TỤC TRUYỀN ĐĂNG LỤC

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 24

Đời thứ mười lăm, sau đời Thiền sư Đại giám

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Minh ở Tịnh từ, có năm vị:

  1. Thiền sư Tượng ở Tịnh từ
  2. Thiền sư Long ở Tuyết phong (hai vị hiện có ghi lục)
  3. Thiền sư Đức Tông ở Linh nham
  4. Thiền sư Bản Nhiên ở Thường lạc
  5. Thiền sư Pháp Chiếu ở Bảo ứng (ba vị hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hòa ở Trường lô, có mười năm vị:

  1. Thiền sư Đạt Châu ở Cam lồ
  2. Thiền sư Tuệ Thuần ở Linh ẩn (hai vị hiện có ghi lục)
  3. Thiền sư Minh ở Tuyết đậu
  4. Thiền sư Thành ở Lang da
  5. Hòa thượng Viên Trí
  6. Hòa thượng Phụng Sơn
  7. Thiền sư Phụng Tảo ở Tinh nghiêm
  8. Thiền sư Khả Thăng ở lương
  9. Thiền sư Thượng Lưu ở Hoa nghiêm
  10. Thiền sư Đạo Thiên ở Bao thiền
  11. Thiền sư Tổ Vĩnh ở Hiển thân
  12. Thiền sư Pháp Vịnh ở Trường lô
  13. Thiền sư Nhiên ở Định thủy
  14. Thiền sư Viện ở Hưng quốc
  15. Thiền sư Thủ Tòa ở Pháp âm (mười ba vị không ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tuệ ở Tuyết phong, có mười bốn vị:

  1. Thiền sư Đạo Xướng ở Tịnh từ
  2. Thiền sư Liễu Nhất ở Kính sơn
  3. Thiền sư Liễu Tâm ở Kim sơn (ba vị hiện có ghi lục)
  4. Thiền sư Pháp Viên ở Đại cát
  5. Thiền sư Đạt ở Nam an
  6. Thiền sư Thăng ở Tịnh từ
  7. Thiền sư Tổ Thiên ở Thạch tùng
  8. Thiền sư Ngộ Cập ở Khánh thành
  9. Thiền sư Bảo Cơ ở Hưng vương
  10. Thiền sư Thủ Ninh ở Bảo thắng
  11. Thiền sư Pháp Tạng ở Kiến thiện
  12. Thiền sư Vụ Huy ở Tịnh từ
  13. Thiền sư Giới Thông ở Nam minh
  14. Thiền sư Ninh ở Trung phong (mười một vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nguyệt ở Hương nghiêm, có hai vị:

  1. Thiền sư Như Bích ở Hương nghiêm (hiện có ghi lục)
  2. Thiền sư Như Lâm ở Hương nghiêm (hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thâm ở Tuệ lâm, có bảy vị:

  1. Thiền sư Tuệ Quang ở Linh ẩn
  2. Thiền sư Diệu Ấn ở Quốc
  3. Thiền sư Phổ Thiệu ở Quốc
  4. Thiền sư Tuệ Thúy ở Cửu tòa (bốn vị hiện có ghi lục)
  5. Thiền sư Đàm ở Viên giác
  6. Thiền sư Pháp Như ở Tịnh tuệ
  7. Thiền sư Thắng ở Viên giác (ba vị không ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nhiên ở Báo ân, có một vị:

  1. Thiền sư Nguyên ở Tư Thánh (hiện có ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hải ở Tuệ lâm, có hai vị:

  1. Thiền sư Thọ Kiên ở Vạn sam (hiện có ghi lục)
  2. Thiền sư Thọ Long ở Vạn sam (không ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tông ở Khai tiên, có hai vị:

  1. Thiền sư Duy Sơ ở Hoàng nghiệt
  2. Thiền sư Hải ở Nhạc lộc (hai vị hiện có ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Diễn ở Tuyết Phong, có bốn vị:

  1. Thiền sư Tuệ Thuấn ở Tây thiền (Hiện có ghi lục)
  2. Thiền sư Đạo Chiểu ở Phụng sơn
  3. Thiền sư Đắc Năng ở Năng nhân
  4. Thiền sư Du ở Ngọa long (ba vị hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Liễu ở Trường lô, có mười ba vị:

  1. Thiền sư Tông Giác ở Thiên đồng
  2. Thiền sư Diệu Giác ở Trường lô
  3. Thiền sư Nghĩa Sơ ở Quy sơn
  4. Thiền sư Hưng Dự ở Bảo ninh
  5. Thiền sư Pháp Thông ở Bắc sơn (năm vị có ghi lục)
  6. Thiền sư Đức Sơ ở Thọ sơn
  7. Thiền sư Đạo Huy ở Long tường
  8. Thiền sư Tổ Khanh ở Thượng lam
  9. Thiền sư Sùng Thọ ở Năng nhân
  10. Thiền sư Tử Vịnh ở U nham
  11. Thiền sư Tuệ Ngộ ở Trường lô
  12. Thiền sư Đạo Tân ở Thần quang
  13. Thiền sư Giám ở Tuyết đậu (tám vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Giác ở Thiên đồng, có mười bốn vị:

  1. Thiền sư Tự Tông ở Tuyết đậu
  2. Thiền sư Pháp Trí ở Thiện quyền
  3. Thiền sư Tuệ Huy ở Tịnh từ
  4. Thiền sư Pháp Cung ở Thụy nham
  5. Thiền sư Pháp Chân ở Thạch môn
  6. Thiền sư Tư Triệt ở Quang hiếu
  7. Thiền sư Pháp Vi ở Đại hồng
  8. Thiền sư Lâm ở Trường lô (tám vị hiện có ghi lục)
  9. Thiền sư Pháp thông ở Quảng tuệ
  10. Thiền sư Thế Dao ở Phụng hoàng
  11. Thiền sư Quang ở Ô cự
  12. Thiền sư Ngộ ở Bảo phước
  13. Thiền sư Lý ở Năng nhân
  14. Thiền sư Toại ở Tuyết đậu (sáu vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Dự ở Đại hồng, có năm vị:

  1. Thiền sư Ngộ ở Tuệ lực
  2. Thủ tòa Tuệ Thâm ở Tuyết phong (hai vị có ghi lục)
  3. Thiền sư Nhã ở Trí môn
  4. Thiền sư Sung ở Phổ chiếu
  5. Thiền sư Diễn ở Tiến phước (ba vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Quy ở Thiên phong, có một vị:

  1. Thiền sư Thông Lý ở Đông lâm (hiện có ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thông ở Thiên y, có sáu vị:

