn của phần vị Học trêndưới; trú trong phần vị tiến lên phía trên như thích hợp nói rộng ra.
2. Có căn là của người Học mà căn ấy không phải là Học, đó là người Học thành tựu căn Phi học phi vô học. Điều này lại là thế nào? Đó là những người Học sinh ỏ cõi Dục, đã đạt được Nhãn căn không mất, và sinh ở cõi Sắc, lúc ấy thành tựu Nhãn căn. Đã đạt được, đó là phần vị Bát-la-xa-khư… Không mất, đó là không hư hoại mất đi. Như Nhãn căn, Nhĩ-Tỷ-Thiệt căn cũng như vậy. Sinh ở cõi Dục-Sắc thì lúc ấy thành tựu Thân căn, nữ thành tựu Nữ căn, nam thành tựu Nam căn. Sinh ở cõi Biến Tịnh và cõi dưới, thành tựu Lạc căn. Sinh ở cõi Dục thành tựu Khổ căn. Sinh ở cõi Cực Quang Tịnh và cõi dưới, thành tựu Hỷ căn. Chưa lìa nhiễm cõi Dục, thành tựu Ưu căn. Ý-Mạng-Xả căn tất cả đều thành tựu. Sinh ở cõi Dục chưa đạt được tâm thiện của cõi Vô sắc, lúc ấy thành tựu năm căn như Tín… của cõi Dục-Sắc. Nếu đạt được tâm thiện của cõi Vô sắc, thì lúc ấy thành tựu năm căn như Tín… của ba cõi. Sinh ở cõi Sắc chưa đạt được tâm thiện của cõi Vô sắc, lúc ấy thành tựu năm căn như Tín… của cõi Sắc. Nếu đạt được tâm thiện của cõi Vô sắc, thì thành tựu năm căn như Tín… của cõi Sắc-Vô sắc. Sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy thành tựu năm căn như Tín… của cõi Vô sắc.
3. Có căn thuộc Học mà căn ấy cũng là của người Học, đó là người Học thành tựu căn thuộc Học. Điều này lại là thế nào? Đó là Tùy tín hành thành tựu các căn của Tùy tín hành, Tùy pháp hành thành tựu các căn của Tùy pháp hành; Tín thắng giải thành tựu các căn của Tín thắng giải, Kiến chí thành tựu các căn của Kiến chí; Học thuộc chủng tánh Thối pháp thành tựu các căn của Học thuộc chủng tánh Thối pháp, cho đến Học thuộc chủng tánh Bất động pháp thành tựu các căn của Học thuộc chủng tánh Bất động pháp; Học thuộc chủng tánh Phật thừa thành tựu các căn của Học thuộc chủng tánh Phật thừa, cho đến Học thuộc chủng tánh Thanh văn Thừa thành tựu các căn của Học thuộc chủng tánh Thanh văn Thừa; trú trong phần vị Khổ pháp trí nhẫn thành tựu các căn của phần vị Khổ pháp trí nhẫn, cho đến trú trong phần vị Đạo loại trí nhẫn thành tựu tất cả các căn của Kiến đạo; trú trong phần vị của ba quả Học chưa tiến lên phía trên, đều thành tựu các căn thuộc về quả đã trú vào; trú trong phần vị tiến lên phía trên đều thành tựu các căn thuộc về quả đã đạt được và đạo thuộc về quả thù thắng.
4. Có căn không phải là thuộc Học mà căn ấy cũng không phải là của người Học, đó là người Học không thành tựu căn thuộc Vô học và căn thuộc Phi học phi vô học. Điều này lại là thế nào? Đó là những người Học nhất định không thành tựu các căn Vô học, và có căn thuộc Phi học phi vô học. Người Học không thành tựu, đó là những người Học sinh ở cõi Dục không đạt được Nhãn căn, giả sử đạt được mà mất, và sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu Nhãn căn. Không đạt được, đó là chưa đến phần vị Bát-la-xa-khư…. Giả sử đạt được mà mất, đó là đã hư hoại mất đi. Như Nhãn căn, Nhĩ-Tỷ-Thiệt căn cũng như vậy. Sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu Thân căn, nữ không thành tựu Nam căn, nam không thành tựu Nữ căn. Có lúc không thành tựu cả hai, đó là sinh ở cõi Sắc-Vô sắc, và sinh ở cõi Dục, hoặc là trước đây không đạt được, hoặc là đã đạt được dần dần mạng chung đều rời bỏ. Sinh lên trên cõi Biến Tịnh không thành tựu Lạc căn. Sinh ở cõi Sắc-Vô sắc không thành tựu Khổ căn. Sinh lên trên cõi Cực Quang Tịnh không thành tựu Hỷ căn. Đã lìa nhiễm cõi Dục không thành tựu Ưu căn. Sinh ở cõi Dục chưa đạt được tâm thiện của cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín… của cõi Vô sắc. Sinh ở cõi Sắc chưa đạt được tâm thiện của cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín… của cõi Dục- Vô sắc. Sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín… của cõi Dục-Sắc.
Hỏi: Các căn Vô học, căn ấy là của người Vô học chăng?
Đáp: Nên làm thành bốn câu phân biệt:
1. Có căn Vô học mà căn ấy không phải là của người Vô học, đó là người Vô học không thành tựu căn Vô học. Điều này lại là thế nào? Đó là Thời giải thoát không thành tựu các căn của Bất thời giải thoát, Bất thời giải thoát không thành tựu các căn của Thời giải thoát; Thối pháp không thành tựu các căn của năm chủng loại, cho đến Bất động pháp không thành tựu các căn của năm chủng loại; Phật không thành tựu các căn của Độc giác-Thanh văn, Độc giác không thành tựu các căn của Phật-Thanh văn, Thanh văn không thành tựu các căn của Phật- Độc giác.
2. Có căn là của người Vô học mà căn ấy không phải là Vô học, đó là người Vô học thành tựu căn Phi học phi vô học. Điều này lại là thế nào? Đó là người Vô học sinh ở cõi Dục, đã đạt được Nhãn căn không mất, và sinh ở cõi Sắc, lúc ấy thành tựu Nhãn căn. Như Nhãn căn, NhĩTỷ-Thiệt căn cũng như vậy. Sinh ở cõi Dục-Sắc, lúc ấy thành tựu Thân căn, nữ thành tựu Nữ căn, nam thành tựu Nam căn. Sinh ở cõi Biến Tịnh và cõi dưới, thành tựu Lạc căn. Sinh ở cõi Dục thành tựu Khổ căn. Sinh ở cõi Cực Quang Tịnh và cõi dưới, thành tựu Hỷ căn. Ý- Mạng- Xả căn tất cả đều thành tựu. Sinh ở cõi Dục, lúc ấy thành tựu năm căn như Tín… của ba cõi. Sinh ở cõi Sắc, lúc ấy thành tựu năm căn như Tín… của cõi Sắc-Vô sắc. Sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy thành tựu năm căn như Tín… của cõi Vô sắc.
3. Có căn thuộc Vô học mà căn ấy cũng là của người Vô học, đó là người Vô học thành tựu căn Vô học. Điều này lại là thế nào? Đó là Thời giải thoát thành tựu các căn của Thời giải thoát, Bất thời giải thoát thành tựu các căn của Bất thời giải thoát; Thối pháp thành tựu các căn của Thối pháp, cho đến Bất động pháp thành tựu các căn của Bất động pháp; Phật thành tựu các căn của Phật, Độc giác thành tựu các căn của Độc giác, Thanh văn thành tựu các căn của Thanh văn.
4. Có căn không phải là Vô học mà căn ấy cũng không phải là của người Vô học, đó là người Vô học không thành tựu căn thuộc Học và căn thuộc Phi học phi vô học. Điều này lại là thế nào? Đó là người Vô học nhất định không thành tựu các căn thuộc Học, và có căn thuộc Phi học phi vô học. Người Vô học không thành tựu, đó là người Vô học sinh ở cõi Dục, không đạt được Nhãn căn, giả sử đạt được mà mất, và sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu Nhãn căn. Như Nhãn căn, Nhĩ-TỷThiệt căn cũng như vậy. Sinh ở cõi Vô sắc lúc ấy không thành tựu Thân căn, nữ không thành tựu Nam căn, nam không thành tựu Nữ căn. Có lúc không thành tựu cả hai, đó là sinh ở cõi Sắc – Vô sắc, và sinh ở cõi Dục, hoặc là trước kia không đạt được, hoặc là đã đạt được mà mất. Sinh lên trên cõi Biến Tịnh, lúc ấy không thành tựu Lạc căn. Sinh ở cõi Sắc-Vô sắc, lúc ấy không thành tựu Khổ căn. Sinh lên trên cõi Cực Quang Tịnh, lúc ấy không thành tựu Hỷ căn, thì nhất định không thành tựu Ưu căn. Sinh ở cõi Sắc, lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín…của cõi Dục. Sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín… của cõi Dục-Sắc.
Hỏi: Các căn thuộc Phi học phi vô học, căn ấy là của người Phi học phi vô học chăng?
Đáp: Các căn của người Phi học phi vô học, căn ấy thuộc Phi học phi vô học. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì thành tựu pháp Học thì gọi là người Học, thành tựu pháp Vô học thì gọi là người Vô học. Nếu không thành tựu pháp Học-Vô học, thì gọi là người Phi học phi vô học, tức là các dị sinh, bởi vì căn đã thành tựu ấy chỉ là Phi học phi vô học.
Có căn thuộc Phi học phi vô học mà căn ấy không phải là của người Phi học phi vô học, đó là người Phi học phi vô học không thành tựu căn thuộc Phi học phi vô học. Điều này lại là thế nào? Đó là các dị sinh sinh ở cõi Dục chưa đạt được Nhãn căn, giả sử đạt được mà mất, và sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu Nhãn căn. Như Nhãn căn, Nhĩ-Tỷ-Thiệt căn cũng như vậy. Sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu Thân căn, nữ không thành tựu Nam căn, nam không thành tựu Nữ căn. Có lúc không thành tựu cả hai, đó là sinh ở cõi Sắc – Vô sắc, và sinh ở cõi Dục, hoặc là trước kia không đạt được, hoặc là đã đạt được mà mất. Sinh lên trên cõi Biến Tịnh, không thành tựu Lạc căn. Sinh ở cõi Sắc-Vô sắc, không thành tựu Khổ căn. Sinh lên trên cõi Cực Quang Tịnh, không thành tựu Hỷ căn. Lìa nhiễm của cõi Dục, không thành tựu Ưu căn. Người đoạn mất căn thiện, không thành tựu năm căn như Tín… của ba cõi. Sinh ở cõi Dục không đoạn mất căn thiện, nếu chưa đạt được tâm thiện của cõi Sắc, thì lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín… của cõi Sắc-Vô sắc; nếu đạt được tâm thiện của cõi Sắc, chưa đạt được tâm thiện của cõi Vô sắc, thì lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín… của cõi Vô sắc. Sinh ở cõi Sắc, nếu chưa đạt được tâm thiện của cõi Vô sắc, thì lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín… của cõi Dục- Vô sắc; nếu đạt được tâm thiện của cõi Vô sắc, thì lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín… của cõi Dục. Sinh ở cõi Vô sắc, lúc ấy không thành tựu năm căn như Tín… của cõi Dục- Sắc.
Đã phân biệt về các căn thuộc Học…, nay sẽ nói đến nghĩa của các căn thuộc Học…
Hỏi: Vì sao gọi là Học-Vô học-Phi học phi vô học?
Đáp: Dùng đạo không có tham vì đoạn bỏ tham mà học, pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Học; dùng đạo không có tham vì đoạn bỏ tham mà không học-đã học, pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Vô học; ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, dùng đạo không có sân vì đoạn bỏ sân mà học, pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Học; dùng đạo không có sân vì đoạn bỏ sân mà không học- đã học, pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Vô học; ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, dùng đạo không có si vì đoạn bỏ si mà học, pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Học; dùng đạo không có si vì đoạn bỏ si mà không học- đã học, pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Vô học; ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, dùng đạo không có ái vì đoạn bỏ ái mà học, nhưng không phải là quan hệ của ái, pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Học. Dùng đạo không có ái vì đoạn bỏ ái mà học, đây là ngăn chặn về đạo thuộc Vô học; nhưng không phải là quan hệ của ái, đây là ngăn chặn về đạo thuộc thế tục. Dùng đạo không có ái vì đoạn bỏ ái mà không học-đã học, nhưng không phải là quan hệ của ái, pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Vô học. Dùng đạo không có ái vì đoạn bỏ ái mà không học-đã học, đây là ngăn chặn về đạo thuộc Học; nhưng không phải là quan hệ của ái, đây là ngăn chặn về đạo thuộc thế tục. Ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, nếu đạo vì đoạn bỏ hai mong cầu-thỏa mãn một mong cầu mà học, thì pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Học. Vì đoạn bỏ hai mong cầu, đó là mong cầu về Dục-mong cầu về Hữu; thỏa mãn một mong cầu, đó là mong cầu về Phạm hạnh. Nếu đạo vì đoạn bỏ hai mong cầu-thỏa mãn một mong cầu mà không học-đã học, thì pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Vô học. Ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, nếu đạo vì đoạn bỏ phiền não, tu hiện quán về Đế mà
học, thì pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Học; nếu đạo vì đoạn bỏ phiền não, tu hiện quán về Đế mà không học-đã học, thì pháp do đạo này thâu nhiếp gọi là Vô học; ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, nếu trong sở y có phiền não nhất định ràng buộc theo, có vô lậu nhất định đuổi theo, thì đó là Học; nếu trong sở y không có phiền não nhất định ràng buộc theo, có vô lậu nhất định đuổi theo, thì đó là Vô học; ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, nếu trong sở y có ái ràng buộc theo, có vô lậu đạt được, thì đó là Học; nếu trong sở y không có ái ràng buộc theo, có vô lậu đạt được, thì đó là Vô học; ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, nếu pháp do Kiến đạo-Tu đạo thâu nhiếp, thì đó là Học; nếu pháp do đạo Vô học thâu nhiếp, thì đó là Vô học; ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học. Kiến địa-Tu địa và địa Vô học, nói cũng như vậy.
Lại nữa, nếu pháp do Vị tri đương tri căn và Dĩ tri căn thâu nhiếp, thì đó là Học; nếu pháp do Cụ tri căn thâu nhiếp, thì đó là Vô học; ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, các pháp vô lậu trong sự nối tiếp nhau của năm loại Bổđặc-già-la, thì gọi là Học. Năm loại Bổ-đặc-già-la, đó là Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Tín giải thoát, Kiến chí và Thân chứng. Các pháp vô lậu trong sự nối tiếp nhau của hai loại Bổ-đặc-già-la, thì gọi là Vô học. Hai loại Bổ-đặc-già-la, đó là Tuệ giải thoát và Câu giải thoát. Ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, các pháp vô lậu trong sự nối tiếp nhau của bảy loại Bổđặc-già-la, thì gọi là Học. Bảy loại Bổ-đặc-già-la, đó là bốn Hướng- ba Quả trước. Các pháp vô lậu trong sự nối tiếp nhau của một loại Bổ-đặcgià-la, thì gọi là Vô học. Một loại Bổ-đặc-già-la, đó là A-la-hán. Ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Lại nữa, các pháp vô lậu trong sự nối tiếp nhau của mười tám loại Bổ-đặc-già-la, thì gọi là Học; các pháp vô lậu trong sự nối tiếp nhau của chín loại Bổ-đặc-già-la, thì gọi là Vô học. Ngược lại với hai loại này gọi là Phi học phi vô học.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại là thiện, mấy loại là bất thiện, mấy loại là vô ký?
Đáp: Tám loại là thiện, tám loại là vô ký, sáu loại cần phải phân biệt.
Tám loại là thiện, đó là năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu. Tám loại là vô ký, đó là bảy Sắc căn và Mạng căn. Sáu loại cần phải phân biệt, đó là Ý căn và năm Thọ. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký.