  1. Thiền sư Pháp An ở Tuệ nhật
  2. Thiền sư Khâm ở Hộ quốc
  3. Thiền sư Nguyên Thật ở Cát tường
  4. Thiền sư Đạo Tuyên ở Đầu tử (bốn vị hiện có ghi lục)
  5. Thiền sư Phổ Hy ở Năng nhân
  6. Thiền sư Tông Vĩ ở Thạch Phật (hai vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tuyên ở Các tường, có một vị:

  1. Thiền sư Minh ở Nam hoa (hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hiển ở Đại hồng, có chín vị:

  1. Thiền sư Tổ ở Tử lăng
  2. Thiền sư Đạo hòa ở Thắng quả
  3. Thiền sư Thế Năng ở Long an
  4. Thiền sư Tông Giác ở Bắc thiền
  5. Thiền sư Tổ Ngộ ở Phổ ninh
  6. Thiền sư Sơn Chiêu ở Trung cân
  7. Thiền sư Thủ Kha ở Thọ Ninh
  8. Thiền sư Nguyên Kinh ở Hoành sơn
  9. Thiền sư Pháp Thông ở Bắc triệu (chín vị không ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Ngộ ở La-hán, có một vị:

  1. Thiền sư Nguyệt ở Tào sơn (không ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Ngộ ở Kính sơn, có hai vị:

  1. Hòa thượng Tuệ Chiếu
  2. Hòa thượng Liễu Nhiên ở Bảo đà (hai vị không ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Xướng ở Bảo lâm, có hai vị:

  1. Thiền sư Diệu Cơ ở Hộ quốc
  2. Thiền sư Đức Quán ở Hưng hóa (hai vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tuệ ở Bảo lâm, có hai vị:

  1. Thiền sư Lương Độ ở Tường phù
  2. Thiền sư Đức Tế ở Tuyên hóa (hai vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nguyệt ở Thừa thiên, có hai vị:

  1. Thiền sư Trọng Nhan ở Thừa thiên (hiện có ghi lục)
  2. Thiền sư Giới Phong ở Hộ quốc (hiện không ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Ấn ở Quang hiếu, có một vị:

  1. Thiền sư Bản Nhiên ở Đông lâm (hiện không ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Khâm ở Phổ chiếu, có một vị:

  1. Thiền sư Khả Văn ở Vĩnh an (hiện không ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Văn ở Tịnh phước, có hai vị:

  1. Thiền sư Tạng ở Tịnh quang
  2. Hòa thượng Thạch Tháp ở Dương châu (hai vị không ghi lục).

 

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ MINH Ở TỊNH TỪ

1. Thiền sư Tượng ở Tịnh từ.

Thiền sư Tượng ở Tịnh từ tại phủ Lâm an, vốn người xứ Sơn âm, Việt châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Một mạc che ở mắt, hoa đốm không trung rơi loạn xạ”. Sư nắm cây gậy, tiếp bảo: “Tịnh Từ nắm dậy cây gậy há chẳng phải một mạc che ở mắt. Trăm ngàn chư Phật tất cả đều ở trên đầu cây gậy, hiện thân sắc màu vàng tía cao trượng sáu, há chẳng là hoa đốm giữa không trung rơi loạn xạ. Tức nay chớ có hướng đến lúc cây gậy chưa nắm trở về trước trước dứt được chăng? Ra lại cùng Tịnh Từ thấy xem? Nếu không rất kỵ hướng đến nơi không trung vốn không hoa đốm, mắt vốn không mạc che đặt nhằm đến”. Và Sư bèn ném cây gậy một cái rồi xuống khỏi tòa.

2. Thiền sư Long ở Tuyết phong.

Thiền sư Long ở Tuyết phong ở Phước châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Một chẳng thành hai, chẳng phải miệng ăn cơm, mũi ra hơi, thôi bảo Bắc đẩu tàng thân, nói nhằm lỗ mũi Ba Ba ở Nam sơn, của cải chuyển ra mặc giao ngoài cửa, khuyên ông chớ tranh lợi đầu dùi”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HÒA Ở TRƯỜNG LÔ

1. Thiền sư Đạt Châu ở Cam lồ.

Thiền sư Đạt Châu ở Cam lồ tại phủ Trấn gian, vốn người ở Phước châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Thánh hiền chẳng phân xưa nay chỉ một. Có thể chỉ lửa đến bếp, nước đến ướt, đục giếng mà uống, cày ruộng mà ăn. Đại chúng! Vương Lão ở Đông lâm đi chẳng về, rối rắm lá vàng giữa trời rơi lộn xộn”.

2. Thiền sư Tuệ Thuần ở Linh ẩn.

Thiền sư Tuệ Thuần – Viên Chiếu ở Linh ẩn tại phủ Lâm an. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Tâm tôi tợ trăng thu, đầm biếc trong sáng sạch”. Sư mới hét một tiếng, tiếp bảo: “Câu thoại Hàn Sơn tử rơi rồi vậy. Các Thiền đức! Sáng sạch không mảy trần, há trăng trung thu có thể sánh. Rỗng sáng tuyệt đối đãi, chẳng thể chân ngọc soi chiếu có thể thường, chạm bày càn khôn sáng suốt vạn tượng, khắp trời cùng đất, sáng xưa vượt nay, hãy nói là cái gì?” Ngưng giây lát, Sư bảo: “Đêm nay một vầng trăng tròn đầy trong sáng nơi nào không”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TUỆ Ở TUYẾT PHONG