Thế nào là thiện? Đó là Ý căn tương ưng với tác ý thiện. Ở đây lại có hai loại, đó là hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu có ba loại, đó là gia hạnh đắc, ly nhiễm đắc và sinh đắc. Vô lậu có hai loại, đó là Học và Vô học.
Thế nào là bất thiện? Đó là Ý căn tương ưng với tác ý bất thiện. Ở đây lại có hai loại, đó là do kiến mà đoạn và do tu mà đoạn, tức là Ý căn tương ưng với tác ý câu sinh thuộc ba mươi bốn tùy miên của cõi Dục.
Thế nào là vô ký? Đó là Ý căn tương ưng với tác ý vô ký. Ở đây có hai loại, đó là hữu phú vô ký và vô phú vô ký. Hữu phú vô ký, đó là Ý căn tương ưng với tác ý câu sinh thuộc Hữu thân kiến-Biên chấp kiến của cõi Dục, và tất cả phiền não câu sinh của cõi Sắc-Vô sắc. Vô phú vô ký, đó là Ý căn tương ưng với tác ý câu sinh thuộc Oai nghi lộ, Công xảo xứ, Dị thục sinh và Thông quả.
Như Ý căn, Xả căn-Hỷ căn-Lạc căn tùy theo thích hợp cũng như vậy.
Khổ căn hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký.
Thế nào là thiện? Đó là Khổ căn tương ưng với tác ý thiện. Điều này lại là thế nào? Đó là Sinh đắc thiện.
Thế nào là bất thiện? Đó là Khổ căn tương ưng với tác ý bất thiện. Điều này lại là thế nào? Đó là do tu mà đoạn.
Thế nào là vô ký? Đó là Khổ căn tương ưng với tác ý vô ký. Điều này lại là thế nào? Đó là Dị thục sinh.
Ưu căn hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký.
Thế nào là thiện? Đó là Ưu căn tương ưng với tác ý thiện. Như nói: “Mình vào lúc nào sẽ được an trú đầy đủ ở nơi này? Nếu đã an trú đầy đủ ở phần vị của Thánh giả, thì lòng dạ lo buồn suy nghĩ mong mỏi đối với phần vị giải thoát phía trên.”
Thế nào là bất thiện? Đó là Ưu căn tương ưng với tác ý bất thiện.
Điều này lại là thế nào? Đó là do kiến mà đoạn và do tu mà đoạn.
Hỏi: Vì sao không có Ưu căn vô ký?
Đáp: Vô ký có hai loại, đó là hữu phú và vô phú. Ưu căn lại không phải là hữu phú vô ký, bởi vì không tương ưng với Hữu thân kiến-Biên chấp kiến của cõi Dục. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì hành tướng khác nhau, hai Kiến ấy do hành tướng vui vẻ (hoan) mà chuyển, Ưu căn do hành tướng lo buồn(thích) mà chuyển, pháp trái ngược lẫn nhau cho nên không tương ưng. Ưu căn cũng không phải là vô phú vô ký, bởi vì không phải là do Oai nghi lộ-Công xảo xứ-Dị thục sinh thâu nhiếp.
Hỏi: Vì sao Ưu căn không phải là do Oai nghi lộ thâu nhiếp?
Đáp: Bởi vì Ưu căn do phân biệt mà chuyển, Oai nghi lộ không có phân biệt mà chuyển. Nếu Oai nghi lộ có Ưu căn, giả sử có phân biệt, nay mình nên thể hiện oai nghi như vậy, như Phật Thế Tôn, hoặc là như Mã Thắng, thì lúc phân biệt đã thuận theo trú trong oai nghi như vậy. Nhưng Oai nghi lộ không có sự phân biệt này, cho nên Oai nghi lộ không có Ưu căn.
Hỏi: Vì sao Ưu căn không phải là Công xảo xứ?
Đáp: Bởi vì Ưu căn do phân biệt mà chuyển, Công xảo xứ không có phân biệt mà chuyển. Nếu Công xảo xứ có Ưu căn, giả sử có phân biệt, nay mình nên thể hiện công xảo như vậy, như Phật Thế Tôn, hoặc là như Thiên tử Diệu Nghiệp, thì lúc phân biệt đã thuận theo thành tựu công xảo như vậy. Nhưng Công xảo xứ không có sự phân biệt này, cho nên Công xảo xứ không có Ưu căn.
Hỏi: Vì sao Ưu căn không phải là Dị thục sinh?
Đáp: Bởi vì Ưu căn do phân biệt mà chuyển, Dị thục sinh không có phân biệt mà chuyển. Nếu Dị thục sinh có Ưu căn, giả sử có phân biệt, nay mình nên thọ nhận dị thục như vậy, như Phật Thế Tôn, hoặc là như Chuyển luân Thánh vương, thì lúc phân biệt đã thuận theo hiện tại thọ nhận dị thục như vậy. Nhưng Dị thục sinh không có sự phân biệt này, cho nên Dị thục sinh không có Ưu căn.
Có người nói: Ưu căn do gia hạnh hiện tại mà chuyển, Dị thục sinh do nghiệp trước kia đã dẫn dắt, vì vậy Ưu căn không phải là Dị thục sinh.
Có người nói: Ưu căn tùy theo ý muốn mà chuyển, bởi vì từ trong tất cả mọi việc đã mất đi, có lúc khởi lên Ưu căn, có lúc không khởi lên; Dị thục sinh thì không tùy theo ý muốn thọ nhận, do nghiệp mà chuyển, cho nên Ưu căn không phải là Dị thục sinh.
Có người nói: Ưu căn nếu như là dị thục, thì thuận theo nghiệp nặng chỉ thọ nhận phần ít của quả, nghĩa là có nhân gây ra nghiệp vô gián rồi liền sinh ra lo buồn, thì phải gọi là thọ nhận dị thục của nghiệp ấy, lẽ nào không phải là phần ít của quả hay sao?
Có người nói: Ưu căn rời bỏ vào lúc lìa nhiễm cõi Dục, Dị thục sinh thì lìa nhiễm của ba cõi mà hãy còn chuyển theo, cho nên Ưu căn không phải là Dị thục sinh. Vì vậy Ưu căn chỉ là thiện và bất thiện.
Đã phân biệt về các căn thuộc thiện…, nay sẽ nói đến nghĩa của các căn thuộc thiện…
Hỏi: Vì sao gọi là thiện-bất thiện-vô ký?
Đáp: Nếu pháp do phương tiện khéo léo thâu nhiếp, có thể dẫn đến quả tốt đẹp, tự tánh an ổn, thì gọi là thiện. Do phương tiện khéo léo thâu nhiếp, là hiển bày về Đạo đế. Có thể dẫn đến quả tốt đẹp, là hiển bày về phần ít của Khổ-Tập đế. Tự tánh an ổn, là hiển bày về Diệt đế. Nếu pháp không thuộc về phương tiện khéo léo, dẫn đến quả không tốt đẹp, tánh không an ổn, thì gọi là bất thiện. Đây là biểu hiện rõ ràng về phần ít của Khổ-Tập đế. Ngược lại với hai loại này thì gọi là vô ký.
Có người nói: Nếu pháp có thể đạt được quả tốt đẹp và quả thuộc Lạc thọ, thì gọi là thiện. Nếu pháp có thể nhận lấy quả không tốt đẹp và quả thuộc Khổ thọ, thì gọi là bất thiện. Ngược lại với hai loại này thì gọi là vô ký.
Có người nói: Nếu pháp có thể sinh ra mầm của quả tốt đẹp và mầm của giải thoát, thì gọi là thiện. Nếu pháp có thể sinh ra mầm của quả không tốt đẹp, thì gọi là bất thiện. Ngược lại với hai loại này thì gọi là vô ký.
Có người nói: Nếu pháp có thể cảm đến nẽo đáng yêu, thì gọi là thiện. Nếu pháp có thể cảm đến nẽo không đáng yêu, thì gọi là bất thiện. Ngược lại với hai loại này thì gọi là vô ký.
Có người nói: Nếu pháp thuộc về phẩm hoàn diệt-phẩm thanh tịnh, là tánh nhẹ nhàng thì gọi là thiện. Nếu pháp thuộc về phẩm lưu chuyển-phẩm tạp nhiễm, là tánh nặng nề thì gọi là bất thiện. Ngược lại với hai loại này thì gọi là vô ký.
Hiếp Tôn giả nói: “Bởi vì bốn duyên cho nên gọi là thiện:
- Tự tánh.
- Tương ưng.
- Đẳng khởi.
- Thắng nghĩa.”
Thiện thuộc tự tánh, có người nói là tàm quý. Có người nói là ba căn thiện. Thiện thuộc tương ưng, là tâm-tâm sở pháp tương ưng với thiện. Thiện thuộc đẳng khởi, là do thiện mà phát khởi nghiệp thânngữ, tâm không tương ưng với hành. Thiện thuộc thắng nghĩa, là Niếtbàn an ổn cho nên gọi là thiện.
Luận giả Phân Biệt đưa ra cách nói như vậy: “Thiện thuộc tự tánh, đó là trí. Thiện thuộc tương ưng, đó là thức tương ưng với thiện.
Thiện thuộc đẳng khởi, đó là do thiện mà phát khởi nghiệp thân-ngữ.
Thiện thuộc thắng nghĩa, đó là Niết-bàn.” Bởi vì bốn duyên cho nên gọi là bất thiện:
- Tự tánh.
- Tương ưng.
- Đẳng khởi.
- Thắng nghĩa.
Bất thiện thuộc tự tánh, có người nói là không có tàm-không có quý, bởi vì tâm bất thiện bao trùm mọi nơi, luôn luôn bất thiện. Có người nói là ba căn bất thiện, bởi vì có đủ năm nghĩa. Bất thiện thuộc tương ưng, đó là tâm-tâm sở pháp tương ưng với bất thiện. Bất thiện thuộc đẳng khởi, đó là do bất thiện mà phát khởi nghiệp thân-ngữ, tâm không tương ưng với hành. Bất thiện thuộc thắng nghĩa, đó là sinh tử không an ổn, cho nên gọi là bất thiện.
Luận giả Phân Biệt đưa ra cách nói như vậy: “Bất thiện thuộc tự tánh, đó là si. Bất thiện thuộc tương ưng, đó là thức tương ưng với bất thiện. Bất thiện thuộc đẳng khởi, đó là do bất thiện mà phát khởi nghiệp thân-ngữ. Bất thiện thuộc thắng nghĩa, đó là sinh tử.”
Hiếp Tôn giả nói: “Nếu pháp là tự tánh tác ý như lý, tương ưng tác ý như lý, đẳng khởi tác ý như lý, quả Đẳng lưu- quả Ly hệ của tác ý như lý, đó là thiện. Nếu pháp là tự tánh tác ý không như lý, tương ưng tác ý không như lý, đẳng khởi tác ý không như lý, quả Đẳng lưu của tác ý không như lý, đó là bất thiện. Ngược lại với hai loại này thì đó là vô ký.”
Như tác ý như lý và tác ý không như lý, tàm quý và không có tàmkhông có quý, ba căn thiện và ba căn bất thiện, năm căn như Tín… và năm Cái, cũng như vậy.
Luận Tập Dị Môn nói: “Vì sao gọi là thiện?
Đáp: Có quả đáng yêu, quả đáng vui, quả vừa ý, quả hài lòng, quả đáng yêu thích, thì gọi là thiện. Đây là nói về quả Đẳng lưu. Lại nữa, có dị thục đáng yêu, dị thục đáng vui, dị thục vừa ý, dị thục hài lòng, dị thục đáng yêu thích, thì gọi là thiện. Đây là nói về quả Dị thục. Ngược lại với loại này thì gọi là bất thiện.” Ngược lại với hai loại này thì gọi là vô ký. Nghĩa còn lại như phẩm thứ nhất trong chương Kiết Uẩn nói rộng.
Hai mươi hai căn này, mấy loại có dị thục? Cho đến nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?
Đáp: Bởi vì cần phải ngăn chặn tông chỉ của người khác để hiển bày nghĩa lý của mình. Đó là phái Thí Dụ nói rằng: “Rời xa Tư không có nhân Dị thục, rời xa Thọ không có quả Dị thục.” Vì ngăn chặn cách nói ấy, hiển bày về nhân Dị thục và quả Dị thục đều bao gồm năm Uẩn. Ẩm Quang Bộ nói rằng: “Các nhân Dị thục, lúc dị thục chưa sinh khởi thì nhân ấy có Thể, dị thục sinh khởi rồi thì nhân ấy liền mất, như mầm non chưa sinh ra thì hạt giống hãy còn có Thể, mầm non đã sinh ra rồi thì Thể của hạt giống sẽ không có.” Cần phải ngăn chặn ý ấy để hiển bày về nhân luôn luôn có. Lại có ngoại đạo chấp là nghiệp thiện ác không có quả Dị thục. Cũng ngăn chặn ý đó để hiển bày về nghiệp thiện ác có quả Dị thục, cho nên soạn ra phần luận này.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại có dị thục, mấy loại không có dị thục?
Đáp: Một loại có dị thục, mười một loại không có dị thục, mười loại cần phải phân biệt.
Một loại có dị thục, đó là Ưu căn. Mười một loại không có dị thục, đó là bảy Sắc căn-Mạng căn và ba căn Vô lậu. Mười loại cần phải phân biệt, đó là Ý căn-bốn Thọ và năm căn như Tín… Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn, hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục. Thế nào là có dị thục? Đó là Ý căn hữu lậu thiện-bất thiện. Thế nào là không có dị thục? Đó là Ý căn vô lậu vô ký. Như Ý căn, Lạc căn-Hỷ căn-Xả căn cũng như vậy.
Khổ căn, hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục. Thế nào là có dị thục? Đó là Khổ căn thiện-bất thiện. Thế nào là không có dị thục? Đó là Khổ căn vô ký.
Năm căn như Tín…, hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục. Thế nào là có dị thục? Đó là năm căn như Tín… thuộc hữu lậu. Thế nào là không có dị thục? Đó là năm căn như Tín… thuộc vô lậu.
Đã phân biệt về các căn có dị thục…, nay sẽ nói đến nghĩa của các căn có dị thục…
Hỏi: Vì sao gọi là có dị thục…, là cùng lúc với dị thục của mình cho nên gọi là có dị thục, hay là cùng lúc với dị thục khác cho nên gọi là có dị thục? Nếu cùng lúc với dị thục của mình cho nên gọi là có dị thục, thì tại sao nhân và quả không hợp lại? Lại trái với kệ tụng đã nói, như nói: Làm ác không lập tức chín muồi. Nếu cùng lúc với dị thục khác cho nên gọi là có dị thục, thì đạo Vô lậu phải gọi là có dị thục, bởi vì cùng lúc với dị thục khác?
Đáp: Nên nói là cùng lúc với dị thục của mình cho nên gọi là có dị thục.
Hỏi: Tại sao nhân và quả không hợp lại, còn trái với kệ tụng đã nói?
Đáp: Có hai loại cùng lúc:
- Cùng lúc có.
- Cùng lúc hợp lại.
Cùng lúc có, như có nhân-có quả, có sở duyên-có dị thục… Cùng lúc hợp lại, như có Tầm-có Tứ, có Hỷ-có Tác ý… Trong này dựa vào cùng lúc có mà soạn luận. Như cùng lúc có-cùng lúc hợp lại, cùng lúc có-cùng lúc không tách rời nhau, cũng như vậy.
Có người nói: Có ba loại cùng lúc:
- Cùng lúc xa.
- Cùng lúc gần.
- Cùng lúc xa gần.
Hai loại trước như trước đã nói, cùng lúc xa gần thì như hữu lậu-có tùy miên-có duyên-có sự… Trong này chỉ dựa vào cùng lúc xa mà soạn luận.
Hỏi: Vì sao gọi là dị thục?
Đáp: Khác loại mà chín muồi, cho nên gọi là dị thục. Chín muồi có hai loại:
- Cùng loại.
- Khác loại.
Cùng loại chín muồi, đó là quả Đẳng lưu. Khác loại chín muồi, đó là quả Dị thục. Phần còn lại như chương Kiết Uẩn nói rộng.
Hai mươi hai căn này, mấy loại do kiến mà đoạn? Cho đến nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?
Đáp: Bởi vì cần phải ngăn chặn tông chỉ của người khác để hiển bày nghĩa lý của mình. Như phái Thí Dụ nói: “Không có đạo thế tục có thể đoạn phiền não.” Đại đức ấy nói: “Dị sinh không có ai đoạn dứt tùy miên, nhưng có thể điều phục ràng buộc; cũng không phải là đạo thế tục có nghĩa vĩnh viễn đoạn dứt, bởi vì trong kinh nói: Thánh Tuệ thấy rõ rồi mới có thể đoạn dứt.” Vì ngăn chặn cách nói ấy, để hiển bày về đạo thế tục cũng có thể vĩnh viễn đoạn dứt, các loại dị sinh cũng đoạn dứt tùy miên, bởi vì trong kinh nói: “Ốt-đạt-lạc-ca-át-la-ma-tử, đoạn bỏ cõi Dục, đoạn bỏ cõi Sắc, cho đến đoạn bỏ Vô sở hữu xứ, sinh đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.” Lại nói: “Có ngoại đạo Tiên có thể lìa nhiễm cõi dục…” Như vậy đều đã nói Thánh Tuệ thấy rõ rồi mới có thể đoạn dứt, là hiển bày có thể đến cuối cùng đoạn bỏ nhiễm của cõi Hữu Đảnh.
Hoặc có người nói rằng: Các đạo thế tục tuy có thể vĩnh viễn đoạn dứt, nhưng là dị sinh chứ không phải là Thánh giả, bởi vì không phải là bỏ đạo thù thắng mà dùng đạo yếu kém. Vì ngăn chặn ý đó, hiển bày về các Thánh giả cũng dùng đạo thế tục để lìa nhiễm của tám địa.
Có người đưa ra cách nói này: Lập tức đoạn bỏ chứ không phải là từ từ, bởi vì lúc Định Kim cang dụ hiện rõ ở trước mắt, tất cả phiền não lập tức đoạn bỏ. Vì ngăn chặn ý chấp ấy, hiển bày nhất định phải từ từ đoạn bỏ, bởi vì bốn quả Sa-môn từ từ mà đạt được.
Có người chấp: Hiện quán chỉ có lập tức chứ không phải là từ từ. Vì ngăn chặn cách nói ấy để hiển bày là từ từ chứ không phải là lập tức, và để biểu hiện rõ ràng có hai bộ kiết-hai bộ đối trị, cho nên soạn ra phần luận này.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại do kiến mà đoạn, mấy loại do tu mà đoạn, mấy loại không đoạn?
Đáp: Chín loại do tu mà đoạn, ba loại không đoạn, mười loại cần phải phân biệt.
Chín loại do tu mà đoạn, đó là bảy Sắc căn và Mạng căn-Khổ căn. Ba loại không đoạn, đó là ba căn Vô lậu. Mười loại cần phải phân biệt, đó là Ý căn-bốn Thọ và năm căn như Tín…
Ý căn, hoặc là do kiến mà đoạn, hoặc là do tu mà đoạn, hoặc là không đoạn. Thế nào là do kiến mà đoạn? Đó là Ý căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn tương ưng với tám mươi tám tùy miên do kiến mà đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là Ý căn của Học thấy dấu tích do tu mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn tương ưng với mười tùy miên do tu mà đoạn, và Ý căn hữu lậu không nhiễm ô. Thế nào là không đoạn? Đó là Ý căn vô lậu. Như Ý căn, Xả căn cũng như vậy.
Lạc căn, hoặc là do kiến mà đoạn, hoặc là do tu mà đoạn, hoặc là không đoạn. Thế nào là do kiến mà đoạn? Đó là Lạc căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Lạc căn tương ưng với hai mươi tám tùy miên do kiến mà đoạn, tức là Lạc căn do kiến mà đoạn thuộc Tĩnh lự thứ ba. Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là Lạc căn của Học thấy dấu tích do tu mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Lạc căn tương ưng với năm tùy miên do tu mà đoạn, và Lạc căn hữu lậu không nhiễm ô. Năm tùy miên, đó là Tham-Vô minh của cõi Dục, Tham-Mạn-Vô minh của cõi Sắc. Thế nào là không đoạn? Đó là Lạc căn vô lậu.
Hỷ căn, hoặc là do kiến mà đoạn, hoặc là do tu mà đoạn, hoặc là không đoạn. Thế nào là do kiến mà đoạn? Đó là Hỷ căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Hỷ căn tương ưng với năm mươi hai tùy miên do kiến mà đoạn. Năm mươi hai tùy miên, đó là hai mươi bốn loại của cõi Dục, trừ ra tám loại thuộc Sân-Nghi, hai mươi tám loại của cõi Sắc. Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là Hỷ căn của Học thấy dấu tích do tu mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Hỷ căn tương ưng với sáu tùy miên do tu mà đoạn, và Hỷ căn hữu lậu không nhiễm ô. Sáu tùy miên, đó là Tham-Mạn-Vô minh của cõi Dục-Sắc. Thế nào là không đoạn? Đó là Hỷ căn vô lậu.
Ưu căn, hoặc là do kiến mà đoạn, hoặc là do tu mà đoạn. Thế nào là do kiến mà đoạn? Đó là Ưu căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ưu căn tương ưng với mười sáu tùy miên do kiến mà đoạn. Mười sáu tùy miên, đó là Tà kiến-Sân-Nghi-Vô minh của cõi Dục đều có bốn. Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là Ưu căn của Học thấy dấu tích do tu mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ưu căn tương ưng với hai tùy miên do tu mà đoạn, và Ưu căn không nhiễm ô. Hai tùy miên, đó là Sân-Vô minh của cõi Dục.
Năm căn như Tín…, hoặc là do tu mà đoạn, hoặc là không đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là năm căn như Tín… thuộc hữu lậu. Thế nào là không đoạn? Đó là năm căn như Tín… thuộc vô lậu.
Đã phân biệt về các căn do kiến mà đoạn…, nay sẽ nói đến nghĩa của các căn do kiến mà đoạn…
Hỏi: Thế nào gọi là do kiến mà đoạn- do tu mà đoạn?
Đáp: Như kiến không tách rời tu, tu không tách rời kiến, trong Kiến đạo tu Như thật có thể đạt được, trong Tu đạo kiến Như thật có thể đạt được, Tuệ gọi là kiến, không phóng dật gọi là tu.
Hỏi: Trong này nói đến pháp nào gọi là Như thật?
Đáp: Ý trong này nói có nhiều nhanh nhạy sắc bén thì gọi là Như thật, nghĩa là trong Kiến đạo thì Tuệ nhiều mà không phóng dật thì ít, trong Tu đạo thì không phóng dật nhiều mà Tuệ thì ít.
Hoặc là ý trong này nói bình đẳng thì gọi là Như thật, nghĩa là trong Kiến đạo tùy theo có bao nhiêu Tuệ thì có bấy nhiêu không phóng dật, trong Tu đạo tùy theo có bao nhiêu không phóng dật thì có bấy nhiêu Tuệ.
Tôn giả Thế Hữu đưa ra cách nói như vậy: “Quán xét bốn Thánh
đế, đoạn trừ các phiền não.”
Hỏi: Làm thế nào để phân biệt pháp này là do kiến mà đoạn, pháp này là do tu mà đoạn?
Đáp: Do kiến mà đoạn, do kiến mà trừ, do kiến mà thay đổi và loại bỏ, thì gọi là do kiến mà đoạn.
Có người nói: Do kiến mà đoạn cũng nên nói là do tu mà đoạn, bởi vì trong Kiến đạo tu Như thật có thể đạt được.
Nói như vậy thì do kiến mà đoạn, do kiến mà trừ, do kiến mà thay đổi và loại bỏ, gọi là do kiến mà đoạn. Như đạo đã đạt được, nếu tập hay là tu, hay là tu tập nhiều, đoạn từng phạm vi, đoạn có hạn lượng, từ từ làm cho ít lại, đến cuối cùng đoạn dứt, gọi là do tu mà đoạn.
Có người nói: Do tu mà đoạn cũng nên nói là do kiến mà đoạn, bởi vì trong Tu đạo kiến Như thật có thể đạt được.
Nói như vậy thì như đạo đã đạt được, nếu tập hay là tu, hay là tu tập nhiều, đoạn từng phạm vi, đoạn có hạn lượng, từ từ làm cho ít lại, đến cuối cùng đoạn dứt, gọi là do tu mà đoạn.
Hỏi: Điều này nói có nghĩa gì?
Đáp: Đây là nói về Kiến đạo, là đạo nhanh nhạy sắc bén tạm thời hiện rõ ở trước mắt, chín phẩm phiền não trong một lúc mà đoạn; Tu đạo là đạo không nhanh nhạy sắc bén, thường xuyên luyện tập hiện rõ trước mắt, chín phẩm phiền não trải qua chín thời gian mà đoạn. Như lưỡi dao sắc-cùn cùng cắt một vật, lưỡi dao sắc vừa cắt liền đứt, lưỡi dao cùn phải cắt nhiều lần mới đứt.
Có người nói: Nếu pháp dùng đạo tăng mạnh về Kiến để đoạn thì gọi là do kiến mà đoạn, nếu pháp dùng đạo tăng mạnh về Tu để đoạn thì gọi là do tu mà đoạn.
Có người nói: Nếu pháp dùng đạo của hai tướng để đoạn thì gọi là do kiến mà đoạn. Hai tướng, đó là tướng của Kiến và tướng của Tuệ. Nếu pháp dùng đạo của ba tướng để đoạn thì gọi là do tu mà đoạn. Ba tướng, đó là tướng của Trí-Kiến và Tuệ.
Có người nói: Nếu pháp dùng đạo của bốn tướng để đoạn thì gọi là do kiến mà đoạn. Bốn tướng, đó là tướng của Nhãn-Minh-Giác và Tuệ. Nếu pháp dùng đạo của năm tướng để đoạn thì gọi là do tu mà đoạn. Năm tướng, đó là tướng của Nhãn-Trí-Minh-Giác và Tuệ.
Có người nói: Nếu pháp do Nhẫn mà đoạn thì gọi là do kiến mà đoạn, nếu pháp do Trí mà đoạn thì gọi là do tu mà đoạn.
Phần còn lại nói rộng ra như phẩm thứ nhất trong chương Kiết Uẩn.
********
Hai mươi hai căn này, mấy loại do kiến Khổ mà đoạn? Cho đến nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao lại soạn ra phần luận này?
Đáp: Phần trước ngăn chặn ý nói về lập tức Đoạn, mà vẫn chưa ngăn chặn ý nói về lập tức Hiện quán, lại cũng chưa hiển bày về từ từ Hiện quán, nay muốn ngăn chặn và hiển bày cho nên soạn ra phần luận này.
Có người nói: Phần trước cũng ngăn chặn về lập tức Hiện quán, cũng hiển bày về từ từ Hiện quán, nhưng không rõ ràng, nay muốn làm cho rõ ràng, cho nên soạn ra phần luận này.
Có người nói: Nguyên cớ soạn luận là muốn phân biệt về năm Bộ phiền não-năm Bộ đối trị, cho nên soạn ra phần luận này. Năm Bộ phiền não, đó là do kiến Khổ mà đoạn, cho đến do tu mà đoạn. Năm Bộ đối trị, đó là Khổ nhẫn-Khổ trí, cho đến Đạo nhẫn-Đạo trí.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại do kiến Khổ mà đoạn, mấy loại do kiến Tập mà đoạn, mấy loại do kiến Diệt mà đoạn, mấy loại do kiến Đạo mà đoạn, mấy loại do tu mà đoạn, mấy loại không đoạn? Đáp: Chín loại do tu mà đoạn, ba loại không đoạn, mười loại cần phải phân biệt.
Chín loại do tu mà đoạn, đó là bảy Sắc căn và Mạng căn-Khổ căn. Ba loại không đoạn, đó là ba căn Vô lậu. Mười loại cần phải phân biệt, đó là Ý căn-bốn Thọ và năm căn như Tín…
Ý căn, hoặc là do kiến Khổ mà đoạn, hoặc là do kiến Tập-kiến Diệt-kiến Đạo mà đoạn, hoặc là do tu mà đoạn, hoặc là không đoạn. Thế nào là do kiến Khổ mà đoạn? Đó là Ý căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Khổ mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn tương ưng với hai mươi tám tùy miên do kiến Khổ mà đoạn. Thế nào là do kiến Tập mà đoạn? Đó là Ý căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Tập mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn tương ưng với mười chín tùy miên do kiến Tập mà đoạn. Thế nào là do kiến Diệt mà đoạn? Đó là Ý căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Diệt mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn tương ưng với mười chín tùy miên do kiến Diệt mà đoạn. Thế nào là do kiến Đạo mà đoạn? Đó là Ý căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Đạo mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn tương ưng với hai mươi hai tùy miên do kiến Đạo mà đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là Ý căn của Học thấy dấu tích, do tu mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn tương ưng với mười tùy miên do tu mà đoạn, và Ý căn hữu lậu không nhiễm ô. Thế nào là không đoạn? Đó là Ý căn vô lậu. Như Ý căn, Xả căn cũng như vậy.
Lạc căn, hoặc là do kiến Khổ mà đoạn, hoặc là do kiến Tập-kiến Diệt- kiến Đạo mà đoạn, hoặc là do tu mà đoạn, hoặc là không đoạn. Thế nào là do kiến Khổ mà đoạn? Đó là Lạc căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Khổ mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Lạc căn tương ưng với chín tùy miên do kiến Khổ mà đoạn. Thế nào là do kiến Tập mà đoạn? Đó là Lạc căn của Tùy tín hành- Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Tập mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Lạc căn tương ưng với sáu tùy miên do kiến Tập mà đoạn. Thế nào là do kiến Diệt mà đoạn? Đó là Lạc căn của Tùy tín hành- Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Diệt mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Lạc căn tương ưng với sáu tùy miên do kiến Diệt mà đoạn. Thế nào là do kiến Đạo mà đoạn? Đó là Lạc căn của Tùy tín hành- Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Đạo mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Lạc căn tương ưng với bảy tùy miên do kiến Đạo mà đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là Lạc căn của Học thấy dấu tích, do tu mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Lạc căn tương ưng với năm tùy miên do tu mà đoạn, và Lạc căn hữu lậu không nhiễm ô. Năm tùy miên, đó là Tham-Vô minh của cõi Dục, Tham- Mạn và Vô minh của cõi Sắc. Thế nào là không đoạn? Đó là Lạc căn vô lậu.
Hỷ căn, hoặc là do kiến Khổ mà đoạn, hoặc là do kiến Tập-kiến Diệt-kiến Đạo mà đoạn, hoặc là do tu mà đoạn, hoặc là không đoạn. Thế nào là do kiến Khổ mà đoạn? Đó là Hỷ căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Khổ mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Hỷ căn tương ưng với mười bảy tùy miên do kiến Khổ mà đoạn. Mười bảy tùy miên, đó là tùy miên của cõi Dục trừ ra Sân- Nghi, tất cả tùy miên của cõi Sắc. Thế nào là do kiến Tập mà đoạn? Đó là Hỷ căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Tập mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Hỷ căn tương ưng với mười một tùy miên do kiến Tập mà đoạn. Thế nào là do kiến Diệt mà đoạn? Đó là Hỷ căn của Tùy tín hành- Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Diệt mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Hỷ căn tương ưng với mười một tùy miên do kiến Diệt mà đoạn. Thế nào là do kiến Đạo mà đoạn? Đó là Hỷ căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Đạo mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Hỷ căn tương ưng với mười hai tùy miên do kiến Đạo mà đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là Hỷ căn của Học thấy dấu tích, do tu mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Hỷ căn tương ưng với sáu tùy miên do tu mà đoạn, và Hỷ căn hữu lậu không nhiễm ô. Sáu tùy miên, đó là tùy miên của cõi Dục trừ ra Sân, tất cả tùy miên của cõi Sắc. Thế nào là không đoạn? Đó là Hỷ căn vô lậu.