1. Thiền sư Đạo Xướng ở Tịnh từ.

Thiền sư Đạo Xướng – Nguyệt Đường ở Tịnh từ tại Hàng châu, vốn người dòng họ Ngô ở Hồ châu. Có vị Tăng hỏi: “Lúc đại dụng hiện tiền chẳng còn khuôn phép thì như thế nào?” Sư đáp: “Anh em nhà họ Trương rất không tốt”. Lại hỏi: “Nghĩ gì thì tất cả các nơi đều phải đi?” Sư đáp: “Chớ đường đột người tốt”. Lại hỏi: “Tâm sinh thì pháp sinh, tâm diệt thì pháp diệt, chỉ như lúc tâm pháp đều quên, sinh diệt tại nơi nào?” Sư đáp: “Tay trái được lại, tay phải dùng”. Lại hỏi: “Thế nào là việc từ trong cửa Thượng tông?” Sư đáp: “Một mẫu đất”. Lại hỏi: “Tiện lúc nghỉ hợp thì thế nào?” Sư đáp: “Chôn lấp chẳng ít”. Lại hỏi: “Thế nào là bản nguyên của chư Phật?” Sư đáp: “Ở đầu nhà hỏi đường đi”. Lại hỏi: “Hướng thượng lại còn có việc gì không?” Sư đáp: “Ném gạch dưới trăng”. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Chưa thấu cửa Tổ sư, ngàn khó cùng muôn khó, đã thấu cửa Tổ sư, ngàn khó cùng muôn khó. Lúc chưa thấu, khó tức tạm đặt để đó, còn lúc đã thấu rồi, nhân gì khó không buông xuống? Vợt tre tuy được giá, nhưng động cán thìa khác cũng không đầu mối”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Cho ta tương tợ cùng ngươi vô duyên, đánh ngay ấm thuốc nghiêng ra lò khói, trả lại một viên đạn rõ ràng, lưu lạc trong nhân gian đã mấy năm? Ôi!” Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Nhạn bay ngang trời bóng chìm sông lạnh, nhạn không có gì lưu vết, sông không lưu tâm giữ ảnh. Nếu hay như thế, chánh là khéo bán giày cỏ đi chân không. Do đó nói: “Động thì ảnh hiện, giác thì băng sinh. Chẳng động chẳng giác chánh là chết tại trong nước. Lão nhân tiến phước là đầu chẳng được, tức tạm đặt để đó. Còn ngày nay Dục vương lại làm sao sống? Ra ngỏ chớ đi đường dưới núi, ít nghe vượn hú tiếng đứt lòng!” Nhân đầu năm, lên giảng đường, Sư nắm cây phất trần và bảo: “Đầu năm nắm bút, muôn sự đều tốt, bỗng có gã tài giỏi ra nói Hòa thượng: Cái ấy là ba nhà trong thôn Bảo chánh ghi, nơi cửa làm gì tương lai, trên tòa hoa vương sẽ làm Tông thừa, chỉ hướng kẻ khác nói trâu dâng ngàn con, ngựa vào trăm xấp”.

2. Thiền sư Liễu Nhất ở Kính sơn.

Thiền sư Liễu Nhất – Chiếu Đường ở Kính sơn tại phủ Lâm an, vốn người ở Ninh châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Bậc sĩ tham Huyền xúc cảnh gặp duyên, chẳng thể ngay đó thấu thoát, bởi vì nghiệp thức sâu nặng, vọng tình bền chặt. Sáu cửa chưa dứt một nơi chẳng thông, dứt điểm thuần trang, hàm sinh khó đến. Ngay phải vào rừng không động cỏ, vào nước không động sóng, mới có thể thuận dòng sinh tử, vào trong nhân gian. Các người cần hiểu không?” Sư nắm cây gậy họa một đường, tiếp bảo: “Chỉ hướng trong đó dâng tiến lấy”.

3. Thiền sư Liễu Tâm ở Kim sơn.

Thiền sư Liễu Tâm ở Kim sơn tại phủ Trấn giang. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Một chữ Phật ai nói là không, ngựa gỗ trâu đất đầy khắp đường, tựa khắp lan can sắc xuân muộn, gió biển thổi dứt san hô biếc. Lại có người đồng tương ứng đồng khí tương cầu chăng? Trăm chim không lại lầu các đóng, chỉ nghe mưa đêm giọt tàu chuối”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGUYỆT Ở HƯƠNG NGHIÊM

1. Thiền sư Như Bích ở Hương nghiêm.

Thiền sư Như Bích – Ỷ Trùng ở Hương nghiêm tại Đặng châu. Vốn người dòng họ Nhiêu ở phủ Châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Biến hóa kín dời nào rất gấp, sát-na niệm niệm một hơi thở, tám vạn bốn ngàn môn Phương tiện. Hãy nói môn nào chẳng thể vào? Vào chẳng vào sáng đến mưa đánh ướt lá chuối. Ân cần lại hỏi có người nào ngoài cửa rõ ràng cùng đứng đối mặt nghe tiếng chim mổ gỗ”. Sư lại nói bài kệ rằng:

“Cốc, cốc, cốc mặt trong có trùng mặt ngoài mổ
Ít nhiều người mênh mông ngủ gật
Sau đánh một dùi còn chưa tỉnh
Nếu không tỉnh, lại nghe sơn Tăng cốc, cốc, cốc”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THÂM Ở TUỆ LÂM

1. Thiền sư Tuệ Quang ở Linh ẩn.

Thiền sư Tuệ Quang – Tịch Thất ở Linh ẩn tại phủ Lâm an, vốn người dòng họ Hạ Hầu ở Tiền Đường. Có vị Tăng hỏi: “Bay lại sắc núi hiện bày pháp thân tịnh, hợp tiếng khe suối phô diễn tướng lưỡi rộng dài, chánh ngay lúc ấy thế nào là một khúc nhạc của Vân Môn?” Sư đáp: “Mưa canh ba trên ngọn lá chuối”. Lại nói: “Một câu toàn nêu vượt Phật tổ, đầy tòa đỏ tía đều tri âm”. Sư bảo: “Gặp người không được cử thố”. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Chẳng dùng cầu chân, nào phải dứt thấy, cưỡi ngựa trâu chừ vào điện Phật, một tiếng sáo khương trời đất trống, chẳng biết ai hay mặt Cù-đàm”.

2. Thiền sư Diệu Ấn ở Quốc.

Thiền sư Diệu Ấn – Ngu Cốc ở Quốc tại Đài châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Đầy miệng nói được đến cùng, vì gì chẳng biết có? Mười phương biết có đến cùng, vì gì đầy miệng nói chẳng được? Hãy nói dối trá ở nơi nào? Nếu cũng biết được, thì hứa cho ngươi chiếu dụng đồng thời, sáng tối đều rõ. Còn như chưa được vậy, nói được và nói chẳng được, biết có và chẳng biết có. Trùng lớn ở Nam sơn thạch hiểu biết làm sư tử rống”.

3. Thiền sư Phổ Thiệu ở Quốc.

Thiền sư Phổ Thiệu Thùy Từ ở Quốc rại Đài châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Linh vận ngộ hoa đào, Huyền sa bên cạnh chẳng chịu, ít nhiều Hòa thượng ngu, vác tuyết lấp bít giếng xuân nay hoa lại nở. Ý này ai hay hiểu? Đích thực ít người biết, hoa rơi gió xuân lắng”.