Ưu căn, hoặc là do kiến Khổ mà đoạn, hoặc là do kiến Tập-kiến Diệt-kiến Đạo mà đaọn, hoặc là do tu mà đoạn. Thế nào là do kiến Khổ mà đoạn? Đó là Ưu căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Khổ mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ưu căn tương ưng với bốn tùy miên do kiến Khổ mà đoạn. Bốn tùy miên, đó là Tà kiến-Sân-Nghi và Vô minh của cõi Dục. Thế nào là do kiến Tập mà đoạn? Đó là Ưu căn của Tùy tín hành Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Tập mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ưu căn tương ưng với bốn tùy miên do kiến Tập mà đoạn. Thế nào là do kiến Diệt mà đoạn? Đó là Ưu căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Diệt mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ưu căn tương ưng với bốn tùy miên do kiến Diệt mà đoạn. Thế nào là do kiến Đạo mà đoạn? Đó là Ưu căn của Tùy tín hành-Tùy pháp hành, do Hiện quán biên Nhẫn về Đạo mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ưu căn tương ưng với bốn tùy miên do kiến Đạo mà đoạn. Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là Ưu căn của Học thấy dấu tích, do tu mà đoạn. Điều này lại là thế nào? Đó là Ưu căn tương ưng với hai tùy miên do tu mà đoạn, và Ưu căn không nhiễm ô. Hai tùy miên, đó là Sân và Vô minh của cõi Dục.
Năm căn như Tín…, hoặc là do tu mà đoạn, hoặc là không đoạn.
Thế nào là do tu mà đoạn? Đó là năm căn như Tín… thuộc hữu lậu. Thế nào là không đoạn? Đó là năm căn như Tín… thuộc vô lậu.
Đã phân biệt về các căn do kiến Khổ mà đoạn…, nay sẽ nói đến nghĩa của các căn do kiến Khổ mà đoạn…
Hỏi: Vì sao gọi là do kiến Khổ mà đoạn, cho đến do tu mà đoạn?
Đáp: Nếu pháp là đối trị quyết định, đối trị sở duyên quyết định, thì gọi là do kiến Khổ mà đoạn; cho đến do kiến Đạo mà đoạn. Nếu pháp là đối trị không quyết định, đối trị sở duyên không quyết định, thì gọi là do tu mà đoạn.
Có người nói: Nếu pháp là xứ sở quyết định, đối trị sở duyên quyết định, thì gọi là do kiến Khổ mà đoạn cho đến do kiến Đạo mà đoạn. Nếu pháp là xứ sở không quyết định, đối trị sở duyên không quyết định, thì gọi là do tu mà đoạn.
Có người nói: Nếu pháp dùng Khổ nhẫn-Khổ trí làm đối trị thì gọi là do kiến Khổ mà đoạn, cho đến nếu pháp dùng Đạo nhẫn-Đạo trí làm đối trị thì gọi là do kiến Đạo mà đoạn. Nếu pháp dùng các Trí làm đối trị, thì gọi là do tu mà đoạn.
Có người nói: Nếu pháp do Khổ nhẫn mà đoạn, thì gọi là do kiến Khổ mà đoạn; cho đến nếu pháp do Đạo nhẫn mà đoạn, thì gọi là do kiến Đạo mà đoạn. Nếu pháp do các Trí mà đoạn, thì gọi là do tu mà đoạn.
Có người nói: Nếu pháp do quán xét Khổ đế mà đoạn, thì gọi là do kiến Khổ mà đoạn; cho đến nếu pháp do quán xét Đạo đế mà đoạn, thì gọi là do kiến Đạo mà đoạn. Nếu pháp hoặc là quán xét Khổ đế, hoặc là quán xét Tập-Diệt-Đạo đế, hoặc là không quán xét về Đế mà đoạn, thì gọi là do tu mà đoạn.
Có người nói: Nếu pháp cùng với kiến Khổ đế trái ngược nhau, thì gọi là do kiến Khổ mà đoạn; cho đến nếu pháp cùng với kiến Đạo đế trái ngược nhau, thì gọi là do kiến Đạo mà đoạn. Nếu pháp cùng với kiến bốn Đế trái ngược nhau, thì gọi là do tu mà đoạn.
Hai mươi hai căn này, mấy loại là Kiến, mấy loại không phải là Kiến? Cho đến nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?
Đáp: Muốn ngăn chặn về ý nói tất cả các pháp đều là tánh thuộc Kiến. Những người ấy đưa ra cách nói này: Những việc làm mạnh mẽ sắc bén thì gọi là Kiến, tất cả các pháp không có pháp nào không mạnh mẽ sắc bén đối với việc làm của chính mình, cho nên đều gọi là Kiến. Vì ngăn chặn ý chấp ấy, hiển bày trong các pháp chỉ có Nhãn căn và phần ít của Tuệ gọi là Kiến chứ không phải là loại nào khác, cho nên soạn ra phần luận này.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại là Kiến, mấy loại không phải là Kiến?
Đáp: Một loại là Kiến, mười bảy loại không phải là Kiến, bốn loại cần phải phân biệt.
Một loại là Kiến, đó là Nhãn căn. Mười bảy loại không phải là Kiến, đó là sáu Sắc căn-Mạng căn-Ý căn-năm Thọ và bốn căn như Tín… Bốn loại cần phải phân biệt, đó là Tuệ và ba căn Vô lậu.
Tuệ căn, hoặc là Kiến, hoặc không phải là Kiến. Thế nào là Kiến? Đó là Tận trí-Vô sinh trí vốn không thâu nhiếp Tuệ căn tương ưng với Ý thức. Thế nào là không phải Kiến? Đó là Tuệ căn khác, tức là Tuệ căn tương ưng với năm Thức, và Tuệ căn do Tận trí-Vô sinh trí thâu nhiếp.
Vị tri đương tri căn, hoặc là Kiến, hoặc không phải là Kiến. Thế nào là Kiến? Đó là Tuệ căn do Vị tri đương tri căn thâu nhiếp. Thế nào là không phải Kiến? Đó là những căn khác do Vị tri đương tri căn thâu nhiếp, tức là tám căn khác. Như Vị tri đương tri căn, Dĩ tri căn cũng như vậy.
Cụ tri căn, hoặc là Kiến, hoặc không phải là Kiến. Thế nào là Kiến? Đó là Tận trí-Vô sinh trí vốn không thâu nhiếp Tuệ căn do Cụ tri tri căn thâu nhiếp. Thế nào là không phải Kiến? Đó là những căn khác do Cụ tri căn thâu nhiếp, tức là tám căn khác, và Tuệ căn do Tận trí-Vô sinh trí thâu nhiếp.
Đã phân biệt về các căn thuộc Kiến…, nay sẽ nói đến nghĩa của các căn thuộc Kiến…
Hỏi: Vì sao gọi là Kiến, Kiến là nghĩa gì?
Đáp: Do bốn duyên cho nên gọi là Kiến:
- Bởi vì có năng lực quán xét.
- Bởi vì suy đoán quyết định.
- Bởi vì kiên quyết nắm giữ.
- Bởi vì đi sâu vào sở duyên.
Bởi vì có năng lực quán xét, đó là tự tánh của Kiến.
Hỏi: Tà kiến-Điên đảo kiến, những loại ấy quán xét điều gì?
Đáp: Vì thế cho nên nói là tự tánh của Kiến, nghĩa là tuy Tà kiếnĐiên dảo kiến, mà là tự tánh của Tuệ-Kiến, cho nên nói là có năng lực quán xét. Như người hễ có nhìn thấy thì gọi là có năng lực quán xét, không phải là như người mù.
Bởi vì suy đoán quyết định, đó là có năng lực suy xét tìm tòi và quyết định.
Hỏi: Trong một sát-na làm sao suy xét tìm tòi?
Đáp: Tánh nhanh nhạy sắc bén cho nên gọi là suy xét tìm tòi.
Bởi vì kiên quyết nắm giữ, đó là giữ chặt các kiến chấp quái lạ, không phải là uy lực của Thánh đạo thì không biết cách nào làm cho rời bỏ.
Bởi vì đi sâu vào sở duyên, đó là mạnh mẽ đi vào cảnh, như kim nhọn rơi vào bùn.
Có người nói: Do hai duyên cho nên gọi là Kiến:
- Bởi vì tánh soi chiếu rõ ràng.
- Bởi vì tánh suy đoán.
Có người nói: Do ba duyên cho nên gọi là Kiến:
- Bởi vì có tướng của Kiến.
- Bởi vì thành sự của Kiến.
- Bởi vì đối với cảnh không có ngăn ngại.
Có người nói: Do ba duyên cho nên gọi là Kiến:
- Bởi vì ý thích.
- Bởi vì chấp trước.
- Bởi vì suy đoán quyết định.
Có người nói: Do ba duyên cho nên gọi là Kiến:
- Bởi vì ý thích.
- Bởi vì gia hạnh.
- Bởi vì không có trí.
Bởi vì ý thích, đó là ý thích hủy hoại. Bởi vì gia hạnh, đó là gia hạnh hủy hoại. Bởi vì không có trí, đó là cả hai đều hủy hoại.
Lại nữa, bởi vì ý thích, đó là người tu Định; bởi vì gia hạnh, đó là người tìm tòi suy nghĩ; bởi vì không có trí, đó là người nghe theo.
Hai mươi hai căn này, mấy loại có Tầm-có Tứ? Cho đến nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?
Đáp: Bởi vì muốn ngăn chặn cách nói của phái Thí Dụ. Họ nói từ cõi Dục cho đến Hữu Đảnh đều có Tầm-Tứ. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì trong kinh nói. Như trong kinh nói: “Tánh của tâm thô là Tầm, tánh của tâm tế là Tứ, tánh của tâm thô-tế cho đến Hữu Đảnh.”
Đại đức ấy nói rằng: “Các sư phái Đối Pháp nói Tầm-Tứ là tánh của tâm thô-tế, tánh thô-tế này đối đãi nhau mà thiết lập, cho đến Hữu Đảnh đều hiện hành có thể đạt được, mà nói Tầm-Tứ chỉ có ở cõi Dục và cõi Phạm Thế, đây là nói sai trái chứ không phải là nói hợp lý.”
Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: “Chúng tôi nói hợp lý chứ không phải là nói sai trái, bởi vì dựa vào nhiều môn nói về tánh thô-tế chứ không phải là một loại. Như nói: Triền thô-tùy miên tế. Trong này, Tầm-Tứ không phải là thô-không phải là tế, bởi vì cả hai đều không phải là tánh của triền-tùy miên. Như nói: Sắc uẩn thô-bốn uẩn tế. Trong này, Tầm-Tứ đều là tế, bởi vì đều thâu nhiếp ở trong Hành uẩn. Như nói: Cõi Dục thô-Tĩnh lự thứ nhất tế. Trong này, Tầm-Tứ đều bao gồm thô-tế, bởi vì cả hai loại đều thâu nhiếp bao gồm hai địa. Như nói: Tĩnh lự thứ nhất thô-Tĩnh lự thứ hai tế. Trong này, Tầm-Tứ đều là thô. Bởi vì dựa vào nhiều môn nói về tánh thô-tế, cho nên Tầm và Tứ không phải là đến Hữu Đảnh. Nếu nói Tầm và Tứ đều đến Hữu Đảnh, thì không nên nói là có ba địa sai biệt.”
Phái Thí Dụ nói: “Bắt đầu từ cõi Dục cho đến Hữu Đảnh, đều có ba pháp là thiện- nhiễm và vô ký, pháp nhiễm của tất cả các địa đều gọi là có Tầm-có Tứ, chỉ riêng thiện và vô ký có ở ba địa khác.” Nếu như vậy thì tại sao nói là Tầm-Tứ diệt không có Tầm-không có Tứ, nhất định sinh ra Hỷ-Lạc tiến vào Tĩnh lự thứ hai? Họ nói: “Đây là dựa vào Tầm-Tứ thiện mà nói, chứ không nói đến nhiễm ô.” Cách nói này không đúng, vì sao lại nói diệt Tầm-Tứ thiện chứ không phải là diệt nhiễm ô, mà lẽ ra Tầm-Tứ nhiễm ô phải diệt trước tiên, bởi vì lúc lìa nhiễm nhất định phải đoạn bỏ nó, bởi vì vượt qua cõi-địa mới rời bỏ thiện. Phái Thí Dụ thật sự là nói sai trái. Bởi vì ngăn chặn ý đó để hiển bày về Tầm và Tứ chỉ có ở hai địa, cho nên soạn ra phần luận này.
Hai mươi hai căn này, mấy loại có Tầm-có Tứ, mấy loại không có Tầm-chỉ có Tứ, mấy loại không có Tầm-không có Tứ?
Đáp: Hai loại có Tầm-có Tứ, tám loại không có Tầm-không có Tứ, mười hai loại cần phải phân biệt.
Hai loại có Tầm-có Tứ, đó là Khổ căn và Ưu căn. Tám loại không có Tầm-không có Tứ, đó là bảy Sắc căn và Mạng căn. Mười hai loại cần phải phân biệt, đó là Ý căn-ba Thọ-năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu.
Ý căn, hoặc là có Tầm-có Tứ, hoặc là không có Tầm-chỉ có Tứ, hoặc là không có Tầm-không có Tứ. Thế nào là có Tầm-có Tứ? Đó là Ý căn tương ưng vói tác ý có Tầm-có Tứ. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn của cõi Dục và Tĩnh lự thứ nhất. Thế nào là không có Tầm-chỉ có Tứ? Đó là Ý căn tương ưng với tác ý không có Tầm-chỉ có Tứ. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn của tĩnh lự trung gian. Thế nào là không có Tầm-không có Tứ? Đó là Ý căn tương ưng với tác ý không có Tầmkhông có Tứ. Điều này lại là thế nào? Đó là Ý căn từ Tĩnh lự thứ hai cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như Ý căn, Xả căn-năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu cũng như vậy.
Lạc căn, hoặc là có Tầm-có Tứ, hoặc là không có Tầm-không có Tứ. Thế nào là có Tầm-có Tứ? Đó là Lạc căn tương ưng với tác ý có Tầm-có Tứ. Điều này lại là thế nào? Đó là Lạc căn của cõi Dục và Tĩnh lự thứ nhất. Thế nào là không có Tầm-không có Tứ? Đó là Lạc căn tương ưng với tác ý không có Tầm-không có Tứ. Điều này lại là thế nào? Đó là Lạc căn của Tĩnh lự thứ ba. Như Lạc căn, Hỷ căn cũng như vậy. Nhưng có sai biệt, đó là Hỷ căn của Tĩnh lự thứ hai gọi là không có Tầm-không có Tứ.
Đã phân biệt về các căn có Tầm-có Tứ…, nay sẽ nói đến nghĩa của các căn có Tầm-có Tứ…
Hỏi: Vì sao gọi là có Tầm-có Tứ, không có Tầm-chỉ có Tứ, không có Tầm-không có Tứ?
Đáp: Nếu pháp đi cùng với Tầm-Tứ, tương ưng với Tầm-Tứ, cùng phát khởi Tầm-Tứ, cùng chuyển với Tầm Tứ, thì gọi là có Tầm-có Tứ. Nếu pháp không đi cùng với Tầm mà chỉ đi cùng với Tứ, không tương ưng với Tầm mà chỉ tương ưng với Tứ, không phải là cùng phát khởi Tầm mà chỉ cùng phát khởi Tứ, Tầm đã ngừng diệt mà chỉ cùng chuyển với Tứ, thì gọi là không có Tầm-chỉ có Tứ. Nếu pháp không đi cùng với Tầm-Tứ, không phải là tương ưng với Tầm-Tứ, không phải là cùng phát khởi Tầm-Tứ, Tầm-Tứ đã ngừng, thì gọi là không có Tầm-không có Tứ.
Có người nói: Nếu pháp có tìm kiếm-có quán sát, thì gọi là có Tầm-có Tứ. Nếu pháp không có tìm kiếm mà có quán sát, thì gọi là không có Tầm-chỉ có Tứ. Nếu pháp không có tìm kiếm-không có quán sát, thì gọi là không có Tầm-không có Tứ.
Hai mươi hai căn này, mấy loại tương ưng với Lạc căn? Cho đến nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này? Đáp: Bởi vì muốn ngăn chặn tông chỉ của người khác để hiển bày nghĩa lý của mình. Như phái Thí Dụ nói: Tâm-tâm sở pháp theo thứ tự mà sinh khởi. Đại đức ấy nói: Tâmtâm sở pháp theo từng loại một mà sinh khởi, như đi qua con đường hẹp, hãy còn không có hai người cùng đi, huống gì có nhiều người cùng đi?
Hoặc lại có người nói: Nếu pháp do lực của nó khởi lên thì nói là tương ưng với nó chứ không phải là gì khác, nghĩa là tâm có thể sinh ra tâm và tâm sở, cho nên tâm-tâm sở tương ưng với tâm. Tâm sở chỉ có thể sinh ra tâm sở, cho nên các tâm sở cũng tương ưng với nhau. Tâm sở không có thể sinh ra tâm, cho nên không nói đến tâm tương ưng với tâm sở.
Hoặc lại có người chấp: Các pháp chỉ tương ưng với tự Thể. Người ấy đưa ra cách nói này: Nghĩa về hòa hợp khắp nơi là nghĩa của tương ưng, lại không có hòa hợp khắp nơi nào khác, như tự Thể đối với tự Thể, cho nên nói tương ưng với tự Thể chứ không phải là Thể khác.
Có người chấp: Tự Thể của các pháp đối với tự Thể, không phải là tương ưng, không phải là không tương ưng. Không phải là tương ưng bởi vì không tự mình quán xét, không phải là không tương ưng bởi vì hòa hợp khắp nơi.
Bởi vì ngăn chặn các loại kiến chấp như vậy, hiển bày tâm-tâm sở cùng lúc mà sinh khởi, lần lượt chuyển đổi tương ưng với nhau, không phải là đối với tự Thể chỉ hướng về nơi khác mà nói, cho nên soạn ra phần luận này.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại tương ưng với Lạc căn, mấy loại tương ưng với Khổ căn, mấy loại tương ưng với Hỷ căn, mấy loại tương ưng với Ưu căn, mấy loại tương ưng với Xả căn? Đáp: Lạc cănHỷ căn-Xả căn tương ưng với phần ít của chín căn, Khổ căn-Ưu căn tương ưng với phần ít của sáu căn.
Lạc-Hỷ-Xả căn tương ưng với phần ít của chín căn, đó là Ý căn- năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu.
Hỏi: Vì sao Lạc-Hỷ-Xả tương ưng với phần ít của chín căn này?
Đáp: Ý căn- năm căn như Tín…cùng tương ưng với năm Thọ. Trong này chỉ chọn lấy tương ưng với ba Thọ, cho nên nói là phần ít. Ba căn Vô lậu lấy nhiều pháp làm tánh, nay trừ ra Thể của Thọ tương ưng với loại khác, cho nên nói là phần ít.
Khổ căn-Ưu căn tương ưng với phần ít của sáu căn, đó là Ý căn và năm căn như Tín…
Hỏi: Vì sao Khổ-Ưu tương ưng với phần ít của sáu căn này? Đáp: Sáu căn này tương ưng với năm Thọ. Trong này chỉ chọn lấy tương ưng với Khổ-Ưu, cho nên nói là phần ít.
Hỏi: Vì sao chỉ hỏi về tương ưng với Thọ, chứ không hỏi về tâmtâm sở khác?
Đáp: Là ý của người soạn luận muốn như vậy, tùy theo ý muốn ấy mà soạn luận, nhưng không trái với pháp tướng, thì không cần phải vặn hỏi.
Có người nói: Tất cả các pháp đều quay về với Thọ, vì vậy chỉ hỏi đến Thọ.
Có người nói: Một Thọ có tướng của nhiều căn, nghĩa là đối với một Thọ phân ra làm năm căn, pháp khác thì không như vậy, cho nên chỉ hỏi đến Thọ.
Có người nói: Các Thọ thành tựu không trái ngược nhau, mà hiện hành trái ngược nhau, vì vậy chỉ nói đến Thọ. Thành tựu không trái ngược nhau, đó là một hữu tình thành tựu năm Thọ. Hiện hành trái ngược nhau, đó là một hữu tình trong một sát-na, không có thể khởi lên hai loại, huống gì khởi lên nhiều loại hay sao?
Có người nói: Bởi vì Thọ là trục bánh xe duyên khởi, vì vậy chỉ hỏi đến Thọ.
Có người nói: Trừ ra Thọ lại muốn hỏi điều gì? Nếu hỏi về năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu, thì những căn ấy chỉ là thiện, không phải là có nghĩa tương ưng với tất cả. Nếu hỏi về tám căn như Mạng…, thì những căn ấy chỉ là vô ký, lại không tương ưng.
Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao không hỏi đến Ý căn?
Đáp: Ban đầu dựa vào Ý căn mà thiết lập pháp tương ưng, không có thể quay lại hỏi về tương ưng với ý, cho nên trong này chỉ hỏi về nghĩa tương ưng với Thọ. Tự tánh của năm Thọ không phải là tự tương ưng, cho nên chỉ dùng pháp khác để hỏi về Thọ.
Đã phân biệt về các căn tương ưng với Thọ, nay sẽ nói đến nghĩa tương ưng của các căn.
Hỏi: Vì sao gọi là tương ưng, tương ưng là nghĩa gì? Đáp: Nghĩa về bằng nhau là nghĩa của tương ưng.
Hỏi: Trong các phẩm tâm, tâm sở pháp có nhiều-có ít, làm sao gọi là bằng nhau? Nghĩa là cõi Dục nhiều-cõi Sắc ít, cõi Sắc nhiều- cõi Vô sắc ít, thiện nhiều- bất thiện ít, bất thiện nhiều-vô ký ít, hữu phú vô ký nhiều-vô phú vô ký ít, tại sao nghĩa về bằng nhau là nghĩa của tương ưng?
Đáp: Bởi vì sự bằng nhau cho nên nói là bằng nhau, nghĩa là trong một phẩm tâm, nếu có hai Thọ-một Tưởng… thì có thể nói là không phải bằng nhau. Nhưng trong một phẩm tâm, như Thọ có một, Tưởng…cũng như vậy, cho nên gọi là bằng nhau.
Có người nói: Nghĩa về năm loại bằng nhau là nghĩa của tương ưng, đó là sở y bằng nhau, sở duyên bằng nhau, hành tướng bằng nhau, thời gian bằng nhau, sự việc bằng nhau. Phần còn lại nói rộng ra như phẩm thứ nhất trong chương Kiết Uẩn.
Hai mươi hai căn này, mấy loại hệ thuộc cõi Dục? Cho đến nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?
Đáp: Bởi vì muốn ngăn chặn tông chỉ của người khác để hiển bày nghĩa lý của mình. Nghĩa là hoặc có người chấp: Cõi Sắc có Nam cănNữ căn. Người ấy đưa ra cách nói này: Nơi nào có sắc thân thì đều có Nam căn-Nữ căn có thể đạt được. Vì ngăn chặn ý ấy để hiển bày về Nam căn-Nữ căn chỉ có ở cõi Dục, cho nên soạn ra phần luận này.
Lại có người nói: Lạc căn-Khổ căn ở năm địa có thể đạt được, đó là cõi Dục và bốn Tĩnh lự. Người ấy nói có thân đều có Khổ-Lạc. Vì ngăn chặn ý chấp ấy, hiển bày Khổ căn chỉ có ở cõi Dục, Lạc căn chỉ có ở ba địa, cho nên soạn ra phần luận này.
Hoặc lại có người nói: Hỷ căn-Ưu căn ở chín địa có thể đạt được, đó là từ cõi Dục cho đến Hữu Đảnh. Người ấy nói bởi vì có tâm thì đều có Ưu-Hỷ, ba cõi- chín địa đều có tâm. Vả lại, thân của cõi Dục bất tịnh đáng chán ngán, mà hãy còn sinh ra vui thích vào lúc hòa hợp, sinh ra buồn rầu vào lúc chia lìa, huống là thân trong cõi trên rất thanh tịnh tuyệt vời giống như ngọn đèn sáng tỏ, tâm vắng lặng thong dong như hồ nước trong mát, mà đối với sự hòa hợp-chia ly có thể không có buồn lo-vui thích hay sao? Vì ngăn chặn ý chấp ấy, hiển bày về Ưu chỉ có ở cõi Dục, Hỷ thì đến Tĩnh lự thứ hai, địa trên thì cả hai loại đều không có, cho nên soạn ra phần luận này.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại hệ thuộc cõi Dục, mấy loại hệ thuộc cõi Sắc, mấy loại hệ thuộc cõi Vô sắc, mấy loại không hệ thuộc?
Đáp: Bốn loại hệ thuộc cõi Dục, ba loại không hệ thuộc, mười lăm loại cần phải phân biệt.
Bốn loại hệ thuộc cõi Dục, đó là Nam-Nữ-Khổ-Ưu căn. Ba loại không hệ thuộc, đó là ba căn Vô lậu. Mười lăm loại cần phải phân biệt, đó là năm Sắc căn- Mạng căn- Ý căn- ba Thọ và năm căn như Tín…
Nhãn căn, hoặc là hệ thuộc cõi Dục, hoặc là hệ thuộc cõi Sắc. Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? Đó là Nhãn căn hệ thuộc cõi Dục do Đại chủng đã tạo ra. Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? Đó là Nhãn căn hệ thuộc cõi Sắc do Đại chủng đã tạo ra. Như Nhãn căn, Nhĩ-Tỷ-Thiệt-thân căn cũng như vậy.
Mạng căn, hoặc là hệ thuộc cõi Dục, hoặc là hệ thuộc cõi Sắc, hoặc là hệ thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? Đó là tuổi thọ hệ thuộc cõi Dục. Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? Đó là tuổi thọ hệ thuộc cõi Sắc. Thế nào là hệ thuộc cõi Vô sắc? Đó là tuổi thọ hệ thuộc cõi Vô sắc.
Ý căn, hoặc là hệ thuộc cõi Dục, hoặc là hệ thuộc cõi Sắc, hoặc là hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc là không hệ thuộc. Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? Đó là Ý căn tương ưng với tác ý hệ thuộc cõi Dục. Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? Đó là Ý căn tương ưng với tác ý hệ thuộc cõi Sắc. Thế nào là hệ thuộc cõi Vô sắc? Đó là Ý căn tương ưng với tác ý hệ thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là không hệ thuộc? Đó là Ý căn tương ưng với tác ý vô lậu. Như Ý căn, Xả căn và năm căn như Tín… cũng như vậy.
Lạc căn, hoặc là hệ thuộc cõi Dục, hoặc là hệ thuộc cõi Sắc, hoặc là không hệ thuộc. Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? Đó là Lạc căn tương ưng với tác ý hệ thuộc cõi Dục. Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? Đó là Lạc căn tương ưng với tác ý hệ thuộc cõi Sắc. Thế nào là không hệ thuộc? Đó là Lạc căn tương ưng với tác ý vô lậu. Như Lạc căn, Hỷ căn cũng như vậy.
Hỏi: Vì sao cõi Sắc không có Nam căn-Nữ căn?
Đáp: Bởi vì cõi ấy không phải là ruộng đất, không phải là đồ đựng, cho đến nói rộng ra.
Có người nói: Bởi vì muốn từ bỏ Nam căn-Nữ căn, cho nên tu các Tĩnh lự sinh đến cõi Sắc. Nếu ở cõi ấy cũng có Nam căn-Nữ căn, thì không có ai cần phải cầu sinh đến cõi ấy. Nếu pháp vốn có ở địa dưới mà địa trên cũng có, thì không cần phải thi thiết có pháp diệt từ từ. Nếu không có pháp diệt từ từ, thì cũng sẽ không có pháp diệt hoàn toàn, bởi vì pháp diệt từ từ có thể dẫn đến pháp diệt hoàn toàn. Nếu không có pháp diệt hoàn toàn, thì sẽ không có giải thoát. Nếu không có giải thoát, thì sẽ không có rời ra. Đừng có quá nhiều sai lầm như vậy, cho nên ở cõi Sắc không có Nam căn-Nữ căn.
Có người nói: Nam căn- Nữ căn do đoàn thực mà sinh ra. Như trong kinh nói: “Lúc kiếp bắt đầu, con người không có Nam căn-Nữ căn, hình tướng không khác nhau, về sau ăn vị của đất mà sinh ra Nam căn-Nữ căn, vì vậy đã có tướng của Nam- Nữ khác nhau.” Cõi Sắc lìa bỏ đoàn thực cho nên không có hai căn này.
Có người nói: Nam căn-Nữ căn có tác dụng ở cõi Dục, chứ không phải là ở cõi Sắc, vì vậy ở cõi ấy không có.
Hỏi: Tỷ căn-Thiệt căn không có tác dụng ở cõi ấy, tại sao cần phải có?
Đáp: Tỷ căn- Thiệt căn có tác dụng ở cõi ấy, bởi vì làm cho đoan nghiêm, không phải là Nam căn- Nữ căn có nghĩa của đoan nghiêm, bởi vì thô tục đáng xấu hổ.
Hỏi: Thiên chúng cõi Sắc là nữ hay là nam? Giả sử như vậy thì có gì sai? Nếu là nữ thì phải có Nữ căn, nếu là nam thì phải có Nam căn, nếu không phải là hai loại thì trái với kinh nói. Như nói: “Thân nữ không được làm Phạm Vương…, mà không ngăn chặn thân nam.” Đáp: Nên đưa ra cách nói này: Ở cõi ấy đều là nam.
Hỏi: Lẽ nào không phải loại ấy không thành tựu Nam căn hay sao?
Đáp: Tuy không có Nam căn mà có tướng trượng phu khác, lại có thể lìa nhiễm cho nên nói là nam. Như trong kinh nói: “Các Quả-Hướng đều là trượng phu, không phải là không có người nữ thực hành theo Hướng-trú vào Quả.” Nên biết cũng bởi vì có thể lìa nhiễm cho nên nói là trượng phu.
Trong Tỳ-nại-da cũng đưa ra cách nói này: “Đức Phật dùng hai tay nâng xương của Đại Sinh Chủ lên, nói với chúng Tỳ kheo: Các ông lắng nghe kỹ càng! Tất cả người nữ đều là tánh tùy tiện chuyển đổi, phần nhiều là ganh ghét-nịnh hót-tham lam-ích kỷ, chỉ có Đại Sinh Chủ tuy là người nữ, mà lìa bỏ tất cả sai lầm của người nữ, làm những việc mà trượng phu đã làm, đạt được điều mà trượng phu đã đạt được, Ta nói hạng này gọi là trượng phu.”
Chư Thiên cõi Sắc, lý cũng thuận theo như vậy, bởi vì có thể lìa nhiễm cho nên nói là trượng phu. Vì vậy nên làm thành bốn câu phân biệt:
1. Có lúc là người nam mà không thành tựu Nam căn, đó là chư Thiên cõi Sắc-Vô sắc.
2. Có lúc thành tựu Nam căn mà không phải là người nam, đó là người hai hình thể.
3. Có lúc là người nam cũng thành tựu Nam căn, đó là tất cả trượng phu thành tựu Nam căn.
4. Có lúc không phải là người nam cũng không thành tựu Nam căn, đó là trừ ra những tướng trước.
Những người là nữ thì nhất định thành tựu Nữ căn. Có lúc thành tựu Nữ căn mà không phải là người nữ, đó là người hai hình thể. Nếu dựa vào nghĩa trong Tỳ-nại-da đã dẫn chứng, thì người nữ cũng có bốn câu cần phải nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao cõi trên không có Ưu căn-Khổ căn?