4. Thiền sư Tuệ Thúy ở Cửu tòa.

Thiền sư Tuệ Thúy ở Cửu tòa tại Tuyền châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Ngày nay cửu tòa hướng lên tột đỉnh Cô phong. Cưỡi một chiếc thuyền sắt, cắt đứt cốt yếu của mọi người trong thiên hạ. Dạy cho kẻ khác chống sào quẩy mái chèo. Chẳng được có cái nêu gấm con. Hãy nói nơi nào trong tay người?” Sư bèn nắm cây gậy, tiếp bảo: “Nhìn nhìn hướng đạo là Long cương, chẳng tin. Đẳng nhàn đoạt lấy được mới dâng tiến người”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHIÊN Ở BÁO ÂN

1. Thiền sư Nguyên ở Tư Thánh

Thiền sư Nguyên ở Tư Thánh tại Tứ châu. Có vị Tăng hỏi: “Sen vàng tía nâng chân Thiên luân, ánh bạch ngọc tỏa thân muôn đức. Thế nào là Phật?” Sư đáp: “Kéo súng mang giáp”. Lại hỏi: “Xâu hoa ngàn kệ tuy khác phẩm. Nêu Nguyệt lại về Lý nhất như. Thế nào là pháp?” Sư đáp: “Nguyên phong điều lệnh Thiệu Hưng”. Lại hỏi: “Dưới rừng Nhã làm khách phương ngoài, giữa đời làm được khách trong lò. Thế nào là Tăng?” Sư đáp: “Đắp chiếu nắm bát”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HẢI Ở TUỆ LÂM

1. Thiền sư Thọ Kiên ở Vạn sam.

Thiền sư Thọ Kiên ở Vạn sam tại Lô sơn, vốn người ở Tướng châu. Nhân đầu năm lên giảng đường, Sư bảo: “Có một người chẳng đưa năm cũ chẳng đón năm mới. Lạnh nóng chẳng hay xâm lấn thể ấy. Phàm Thánh chẳng thể lẫn lộn vết ấy. Từ xưa trước lại lỗ mũi xa trời, ai quản nhiều năm lắm ngày, đại chúng hãy nói người ấy hiện nay ở nơi nào?” Sư gõ cây gậy một cái, tiếp bảo: “Ôi! Ôi! Ôi! Lấp chìm nơi đi!”

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TÔNG Ở KHAI TIÊN

1. Thiền sư Duy Sơ ở Hoàng nghiệt.

Thiền sư Duy Sơ ở Hoàng nghiệt tại Thụy châu, vốn người dòng họ Thái ở Thường châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Đại ca Tông (Thiền sư Tông), lúc bình sinh cảo điểm ngồi cao, chỗ gọi là hình hài cây khô chưa từng ầm ỷ khóc miệng đem lời của Phật tổ chỉ dạy cho học trò. Chỉ cần mọi người hết được mười thành, tự nhiên chẳng hướng trên vỏ ấy rò rỉ dính đến”. Có vị Tăng hỏi: “Đã chẳng hướng trên vỏ ấy rò rỉ dính đến, chưa xét rõ làm sao bảo nhậm?” Sư đáp: “Không có nơi cho ông dụng tâm”. Lại hỏi: “Há Hòa thượng không chỉ phương tiện?” Sư đáp: “Sấy bánh đã không nước, ép cát nào có dầu”.

2. Thiền sư Hải ở Nhạc lộc.

Thiền sư Hải ở Nhạc lộc tại Đàm châu. Có vị Tăng hỏi: “Lúc tiến tới trước ba bước thì như thế nào?” Sư đáp: “Lắc đầu gật trán”. Lại hỏi: “Lúc thối lùi ba bước thì như thế nào?” Sư đáp: “Rơi hầm rớt hố”. Lại hỏi: “Lúc chẳng tiến tới chẳng thối lui thì như thế nào?” Sư đáp: “Là thứ đứng nơi đất mà chết”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DIỄN Ở TUYẾT PHONG

1. Thiền sư Tuệ Thuấn ở Tây thiền.

Thiền sư Tuệ Thuấn ở Tây thiền tại Phước châu, vốn người ở ở phủ Chân định. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Năm ngày một lần tham, ba tám nói khắp cùng, ngàn nói muôn nói ngang nói dọc nói, bỗng có gã tài giỏi ra nói, nói tức chẳng không, tránh làm sao hai cái đầu ba cửa chẳng chịu. Sơn Tăng tức hướng kẻ ấy nói đồ gã mù, nếu chẳng được hai cái kia, Tây thiền rất tợ chẳng gặp được tri âm”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ LIỄU Ở TRƯỜNG LÔ

1. Thiền sư Tông Giác ở Thiên đồng.

Thiền sư Tông Giác ở Thiên đồng tại Minh châu. Có vị Tăng hỏi: “Thế nào là đạo?” Sư đáp: “Đầu đường ngã tư thôi gọt trán”. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Kiếp trước vận bước dàn ngang thân ngoài đời, khéo hợp không thể để ý đến, thật chứng không thể dùng lời truyền, ngay được kiểm hơi rỗng lắng, mây trắng hướng đến hang lạnh mà dứt. Linh quang phá mờ tối, trăng sáng theo thuyền đêm mà lại, chánh lúc ấy làm sao sống giẫm bước? Thiền chánh chẳng từng lìa bản vị, tung hoành nào can thiệp nơi nhân duyên”.

2. Thiền sư Diệu Giác ở Trường lô.

Thiền sư Diệu Giác – Tuệ Ngộ ở Trường lô tại Chân châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Khắp đại địa là cái giải thoát môn, nắm tay kéo chẳng chịu vào. Lão Hán Tuyết Phong đè ép người làm gì? Đã đến trong ấy, vì gì lỗ mũi nằm trong tay người khác?” Ngưng giây lát, Sư bảo: “Tham nhìn trăng trên trời mất ngay cây cong trong tay”. Có vị Tăng hỏi: “Nhạn bay giữa trời ảnh trầm sông lạnh, nhạn không có ý lưu vết, sông không có tâm lưu ảnh. Lại có đích xác vậy không?” Sư đáp: “Hoa lau hai bờ tuyết, sông nước một trời thu”. Lại hỏi: “Lúc tiện nghĩ gì đi thì thế nào?” Sư đáp: “Nhạn bay vút giữa trời”. Vị Tăng ấy phỏng bàn nghị. Sư bảo: “Nạp Tử linh lợi”.

3. Thiền sư Nghĩa Sơ ở Quy sơn.

Thiền sư Nghĩa Sơ ở Quy sơn tại Phước châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Lâu im lặng cốt yếu ấy chẳng chuyên nhanh nói. Thíchca Lão Tử ngủ nói mớ làm gì? Nay ta vì các ngươi bảo nhậm việc ấy thật không hư dối, rất tợ nhằm chán tốt làm xấu. Đã chẳng nghĩ gì, rốt cũng như thế nào?” Mây trắng trùm đỉnh núi, sắc tía chuyển cao vời.

4. Thiền sư Hưng Dự ở Bảo ninh.

Thiền sư Hưng Dự ở Bảo ninh – Kiện khương. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Bước vào Đạo tràng ảnh động Tông giám, rực rỡ muôn sao đêm tạnh, tươi mươi hoa nhả thời xuân, người gỗ ngầm chuyển vận, hóa cơ mảy may không choáng váng. Thạch nữ toàn nâng, giữa không in đường vân rất rõ. Hãy nói chẳng một chẳng khác, không đi không lại, hợp làm gì sống thể hết thảy, đích xác tung hoành đều diệu dụng, Ta đây vốn cung kính trong lại”.

5. Thiền sư Pháp Thông ở Bắc sơn.

Thiền sư Pháp Thông ở Bắc sơn tại Chân châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Nuốt hết ba đời đến tận cùng, vì gì mở miệng không được? Chiếu soi khắp bốn thiên hạ đến cùng, vì gì mở mắt không được. Làm sao sống được mười thành thông sướng đi, kim châm hai khóa đầy hợp, ẩn hiển toàn gồm”. Có vị Tăng hỏi: “Dứt ngôn ngữ, tuyệt nơi tư duy, xin Sư chỉ dạy?” Sư đáp: “Nước giọt không vào đá”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ GIÁC Ở THIÊN ĐỒNG

1. Thiền sư Tự Tông ở Tuyết đậu.

Thiền sư Tự Tông ở Tuyết đậu tại minh châu, vốn người dòng họ Trần ở Huy châu. Từ thủa nhỏ sư tập học kinh điển, đến sau khi thọ giới Cụ túc, Sư đến nương tựa Thiền sư Tuệ. Diệu Trạm tham hỏi, quyết trạch bèn được khế ngộ, Thiền sư Tuệ trao cho cây phất trần. Về sau, Sư lại đến bái yết Thiền sư Hoằng Trí và được ấn chứng, đạo phong càng được tôn quý. Đến lúc ra hoằng hóa, Sư ở Phổ chiếu, Thiện quyền, Thúy nham, Tuyết đậu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Mỗi người có cái lỗ mũi, chỉ riêng Thiện Quyền không có lỗ mũi, vì gì không? Bởi năm trước bị người kéo rơi rồi. Mỗi người có hai tròng mắt, riêng Thiện Quyền không có cái tròng mắt. Vì gì không? Bởi bị người Mộc Hoạn đổi thay rồi. Mỗi người có cái đầu lâu, chỉ riêng Thiện Quyền không có đầu lâu, vì gì không? Bởi nhờ người làm gáo đựng nước tiểu rồi”. Xong, Sư bèn gọi đại chúng và bảo: “Lỗ mũi lại không, tròng mắt lại không, đầu lâu lại không. Vật các người có biệt Thiện Quyền chăng? Nếu cũng không biết, là các người chôn vùi Thiện Quyền. Nếu chưa như vậy, thì nên nghe một bài tụng:

“Đáy khe trâu đất vàng thếp mặt,
Thạch nữ trên núi mặc màu hồng,
Trên cọc buộc lừa mọc cỏ thơm,
Chẳng phải mây ùn ngọn Hương lô”.

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Thúy nham không phải không nói, chỉ vì không cái thời tiết, sáng nay khoái tiện khó gặp, một câu vì ông bổ quyết. Lộ trụ vốn là đầu gỗ, dùi cân chỉ từ sắt sinh. Các người nếu đến mọi phương chớ nói sơn Tăng nhiều lời”. Có vị Tăng hỏi: “Lúc hoa sen chưa ra khỏi nước thì như thế nào?” Sư đáp: “Vùi lấp ngay lỗ mũi ông”. Lại hỏi: “Sau khi đã ra khỏi nước thì thế nào?” Sư đáp: “Xuyên nhằm tròng mắt ông”. Lại hỏi: “Thế nào là Chánh pháp nhãn?” Sư đáp: “Đậu đen”. Lại hỏi: “Thế nào là vua?” Sư đáp: “Cối mài kiếm ba thước, đợi chém người bình sinh”. Lại hỏi: “Thế nào là Tôi?” Sư đáp: “Mây trắng nhàn chẳng suốt, đèn nước rất bận sinh”. Lại hỏi: “Thế nào là vua tôi đạo hợp?” Sư đáp: “Mây đi mưa đổ trăng ngời sao sáng”. Lại hỏi: “Thế nào là Thiên trong chánh?” Sư đáp: “Hoa quỳ chưa chiếu trước”. Lại hỏi: “Thế nào là chánh trong thiên?” Sư đáp: “Đoàn loan không thiếu thừa”. Lại hỏi: “Thế nào là lại trong chánh?” Sư đáp: “Khắp nơi tuyệt bụi trần”. Lại hỏi: “Thế nào là đến trong liêm?” Sư đáp: “Công cắn nhọn trước đùa”. Lại hỏi: “ Thế nào là đến trong liêm?” Sư đáp: “Mười đường tin tức chẳng thông”. Lại hỏi: “Thế nào là chuyển công đến vị?” Sư đáp: “Buông tay không nương tựa toàn thể hiện. Thuyền con ngư phụ ngủ hoa lau”. Lại hỏi: “Thế nào là chuyển vị đến công?” Sư đáp: “Nửa đêm đầu nhọn gió trăng lắng, một tiếng vượn già lui cây cao”. Lại hỏi: “Thế nào là công vị đều rõ ràng?” Sư đáp: “Ra cửa chẳng đạp đường lúc lại, đầy mắt bụi bay tuyệt chấm trần”. Lại hỏi: “Thế nào là công vị đều ẩn?” Sư đáp: “Ngựa đá móc yến chẳng chuyển đầu”. Sư thị tịch tại Bản sơn, dựng tháp an táng toàn thân tại góc Tây nam của chùa.

2. Thiền sư Pháp Trí ở Thiện quyền.

Thiền sư Pháp Trí ở Thiện quyền tại Thường châu, vốn người dòng họ Bá ở Thiểm phủ. Vừa tuổi tráng niên, Sư đến nương tựa chùa Thánh quả ở Tây kinh, xuất gia, tập học kinh Hoa Nghiêm. Sau giã từ đó, Sư đến bái yết Thiền sư Cẩn ở Nam dương, tiếp lại đến bái yết Thiền sư Trí ở Đại hồng, qua hơn mười năm mà không sở chứng. Sau nhân dười lời chỉ dạy của Thiền sư Hoằng Trí (Thiền sư Giác) mà Sư rõ suốt. Đến lúc ra hoằng hóa, Sư ở Thiện quyền, rồi chuyển dời đến Kim Lật. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Trăng sáng treo cao chưa chiếu trước, mày tuyết người tựa lan can ngọc. Đêm sâu mưa qua gió sấm dứt, khách tan mây lầu rưới chén khô”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Ba cõi không pháp, cầu tâm nơi nào? Rắn sợ vào cỏ, chim bay ra rừng, mưa qua núi nhà đêm thu lắng, tiếng chợ ồn chẳng đến núi cao”.