Đáp: Bởi vì cõi ấy không phải là ruộng đất, không phải là đồ đựng, cho đến nói rộng ra.
Có người nói: Bởi vì muốn lìa bỏ Ưu căn-Khổ căn, cho nên tu các
Tĩnh lự sinh đến cõi Sắc. Nếu cõi ấy cũng có Ưu căn-Khổ căn, thì không có ai cần phải cầu sinh đến cõi ấy. Nếu pháp vốn có ở địa dưới mà địa trên cũng có, thì không cần phải thi thiết có pháp diệt từ từ, nói rộng ra như trước. Đừng có sai lầm ấy, cho nên cõi trên không có Ưu căn-Khổ căn.
Có người nói: Vì sao Ưu căn-Khổ căn không có ở cõi Sắc? Bởi vì không cùng chung sai lầm của cõi Dục này. Trong các cõi-địa đều có sai lầm- công đức không như nhau. Ở cõi Dục, sai lầm thì đó là Khổ căn…, công đức thì đó là có thể tiến vào Kiến đạo… Sai lầm-công đức ở cõi trên, tùy theo địa cần phải nói rộng ra.
Có người nói: Cõi Dục là cõi của sai lầm, bởi vì là cõi của sai lầm cho nên tuy thân thù thắng mà cũng còn có Khổ, như Phật-Độc giácThanh văn-Luân vương; cõi trên là cõi của công đức, bởi vì là cõi của công đức cho nên tuy thân thấp kém mà cũng không có Khổ. Như gặp năm xấu thì tuy có lúa mạ tốt đẹp mà không thể nào không có tai họa, nếu gặp năm tốt thì tuy các loại cỏ dại mà cũng không có tai họa xảy đến. Cõi Dục và cõi trên, nên biết cũng như vậy, cho nên ở cõi trên cũng không có buồn lo, bởi vì các Ưu căn lìa dục thì rời bỏ. Lại là quả Đẳng lưu của sự không hiểu biết chồng chất, sinh ở cõi trên thì rời bỏ sự không hiểu biết chồng chất, vì vậy Ưu căn ở cõi ấy không có.
Đã phân biệt về các căn hệ thuộc cõi Dục…, nay sẽ nói đến nghĩa của các căn hệ thuộc cõi Dục…
Hỏi: Vì sao gọi là hệ thuộc cõi Dục, hệ thuộc cõi Sắc, hệ thuộc cõi Vô sắc?
Đáp: Nếu pháp ràng buộc ở cõi Dục thì gọi là hệ thuộc cõi Dục,ràng buộc ở cõi Sắc thì gọi là hệ thuộc cõi Sắc, ràng buộc ở cõi Vô sắc thì gọi là hệ thuộc cõi Vô sắc. Như trâu buộc vào cây cột…thì gọi là hệ thuộc vào cây cột…
Hoặc có người nói: Nếu pháp ràng buộc vào chân của cõi Dục thì gọi là hệ thuộc cõi Dục, ràng buộc vào chân của cõi Sắc – Vô sắc thì gọi là hệ thuộc cõi Sắc – Vô sắc. Chân là nói đến phiền não, như nói: Công hạnh của Phật không giới hạn, không có chân thì ai mang đi? Như người có chân thì có thể đi khắp bốn phương, nếu không có chân thì không có thể đi được. Như vậy, nếu có chân của phiền não, thì sinh tử lưu chuyển có thể đi đến các cõi-các nẽo-các loại chúng sinh; không có chân của phiền não thì không có thể đi đến được.
Hoặc có người nói: Nếu pháp bị phiền não sinh tử của cõi Dục làm cho ràng buộc, thì gọi là hệ thuộc cõi Dục; bị phiền não sinh tử của cõi Sắc-Vô sắc làm cho ràng buộc, thì gọi là hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc.
Hoặc có người nói: Nếu pháp bị cất giấu vì A-lại-da, bị nắm giữ vì Ma-ma-dị-đa của cõi Dục, thì gọi là hệ thuộc cõi Dục; bị cất giấu vì A-lại-da, bị nắm giữ vì Ma-ma-dị-đa của cõi Sắc-Vô sắc, thì gọi là hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. A-lại-da thì đó là Ái, Ma-ma-dị-đa thì đó là Kiến.
Hoặc có người nói: Nếu pháp vì Ái của cõi Dục làm cho thấm ướt, Kiến nắm giữ làm ngã-ngã sở, thì gọi là hệ thuộc cõi Dục; vì Ái của cõi Sắc-Vô sắc làm cho thấm ướt, Kiến nắm giữ làm ngã-ngã sở, thì gọi là hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc.
Hoặc có người nói: Nếu pháp hòa hợp do lạc dục của cõi Dục, thì gọi là hệ thuộc cõi Dục; hòa hợp do lạc dục của cõi Sắc-Vô sắc, thì gọi là hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Lạc gọi là Ái, Dục gọi là Kiến.
Hoặc có người nói: Nếu pháp vì cấu bẩn của cõi Dục làm cho cấu bẩn, hiểm độc làm cho hiểm độc, xấu xa làm cho xấu xa, thì gọi là hệ thuộc cõi Dục; vì cấu bẩn của cõi Sắc-Vô sắc làm cho cấu bẩn, hiểm độc làm cho hiểm độc, xấu xa làm cho xấu xa, thì gọi là hệ thuộc cõi Sắc-Vô sắc. Trong này, tất cả phiền não đều gọi là xấu xa, không phải là chỉ nói đến Sân.
*******
Hai mươi hai căn này, mấy loại tương ưng với nhân? Cho đến nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?
Đáp: Muốn ngăn chặn ý nói về pháp nhân duyên không phải là có thật, hiển bày về pháp nhân duyên quyết định là có thật; cũng vì ngăn chặn ý ngu muội đối với tương ưng, chấp rằng pháp tương ưng không phải là thật, khiến cho biết rõ tương ưng là có thật, mà soạn ra phần luận này.
Ở trong nghĩa này, có người nói: Dựa vào một nhân mà soạn luận, đó là nhân Tương ưng, bởi vì trong này nói đến tương ưng, cho nên dựa vào ý nghĩa ấy để giải thích về văn này.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại tương ưng với nhân?
Đáp: Mười bốn loại, đó là Ý căn- năm Thọ-năm căn như Tín…và ba căn Vô lậu. Đây là tự Thể của nhân Tương ưng, bởi vì căn tương ưng với pháp tự Thể của nhân Tương ưng, cho nên gọi là tương ưng với nhân.
Hỏi: Mấy loại không tương ưng với nhân?
Đáp: Tám loại, đó là bảy Sắc căn và Mạng căn.
Hỏi: Tám loại này đã không phải là Thể của nhân Tương ưng, vì sao lại nói là không tương ưng với nhân? Đáp: Tám loại này tuy không phải là Thể của nhân Tương ưng, mà không tương ưng với Thể của nhân Tương ưng, cho nên nói là không tương ưng với nhân, điều này có gì sai?
Hỏi: Mấy loại tương ưng với nhân, không tương ưng với nhân?
Đáp: Ngay mười bốn loại trước, phần ít tương ưng với nhân, phần ít không tương ưng với nhân. Phần ít tương ưng với nhân, đó là tự tánh
đối với tánh khác. Phần ít không tương ưng với nhân, đó là tự tánh đối với tự tánh.
Hỏi: Mấy loại không phải là tương ưng với nhân, không phải là không tương ưng với nhân?
Đáp: ngay mười bốn loại trước, phần ít không phải là tương ưng với nhân, phần ít không phải là không tương ưng với nhân. Phần ít không phải là tương ưng với nhân, đó là tự tánh đối với tự tánh. Phần ít không phải là không tương ưng với nhân, đó là tự tánh đối với tánh khác.
Có người nói: Trong này dựa vào hai nhân mà soạn luận, đó là nhân Tương ưng và nhân Câu hữu, bởi vì hai nhân này luôn luôn cùng với pháp ấy không tách rời nhau, cho nên dựa vào ý nghĩa ấy để giải thích về văn này.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại tương ưng với nhân?
Đáp: Mười bốn loại, đây là tự Thể của hai nhân, bởi vì căn tương ưng với pháp tự Thể của hai nhân, cho nên gọi là tương ưng với nhân. Ba loại sau hỏi-đáp như trước nên biết.
Có người nói: Trong này dựa vào ba nhân mà soạn luận, đó là nhân Tương ưng-nhân Câu hữu và nhân Đồng loại, bởi vì ba nhân này bao gồm ba tánh.
Có người nói: Trong này dựa vào bốn nhân mà soạn luận, đó là trừ ra nhân Đồng loại và nhân Biến hành, bởi vì bốn nhân này bao gồm ba đời.
Có người nói: Trong này dựa vào năm nhân mà soạn luận, đó là trừ ra nhân Năng tác, bởi vì bao gồm vô vi chứ không phải là tự mình hơn hẳn.
Có người nói: Trong này dựa vào sáu nhân mà soạn luận, bởi vì ở đây đã nói về nhân là nói tổng quát. Nhưng pháp tương ưng hoặc là làm tự Thể của sáu nhân, hoặc là làm tự Thể của năm nhân, hoặc là làm tự Thể của bốn nhân, như chương Đại Chủng Uẩn nói rộng ra, dựa vào ý nghĩa ấy để giải thích về văn này.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại tương ưng với nhân?
Đáp: Mười bốn loại, đó là tự Thể của sáu nhân, căn tương ưng với pháp tự Thể của sáu nhân; tự Thể của năm nhân, căn tương ưng với pháp tự Thể của năm nhân; tự Thể của bốn nhân, căn tương ưng với pháp tự Thể của bốn nhân, cho nên gọi là tương ưng với nhân. Ba loại sau hỏi-đáp như trước nên biết.
Hai mươi hai căn này, mấy loại duyên với có duyên? Cho đến nói rộng ra.
Hỏi: Vì sao soạn ra phần luận này?
Đáp: Bởi vì muốn ngăn chặn ý nói về sở duyên duyên không phải là thật, hiển bày về sở duyên duyên là có thật, mà soạn ra phần luận này.
Hỏi: Hai mươi hai căn này, mấy loại duyên với có duyên?
Đáp: Phần ít của mười ba loại, đó là phần ít của Ý-Lạc-Hỷ-Ưu-Xả căn, năm căn như Tín…và ba căn Vô lậu. Bởi vì có pháp sở duyên làm sở duyên cho những loại này, cho nên nói những loại này làm thành câu duyên với có duyên. Như người mắt sáng nhìn thấy người mắt sáng, người mắt sáng kia lại có những điều nhìn thấy; câu duyên với có duyên nên biết cũng như vậy.
Hỏi: Mấy loại duyên với không có duyên?
Đáp: Một loại và phần ít của mười ba loại. Một loại, đó là Khổ căn. Phần ít của mười ba loại, như trước đã nói. Bởi vì pháp không có sở duyên làm sở duyên cho những loại này, cho nên nói những loại này làm thành câu duyên với không có duyên. Như người mắt sáng nhìn thấy người mù mắt, người mù mắt kia lại không nhìn thấy gì; câu duyên với không có duyên nên biết cũng như vậy.
Hỏi: Mấy loại duyên với có duyên, duyên với không có duyên?
Đáp: Ngay phần ít của mười ba loại trước, bởi vì pháp có sở duyên và không có sở duyên, làm sở duyên cho những loại này, cho nên nói những loại này làm thành câu duyên với có duyên, duyên với không có duyên. Như người mắt sáng nhìn thấy người mắt sáng và người mù mắt, người mắt sắng kia lại có những điều nhìn thấy, người mù mắt kia lại không nhìn thấy gì; câu duyên với có duyên, duyên với không có duyên, nên biết cũng như vậy.
Có người khác nói rằng: Nghĩa của câu thứ ba này, tức là kết hợp câu thứ nhất và câu thứ hai, lại không có Thể khác nhau.
Cách nói này không đúng, bởi vì cùng với bản luận trái ngược nhau. Như phẩm luận về Thập Môn nói: “Duyên với pháp có duyên, là tùy miên tùy tăng duyên với hữu vi; duyên với pháp không có duyên, là tất cả tùy miên tùy tăng; duyên với pháp có duyên, duyên với pháp không có duyên, là tùy miên tùy tăng duyên với hữu vi; không phải là duyên với pháp có duyên, không phải là duyên với pháp không có duyên, là tùy miên tùy tăng duyên với hữu lậu, nhưng có ý thức và pháp tương ưng, trong một sát-na duyên chung với pháp có duyên và pháp không có duyên.” Vì vậy như trước đã nói là hợp lý.
Hỏi: Mấy loại không phải là duyên với có duyên, không phải là duyên với không có duyên? Đáp: Tám loại, đó là bảy Sắc căn và Mạng căn, bởi vì những loại này không duyên với pháp có sở duyên-pháp không có sở duyên, cho nên nói những loại này làm thành câu không phải là duyên với có duyên-không phải là duyên với không có duyên. Như người mù mắt hoàn toàn không nhìn thấy gì, câu này cũng như vậy.
Trong này sơ lược nêu ra hai mươi hai căn, bốn câu sai biệt như duyên với có duyên… đã nói trong phẩm luận về Thập Môn.
Mười tám Giới… cũng thuận theo dùng bốn câu này để phân biệt, đó là trong mười tám Giới thì mười Sắc giới làm câu thứ tư, năm Thức giới làm câu thứ hai, Ý giới-Ý thức giới làm ba câu trước, Pháp giới đầy đủ làm bốn câu.
Trong mười hai Xứ thì mười Sắc xứ làm câu thứ tư, Ý xứ làm ba câu trước, Pháp xứ đầy đủ làm bốn câu.
Trong năm Uẩn thì Sắc uẩn làm câu thứ tư, Thọ-Tưởng-Thức uẩn làm ba câu trước, Hành uẩn đầy đủ làm bốn câu. Như Uẩn, Thủ uẩn cũng như vậy.
Trong sáu Giới thì năm Sắc giới làm câu thứ tư, Thức giới làm ba câu trước.
Pháp có sắc, pháp có thể thấy, pháp có đối, pháp vô vi, Diệt đế, làm câu thứ tư. Pháp không có sắc, pháp không có thấy, pháp không có đối, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp quá khứ-vị laihiện tại, pháp thiện-bất thiện-vô ký, pháp hệ thuộc cõi Dục-Sắc-Vô sắc, pháp Học-Vô học-Phi học phi vô học, pháp do kiến-tu mà đoạn và không đoạn, Khổ-Tập-Đạo đế, Tĩnh lự-Vô sắc, đều đầy đủ làm bốn câu.
Trong bốn Vô lượng, nếu chọn lấy tự tánh, duyên với tâm hữu tình trú vào Đồng phần, thì làm câu thứ ba; nếu duyên với tâm hữu tình không trú vào Đồng phần, thì làm câu thứ hai; nếu cùng chọn lấy tương ưng-tùy chuyển, duyên với tâm hữu tình trú vào Đồng phần, thì làm câu thứ ba-thứ tư; nếu duyên với tâm hữu tình không trú vào Đồng phần, thì làm câu thứ hai-thứ tư.
Ba Giải thoát đầu-Thắng xứ và tám Biến xứ trước, nếu chọn lấy tự tánh thì làm câu thứ hai; nếu cùng chọn lấy tương ưng-tùy chuyển, thì làm câu thứ hai-thứ tư. Diệt thọ tưởng giải thoát làm câu thứ tư, bốn Giải thoát còn lại đầy đủ làm bốn câu.
Hai Biến xứ sau làm câu thứ ba-thứ tư, Diệt trí- Đẳng trì Vô tướng làm câu thứ hai, Tha tâm trí làm câu thứ nhất, sáu Trí và hai Đẳng trì còn lại, làm ba câu trước.
Trong các môn phiền não, năm Thức tương ưng thì làm câu thứ hai, Ý thức tương ưng thì làm ba câu trước. Trong này nói rộng, sai biệt nên suy nghĩ.