3. Thiền sư Tuệ Huy ở Tịnh từ.

Thiền sư Tuệ Huy – Tự Đắc ở Tịnh từ tại Hàng châu. Vốn người dòng họ Trương ở Cối kê. Thủa nhỏ, Sư đến nương tựa Thiền sư Đạo Ngưng – Trừng Chiếu, xuất gia, thọ giới Cụ túc. Năm hai mươi Sư đến tham hỏi Thiền sư Chân Hiết ở Trường lô, hơi có chút sở chứng, Sư trở về lại quê, bái yết Thiền sư Hoằng Trí (Thiền sư Giác). Thiền sư Giác nêu cử: “Đang trong sáng có tối chẳng vì tối cùng gặp. Đang trong tối có sáng, chẳng vì sáng cùng thấy” hỏi Sư. Sư đáp không khế hợp, vừa mới đầu đêm, Sư định trở về đốt hương trước Thánh tăng, mà Thiền sư Giác cũng vừa đến đó, Sư trông thấy bèn rõ suốt câu thoại trước. Ngày hôm sau vào thất, Thiền sư Giác nêu cử: “Kham thán ngày đi dáng như ngọc, kham thán lúc về tóc tợ sương” hỏi Sư. Sư đáp: “Kia vào lìa, kia ra nhỏ”. Từ đó, hỏi đáp không ngưng trệ. Thiền sư Giác hứa thuận Sư là Chân tử trong thất.

Năm Đinh Tỵ (1137) thuộc trong niên hiệu Thiệu Hưng (11311163) thời Nam Tống, Sư ra hoằng hóa, khai đường giảng pháp tại Bổđà, rồi đổi dời đến Vạn thọ, Cát tường, Tuyết đậu. Đến năm Thuần Hy thứ ba (1176) thời Nam Tống, Sư có được sắc chiếu bổ nhậm ở Tịnh Từ. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Gió Bắc rét run quét rừng lạnh, lá rơi về cội bày lòng son, muôn phái Triều Tông thuyền đến bờ, sáu cửa rỗng sáng giới đầu châm, vốn thành hiện chớ tìm nơi khác, tánh địa rỗng rang sáng xưa nay. Ngoài cửa lạnh tiêu động sắc xuân, bốn núi lẫn làm rồng gỗ ngâm”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Thích-ca Lão Tử cùng Lý hết tánh, từ kim khẩu tuyên bày giáo phát, suốt một đời, chân xoay ngọc chuyển, bị người gọi là giấy cũ lau chùi bất tịnh. Tổ sư Đạt-ma, đem giáo pháp Nhất thừa, chỉ thẳng riêng truyền, suốt chín năm ngồi xoay mặt vách tường, chẳng lập văn tự, bị người gọi là Bà-la-môn quán nhìn tường vách. Hãy nói làm sao sống giẫm trải mà khỏi bị người bên cạnh chỉ nêu chú bày, nạp choàng trùm đầu, muôn sự thôi nghỉ. Khi ấy sơn Tăng đếu chẳng biết”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Ổ biết gió, hang biết mưa. Ngọt thì ngọt chừ, đắng thì đắng, chẳng cần tính sánh lại suy lường, năm lần năm xưa nay là hai mươi lăm (5.5 = 25). Muôn ban thi thiết đến bình thường. Đây là tùng lâm no đủ câu tham.

Các người có ủy thác chăng? Lão già miền quê không biết sức Nghiêu Thuấn, tung tung trống đánh tế thần sông”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Thấn của cốc, yếu của xu, trong ấy hẹn tựa tham xoay đường đắc diệu, mây tuy động mà thường nhân, trăng tuy mờ mà càng chiếu. Khách chủ giao tham, chánh thiên liêm đáo. Mười châu xuân mãn hoa điêu tàn, cây rừng san hô mặt nhật tỏ sáng”.

Có vị Tăng hỏi: “Thế nào là thiên trong chánh?” Sư đáp: “Mây trùm đỉnh núi trọn chẳng vày cao vợi”. Lại hỏi: “Thế nào là lại trong chánh?” Sư đáp: “Chớ cho là cá côn các kình không lông cánh, ngày nay theo đường chim bay lại”. Lại hỏi: “Thế nào là đến trong liêm?” Sư đáp: “Ứng không dấu, dụng không vết”. Lại hỏi: “Thế nào là đến trong liêm?” Sư đáp: “Người đá mặc áo sam phá đại địa vùi chôn người mặc áo vá”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Da dẻ mở rơi dứt tuyệt các phương góc, rõ ràng thân tâm một vật không, khéo vào trong Đạo nơi sâu lắng, người ngọc ngồi ngay cưỡi xe trâu trắng, khéo rành đất ruộng bậc Đạt giả trở về hiếm ít. Biết tình chẳng đến, chỉ chứng mới hay. Vầng mây trắng linh tinh tự chiếu, gò núi xanh vời vợi thường còn. Cơ phân sau đảnh sáng, trí hợp mắt kiếp trước. Do đó mà nói đường Tân phong chừ cao vợi mà sạch, động Tân phong chừ lắng trong trút rót. Người lên lên chừ không lay động, người đi đi chừ chẳng vội nhanh. Sân nhà tuy có mà hiếm người đến, rừng suối chẳng nuôi lớn cây tầm thường. Chư vị Thiền đức! Hướng thượng một trứ, tôn quý khó rõ, trên điện lưu ly chẳng xưng tôn, trước rèm phỉ thúy lại hợp bạn. Chánh cùng lúc nào kim chỉ xỏ thông, chân tông chẳng rơi lạc. Hợp làm sao sống mà thi thiết. Đầy đầu tóc bạc lìa hang cốc, nửa đêm xuyên mây vào chợ ồn náo”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử bài tụng pháp thân của Phó đại sĩ, bảo là:

“Tay không nắm cái bừa,
Bước bộ cưỡi trâu nước,
Người theo trên cầu qua,
Cầu chạy nước chẳng chảy”.

Đại sư Vân Môn nói: “Các người từ Đông lại Tây lại Nam lại Bắc lại, mỗi mỗi đều cưỡi một con trâu nước lại. Tuy là như vậy, nhưng ngàn đầu muôn đầu, chỉ cần biết lấy một cái đầu ấy”. Và Sư bảo: “Vân Môn bình thường khô cháy đất táo, dùi bổ chẳng vào, đến trong ấy cũng kéo đất mang nước. Các người ngày nay chỉ cần muốn thấy một cái đầu ấy chăng? Sắc trời hơi lạnh mỗi tự về nhà”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử câu thoại về gió và Phan, Sư bảo: “Nơi gió phan động nhằm bị cái mắt tức là Thượng tọa. Nơi gió phan động mất ngay. Cái mắt tức là gió và phan. Nếu chưa như vậy, chẳng phải là gió và phan chẳng phải là tâm. Nạp Tăng nhọc tự gắng dùi châm, hang phòng mưa qua khói tối sạch, nhằm nghe gió mát sinh rừng trúc.