Hỏi: Các căn thuộc pháp này thì căn ấy là dị sinh chăng? Giả sử căn thuộc dị sinh thì căn ấy là pháp này chăng?
Đáp: Các căn thuộc pháp này thì căn ấy không phải là dị sinh, các căn thuộc dị sinh thì căn ấy không phải là pháp này.
Hỏi: Pháp này là gì, dị sinh là gì?
Đáp: Pháp này gọi là Thánh giả, dị sinh tức là dị sinh. Các căn thuộc pháp này thì căn ấy không phải là dị sinh, đó là các căn Vô lậu, chỉ có Thánh giả thành tựu chứ không phải là các dị sinh. Các căn thuộc dị sinh thì căn ấy không phải là pháp này, đó là căn do kiến mà đoạn, chỉ có dị sinh thành tựu chứ không phải là các Thánh giả.
Có người nói: Pháp này, nghĩa là trú trong Khổ pháp trí nhẫn; dị sinh, nghĩa là trú trong Thế đệ nhất pháp. Các căn thuộc pháp này thì căn ấy không phải là dị sinh, đó là các căn câu sinh thuộc Khổ pháp trí nhẫn, chỉ có người trú trong Khổ pháp trí nhẫn mới hiện khởi, chứ không phải là người trú trong Thế đệ nhất pháp. Các căn thuộc dị sinh thì căn ấy không phải là pháp này, đó là các căn câu sinh thuộc Thế đệ nhất pháp, chỉ có người trú trong Thế đệ nhất pháp mới hiện khởi, chứ không phải là người trú trong Khổ pháp trí nhẫn.
Có người nói: Pháp này, nghĩa là trú trong luật nghi; dị sinh, nghĩa là trú vào không luật nghi. Các căn của người trú trong luật nghi mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người trú vào không luật nghi mà hiện khởi. Các căn của người trú vào không luật nghi mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người trú trong luật nghi mà hiện khởi.
Có người nói: Pháp này, nghĩa là căn không thiếu sót; dị sinh, nghĩa là căn thiếu sót, như Phiến-trĩ-bán-trạch-ca, không có hình thể, hai hình thể… Các căn của người có căn không thiếu sót mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người có căn thiếu sót mà hiện khởi. Các căn của người có căn thiếu sót mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người có căn không thiếu sót mà hiện khởi.
Có người nói: Pháp này, nghĩa là không đoạn căn thiện; dị sinh, nghĩa là đoạn căn thiện. Các căn như Tín…, do người không đoạn căn thiện mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người đoạn căn thiện mà hiện khởi. Các căn câu sinh thuộc tà kiến, do người đoạn căn thiện mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người không đoạn căn thiện mà hiện khởi.
Có người nói: Pháp này, nghĩa là trú trong tụ Chánh định; dị sinh, nghĩa là trú trong tụ Tà định. Các căn của người trú trong tụ Chánh định mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người trú trong tụ Tà định mà hiện khởi. Các căn của người trú trong tụ Tà định mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người trú trong tụ Chánh định mà hiện khởi.
Có người nói: Pháp này, nghĩa là trú trong năm cõi trời Tịnh Cư; dị sinh, nghĩa là trú trong năm xứ sở của dị sinh. Các căn của người trú trong năm cõi trời Tịnh Cư mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người trú trong năm xứ sở của dị sinh mà hiện khởi. Các căn của người trú trong năm xứ sở của dị sinh mà hiện khởi, thì căn ấy không phải là người trú trong năm cõi trời Tịnh Cư mà hiện khởi.
Hỏi: Sắc uẩn thâu nhiếp mấy căn?
Đáp: Bảy căn, đó là bảy Sắc căn như Nhãn… Hỏi: Thọ uẩn thâu nhiếp mấy căn?
Đáp: Năm căn và phần ít của ba căn. Năm căn, đó là năm Thọ căn. Phần ít của ba căn, đó là phần ít của ba căn Vô lậu, bởi vì ba căn Vô lậu lấy chín pháp làm Thể, Thọ uẩn chỉ thâu nhiếp ba loại, cho nên nói là phần ít.
Hỏi: Tưởng uẩn thâu nhiếp mấy căn?
Đáp: Không có, bởi vì Tưởng không phải là căn.
Hỏi: Hành uẩn thâu nhiếp mấy căn?
Đáp: Sáu căn và phần ít của ba căn. Sáu căn, đó là Mạng căn và năm căn như Tín… Phần ít của ba căn, đó là phần ít của ba căn Vô lậu, bởi vì ba căn Vô lậu lấy chín pháp làm Thể, Hành uẩn chỉ thâu nhiếp năm loại, cho nên nói là phần ít.
Hỏi: Thức uẩn thâu nhiếp mấy căn?
Đáp: Một căn và phần ít của ba căn. Một căn, đó là Ý căn. Phần ít của ba căn, đó là phần ít của ba căn Vô lậu, bởi vì ba căn Vô lậu lấy chín pháp làm Thể, Thức uẩn chỉ thâu nhiếp một loại, cho nên nói là phần ít.
Hỏi: Căn thiện thâu nhiếp mấy Giới-mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Tám Giới-hai Xứ-ba Uẩn. Tám Giới, đó là bảy Tâm giới và Pháp giới. Hai Xứ, đó là Ý xứ và Pháp xứ. Ba Uẩn, đó là Thọ uẩn-Hành uẩn và Thức uẩn.
Hỏi: Chỉ thâu nhiếp căn thiện, có mấy Giới-mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Không có.
Hỏi: Căn bất thiện thâu nhiếp mấy Giới-mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Tám Giới-hai Xứ-hai Uẩn. Tám Giới, đó là bảy Tâm giới và Pháp giới. Hai Xứ, đó là Ý xứ và Pháp xứ. Hai Uẩn, đó là Thọ uẩn và Thức uẩn.
Hỏi: Chỉ thâu nhiếp căn bất thiện, có mấy Giới-mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Không có.
Hỏi: Căn hữu phú vô ký thâu nhiếp mấy Giới-mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Sáu Giới- hai Xứ- hai Uẩn. Sáu Giới, đó là Nhãn thức giớiNhĩ thức giới-Thân thức giới-Ý giới-Ý thức giới và Pháp giới. Hai Xứ, đó là Ý xứ và Pháp xứ. Hai Uẩn, đó là Thọ uẩn và Thức uẩn.
Hỏi: Chỉ thâu nhiếp căn hữu phú vô ký, có mấy Giới-mấy Xứmấy Uẩn?
Đáp: Không có.
Hỏi: Căn vô phú vô ký thâu nhiếp mấy Giới- mấy Xứ- mấy Uẩn?
Đáp: Mười ba Giới- bảy Xứ- bốn Uẩn. Mười ba Giới, đó là mười hai Giới bên trong và Pháp giới. Bảy Xứ, đó là sáu Xứ bên trong và Pháp xứ. Bốn Uẩn, đó là trừ ra Tưởng uẩn.
Hỏi: Chỉ thâu nhiếp căn vô phú vô ký, có mấy Giới-mấy Xứmấy Uẩn?
Đáp: Năm Giới- năm Xứ, không phải là Uẩn. Năm Giới, đó là năm Giới thuộc Sắc căn như Nhãn… Năm Xứ. đó là năm Xứ thuộc Sắc căn như Nhãn… Không phải là Uẩn, đó là không có Uẩn, bởi vì chỉ là vô phú vô ký.
Hỏi: Căn pháp thâu nhiếp mấy Giới- mấy Xứ- mấy Uẩn?
Đáp: Mười ba Giới-bảy Xứ-bốn Uẩn. Mười ba Giới, đó là mười hai Giới bên trong và Pháp giới. Bảy Xứ, đó là sáu Xứ bên trong và Pháp xứ. Bốn Uẩn, đó là trừ ra Tưởng uẩn.
Hỏi: Chỉ thâu nhiếp căn pháp, có mấy Giới- mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Mười hai Giới- sáu Xứ- hai Uẩn. Mười hai Giới, đó là mười hai Giới bên trong. Sáu Xứ, đó là sáu Xứ bên trong. Hai Uẩn, đó là Thọ uẩn và Thức uẩn.
Hỏi: Phi căn pháp thâu nhiếp mấy Giới- mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Sáu Giới-sáu Xứ-ba Uẩn. Sáu Giới, đó là sáu Giới bên ngoài. Sáu Xứ, đó là sáu Xứ bên ngoài. Ba Uẩn, đó là Sắc uẩn- Tưởng uẩn và Hành uẩn.
Hỏi: Chỉ thâu nhiếp phi căn pháp, có mấy Giới-mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Năm Giới-năm Xứ-một Uẩn. Năm Giới, đó là năm Sắc giới bên ngoài. Năm Xứ, đó là năm Sắc xứ bên ngoài. Một Uẩn, đó là Tưởng uẩn.
Hỏi: Căn-phi căn pháp thâu nhiếp mấy Giới-mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Mười tám Giới-mười hai Xứ-năm Uẩn.
Hỏi: Chỉ thâu nhiếp căn-phi căn pháp, có mấy Giới-mấy Xứ-mấy Uẩn?
Đáp: Một Giới-một Xứ-hai Uẩn. Một Giới, đó là Pháp giới. Một Xứ, đó là Pháp xứ. Hai Uẩn, đó là Sắc uẩn và Hành uẩn.
Có thể căn làm duyên sinh ra căn chăng? Cho đến nói rộng ra.
Có người nói: Trong này có một lần nêu ra, một lần giải thích, một lần giải thích rộng ra. Như nói: “Có thể căn làm duyên sinh ra căn chăng?… Là nêu ra. Có thể Nhãn căn làm duyên sinh ra Nhãn căn chăng?… Là giải thích. Nhãn căn cùng với Nhãn căn làm mấy duyên?… Là giải thích rộng ra.”
Có người nói: Trong này có ba lần nêu ra, ba lần giải thích, ba lần giải thích rộng ra. Như nói: “Có thể căn làm duyên sinh ra căn chăng? Là nêu ra. Trả lời: Sinh ra. Là giải thích. Sinh ra phi căn chăng? Là giải thích rộng ra. Có thể Nhãn căn làm duyên sinh ra Nhãn căn chăng? Là nêu ra. Trả lời: Sinh ra. Là giải thích. Sinh ra Nhĩ căn cho đến sinh ra Cụ tri căn chăng?… Là giải thích rộng ra. Nhãn căn cùng với Nhãn căn làm mấy duyên? Là nêu ra. Trả lời: Nhân và Tăng thượng. Là giải thích. Cho đến cùng với Cụ tri căn làm Sở duyên-Tăng thượng… Là giải thích rộng ra.”
Có người nói: Trong này có ba lần nêu ra, ba lần giải thích. Như nói: “Có thể căn làm duyên sinh ra căn chăng?… Là nêu ra. Trả lời: Sinh ra… Là giải thích. Có thể Nhãn căn làm duyên sinh ra Nhãn căn chăng?… Là nêu ra. Trả lời: Sinh ra… Là giải thích. Nhãn căn cùng với Nhãn căn làm mấy duyên?… Là nêu ra. Trả lời: Nhân và Tăng thượng…
Là giải thích.”
Hỏi: Có thể căn làm duyên sinh ra căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Nhãn làm sở y, sinh ra Ý căn-ba Thọ và năm căn như Tín…; hoặc là Nhãn làm sở duyên, sinh ra Ý căn-bốn Thọ- năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu.
Hỏi: Có thể căn làm duyên sinh ra phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Nhãn làm sở y, sinh ra Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý…; hoặc là Nhãn làm sở duyên, sinh ra Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý, và Ác tác-Thụy miên…
Hỏi: Có thể căn làm duyên sinh ra căn-phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Nhãn làm sở y, sinh ra Ý căn-ba Thọ-năm căn như Tín…, và Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý…; hoặc là Nhãn làm sở duyên, sinh ra Ý căn-bốn Thọ-năm căn như Tín…, ba căn Vô lậu, Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý…, và Ác tác-Thụy miên…
Hỏi: Có thể phi căn làm duyên sinh ra phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như sắc làm sở duyên, sinh ra Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý…, và Ác tác-Thụy miên…
Hỏi: Có thể phi căn làm duyên sinh ra căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như sắc làm sở duyên, sinh ra Ý căn-năm Thọ-năm căn như Tín…, và ba căn Vô lậu.
Hỏi: Có thể phi căn làm duyên sinh ra căn-phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như sắc làm sở duyên, sinh ra Ý căn-năm Thọ-năm căn như
Tín…, ba căn Vô lậu, Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý…, và Ác tác-Thụy miên… Hỏi: Có thể căn-phi căn làm duyên sinh ra căn-phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Nhãn làm sở y, sắc làm sở duyên, sinh ra Ý căn-ba Thọnăm căn như Tín…, Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý…
Hỏi: Có thể căn-phi căn làm duyên sinh ra căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Nhãn làm sở y, sắc làm sở duyên, sinh ra Ý căn-ba Thọ và năm căn như Tín…
Hỏi: Có thể căn-phi căn làm duyên sinh ra phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Nhãn làm sở y, sắc làm sở duyên, sinh ra Tưởng-Tư- Xúc-Tác ý…
Có người khác đối với phần này đưa ra văn thứ hai.
Hỏi: Có thể căn làm duyên chỉ sinh ra căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì căn này cũng sinh ra phi căn.
Hỏi: Có thể căn làm duyên chỉ sinh ra phi căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì căn này cũng sinh ra căn.
Hỏi: Có thể căn làm duyên chỉ sinh ra căn-phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Nhãn làm sở y, sinh ra Ý căn-ba Thọ-năm căn như
Tín…, Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý…
Hỏi: Có thể phi căn làm duyên chỉ sinh ra phi căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì phi căn này cũng sinh ra căn.
Hỏi: Có thể phi căn làm duyên chỉ sinh ra căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì phi căn này cũng sinh ra phi căn.
Hỏi: Có thể phi căn làm duyên chỉ sinh ra căn-phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như sắc làm sở duyên, sinh ra Ý căn- năm Thọ-năm căn như
Tín…, ba căn Vô lậu, Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý…, và Ác tác-Thụy miên…
Hỏi: Có thể căn-phi căn làm duyên chỉ sinh ra căn-phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra? Đáp: Như Nhãn làm sở y, sắc làm sở duyên, sinh ra Ý căn-ba Thọ-năm căn như Tín…, Tưởng-Tư-Xúc-Tác ý…
Hỏi: Có thể căn-phi căn làm duyên chỉ sinh ra căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì căn-phi căn này cũng sinh ra phi căn.
Hỏi: Có thể căn-phi căn làm duyên chỉ sinh ra phi căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì căn-phi căn này cũng sinh ra căn.
Có người khác đối với phần này đưa ra văn thứ ba.
Hỏi: Có thể chỉ có căn làm duyên sinh ra căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì căn này cũng duyên với phi căn mà sinh ra.
Hỏi: Có thể chỉ có căn làm duyên sinh ra phi căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì phi căn này cũng duyên với phi căn mà sinh ra.
Hỏi: Có thể chỉ có căn làm duyên sinh ra căn-phi căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì căn-phi căn này cũng duyên với phi căn mà sinh ra.
Hỏi: Có thể chỉ có phi căn làm duyên sinh ra phi căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì phi căn này cũng duyên với căn mà sinh ra.
Hỏi: Có thể chỉ có phi căn làm duyên sinh ra căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì căn này cũng duyên với căn mà sinh ra.
Hỏi: Có thể chỉ có phi căn làm duyên sinh ra căn-phi căn chăng?
Đáp: Không sinh ra, bởi vì căn-phi căn này cũng duyên với căn mà sinh ra.
Hỏi: Có thể chỉ có căn-phi căn làm duyên sinh ra căn-phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra, nói rộng ra như trên.
Hỏi: Có thể chỉ có căn-phi căn làm duyên sinh ra căn chăng?
Đáp: Sinh ra, nói rộng ra như trên.
Hỏi: Có thể chỉ có căn-phi căn làm duyên sinh ra phi căn chăng?
Đáp: Sinh ra, nói rộng ra như trên.
Hỏi: Có thể Nhãn căn làm duyên sinh ra Nhãn căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Đó là không ngăn cản sinh ra và chỉ có không trở ngại gì.
Hỏi: Có thể Nhãn căn làm duyên sinh ra Nhĩ căn cho đến Cụ tri căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Nhãn làm sở y, sinh ra Ý căn-ba Thọ và năm căn như Tín…; hoặc là Nhãn làm sở duyên, sinh ra Ý căn-bốn Thọ, năm căn như Tín…, và ba căn Vô lậu; hoặc là bài báng Nhãn căn rơi vào các nẽo ác, nhận lấy dị thục của các Sắc căn-Mạng căn-Ý căn-Khổ căn; hoặc là tin tưởng Nhãn căn sinh vào các nẽo thiện, nhận lấy dị thục của các Sắc căn-Mạng căn-Ý căn-Lạc căn-Hỷ căn-Xả căn. Đó gọi là Nhãn căn làm duyên sinh ra Nhĩ căn cho đến Cụ tri căn. Như Nhãn căn, Nhĩ-TỷThiệt-Thân-Nữ-Nam-Mạng căn cũng như vậy. Nhưng có sai biệt, đó là Nữ căn-Nam căn không phải là sở y của Khổ căn và năm căn như Tín…, Mạng căn không phải là sở y của tất cả các căn.
Hỏi: Có thể Ý căn làm duyên sinh ra Ý căn chăng? Sinh ra Nhãn căn cho đến Cụ tri căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Ý căn làm sở y, sinh ra Ý căn-năm Thọ-năm căn như Tín…, và ba căn Vô lậu; hoặc là Ý căn làm sở duyên, sinh ra Ý căn-bốn Thọ-năm căn như Tín…, và ba căn Vô lậu; hoặc là bài báng Ý căn rơi vào các nẽo ác, nhận lấy dị thục của các Sắc căn-Mạng căn- Ý căn- Khổ căn; hoặc là tin tưởng Ý căn sinh vào các nẽo thiện, nhận lấy dị thục của các Sắc căn-Mạng căn-Ý căn-Lạc căn-Hỷ căn-Xả căn. Vả lại, Ý căn có thiện và bất thiện, thiện thì ở nẽo thiện nhận lấy dị thục của các Sắc căn-Mạng căn-Ý căn-Lạc căn-Hỷ căn-Xả căn; bất thiện thì ở nẽo ác nhận lấy dị thục của các Sắc căn-Mạng căn-Ý căn-Khổ căn. Như Ý căn, năm Thọ căn-năm căn như Tín…cũng như vậy. Nhưng có sai biệt, đó là tất cả không phải là sở y, Khổ căn đối với chính mình không phải là sở duyên, năm căn như Tín…không phải là bất thiện.
Hỏi: Có thể Vị tri đương tri căn làm duyên sinh ra Vị tri đương tri căn chăng? Sinh ra Nhãn căn cho đến Cụ tri căn chăng?
Đáp: Sinh ra.
Hỏi: Thế nào là sinh ra?
Đáp: Như Vị tri đương tri căn làm sở y, sinh ra Vị tri đương tri cănDĩ tri căn-Ý căn-ba Thọ-năm căn như Tín…;hoặc là Vị tri đương tri căn làm sở duyên, sinh ra Ý căn-bốn Thọ-năm căn như Tín…và ba căn Vô lậu; hoặc là bài báng Vị tri đương tri căn rơi vào các nẽo ác, nhận lấy dị thục của các Sắc căn-Mạng căn-Ý căn-Khổ căn; hoặc là tin tưởng Vị tri đương tri căn sinh vào các nẽo thiện, nhận lấy dị thục của các Sắc căn-Mạng căn-Ý căn-Lạc căn-Hỷ căn-Xả căn. Như Vị tri đương tri căn, Dĩ tri căn và Cụ tri căn cũng như vậy. Nhưng có sai biệt, đó là Dĩ tri căn làm sở y, sinh ra Dĩ tri căn-Cụ tri căn-Ý căn-ba Thọ-năm căn như
Tín…; Cụ tri căn làm sở y, sinh ra Cụ tri căn-Ý căn-ba Thọ-năm căn như Tín…
Hỏi: Nhãn căn cùng với Nhãn căn làm mấy duyên, cùng với Nhĩ căn cho đến Cụ tri căn làm mấy duyên? Cho đến Cụ tri căn cùng với Cụ tri căn làm mấy duyên, cùng với Nhãn căn cho đến Dĩ tri căn làm mấy duyên?
Đáp: Nhãn căn cùng với Nhãn căn, làm Nhân và Tăng thượng. Nhân là một Nhân, đó là nhân Đồng loại. Tăng thượng, đó là không ngăn cản sinh ra và chỉ có không trở ngại gì, nghĩa về Tăng thượng sau này đều nói giống như ở đây. Cùng với Sắc căn khác và Mạng căn-Khổ căn, làm một Tăng thượng. Cùng với căn khác làm Sở duyên-Tăng thượng. Căn khác, đó là Ý căn-bốn Thọ-năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu. Như Nhãn căn, Nhĩ-Tỷ-Thiệt căn cũng như vậy.
Thân căn cùng với Thân căn-Nữ căn-Nam căn, làm Nhân và Tăng thượng. Nhân là một Nhân, đó là nhân Đồng loại. Cùng với Sắc căn khác và Mạng căn-Khổ căn, làm một Tăng thượng. Cùng với căn khác làm Sở duyên-Tăng thượng. Căn khác, như trước nói.
Nữ căn cùng với Nữ căn-Thân căn, làm Nhân và Tăng thượng. Nhân là một Nhân, đó là nhân Đồng loại. Cùng với Sắc căn khác và Mạng căn-Khổ căn, làm một Tăng thượng. Cùng với căn khác làm Sở duyên-Tăng thượng. Căn khác, như trước nói. Như Nữ căn, Nam căn cũng như vậy.
Mạng căn cùng với Mạng căn, làm Nhân và Tăng thượng. Nhân là một Nhân, đó là nhân Đồng loại. Cùng với bảy Sắc căn-Khổ căn, làm một Tăng thượng. Cùng với căn khác làm Sở duyên-Tăng thượng. Căn khác, như trước nói.
Ý căn cùng với Ý căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên-Tăng thượng. Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Đẳng vô gián, đó là Ý căn đẳng vô gián, Ý căn hiện rõ ở trước mắt. Sở duyên, đó là Ý căn làm sở duyên cho Ý căn. Các nghĩa về Đẳng vô gián và Sở duyên, đều dựa theo đây mà nói. Cùng với bảy Sắc căn-Mạng căn, làm Nhân và Tăng thượng. Nhân là một Nhân, đó là nhân Dị thục. Cùng với Khổ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Tăng thượng, không phải là Sở duyên. Nhân là năm Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu-Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Đẳng vô gián, đó là Ý căn đẳng vô gián, Khổ căn hiện rõ ở trước mắt. Không phải là Sở duyên, bởi vì Khổ căn duyên với sắc, Ý căn không phải là sắc. Cùng với căn khác làm NhânĐẳng vô gián-Sở duyên-Tăng thượng. Căn khác, đó là Lạc-Hỷ-Xả-Ưu căn, năm căn như Tín…, ba căn Vô lậu. Đây là dựa vào duyên đầy đủ như nhau, cho nên nói chung. Nhưng mà Nhân có khác nhau, đó là cùng với Lạc-Hỷ-Xả căn làm năm Nhân, tức là năm Nhân như Tương ưng…; cùng với Ưu căn làm bốn Nhân, trừ ra nhân Dị thục; cùng với năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu làm ba Nhân, tức là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại. Như Ý căn, Lạc-Hỷ-Xả căn và năm căn như Tín…, cũng như vậy.
Nên biết rằng đây là dựa vào số lượng duyên như nhau mà nói
về tướng chung, nhưng bởi vì nhân duyên có sai biệt, e là văn cách xa, cho nên nay phân biệt đầy đủ. Đó là Lạc căn cùng với Lạc căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên-Tăng thuợng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với bảy Sắc căn và Mạng căn, làm Nhân và Tăng thượng; Nhân là một Nhân, đó là nhân Dị thục. Cùng với Ý căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là năm Nhân, đó là năm nhân như Tương ưng… Cùng với Khổ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián và Tăng thượng, không phải là Sở duyên; Nhân là hai Nhân, đó là nhân Đồng loại và Dị thục; không phải là Sở duyên, bởi vì Khổ căn duyên với sắc, Lạc căn không phải là sắc. Cùng với Hỷ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là hai Nhân, đó là nhân Đồng loại và Dị thục. Cùng với Ưu căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là một Nhân, đó là nhân Đồng loại. Cùng với Xả căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại.
Hỷ căn cùng với Hỷ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với bảy Sắc căn và Mạng căn, làm Nhân và Tăng thượng; Nhân là một Nhân, đó là nhân Dị thục. Cùng với Ý căn, làm NhânĐẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là năm Nhân, đó là năm nhân như Tương ưng… Cùng với Lạc căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với Khổ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián và Tăng thượng, không phải là Sở duyên; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với Ưu căn, làm Nhân-Đẳng vô giánSở duyên và Tăng thượng; Nhân là hai Nhân, đó là nhân Đồng loại và Biến hành. Cùng với Xả căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại.
Xả căn cùng với Xả căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với bảy Sắc căn và Mạng căn, làm Nhân và Tăng thượng; Nhân là một Nhân, đó là nhân Dị thục. Cùng với Ý căn, làm NhânĐẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là năm Nhân, đó là năm nhân như Tương ưng… Cùng với Lạc căn-Hỷ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với Khổ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián và Tăng thượng, không phải là Sở duyên; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với Ưu căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là hai Nhân, đó là nhân Đồng loại và Biến hành. Cùng với năm căn như Tín… và ba căn Vô lậu, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại.
Tín căn cùng với Tín căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là một Nhân, đó là nhân Đồng loại. Cùng với bảy Sắc căn-Mạng căn, làm Nhân và Tăng thượng; Nhân là một Nhân, đó là nhân Dị thục. Cùng với Ý căn-Lạc căn-Hỷ căn-Xả căn, làm NhânĐẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là bốn Nhân, trừ ra nhân Biến hành. Cùng với Khổ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián và Tăng thượng, không phải là Sở duyên; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại. Cùng với Ưu căn, làm Nhân-Đẳng vô giánSở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại. Cùng với bốn căn như Tinh tiến… và ba căn Vô lậu, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại. Như Tín căn, bốn căn như Tinh tiến…cũng như vậy.
Khổ căn cùng với Khổ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián và Tăng thượng, không phải là Sở duyên; Nhân là hai Nhân, đó là nhân Đồng loại và Dị thục; không phải là Sở duyên, bởi vì Khổ căn duyên với sắc, Khổ căn không phải là sắc. Cùng với bảy Sắc căn-Mạng căn, làm Nhân và Tăng thượng; Nhân là một Nhân, đó là nhân Dị thục. Cùng với ba căn Vô lậu, làm Sở duyên và Tăng thượng; Sở duyên, đó là làm sở duyên cho phẩm thuộc Khổ nhẫn-Khổ trí và Tập nhẫn-Tập trí. Cùng với căn khác, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng. Căn khác, đó là Ý-Lạc-Hỷ-Xả-Ưu và năm căn như Tín….Đây cũng là duyên đầy đủ như nhau, cho nên nói chung. Nhưng mà Nhân có khác nhau, đó là cùng với Ý căn làm bốn Nhân, trừ ra nhân Biến hành; cùng với Lạc căn-Hỷ căn-Xả căn làm hai Nhân, đó là nhân Đồng loại và Dị thục; cùng với Ưu căn làm một Nhân, đó là nhân Đồng loại; cùng với năm căn như Tín…làm ba Nhân, đó là nhân Tương ưng- Câu hữu và Đồng loại.
Ưu căn cùng với Ưu căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và
Tăng thượng; Nhân là hai Nhân, đó là nhân Đồng loại và Biến hành. Cùng với bảy Sắc căn-Mạng căn, làm Nhân và Tăng thượng; Nhân là một Nhân, đó là nhân Dị thục. Cùng với Khổ căn, làm Nhân-Đẳng vô gián và Tăng thượng, không phải là Sở duyên; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục. Cùng với ba căn Vô lậu, làm Sở duyên và Tăng thượng; Sở duyên, đó là làm sở duyên cho phẩm thuộc Khổ nhẫn-Khổ trí và Tập nhẫn-Tập trí. Cùng với căn khác, làm NhânĐẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng. Căn khác, đó là Ý-Lạc-Hỷ-Xả và năm căn như Tín…Đây cũng là duyên đầy đủ như nhau, cho nên nói chung. Nhưng mà Nhân có khác nhau, đó là cùng với Ý căn làm năm Nhân, đó là năm nhân như Tương ưng…; cùng với Lạc căn-Hỷ căn-Xả căn làm ba Nhân, đó là nhân Đồng loại-Biến hành và Dị thục; cùng với năm căn như Tín…làm ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại.
Vị tri đương tri căn cùng với Vị tri đương tri căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại; Sở duyên, đó là làm sở duyên cho phẩm thuộc Đạo nhẫn-Đạo trí. Cùng với Cụ tri tri căn, làm Nhân-Sở duyên và Tăng thượng, không phải là Đẳng vô gián; Nhân là một Nhân, đó là nhân Đồng loại; Sở duyên, đó là làm sở duyên cho phẩm thuộc Đạo nhẫn-Đạo trí; không phải là Đẳng vô gián, bởi vì Vị tri đương tri căn đẳng vô gián, Cụ tri căn không hiện rõ trước mắt. Cùng với bảy Sắc căn-Mạng căn-Khổ căn, làm một Tăng thượng. Cùng với Ưu căn, làm Sở duyên và Tăng thượng. Cùng với căn khác, làm Nhân-Đẳng vô giánSở duyên và Tăng thượng. Căn khác, đó là Ý-Lạc-Hỷ-Xả, năm căn như Tín… và Dĩ tri căn. Đây cũng là duyên đầy đủ như nhau, cho nên nói chung. Nhưng mà Nhân có khác nhau, đó là cùng với chín căn như Ý… làm ba Nhân, tức là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại; cùng với Dĩ tri căn làm một Nhân, đó là nhân Đồng loại.
Dĩ tri căn cùng với Dĩ tri căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại. Cùng với bảy Sắc căn-Mạng căn-Khổ căn, làm một Tăng thượng. Cùng với Ưu căn-Vị tri đương tri căn, làm Sở duyên và Tăng thượng. Cùng với căn khác, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng. Căn khác, đó là Ý-Lạc-Hỷ-Xả, năm căn như Tín…và Cụ tri căn. Đây cũng là duyên đầy đủ như nhau, cho nên nói chung. Nhưng mà Nhân có khác nhau, đó là cùng với chín căn như Ý… làm ba Nhân, tức là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại; cùng với Cụ tri căn làm một Nhân, đó là nhân Đồng loại.
Cụ tri căn cùng với Cụ tri căn, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại. Cùng với bảy Sắc căn-Mạng căn-Khổ căn, làm một Tăng thượng. Cùng với Ưu căn-Vị tri đương tri căn-Dĩ tri căn, làm Sở duyên và Tăng thượng. Cùng với căn khác, làm Nhân-Đẳng vô gián-Sở duyên và Tăng thượng. Căn khác, đó là Ý-Lạc-Hỷ-Xả và năm căn như Tín…; Nhân là ba Nhân, đó là nhân Tương ưng-Câu hữu và Đồng loại; Đẳng vô gián, đó là Cụ tri căn đẳng vô gián, chín căn như Ý…hiện rõ ở trước mắt; Sở duyên, đó là Cụ tri căn làm sở duyên cho chín căn như Ý…;Tăng thượng, nghĩa là không ngăn cản sinh ra và chỉ có không trở ngại gì.