Mùa Thu năm Thuần Hy thứ bảy (1080) thời Nam Tống, Sư lui trở về ở Tuyết đậu. Đến nửa đêm 29 tháng 11 năm Thuần Hy thứ mười (1183) thời Nam Tống, sau khi tắm rửa, Sư an nhiên thị tịch, an táng toàn thân tại phía hữu tháp Thiền sư Giác Minh.

4. Thiền sư Pháp Cung ở Thụy nham.

Thiền sư Pháp Cung – Thạch Song ở Thụy nham tại Minh châu, vốn người dòng họ Lâm ở quận Chi, Sư xuất gia, thọ giới Cụ túc tại viện Thê chân. Đến dưới pháp tịch Diên Khánh, một đêm nọ trì tụng kinh Pháp Hoa đến câu “Mắt cha mẹ sinh ra, thấy khắp ba ngàn cõi”. Khi ấy nghe tiếng gió xé cắt lá cây tông lư, bỗng nhiên Sư có sự tỉnh ngộ. Giã từ đó, Sư đến nương tựa Thiền sư Giác ở Thiên đồng mới tỏ rõ đại chỉ. Phàm những vị hoằng pháp ở đương thời đều đến đó tham phỏng quyết trạch. Đến lúc ra hoằng hóa, Sư ở các nơi Năng nhân, Quang hiếu, Thụy nham. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Gió xuân mày dương liễu, chim xuân múa trăm lời, một mảnh tâm Tổ sư, hai nơi đều rò rỉ, chẳng động bước về nhà, tập lậu chóng tiêu diệt. Tối ném chỉ ngọc xa, sáng xâu hang kim vàng. Sâu hẳn thật xa tối, không người ai rành riêng, hổ thẹn đáng thương sống, mỗi mỗi đều ngậm vết, chẳng niệm A-di-đà, Nam Mô chuồng phẩn khô. Trước người ngu vô trí, thứ nhất chẳng được nói”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Thấy được dấu vết lúc dùng thân thiết, đồng gặp đều là trong mỗi người, nhìn trời mưa báu thôi khoe giàu, không đắc đặt dùi chưa phải nghèo. Đạp nhằm dùi cân cứng tợ sắt. Tám lạng xưa nay là nửa cân. Có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử Công án về Đức Thế Tôn lúc đản sinh một tay chỉ lên trời một tay chỉ xuống đất, mà nói bài tụng rằng:

“Một mũi tên cỏ khô Tây vức,
Quẩy động trăm muôn lính Chi-na,
Chẳng được Vân môn hành lệnh chánh.
Bao giờ lầm nhận định bàn Tinh”.

5. Thiền sư Pháp Chân ở Thạch môn.

Thiền sư Pháp Chân – Lương ở Thạch môn tại Tương châu. Vốn người xứ Kiếm môn. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Sắc liễu ngậm khói vẽ xuân chóng đẹp, một núi cao vợi muôn cỏ tranh thơm, mây trắng dạt bùn đã vô tâm, tràn mắt núi xanh vốn chẳng động, ngư ông buông duỗi cần câu một khe lạnh tuyết chưa từng tiêu. Qua đồng trống không người, muôn xưa đầm biếc trong tợ kiếng. Trong khách có chủ, treo gậy giăng ngang khêu vầng nhật nguyệt. Trong chủ có khách đạp phá giày cỏ chạy chân không, ngay được khách chủ cùng lộ bày, sống chết tự do, Lý sự dung thông, chánh thiên không trệ. Vào ruộng hoang không chọn lựa, thư tay nắm lại thảo. Hãy nói úy thác như thế nào, trong mảy trần tuy có thuật ẩn thân, sao tợ toàn thân vào đất vua”.

6. Thiền sư Tư Triệt ở Quang hiếu.

Thiền sư Tư Triệt – Liễu Đường ở Quang hiếu tại minh châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Xe con đầu dê đẩy nhật nguyệt, thuyền con chìm đáy chở gió sớm mai. Một câu chóng vượt tình ngoài lượng, đạo không Nam Bắc lẫn Đông Tây. Bởi vì tin tức kiếp trước chẳng phải do tai miệng tuyên truyền, khuôn phép cách ngoại há nghĩ lường có thể hiểu. Phải nên biết Phật Phật tổ Tổ không một pháp vì người, con con cháu cháu ngay đó toàn thân mang đội. Đã là muôn cơ dứt hết, tự nhiên một mảy vỏ chẳng còn. Sóng lắng lặng nước biếc lạnh ngâm sắc thu, sáng linh linh trời tạnh tẩy sạch băng luân, uyển chuyển bàng tham hợp thông gần dãi mộng, tay đầy mở cửa ngọc, vụt thân đánh động cơ luân, chánh lệnh mới thực hành, lại thấy một vầng dương máy động, hóa công ngầm vận, vụt chốc kinh động ba đời biến đổi. Tuy là nín im vậy; không lời, vì sao Nhiên Đăng thường nói không đổi dời không biến chuyển, sáng nay nắm đặt một bên, có cũ có mới, hãy nói thế nào câu thoại hiểu? Các người có ủy thác chăng? Các âm tiêu dứt hết, hôm sau là mây ngày”.

7. Thiền sư Pháp Vi ở Đại hồng.

Thiền sư Pháp Vi ở Đại hồng tại Tùy châu, vốn người dòng họ Bảo ở Thiên thai. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Pháp thân vô tướng, không thể dùng âm mà tìm cầu. Diệu Đạo vong ngôn, không thể dùng văn tự để hội hiểu. Giả sử vượt Phật vượt Tổ còn rơi lạc thềm cấp, ngay như nói Diệu đàm huyền trọn treo môi mép. Phải là công huân chẳng phạm, ảnh vết chẳng còn, cây khô hang lạnh lại không còn tươi nhuần. Người huyễn ngựa gỗ, tình thức đều không mới có thể duỗi tay vào chợ, chuyển thân đến khác loài. Há chẳng thấy nói trong nước vô lậu lưu giữ chẳng ở, tức lại ngoài ổ khoái nằm cát lạnh”.

8. Thiền sư Lâm ở Trường lô.

Thiền sư Lâm ở Trường lô tại Chân châu. Có lúc lên giảng đường,

Sư nắm cây gậy, bảo: “Tông ấy cũng lìa tâm ý thức, chỉ ấy cũng vượt xưa lại nay. Lìa tâm ý thức nên phẩm muôn loại chẳng thấy sai biệt, vượt xưa lại nay nên khắp mười phương lại không rò rỉ, đương đầu chẳng phạm, suốt đáy không nương. Ngộ hướng điềm hiện chưa sinh trở về trước, dụng ở công huân nơi chẳng phạm, kế sống bình thường chẳng dùng do dự, ngay khoảng phỏng nghị tức đắm chìm giao thiệp”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DỰ Ở ĐẠI HỒNG

1. Thiền sư Ngộ ở Tuệ lực.

Thiền sư Ngộ ở Tuệ lực tại Lâm giang quân. Lỗi lầm Sư bảo: “Hết thảy âm là Phật , ngoài rèm giọt mưa thấm lạnh lạnh, hết thảy hình sắc là Phật sắc, trông mặt cùng bày không kỵ chẳng được, tiện nghĩ gì nếu làm sáng tỏ, trời biếc ngoài mây trăng hoa đẹp.

2. Thủ tòa Tuệ Thâm ở Tuyết phong.

Thủ tòa Tuệ Thâm ở Tuyết phong tại Phước châu, có lúc, Sư chỉ dạy đại chúng rằng: “Chưa được vào đầu nên tha thiết, vào đầu đã được phại dạy suốt. Tuy là được vào vốn không không, chớ giữ không không không gian hết”. Thiền sư Dự nghe thế, bảo: “Muốn phục huynh nói Thiền như thế, tiếc rằng phước duyên không được ưu thắng!” Một ngày nọ, Sư dạy bảo chúng hoàn tất, viết bài kệ giã từ đại chúng, xong, ném bút, vỗ một cái, rồi Sư thị tịch.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ QUY Ở THIÊN PHONG

1. Thiền sư Thông Lý ở Đông lâm.

Thiền sư Thông Lý ở Đông lâm tại Giang châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Đầu non cưỡi thuyền sắt, canh ba mặt nhật lên, tâm nhàn chẳng tự rõ, lá rơi biết ai quét. Đẳng nhàn hái trái lê của Trịnh châu, buông tay nguyên là táo của châu”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THÔNG Ở THIÊN Y

1. Thiền sư Pháp An ở Tuệ nhật.

Thiền sư Pháp An ở Tuệ nhật tại Tô châu, vốn người ở Bản quận. Có vị Tăng hỏi: “Thế nào là một câu Hòa thượng vì người?” Sư đáp: “Chớ chạy miệng phấn chấn”. Lại hỏi: “Ý chỉ ấy như thế nào?” Sư đáp:

“Vượn sầu đầu vén lấy”.

2. Thiền sư Khâm ở Hộ quốc.

Thiền sư Khâm ở Hộ quốc tại Ôn châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Câu có câu không, sáng lại tối đi, sống bắt sinh vây, nhanh ghi lộ bày, như dây leo tựa cây, mọi vật theo loại tụ. Người tham ngoài nước, trong đất Thục bện gá, cây ngã dây leo khô, rất kỵ danh mô, câu quy về xứ nào? Tô lo tô lô”. Sư cười ha ha, rồi tiếp bảo: “Kiếng hư phá chẳng soi chiếu, khắp đại địa mênh mông, mặc tình nhảy vọt”.

3. Thiền sư Nguyên Thật ở Cát tường.

Thiền sư Nguyên Thật ở Cát tường tại Vô vi quân, vốn người xứ Cao Bưu. Từ lúc đến nương tựa Thiền sư Thông ở Thiên y, sớm tối Sư tinh cần, lưng chẳng đặt dính chiếu. Một ngày nọ, chợt nhiên Sư lớn tiếng cười nói ồn ào giữa chúng, Thiền sư Thông bèn ruồng đuổi. Nửa đêm, Sư dừng nghỉ trong ruộng làng, ngửa mặt trông thấy trăng sao rực sáng mà có sự tỉnh ngộ. Đến sáng sớm trở về, Sư thẳng vào phương trượng. Thiền sư Thông trông thấy mới hỏi Sư: “Trong năm ngôi vị vua tôi của Động Sơn, thế nào là câu thoại hợp?” Sư đáp: “Ở trong đó, một ngôi vị tôi cũng không”. Thiền sư Thông bảo vào tham đường, và nói với vị Tăng thị giả rằng: “Gã ấy tức đã có cái chỗ thấy, cớ sao không biết tông chỉ như thế nào?” Lần vào thất tiếp sau, Thiền sư Thông dự sắp năm hành giả theo thứ tự mà đứng. Sư vừa mới đến cả thảy đều gọi Sư là “Thượng tọa Thật”. Khi ấy Sư ngầm khế hợp với yếu chỉ sâu mầu, mới thuật bài kệ tụng rằng:

“Một vị mới rõ, năm vị phân
Vua tôi nơi hợp mây tía nhóm
Đêm sáng rèm cuộn không riêng chiếu
Điện vàng lớp lớp hiện Chí tôn”.

Thiền sư Thông ngợi khen khéo giỏi. Về sau, Sư đến ở Cát tường.

4. Thiền sư Đạo Tuyên ở Đầu tử.

Thiền sư Đạo Tuyên ở Đầu tử tại Thủ châu. Qua thời gian lâu dài theo hầu Thiền sư Thông ở Thiên y mà không được khế ngộ bị Thiền sư Thông quát mắng, Sư quên ăn bỏ ngủ, trải qua hơn một tháng. Một đêm nọ nghe tiếng linh tuần canh, bỗng nhiên Sư phấn chấn tỉnh ngộ, bảo: “Dừng, dừng, một tiếng thẳng thấu đường trời xanh. Đầm lạnh trăng ngời có ai biết, trâu đất húc gãy cây san hô”. Thiền sư Thông nghe thế, bảo Sư giữ chức Tạng ty. Về sau, phàm có ai hỏi gì, Sư đều nắm cây phất trần làm thế lắc linh.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TRỪNG NGUYỆT Ở THỪA THIÊN

1. Thiền sư Trọng Nhan ở Thừa thiên.

Thiền sư Trọng Nhan ở Thừa thiên tại Vụ châu. Có vị Tăng hỏi: “Các Phạm thiên thỉnh Phật, bởi vì quần sinh. Còn nay Sứ quân thỉnh Sư sẽ vì việc gì?” Sư đáp: “Đại chúng biết có ân”. Lại hỏi: “Nghĩ gì thì người trời giao tiếp đi?” Sư đáp: “Chẳng phòng ngại người đầy đủ mắt sáng”.

TỤC TRUYỀN ĐĂNG LỤC Quyển 24

(Hết)